You are on page 1of 13

Loesche

Chuyên ngành thiết bị nghiền

Ứng dụng máy nghiền clinke trục đứng


Tiến sĩ Heinz-Ulrich Schafer

19 tháng 9 năm 2000

Trình bày tại Hội nghị Công nghệ 2000 PCA/MTC

Tại Oak Brook, Illinois

Hội nghị Công nghệ 2000 PCA/MTC

19 tháng 9 năm 2000, Oak Brook, Illinois


Ứng dụng máy nghiền clinke trục đứng
Heinz-Ulrich Schafer
Giám đốc sản xuất thiết bị chế biến khoáng sản, nghiền xỉ và clinke
LOESCHE GmbH – Duesseldorf

1
Tóm tắt sơ lược

Ngày nay, máy nghiền clinke trục đứng là công nghệ phổ biến. LOESCHE khởi
động nhà máy đầu tiên với LM 46 2+2 tại Đài Loan năm 1994. Mẫu thiết kế
máy nghiền LOESCHE ban đầu đã được xác định lại và máy nghiền clinke và xỉ
đã được lắp ráp thêm hai đôi trục lăn kích thước khác nhau để kiểm soát dòng
nguyên liệu thích hợp trên bàn nghiền và vận hành máy nghiền với độ rung cực
thấp.

Thiết bị phân loại hiệu suất cao kiểu bánh lồng mới LSKS được phát triển và
được ứng dụng không chỉ trong nghiền nguyên liệu thô mà còn nghiền xỉ và
clinke.

Đặc biệt lưu ý để có được các đặc tính ximăng phù hợp với các đặc điểm thu
được từ các hệ thống nghiền thông thường. Quá trình thành phần cỡ hạt xi măng
sản xuất từ máy nghiền LOESCHE khá là giống với quá trình thành phần cỡ hạt
xi măng của máy nghiền bi. Do vậy, lượng nước yêu cầu cũng tương tự. Các thí
nghiệm cũng như báo cáo của các công ty sử dụng máy nghiền LOESCHE đã
chứng minh rằng khả năng tác dụng tốt của bê tông được làm từ xi măng của
máy nghiền trục đứng nói chung là tốt hơn so với bê tông được làm từ xi măng
của máy nghiền bi.

Thời gian lưu trữ nguyên liệu nghiền trong máy nghiền LOESCHE là rất ngắn.
Bằng cách cài đặt nhiệt độ thoát khí, thì nhiệt độ xi măng có thể được kiểm soát
ở phạm vi nhất định. Ngược lại, có thể đạt tới hiệu suất làm mát trong quá trình
nghiền trong trường hợp nhiệt độ clinke quá cao.

Khả năng điều chỉnh nhiệt độ xi măng cũng cho phép kiểm soát được độ khử
nước thạch cao.

Khả năng sấy khô của máy nghiền LOESCHE cho phép sử dụng nhiều phụ gia
interground chẳng hạn như xỉ lò cao hạt, pozzolana, tro bay và các phụ gia khác.

Các trạm nghiền có máy nghiền LOESCHE 2+2 cực kỳ linh hoạt trong kế hoạch
sản xuất. Có thể chuyển đổi từ một loại xi măng sang loại xi măng khác trong

2
vòng vài phút. Lượng xi măng tồn lại trong quá trình chuyển đổi sản phẩm là rất
nhỏ. Đây là khả năng độc đáo để có thể xử lý tức thì theo nhu cầu của thị
trường.

I. Giới thiệu

Máy nghiền clinke trục đứng ngày nay là công nghệ phổ biến. Máy nghiền trục
lăn LOESCHE 4 đầu tiên được lắp đặt cho nghiền xỉ và clinke ở khu vực Châu á
cuối những năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ 19. Kinh nghiệm lắp đặt
cho thấy rằng việc nghiền tinh trong sản xuất xi măng hoặc xỉ lò cao hạt nghiền
GGBS, dải liệu và dòng hạt qua bàn nghiền cần tác động ổn định. Nguyên lý 4-
trục thông dụng được áp dụng cho kết quả các mức rung do không ổn định dải
liệu và các vấn đề về tính tương thích sản phẩm so với các sản phẩm từ circuit
máy nghiền bi.

Sau một thời gian nghiên cứu và phát triển sâu LOESCHE đã ứng dụng nguyên
lý 2+2 là công nghệ phù hợp cho các ứng dụng này trên thị trường.

Thiết bị LM 46 2+2 C/S được khởi động vào tháng 12 năm 1994 tại Nhà máy Xi
măng Lucky Pu-shin ở Đài Loan cho hoạt động sản xuất xi măng. Chỉ 02 tháng
sau thiết bị LM 35 2+2 S bắt đầu sản xuất GGBS trong nhà máy Fos sur Lafarge
Ciment ở khu vực gần Marseille, miền nam nước Pháp.

Hiện nay 20 máy có công nghệ 2+2 đang hoạt động hoặc đang trong quá trình
lắp đặt trong số đó có 4 LM 56 2+2 C/S ở Pêru (hình số 1) tại Cộng hoà
Dominica và ở Ấn độ với công suất sản xuất lên đến 220 tấn/giờ. Hai nhà máy
có công suất cao hơn lên đến 270 tấn/giờ loại ximăng I áp dụng nguyên lý 3+3
hiện nay đang được triển khai.

Hình số 1: LM 56 2+2 C/S tại

Cementos Pacasmayo, Peru

3
2. Công nghệ 2+2/3+3

Trong quá trình nghiền mịn clinke hoặc xỉ đặc biệt lưu ý tới sự ổn định dải liệu.
So với công đoạn nghiền liệu thô, quá trình lưu thông bên trong giữa bàn nghiền
và thiết bị phân loại cao hơn đáng kể. Quá trình này tạo ra một lượng lớn hạt
mịn và ngậm nhiều khí trên bàn nghiền. Khi dải liệu này đi vào dưới áp lực bên
dưới trục lăn nghiền, khí trong chân không giữa các hạt được giải phóng rất
nhanh và rất khó có thể áp dụng các lực yêu cầu cho nghiền nhỏ các hạt với
nhau. Hơn thế nữa, nguyên liệu ngậm khí có xu hướng chảy nhanh từ tâm bàn
nghiền đến cạnh bàn mà không đi qua dưới các trục lăn nghiền.

LOESCHE đã xử lý được vấn đề này thông qua việc ứng dụng công nghệ
2+2/3+3. Trong số những thiết bị nghiền này, trục lăn kích thước khác nhau
được sử dụng tác động vào dòng liệu. Bộ trục lăn nhỏ được định vị tại khoảng
cách nhất định trên bàn nghiền. Khoảng cách này được điều chỉnh bằng xilanh
thuỷ lực trong điều kiện tốc độ quay của các trục lăn s xấp xỉ 10-20% tốc độ
bình thường. Trục lăn s có đặc tính ảnh hưởng đến đường liệu từ tâm bàn nghiền
đến cạnh ngoài bàn. Ngoài ra còn có hiện tượng yếm khí và cố kết yếu. Trục lăn
s hướng liệu tới trục lăn m (trục lăn chính) đang trong quá trình nghiền mịn hạt
dưới áp suất cao.

Trong các máy nghiền có kích thước lên tới LM 56 một bộ 2 trục s và một bộ 2
trục m được lắp đặt (hình số 2). Trong các máy nghiền lớn hơn LM 60 và LM 63
có sử dụng trục lăn 3 s và trục lăn 3 m.

Hình số 2: trục lăn s và m trong LM 46


2+2
Khi chỉ dưới áp suất thấp bên dưới trục lăn s có bánh trục lăn được thiết kế làm
bằng thép tấm nhẹ. Theo dự tính không có hiện tượng mài mòn trên trục lăn s.
Bánh trục lăn m được làm bằng gang chống mài mòn cao Cr. Trường hợp nghiền
clinke, tuổi thọ của con lăn nghiền trên 1 năm vận hành. Trong trường hợp
nghiền xỉ, tuổi thọ có thể còn được kéo dài bằng cách làm tôi cứng bề mặt.

4
Hình chóp nón trục lăn và bàn nghiền phẳng tạo thành phần đồng nhất áp lực
nghiền trên toàn bộ phạm vi rộng của rục lăn đối với dải liệu. Đây là điểm cực
kỳ lợi thế so với trục lăn hình cầu khi mà biên dạng áp suất hầu như không thay
đổi trong thời gian hoạt động của con lăn nghiền. Hoạt động này cho chất lượng
sản phẩm chắc chắn liên quan tới việc thành phần cỡ hạt và duy trì được khả
năng sản xuất của thiết bị nghiền.
3. Trạm nghiền có máy nghiền LOESCHE 2+2/3+3
Hình số 3 thể hiện quy trình công nghệ đặc trưng của trạm nghiền clinke với
máy nghiền LOESCHE. Clinke, thạch cao và các vật liệu khác được cấp từ
thùng bằng cấp liệu cân theo băng chuyền cấp liệu. Nam châm overbelt và thiết
bị dò kim loại bảo vệ thiết bị nghiền ngừa tránh kim loại. Cấp liệu quay mới
được cải tiến được sử dụng làm lớp đệm kín khí tại điểm cấp liệu máy nghiền.
Bộ truyền động có thể điều chỉnh tốc độ của băng chuyền cấp liệu máy nghiền
đáp ứng vòng mạch điều khiển dẫn hướng bằng hiệu áp điều khiển tốc độ cấp
liệu máy nghiền.
Khi nguyên liệu ẩm dính như pozzolana, xỉ hoặc thạch cao từ các trạm khử lưu
huỳnh khí ống lò cần phải được sử dụng, máng nạp vào trong thiết bị nghiền có
thể được làm nóng bằng khí công nghệ.
Hình số 3: Quy trình công nghệ trạm
nghiền với máy nghiền LM … 2+2
Nguyên liệu được nghiền và nếu cần thiết được sấy khô trong máy nghiền. Khí
công nghệ đi vào máy nghiền theo hai hướng đối diện. Nó được phân phối đều
xung quanh vòng jiclơ và đưa nguyên liệu sang tới rìa bàn nghiền đến thiết bị
phân loại tổ hợp trong khoang máy nghiền. Máy nghiền 2+2 được cấp thiết bị
tách thông thường LKS. Kể từ 4 năm qua, tất cả máy nghiền LOESCHE đều
được lắp thêm thiết bị phân loại kiểu bánh lồng hiệu suất cao LSKS. Thành
phẩm của máy nghiền và được thu trong thiết bị lọc bơm đẩy.

Vòng điều chỉnh thiết bị giảm chấn đối với quá trình tái hoàn liệu hoặc thải khí
công nghệ phụ thuộc vào nhiệt độ xả của máy nghiền. Nếu đòi hỏi quá trình sấy
khô, hệ thống có thể được thiết kế có lò sinh khí nóng hoặc có thể được kết nối
5
với nguồn khí thải trong thiết bị nghiền xi măng. Trong trường hợp nhiệt độ quá
cao, khí tuần hoàn kín có thể được thay thế một phần hoặc hoàn toàn bằng khí
bên ngoài và quá trình làm mát có thể đạt tới nhiệt độ clinke 150oC (302oF) nhiệt
độ xi măng 90oC (194oF) hoặc thậm chí có thể thấp hơn.

Khả năng điều chỉnh nhiệt độ xả máy nghiền có thể được sử dụng cho quá trình
biến đổi thạch cao thành nửa phân tử nước (xem bên dưới).

Nguyên liệu rơi qua vòng mũ phun vào đường ống khí được thu bằng băng tải
gá lắp trên phần dưới của bàn nghiền và được vận chuyển đến một điểm xả liệu,
từ vị trí được chuyển ngược lại trong tầm kiểm soát đến băng chuyển tiếp liệu
máy nghiền. Trong trạm chế biến xỉ lò cao kết hạt, thiết bị tách trống từ được lắp
trong hệ thống xử lý phế phẩm. Thiết bị tách này thu hồi kim loại sắt được giải
phóng từ xỉ kết tụ trong quá trình nghiền.

Trong quá trình nghiền clinke và thạch cao, đòi hỏi quá trình tán sắt cũng như
trong các trường hợp khi xi măng được sản xuất với các chất phụ gia hạt nghiền.
Không có nước phun vào trong máy nghiền.

4. Về mặt chất lượng

Bên cạnh độ tin cậy cơ khí và khả năng vận hành thì chất lượng xi măng là vấn
đề hàng đầu khi các thiết bị nghiền clinke LOESCHE được ứng dụng trên thị
trường. Xi măng được sản xuất trong máy nghiền 2+2 cần phải tương thích với
xi măng được sản xuất trong hệ thống máy nghiền bi.

4.1 Thành phần cỡ hạt

Ngay từ đầu, thành phần cỡ hạt xi măng được sản xuất trong thiết bị LOESCHE
được nghiên cứu chi tiết.

Bảng số 1 thể hiện sự so sánh giữa xi măng được sản xuất trong hệ thống máy
nghiền bi có thiết bị tách kiểu thế hệ thứ 3 và máy nén trục quay và xi măng
được sản xuất trong LM 46 2+2 C ở Thái Lan.

Xi măng loại I Hệ thống máy nghiền bi LM 46 2+2 C


Diện tích bề mặt 3270 cm2/g 3270 cm2/g

6
(BLAINE)
Độ dốc 0,83 0,85
Thông số vị trí 19,2 µm 17,3 µm
Bảng số 1
Thành phần cỡ hạt xi măng máy nghiền LOESCHE hầu như không đáng kể so
với xi măng máy nghiền bi. Yêu cầu nước, quá trình cấu kết và phát triển cường
độ xi măng loại I này (clinke + thạch cao) là tương đối giống nhau. Không đòi
hỏi quá trình trộn xi măng từ công nghệ nghiền. Người tiêu thụ xi măng sẽ rất
khó phân biệt được trong quá trình sản xuất xi măng.

Bảng số 2 thể hiện sự so sánh giữa xi măng với phụ gia hạt nghiền như đá vôi và
xỉ lò cao được sản xuất trong LM 56 2+2 C/S và máy nghiền bi mạch kín với bộ
tách thế hệ thứ 3. Xi măng loại 1 CO là loại xi măng với đá vôi hạt nghiền và xi
măng loại MS là xi măng xỉ với tỷ lệ xỉ là 30%.

Loại xi măng 1 CO 1 CO MS MS
Máy nghiền LM 56 2+2 Máy nghiền LM 56 2+2
C/S C/S
Cặn 45 µm 12,2 % 11,8% 7,3% 7,5%
Độ dốc 0,77 0,74 0,84 0,83
Thông số vị 25,5 µm 22,8 µm 23,7 µm 22,9 µm
trí
Bảng số 2
Các thử nghiệm với bảng kết quả xác định cho tiêu chuẩn đồng nhất. Không
phát hiện thấy những khác biệt đáng kể về quá trình cấu kết và phát triển cường
độ.

4.2 Khử nước thạch cao

Khử nước thạch cao (Ca SO4 x 2 H2 O) xảy ra ở nhiệt độ khoảng 60oC (140 oF)
và nửa phân tử nước (Ca SO4 x 1/2 H2 O) hình thành (hình số 4). Độ hoà tan hai
biến thể canxi sunfat khác nhau rõ rệt. Nồng độ ion sunfat trong nước lỗ rỗng có
ảnh hưởng nhiều đến sự cấu kết đông cứng của vữa xi măng. Tuy nhiên quá
trình tạo ra nửa phân tử nước không chỉ là chức năng của nhiệt độ mà còn là
chức năng của thời gian lưu trữ ở mức nhiệt độ nhất định. Về mặt này, máy

7
nghiền bi và máy nghiền LOESCHE hoàn toàn khác nhau. Thời gian lưu trữ các
hạt qua cửa xả bi trong thời gian 20 phút. Trong thời gian này, thạch cao tiếp xúc
với nhiệt độ khoảng 80-90 oC (176-194 oF) hoặc thậm chí cao hơn. Nhiệt độ
nguyên liệu được xả từ máy nghiền bi tương tự nhiệt độ trong cùng thời gian.

Hình số 4: Cấu tạo nửa phân tử nước (sơ đồ)

Nhiệt độ nghiền oC
Trong máy nghiền LOESCHE, thời gian lưu trữ chỉ khoảng 2-3 phút. Nhiệt độ
khí tại cửa xả máy nghiền thường từ 90-95 oC (194-203 oF). Do thời gian lưu trữ
ngắn cho nên nhiệt độ xi măng thấp hơn khoảng từ 5-10 oC. Thạch cao tiếp xúc
với nhiệt độ thấp hơn trong thời gian lưu trữ ngắn hơn so với máy nghiền bi, dẫn
đến việc hạn chế quá trình tạo nửa phân tử nước. Do đó, cần phải tiến hành chạy
thử với tỷ lệ chất mang sunphat trong xi măng tối ưu hoá nồng độ sunphat.

Bảng số 3 thể hiện quá trình biến đổi thạch cao thành phân tử nửa nước ở nhiệt
độ xi măng khác nhau. Thử nghiệm được thực hiện với LM 46 2+2 C tại Việt
Nam. Các thí nghiệm xi măng được sản xuất ở nhiệt độ khác nhau trong máy
nghiền nhỏ tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển LOESCHE chứng minh rằng
nhu cầu nước của mẫu vữa và độ cấu kết của vữa có thể ảnh hưởng do thay đổi
của nhiệt độ.

Thạch cao Nửa phân tử nước


(Ca SO4 x 2 H2O) (Ca SO4 x 1/2 H2O)
o o
Nhiệt độ xi măng 85 C (185 F) 8,2% 1,2%
Nhiệt độ xi măng 68oC (154oF) 8,4% 0,7%
Bảng số 3
Khi có thể thiết lập được nhiệt độ cửa thoát máy nghiền LOESCHE thông qua
vòng điều chỉnh và có thể điều chỉnh được quá trình tạo phân tử nửa nước dưới
phương thức được điều chỉnh.

4.3 Khả năng dễ đổ của bê tông

8
Để xác định được khả năng dễ cấu kết và đánh giá được khả năng dễ đổ của bê
tông thì người ta sử dụng quy trình tiêu chuẩn của Trung tâm kiểm định thí
nghiệm vật liệu xây dựng, ZEMLABOR, Beckum, Đức. Bê tông được sản xuất
theo công thức tiêu chuẩn với xi măng từ máy nghiền bi và từ máy nghiền
LOESCHE. Lượng nước được điều chỉnh thích hợp ngay sau khi trộn được rải
bê tông khoảng 48 cm.

Rải bê tông (cm) Hình số 5: Kết quả thí nghiệm rải bê tông

Nước
Thời gian (phút)
LM 1 LM 2 LM 1 LM 2

Sau khi xác định rải bê tông được đưa vào khoang ống và sau 3 phút, rải bê tông
được xác định lần thứ hai. Quy trình được lặp đi lặp lại sau 30 phút và sau 60
phút. Sau đó bê tông được đưa vào máy trộn lại và bê tông được đảo trộn lần
nữa. Rải bê tông được xác định sau đó lần nữa. Thu được một mẻ bê tông mẫu
để bổ sung nước cho đến khi thu được rải bê tông ban đầu. Hình số 5 thể hiện
kết quả của thí nghiệm này.

Thật thú vị là trong tất cả các trường hợp được thử nghiệm so đến nay thì khả
năng dễ đổ của bê tông được làm từ xi măng máy nghiền LOESCHE tốt hơn ở
30 phút và 60 phút so với bê tông được làm từ xi măng nghiền bi. Những phát
hiện này được nhiều khách hàng của chúng tôi xác nhận là như vậy.

5. Xi măng có phụ gia nghiền

Quá trình sản xuất xi măng với phụ gia nghiền chẳng hạn như xỉ hạt lò cao, tro
bay, pozzolana hoặc đá vôi rất phổ biến ngày nay là bởi vì nó góp phần quan
trọng vào việc giảm khí thải CO2 trong quá trình sản xuất xi măng.

Cửa xả máy nghiền bi được tối ưu hoá đối với một hoặc hai nguyên liệu cấp và
khả năng sấy kho của máy nghiền bi là hạn chế. Trong trường hợp thay đổi đáng

9
kể của phép đo độ hạt nguyên liệu cấp hoặc trong trường hợp độ ẩm tăng thì
hiệu suất máy nghiền bi ảnh hưởng đáng kể.

Máy nghiền LOESCHE có khả năng sấy khô hoàn hảo và chúng có thể dễ dàng
xử lý với những thay đổi đặc tính vật lý của cấp liệu máy nghiền. Bằng cách
điều chỉnh áp suất nghiền trong hệ thống lò xo thuỷ khí, luồng khí qua máy
nghiền và nhiệt độ máy nghiền, tốc độ quay của máy phân loại và nếu được yêu
cầu thì tốc độ bàn quay thay đổi từ một dạng sản phẩm sang dạng sản phẩm
khác có thể thực hiện được từ phòng điều khiển trung tâm trong thời gian vài
phút mà không làm giảm đi hiệu suất nghiền. Khối lượng nguyên liệu còn lại
trong hệ thống là rất nhỏ và khối lượng xi măng trung gian hạn chế chỉ với vài
tấn. Hầu hết máy nghiền 2+2 trong quá trình vận hành cho ít nhất hai loại sản
phẩm khác nhau. Trong một trạm, sáu sản phẩm khác nhau được nghiền trong
một máy nghiền.

Trong máy nghiền bi, nguyên liệu mềm hơn được nghiền nhỏ hơn đạt tới độ mịn
cao trong khi các nguyên liệu cứng hơn tích tụ lại trong tỷ lệ hạt sản phẩm thô.
Trong máy nghiền trục đứng thì các hạt được chuyển đến thiết bị phân loại sau
đó chúng qua một hoặc hai trục lăn. Do vậy ta tránh được quá trình nghiền tinh
và tiết kiệm được nhiên liệu nghiền.

Tuy nhiên, độ cứng riêng của các thành phần đóng vai trò quan trọng về mặt
phân bố nguyên liệu khác nhau trong quá trình phân bố cỡ hạt. Thành phần cứng
hơn như clinke chuyển áp lực nghiền trong quá trình nghiền nhỏ hạt thành các
thành phần mềm hơn chẳng hạn như đá vôi hoặc puzzolana. Điều này gây tác
động đàn hồi cho hạt cứng hơn có thể được tìm thấy trong thành phần sản phẩm
thô. Hình số 6 cho thấy sự hao hụt lửa đốt xi măng và thành phần hạt. Xi măng
này là loại xi măng xây có chứa 15% đá vôi. Ngoài l.o.i, nồng độ sunphát cũng
được đề cập.

Hình này cũng thể hiện rằng có thể tìm thấy đá vôi trong thành phần xi măng
mịn cũng như thạch cao. Ngược lại, thành phần clinke được làm giàu trong
thành phần thô.

10
Các khảo sát khoáng chất bằng dụng cụ XRD đã chứng minh cho những bằng
chứng này. Hình số 7 thể hiện quá trình phân bố clinke và đá vôi trong thành
phần cỡ hạt.

Clinke
đá vôi

Xi măng thành phần cỡ hạt (µm) Hình số 7:


Phân bố clinke và đá vôi
Hình số 8 thể hiện sự phân bố thạch cao và phân tử nửa nước được cấu thành
trong quá trình nghiền.

Thạch cao
Phân tử nửa nước

Xi măng thành phần cỡ hạt (µm) Hình số 8:


Phân bố thạch cao và phân tử nửa nước
Thạch cao được sử dụng là loại thạch cao tự nhiên không bổ sung phân tử nửa
nước. Mặc dù nhiệt độ xi măng nằm trong phạm vi khoảng 85oC (185oF) nửa
thành phần thạch cao được chuyển hoá thành phân tử nửa nước.

Clinke
xỉ
đá vôi

11
Xi măng thành phần cỡ hạt (µm) Hình số 9:
Phân bố clinke, xỉ và đá vôi
Trong Hình số 9, một cuộc khảo sát được thực hiện về xi măng xỉ, có chứa 30%
xỉ hạt lò cao cũng như 5% đá vôi. Do xỉ có độ cấu kết tương đồng trong quá
trình nghiền nhỏ hạt như clinke thì sự phân bố xảy ra ở clinke lớn hơn ở đá vôi.

Rõ ràng rằng có diễn ra quá trình làm giàu nhẹ xỉ trên mặt thô to và đạt tới độ
mịn thì clinke vượt trội hơn. Có thể thấy được rõ sự gia tăng đáng kể đá vôi
mềm.

Mặc dù nguyên lý nghiền nhỏ hạt trong máy nghiền trục đứng khác nhiều so với
nguyên lý nghiền nhỏ hạt trong máy nghiền bi thì các sản phẩm thu được cũng
có đặc điểm tương tự. Đây là đặc điểm hết sức quan trọng khi đạt được khả năng
tương thích xi măng được sản xuất bằng công nghệ khác nhau và không thuộc
trường hợp với các thiết bị khác ngoài máy nghiền LOESCHE trong các lần
trước và khiến cho các nhà sản xuất xi măng do dự khi chuyển sang áp dụng các
công nghệ mới.

6. Kết luận

Công nghệ nghiền xi măng, xỉ LOESCHE và sản xuất xi măng với các phụ gia
hạt nghiền đã chứng minh cho tính khả thi về số lượng lớn thiết bị lắp đặt kể từ
năm 1994. Công nghệ 2+2/3+3 cho phép nghiền đạt tới độ mịn cao ở mức độ
rung thấp.

Chất lượng sản phẩm hoàn toàn tương thích với chất lượng xi măng từ thiết bị
nghiền thông thường.

Việc điều chỉnh dễ dàng đối với các đặc điểm nghiền nhỏ nguyên liệu cấp và
khả năng sấy khô cao đưa máy nghiền trở thành công cụ lý tưởng cho quá trình
sản xuất nhiều loại xi măng khác nhau và kế hoạch sản xuất có thể nhanh chóng
được điều chỉnh theo nhu cầu thị trường.

12
Ngoài việc tiêu thụ nhiên liệu thấp, chi phí bảo trì rất thấp và độ tin cậy vận
hành cao là các đặc điểm của máy nghiền LOESCHE.

13

You might also like