You are on page 1of 51

CHƯƠNG 10

SẮC KÝ KHÍ
(Gas chormatography)
Sắc ký khí

Cột sắc ký đặt


trong lò ổn nhiệt

2
Quá trình tách trong sắc ký khí (separation)
Trong sắc ký khí, chất phân tích dạng khí được vận chuyển qua
cột bằng pha động dạng khí (gọi là khí mang, carrier gas).
Trong sắc ký phân bố khí-
lỏng (gas-liquid partition
choromatoghraphy), pha tĩnh
là chất lỏng không bay hơi
được liên kết trực tiếp bên
trong cột hay là chất mang
rắn ở trong cột.

Trong sắc ký hấp phụ khí-rắn (gas-solid adsorption


chromatography), chất phân tích được hấp phụ trực tiếp trên hạt
rắn của pha tĩnh. 3
Sơ đồ thiết bị sắc ký khí

5
3
2
1 4

1. Mobile phase (carrier gas: He, N2 hay H2 ): Hơi được chạy qua cột bằng khí mang.
2. Sample injector: Mẫu là chất khí hay chất lỏng dễ bay hơi được tiêm qua một vách
ngăn (một đĩa cao su) vào một cổng nóng để bốc hơi nhanh chóng.
3. Column: Tách các thành phần trong mẫu phân tích. Cột phải đủ nóng để cung cấp
đủ áp lực hơi cho chất phân tích để rửa giải trong một thời gian hợp lý.
4. Detector: Chất phân tích được chuyển đổi tín hiệu. Các detector được duy trì ở nhiệt
độ cao hơn nhiệt độ của cột, nhờ vậy tất cả các chất phân tích đều ở dạng khí.
5. Computer: Kết quả được hiển thị.
4
Cột sắc ký (Column)
Cột mao quản (open tubular column)

Cột sắc ký

 Cột mao quản dài và hẹp, được làm bằng silica (SiO2) và được tráng với
polyimide (nhựa, chịu được tới 350°C) để hỗ trợ và bảo vệ độ ẩm từ không khí.
 Đường kính của cột bên trong cột thường từ 0,10-0,53 mm và có độ dài từ 15-
100 m, loại có chiều dài 30 m là phổ biến nhất.
 Cột mao quản cho độ phân giải cao hơn, thời gian phân tích ngắn hơn, độ
nhạy cao hơn nhưng dung lượng mẫu thấp hơn.
 Cột mao quản được dùng phần lớn trong sắc ký khí.

5
Mặt cắt ngang cột sắc ký
1. Cột mao quản wall-coated có bề dày màng pha tĩnh dạng lỏng từ
0,1-5 µm trên tường bên trong của cột.
2. Cột mao quản support-coated có các hạt rắn được phủ với chất
lỏng là pha tĩnh và được gắn bên trong của cột.
3. Cột mao quản porous-coated, các hạt rắn là pha tĩnh hoạt động. Với
diện tích bề mặt lớn, loại cột mao quản support-coated có khả năng
lưu mẫu lớn hơn với cột wall-coated.
Hiệu quả của cột support-coated nằm giữa hiệu quả của cột wall-coated và cột
nhồi (packed column).
6
Ảnh hưởng của đường kính trong ống cột mao
quản tới độ phân giải.

Cột hẹp hơn độ phân giải của chất 1 và 2


tăng lên

Các cột có đường kính nhỏ cho độ phân giải cao hơn, nhưng
áp suất vận hành cao hơn và dung lượng mẫu nhỏ hơn.

7
Ảnh hưởng của chiều dài cột mao quản tới độ phân giải.

Số đĩa lý thuyết (N) tỉ lệ thuận với chiều dài cột.


Chiều dài cột tăng thời gian lưu tăng.
Chiều dài cột tăng độ phân giải các chất cũng tăng lên.

8
Ảnh hưởng của độ dày pha tĩnh đến hiệu quả của
cột mao quản

Bề dày của pha tĩnh tăng, thời gian lưu tăng và làm tăng độ phân giải.
Điều kiện: DB-1 pha tĩnh trong cột (loại cột wall-coated), chiều dài cột 15 m,
đường kính trong 0,32 mm hoạt động ở 40 °C với vận tốc khí mang He là 38
cm/s.
Khi tăng độ dày của pha tĩnh, dẫn đến tăng thời gian lưu và khả năng lưu mẫu, dẫn đến làm tăng độ phân
giải của các chất được rửa giải ra trước với hệ số dung lượng k’ ≤5. Màng dày của pha tĩnh có thể bảo vệ
các chất phân tích từ các bề mặt silica và giảm đuôi pic, nhưng cũng có thể làm tăng chảy (phân hủy và
bốc hơi) của pha tĩnh ở nhiệt độ cao. Chiều dày 0,25 µm là tiêu chuẩn, nhưng có thể sử dụng bề dày dày
hơn cho các chất phân tích dễ bay hơi. 9
Sự lựa chọn của pha tĩnh được dựa trên nguyên tắc
"like dissolves like”.

 Các cột không phân cực là lựa chọn tốt nhất cho các chất tan không phân
cực.
 Cột có độ phân cực trung bình là sự lựa chọn tốt nhất cho các chất phân
cực trung gian
 Cột có độ phân cực lớn là sự lựa chọn tốt nhất cho các chất tan có độ
phân cực lớn. 10
Các loại pha tĩnh phổ biến trong sắc ký khí mao quản

11
Độ phân cực của một số chất tan

12
2. Cột nhồi (packed column)

 Cột nhồi thường được làm bằng thép không gỉ


hoặc thủy tinh, đường kính trong 3-6 mm và chiều
dài cột từ 1-5 m.
Sắc ký đồ của hỗn hợp alcohol ở 40 °C sử
 Cột nhồi chứa các hạt chất mang thường là dụng cột nhồi (đường kính trong 2 mm ×
silica được silica hóa co kích thước siêu đồng đều chiều dài 76 cm) chứa 20% Carbonwax
20M trên chất mang Gas-Chrom R và
được bọc với chất lỏng không bay hơi làm pha
detector ion hóa ngọn lửa.
tĩnh, hoặc đôi khi có thể chính chất rắn là pha tĩnh.
So với cột mao quản, cột nhồi cho dung lượng
mẫu lớn hơn nhưng pic rộng hơn, thời gian lưu
dài hơn và độ phân giải thấp hơn.
 Cột nhồi thường được sử dụng cho quá trình
tách khi chuẩn bị mẫu, khi phải sử dụng một
lượng lớn pha tĩnh hoặc để tách các chất khí được
giữ lại kém. 13
 Bề mặt của cột và các hạt pha tĩnh thường chứa các nhóm
hydroxyl (OH), có thể tạo liên kết hydro với các chất tan phân cực, do
vậy dẫn đến tạo đuôi pic.
 Silica hóa (silinization) là quá trình giảm đuôi pic bằng cách khóa
cách nhóm hydroxyl với nhóm trimethylsilyl không phân cực.
 Để ngăn cản khả năng tạo liên kết với chất tan, teflon là một chất
mang hữu dụng, nhưng nó bị giới hạn bởi nhiệt độ (<200°C).

14
Chỉ số lưu (retention index)
Tách 10 chất
(a) cột không phân cực
poly(dimethylsiloxane).
(b) cột có độ phân cực
lớn poly(ethylene glycol).
Pha tĩnh có bề dày 1µm,
đường kính 0,32 mm ×
chiều dài 30m, cột mao
quản ở 70°C.

Chỉ số lưu của chất tan phân cực và không phân cực thay đổi như thế nào khi độ
phân cực của pha tĩnh thay đổi.
Hinh (a): 10 hợp chất được tách ra theo thứ tự tăng nhiệt độ sôi từ pha tĩnh không
phân cực.
Hình (b): pha tĩnh là phân cực, nó sẽ giữ lại các chất phân cực lâu hơn. Được rửa
giải ra trước là 4 alkane, sau đó là 3 ketone và cuối cùng là 3 rượu. Liên kết hydro
với pha tĩnh có thể là lực lớn nhất dẫn đến sự lưu. Tương tác lưỡng cực của các
ketone tạo ra lực liên kết với pha tĩnh lớn thứ hai. 15
16
Chỉ số lưu cho một số hợp chất trên các pha tĩnh phổ biến

*: Để so sánh, nhiệt độ sôi (b.p.) của các alkane: hexan, 69°C; heptan, 98 °C; octane, 126 °C;
nonan, 151 °C; decan, 174 °C; Undecan, 196 °C. Chỉ số lưu được duy trì cho các alkan
mạch thẳng là cố định và không thay đổi với các pha tĩnh: hexane, 600; heptan, 700;
octane, 800; nonan, 900; decan, 1 000; Undecan, 1 100.

17
Chỉ số lưu cho một số hợp chất trên các pha tĩnh phổ biến

Chỉ số lưu của benzen là 657 trên pha tĩnh là poly(dimethylsiloxane) có nghĩa là
benzen được rửa giải giữa hexan (I = 600) và heptan (I = 700) từ pha tĩnh không
phân cực này. Nitropropane được tách sau heptan trên cùng một cột.
Khi pha tĩnh trở lên phân cực hơn. Với (biscyanopropyl)0,9(cyanoproylphenyl)0,1-
polysiloxane ở dưới cùng của bảng, benzene được tách rửa sau decan, và
nitropropane là tách sau n-C14H30. 18
4. Chương trình nhiệt độ và áp suất
Trong chương trình nhiệt độ, nhiệt độ của một cột được nâng lên trong giai đoạn tách để
tăng áp suất hơi chất tan và làm giảm thời gian lưu của các chất được rửa giải cuối.
Tại một nhiệt độ ổn định 150 °C, các hợp chất dễ bay hơi hơn được tách ra rất gần với
nhau và các hợp chất ít bay hơi có thể không được rửa giải ra khỏi cột.
Nếu nhiệt độ tăng từ 50-250 °C với tốc độ tăng 8 °C/phút, tất cả các hợp chất này được
tách ra và các đỉnh là khá đồng đều. Chúng ta không thể tăng nhiệt độ quá cao vì chất phân
tích và pha tĩnh có thể bị phân hủy.

So sánh (a) đẳng nhiệt và (b) chương trình nhiệt độ. Mỗi mẫu có chứa ankan mạch thẳng chạy trên một
cột nhồi đường kính 1,6 mm, dài 6m có chứa 3% Apiezon L (pha lỏng) trên sàng 100/120 chất mang
VarAport với tốc độ khí mang He tỷ lệ 10 mL/phút. Độ nhạy của sắc ký chạy với chương trình nhiệt độ
19
gấp 16 lần so với đẳng nhiệt.
Nhiều thiết bị sắc ký được trang bị bộ phận điện tử để điều khiển áp của khí
mang. Tăng áp suất đầu vào dẫn đến tăng tốc độ di chuyển của pha động và
giảm thời gian lưu. Trong một số trường hợp, các việc lập chương trình áp
suất có thể được sử dụng thay cho lập chương trình nhiệt độ để giảm thời
gian lưu của các chất được rửa giải cuối. Kết thúc việc chạy sắc ký, áp suất
có thể được giảm nhanh chóng về giá trị ban đầu của nó và có thể bắt đầu
cho chạy các mẫu mới. Việc này sẽ tích kiệm thời gian để làm nóng, làm
nguội. Chương trình áp suất được sử dụng rất hữu ích cho các chất phân
tích mà không thể chịu đựng được nhiệt độ cao.

20
Khí mang (Carrier gas)

 H2, He và N2 về cơ bản cho chiều cao


đĩa lý thuyết tối ưu tương tự nhau (0,3
mm) ở lưu lượng khí khác nhau đáng kể.

 Tốc độ khí mang tăng theo thứ tự


N2<He<H2 .

 Heli là khí mang phổ biến nhất và


tương thích với hầu hết các detector.
Đường cong Van Deemter cho sắc
 Đối với detector ion hóa ngọn lửa, N2 ký khí của n-C17H36 tại 175 °C sử
dụng N2, He, hoặc H2 với cột (loại
cho giới hạn phát hiện thấp hơn He. wall-coated có đường kính trong
0,25 mm, chiều dài cột 25 m với
pha tĩnh OV-101.

21
Ảnh hưởng của khí mang đến việc tách hai hợp chất trên cùng một cột và cùng
một chương trình nhiệt độ.
Hạn chế để sử dụng H2
1. Có thể phản ứng với các hợp chất chưa bão hòa trên bề mặt kim loại như một
xúc tác.
2. Không thể được sử dụng với detector khối phổ.
(Lý do phổ biến mà H2 trước kia là nó tạo thành hỗn hợp nổ trong không khí khi H2 chiếm lớn hơn 4% thể
tích. Tốc độ dòng khí trong sắc ký mao quản có khả năng tạo ra nồng độ nguy hiểm của H2. Máy phát điện
sản xuất H2 có độ tinh khiết cao và loại trừ được việc sử dụng máy nén H2 )

Tách hai hydrocarbon polyaromatic trên cột sắc ký wall-coated cột mao quản với các
khí mang khác nhau. Độ phân giải, R, tăng và thời gian phân tích giảm khi chúng ta
thay đổi khí mang từ N2 đến He rồi đến H2. 22
 H2 và He cho độ phân giải tốt hơn (chiều cao đĩa nhỏ hơn) so với N2 ở tốc độ
dòng khí cao vì chất tan khuếch tán nhanh hơn qua H2 và He hơn là thông qua N2.
Các chất tan khuếch tán càng nhanh giữa các pha, thì giá trị C×ux trong phương
trình Van Deemter càng nhỏ.
 Hầu hết các phân tích được chạy ở vận tốc khí mang từ 1,5 đến 2 lần lớn hơn
so với vận tốc tối ưu ở đường cong van Deemter. Vận tốc cao hơn được chọn để
cho hiệu quả tối đa (hầu hết các đĩa lý thuyết) tính trên đơn vị thời gian. Một sự
giảm nhỏ ở độ phân giải được chấp nhận để để phân tích nhanh hơn.
 Khi khí chạy qua một cột hẹp có thể ở tốc độ quá thấp cho hiệu quả phát hiện
tốt nhất. Vì vậy, khí tối ưu để tách được sử dụng trong các cột và các khí tốt nhất
để phát hiện (gọi là khí makeup) được thêm vào giữa các cột và detetor.
 Các tạp chất trong khí mang làm suy giảm pha tĩnh. Khí mang sử dụng phải có
chất lượng cao và thậm chí họ cần được thông qua thông qua máy lọc để loại bỏ
O2, H2O và các vết của các hợp chất hữu cơ trước khi vào cột. Ống thép hoặc
đồng, chứ không phải nhựa hay ống cao su, nên được sử dụng để vận chuyển
khí, bởi vì các kim loại ít thấm qua không khí và làm không tạo ra các chất ô
nhiễm dễ bay hơi vào dòng khí.
23
Cột bảo vệ và khoảng cách lưu (retension gap)
 Trong sắc ký khí, cột bảo vệ và một khoảng cách lưu thường dài từ 3 đến 10 m không có
mao quản phía trước của cột sắc ký mao quản. Các mao quản được “silanized” để các chất
tan không được giữ lại bởi tạo liên kết hydro. Thực tế, cột bảo vệ và khoảng cách lưu là giống
hệt nhau, nhưng họ được sử dụng cho các mục đích khác nhau.
 Mục đích của một cột bảo vệ để tích lũy các chất không bay hơi mà nếu không sẽ gây ô
nhiễm cột sắc ký và làm suy giảm hiệu quả của nó. Cột bảo vệ thường có đường kính trong
tương tự như cột sắc ký. Theo định kỳ, đầu cột bảo vệ phải được để loại bỏ các dư lượng
không bay hơi. Việc này thực hiện khi bạn quan sát pic bất thường từ một cột mà thông
thường cho các pic đối xứng.
 Khoảng cách lưu được sử dụng để cải thiện hình dạng pic trong điều kiện nhất định. Nếu
bạn thêm vào một khối lượng lớn các mẫu (>2µL) bởi bơm mẫu chia dòng hay không chia
dòng (sẽ được mô tả ở phần tiếp theo). Các giọt dung môi micrromet có thể tồn tại bên trong
các cột trong vài mét đầu tiên. Chất tan trong các giọt được mang cùng với chúng và gây ra
một loạt các các pic không đối xứng. Khoảng cách lưu cho phép dung môi bay hơi trước khi
vào cột sắc ký. Sử dụng ít nhất 1 m khoảng cách lưu cho mỗi µL dung môi. Ngay cả một
lượng nhỏ dung môi có độ phân cực rất khác với pha tĩnh có thể gây ra các hình dạng bất
thường của pic. Khoảng cách lưu giúp tách dung môi khỏi chất tan để cải thiện hình dạng pic.
 Chúng ta tính toán số đĩa, N, với công thức bằng cách sử dụng thời gian lưu giữ và chiều
rộng của pic. Chiều cao, H, là chiều dài của cột, L, chia cho N. Ở đậy không bao gồm khoảng
cách lưu hoặc chiều dài cột bảo vệ. Với các pic có hệ số dung lượng k’<5, chiều cao đĩa có
thể không có ý nghĩa khi không có cột bảo vệ hoặc khoảng cách lưu được sử dụng.
24
Bơm mẫu (Syringe) Dung tích (µL)

Syringe

Septum

Carrier
Gas

Vaporization
Chamber

To
Column

25
1. Bơm mẫu chia dòng (split injection)
Sử dụng một ống tiêm để tiêm mẫu chất lỏng vào thiết bị sắc ký khí.

Sau khi làm sạch ống tiêm nhiều lần với dung môi, đuổi không khí, dung môi,
không khí, sau đó mẫu, và không khí sau đó nhiều hơn. Khi đâm kim xuyên qua
vách ngăn cao su vào cổng phun nóng của máy sắc ký, mẫu không ngay lập tức
bay hơi, vì không có mẫu trong kim. Nếu có mẫu trong kim, hầu hết các thành
phần dễ bay hơi sẽ bắt đầu bay hơi và sẽ bị cạn kiệt trước khi mẫu được tiêm.
Các bong bóng khí phía sau các nút mẫu ngăn mẫu và dung môi trộn lẫn. Các
nút dung môi rửa mẫu ra khỏi kim, và các nút khí tách hoàn toàn dung môi từ
kim. Bơm mẫu tự động có khả năng bơm mẫu theo kiểu "sandwich".

Kỹ thuật bơm mẫu “sandwich”


26
Lỗ chích cho chế độ bơm chia dòng vào cột mao quản. Lớp lót kính (glass liner)
theo thời gian dần bị ô nhiễm bởi quá trình không bay hơi và phân hủy mẫu phải
được thay thế định kỳ. Đối với chế độ bơm chia dòng, lớp lót kính là một ống thẳng
và không thông với buồng trộn. Đối với mẫu bị nhiễm bẩn, bơm chia dòng được sử
dụng và các vật liệu cột nhồi có thể được đặt bên trong lớp lót để hấp phụ các
thành phần không mong muốn của mẫu.
Nếu chất phân tích có hàm lượng >0,1%, bơm mẫu chia dòng thường được sử
dụng. Để kết quả phân tích có độ phân giải cao, kết quả tốt nhất thu được với
lượng mẫu nhỏ nhất (≤1µL) là đủ để phát hiện, tốt nhất là mỗi cấu tử ≤1ng. Đối với
các cột có đường kính 0,32 mm hoặc nhỏ hơn, lượng mẫu tiêm không được quá
27
lớn. Một tiêm chia mang chỉ 0,2-2% mẫu để các cột.
Mẫu được tiêm nhanh (<1s) thông qua các vách ngăn vào vùng bay hơi.
Nhiệt độ phun được giữ cao (ví dụ, 350°C) để thúc đẩy sự bốc hơi nhanh. Một
dòng chảy nhanh của khí mang quét mẫu qua buồng trộn, nơi bốc hơi hoàn
toàn và trộn rất tốt xảy ra.
Tại các điểm chia, một phần nhỏ của hơi đi vào cột sắc ký, hầu hết đi qua
van 2 để tới một lỗ thông hơi chất thải. Bộ điều chỉnh áp dẫn đến van 2 điều
khiển phần mẫu bị loại bỏ. Tỷ lệ mẫu không tới cột được gọi là tỉ lệ chia dòng
và nó thường dao động từ 50:1 đến 600: 1.
Sau khi mẫu đã được phun ửng từ cổng tiêm (~30s), van 2 được đóng lại và
dòng khí mang giảm tương ứng. Phân tích định lượng với bơm mẫu chia
dòng có thể không chính xác vì tỷ lệ chia là không lặp lại từ thí nghiệm này
sang thí nghiệm khác.
1µL mẫu lỏng khi tiêm tạo ra khoảng 0,5 mL thể tích khí, có thể lấp đầy lớp
lót thủy tinh. Một số hơi có thể thoát ngược trở lại về phía vách ngăn. Các cấu
tử có nhiệt độ sôi thấp hơn bay hơi trước và có nhiều khả năng thoát ra hơn
các cấu tử có nhiệt độ sôi cao hơn. Như vậy, nhiệt độ cổng tiêm phải đủ cao
để giảm thiểu phân đoạn này của mẫu. Tuy nhiên, nếu nhiệt độ phun là quá
cao, sự phân hủy có thể xảy ra.
Trong thời gian tiêm và sắc ký, vách ngăn lọc khí đi qua van 1 ở tốc độ
~1mL/phút để loại bỏ hơi mẫu dư thừa và khí đi từ vách vách ngăn cao su
nóng.
28
2. Bơm mẫu không chia dòng (splitless injection)
Đối với phân tích lượng vết, hàm lượng của mẫu <0,01% khối lượng của mẫu, kỹ
thuật bơm mẫu không chia dòng được sử dụng. Cổng tiêm được chỉ ra trên hình. Tuy
nhiên, lớp lót kính (glass liner) là thẳng, ống rỗng và không có buồng trộn. Một thể
tích lớn (~2µL) của dung dịch loãng trong dung môi có nhiệt độ sôi thấp được tiêm
chậm (~2s) vào trong lớp lót, khi đó vách chia thông hơi đóng. Tốc độ đi qua vách
ngăn lọc khí được duy trì chậm trong thời gian tiêm và sắc ký để loại bỏ bất kỳ hơi mà

thoát khỏi ống lót .

Các kỹ thuật bơm mẫu tiêu biểu: bơm mẫu chia dòng, không chia
dòng, trực tiếp vào cột vào cột mao quản 29
Nhiệt độ tiêm khi bơm mẫu không chia dòng thấp hơn (~220°C) so với bơm mẫu
chia dòng, do mẫu được lưu lâu hơn ở cổng và chúng ta không muốn nó bị phân
hủy. Thời gian lưu của các mẫu trong lớp lót kính ~1 phút, do khí mang đi qua
các lớp lót ở tốc độ đi vào cột, đó là 1mL/phút. Trong bơm mẫu không chia dòng,
~80% mẫu được đưa vào cột, chỉ có một phần nhỏ bị loại ra trong quá trình bơm
mẫu.

Nhiệt độ sấy ban đầu của cột được đặt là 40°C, thấp hơn nhiệt độ sôi của dung
môi, do vậy ngưng tụ ở đầu cột. Các chất tan bắt kịp với sự ngưng tụ dung môi,
chúng bị bẫy trong dung môi trong một biên độ hẹp ở đầu cột. Bẫy dung môi này
sẽ giúp các pic sắc ký sắc nét. Nếu không có bẫy dung môi, các pic là không thể
sắc nét hơn so với thời gian bơm mẫu 1 phút. Quá trình sắc ký được khởi xướng
bởi tăng nhiệt độ cột để làm bay hơi dung môi bị mắc kẹt ở đầu cột.

30
3. Bơm trực tiếp vào cột (on-column injection)
Ở kỹ thuật này, mẫu phải ở chế độ nhiệt độ thấp nhất có thể, và sự mất mát
của bất kỳ chất tan là rất nhỏ. Kim tiêm chuẩn phù hợp với đường kính
trong của cột 0,53 mm, tuy nhiên cột này không cho độ phân giải tốt. Đối
với các cột có đường kính 0,20- đến 0,32-mm, cung cấp độ phân giải tốt
hơn, ống tiêm đặc biệt với kim silic mỏng được yêu cầu.

Các kỹ thuật bơm mẫu tiêu biểu: bơm mẫu chia dòng, không chia
dòng, trực tiếp vào cột vào cột mao quản

31
Kỹ thuật bơm mẫu

32
Detectors
 TCD (Thermal Conductivity detector): an detect any compound but sensitivity is poor.
 FID (Flame Ionization detector): Is sensitive for compounds containing carbon. Sensitivity
is better than TCD. However, sensitivity is not as good as the detectors described below.
 FPD (Flame photometric detector) Capable of high sensitivity detection of compounds
containing sulfur (S) and phosphorous (P) or Halogens. Phosphorus emission is around 510-
536 nm and sulfur emission at 394nm. However, this detector has no sensitivity for
compounds not containing these elements.
 ECD (Electron capture detector) Capable of high sensitivity detection of electrophilic
compounds. Simply stated, electrophilic compounds contain halogen elements (CI, Br, F, I).
There may also be some sensitivity for compounds not containing halogen elements.
 AED (Atomic Emission Detector)
 MS (Mass spectroscopy )

 NPD (Nitrogen–phosphorus
detector) is measured a form of
thermionic detector where
nitrogen and phosphorus alter the
work function on a specially
coated bead and a resulting
33
current
Các đặc trưng chính của detector
• Độ nhạy: Là sự thay đổi của tín hiệu detector ứng với sự thay đổi của khối lượng hoặc nồng
độ khí ra. Như vậy độ nhạy chính là hệ số góc của đồ thị biểu diễn tín hiệu xuất ra của đầu dò
theo khối lượng hoặc thể tích khí phân tích.
• Dynamic range và Linear range
Dynamic range là khoảng mà trong giới hạn đó, detector vẫn còn cho tín hiệu thay đổi đáng
kể khi thay đổi khối lượng hoặc nồng độ của khí. Giới hạn phát hiện LOD chính là giới hạn
dưới của dynamic range. Trong dynamic range, người ta lưu ý đến linear range, đây là
khoảng mà trong đó tín hiệu xuất ra của đầu dò tỉ lệ thuận với khối lượng hoặc nồng độ khí
phân tích. Linear range phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ cột sắc ký, nhiệt độ detector và lưu
lượng dòng khí.
• Độ chọn lọc
Căn cứ theo độ chọn lọc, có thể chia detector trong GC thành hai loại: detector phổ biến
(universal) và detector chọn lọc (selective). Detector phổ biến có thể nhận biết được tất cả
các loại khí khác nhau thoát ra từ cột sắc ký, còn loại detector chọn lọc chỉ có thể cho phản
ứng với một loại nguyên tố cụ thể nào đó có trong mẫu phân tích (ví dụ N, P…).
Có thể ví dụ FID thường dùng để phân tích thành phần dầu lửa vì nó có thể cho tín hiệu các
hydrocacbon ở nồng độ rất thấp, do vậy FID là detector chọn lọc đối với các hydrocacbon.
Trong khi phân tích khí tự nhiên, nhiều khí (N2, CO…) không cho hoặc cho tín hiệu rất nhỏ khi
dùng FID. Trong trường hợp này TCD thích hợp hơn vì nó có thể cho tín hiệu với tất cả các
khí khác nhau. Do vậy TCD là một loại detector phổ biến. 34
1. Detector dẫn nhiệt (thermal conductivity detector, TCD)
Heli là khí mang thường được sử dụng với
một đầu dò dẫn nhiệt. Heli có độ dẫn nhiệt cao
thứ hai (sau H2), vì vậy bất kỳ chất phân tích
trộn lẫn với heli làm giảm độ dẫn nhiệt của các
dòng khí.

Các detector dẫn nhiệt là phổ biến nhất trong


sắc ký khí vì nó đơn giản. Nó có thể phản hồi
với tất cả các chất phân tích. Tuy nhiên, nhiệt
dẫn là không đủ nhạy để phát hiện lượng nhỏ
Độ dẫn nhiệt ở 273K và 1 at
chất phân tích rửa giải từ cột ống mao quản nhỏ
hơn 0,53 mm. Detector dẫn nhiệt vẫn còn sử
dụng cho cột mao quản có đường kính 0,53 mm
và cột nhồi (parked column).

35
Các chất rửa giải từ cột sắc ký đi qua
một dây tóc volfram-rheni nóng. Khi chất
phân tích đi qua cột, độ dẫn nhiệt của
dòng khí giảm, dây tóc trở nên nóng
hơn, điện trở của nó tăng lên, và điện áp
dọc theo dây tóc thay đổi. Detetor đo sự
thay đổi điện áp đó và hiện thị.
Bình thường, khí mang chia lam hai
dòng, một dòng đi qua cột phân tích,
dòng kia đi qua một cột so sánh để đối
chiếu. Mỗi dòng được đi qua một sợi
dây tóc khác nhau hoặc xen kẽ trên một
sợi đơn. Điện trở dây tóc của mẫu được
đo và đối chiếu điện trở của mẫu dây tóc
so sánh. Cột đối chiếu nhằm giảm sự
khác biệt dòng chảy khi nhiệt độ thay
đổi. Độ nhạy tăng lên theo bình phương
của dòng đi qua dây tóc. Detector dẫn nhiệt
Chú ý:
Dòng tối đa không được vượt cao quá, để tránh dây tóc bị nóng chảy. Dây tóc nên
được tắt khi khí mang không đi qua.
Độ nhạy của detector dẫn nhiệt là tỉ lệ nghịch với tốc độ dòng khi. Độ nhạy gia tăng
với sự gia tăng chênh lệch nhiệt độ giữa dây tóc và các khối xung quanh. Do đó, toàn
bộ khối do đó cần được duy trì ở mức nhiệt độ thấp nhất có thể nhưng vẫn cho phép
tất cả các chất vẫn ở trạng thái khí.
36
2. Detector ion hóa ngọn lửa (flame ionization detector, FID)
Các chất rửa giải từ cột được đốt trong hỗn hợp H2
và không khí. Các nguyên tử cacbon (trừ cacbon ở
nhóm cacbonyl và nhóm cacboxyl) tạo ra gốc CH, là
tiền đề để tạo ra ion CHO+ và các điện tử trong ngọn
lửa.
CH + O → CHO+ + e–
Chỉ có khoảng 1 trong 105 nguyên tử carbon sản xuất
một ion, nhưng ion sản xuất ra tỉ lệ với số nguyên tử
carbon vào trong ngọn lửa. Khi vắng mặt của chất
phân tích, dòng ~ 10–14A giữa đầu ngọn lửa (tip
flame) và bộ thu, được giữa tại +200 đến 300V đầu
ngọn lửa. Chất phân tích được rửa giải tạo ra dòng
~10–12A. Dòng này được chuyển đổi qua điện thế,
khuếch đại, lọc để loại bỏ các loại nhiễu chủ yếu, và
cuối cùng chuyển đổi thành tín hiệu kỹ thuật số. Detector ion hóa ngọn lửa
Sự phản hồi của các hợp chất hữu cơ là tỉ lệ thuận với khối lượng chất tan và khoảng tuyến tính
là 107. Giới hạn phát hiện là nhỏ hơn so với detector dẫn nhiệt ~100 lần và nó sẽ giảm đi 50% khi
sử dụng chất mang N2 thay vì He .
Với cột mao quản, N2 được thêm vào H2 hay He, rửa giải trước khi đi vào detector. Các detector
ion hóa ngọn lửa là đủ nhạy đối với các cột có đường kính nhỏ. Nó phản hồi hầu hết các
hydrocacbon và không nhạy với các chất khác như H2, He, N2, O2, CO, CO2, H2O, NH3, NO, H2S và
SìF4. 37
Độ nhạy và khoảng tuyến tính của các detetor trong sắc ký khí

38
3. Detector cộng kết điện tử (electron capture detector, ECD)

Hầu hết các detector khác như detector ion hóa ngọn lửa, detector dẫn
nhiệt phản hồi với các loại chất phân tích nhất định. Detector cộng kết
điện tử nhạy với các hợp chất chứa halogen, carbonyls liên hợp,
nitriles, các hợp chất nitro, và các hợp chất cơ kim nhưng chỉ tương
đối nhạy với hydrocarbon, rượu, và xeton.
Khí mang hay các khí đồng hành phải là N2 hoặc 5% metan trong Ar. Độ
ẩm làm giảm độ nhạy. Khí đi vào detector được ion hóa bởi các
electron năng lượng cao ("tia β"), được phát ra từ một lá chứa phóng
xạ 63Ni. Các electron được tạo thành, tấn công anot, tạo ra một dòng
nhỏ, ổn định. Khi chất phân tích với ái lực electron cao đi vào detector,
chúng sẽ cộng kết với một số electron. Các detector phản hồi theo sự
thay đổi tần số của xung điện áp giữa anode và cathode để duy trì một
dòng điện không đổi.

39
Các detector cộng kết điện tử là rất nhạy, giới hạn phát hiện của nó có thể so
sánh với detector khối phổ.
Ứng dụng mà detector này đã được sử dụng để xác định halogen ở áp suất
thấp.

Sắc ký đồ khi sử dụng detector cộng kết điện tử để xác định các hợp chất halogen
trong không khí. Mẫu được lấy bởi một máy bay ở độ cao 800 m tại một địa điểm 1400
km về phía nam của New Zealand vào năm 1995

40
Detector khối phổ (mass spectrometry, MS)

Đối với những người có thể đủ khả năng chi trả, khối phổ là detector
được lựa chọn trong sắc ký. Phổ khối lượng là rất nhạy và cung cấp cả
thông tin định tính và định lượng.

Phương pháp khối phổ (Mass Spectrometry-MS) là phương pháp nghiên


cứu các chất bằng cách đo, phân tích chính xác khối lượng phân tử của
chất đó dựa trên sự chuyển động của các ion nguyên tử hay ion phân tử
trong một điện trường hoặc từ trường nhất định. Tỉ số giữa khối lượng
và điện tích (m/z) có ảnh hưởng rất lớn đối với chuyển động này của ion.
Nếu biết được điện tích của ion thì ta dễ dàng xác định được khối lượng
của ion đó.

41
Detector khối phổ chế độ SIM (Selected Ion Monitoring)

Đối với chế độ SIM


(Selected Ion Monitoring),
chúng ta có thể dễ dàng
xác định một thành phần
trong một sắc ký đồ phức
tạp (khả năng tách các
hợp chất trong sắc ký đồ
là kém). Chế độ SIM làm
giảm giới hạn phát hiện
khoảng 102-103 lần so với
chế độ m/z, bởi vì thời
gian để thu thập các ion Sắc ký khí khối phổ với chế độ SIM; (a) Sắc ký
nổi bật trong SIM là nhiều đồ của ống xả xe ô tô chế độ ion hóa điện tử;
hơn. (b) Chế độ SIM tại m/z=78; (c) và (d): Phân tích
định lượng benzene sau khi thêm chất nội
chuẩn ion nổi bật m/z =69.

42
Detector khối phổ chế độ Scan

Khi thao tác với chế độ scan, detector sẽ nhận được tất cả các mảnh
ion để cho khối phổ toàn ion đối với tất cả các chất trong suốt quá
trình phân tích. Thường dùng để nhận danh hay phân tích khi chất
phân tích có nồng độ đủ lớn. Đối với đầu dò khối phổ ba tứ cực, chế
độ Scan thường được lựa chọn để khảo sát ion mẹ.

43
Detector khối phổ Chế độ SRM (Selected Reaction Monitoring)
và MRM (Multiple Reaction Monitoring)
Đối với khối phổ ba tứ cực, là máy đo khối phổ hai lần liên tiếp (MS-
MS), 2 kỹ thuật ghi phổ có độ nhạy cao thường được sử dụng là SRM
và MRM.
SRM: cô lập ion cần chọn, sau đó phân mảnh ion cô lập đó, trong các
mảnh ion sinh ra, cô lập 1 mảnh ion con cần quan tâm và đưa vào đầu
dò để phát hiện.

MRM: trên thực tế, do yêu cầu về mặt kỹ thuật đối với phân tích vi
lượng nên các ion con cần quan tâm thường từ 2 trở lên, do vậy kỹ
thuật ghi phổ MRM thông dụng hơn SRM. Đầu tiên, cô lập ion cần chọn
(ion mẹ) ở tứ cực thứ nhất, phân mảnh ion cô lập đó tại tứ cực thứ 2
(thực chất là buồng va chạm) thu được các ion con, cô lập 2 (hoặc
nhiều) ion con cần quan tâm ở tứ cực thứ 3 và đưa vào đầu dò để phát
hiện.

44
Thế nào là khối phổ?

Khối phổ là một kỹ thuật dùng để nghiên cứu khối lượng của
các nguyên tử, hay phân tử hay cảnh mảnh phân tử.

Để nhận được quang phổ khối lượng, các hạt ở pha khí được
tách ra từ các pha ngưng tụ và bị ion hóa. Các ion được gia tốc
bằng điện trường và sau đó tách ra theo tỉ lệ khối lượng trên
điện tích, m/z.

Nếu tất cả có điện tích +1, thì tỉ số m/z là bằng với khối lượng.
Nếu một ion có điện tích +2, thì tỉ số m/z là bằng ½ khối lượng.

45
Quang phổ khối lượng được
chỉ ra trong hình 1 hiển thị
sự phản hồi với tỉ số m/z,
cho thấy bốn đồng vị tự
nhiên của ion. Diện tích mỗi
pic là tỷ lệ thuận với số
lượng chất đồng vị của mỗi
nguyên tố tồn tại trong tự
nhiên (abundance).
Quang phổ khối lượng cho thấy các đồng
vị của Pb, tạp chất trong đồng thau

Abundance: Số lượng chất đồng vị của một nguyên tố tồn tại trong tự
nhiên, thường được biểu diễn như một tỷ lệ phần trăm của tổng lượng
các đồng vị của nguyên tố này.
ds 46
Khối lượng phân tử và khối lượng danh nghĩa

Khối lượng nguyên tử là khối lượng trung bình của các các đồng vị
của một nguyên tố.

Ví dụ: Br bao gồm 50,69% 79Br với khối lượng của 78,918 34 Da và 49,31%
81Br với khối lượng 80,916 29 Da.

Do đó, khối lượng nguyên tử của nó là:


(0,506 9) ×(78,918 34) + (0,493 1) × (80,916 29) = 79,904 Da

Đơn vị khối lượng nguyên tử là dalton,


Da, được định nghĩa là 1/12 khối lượng của 12C.

47
Khối lượng phân tử của một phân tử hay ion là tổng khối lượng
nguyên tử liệt kê trong bảng hệ thống tuần hoàn.

Ví dụ: Bromua etan C2H5Br có khối lượng phân tử là:


(2 × 12,010 7) + (5 × 1,007 94) + (1 × 79,904) = 108,965

Khối lượng danh nghĩa (nominal mass) của một phân tử hay ion là tổng
khối lượng nguyên của các hạt với các hạt có đồng vị phổ biến nhất.

Ví dụ: Cacbon, hydro, và brom có số đồng vị phổ biến nhất tương ứng với
12, 1 và 79, do vậy bromua etan C2H5Br có khối lượng phân tử là:
(2 × 12) + (5 × 1) + (1 × 79) = 108

48
Phần từ tính của thiết bị khối phổ với việc sử dụng từ trường để cho phép các
ion với tỷ lệ m/z nhất định vượt qua từ nguồn ion tới detector. Các phân tử khí
vào ở phía trên bên trái được chuyển đổi thành các ion (thường là ion có điện
tích dương), được tăng tốc bằng một điện trường, và bị đẩy vào ống phân tích,
nơi chúng gặp phải một từ trường vuông góc với hướng đi của nó.

49
Sơ đồ phần từ của thiết bị khối phổ
Ống phân tích được duy trì dưới độ chân không cao (~10–5 Pa) để các ion không
chệch hướng bởi va chạm với các phân tử khí xung quanh. Từ trường làm
chệch hướng tới detector của các ion ở phía cuối của ống (xem bảng 1). Các ion
nặng không đủ chệch hướng và những ion nhẹ bị lệch quá nhiều và không đến
được detetor. Quang phổ khối lượng thu được bằng cách thay đổi cường độ từ
trường.

Tại detector nhân điện tử, mỗi ion tới bắt đầu một chuỗi các điện tử, cũng giống
như một photon bắt đầu một chuỗi các electron trong một ống nhân quang. Một
loạt các điện cực thứ cấp (dynodes) nhân số lượng của các electron (~105 lần)
trước khi chúng đạt đến cực dương, nơi dòng được đo. Quang phổ khối lượng
cho detector đo dòng là một hàm của m/z với một từ trường chọn trước.

Quang phổ khối lượng làm việc tốt như nhau với các ion âm và dương bằng
cách đảo ngược điện áp nơi các ion được hình thành và phát hiện. Để phát hiện
các ion âm, một điện cực thứ cấp (dynode) chuyển đổi với một điện áp dương
thường được đặt trước detector. Khi oanh tạc bởi những ion âm, dynode này
giải phóng các ion dương được tăng tốc vào detector nhân điện tử, nhờ đó tín
hiệu được khuếch đại.
50
Câu hỏi ôn tập
Câu 1. Nêu cấu tạo và nguyên tắc của máy sắc ký khí, vai trò của từng
phần.
Câu 2. Nêu cấu tạo của cột mao quản, ảnh hưởng của chiều dài, đường
kính trong của cột và chiều dày pha tĩnh đến độ phân giải của cột mao
quản.
Câu 3. Cấu tạo của cột nhồi, nêu ưu điểm và nhược điểm so với cột mao
quản.
Câu 4. Nêu nguyên tắc lựa chọn pha tĩnh trong sắc ký khí.
Câu 5. Vai trò của detector, cấu tạo detector dẫn nhiệt (TCD)
Câu 6. Cấu tạo của detector ion hóa ngọn lửa (FID), nêu ưu điểm so với
detector dẫn nhiệt (TCD).
Câu 7. Kể tên các loại detector của sắc ký khí, nêu cấu tạo detector cộng
kết điện tử (ECD)

51

You might also like