Professional Documents
Culture Documents
Từ đầu TK XVI các nước Châu Âu đã bắt đầu thâm nhập vào
châu Á. Điều này mang lại cơ hội mở rộng giao thương, buôn
bán vũ khí, học tập kĩ thuật tiên tiến cho các quốc gia châu Á.
Tuy nhiên, bên cạnh đó là những vấn đề về chủ quyền an ninh
quốc gia, địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội nên đã dẫn
đến thái độ nghi ngờ kì thị và cuối cùng là chính sách đóng cửa
của một số nước. Nhật Bản cũng không là ngoại lệ khi thi hành
chính sách Sakoku đầu TK VVII. Và lí do dẫn tới chính sách
này có thể kể đến 3 mục như sau:
I, Tôn giáo:
- Số lượng người cải đạo Thiên chúa giáo ngày càng tăng ở
phía Nam Nhật Bản (chủ yếu là Kyūshū được nhìn nhận như
một mối đe dọa quan trọng)
- Thiên hoàng rất lo ngại khi ông biết đến việc người Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha đã bình định Tân Thế giới như thế nào, và
nghĩ rằng Nhật Bản sẽ sớm trở thành một trong các thuộc quốc
của họ.
- Các thương nhân người Anh và Hà Lan theo đạo Tin lành đổ
thêm dầu vào lửa khi buộc tội các nhà truyền đạo người Tây
Ban Nha và Bồ Đào Nha truyền giáo một cách có hệ thống,
như là một phần của chính sách cai trị về văn hóa và thực dân
hóa các nước Á Châu.
- Đỉnh điểm là Cuộc nổi loạn Shimabara năm 1637-1638 khiến
giọt nước tràn ly.
Đây là một cuộc nổi dậy của 40.000 nông dân phần lớn theo
Thiên Chúa giáo. Sau việc này, Mạc phủ buộc tội các nhà
truyền đạo xúi giục cuộc nổi loạn, trục xuất họ ra khỏi đất
nước, và nghiêm cấm tôn giáo này bằng án tử hình.
Thành phần tham gia: những người đổi sang Công giáo bị đàn
áp về mặt tôn giáo, nhưng lý do khác dễ thấy của cuộc khởi
nghĩa là tiền thuế bắt buộc phải đóng rất nặng nề từ đó làm
nông dân bất bình.
Mạc Phủ bắt đầu chính sách cấm đạo. Không những thế,
Tướng quân còn hoài nghi rằng những tín hữu Công giáo
Tây phương liên can đến việc lan rộng cuộc nổi loạn và
những thương buôn người Bồ Đào Nha bị trục xuất khỏi
Nhật Bản.
Tất cả những lí do trên đây góp phần đưa đến vệc ra chính
sách Sakoku - “đóng cửa đất nước”. Tuy nhiên Nhật Bản
vẫn thực hiện thông thương với một số nước hạn chế: Việt
Nam, Triều Tiên, Lưu Cầu, Hà Lan..
1. NÔNG NGHIỆP:
Nhật Bản vào thời kỳ này đã có sự tăng trưởng vượt bậc trên
các phương diện: diện tích canh tác, sản lượng và loại hình sản
phẩm.
+ Nếu so sánh, ta có thể thấy năm 1600, diện tích đất canh tác
ở Nhật Bản chỉ khoảng 1.640.000 ha, thì đến năm 1720 đã có
2.970.000 ha và năm 1874 là 3.050.000 ha.
+ Bên cạnh đó nhiều khu chuyên canh, chuyên chế biến những
đặc sản địa phương đã được hình thành. Đây có thể gọi là sự
chuyển biến về chất trong nền kinh tế nông nghiệp Nhật Bản.
Nhờ đó, từ một ngành sản xuất chủ yếu để đảm bảo nguồn
lương thực, thực phẩm cho xã hội, nông nghiệp thời kỳ này còn
cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành sản xuất thủ công đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Những biến chuyển trên cùng với quá trình tư hữu hóa về
ruộng đất, đã làm thay đổi địa vị kinh tế và đẩy nhanh quá trình
phân hóa trong nông thôn. Hiện tượng mua bán, bao chiếm gá
nợ ruộng đất ngày càng phổ biến dẫn đến tình trạng hàng loạt
nông dân bị mất ruộng đất phải bỏ làng đi xiêu tán hoặc phải
tham gia vào những ngành sản xuất phi nông nghiệp. (Mạc
phủ, quý tộc chia lại ruộng ruộng đất nhưng không đồng đều.
Diện tích ruộng được chia ít mà tô thuế lại cao nên nông dân
phải làm thuê cho quý tộc.)
- Năm 1641, theo yêu cầu của Mạc phủ, Hà Lan phải chuyển
thương điếm từ Hirado đến Deshima thuộc Nagasaki. Từ đó
Nagasaki trở thành cửa ngõ chính yếu của Nhật Bản giao lưu
với các nước bên ngoài.
Cùng với thương nhân Hà Lan, trong bối cảnh Nhật Bản thực
hiện chính sách Sakoku, thương nhân Trung Hoa cũng tìm mọi
cách để thâm nhập Nhật Bản. Đến năm 1685, chính quyền Edo
lại đặt ra quy định hàng năm các thuyền buôn Trung Quốc
được phép đem ra khỏi Nhật Bản khối lượng bạc trị giá 6.000
kwan còn tàu Hà Lan là 3.000 kwan. Từ năm 1715, Mạc phủ
lại đặt ra quy định hàng năm thuyền buôn của Trung Quốc
không được quá 30 chiếc còn Hà Lan không được cử trên một
tàu có số lượng kim loại không được vượt quá 50% so với
Trung Quốc.
- Đến năm 1813, Mạc phủ lại quy định hàng năm thuyền buôn
của Trung Quốc chỉ được đến 10 chuyến và đem đi 3.500 kwan
bạc còn Hà Lan mặc dù được cửa 2 chuyến tàu đến Nhật Bản
nhưng lượng bạc đem đi không được quá 1.700 kwan.
Do nắm nhiều huyết mạch kinh tế của đất nước mà đội ngũ
doanh thương ở đây đã tích được nhiều của cải lớn. Hoạt động
của nhiều thành thị thực tế là do bộ phận này điều hành.
Điều đáng lưu ý ở đây là, giới công - thương Nhật Bản luôn có
xu hướng mở rộng quy mô kinh doanh, sản xuất những lĩnh
vực kinh tế mới. Do đó nguồn của cải tập trung vào tay các
dòng học đồng thời là các tập đoàn kinh tế như: Mitsui,
Yamanaga,… là rất lớn. Năm 1705, khi tài sản của Yodoya
Sabureomon , một thương nhân chuyên kinh doanh lúa gạo ở
Osaka bị chính quyền Edo tịch thu, Hầu hết các lãnh chúa ở
miền Tây Nhật Bản đều là con nợ của Yodoya. tổng số nợ của
các lãnh chúa đối với ông ta lên đến 121.867.610 ryo, tương
đương với thu nhập của Mạc phủ trong hai thế kỷ.
Việc phát triển mạnh mẽ công- thương nghiệp cũng như thị
thường hàng hóa là điều kiện thuận lợi thúc đẩy thị trường tiền
tệ ra đời. Từ những cơ sở trao đổi tiền nhỏ, từ giữa thế kỷ XVII
nhiều ngân hàng đã đi vào hoạt động. Năm 1670, hệ thống
ngân hàng Osaka với ban điều hành là 10 người có sự tham gia
của quan chức chính quyền trung ương đã được thành lập. Hệ
thống ngân hàng này với những chính sách thanh toán tiện lợi
đã thâu tóm toàn bộ thị trường tiền tệ ở Osaka, (Edo và nhiều
lãnh địa khác đồng thời giúp giữ cân bằng thị trường tiền tệ, ổn
định sản xuất, lưu thông kinh tế ở Nhật Bản.)
Trong điều kiện kinh tế Nhật Bản có nhiều biến đổi, sự biến đổi
đó đã từng bước làm rung chuyển trật tự của xã hội truyền
thống dựa trên nền tảng của kinh tế nông nghiệp. Do đó, địa vị
của các đẳng cấp dường như được quy định chặt chẽ cũng
không tránh khỏi những xáo trộn nhất định. Sự biến chuyển
thang bậc giữa các đẳng cấp là một hiện thực xã hội đáng chú ý
thời này.
Việc phân chia xã hội làm bốn đẳng cấp nhằm ổn định chính trị
và khẳng định địa vị của từng giai cấp song với sự chuyển biến
mạnh mẻ của nền kinh tế đã dẫn đến sự phân hóa tự nhiên giữa
các đẳng cấp và cả tần lớp trong cùng một đẳng cấp. Trong
thời kỳ này xã hội Nhật Bản vẫn là xã hội phong kiến nhưng
len lõi trong nó đã có sự tồn tại của yếu tố tư bản chủ nghĩa.
(…do tác động của quá trình tư hữu hóa tài sản, ruộng đất và
sự phân hóa mạnh mẽ giữa các đẳng cấp)
Mặc dù giới công- thương chỉ được xem là lớp người hạ đẳng
trong xã hội nhưng nhờ có khả năng kinh tế mà thế lực của họ
đã có ảnh hưởng trở lại đối với chính quyền phong kiến và
nhiều đẳng cấp xã hội khác. Sự liên kết giữa giới chính trị và
kinh tế là một trong những đặc trưng tiêu biểu của lịch sử Nhật
Bản. Trong khi đó, hầu hết các tầng lớp võ sĩ, nông dân vốn là
lực lượng cơ bản, chỗ dựa của chính quyền phong kiến, ngày
càng lâm vào tình rạng bần cùng hóa. Cùng với các yếu tố khác
của xã hội các đẳng cấp này trở nên bất mãn với xã hội và
chính thể hiện thời.
v Giống nhau:
-Cả hai chính sách đều có chủ trương là “nội bất xuất ngoại bất
nhập” nhưng không hẳn là biệt lập hoàn toàn, vẫn có sự giao
lưu ít nhiều với các nước ngoại ban: Việt Nam vẫn duy trì mối
quan hệ với các nước láng giềng như Lào, Campuchia… Còn
Nhật thì vẫn thực hiện thông thương với một số nước hạn chế:
Triều Tiên, Hà lan…
- Hạn chế giao thiệp tối đa vì sợ đất nước sẽ sớm trở thành
thuộc địa của các nước phương Tây, bên cạnh đó tạo ra những
điều kiện khắt khe trong việc mua bán trao đổi với các nước
ngoại bang. Đồng thời ngăn chặn việc truyền bá đạo Thiên
chúa giáovào sâu trong đời sống nhân dân vì lo ngại sẽ gây nên
sư mất ổn định, nổi loạn không thể kiểm soát.
- Đặc biệt với chủ trương của hai chính sách này thì Nhật Bản
và Việt Nam đều không đặt mối quan hệ chính thức với bất kì
quốc gia nào để tránh rơi vào vòng xoáy nhượng bộ chính trị.
v Khác nhau:
CHÍNH SÁCH
CHÍNH SÁCH
“BẾ QUAN TỎA
SAKOKU
CẢNG”
+ Đầu TK XVI các + Việt Nam là một
nước Châu Âu xâm nước phương
nhập vào Châu Á Đông có tiềm lực
mang lại cơ hội mở về kinh tế nên
rộng giao thương, chịu sự dòm ngó
mua bán vũ của các nước
khí..nhưng lo ngại phương tây, song
NGUYÊN NHÂN
các vấn đề chủ song đó khi vua
HÌNH THÀNH
quyền an ninh quốc Minh Mạng lên
gia, địa vị của giai ngôi với cái nhìn
cấp thống trị trong một chiều của tư
xã hội nên đã thi tưởng Nho giáo đã
hành chính sách lập ra chính sách
Sakoku vào sách Bế quan tỏa
TKXVII. cảng
CHUYỂN BIẾN +Ban đầu là một xã +Nhà Nguyễn
KINH TẾ-XÃ HỘI hội nông nghiệp, “trọng nông ức
nhưng đến khi thi thương” nên mọi
hành chính sách thì chính sách đều ưu
Nhật bản phát triển đãi cho nông
đa dạng về sản nghiệp, ngoại
xuất, kinh doanh, thương bị kìm
thủ công nghiệp, hãm
thương nghiệp và
tài chính.
+ Chính sách này
giúp Nhật khẳng + Chưa khẳng
định được vị thế định được vị thế
của mình trong khu của mình như
vực, giúp Nhật Nhật Bản, vẫn
thoát khỏi quan hệ phụng sự, cống
cống nạp đã tồn tại nạp cho nhà
giữa nó và Trung Thanh (Trung
Quốc qua nhiều thế Quốc)
kỉ trước đây.
+Hạn chế sự suy
kiệt nguồn tài
nguyên thiên nhiên
quốc gia.
+Học hỏi văn minh
phương Tây, học
cách đàm phán điều + Vẫn chưa tiếp
ước..ngoài ra còn thu, vận dụng
gửi các học sinh những kiến thức
sang các nước du tiên tiến của các
học. nước phương tây