Professional Documents
Culture Documents
KHOA Y - DƯỢC
Đồng ý sử dụng tài liệu giảng dạy môn: Dịch tễ học cơ bản do Nguyễn
Thị Nhật Tảo soạn để giảng dạy môn Dịch tễ học cơ bản cho đối tượng Y tế
công cộng.
❖ Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
1. Trình bày được định nghĩa của Dịch tễ học.
2. Phân biệt 2 phương thức tiếp cận Dịch tễ học và tiếp cận lâm sàng.
3. Liệt kê được ba mục đích, ba chiến lược nghiên cứu và ba nội dung hoạt động của
Dịch tễ học.
NỘI DUNG
1. Giới thiệu
1.1. Thuật ngữ Dịch tễ học
Dịch tễ học (DTH) được dịch từ một từ tiếng Anh là epidemiology. Theo từ
nguyên, epidemiology bắt nguồn từ 3 từ Latinh, epi có nghĩa là về, demos có nghĩa là
dân và logos là môn học. Như vậy, Dịch tễ học là một môn học khảo sát về những
hiện tượng xảy ra ở người dân. Vào lúc khởi thủy trong lịch sử phát triển của dịch tễ
học, những hiện đó là những hiện tượng xảy ra hàng loạt và lây lan từ người này sang
người khác trong một tập thể vào một thời điểm nào đó, ví dụ như một trận dịch hạch,
dịch tả,… Nói một cách khác, lúc ban đầu, dịch tễ học chỉ nghiên cứu những bệnh lây
thành dịch. Chính vì thế cho đến nay, còn không ít người vẫn hiểu lầm rằng dịch tễ
học chỉ quan tâm đến bệnh truyền nhiễm. Từ đó, họ đã đánh giá thấp vai trò của dịch
tễ học và xem nó như một môn phụ của bệnh học truyền nhiễm, với lập luận rằng
bệnh lý học và phác đồ điều trị những bệnh nhiễm thuộc về chuyên ngành truyền
nhiễm, trong khi đó, những điều mà dịch tễ học quan tâm chỉ có tính chất bổ sung cho
bức tranh lâm sàng của bệnh nhiễm, ví dụ: những đối tượng nào dễ mắc bệnh, cách
thức nào mà bệnh có thể lây từ người này sang người khác và làm cách nào để không
nhiễm mầm bệnh, v.v.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển của y khoa, những nhà khoa học đã nhận ra
rằng có những bệnh vẫn xảy ra hàng loạt ở con người, nhưng không lây từ người này
sang người khác, ví dụ: ung thư phổi, xơ vữa động mạch, tai nạn giao thông, bướu
Bảng 1.2. Tỉ lệ chết vì dịch tả ở Luân Đôn, phân bố theo hộ gia đình được cấp nước
bởi 2 công ty Southwark & Vauxhall và Lambeth
Nhà cấp nước bởi Dân số (1851) Số chết vì tả Tỉ suất chết/1000
công ty dân
Southwark & 98.862 419 4,2
Vauxhall
Lambeth 154.615 80 0,5
2. Lịch sử tự nhiên Sức khỏe tốt Biến đổi cận Bệnh lâm
lâm sàng sàng
Hồi phục
Sức
3. Mô tả tình trạng khỏe tốt
sức khỏe của quần
thể
Tỷ lệ với sức khỏe kém, Sức
biến đổi qua thời gian, khỏe
biến đổi với tuổi kém
Thời gian
UT+
HT+
Những UT-
người
chưa mắc
ung thư
phổi UT+
HT-
UT-
Thời gian
t0 t1
Hình 1.3. Cách tiếp cận đoàn hệ để tìm hậu quả (HT+ có hút thuốc, HT- không
hút thuốc, UT+ có ung thư, UT- không ung thư)
HT+
UT+
HT- Dân số
nghiên
cứu
HT+
UT-
HT-
Thời gian
t1 t0
Hình 1.4. Cách tiếp cận bệnh chứng để tìm nguyên nhân (HT+ có hút thuốc, HT-
không hút thuốc, UT+ có ung thư, UT- không ung thư)
HQ-
Bệnh
nhân
HQ+
CT-
HQ-
Thời gian
t0 t1
Hình 1.5 Một nghiên cứu can thiệp đánh giá hiệu lực của một phác đồ điều trị
mới so với phác đồ điều trị cũ (CT+ có can thiệp, CT- không can thiệp, HQ+ có
hiệu quả quả, HQ- không hiệu quả)
KẾT LUẬN
Khi bàn về bất kỳ một hiện tượng sức khỏe nào ở con người, chúng ta cần phải
trả lời theo thứ tự ba câu hỏi:
1) Hiện tượng sức khỏe đó xảy ra phổ biến như thế nào và xảy ra cụ thể đối với
ai, ở đâu, khi nào;
2) Nguyên nhân nào gây ra hiện tượng sức khỏe đó;
3) Nếu can thiệp vào nguyên nhân, mức độ mà tình trạng sức khỏe sẽ được cải
thiện là bao nhiêu.
Bảng 1.4. Bảng tóm tắt về mục đích, chiến lược và nội dung của Dịch tễ học
Mục đích Chiến lược Nội dung
Mô tả bệnh trạng Mô tả trên từng dân số DTH mô tả
Xác định nguyên nhân So sánh DTH phân tích
Xác định hiệu quả can thiệp So sánh DTH can thiệp
Ba nội dung hoạt động của dịch tễ học sẽ giúp nhân viên y tế trả lời lần lượt ba
câu hỏi trên. Từng nội dung hoạt động sẽ có một chiến lược cụ thể để đạt được mục
đích nghiên cứu. Với những thành quả đạt được, cho đến nay dịch tễ học đã khẳng
định được vị trí quan trọng của nó, cùng với những chuyên ngành khác trong y khoa,
❖ Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
1. Trình bày các khái niệm về đơn vị đo lường: Tần số, tỷ số, tỷ lệ, tỷ suất.
2. Trình bày được các chỉ số đo lường bệnh trạng.
3. Tính và phiên giải được những đơn vị đo dùng mô tả tình trạng bệnh.
NỘI DUNG
1. Giới thiệu về các đơn vị đo tần số
1.1. Tần số
Tần số là số lần xuất hiện của một hiện tượng. Tần số phản ánh mức độ phổ biến
của hiện tượng.
Ví dụ: số bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện đa khoa trong ngày 1/1/2018 là 150
người, trong đó có 50 người bị viêm loét dạ dày-tá tràng, 35 người bị tăng huyết áp,
40 người bệnh mắt, 25 người bệnh da. Tần số viêm loét dạ dày - tá tràng trong số
những bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện đa khoa Trà Vinh trong ngày 1/1/2018 là 50.
1.2. Tỷ số
Tỷ số là một phân số mà trong đó tử số không bao gồm trong mẫu số. Ký hiệu
của tỷ số: a/b
Ví dụ, trong 50 bệnh nhân đến khám tại phòng khám vào ngày 1/1/2018 vì viêm
loét dạ dày - tá tràng có 20 bệnh nhân nam, và 30 bệnh nhân nữ. Tỷ số nam/nữ ở
những bệnh nhân viêm loét dạ dày-tá tràng đến phòng khám trong ngày 1/1/2018 là
20/30 hay 2/3.
Tỷ số ít được dùng trong dịch tễ học mà thường sử dụng các biến thể của nó là tỷ
lệ và tỷ suất. Trong đó thường dùng nhất là tỷ lệ phần trăm.
Có hai loại tỷ số:
- Tỷ số có đơn vị. Ví dụ: số giường bệnh trên 100.000 dân tại huyện A là 20
giường bệnh/100.000 dân.
- Tỷ số không có đơn vị, là thương số của hai tỷ lệ hoặc hai tỷ số. Ví dụ: tỷ số
nam/nữ là 2/3.
Ví dụ: Sự xuất hiện của những ca bệnh trong cộng đồng với dân số tương ứng vào
ngày 01/01/2017 và 31/12/2017 là 120 người và 100 người.
Ca 1 Ca 2
Ca 3
Ca 4
Ca 5
Ca 7 Ca 6
Ca 8
01.01.2017 31.12.2017
(120 người) (100 người)
Hình 2.1. Số những ca mắc bệnh bắt đầu, phát triển và kết thúc trong thời gian từ
01/01/2017 đến 31/12/2017
Ta có, vào thời điểm 01/01/2017, số hiện mắc sẽ gồm những ca bệnh số 1, 2 và 7
Cả tử số và mẫu số bao gồm những người vào lúc đầu thời khoảng là không có
bệnh, do đó có nguy cơ mắc bệnh. Nguy cơ nói đến sự phát bệnh lần đầu tiên ở một
người trước đó là không có bệnh. Số mới mắc tích lũy là tỷ lệ những người trong tình
trạng không có bệnh vào đầu thời khoảng và đi vào tình trạng có bệnh trong thời
khoảng.
Số mới mắc tích lũy là một tỷ lệ, không có đơn vị và có giá trị trong khoảng 0
đến 1. Số mới mắc tích lũy hay còn được gọi là nguy cơ. Khái niệm về nguy cơ đòi
hỏi một thời khoảng tham chiếu là khoảng thời gian mà qua đó, những trường hợp
mới mắc bệnh sẽ được phát hiện, bởi vì số mới mắc tỷ lệ với chiều dài của thời
khoảng quan sát. Do đó, khi lý giải những trị số của số mới mắc tích lũy, luôn luôn
cần phải báo cáo chiều dài của thời khoảng quan sát. Tóm lại, số mới mắc tích lũy là
tỷ lệ những người không có bệnh mắc bệnh trong một thời khoảng nào đó.
Ví dụ: một dân số cơ động gồm 12 người được theo dõi trong 5,5 năm. Mỗi đầu
năm có 3 người được đưa vào nghiên cứu và kết cuộc xảy ra vào khoảng giữa năm.
Trong số những người không phát bệnh, có 7 người rút lui, gồm 3 người mất dấu (số
7, 8 và 12), 2 chết (số 3 và 4) và 2 người do nghiên cứu được chấm dứt (số 5 và 10).
Thời gian theo dõi từng cá nhân (cho đến khi bệnh xảy ra hoặc rút lui) được trình bày
trên trục tung bên phải. Nếu dời những đoạn thẳng 4. 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 đến
1 2.5
x
2 x 3.5
3 1.5
4 2.5
5 4.5
6 x 0.5
7 0.5
8 2.5
9 2.5
x
10
2.5
11
x 1.5
12 1.5
Hình 2.2. Sơ đồ theo dõi trong 5 năm của một đoàn hệ gồm 12 người từ đầu
không có bệnh
Tỷ suất mới mắc (Tỷ trọng mới mắc, Tỷ suất trung bình, Tỷ suất)
Tỷ suất mới mắc của một bệnh là khả năng thay đổi tức thời của bệnh trạng trên
một đơn vị thời gian, theo dân số trong thời gian đó (dân số không có bệnh cùng thời
gian). Vì dân số mà chúng ta nói đến không thể diễn tả như một phương trình toán học
theo thời gian, do đó chúng ta chỉ tính tỷ suất mới mắc trung bình trong một thời
Xem lại ví dụ hình 2.2, trong thực tế dân số mà chúng ta thường gặp là dân số cơ
động, mà trong đó mỗi cá nhân xuất hiện vào những thời điểm khác nhau và thời gian
nguy cơ của từng cá nhân cũng thay đổi khác nhau. Theo công thức, tỷ suất mới mắc
trung bình là 5 ÷ (2,5 + 3,5 + …+ 1,5) = 0,192/năm; có nghĩa là “Hằng năm, trong dân
số 1000 người mà chúng ta theo dõi, có 192 người không có mắc bệnh X mắc bệnh X”.
Tử số của tỷ suất là số những ca bệnh mới khởi phát trong một thời khoảng. Mẫu
số là tổng thời gian quan sát của từng cá nhân trong dân số, được tính là năm – người,
tháng – người,… có nghĩa là thời gian nguy cơ. Đối với mỗi cá nhân trong dân số, thời
gian nguy cơ là thời gian mà cá nhân đó còn trong dân số và vẫn chưa mắc bệnh, có
nghĩa là có nguy cơ mắc bệnh. Trong thực tế chúng ta khó tính được chính xác thời
gian nguy cơ của từng cá nhân. Để đơn giản hóa, chúng ta có thể ước tính tổng thời
gian nguy cơ bằng cách tính tích số của khoảng thời gian quan sát với dân số trung
bình của hai thời điểm đầu và cuối thời khoảng.
Tỷ trọng mới mắc không phải là một tỷ lệ, nó có đơn vị (1/thời gian) và có trị số
từ 0 đến ∞ (vô cực).
Ý nghĩa của tỷ suất
Tổng số những cá nhân đi từ tình trạng không có bệnh sang một tình trạng có
bệnh trong bất kỳ một khoảng thời gian nào, tùy thuộc vào 3 yếu tố: cỡ dân số, chiều
dài khoảng thời gian, lực của bệnh trạng. Lực của bệnh trạng chính là cái mà tỷ suất
muốn đo lường. Chúng ta thấy rằng tỷ suất được tính bằng cách chia số những ca bệnh
mới mắc cho tích số của cỡ dân số với chiều dài của thời khoảng. Tích số này là tương
đương với tổng của những thời khoảng của mỗi cá nhân trong dân số. Ưu điểm của tỷ
suất so với nguy cơ là nó có tính đến những thời khoảng quan sát cá nhân khác nhau,
do những cá nhân đó đi vào dân số vì những lý do khác nhau.
Tỷ suất liên quan đến cả dân số, nó không liên quan đến bệnh trạng ở mức độ cá
nhân, mà cái mà nguy cơ nói đến. Tỷ suất thường được dùng trong những nghiên cứu
Một bệnh có số mới mắc cao có nghĩa là nguy cơ mắc bệnh cao. Nhưng số hiện
mắc cao không nhât thiết là bệnh có nguy cơ cao, nó chỉ phản ánh sự sống còn cao, có
thể do điều trị tốt hơn. Ngược lại, số hiện mắc thấp có thể phản ánh tử vong nhanh,
điều trị hiệu quả nhanh, hoặc số mới mắc là thấp.
- Tỷ lệ chết thô (Mortalité): Là tỷ lệ giữa số chết của quần thể so với tổng số
quần thể đó.
Ví dụ: một quần thể 1000 khỏe mạnh, được theo dõi, bị ngộ độc cấp, giả sử có
100 người bị bệnh, và 30 người chết sau một thời kỳ nhất định;
Hay: + s: Quần thể có nguy cơ được nghiên cứu (1.000 người khỏe mạnh);
SỐ ĐO KẾT HỢP
❖ Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
1. Trình bày được kết quả dịch tễ học vào bảng số liệu.
2. Trình bày được các chỉ số đo lường sự kết hợp giữa tiếp xúc và bệnh tật.
NỘI DUNG
1. Xác định sự kết hợp của bệnh tật với yếu tố phơi nhiễm
Trong Dịch tễ học để biết xem một yếu tố có là nguyên nhân hay nguy cơ của
một bệnh hay của một hiện tượng sức khỏe nào đó thì một trong những tiêu chí đầu
tiên đặt ra là ta phải xem xét có hay không sự kết hợp (hay mối liên quan) của yếu tố
này đối với bệnh hay hiện tượng sức khỏe đó, cũng như độ mạnh của sự kết hợp của
yếu tố này với bệnh.
Để xác định được điều này, ta cần đo lường nguy cơ vượt trội của quần thể phơi
nhiễm so với quần thể không phơi nhiễm. Nguy cơ vượt trội hay sự khác biệt về nguy
cơ này có thể được biểu diễn theo hai cách. Đó là xác định sự khác biệt tuyệt đối của
nguy cơ (nguy cơ qui thuộc) và sự khác biệt tương đối của nguy cơ (nguy cơ tương
đối và tỷ suất chênh).
Tỷ suất nguy cơ (Risk ratio) hay còn được gọi là nguy cơ tương đối (Relative
risk) được tính bằng cách lấy nguy cơ mắc bệnh trong nhóm tiếp xúc (phơi nhiễm)
chia cho nguy cơ mắc bệnh trong nhóm không tiếp xúc (không phơi nhiễm).
Tỷ số chênh (Odds ratio) so sánh sự chênh lệch của nhóm phơi nhiễm trong sự
phát triển bệnh với chênh lệch của những người không phơi nhiễm trong phát triển bệnh.
Sự khác biệt giữa các nguy cơ (hiệu số) (nguy cơ qui thuộc): đo lường bằng cách
lấy nguy cơ mắc bệnh trong nhóm phơi nhiễm trừ đi nguy cơ mắc bệnh trong nhóm
không phơi nhiễm. Đo lường này còn được gọi là nguy cơ qui thuộc trong nhóm phơi nhiễm.
2. Trình bày dữ liệu
Hầu hết kết quả khảo sát thường có thể được trình bày trong bảng 2x2 và bảng
2x2 mở rộng dùng để tính các chỉ số liên hệ giữa bệnh tật và tiếp xúc.
Trong đó:
a+b là số người có tiếp xúc
c+d là số người không có tiếp xúc
a+c là số người có bệnh
b+d là số người không có bệnh
Ví dụ:
Bảng 3.2. Trình bày mối liên hệ giữa uống thuốc ngừa thai và nhồi máu cơ tim
(nghiên cứu bệnh chứng)
Có NMCT Không NMCT Tổng
UTNT + 23 304 327
UTNT - 133 2816 2949
Tổng 156 3120 3276
Bảng 3.2. Trình bày mối liên hệ giữa sử dụng thuốc ngừa thai và bệnh mạch vành
theo thời gian (nghiên cứu bệnh chứng)
UTNT Có BMV Không BMV Tổng
< 1 năm 4 31 35
1 – 4 năm 5 107 112
5 – 9 năm 7 127 134
≥ 10 năm 7 39 46
Không 133 2816 2949
Tổng 156 3120 3276
Trong nghiên cứu thuần tập nếu mẫu được tính là số người thì:
I1 CI1 a/(a+b)
RR = = =
I0 CI0 c/(c+d)
Ví dụ:
Bảng 3.3. Một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu giả định của 3000 người hút thuốc và
5000 người không hút thuốc lá trong 3 năm nhằm nghiên cứu về mối liên quan
giữa hút thuốc và bệnh mạch vành. Sau đó theo dõi nhằm phát hiện xem có bao
nhiêu người mắc bệnh hoặc không mắc bệnh.
Bệnh Không bệnh Tổng
Những người có hút thuốc 84 2916 3000
Những người không hút thuốc 87 4913 5000
Tổng 171 7829 8000
❖ Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
1. Trình bày được khái niệm về nguyên nhân trên quan điểm dịch tễ học.
2. Phân biệt được các loại nguyên nhân.
3. Liệt kê và áp dụng được 5 tiêu chí dùng để phán xét tính nhân quả của một sự kết
hợp tìm thấy trong một nghiên cứu y học
NỘI DUNG
Dịch tễ học là một môn khoa học cơ bản của Y tế công cộng mà mục đích cuối
cùng của nó là tăng cường sức khỏe cũng như kiểm soát và ngăn ngừa bệnh tật. Mục
đích này sẽ đạt được qua những nghiên cứu để xác định những nguyên nhân của bệnh
hay nói một cách khác, xác định mối liên quan giữa sức khỏe hoặc bệnh tật với những
yếu tố trong những quần thể người. Khái niệm về tính nguyên nhân là quan trọng vì
một trong những mục tiêu hàng đầu của dịch tễ học là có thể lượng giá được rằng một
mối liên quan giữa yếu tố phơi nhiễm và bệnh là có tính nhân quả.
1. Khái niệm về nguyên nhân
Trong dịch tễ học, chúng ta có thể định nghĩa nguyên nhân của bệnh là “một sự
kiện, một điều kiện hoặc một đặc tính giữ một vai trò thiết yếu trong việc tạo ra sự
xuất hiện của bệnh” (Rothman). Nói một cách khác, một nguyên nhân của bệnh là một
yếu tố (đặc tính, hành vi, biến cố,...) ảnh hưởng đến sự xuất hiện.
Có thể xác nhận sự tồn tại của quan hệ nhân quả khi nào có bằng chứng chỉ ra
rằng sự xuất hiện của 1 phần hoặc phức hợp các yếu tố này thì sẽ giảm tần suất của 1
bệnh và khi loại bỏ 1 trong các yếu tố này thì sẽ giảm tần suất của bệnh đó (Lilienfeld
and Lilienfeld – 1980).
Trong “tam giác dịch tễ học” người ta cũng mô tả bệnh thường là kết quả tương
tác giữa ba yếu tố túc chủ, tác nhân gây bệnh và môi trường tạo thuận lợi cho sự phơi
nhiễm. Vì thế nguyên nhân gây bệnh không chỉ đơn thuần là do tiếp xúc với tác nhân
Di truyền
Yếu tố nguy cơ của bệnh lao Cơ chế của bệnh lao
E A H A J A
D B G B I C
C F F
Yếu tố di truyền
Hình 4.3 Một ví dụ minh họa mạng nguyên nhân
Hút thuốc tự nó không phải là một nguyên nhân đủ, vì không phải mọi người
hút thuốc đều bị ung thư phổi. Hút thuốc cũng không phải là một nguyên nhân cần, vì
ung thư phổi có thể xảy ra ở những người chưa bao giờ hút thuốc. Ung thư phổi có thể
là kết quả của một nguyên nhân đủ bao gồm hút thuốc là một nguyên nhân thành
phần. Tương tự đối với cholesterol máu cao và bệnh mạch vành.
Bảng 4.4. Mối liên quan giữa một nguyên nhân thành phần với khả năng
xảy ra bệnh
Bệnh Không bệnh
Phơi nhiễm ĐÚNG ĐÚNG
Không phơi nhiễm ĐÚNG ĐÚNG
Có
Không
Yếu tố gây nhiễu được khử và sự kết Sự kết hợp không nhân quả
hợp vẫn còn tồn tại
Có
Không
Các tiêu chí xác định nhân quả được Sự kết hợp không nhân quả
thỏa mãn
KẾT LUẬN
Hầu hết những hiện tượng sức khỏe ở con người không do một nguyên nhân
duy nhất hoặc riêng lẻ gây ra mà do nhiều yếu tố với những tác dụng hổ tương phức
tạp. Một biện pháp can thiệp nhằm ngăn ngừa bệnh tật có thể tác động vào bất cứ một
nguyên nhân thành phần nào thích hợp của toàn bộ mạng lưới nguyên. Tuy nhiên, việc
❖ Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
1. Liệt kê được bốn giai đoạn trong quá trình phát triển của một bệnh.
2. Liệt kê được ba thành phần của dây chuyền lây.
3. Mô tả được những ứng dụng của lịch sử tự nhiên và dây chuyền lây trong lĩnh
vực phòng ngừa.
4. Liệt kê được các hình thức của một vụ dịch và cách xác định một trường hợp
bệnh.
NỘI DUNG
Những nghiên cứu y khoa không chỉ tập trung vào bệnh mà còn quan tâm đến
những hiện tượng có liên quan đến sự xuất hiện của bệnh. Bệnh và những hiện tượng
liên quan đến bệnh có thể được gọi chung là những hiện tượng sức khỏe, mà trong số
đó, những bệnh lây vẫn còn chiếm một phần đáng kể trong mô hình bệnh của nhiều
quốc gia trên thế giới. Ngay cả những nước đã phát triển, các bệnh lây do tính chất
quan trọng của chúng vẫn còn là một trọng tâm hoạt động của các cơ quan y tế, do đó
đã được nghiên cứu cặn kẽ và hiểu thấu đáo hơn so với những bệnh không lây. Những
nội dung trình bày dưới đây chủ yếu tập trung vào dịch tễ học của những bệnh lây,
nhưng cũng sát hợp với những bệnh không lây.
1. Lịch sử tự nhiên của bệnh
Lịch sử tự nhiên của bệnh là quá trình diễn tiến của một bệnh trên một cá nhân
theo thời gian mà không có bất kỳ một sự can thiệp nào của y khoa. Quá trình này bắt
đầu với sự tiếp xúc hoặc tích tụ những yếu tố có khả năng gây bệnh và nếu không có
can thiệp y khoa, quá trình này sẽ kết thúc bằng sự bình phục, tàn phế hoặc chết của
người bệnh.
Hầu hết các bệnh đều có lịch sử tự nhiên đặc trưng nhưng vẫn còn những bệnh
mà quá trình diễn tiến của chúng chưa được hiểu rõ. Trên một cá nhân, diễn tiến thông
thường của bệnh có thể bị tạm ngưng ở bất cứ thời điểm nào do những can thiệp của
Hình 5.1. Những giai đoạn trong lịch sử tự nhiên của bệnh
Thời kỳ của những biến đổi bán lâm sàng hoặc bệnh lý tiềm ẩn thường theo sau
sự tiếp xúc và kết thúc khi những triệu chứng bệnh bắt đầu. Trong giai đoạn này, bệnh
chưa có những triệu chứng lâm sàng, nhưng tác nhân gây bệnh đã tạo ra những biến
đổi bệnh lý trong cơ thể túc chủ. Ví dụ, hiện tượng xơ vỡ ở động mạch vành xảy ra
trước khi có những triệu chứng hoặc dấu hiệu lâm sàng của bệnh mạch vành tim; hoặc
Tác nhân
- Túc chủ: mắc xích cuối cùng trong dây chuyền lây là một túc chủ cảm thụ. Tính
cảm thụ của một túc chủ tùy thuộc vào những yếu tố di truyền, tính miễn dịch và
những yếu tố chung khác. Các yếu tố chung chống lại sự nhiễm bệnh gồm: da, màng
nhày, tính axit của dạ dày, phản xạ ho, những đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu có
thay đổi khả năng của một cá nhân đề kháng lại sự nhiễm hoặc hạn chế tính sinh bệnh.
Những yếu tố chung có thể tăng tính cảm thụ là suy dinh dưỡng, nghiện rượu, bệnh
hoặc điều trị làm hỏng đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu.
Tính miễn dịch đặc hiệu có liên quan đến những kháng thể bảo vệ trực tiếp chống lại
một tác nhân cụ thể. Một cá nhân có được kháng thể bảo vệ bằng hai cách:
- Miễn dịch chủ động: tự phát triển kháng thể qua đáp ứng nhiễm trùng, vắc xin,
giả độc tố.
- Miễn dịch chủ động: thụ đắc những kháng thể từ mẹ trước khi sinh, qua nhau,
do được tiêm kháng độc tố hoặc globulin miễn dịch.
Dây chuyền lây có thể bị gián đoạn khi một tác nhân không tìm được túc chủ
❖ Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
1. Liệt kê được 9 loại thiết kế nghiên cứu trong dịch tễ học.
2. Xác định được bản chất của các loại thiết kế nghiên cứu dịch tễ học.
3. Trình bày được những ưu điểm và nhược điểm của các loại thiết kế nghiên cứu.
NỘI DUNG
Tùy theo chiến lược nghiên cứu là mô tả bệnh trạng; hoặc phân tích để tìm yếu tố
nguy cơ (hay yếu tố nguyên nhân); hoặc tiến hành một biện pháp can thiệp, dịch tễ
học có thể sử dụng những loại hình nghiên cứu khác nhau và những loại hình đó được
gọi là những thiết kế nghiên cứu dịch tễ học.
Thiết kế nghiên cứu dịch tễ học có thể được định nghĩa là “một kế hoạch mô tả
chi tiết những bước cơ bản để xác định đối tượng nghiên cứu, phương pháp thu thập,
phân tích và lý giải những dữ kiện nhằm mô tả về bệnh trạng hoặc suy diễn về nguyên
nhân của bệnh hoặc kết luận về hiệu quả của một biện pháp can thiệp sức khỏe”. Có
hai phương pháp dịch tễ học cơ bản trong nghiên cứu sức khỏe:
Nghiên cứu phân tích Cắt ngang phân So sánh số hiện mắc Xác định sự kết hợp
tích bệnh của những cá nhân quả giữa yếu tố
nhân trong hai nhóm nguyên nhân và
có và không có phơi bệnh
nhiễm
35 Can
30 Den
UK
25
Swe
20 Net
Nor FDP
15 Isr
Jam Yug Fin DDP
10 PR Pol Ice
Jap Chi
Nig Rom
5 Hun
Col
20 40 60 80 100 120 140 160 180 200 220 240 260 280 300 320
Hình 6.1. Tương quan giữa lượng thịt ăn vào/người và ung thư đại tràng ở phụ
ngữ các nước. (Nguồn: Henneskens, H.C., Buring E.J. Epidemilogy in Medicine.
Little, Brown and Company. Doston. 1987: 19.)
Báo cáo một ca
Báo cáo một ca là một nghiên cứu mô tả những đặc tính bệnh trạng của một bệnh
xảy ra trên một đối tượng nghiên cứu duy nhất. Ví dụ: những bệnh nhi sốt xuất huyết
dengue nặng thường chết trong bệnh cảnh trụy tim mạch. Trong một mùa dịch, chúng
ta gặp một trường hợp sốt xuất huyết dengue tử vong vì suy hô hấp. Đây là một
trường hợp đặc biệt và hiếm gặp.
Những đặc điểm của bệnh trạng cùng những yếu tố có liên quan đến sự xuất hiện
của bệnh có thể gợi ý về một mối liên hệ giữa những yếu tố nguy cơ và bệnh. Ví dụ:
Vào năm 1961, một báo cáo một ca được công bố về một trường hợp uống thuốc ngừa
thai để điều trị bệnh lạc sản nội mạc tử cung ở một phụ nữ 40 tuổi tiền mãn kinh. Sau
5 tuần lễ uống thuốc, bà bị thuyên tắc phổi. Vì thuyên tắc phổi là một bệnh thường
xảy ra ở những phụ nữ lớn tuổi hơn và giai đoạn hậu mãn kinh. Do đó, tác giả đã nghĩ
PN
Cắt ngang
B
Bệnh chứng
PN B
Đoàn hệ hồi cứu
PN B
Đoàn hệ tiến cứu
PN B
Hình 6.2. Trình tự thời gian của những loại thiết kế nghiên cứu quan sát phân tích
Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu
Trong loại nghiên cứu này, khi bắt đầu nghiên cứu, việc phơi nhiễm (ở nhóm
có phơi nhiễm) là đã xảy ra, trong khi bệnh chưa khởi phát. Bệnh sẽ xảy ra, nếu có,
trong tương lai. Ví dụ: trong nghiên cứu sức khỏe điều dưỡng ở Hoa Kỳ, 120.000 nữ
đã có gia đình, tuổi từ 30 đến 55, được đưa vào nghiên cứu. Bắt đầu vào năm 1976,
một bộ câu hỏi phỏng vấn được dùng để thu thập những thông tin về dân số, tiền sử y
khoa, sinh đẻ và cách sống. Trong hai năm theo dõi, những nữ điều dưỡng này sẽ trả
lời một bộ câu hỏi phỏng vấn về những kết cuộc xảy ra, cũng như những thông tin cập
nhật về các yếu tố phơi nhiễm. Những nữ điều dưỡng này được xếp thành hai nhóm,
có và không có phơi nhiễm với một yếu tố nguy cơ, ví dụ uống thuốc ngừa thai, sử
dụng những kích thích tố hậu mãn kinh, thuốc nhuộm tóc, lượng mỡ trong khẩu phần
ăn, tuổi lúc sinh con đầu tiên và lúc mãn kinh, tiền sử bệnh của gia đình. Tỷ suất mới
mắc của bệnh được so sánh giữa hai nhóm và các tác giả đã cung cấp nhiều thông tin
Đặc điểm Nghiên cứu cắt Nghiên cứu bệnh Nghiên cứu
ngang chứng đoàn hệ
Dễ thực hiện ++ + -
Chi phí + + ++
Tốn thời gian + ++ +++
Trình tự thời gian Không xác định Không xác định Xác định
của quan hệ nhân quả
Sức mạnh của bằng - - +
chứng quan hệ nhân quả
Đo lường trực tiếp nguy cơ - Ước lượng gần +
đúng khi bệnh là
hiếm
❖ Câu hỏi củng cố: Trình bày được ưu nhược điểm của từng thiết kế nghiên cứu
và ứng dụng của chúng trong nghiên cứu dịch tễ học.
❖ Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
1. Trình bày được định nghĩa và phân loại các loại sai số
2. Nêu các biện pháp khắc phục sai số
3. Trình bày được khái niệm yếu tố nhiễu, yếu tố tương tác
4. Nêu biện pháp khắc phục yếu tố nhiễu
NỘI DUNG
1. Đại cương
Các điều tra dịch tễ học nhằm mục đích cung cấp các đo lường chính xác sự
xuất hiện bệnh (hay tình trạng sức khỏe nào đó). Tuy nhiên việc đo lường này không
dễ dàng và có nhiều nguy cơ sai số trong đo lường. Các nhà dịch tễ học đã dành nhiều
nỗ lực cho việc làm giảm thiểu các sai số này cũng như để đánh giá tác động của các
sai số không thể loại bỏ được. Sai số có thể ngẫu nhiên hoặc hệ thống.
2. Sai số ngẫu nhiên
Sai số ngẫu nhiên là sự lệch đi, do ngẫu nhiên, may rủi của một quan sát trên
một mẫu so với giá trị thật của quần thể, dẫn đến sự thiếu chính xác trong việc đo
lường sự kết hợp. Có ba nguồn sai số ngẫu nhiên chính: dao động về mặt sinh học
giữa các cá thể, sai số chọn mẫu và sai số đo lường.
Sai số ngẫu nhiên không bao giờ có thể loại bỏ được hoàn toàn vì chúng ta chỉ
có thể nghiên cứu trên một mẫu của quần thể. Sai số ngẫu nhiên là nguyên nhân của
một thực tế là cỡ mẫu nhỏ không thể đại diện cho tất cả các biến của quần thể. Cách
tốt nhất để làm giảm sai số chọn mẫu là tang cỡ mẫu của nghiên cứu, sự biến thiên cá
thể thường xảy ra và không đo lường nào là chính xác tuyệt đối. Sai số đo lường có
thể giảm đi bằng cách thiết kế đề cương chặt chẽ, và bằng cách tạo ra các đo lường cá
thể càng chính xác càng tốt. Các nhà điều tra cần hiểu các phương pháp đo lường đang
được sử dụng trong nghiên cứu, các sai số mà các nghiên cứu này có thể gây ra.
Yếu tố nhiễu
Yếu tố nhiễu
(Hút thuốc lá)
Kiểm soát nhiễu
Các phương pháp thường được sử dụng để kiểm soát nhiễu trong giai đoạn thiết kế
một nghiên cứu dịch tễ học đó là:
- Phân bố ngẫu nhiên
- Giới hạn
- Ghép cặp
Trong giai đoạn phân tích thì nhiễu có thể được kiểm soát bằng cách:
- Phân tầng
- Lập mô hình thống kê
Phân bố ngẫu nhiên: trong các nghiên cứu thực nghiệm, phân bố ngẫu nhiên
là biện pháp lý tưởng để đảm bảo rằng các biến nhiễu tiềm tàng được phân bố đồng
đều vào các nhóm được so sánh với nhau. Các cỡ mẫu phải đủ lớn để tránh sự không
Trong ví dụ này, tác dụng của hút thuốc lá gây ra bệnh nhồi máu cơ tim khác nhau
theo tầng.
- Đối với người trẻ (≤ 50 tuổi), nguy cơ gây nhồi máu cơ tim là 1.40 lần ở người
hút thuốc lá so với người không hút thuốc lá.
- Đối với người già (> 50 tuổi), nguy cơ gây nhồi máu cơ tim là 3.6 lần ở người hút
thuốc lá so với người không hút thuốc lá.
- Nguy cơ tương đối của hút thuốc lá đối với nhồi máu cơ tim nếu tính chung cho
toàn bộ dân số là 2.13.
Như vậy, tuổi chính là yếu tố tương tác vì nó làm thay đổi tác động của hút thuốc
lên bệnh nhồi máu.
Yếu tố tương tác giúp nhà nghiên cứu xác định được nhóm đối tượng đích,
thuận lợi cho việc can thiệp về sau.
Không có yếu tố
Yếu tố tương tác
tương tác
Sử dụng RR (OR)
RR (OR) ≈ RR hiệu RR (OR) ≈ RR hiệu phân tầng
chỉnh chỉnh
Không yếu tố gây nhiễu Có yếu tố gây nhiễu
Sơ đồ cách xác định nhiễu và yếu tố tương tác khi phân tích số liệu
❖ Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
1. Trình bày được khái niệm, mục đích của sàng tuyển.
2. Trình bày được các phương pháp của sàng tuyển.
3. Trình bày được các thử nghiệm của sàng tuyển.
4. Trình bày được ngưỡng và tiêu chuẩn chọn một chương trình sàng tuyển.
NỘI DUNG
1. Khái niệm sàng tuyển
Sàng tuyển là quá trình phát hiện ra bệnh khi chưa có biểu hiện lâm sàng thông
qua xét nghiệm nhanh và có thể áp dụng rộng rãi.
Sàng tuyển không phải là chẩn đoán, nó cần phải làm thêm các kỹ thuật chẩn
đóan thích hợp.
Các giai đoạn trong lịch sử tự nhiên của bệnh
• Giai đoạn bệnh bắt đầu: Giai đoạn mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể
• Giai đoạn tiền triệu chứng (tiền lâm sàng): từ lúc bắt đầu có sự biến đổi sinh lý,
sinh hóa hay mô học của bệnh lý đến trước lúc xuất hiện triệu chứng hay dấu hiệu đầu
tiên của bệnh
• Giai đoạn lâm sàng: Bệnh đã có biểu hiện rõ rệt về lâm sàng
• Giai đọan lui bệnh/ tử vong: Bệnh có thể khỏi, thuyên giảm tạm thời rồi tái
phát, khỏi nhưng để lại di chứng, hay diễn biến tới tử vong.
2. Mục đích của sàng tuyển
Sàng tuyển nhằm giúp phát hiện ra những người có nguy cơ mắc các bệnh ở giai
đoạn sớm chưa có biểu hiện lâm sàng trong 1 tập thể được xem là lành mạnh, nhằm
chẩn đoán và điều trị có hiệu quả căn bệnh nguy hiểm mà việc chẩn đóan và điều trị
trể có thể đưa tới các hậu quả nghiêm trọng như: tử vong hoặc tàn phế.
3. Các phương pháp của sàng tuyển
• Sàng tuyển đại trà (Mass screening): Toàn bộ dân số hoặc một nhóm của dân
số. Ví dụ: Sàng lọc ung thư cổ tử cung cho phụ nữ 30 – 65 tuổi ở Phần Lan mỗi 5
Xét nghiệm lý tưởng là có một xét nghiệm sàng tuyển với độ nhạy và độ đặc
hiệu cao, nhưng chúng ta cần phải cân bằng giữa những đặc tính này, bởi vì hầu hết
các xét nghiệm đều không thể có cả hai. Chúng ta quyết định sự cân bằng này bằng
một điểm cắt tuỳ ý giữa giới hạn bình thường và không bình thường. Nếu ta mong
muốn làm tăng độ nhạy và bao hàm tất cả các trường hợp dương tính thật, thì sẽ tăng
số các trường hợp dương tính giả, tức là giảm độ đặc hiệu. Giảm mức độ nghiêm ngặt
của tiêu chuẩn đối với xét nghiệm dương tính sẽ làm tăng độ nhạy nhưng giảm độ đặc
hiệu. Ngược lại, gia tăng mức độ nghiêm ngặt của tiêu chuẩn dẫn đến việc tăng độ đặc
hiệu sẽ làm giảm độ nhạy. Chúng ta cũng cần phải tính đếm đến giá trị dự đoán dương
tính và âm tính khi diễn giải các kết quả của các xét nghiệm sàng tuyển.
Quyết định các tiêu chuẩn thích hợp đối với một xét nghiệm sàng tuyển phụ
thuộc vào hậu quả của việc xác định âm tính giả và dương tính giả. Để phát hiện
những điều kiện sức khoẻ nguy hiểm ở trẻ mới sinh thì độ nhạy cần tăng lên và chấp
nhận chi phí tăng lên của số lượng các trường hợp dương tính giả cao (làm giảm tính
❖ Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
1. Trình bày được số liệu nghiên cứu bằng các loại bảng thích hợp.
2. Trình bày được số liệu nghiên cứu bằng các biểu đồ và đồ thị thích hợp.
3. Xác định được tầm quan trọng của việc trình bày kết quả nghiên cứu.
NỘI DUNG
1. Trình bày số liệu dưới dạng văn viết
Trong phần trình bày số liệu thì văn viết có chức năng như những câu dẫn trước
khi trình bày các bảng, biểu, đồ thị hoặc để diễn giải thêm cho kết quả đã trình bày
trong bảng, biểu, đồ thị.
Trong các trường hợp yêu cầu hạn chế số trang (như các bài báo khoa học đăng
trong các tạp chí) thì người ta khuyên nên tăng cường dùng văn viết để trình bày kết
quả thay cho các bảng, biểu, đồ thị khi thông tin đơn giản và thích hợp với văn viết.
2. Trình bày số liệu bằng các bảng, biểu đồ, đồ thị.
2.1. Trình bày bằng bảng
Bảng tần số là dạng phổ biến và rất dễ áp dụng.
2.1.1. Bảng một chiều
Là bảng mà số liệu của một biến được trình bày theo một chiều với tổng của cột
(không có tổng dòng).
Bảng 9.1. Tình độ văn hoá của các bà mẹ trong cộng đồng A năm 1995
(Nguồn số liệu: báo cáo giám sát phát hiện thường xuyên năm 2013 - Hội Y học
dự phòng VN)
(Nguồn số liệu: Viện sốt rét ký sinh trùng côn trùng Quy Nhơn)
Biểu đồ 9.2. Tỷ lệ suy dinh dưỡng theo nhóm tuổi (tháng) ở An Khê, tỉnh Gia
Lai trong 2 năm 2013 - 2014
2.2.3. Các biểu đồ cột chồng
Thích hợp để so sánh các quần thể khác nhau trong khi mỗi quần thể có thể được
biểu thị dưới dạng biểu đồ hình tròn. Ví dụ:
(Nguồn số liệu: báo cáo giám sát phát hiện thường xuyên năm 2013- Hội Y học dự phòng VN)
Biểu đồ 9.3. Phân bố người nhiễm HIV theo đường lây qua các năm
(Nguồn số liệu: báo cáo giám sát phát hiện thường xuyên năm 2013- Hội Y học dự phòng VN)
Biểu đồ 9.4. tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy qua các năm
2.2.4. Biểu đồ cột liên tục (Histogram) và đa giác (Polygon)
a) Biểu đồ cột liên tục (Histogram): Thường dùng để biểu thị số liệu của một biến
liên tục khi chúng ta đã được phân ra các nhóm.
Ví dụ: Phân bố các trường hợp nhiễm MERS-CoV theo tuổi và giới tính
(Nguồn số liệu: Viện sốt rét ký sinh trùng côn trùng Quy Nhơn)
Biểu đồ 9.5. Phân bố các trường hợp nhiễm MERS-CoV theo tuổi và giới tính
Biểu đồ 9.7. Bản đồ nhiễm HIV trên thế giới năm 2016