You are on page 1of 42

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư phát triển Hướng dẫn phân tích

n phân tích chi phí – lợi ích cho


Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.7: Mục đích và khuôn khổ thẩm định đầu
tư kinh tế
Ch.8: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường không biến dạng

Chương 7

MỤC ĐÍCH VÀ KHUÔN KHỔ THẨM ĐỊNH


ĐẦU TƯ KINH TẾ

7.1 GIỚI THIỆU

Trong quá trình thẩm định tài chính của một dự án đầu tư tiềm năng, phân tích sẽ được thực
hiện theo quan điểm của một bộ phận dân cư của một quốc gia, như: một sở ngành, một doanh
nghiệp, một cá nhân hoặc bất cứ nhóm người nào khác. Tiền mặt hoặc các hình thức của cải khác
mà dự án tạo ra cho nhóm người cụ thể này được tính như là những lợi ích tài chính, trong khi các
khoản chi tiền mặt hoặc tổn thất của cải dưới những hình thức khác đối với nhóm này thì được tính
vào các chi phí tài chính. Sự khác biệt chủ yếu giữa thẩm định kinh tế và thẩm định tài chính là ở
chỗ thẩm định kinh tế gộp chung lợi ích và chi phí trên tất cả cư dân của quốc gia để xác định xem
dự án có cải thiện mức phúc lợi kinh tế của toàn bộ quốc gia hay không, trong khi thẩm định tài
chính xem xét dự án từ quan điểm phúc lợi của một bộ phận nhỏ dân cư.

Các nhà kế toán nhìn chung nhất trí về những nguyên tắc được sử dụng trong thẩm định tài
chính một dự án đầu tư tiềm năng và chỉ tương đối bất đồng về những vấn đề, chẳng hạn như liên
quan đến cách xử lý lạm phát. Các nhà phân tích tài chính cũng có sự nhất trí đáng kể về những điều
kiện cần thiết trong báo cáo ngân lưu và bảng cân đối tài sản để cho một dự án công có tính khả thi.
Tuy nhiên những nguyên tắc kế toán và tài chính này không phải là một hướng dẫn đầy đủ để thẩm
định khía cạnh kinh tế của một dự án.

Việc đo lường lợi ích và chi phí kinh tế được xây dựng trên những thông tin xuất phát từ
phần thẩm định tài chính, nhưng thêm vào đó những nguyên tắc kinh tế hình thành trong lĩnh vực
kinh tế học phúc lợi ứng dụng cũng được sử dụng rộng rãi. Để trở thành nhà phân tích kinh tế thành
thạo trong lĩnh vực chi tiêu công, cần phải thông thạo các nguyên tắc của kinh tế học phúc lợi ứng
dụng, cũng giống như nhà phân tích tài chính phải nắm vững các nguyên tắc kế toán.

Những nguyên lý căn bản của lý thuyết kinh tế về phương diện này sẽ được trình bày tương
đối chi tiết trong phụ lục 3. Mặc dù đã có sự thống nhất về cách thức ứng dụng những nguyên tắc
này trong thẩm định kinh tế các dự án, nhưng vẫn còn một số khía cạnh đang gây nhiều tranh cãi.
Cụ thể là cách giải thích thỏa đáng những tác động phân phối của một dự án trong thẩm định tổng
thể, vấn đề này vẫn tiếp tục gây nhiều tranh luận giữa các nhà kinh tế và là một đề tài đang được
nghiên cứu1.

1
Các cách tiếp cận khác nhau trong việc tính toán tác động phân phối của dự án được tóm lược trong bài viết của
Arnold C. Harberger, “Về việc sử dụng trọng số phân bổ trong phân tích chi phí- lợi ích xã hội”, Journal of Political
Economy 86, (4/1978), S87 – S120, và Arnold C. Harberger, Nhu cầu cơ bản so với trọng số phân bổ trong phân tích
chi phí- lợi ích xã hội, Đại học Chicago 1978.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 1 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Quý Tâm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư phát triển Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.7: Mục đích và khuôn khổ thẩm định đầu
tư kinh tế
Ch.8: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường không biến dạng

Những kỹ thuật thẩm định kinh tế, nội dung chủ yếu của các chương còn lại trong cuốn sách
này, được căn cứ vào ba định đề căn bản của kinh tế học phúc lợi ứng dụng. Đó là: (a) giá cầu cạnh
tranh của một đơn vị sản phẩm đo lường giá trị của đơn vị sản phẩm đó đối với người có nhu cầu
(nghĩa là mức sẵn lòng chi trả của anh ta); (b) giá cung cạnh tranh của một đơn vị sản phẩm hay
dịch vụ đo lường giá trị của đơn vị sản phẩm đó trên góc độ nhà cung ứng; (c) khi định giá lợi ích
hay chi phí ròng của một hoạt động nào đó (dự án, chương trình, hay chính sách), các chi phí và lợi
tức phát sinh cho mỗi thành viên trong nhóm liên quan (ví dụ, một quốc gia), nếu có thể được, thì
nên đo lường và nhận dạng gắn liền với người nhận, nhưng trong thẩm định kinh tế lợi ích và chi
phí thường được tổng gộp mà không để ý đến ai sẽ nhận chúng2.

Các định đề (a) và (b) được rút ra từ lý thuyết kinh tế chuẩn và cơ sở lý luận của chúng được
tóm tắt trong các phụ lục A và B. Mặt khác, định đề (c) có liên quan đến cách thức theo đó toàn bộ
những vấn đề phân phối và vấn đề chính trị quan trọng phải được xử lý trong phạm vi phân tích
kinh tế của dự án. Bằng cách tách những vấn đề này ra khỏi các cân nhắc về phân bổ nguồn lực
được xử lý trong phân tích kinh tế, chúng tôi không ngụ ý rằng những cân nhắc về phân phối là
không quan trọng hoặc rằng các nhà phân tích đầu tư không nên bày tỏ quan điểm liên quan đến
chúng. Trở ngại chính ở đây là sự yếu kém của phương pháp luận khi đưa các vấn đề phân phối như
vậy vào đánh giá kinh tế. Phương pháp luận vẫn còn trong giai đoạn đầu phát triển và, hơn nữa, các
vấn đề lớn cần được xử lý trong một phân tích như vậy đòi hỏi phải có những xét đoán giá trị vượt
ngoài tầm nhìn của các nhà kinh tế chuyên nghiệp.

Chúng tôi cũng không muốn ngụ ý rằng nên bỏ qua những tác động phân phối trong phân
tích kinh tế. Nhận ra một dự án sẽ ảnh hưởng như thế nào đến các nhóm khác nhau trong một xã hội
rõ ràng là một phần công việc của hoạt động thẩm định kinh tế chuyên nghiệp, mặc dù đấy là phần
việc cho đến nay chưa phát triển đầy đủ. Để giúp chúng ta giải quyết những vấn đề này, chương 14
đề cập đến một khuôn khổ dùng để nhận dạng và đo lường những tác động phân phối này và đưa ra
một số gợi ý về việc thông tin này có thể được đưa vào phần thẩm định kinh tế của một dự án như
thế nào.

7.2 CẦU CUNG VÀ CHI PHÍ CƠ HỘI

Trong quá trình phát triển những kỹ thuật thẩm định kinh tế dự án sử dụng các định đề (a),
(b) và (c) điều quan trọng là nhận biết mức độ tinh tế và phức tạp của các khái niệm về cung và cầu
liên quan. Khi đường cầu của người tiêu dùng chỉ ra số lượng tối đa mà anh ta sẵn lòng chi trả thì nó
cũng cho thấy thái độ trung dung của người tiêu dùng, nghĩa là việc có trong tay đơn vị sản phẩm đó
với mức giá đó hay dùng số tiền này để mua bất cứ hàng hóa và dịch vụ khác sẵn có với giá tương

Có thể tìm hiểu về những cách tiếp cận khác đối với thẩm định kinh tế dự án khu vực công trong:
I.M.D. Little và J.A. Mirrlees, Hoạch định và thẩm định dự án cho các nước đang phát triển, New York: Basic Books,
1974.
E.J. Mishan, Phân tích chi phí - lợi ích. New York: Praeger Publishers Inc., 1976.
Lyn Squire và Herman van der Tak, Phân tích kinh tế dự án. Baltimore và London: Johns Hopkins, 1975.
UNIDO, Hướng dẫn đánh giá dự án. New York: Liên Hợp Quốc, 1972.
2
Xem nội dung thảo luận những định đề này một cách đầy đủ về mặt lý thuyết trong: Arnold C. Harberger, “Ba định đề
cơ bản cho Kinh tế học phúc lợi ứng dụng: tiểu luận diễn giải”, Journal of Economic Literature 9 (9/1971): 785-797

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 2 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Quý Tâm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư phát triển Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.7: Mục đích và khuôn khổ thẩm định đầu
tư kinh tế
Ch.8: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường không biến dạng

đương, đều là như nhau. Tương tự, đường cung của một hoạt động phản ánh giá cả mà tại đó nhà
cung cấp món hàng xem việc bán một số đơn vị hàng ở địa điểm và thời gian nhất định với việc
dùng những sản phẩm và dịch vụ này hoặc các nhập lượng để sản xuất ra chúng vào mục đích khác
là không có gì khác biệt.

Hơn nữa, các phương án lựa chọn liên quan đến vấn đề này có thể rất phức tạp. Sự sẵn lòng
chi trả để mua một chiếc xe hơi mới có thể được quyết định bằng việc đánh đổi khả năng mua một
ngôi nhà mới hoặc cho con đi học đại học. Tất cả những lựa chọn này được phản ảnh trong giá cầu
hay mức sẵn lòng chi trả của một người để mua chiếc xe. Đối với một cá nhân, chi phí cơ hội của
các khoản chi tiêu bị hoãn lại hay từ bỏ để mua một món đồ nào đó được phản ánh bằng giá cầu
hoặc mức sẵn lòng chi trả của anh ta để mua sản phẩm đó.

Tương tự, những chọn lựa có vai trò quyết định giá cung của một đơn vị hàng hóa hay dịch
vụ cũng có thể rất phức tạp. Giá cung một lao động có tay nghề ở nông thôn sẽ phản ảnh loại công
việc và thu nhập mà anh ta sẽ từ bỏ để làm công việc này, tiện nghi sinh hoạt mất đi khi sống ở nông
thôn so với thành thị, điều kiện làm việc ở nông thôn và các lựa chọn khác, chi phí sinh hoạt thấp ở
vùng quê, chi phí đi lại tăng thêm để thăm viếng gia đình và bạn bè ở thành phố, chi phí vận chuyển
thấp hơn khi làm việc ở vùng nông thôn, và tất cả những nhân tố khác tác động đến quyết định của
một người về nơi sinh sống và làm việc. Đối với hàng công nghiệp, sự phức tạp của những mối
quan hệ đằng sau việc xác định giá cung của nó còn lớn hơn. Giá cung của xuất lượng không chỉ
phản ảnh giá cung hay phí cơ hội của tất cả các nhập lượng dùng để sản xuất ra sản phẩm đó, mà
còn phản ánh nơi chốn và cách thức hàng hóa được đưa đến điểm tiêu thụ.

Ngay cả những hàng hóa và dịch vụ hiện không được sử dụng vẫn có giá cung và phí cơ hội
dương. Những lao động thất nghiệp sẽ tìm được việc làm vào lúc nào đó trong tương lai. Có thể họ
sẽ định ra một giá trị cho thời gian nhàn rỗi của mình hay đòi hỏi sự bù đắp để di chuyển từ nơi họ
đang ở đến nơi có công ăn việc làm. Tất cả những nhân tố này sẽ được phản ảnh trong giá cung > 0
của lao động “thất nghiệp” này.

Trong một nền kinh tế không có thuế má, trợ cấp, ngoại tác hay những khiếm khuyết của thị
trường, giá cung và giá cầu của đơn vị sản phẩm cuối cùng được sản xuất ra và tiêu thụ trên thị
trường sẽ bằng nhau. Tuy nhiên, những yếu tố gây biến dạng thị trường như vậy luôn hiện hữu
trong mỗi nền kinh tế và phải được đưa vào quá trình thẩm định lợi ích và chi phí kinh tế của dự án.
May mắn là hầu hết nếu không nói là tất cả những yếu tố gây biến dạng này có thể được đưa vào
khuôn khổ nói trên một cách hệ thống, nơi có hàm số cầu của một sản phẩm phản ánh mức sẵn lòng
chi trả của người tiêu dùng và một hàm số cung được xác định bởi các chi phí cơ hội của việc cung
ứng sản phẩm đó.

Bằng cách hướng về thị trường sản phẩm hoặc dịch vụ để có những thông tin ban đầu cho
việc đo lường lợi ích và chi phí kinh tế, chúng ta chú trọng đến ước muốn của người tiêu dùng và
nhà sản xuất trong việc đo lường các giá trị xã hội và kinh tế hơn là chú trọng đến những công bố
thực của các ủy ban kế hoạch nhà nước. Cách tiếp cận này khác với cách tiếp cận của Little và
Mirrlees (1974) và Squire và Van Der Tak (1975). Những tác giả này đặt phương pháp luận của họ
trên giả thiết là chính sách thuế khóa và chi tiêu của chính phủ đã được tối ưu hóa về mặt xã hội

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 3 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Quý Tâm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư phát triển Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.7: Mục đích và khuôn khổ thẩm định đầu
tư kinh tế
Ch.8: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường không biến dạng

hoặc đang trong quá trình được tối ưu hóa. Trong các khuôn khổ thẩm định dự án của họ, chức
năng của phương pháp thẩm định là nhằm đảm bảo các dự án đầu tư được chọn lựa sao cho phản
ánh được các trọng số về xã hội và kinh tế vốn được cho là ngầm ẩn trong các chính sách này.

Quan điểm của chúng tôi là các chính sách chi tiêu và thuế khóa của hầu hết các chính phủ
chủ yếu là sản phẩm của nhu cầu thu chi ngân sách, của các nhóm có ảnh hưởng nhưng không có
tính đại diện và của các sự cố lịch sử. Do đó, chúng thường đưa đến những biến dạng trên thị
trường giữa chi phí kinh tế của sản xuất với giá trị kinh tế của sản lượng. Thêm nữa, chúng tôi giả
thiết là trong trường hợp không có bằng chứng ngược lại thì có thể những sự biến dạng này sẽ tồn
tại trong suốt tuổi thọ của dự án.

Phương cách này cho phép chúng ta phát triển những thành phần về tài chính, kinh tế và
phân phối (xã hội) của quá trình thẩm định một dự án một cách nhất quán, theo đó các đơn vị tính
toán ở mỗi giai đoạn đều có thể so sánh được. Những biến dạng làm cho giá trị kinh tế và tài chính
khác nhau được nhận dạng và đo lường trong phạm vi cung và cầu thị trường đối với sản phẩm đó.

Trong thẩm định khía cạnh phân phối, những lợi ích (hay tổn thất) về khoản thu nhập hay
tài sản do dự án mang lại cho các nhóm khác nhau trong xã hội đều được xác định. Các khoản lời
hoặc lỗ ròng này được trình bày theo cùng một đơn vị tính toán như các giá trị kinh tế và tài chính.
Việc đo lường chúng cũng được thực hiện trong cùng một khuôn khổ cung và cầu đối với thị
trường liên quan chứa đựng các nhập lượng và xuất lượng của dự án. Như vậy, về nguyên tắc người
ta có khả năng thực hiện kiểm toán giá trị của các biến số trong phân tích kinh tế để đảm bảo rằng
chúng nhất quán với phần thẩm định tài chính. Tương tự như vậy, phần thẩm định phân phối có thể
được kiểm tra chéo để khẳng định nó nhất quán với các phần thẩm định kinh tế và tài chính.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 4 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Quý Tâm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư phát triển Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.7: Mục đích và khuôn khổ thẩm định đầu
tư kinh tế
Ch.8: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường không biến dạng

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. E.J. Mishan, Phân tích chi phí lợi ích, New York: Praeger Publishers Inc., 1976.

2. Arnold C. Harberger, “Về việc sử dụng trọng số phân bổ trong phân tích chi phí- lợi ích xã
hội”, Journal of Political Economy 86, S87 – S120 (4/1978).

3. Arnold C. Harberger, Nhu cầu cơ bản so với trọng số phân bổ trong phân tích chi phí- lợi ích xã
hội, Đại học Chicago 1978.

4. Arnold C. Harberger, “Ba định đề cơ bản cho Kinh tế học phúc lợi ứng dụng: tiểu luận diễn
giải”, Journal of Economic Literature 9 (9/1971): 785-797

5. I.M.D. Little và J.A. Mirrlees, Hoạch định và thẩm định dự án cho các nước đang phát triển,
New York: Basic Books, 1974.

6. Lyn Squire và Herman van der Tak, Phân tích kinh tế dự án. Baltimore và London: Johns
Hopkins, 1975.

7. UNIDO, Hướng dẫn đánh giá dự án. New York: Liên Hợp Quốc, 1972.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 5 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Quý Tâm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư phát triển Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.7: Mục đích và khuôn khổ thẩm định đầu
tư kinh tế
Ch.8: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường không biến dạng

Chương 8

XÁC ĐỊNH LỢI ÍCH VÀ CHI PHÍ TRONG


THỊ TRƯỜNG KHÔNG BIẾN DẠNG

8.1. GIỚI THIỆU

Trước khi cân nhắc việc phân tích chi phí và lợi ích kinh tế của các hạng mục mà thị trường
của chúng có nhiều khiếm khuyết, chúng ta muốn xem xét cách thức đánh giá những biến số này
trong một nền kinh tế không biến dạng. Việc đo lường lợi ích và chi phí trong trường hợp này giúp
cho chúng ta loại bớt một số vấn đề liên quan tới ảnh hưởng cân bằng tổng quát của một sự thay đổi
về cung và cầu của một thị trường đối với các thị trường hàng hóa và dịch vụ khác trong nền kinh
tế. Miễn là không có biến dạng nào trong các thị trường này thì bất cứ mọi thay đổi tiếp theo trong
sản xuất hay nhu cầu phát sinh trong các thị trường đó sẽ không thay đổi việc đánh giá lợi ích hay
chi phí của hạng mục đang được xem xét.

Trong chương này, trước hết chúng ta xem xét việc tính toán tổng lợi ích do thành quả của
dự án tạo ra. Tiếp theo phần thảo luận này chúng ta sẽ xét đến việc đo lường những chi phí của
nhập lượng sử dụng trong dự án.

8.2 TỔNG LỢI ÍCH KINH TẾ DO SẢN PHẨM GIA TĂNG

Chúng ta hãy xem xét một thị trường trong đó có nhu cầu hiện hữu về một loại dịch vụ và
có một nguồn cung tư nhân, và thị trường không có những biến dạng. Để cho việc thảo luận thêm
phần thực tế, chúng ta sẽ xem xét thị trường phòng khách sạn tại một khu nghỉ mát ở bờ biển. Giá
tiền phòng mà người ta sẳn sàng trả được đo lường bằng đường cầu AD0 trong Hình 8-1. Chi phí
cơ hội biên khi cung cấp thêm phòng ở các khách sạn tư nhân được biểu hiện bằng đường cầu BS0
của phòng khách sạn. Cả số lượng cung và số lượng cầu được tính theo đơn vị đêm sử dụng
khách sạn mỗi năm.

Nếu mức cung và mức cầu của phòng khách sạn được để cho thị trường tự do tự xác định
bằng số lượng và giá cả bình quân của chúng, thì số lượng cung và cầu sẽ là 30 ngàn đêm sử dụng
phòng mỗi năm với giá $20 mỗi đêm. Với số lượng đêm sử dụng phòng như vậy người tiêu thụ sẳn
lòng trả một số tiền bằng diện tích ở dưới đường cầu OACQ0 ($750.000 mỗi năm). Tuy nhiên, để
mua số lượng này, họ thực sự chỉ phải trả $20 mỗõi đêm với tổng số tiền bằng diện tích OP0CQ0

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 6 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Quý Tâm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư phát triển Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.7: Mục đích và khuôn khổ thẩm định đầu
tư kinh tế
Ch.8: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường không biến dạng

($600.000). Giá trị thặng dư của tiêu thụ mà những người sử dụng phòng khách sạn ở bãi biển
được hưởng, được thể hiện bởi diện tích P0AC ($150.000).

Mặt khác, tổng chi phí tài nguyên để cung cấp những phòng khách sạn này mỗi năm được
cho bởi diện tích OBCQ0 ($360.000). Ở mức biên, chi phí cung cấp một phòng khách sạn là
$20,00. Đây là giá cung tư nhân cho mỗi đơn vị biên. Trong thị trường không biến dạng này, đó
cũng là giá cầu cho đơn vị cuối cùng. Những nhà cung cấp tư nhân sẽ nhận $600.000 trong doanh
thu từ những người tiêu thụ mỗi năm như thể hiện bởi diện tích OP0CQ0. Sự khác biệt giữa tổng
chi phí cung cấp và tổng doanh thu là lợi tức kinh tế (economic rent)3 hay giá trị thặng dư của sản
xuất mà nhà sản xuất hay chủ của khách sạn được hưởng như thể hiện bởi diện tích BP0C với giá trị
hàng năm là $240.000.

Hình 8-1: Đo lường lợi ích của người tiêu dùng và chi phí tài nguyên của phòng khách sạn

Giá phòng/đêm

Số phòng – đêm được cầu hoặc cung


trong 1 năm (đơn vị: ngàn)

3
Còn được dịch là "đặc lợi kinh tế". Khái niệm này có một số định nghĩa áp dụng cho những bối cảnh khác nhau. Một
trong các định nghĩa đó là: Lợi tức kinh tế là khoản chênh lệch giữa thu nhập thực tế từ một yếu tố hay nhập lượng sản
xuất và chi phí cơ hội của nó. Chẳng hạn giá một mặt hàng A trong điều kiện thị trường không bị biến dạng là $5, nhưng
do hàng hóa khan hiếm, nhà sản xuất bán mặt hàng này với giá $5,5. Như vậy anh ta đã thu được 1 khoản lợi tức kinh
tế là $0,5 trên 1 đơn vị mặt hàng A (người hiệu đính).

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 7 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Quý Tâm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư phát triển Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.7: Mục đích và khuôn khổ thẩm định đầu
tư kinh tế
Ch.8: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường không biến dạng

Tóm lại, tổng lợi ích kinh tế do có khách sạn ở bãi biển để cung cấp 30.000 đêm sử dụng phòng
mỗi năm được đo bằng diện tích dưới đường cầu hay đường giá mà người tiêu thụ sẳn sàng trả
OP0CQ0 ($750.000). Tổng chi phí kinh tế được đo bằng diện tích dưới đường cung OBCQ0
($360.000). Lợi ích kinh tế ròng được đo bằng sự khác biệt giữa hai số tiền này là ABC ($390.000)
được chia ra thành thặng dư nhận bởi người tiêu thụ P0AC ($150.000) và lợi tức kinh tế do chủ
khách sạn và chủ của các yếu tố nhập lượng khác nhận được BP0C ($240.000).

Bây giờ chúng ta hãy xem xét một dự án của chính quyền nhằm phát triển qui mô khách sạn
ở khu bãi biển này thêm 10.000 đêm sử dụng phòng mỗi năm. Việc này có thể xem như một sự
dịch chuyển song song về phía phải của đường tổng cung phòng khách sạn đến đường DSt như
trong Hình 8-2. Điều quan trọng cần lưu ý rằng đường cung tư nhân vẫn ở BS0 và tiếp tục đo lường
chi phí tài nguyên kinh tế để sản xuất khách sạn trong khu vực tư nhân.

Dự án của chính quyền làm tăng đường cung tư nhân ở mọi mức vì chúng ta giả thiết rằng một khi
khách sạn chính quyền được xây xong, nó sẽ cung cấp một số lượng phòng như nhau với giá thị
trường, bất kể mức giá này là bao nhiêu.

Ở giá P0 ($20), chỉ Q0 (30.000) đêm phòng được sử dụng trong khi tổng cộng có Q1
(40.000) đêm phòng được cung cấp. Trong tình trạng đó, mỗi nhà điều hành khách sạn sẽ bị thúc
đẩy phải hạ giá nhằm có thêm người thuê mướn phòng. Giá quân bình cuối cùng sẽ là P 1 với số
lượng cung và cầu là Q2.

Với giá này các khách sạn tư nhân sẽ không muốn cung cấp nhiều phòng như trước kia. Số
lượng tối đa mà họ sẽ cung cấp được cho bởi giao điểm của đường cung BSo và đường giá ở mức
P1. Đó là số lượng Q3. Mặt khác, nhu cầu sử dụng phòng khách sạn sẽ tăng lên khi giá giảm. Số
lượng phòng mới có nhu cầu sử dụng sẽ được xác định bởi giao điểm của đường giá ở mức P1 với
đường cầu tại điểm F. Như vậy, số lượng phòng mới có nhu cầu sẽ tăng từ Q0 đến Q2.

Tổng lợi ích của dự án khách sạn nhà nước này gồm hai phần: (a) giá trị của những tài
nguyên nay được tiết kiệm do số phòng mà khu vực tư nhân cung cấp đã giảm bớt và ; (b) giá trị
người tiêu dùng được hưởng do số phòng khách sạn tăng thêm. Giá trị của tài nguyên tiết kiệm
được do hoạt động của khu vực tư nhân sút giảm được đo bằng diện tích Q3GCQ0 dưới đường cung
BS0, trong khi giá trị tiêu thụ tăng thêm được đo bằng số tiền mà người tiêu thụ sẳn sàng chi trả,
được biểu diễn bằng diện tích Q0CFQ2 dưới đường cung AD0.

Vì có dự án của nhà nước làm tăng mức cung và làm giảm giá thị trường, sự chuyển đổi thu
nhập sẽ xảy ra giữa chủ các khách sạn tư nhân và người tiêu thụ. Trước khi có dự án này, các nhà
cung cấp tư nhân có tổng thu nhập là PoQo, nhưng sau khi dự án của nhà nước bắt đầu hoạt động,
thu nhập của họ sẽ giảm xuống còn P1Q3. Sự khác biệt giữa hai lượng thu nhập này thì bằng với giá
trị của tài nguyên tiết kiệm được do sản xuất giảm, được thể hiện bằng diện tích Q3GCQo, cộng với
phần mất của giá trị thặng dư của nhà sản xuất được biểu hiện bằng diện tích PoCGP1. Giá trị thặng
dư này tuy là giảm mất đối với nhà sản xuất nhưng đồng thời đó là gia tăng giá trị thặng dư của
người sử dụng dịch vụ khách sạn.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 8 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Quý Tâm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư phát triển Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.7: Mục đích và khuôn khổ thẩm định đầu
tư kinh tế
Ch.8: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường không biến dạng

Hình 2: Cầu và cung phòng khách sạn sau khi có dự án của chính quyền

Giá phòng/đêm

Số phòng – đêm được cầu hoặc cung trong 1 năm


(đơn vị: ngàn)

Vì mục đích phân tích kinh tế, sự chuyển giao thu nhập giữa người sản xuất và người tiêu
dùng không được tính đến như chi phí hay lợi ích kinh tế, bởi lẽ đó không phải là sự gia tăng hay
giảm sút về xuất lượng và nhập lượng trong sản xuất của cả nước. Việc này trái ngược với phân tích
phân phối (xã hội) khi mà những chuyển giao thu nhập này là những yếu tố then chốt trong việc
thẩm định nhóm người nào được tăng thêm hay bị giảm thu nhập do kết quả của dự án.

Để lượng hóa giá trị của những chuyển giao thu nhập này và những lợi ích tổng cộng do dự
án tạo ra, chúng ta cần tính toán giá trị của P1, Q2 và Q3. Để làm việc này trước hết ta xem xét sự
liên hệ của cung và cầu với dự án nếu giá thị trường được duy trì ở P0.

Với mức giá này, số lượng cung (Q1) lớn hơn số lượng cầu (Qo). Để có được sự cân bằng,
cần phải có một sự thay đổi về mức giá (P), và điều đó sẽ làm cho lượng cầu (Qd ) và lượng cung
(Qs) dịch chuyển nhằm làm giảm tình trạng thặng dư về cung này xuống số không. Do đó, ta có
phương trình sau đây thể hiện quan hệ giữa thặng dư về cung và giá của dịch vụ:

(8-1) Q = P(Qd/P - Qs/P)

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 9 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Quý Tâm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư phát triển Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.7: Mục đích và khuôn khổ thẩm định đầu
tư kinh tế
Ch.8: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường không biến dạng

Ở đây Q là số lượng ban đầu của thặng dư về cung (Q1- Qo)

Từ dữ kiện cung cấp trong Hình 8-1 ta đã biết rằng nếu đường cầu là đường thẳng và độ
dốc được cho là P/Qs = -1/3. Tương tự như thế, độ dốc của đường cung được cho là P/Qs =
8/15. Thay thế trị số của Q=10; Qd/P= -3; Qs/P = 15/8 vào phương trình (8-1), chúng ta có
P= -(80/39). Do đó P1=18.

Sử dụng kết quả này bây giờ ta có thể giải để tìm những thay đổi về số lượng cầu và cung
như sau:

(8-2) Qd = (Qd/P)( P)


= 6,15
và Qs = (Qs/P)( P)
= -3,85

Số lượng phòng cung cấp bởi khu vực tư nhân sau khi dự án được thực hiện (Q3) được tính
bằng (Q0 + Qs) mà trong trường hợp này nó bằng 26,15 ngàn đêm sử dụng phòng được cung cấp
mỗi năm. Tương tự như thế, số đêm sử dụng phòng cần đến khi giá là P1 được tính bằng Q2 = (Q0
+ Qd) và bằng 36,15 ngàn đêm sử dụng phòng mỗi năm.

Sử dụng những trị số này, giá trị những tài nguyên không sử dụng do giảm mức cung tư
nhân (Q3GCQ0 trong hình 8-2) là bằng $73.150 mỗi năm; giá trị của số lượng tiêu thụ gia tăng
(Q0CFQ2) là $116.850 mỗi năm; và giá trị của thặng dư giá trị của người sản xuất chuyển giao cho
người tiêu thụ (P0CGP1) là $56.150.4 Do đó, giá trị của tổng lợi ích sinh ra do khách sạn nhà nước
cung cấp 10.000 đêm sử dụng phòng là ($73.150 + $116.850) = $190.000 mỗi năm hay $19 mỗi
đêm sử dụng phòng.
Việc thẩm định dự án từ quan điểm tài chính tư nhân sẽ không có báo cáo tổng doanh thu
$190.000 của dự án vì dự án sẽ chỉ đạt được giá bán P1 hay $18 mỗi đơn vị, tức là tổng doanh số
$180.000. Sự khác biệt $10.000 giữa giá trị chúng ta tính về tổng lợi ích $190.000 và tổng doanh
thu $180.000 là giá trị của phần gia tăng thặng dư giá trị mà người sử dụng phòng khách sạn bãi
biển nhận được mà không bị đánh đổi bằng sự thiệt thòi của một người nào khác trong xã hội. Từ
Hình 8-2 ta thấy rằng khi giá phòng khách sạn giảm từ $20 xuống $18 mỗi đêm thì người sử dụng
nhận được gia tăng giá trị thặng dư của người tiêu thụ bằng $66.150 tức là diện tích P0CFP1. Tuy
nhiên, vì một phần của diện tích này là P0GC1 ($56.150) trước đây là một phần của thu nhập mà các
chủ khách sạn tư nhân nhận được, nó không thể được tính trong tổng lợi ích do dự án của nhà nước
tạo ra. Chỉ có hiệu gia tăng $10.000 về giá trị thặng dư của người tiêu thụ như thể hiện bằng diện
tích GCF là có thể được cộng vào doanh thu $180.000 để cho ta tổng lợi ích $190.000 mỗi năm của
dự án.

4
Giá trị của tài nguyên được giải phóng được ước tính bằng (Q0 – Q3)(P0 + P1)/2 = $73.150; giá trị tiêu thụ tăng thêm
được ước tính bằng (Q2 – Q0)(P0 + P1)/2 = $116,85; và giá trị chuyển giao về thặng dư của nhà sản xuất được ước tính
là (P1 – P0)(Q0 + Q3)/2 = $56.150

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 1 Biên dịch: Kim Chi


0 Hiệu đính: Quý Tâm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư phát triển Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.7: Mục đích và khuôn khổ thẩm định đầu
tư kinh tế
Ch.8: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường không biến dạng

Có thể suy ra một biểu thức đại số khái quát hơn để ước tính tổng lợi ích trên mỗi đơn vị bán
ra (tiêu thụ). Biểu thức này sử dụng các hệ số co dãn của cầu và cung tư nhân trong thị trường hàng
hóa. Trong Hình 8-2 đoạn (Q3 - Q0) là sự thay đổi về số lượng cung (Qs ); (Q2 - Q0) là sự thay đổi
về số lượng cầu (Qd ); và giá cầu (Pd) và giá cung (Ps) là đều bằng (P0 + P1)/ 2. Do đó, tổng lợi ích
(B) của dự án có thể được biểu diễn như sau:

(8-3) B = - QsPs + QdPd

Từ Hình 8-2 ta thấy rằng sự thay đổi (âm) của mức cung tư nhân, (Q3 - Q0) hay - Qs, cộng
với sự thay đổi của mức cầu của người tiêu thụ (Q2 - Q0) bằng tổng xuất lượng của dự án (Q2 - Q3)
hay Qd. Do đó, tổng lợi ích của dự án có thể được diễn tả trên cơ sở mỗi đơn vị xuất lượng như
sau:

ΔQsPs  QdPd
(8-4) B/ ñôn vò 
 Qd  ΔQd

Vì mức cung tư nhân giảm khi dự án của nhà nước được mở rộng, Qs là một trị số âm.
Thay đổi của mức cầu là một trị số dương Qd. Nếu ta nhân vế bên phải của phương trình (8-4) với
-1/-1, thay đổi của mức cung nay được qui định là dương và thay đổi của mức cầu được qui định là
âm. Bây giờ, để có một biểu thức mà ta có thể diễn tả với dạng của hệ số co dãn, ta chia tất cả các số
hạng của tử số và mẫu số của vế bên phải của phương trình (8-4) cho P và Qs, nhân tất cả các số
hạng của tử số và mẫu số với P, và nhân số hạng cuối cùng của tử số và mẫu số với Qd/Qd, ta có:

(8-5) 

(Qs / P)(P / Qs )Ps  (Qd / P)(P / Qd )(Qd / Qs )Pd
B / ñôn vò 
(Qs / P)(P / Qs )  (Qd / P)(P / Qd )(Qd / Qs )

Khi diễn tả với dạng hệ số co dãn ta có 

B / ñôn vò  Eip Pi  N ip (Qi / Q i )P i


s d s d
(8-6)
Eip  Nip (Qdi / Qsi )

Trong đó Q silà số lượng cung của tất cả các nhà cung cấp khác không kể của nhà nước và
Qdilà tổng số lượng cầu của thị trường.

Trong thí dụ trên về phòng khách sạn bãi biển, hệ số co dãn của cung ở mức giá $20 là 1,25
và hệ số co dãn của cầu ở mức giá $20 là - 2. Khi không có biến dạng nào hay không có những dự
án khác của nhà nước cung cấp phòng khách sạn bãi biển, Q s = Q d và giá cầu trung bình Pd bằng
i i

giá cung trung bình Ps, mà cả hai đều bằng $19. Thay thế những giá trị trên vào phương trình (8-6)
ta có thể tính được tổng lợi ích trên mỗi đơn vị dự án như sau:

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 1 Biên dịch: Kim Chi


1 Hiệu đính: Quý Tâm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư phát triển Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.7: Mục đích và khuôn khổ thẩm định đầu
tư kinh tế
Ch.8: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường không biến dạng

1,25(19)  (2)(1)(19)
B / ñônvò 
1,25  (2)(1)
1,25 2
 (19)  (19)
3,25 3,25
 $19

Điểm trọng tâm của phần thảo luận trước là, một dự án của nhà nước sản xuất một hàng hóa
hay dịch vụ thường sẽ làm tăng mức tiêu thụ hàng hóa nhờ những người tiêu dùng mà đáng lẽ họ
không mua hàng hóa đó nếu không có dự án, và dự án này cũng sẽ chiếm chỗ một phần mức cung
mà lẽ ra sẽ đến từ các nhà cung cấp khác. Do đó, tổng giá trị của tổng lợi ích trên mỗi đơn vị sản
phẩm của dự án nhà nước có thể tính bằng số bình quân gia quyền (weighted average) của giá cầu
(giá mà người tiêu thụ sẳn sàng lòng chi trả cho các đơn vị hàng hóa hay dịch vụ tăng thêm) và giá
cung (chi phí biên của các nguồn cung khác). Trọng số (weight) áp dụng cho giá cầu là sự gia tăng
của tổng mức tiêu thụ hàng hóa do dự án sản xuất ra và được biểu diễn bằng tỷ lệ (Wd) của doanh số
của dự án. Tương tự như thế, trọng số áp dụng cho giá cung là sự giảm sút các nguồn cung khác,
được biểu diễn bằng tỷ lệ (Ws) của doanh số của dự án. Các trọng số này cộng lại phải bằng 1. Do
đó, phương trình (8-6) có thể viết lại dưới dạng đơn giản như sau:

(8-7) B/ đơn vị = WsPs + WdPd

Trong đó, nếu không có hạn chế về số lượng cung và cầu của mặt hàng thì:

Ws = Eip/[Eip - Nip (Qd /Qs )] và Wd =Nip (Qd /Qs )/ [Eip - Nip(Qd /Qs )]
i i i i i i

Phương trình (8-7) là công thức căn bản để tính giá trị lợi ích kinh tế. Sau này ta sẽ thấy rằng
một phương trình có dạng tương tự được dùng để tính chi phí của nhập lượng. Từ phương trình
(8-7) ta thấy rằng nếu hệ số co dãn của cung của các nhà sản xuất khác ( Eip) tương đối lớn so với hệ
số co dãn của cầu (Nip), trọng số (Ws) của giá cung sẽ lớn hơn trọng số (Wd) của giá cầu. Trong
trường hợp cực đoan của một mặt hàng thay thế nhập khẩu, Ws xấp xỉ bằng 1 và Wd gần bằng 0. Sự
đáp ứng về nguồn cung nước ngoài của hàng nhập khẩu sẽ thỏa mãn bất cứ sự mở rộng hay thu hẹp
nào về sản xuất trong nước. Trong trường hợp như thế yếu tố xác định quan trọng của giá trị sản
lượng của dự án là giá cung (Ps) của hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu.

Trường hợp cực đoan khác xảy ra khi mức cung được giữ không đổi trong một thời gian,
tức là Eip = 0. Tình trạng này thường sẽ xảy ra trong lãnh vực sản xuất điện năng. Với khả năng phát
điện hiện hữu gần như không đổi, sự đáp ứng mức cung của các nhà máy hiện hữu sẽ rất nhỏ, nhất
là nếu hệ thống hiện hữu chỉ gồm có các nhà máy thủy điện và điện nguyên tử. Do đó, trong việc
thẩm định các lợi ích của một nhà máy phát điện sẽ được xây dựng thêm, trọng số (W s) của giá
cung sẽ nhỏ so với trọng số (Wd) áp dụng vào giá cầu của người tiêu thụ đối với phần điện năng
tăng thêm.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 1 Biên dịch: Kim Chi


2 Hiệu đính: Quý Tâm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư phát triển Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.7: Mục đích và khuôn khổ thẩm định đầu
tư kinh tế
Ch.8: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường không biến dạng

Nơi nào không có những biến dạng trên thị trường đối với một sản phẩm hay dịch vụ thì giá
cung (Ps ) bằng với giá cầu (Pd ). Vì thế, bất cứ một tập hợp trọng số Ws và Wd nào có tổng bằng 1
sẽ cho chúng ta kết quả là các lợi ích trên mỗi đơn vị sản lượng của dự án bằng với giá thị trường
của sản phẩm đó cộng với bất cứ sự thay đổi nào về thặng dư của người tiêu dùng mà không phải
đánh đổi bởi sự mất mát của người nào khác. Trong bất cứ một nền kinh tế nào hiện nay, một
trường hợp như vậy sẽ hiếm khi xảy ra. Thường có rất nhiều loại thuế, thuế quan, trợï cấp và các
hình thức kiểm soát, chúng tạo ra những khoảng cách giữa giá cung (Ps), hay phí tổn tài nguyên để
sản xuất ra hàng hóa, và giá cầu (Pd) mà người tiêu dùng sẵn lòng chi trả.

8.3 CHI PHÍ KINH TẾ CỦA CÁC NHẬP LƯỢNG

Trước khi phân tích ảnh hưởng của những biến dạng thị trường đối với giá cung và cầu của
hàng hóa, chúng ta sẽ minh họa làm thế nào để xác định chi phí kinh tế của một nhập lượng của dự
án trong nền kinh tế không có biến dạng.

Giả sử có một dự án xây dựng một con đường chính mới ở đô thị, cần có một số lượng xi
măng. Thị trường xi măng hiện hành trong khu vực được mô tả bởi các đường cung và đường cầu
trong Hình 8-3 với PM = 70, Ps = 10 và với những điều kiện thị trường như là giá cả và số lượng
quân bình là $50/tấn, và 100.000 tấn xi măng cần có và được cung ứng hàng tháng. Trong tình
huống ban đầu này, đường cầu BDo đo lường mức sẵn lòng chi trả tiền xi măng của người tiêu dùng
hiện tại và người tiêu dùng tiềm năng. Đường cung ASo đo lường chi phí biên của việc cung ứng
những đơn vị sản lượng khác nhau. Trong suốt những giai đoạn cuối cùng của việc xây dựng, giả
sử dự án sẽ cần 60.000 tấn xi măng mỗi tháng. Điều này được cho thấy qua việc dịch chuyển về
phía bên phải của tổng cầu về xi măng từ BDo đến CD1. Bây giờ sẽ có sự vượt cầu về xi măng trong
nền kinh tế làm cho giá cả xi măng tăng lên. Vì giá cả tăng từ tăng từ Po lên P1 nên những người có
nhu cầu về xi măng trước đây sẽ hoãn lại việc mua của họ và cùng lúc đó một động lực được tạo ra
để các nhà cung ứng gia tăng sản lượng. Ở Hình 8-3 chúng ta thấy rằng (Qd/P = -5.000) và
(Qs/P = 2500). Vì có sự vượt cầu (Q3 - Qo) là 60.000, sự thay đổi về giá (P) cần phải có để tạo
sự cân bằng trên thị trường được ước tính bằng phương trình (8-1).

(8-8) P = (Q3 - Qo)/(Qs/P - Qd/P)

Thay thế các giá trị cho (Q3 - Qo), (Qs/P) và (Qd/p) trong phương trình (8-8) ta có:

(8-9) P = 60.000 / (2500 + 5000)


P = +8

Giá cân bằng mới sẽ là $58/tấn. Ở giá này mức nhu cầu mới của những người sử dụng trước
đây (Q2) sẽ là 60.000 tấn/ngày và mức cung mới (Q1) sẽ là 120.000 tấn/ngày5. Sự khác biệt giữa
tổng cung 120.000 tấn và nhu cầu của những người sử dụng khác của 60.000 tấn do dự án mua,
biểu hiện bởi Q1 - Q2 trong Hình (8-3).
5
Q2 = ((Q0 + (Qd/P)P)) = (100.000 – 5000(8))=60.000
Q1 = ((Q0 + (Qs/P)P)) = (100.000 + 2.500(8)) = 120.000

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 1 Biên dịch: Kim Chi


3 Hiệu đính: Quý Tâm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư phát triển Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.7: Mục đích và khuôn khổ thẩm định đầu
tư kinh tế
Ch.8: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường không biến dạng

Sự đo lường các chi phí kinh tế của nhập lượng này đòi hỏi phải xác định: (a) chi phí tài
nguyên kinh tế của số cung tăng thêm do sự kích thích của việc tăng giá và, (b) giá trị mà những
người tiêu thụ trước đây định mua xi măng nhưng giờ đây không mua nữa. Những đại lượng này
được đo lường bởi diện tích nằm dưới đường cung và cầu tương ứng với những thay đổi về số đơn
vị cung và cầu. Tổng chi phí kinh tế (C) có thể được tính như sau:

(8-10) C = (Q1 - Q0) [(P0 + P1)/ 2] + (Q0 - Q2)[(P0 + P1)/ 2]

Hình 8-3: Đo lường chi phí kinh tế của một nhập lượng: Trường hợp xi-măng

Giá/tấn

Lượng xi-măng được cầu hoặc cung trong 1 tháng (ngàn tấn)

Thay thế giá trị cho những thông số trong phương trình (8-10), ta có:

(8-11) C = (120.000 - 100.000) [(50 + 58) / 2]


+ (100.000 - 60.000) [(50 + 58) / 2]

C = 20.000 (54) + 40.000 (54)

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 1 Biên dịch: Kim Chi


4 Hiệu đính: Quý Tâm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư phát triển Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.7: Mục đích và khuôn khổ thẩm định đầu
tư kinh tế
Ch.8: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường không biến dạng

C = $3.240.000

Với chi phí kinh tế (C) bằng $3.240.000, chúng ta thấy rằng khoản thanh toán cho xi măng
bằng $3.480.0006. Sự sai biệt $240.000 đo lường một phần của sự gia tăng về lợi tức kinh tế mà
người sản xuất nhận được từ việc tăng giá nhờ có nhu cầu về xi măng cho dự án. Giá trị này được
biểu diễn bằng diện tích của tam giác GFE trong Hình 8-3. Vì số lượng này đơn giản là một sự
chuyển dịch thu nhập từ người tiêu thụ xi măng sang người sản xuất xi măng nên nó không phải là
một chi phí tài nguyên kinh tế, do đó nó không được tính như là một phần chi phí kinh tế của nhập
lượng này cho dự án làm xa lộ. Chi phí kinh tế cho một tấn ximăng là $3.240.000/60.000 = $54,
trong khi chi phí tài chính là $58.

Một lần nữa, giá trị đối với chi phí kinh tế có thể ước tính bằng cách sử dụng một phương
trình trong đó những thông số chủ chốt là các độ co dãn theo giá của cung và cầu. Với nhận thức
rằng (Q1 - Q0) là sự thay đổi về cung (Qs), (Q0 - Q2) là sự thay đổi về cầu (Qd ) (giá trị âm) và các
giá cung cầu bình quân (Ps và Pd) đều bằng (P0 + P1)/ 2 khi không có biến dạng, ta có thể viết lại
phương trình (8-10) như sau:

(8-12) C = QsPs - QdPd

Ngược lại phương trình (8-12) có thể biểu diễn bằng chi phí trên mỗi đơn vị nhập lượng
được mua bằng cách chia vế phải cho (Qs - Qd), và đó chính là tổng số mua vào của dự án. Từ
đây ta có

Q sPs  Qd Pd
(8-13) C / ñônvò 
Qs  Qd

Để có được một biểu thức có thể biểu diễn dưới dạng độ co dãn, chúng ta nhân vế phải của
phương trình (8-13) với P/P, Qs/Qs và nhân yếu tố cuối cùng trong tử số và mẫu số với Qd/Qd.. Bây
giờ chúng ta có:

(8-14)
(Qs / P)(P / Qs )Ps  (Qd / P)(P / Qd )(Qd / Qs )Pd
C / ñônvò 
(Qs / P)(P / Qs )  (Qd / P)(P / Qd )(Qd / Qs )

Trình bày dưới dạng độ co dãn ta có:

E Ps  N (Qd / Qs )Pd
(8-15) C / ñônvò  ip i ip i i i

Eip  Nip (Q / Q ) d
i
s
i

6
Chi phí cho ximăng = P1(Q1-Q2) = ($58)(60.000) = $3.480.000

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 1 Biên dịch: Kim Chi


5 Hiệu đính: Quý Tâm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư phát triển Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.7: Mục đích và khuôn khổ thẩm định đầu
tư kinh tế
Ch.8: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường không biến dạng

Khảo sát kết quả trên ta thấy rằng phương trình (8-15) có dạng thức giống như phương trình
(8-6) được sử dụng để đo lường giá trị kinh tế của các lợi ích do dự án tạo ra. Cho dù một bên là đo
lường giá trị sản lượng của dự án (thể hiện bằng sự dịch chuyển về đường cung của một hàng hóa)
và một bên là đo lường chi phí kinh tế các nhập lượng của dự án (thể hiện bằng sự dịch chuyển
đường cầu của một nhập lượng) thì khuôn khổ thực hiện việc đánh giá là như nhau. Lợi ích kinh tế
hay chi phí kinh tế của bất kỳ sản phẩm nào đều là số bình quân gia quyền (weighted average) của
giá cung (Ps) và giá cầu (Pd) của chính nó, trong đó các trọng số (weights) hoặc là tỷ lệ sự thay đổi
về cầu, hoặc là tỷ lệ thay đổi về cung do dự án tạo ra, được thoả mãn bởi sự đáp ứng của các nhà
cung cấp khác cũng như bởi sự đáp ứng của những người có nhu cầu trên thị trường.

Sử dụng phương trình (8-15) ta có thể suy ra những con số ước tính giống nhau về chi phí
kinh tếd củad xi măng như đã tính toán ở trên. Trong thí dụ này độ co dãn của cầu Nip = (Qd /
P)( P / Q ) = - 2,50 và độ co dãn của cung là Eip = (Qs/P)(Ps / Q s ) = 1,25. Giá cung và cầu
o o o o
bình quân trong trường hợp này bằng $54. Thay những giá trị vào phương trình (8-15) ta có:
1,25(54)  2,50(54)
C / ñônvò 
1,25  2,50
1 2
C / ñônvi  (54)  (54)
3 3
C / dônvi  $ 54

Nguyên tắc căn bản để việc đo lường các lợi ích và chi phí kinh tế của hàng hóa và dịch vụ
vừa được phác họa ở trên cũng có thể được áp dụng khi rất nhiều biến dạng hiện hữu trên thị
trường. Cho đến đây chúng ta mới chỉ đề cập đến những thị trường không có biến dạng. Trong
những trường hợp đó, lợi ích hoặc chi phí kinh tế đều bằng với giá thị trường của một sản phẩm, trừ
một sự điều chỉnh nhỏ đối cho những thay đổi về thặng dư của người tiêu dùng hay lợi tức kinh tế.
Đối với những thay đổi nhỏ về cung hoặc cầu thì sự thay đổi tương ứng về giá sẽ nhỏ và vì thế giá
trị đối với những thay đổi về thặng dư của người tiêu dùng hoặc lợi tức kinh tế sẽ tiến tới không.
Như vậy, đối với những thay đổi tương đối nhỏ về cung sản phẩm hoặc về cầu nhập lượng, chúng ta
thấy rằng giá trị kinh tế của các lợi ích và chi phí sẽ xấp xỉ bằng mức giá của thị trường. Tuy nhiên,
với việc áp dụng các loại thuế, trợ cấp, thuế quan và những sự biến dạng khác, thì mối quan hệ chặt
chẽ giữa giá thị trường hoặc giá tài chính với giá trị kinh tế của một hàng hóa sẽ không còn đúng
nữa.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 1 Biên dịch: Kim Chi


6 Hiệu đính: Quý Tâm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Chương 9

XÁC ĐỊNH LỢI ÍCH VÀ CHI PHÍ TRONG


THỊ TRƯỜNG BIẾN DẠNG
9.1. GIỚI THIỆU

Để phát triển một phương pháp tính toán chi phí và lợi ích kinh tế trong thị trường biến
dạng ta đặt ra đầu tiên hai giả thiết liên quan đến bản chất của thị trường bị dự án ảnh hưởng.
Thứ nhất là ta giả thiết rằng các thị trường của nhập lượng hay của sản phẩm tuy bị biến dạng do
thuế hay trợ giá đều mang tính cạnh tranh và không có những hạn chế về số lượng như hạn ngạch
hay những yếu tố độc quyền.Thứ hai, ta giả thiết rằng không có các loại thuế, trợ giá hay những
hạn chế về số lượng ngoài những gì đã được xác định. Những hạn chế này sẽ bị ảnh hưởng bởi
những thay đổi về cung và cầu của những mặt hàng mà chúng ta đo lường giá trị kinh tế. Chẳng
hạn nếu chúng ta tính toán chi phí kinh tế của xi măng như là một nhập lượng của một dự án làm
đường sá, và có các loại thuế và trợ giá trong thị trường xi măng, chúng ta giả thiết rằng không
có bất kỳ thứ thuế hay trợ giá nào khác được áp dụng cho các nhập lượng yếu tố dùng trong sản
xuất xi hoặc hiện hữu trong thị trường của những hàng hóa thay thế hoặc bổ sung cho xi măng.

Cả hai giả thiết nầy sẽ được nới lỏng khi ta tiến hành việc phát triển phương pháp tính
toán. Trong các phần VI và VII, các chi phí và lợi ích kinh tế của hàng hóa được tính toán khi có
nhiều biến dạng về số lượng hay nhiều yếu tố độc quyền hiện hữu. Cuối cùng trong chương mười
một, một phương pháp cân bằng tổng quát được phát triển sẽ giúp ta đưa vào những thay đổi về
phúc lợi kinh tế được tạo ra khi có những biến dạng trong thị trường của nhập lượng dùng để sản
xuất một mặt hàng hay khi có các thứ thuế hoặc trợ giá trong thị trường của những hàng hoá thay
thế hay bổ sung cho mặt hàng đó. Phương pháp được phát triển trong chương nầy về bản chất là
cân bằng riêng phần, và là bước đầu tiên trong việc tính toán giá kinh tế của các nguyên liệu và
sản phẩm. Sau khi ta đã phác họa lý thuyết tính toán gía cả kinh tế của hàng hóa ngoại thương, ta
sẽ có thể kết hợp lý thuyết trình bày trong hai Chương Chín và Mười thành một phương pháp cân
bằng tổng quát để tính toán chi phí và lợi ích của hàng hóa phi ngoại thương.

9.2. THUẾ DOANH THU ĐỐI VỚI SẢN PHẨM CỦA DỰ ÁN

Khi không có các loại thuế, trợ giá hay các hình thức biến dạng thị trường khác, ta thấy
rằng giá cả và số lượng cân bằng trên thị trường của một loại hàng hóa được xác định ở giao
điểm của đường cầu cạnh tranh của người tiêu thụ với đường cung cạnh tranh của nhà sản xuất.
Giá cả cân bằng trong một thị trường không biến dạng xác định số tiền mà người ta sẵn lòng trả
cho đơn vị cuối cùng mà họ tiêu thụ, và thêm vào đó, nó cũng xác định chi phí kinh tế biên của
đơn vị cuối cùng được cung cấp cho thị trường. Bây giờ ta hãy xem tình trạng nầy they đổi như
thế nào khi áp dụng thuế doanh thu đối với một sản phẩm của dự án.

Chúng ta tiếp tục xem xét thí dụ về khách sạn của chương Tám, và đưa vào thuế doanh
thu đối với tiền thuê phòng khách sạn với thuế suất là ts trên giá căn bản. Thuế nầy không làm
thay đổi số tiền tối đa mà những người có nhu cầu sẵn lòng chi trả cho mỗi đơn vị được mua.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 1 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Tuy nhiên, điều đó có nghĩa là họ sẽ không trả cho nhà sản xuất nhiều như vậy cho mỗi đơn vị
mà họ mua nếu họ cũng phải thuế cho nhà nước. Ở hình 9-1, đường cầu của người tiêu dùng đối
với phòng khách sạn, tức là thước đo sự sẵn lòng chi trả bao gồm cả thuế, được biểu diễn bởi
đường AD0. Tương tự, đường cung đo lường chi phí kinh tế biên của sản xuất được biểu diễn
bằng đường BS0. Sau khi đánh thuế, đường cầu mà các nhà cung ứng phải đối mặt không còn là
AD0 nữa. Nó sẽ là AD0 trừ đi số thuế phải trả, tức là đường NDn.

Giả sử suất thuế doanh thu ts là 25%. Trong trường hợp không bị đánh thuế, người tiêu
dùng sẵng lòng chi trả cho chủ khách sạn P0, hay là $20, cho mỗi đơn vị cuối cùng mà họ mua
(Q0) , nhưng giờ đây họ chỉ sẵn lòng chi trả $16 cho một phòng bởi vì họ còn phải trả thêm $4
thuế cho nhà nước. Nhưng ở mức giá $16 cho mỗi phòng thì những người chủ khách sạn không
sẵn lòng cung cấp Q0 (30.000) đơn vị phòng bời vì mức giá biên để cung cấp số lượng phòng này
là $20. Vì thế các nhà cung cấp sẽ cắt giảm số lượng phòng mà họ sẵn lòng đáp ứng. Sự hạn chế
về số lượng phòng được cung cấp sẽ làm tăng giá phòng mà người tiêu dùng chi trả vì hàm cầu
của họ giữ nguyên không đổi. Như vậy sau khi đánh thuế vào giá và số lượng, sự cân bằng lại đạt
được tại điểm mà đường cầu sau khi trừ đi thuế doanh thu NDn cắt đường cung đối với phòng
khách sạn BS0. Đó là điểm E trong hình 9-1 với giá cung là Ps0và số lượng Q1. Tại điểm người ta
cần có Q1 phòng khách sạn để sử dụng và được đáp ứng, thuế doanh thu sẽ tạo ra sự chênh lệch
giữa giá cung Ps mà 0 nhà sản xuất nhận được với giá cầu Pd0 do người tiêu dùng chi trả, bằng
tsPs0, tức là suất thuế doanh thu nhân với giá cung.

Trong thí dụ này, cân bằng sẽ được lập lại cho thị trường phòng khách sạn bãi biển ở số
lượng 25.000 đêm sử dụng phòng có nhu cầu và được cung cấp mỗi năm với giá cung (Ps ) là0
$17,33 mỗi đêm. Giá cầu Pd0bao gồm cả thuế là $21,66, với $4,33 là phần thuế doanh thu trên
mỗi đơn vị.

Với 25% thuế doanh thu, số tiền tối đa mà người ta sẵn sàng trả cho sự gia tăng một đơn
vị sản phẩm là $21,66, trong khi tiền tiết kiệm biên về tài nguyên kinh tế do cắt giảm mức cung
cấp tư nhân là $17,33 mỗi phòng-đêm. Với tình hình này, chúng ta muốn tính toán lợi ích kinh tế
tạo ra được do dự án khách sạn của nhà nước, và dự án này sẽ làm tăng mức cung số phòng
phòng khách sạn bãi biển thêm 10.000 phòng-đêm mỗi năm như trình bày trong Hình 92.

Sự gia tăng mức cung được minh họa bằng sự dịch chuyển song song về phía phải của
đường tổng cầu của thị trường từ BS0 đến DST. Đường cung trước kia BS0 vẫn đại diện cho chi
phí biên về tài nguyên của các nhà cung cấp phòng khách sạn khi không có dự án. Nhưng sau
khi có dự án thì nó không còn là đường tổng cung của thị trường nữa.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 2 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Hình 9-1: Thuế doanh thu và số lượng cung, cầu phòng khách sạn bãi biển

Giá phòng $/đêm

Số phòng-đêm được cầu


hoặc cung (ngàn phòng)

Do dự án cung cấp thêm phòng, sẽ có sự vượt cung trong trị trường ở giá cầu ban đầu P d0 là
$21,66 và giá cung P0 slà $17,33. Vì thế, giá phòng khách sạn sẽ giảm. Cân bằng sẽ thiết lập ở
điểm mà đường tổng cung DST cắt đường cầu đã trừ thuế NDn. Tại điểm (H) này số tiền tối đa
mà người tiêu thụ sẵn sàng trả cho nhà sản xuất sau khi trừ đi thuế doanh thu cho đơn vị cuối
cùng họ mua là vừa bằng với giá cung tối thiểu (P 1s) mà các nhà cung cấp (kể cả dự án) sẵn sàng
cungs cấp với số lượng yêu cầu của thị trường. Như vậy, việc giảm giá cung, hay giá thị trường,
từ P xuống P svà việc giảm giá cầu từ Pdxuống Pd sẽ làm cho người tiêu thụ tăng nhu cầu từ
0 1 0 1
Q0 lên Qd. Đồng thời việc giảm giá cung sẽ khiến cho các nhà cung cấp phòng khách sạn cắt
giảm số lượng mà họ cung cấp, từ Q1 xuống Qs. Sự khác biệt giữa tổng cầu Qd và lượng cung
của các nhà sản xuất khác Qs là vừa bằng với 10.000 phòng - đêm do dự án của nhà nước cung
cấp.

Đánh giá lợi ích do dự án tạo ra đòi hỏi chúng ta phải đo lường giá trị tài nguyên tiết kiệm
được do các nhà sản xuất khác giảm mức cung và giá trị tiêu thụ gia tăng mà người tiêu dùng
được hưởng. Giá trị tài nguyên được tiết kiệm được đo bằng diện tích dưới đường cung của các
nhà sản xuất khi không có dự án BS0, từ điểm Qs đến Q1. Đó là diện tích QsJEQ1. Việc đánh giá

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 3 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

lợi ích nhận được do tiêu thụ tăng thêm đòi hỏi ta phải phân biệt giữa giá trị mà người tiêu thụ
chi cho lượng tiêu thụ tăng thêm và giá trị mà họ sẵn lòng chi trả cho nhà sản xuất đối với số
lượng tiêu thụ. Những người tiêu thụ sẵn sàng trả cho nhà cung cấp một số tiền bằng diện tích
dưới đường cầu đã-trừ-thuế của phòng khách sạn bãi biển NDn từ Q1 đến Qd. Đó là diện tích
Q1EHQd trong Hình 92. Tuy nhiên, họ cũng sẵn sàng trả nhà nước số tiền thuế bằng diện tích
EGFH. Do đó, tổng giá trị mà người tiêu thụ sẵn sàng trả là bằng số tiền mà họ sẵn sàng trả cho
nhà cung cấp Q1EHQd cộng với tiền thuế mà họ sẵn sàng trả nhà nước cho số phòng khách sạn
EGFH đó, tức là tổng diện tích Q1GHQd trong Hình 92.

Hình 9-2: Đánh giá lợi ích kinh tế của dự án khách sạn bãi biển khi thuế doanh thu đánh
vào giá thuê phòng

Giá phòng $/đêm

Số phòng-đêm được
cầu hoặc cung (ngàn
phòng)

Tổng lợi ích (B) do đó có thể được diễn tả bằng đại số như sau:

(91) B  Qs(P s P s)/2  Qd(Pd Pd)/2


0 1 0 1

hay
(92) B  (Q  Qs)(P s P s)/2  (Qd  Q )(Pd Pd)/2
1 0 1 1 0 1

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 4 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Sử dụng cùng các bước tính toán về thay đổi giá cả và số lượng như trình bày ở Chương
Tám, chúng ta thấy rằng giá cung cân bằng sẽ giảm bớt $1,77, còn $15,55 cho mỗi phòng ( P 1s),
trong khi giá cầu cân bằng sẽ giảm bớt $2,22, còn $19,44 cho mỗi phòng ( P1d), do ảnh hưởng của
thuế doanh thu. Do những thay đổi này về giá cả, mức cung tư nhân của phòng khách sạn sẽ
giảm bớt  Q s / P P s  hay 3,33 ngàn phòngđêm, trong khi số lượng cầu sẽ tăng thêm
 Qd / P Pd hay 6,67 ngàn phòngđêm.1
Với thông tin đó chúng ta có thể tính được giá trị tài nguyên được giải phóng do giảm
mức cung tư nhân như sau: (Q1  Qs)(P s0 P s)/1 2  $54.750. Tương tự như thế, giá trị mà người
tiêu thụ sẳn sàng trả cho số lượng tăng thêm mà giờ đây họ tiêu thụ được ước tính là (Qd 
Q )(Pd Pd)/2  $137.070. Do đó, tổng lợi ích kinh tế tạo ra từ 10.000 phòngđêm do khách
1 0 1
sạn nhà nước cung cấp khi có 25% thuế doanh thu là ($54.750  $137.070)  $191.820. Tổng
lợi ích trên mỗi đơn vị sản phẩm là ($191.815/10.000)  $19,18 cho mỗi phòngđêm2.

Việc đánh giá dự án này theo quan điểm tài chính sẽ ước tính được doanh thu với giá thị
trường P1 mlà $15,55 trên mỗi đơn vị, trong khi đó việc thẩm định kinh tế cho thấy lợi ích từ sự
gia tăng sản lượng là $19,18 trên mỗi đơn vị. Nguyên nhân của sự khác biệt này là thuế doanh
thu mà người tiêu thụ sẵn sàng trả thêm trên giá thị trường và do lợi ích biên thu được từ giá trị
thặng dư tiêu thụ, và giá trị tài nguyên tiết kiệm được thể hiện bằng diện tích JEH. Việc nhà
nước, chứ không phải là dự án, được hưởng doanh số thuế là không quan trọng chừng nào việc
đánh giá lợi ích kinh tế còn được người ta quan tâm.

So sánh phương trình (91) với phương trình (83) ta thấy rằng việc đo lường lợi ích
kinh tế là hoàn toàn giống nhau trong trường hợp thị trường bị biến dạng bởi thuế doanh thu và
trường hợp thị trường không bị biến dạng, trừ việc bây giờ giá cầu (Pd) không bằng giá cung (Ps).
Do đó, phương trình (91) có thể viết dưới dạng hệ số co dãn theo cùng cách như đã làm trước
đây cho phương trình (83), và được thể hiện như là tổng lợi ích của mỗi đơn vị:

(93)
s
 Qd / Qsi  P di
B/đơn vị  Eip iP  N ip i
E  N  Qd / Qs 
ip ip i i

Ở đây Pd P s(1  ts)


i i

1
Sự thay đổi của lượng cung tư nhân về số phòng khách sạn được tính theo công thức như sau: (dQs/dP)(P) =
(15/8)(1,77) = 3,33. Và sự thay đổi của số lượng cầu được tính theo công thức như sau: (dQd/dP)( Pd) = (-
3,0)(2,22) = 6,67.
s s
2
Giá trị của tài nguyên không sử dụng được tính như sau ((Q  Qs)( P  P )/2) = ((25-21,67)(17,33+15,55)/2) =
1 0 1
d
$54,75. Và giá trị mà người tiêu thụ sẵn sàng trả cho số lượng tiêu thụ gia tăng được tính như sau: ( (Qd  Q1)( P 0
P1d)/2)  ((31,67-25,00)(21,66+19,44)/2) = $137,07.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 5 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Nếu thuế doanh thu là loại thuế theo tỷ lệ (ad valorem tax), và bằng một tỷ lệ cố định của
giá cung của nhà sản xuất, thì Pd  Ps(1  ts), với ts là suất thuế doanh thu theo tỷ lệ.

Trong thí dụ trình bày ở Hình 92 ta biết rằng Qs/P  1,876 và
Qd/P  3,0 do đó ở giá cung $17,33 và số lượng 25 ngàn, hệ số co dãn đường cung là E ip 
1,3. Ở giá cầu $21,66 và số lượng 25 ngàn, hệ số co dãn đường cầu là Eis  2,6. Thêm và đó,
giá cung trung bình Ps được tính là $16,44; giá cầu trung bình Pd được tính là $20,55, và lúc đầu
Qs = Qd = 25. Thay thế những trị số này vào phương trình (93) ta có:
1,316,44  2,625 / 2520,55
(94) B/đơn vị =
1,3  2,625 / 25
21,37  53,43
= = $19,18
3,9

Dùng phương trình (93) ta cũng thu được ước tính lợi ích kinh tế hoàn toàn giống như
số ước tính trước đây từ các diện tích dưới đường cung và cầu của phòng khách sạn bãi biển.

Đối với những thay đổi tương đối nhỏ về tổng cung của một hàng hóa hay dịch vụ, sai số
sẽ không đáng kể nếu ta dùng giá cung ban đầu P s(bằng
0
với giá thị trường ban đầu P m) và
0
giá
cầu ban đầu P 0thay vì trung bình của các mức giá trước và sau khi có dự án. Với cách tính lợi
d

ích như thế này, kết quả giá trị lợi ích kinh tế sẽ hơi cao một chút. Diễn tả giá cung và giá cầu
theo giá thị trường, công thức tổng quát để tính lợi ích kinh tế của dự án khi có thuế doanh thu
nhưng sản phẩm được bán trong thị trường không hạn chế được viết như sau:

(95)
m
 Qd / Qsi  Pim 1 t s
B/đơn vị  Eip iP  N ip i
E  N  Qd / Qs 
ip ip i i

Ở đây P mlà giá thị trường ban đầu của hàng hóa đó, P s P m, và giá cầu ban đầu Pd
i i i i
Pi m(1  ts)

9.3 TRỢ GIÁ SẢN XUẤT CHO NHỮNG NHÀ CUNG CẤP KHÁC TRÊN THỊ
TRƯỜNG

Thông thường, khi chính quyền muốn khuyến khích sản xuất một loại hàng hóa hay dịch
vụ, chính quyền sẽ trợ giá cho các nhà sản xuất tư nhân để họ gia tăng số lượng sản phẩm đó.
Giả sử có sự trợ giá đó trên thị trường, ta muốn tìm một phương pháp tính toán lợi ích kinh tế của
một dự án của chính quyền để sản xuất loại hàng hay dịch vụ được trợ giá đó.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 6 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Hình 9-3: Đánh giá lợi ích thu được từ dự án khách sạn bãi biển khi các nhà cung ứng hiện
hữu được trợ giá

Giá phòng/đêm

Số phòng-đêm được cầu


hoặc cung (ngàn phòng)

Trong trường hợp của thí dụ về khách sạn bãi biển, giả sử chính quyền đang trợ giá cho
các nhà cung cấp phòng khách sạn tư nhân với mức bằng tỷ lệ K của trị giá gia tăng trước khi có
dự án. Việc này dẫn đến tình trạng là trong khi chi phí biên của phần cung gia tăng vẫn được thể
hiện bởi đường cung BS0 trong Hình (93), các nhà cung cấp phòng khách sạn bãi biển sẵn sàng
cho thuê phòng ở giá thấp hơn K phần trăm. Phần trợ giá của chính quyền sẽ vừa đủ khi cộng
với tiền cho thuê lấy theo giá thị trường để có doanh thu bằng với chi phí sản xuất biên. Đường
cung này bao gồm ảnh hưởng của trợ giá theo giá trị gia tăng được thể hiện bằng CSs.

Trước khi có trợ giá, giá thị trường của tiền thuê phòng khách sạn là P0 hay $20 mỗi đêm,
với tổng số lượng đặt hàng và cung cấp là Q0 hay 30.000 phòngđêm mỗi năm. Với trợ giá, giá
thị trường giảm xuống mức cân bằng mới P 0mvới số lượng Q1 được đặt hàng và cung cấp. Việc

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 7 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

trợd giá cho các nhà cung cấp tư nhân không tạo nên biến dạng giữa giá thị trường P 0mvà giá cầu
P , nhưng nó tạo khoảng khác biệt giữa giá thị trường và giá cung tư nhân P . Nếu phần trợ giá
s
0 0
là một tỷ lệ phần trăm của chi phí biên của tài nguyên trong sản xuất, ta sẽ có các quan hệ sau đây
giữa giá cung và cầu của thị trường:

(96) P m= P d = P s(1  K)
0 0 0

hay P s= P m/(1  K)
0 0

Sản lượng thêm vào của dự án làm cho đường tổng cung (sau khi có trợ giá) dịch chuyển
từ CSs đến GSTs . Tuy nhiên chi phí kinh tế biên của các nhà cung cấp phòng khách sạn khi không
có dự án vẫn giữ nguyên ở BS0. Sự gia tăng mức cung làm giảm thêm giá thị trường của tiền thuê
phòng xuống P1 m. Với giá này, số lượng do người tiêu thụ yêu cầu sẽ tăng đến Qd đơn vị mỗi
năm trong khi phần cung từ các chủ khách sạn không kể dự án sẽ giảm xuống còn Qs.

Việc giảm sản lượng đó của các nhà cung cấp khác sẽ dẫn đến việc không sử dụng phần
nguyên liệu đầu vào với giá trị bằng diện tích dưới đường cung trước khi có trợ giá BS 0 giữa số
lượng Qs và Q1, hay QsFHQ1. Giá trị của những nguyên liệu này bằng giá thị trường Pm cộng với
phần trợ giá của chính quyền KPs. Do đó, giá trị của tài nguyên không sử dụng hay giá cung Ps
của sản phẩm có thể diễn tả như là Pm/(1  K).

Sự gia tăng số lượng yêu cầu từ Q1 đến Qd sẽ tạo một giá trị cho người tiêu thụ bằng diện
tích dưới dưới đường cầu Q1IJQd. Vì không có thuế đối với giá thuê phòng, giá thị trường Pm
cũng băng với giá cầu Pd.

Trong trường hợp này, khi có trợ giá cho sản xuất, tổng lợi ích kinh tế do gia tăng mức
cung sẽ được tính bằng bình quân gia quyền của giá cầu Pd (đồng thời cũng là giá thị trường Pm)
và giá cung Ps. Tổng lợi ích kinh tế do đó có thể biểu diễn như sau:

(97) B  W sP s WdP d
0 0

Trong đó P s Pm/(1  K), Pd P m, Ws và Wd là các trọng số tương ứng với sự thay đổi
0 0 0
tương đối của cung và cầu trên thị trường khi có dự án mới. Biểu diễn dưới dạng hệ số co dãn,
giá trị lợi ích kinh tế của mỗi đơn vị sản phẩm của dự án có thể viết dưới dạng phương trình
(95),

(98)
s
 Qd / Qsi  P 0m
B/đơn vị  Eip 0P  N ip i
E  N  Qd / Qs 
ip ip i i

trong đó P s  P m / 1 Kvà Pd  P m


0 0 0

Nếu trong thí dụ trình bày ở Hình 93 ta giả thiết rằng phần trợ giá K cho các nhà cung
cấp phòng khách sạn tư nhân bằng 25% chi phí sản xuất biên, Q1 sẽ bằng 36,82, Pd0  Pm0sẽ bằng

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 8 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

0 bằng $23,64. Do đó, Q /P  30/16 và Q /P  3; trị số của E


$17,33 và Pssẽ ip ở giá
s s d d

cung $23,64 và số lượng 36,82 sẽ là 1,20; và trị số của N ipở giá cầu $17,73 và số lượng 36,82 sẽ
là -1,44. Thay trị số của các thông số này vào phương trình (98) ta có:
1.2017,73 / 0,75  1,4436,82 / 36,8217,73
(99) B/đơn vị   $20,42
1,2  1,4436,82 / 36,82

Từ kết quả tính toán bằng phương trình (98) ta thấy rằng lợi ích kinh tế do việc gia tăng
số phòng khách sạn bãi biển bằng dự án của chính quyền là $20,42 cho mỗi đơn vị. Trị số này
lớn hơn giá thị trường P 0m=$17,33, vì dự án sẽ chiếm chỗ một phần các khách sạn tư nhân được
trợ giá và có chi phí kinh tế biên của sản xuất P0 s=$23,64 trên mỗi đơn vị. Do đó, lợi ích kinh tế
ước tính từ sự gia tăng sản xuất nằm giữa giá trị của tài nguyên tiết kiệm được do các nhà cung
cấp được trợ giá thu hẹp lượng cung ($23,64) và giá cầu của người tiêu thụ ($17,33 trên mỗi đơn
vị).

9.4. KHI CÓ CẢ THUẾ VÀ TRỢ GIÁ TRÊN THỊ TRƯỜNG

Trong hai phần trước, chúng ta đã nghiên cứu các trường hợp: (a) hoặc có thuế doanh thu
đối với sản phẩm của dự án, (b) hoặc có trợ giá đang hiện hữu cho các nguồn cung cấp khác với
dự án. Bây giờ chúng ta muốn khái quát hóa phương pháp đo lường lợi ích kinh tế của một dự án
trong trường hợp có cả thuế lẫn trợ giá ảnh hưởng đến giá cả của sản phẩm mua và bán. Ở đây
chúng ta sẽ xét đến trường hợp có thuế đánh vào sản phẩm của dự án và trợ giá cho sản xuất.

Trong Hình 94, đường cầu AD0 cho thấy số tiền tối đa mà người ta sẵn lòng chi trả cho
phòng khách sạn bãi biển. Tuy nhiên vì có mức thuế doanh thu ts đánh vào tiền thuê phòng khách
sạn, số tiền tối đa mà người tiêu thụ sẵn sàng trả cho chủ khách sạn để thuê phòng được thể hiện
bằng đường cầu sau khi trừ thuế NDn.

Về phía cung, đường BS0 cho thấy chi phí biên của tài nguyên cần dùng để sản xuất thêm
sản phẩm. Trợ giá của chính quyền bằng K phần trăm sẽ làm giảm giá mà nhà sản xuất sẵn sàng
bán ở bất kỳ mức sản lượng nào. Đường cung này thể hiện mối quan hệ giữa giá thị trường được
trợ giá P 0mvới số lượng mà các nhà sản xuất ngoài dự án sẵn sàng cung cấp, được biểu diễn bằng
đường CSs.

Khi dự án khách sạn của chính quyền được hoàn thành, nó sẽ dịch chuyển đường cung từ
CSs đến GSTs . Do sự gia tăng mức cung này, giá thuê phòng theo thị trường sẽ giảm từ P m0xuống
P1 m. Số lượng cầu sẽ tăng từ Q1 đến Qd, nhưng số lượng cung từ các nhà cung cấp ngoài dự án sẽ
giảm từ Q1 xuống Qs.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 9 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Hình 9-4: Đo lường lợi ích kinh tế của dự án bán sản phẩm trên thị trường, trong đó doanh
thu bị đánh thuế nhưng sản xuất được trợ giá

Giá phòng/đêm

Số phòng-đêm được cầu


hoặc cung
(ngàn phòng)

Việc giảm mức cung từ những khách sạn này sẽ giải phóng tài nguyên để dùng cho nơi khác
trong nền kinh tế, có giá trị bằng với chi phí sản xuất trước khi được trợ giá, như thể hiện bằng
đường cung BS0. Tổng giá trị tài nguyên được giải phóng được minh họa bằng diện tích QsFHQ1
trong Hình 94. Giá trị trên mỗi đơn vị sản phẩm này lại bằng với giá thị trường cho mỗi sản
phẩm Pm cộng với tiền trợ giá KPs cho mỗi đơn vị. Hai giá trị này được minh họa bằng các diện
tích QsGIQ1 và GFHI tương ứng.

Trong trường hợp này, phần trợ giá K được diễn tả bằng một tỷ lệ của giá cung Ps. Do đó
giá thị trường P m0 bằng với (P s-0KP s)0hay P s0 P m/(1-K).
0
Mặt khác, thuế doanh thu ts thường
được tính theo tỷ lệ trên giá thị trường của sản phẩm. Do đó giá cầu Pdbằng với P m(1  ts).
0 0

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 10 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Để ước tính lợi ích của mỗi đơn vị sản phẩm của dự án trong trường hợp này ta lại bắt
đầu với biểu thức căn bản để tính lợi ích của một dự án:

(910)
s
 Qd / Qsi  P d0
B/đơn vị  Eip 0P  N ip i
E  N  Qd / Qs 
ip ip i i

Vì có trợ giá với mức tỷ lệ K trên tổng chi phí tài nguyên dùng cho sản xuất, ta có thể
thay thế giá trị của P 0m/(1  K) cho P si. Vì cũng có thuế doanh thu ts được đánh theo tỷ lệ của giá
mua của sản phẩm, giá trị của P (1  ts) được thay cho Pd. Do đó ta có:
m

E Pm / 1 K  N  Q / Q  P  1 t 
0
di s m
(911) B/đơn vị  ip 0 ip i i 0 s
E  N  Qd / Qs 
ip ip i i

Đây là biểu thức đầy đủ để tính lợi ích kinh tế cho mỗi đơn vị sản phẩm của dự án khi bán
trên thị trường vừa có cả thuế doanh thu và trợ giá.

Một sự kết hợp khác của những biến dạng thị trường là khi việc tiêu thụ hàng hóa được
trợ giá với mức Kc trên giá thị trường, trong khi đó việc sản xuất hàng hóa đó cũng được trợ giá
với mức K ptrên tổng chi phí sản xuất. Việc này thường xảy ra ở các nước mà chính quyền trợ
giá cả cho sản xuất lẫn tiêu thụ các loại lương thực thiết yếu như gạo.

Trong trường hợp đó giá cung Ps bằng giá thị trường Pm cộng với tiền trợ giá KPps hay Ps
 Pm/(1  K).p Cùng lúc đó giá cầu của người tiêu thụ P hay giá mà họ sẵn lòng trả lại thấp hơn
d

giá thị trường vì họ cũng được trợ giá. Do đó (Pm  KcPm)  Pd hay Pd  Pm(1  Kc). Trong
trường hợp này, biểu thức đo lường lợi ích cho mỗi đơn vị sản xuất của dự án là:

(912) B/đơn vị  ip 0
 p

E P m / 1 K  N  Qd / Qs  P m 1 K
ip i i 0

c
E  N  Qd / Qs 
ip ip i i

Một số nước đánh thuế doanh thu từ phía người sản xuất cũng như tại thời điểm hàng hóa
được bán ra tại các cửa hàng bán lẻ. Trong trường hợp đó, giá thị trường P m sẽ bằng giá Ps của
nhà sản xuất cộng với thuế doanh thu t p Psđánh vào nhà sản xuất. Do đó, Ps  Pm/(1  t p). Giá
cầu của người tiêu thụ Pd cũng bằng giá thị trường Pm cộng với thuế doanh thu bán lẻ tsPm. Do
đó, Pd  Pm(1  ts). Thay thế những biểu thức về giá này vào phương trình (910) để tính lợi ích
kinh tế của dự án ta có:

(913) B/đơn vị 
 p

Eip P m / 1 t  N  Q d / Qs  P m 1 t
ip i i

s
E  N  Qd / Qs 
ip ip i i

Khi một dự án bán sản phẩm trên một thị trường không có kiểm soát số lượng hay giá cả,
biểu thức căn bản để tính lợi ích của dự án luôn luôn giống nhau. Đó là bình quân gia quyền của
giá cung của nhà sản xuất và giá cầu của người tiêu thụ đối với sản phẩm dự án, trong đó các

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 11 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

trọng số là các tỷ lệ của sản lượng dự án tương ứng với phần cung bị thu hẹp bởi các nhà cung
cấp khác, và phần cầu tăng thêm của người tiêu thụ đối với hàng hóa hay dịch vụ đó. Tuy nhiên
quan hệ chính xác giữa giá thị trường và giá cung của nhà sản xuất hay giá cầu của người tiêu thụ
sẽ thay đổi khi có mặt các loại thuế và trợ giá khác nhau.

Hình 9-5: Đo lường chi phí kinh tế của một nhập lượng khi bị đánh thuế: Trường hợp của
mặt hàng xi-măng

Giá $/tấn

Lượng xi-măng
trong 1 tháng
(ngàn tấn)

9.5 ĐO LƯỜNG CHI PHÍ KINH TẾ CỦA CÁC NHẬP LƯỢNG KHI CÓ THUẾ VÀ
TRỢ GIÁ TRÊN THỊ TRƯỜNG

Trong Chương 8 ta thấy rằng trong một thị trường không biến dạng, cùng một mô hình có
thể dùng để ước tính chi phí kinh tế của nguyên liệu đầu vào của một dự án, giống như được sử
dụng để đánh giá lợi ích kinh tế thu được từ sản phẩm dự án. Kết luận này cũng được áp dụng

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 12 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

cho những trường hợp có những biến dạng do thuế và trợ giá trên thị trường. Vì vậy tất cả
những phương trình ở trên (95, 98, 911, 912 và 913) dùng để để đo lường giá trị kinh tế
của sản phẩm dự án khi có thuế và trợ giá hiện hữu trên thị trường cũng có thể áp dụng tốt cho
việc đo lường chi phí kinh tế của nguyên liệu đầu vào được bán trên thị trường với những loại
biến dạng tương tự. Để minh họa cho việc này ta hãy xem xét chi phí kinh tế của xi măng được
dùng làm nguyên liệu đầu vào để xâ dựng đường sá.

Trong trường hợp này, ta giả sử có một tỷ lệ % thuế doanh thu ts đánh vào giá sản xuất
đối với tất cả xi măng bán ra. Giá tối đa mà người ta sẵn lòng chi trả để mua xi măng khi thuế
doanh thu được tính vào giá được biểu di64ng bằng đường cầu BD0 trong Hình 95. Đường cầu
sau khi trừ thuế doanh thu cho biết mức giá mà người tiêu thụ sẵn sàng chi trả cho các nhà sản
xuất. Nó được thể hiện bằng đường cầu NDn. Đường cung phản ảnh chi phí biên của tài nguyên
để sản xuất, được biểu diễn bằng đường AS0 trong Hình 95.

Trong trường hợp này nếu không có thuế, giá cân bằng thị trường sẽ là P0 (50) và số
lượng cầu và cung là Q0 (100). Việc áp dụng thuế doanh thu 25% (ts) sẽ làm cho người tiêu thụ
sẽ giảm bớt mức giá mà họ sẵn sàng chi trả cho bất kỳ đơn vị sản phẩm nào, do đó giá thị trường
cân bằng sẽ giảm xuống P0m(42,86), cũng như số lượng cầu và cung sẽ giảm xuống Q1(82,15).
Trong khi giá thị trường ở số lượng này là P m0(42,86),d thì giá cầu của người mtiêu thụ hay giá tốt
đa mà họ sẵn lòng chi trả gồm cả thuế doanh thu là P (53,57), tức là bằng P (1  ts).
0 0

Bây giờ nếu ta đưa ra một dự án, chẳng hạn như xây dựng một con đường ở nông thôn, sử
dụng xi măng như là một trong những nguyên liệu chính, thì dự án này sẽ làm tăng mức cầu xi
măng. Điều đó được thể hiện bằng sự chuyển dịch về phía bên phải của đường cầu sau khi trừ
thuế, từ NDn đến CD Tn, với khoảng cách bằng số đơn vị cần sử dụng cho dự án mới. Tuy nhiên
giá mà người tiêu thụ sẵn sàng chi trả, được thể hiện bằng đường BD0, thì vẫn giữ nguyên không
đổi. Đường NDn ban đầu vẫn là đường đo lường mức độ mà người ta sẵn lòng chi trả cho nhà sản
xuất sau khi trừ thuế.

Nếu dự án xây đường cần 50 ngàn tấn xi măng thì giá cân bằng sau cùng của thị trường sẽ
là P = 49,53. Đây cũng là giá cung P s1của các nhà sản xuất vì ta giả thiết rằng họ không bị đánh
1
m

thuế hoặc không được trợ giá. Với giá này các nhà sản xuất sẽ cung cấp Q s = 98,80 ngàn tấn xi
măng, bằng tổng mức cầu của thị trường. Sự tăng giá trên thị trường sẽ làm cho những người sử
dụng xi măng trước đây hạn chế hoặc hoãn lại việc mua xi măng. Với giá sau khi trừ thuế trên thị
trường là P1 m= 49,53 họ chỉ sẵn sàng mua Qd = 48,80 ngàn tấn. Trong khi giá thị trường ở số
lượng này là $49,53 thì giá cầu P1dgồm cả thuế là $61,91.

Chi phí kinh tế của 50 ngàn tấn xi măng cho dự án làm đường bằng diện tích dưới đường
cung từ Q1 đến Qs hay Q1EJQs cộng với diện tích dưới đường cầu kể cả thuế BD0, từ Q1 đến Qd
hay QdFGQ1. Diện tích sau có thể chia thành QdHEQ1, phần mà người tiêu thụ lẽ ra phải trả cho
nhà sản xuất ứng với số lượng họ không mua nữa, cộng với tiền thuế HFGE họ không phải trả
nữa. Tổng chi phí kinh tế này (C) có thể viết bằng đại số như sau:

(914) C = QsPs  QdPd


hay C = (Qs  Q1)Ps  (Q1  Qd)Pd

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 13 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Biểu diễn phương trình (914) dưới dạng hệ số co dãn và đo lường chi phí kinh tế trên
mỗi đơn vị như đã làm ở trước để có phương trình (15), chúng ta có:

(915)
s
 Qd / Qsi  P di
C/đơn vị  Eip iP  N ip i
E  N  Qd / Qs 
ip ip i i

Trong đó P s= P mvà Pd= P m(1  ts)


i i i i

Qua khảo sát chúng ta thấy rằng phương trình (915) hoàn toàn giống như phương trình
(93) đã được dùng để đo lường giá trị của các lợi ích kinh tế khi thuế doanh thu đánh vào sản
phẩm của dự án lúc bán ra. Do đó, có thể áp dụng cùng những biểu thức ước tính lợi ích kinh tế
của các dự án để tính các chi phí kinh tế của dự án.

Trong trường hợp này hệ số co dãn của cung Eip = 1,30 và hệ số co dãn của cầu Nip =
3,26. Giá thị trường trung bình Pm là (42,86 + 49,53)/2 = $46,20. Vì vậy, Pd = Pm(1 ts) =
46,20(1  25) = $57,75, và Ps = Pm = $46,20.

Thay những trị số này vào phương trình (915) ta có:


1,3046,20  3,2682,15 / 82,1557,75
(916) C/đơn vị =
1,30  3,26

60,06  188,27
= = $54,46
4,56

Chi phí kinh tế của nguyên liệu xi măng đầu vào tính được là $54,46 mỗi tấn, trong khi
giá thị trường là $46,20 mỗi tấn và tổng chi phí tài chánh của dự án kể cả thuế sẽ là $57,75 mỗi
tấn.

Trong Bảng (91) giá cung và giá cầu của một mặt hàng được xác định theo giá thị
trường cho nhiều chế độ thuế và trợ giá có thể có. Giá cung và cầu được sử dụng cùng với
phương trình (910) hay (915) sẽ cho phép ta đo lường lợi ích hoặc chi phí kinh tế của một đơn
vị hàng hóa.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 14 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Bảng 91 Mối quan hệ giữa giá thị trường và giá cầu, giá cung với các loại biến dạng khác
nhau

Trường
Loại Thuế hay Trợ giá Giá Cung Ps Giá Cầu Pd
hợp
1 Tỷ lệ thuế doanh thu ts đánh vào giá thị Ps = Pm Pd = Pm(1+ ts)
trường bán lẻ
2 Thuế doanh thu Ts trên mỗi sản phẩm Ps = Pm Pd = Pm + Ts
đánh vào giá thị trường bán lẻ
3 Tỷ lệ trợ giá K cấp trên tổng chi phí tài Ps = Pm/(1 K) Pd = Pm
nguyên dùng cho sản xuất
4 Trợ giá đơn vị Ku cấp cho mỗi đơn vị Ps = Pm+Ku Pd = Pm
sản phẩm sản xuất
5 Tỷ lệ thuế sản xuất tp đánh vào chi phí Ps = Pm/(1+ tp) Pd = Pm
sản xuất
6 Thuế sản xuất Tp đánh vào mỗi đơn vị Ps = Pm-Tp Pd = Pm
sản phẩm sản suất
7 Hai tỷ lệ thuế doanh thu đánh vào sản Ps = Pm Pd = Pm(1+ t1)(1+ t2)
phẩm theo giá bán lẻ (tính kép)

9.6 GIÁ GIỚI HẠN TRẦN, PHÂN PHỐI HẠN CHẾ VÀ CÁCH TÍNH TOÁN CHI PHÍ
VÀ LỢI ÍCH KINH TẾ

Đến đây chúng ta vẫn giả thiết rằng các thị trường mà dự án công mua hay bán đều có
tính cạnh tranh, mặc dù có thể có các loại thuế và trợ giá khác nhau. Trong một số trường hợp giả
thiết này có thể không đúng khi có sự hiện hữu của giá trần, chế độ phân phối hoặc độc quyền
trong các thị trường nguyên liệu hay sản phẩm. Việc đánh giá chi phí hay lợi ích kinh tế trong
những trường hợp như vậy đòi hỏi phải thực hiện nhiều sự điều chỉnh đối với mô hình tổng quát
đã được trình bày ở trên.

Trước hết chúng ta xem xét trường hợp, trong đó chính quyền quy định giá trần đối với
giá bán của một mặt hàng, và giá này thấp hơn giá gaio dịch trên thị trường. Chính sách này đôi
khi được áp dụng ở nhiều nước đối với những loại hàng hóa quan trọng như gạo với nỗ lực (sai
lầm) nhằm hạ giá thực phẩm cho người nghèo. Với giả thiết rằng có một chính sách như thế hiện
hữu, chúng ta muốn đo lường lợi ích của một dự án nhằm làm tăng mức cung của một mặt hàng
có giá cố định.

Mức độ sẵn lòng chi trả của người tiêu dùng cho mặt hàng này được thể hiện bằng đường
cầu AD0 trong Hình 96. Nếu ta giả thiết rằng nước này hoặc không có khả năng, hoặc không
muốn nhập khẩu mặt hàng này, chi phí kinh tế biên của tài nguyên để sản xuất mặt hàng đó trong
nước có thể biểu diễn bằng đường cung BS0. Khi không có giá trần Pc thì giá cân bằng thị trường
sẽ là P 0mtrên một đơn vị với Q0 đơn vị cầu và cung trong mỗi thời kỳ.

Giả sử chính quyền quy định giá trần Pc đối với các nhà sản xuất. Họ phải bán sản phẩm
của họ với giá bằng hoặc thấp hơn Pc, tức là thấp hơn giá giao dịch trên thị trường P 0m. Với giá Pc
nhà sản xuất không còn thấy hấp dẫn nữa để sản xuất số lượng Q0 đơn vị sản phẩm mỗi kỳ, vì với

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 15 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

số lượng này chi phí biên để họ sản xuất sẽ lớn hơn giá Pc. Do đó họ sẽ cắt giảm mức sản xuất
của họ xuống điểm (I), ở đó chi phí biên để họ sản xuất vừa bằng với giá trần. Ở mức sản xuất
này, sản lượng trong mỗi kỳ là Qs.1 Tuy nhiên với giá Pc lượng cầu mỗi kỳ sẽ là Qd, tạo ra lượng
cầu vượt trội là  Qd  Qs1đơn vị. Nếu mức cầu về một mặt hàng mỗi kỳ là Qd và lớn hơn lượng
cung Qs1, cần phải thiết lập một hệ thống nào đó để phân phối hạn số lượng cung bị hạn hạn chế
tới tay những người tiêu thụ tiềm năng.

Nếu chúng ta giả thiết rằng không có một hệ thống phân phối chính thức nào được thiết
lập, thì thì chúng ta có thể kỳ vọng rằng một thị trường chợ đen cho mặt hàng này sẽ nhanh
chóng hình thành và phát triển. Trong một thị trường như thế, những người may mắn sẽ mua
được số lượng Qs1với giá hạn trần Pc. Giờ đây họ có thể quay lại bán hàng đó với bất kỳ giá nào
mà thị trường chấp nhận. Nếu số lượng sản xuất là Q1sthì giá tối đa mà người tiêu thụ sẵn sàng
trả để có thêm một đơn vị sản phẩm sẽ là P 0b. Đó cũng là giá cầu đối với mặt hàng này.

Khi chính quyền đưa ra một dự án mới để tăng mức cung của mặt hàng này, nó sẽ tạo ra
một sự dịch chuyển của đường cung từ BS0 đến CS1 như cho thấy trong Hình 96. Với giá trần
Pc đang được áp dụng, dự án mới sẽ làm tăng tổng lượng cung từ Qsđến 1 Q . Các
s
2 nhà sản xuất
khác không cắt giảm sản lượng của họ vì giá mà họ nhận được vẫn giữ nguyên ở Pc. Tuy nhiên,
phần cungs gia tăng sẽ làm cho giá thị trường chợ đen giảm từ P b0 xuống P 1b và số lượng tiêu thụ
tăng từ Q đến Q .s
1 2

Lợi ích kinh tế của dự án này được tính bằng diện tích dưới đường cung của người tiêu
thụ giữa số lượng Qsvà Qshay QsEGQs. Trong trường hợp này công thức tổng quát để tính
1 2 1 2
tổng lợi ích kinh tế của sản phẩm dự án vẫn đúng.

(917) Lợi ích = QsPs + QdPd

Tuy nhiên, khi giá trần được áp dụng thì Qs = 0, và giá thị trường chợ đen P bthực chất
là thước đo mang tính thực nghiệm của giá cầu của người tiêu thụ Pd. Hơn nữa, sự thay đổi về
mức tiêu thụ (Qd trong phương trình 917) bằng với sản lượng của dự án chính quyền (Q s2
Qs1). Do đó giá trị kinh tế trên mỗi đơn vị sản phẩm của dự án bằng với giá thị trường chợ đen
P b. Nếu như chúng ta kỳ vọng giá chợ đen sẽ thay đổi đáng kể khi có dự án, thì trung bình của
giá chợ đen trước và sau dự án (( P 0b+ P b)/2)
1 sẽ cung cấp cho chúng ta một thước đo chính xác
hơn về giá trị của tổng lợi ích kinh tế thu được từ dự án tính trên mỗi đơn vị sản lượng.

Thông thường khi đối diện với sự thiếu hụt đại loại như trên, chính quyền phải áp đặt một
hệ thống phân phối bắt buộc để phân bổ số lượng cung Q1scho những người tiêu thụ muốn mua
số lượng Qd với giá trần. Có nhiều nguyên tắc phân phối quyền mua hàng đã được thiết lập. Một
trong những nguyên tắc đó là phân phối quyền mua hàng sao cho tất cả những người muốn mua
hàng đều nhận được một tỷ lệ nhất định số lượng ban đầu mà họ yêu cầu. Để mua một đơn vị sản
phẩm người ta phải nộp một phiếu cùng số tiền bằng với giá trần. Thêm vào đó, chính quyền
nghiêm cấm bất kỳ sự mua bán phiếu phân phối nào và cũng nghiêm cấm việc bán lại hàng phân
phối.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 16 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Với một chế độ phân phối như thế, đường cầu hữu hiệu của mặt hàng trở thành đường
ADr0, như trong Hình 97, trong khi giá mà người tiêu thụ sẵn sàng trả vẫn ở trên đường cầu
AD0. Với loại hình phân phối này, mọi người đều nhận được ít hàng hóa hơn họ muốn, mặc dù
người ta sẵn sàng trả với giá cao hơn giá trần rất nhiều để có thêm một đơn vị hàng hóa đó.

Hình 9-6: Đo lường lợi ích kinh tế của một dự án khi có giá trần áp đặt trên thị trường sản
phẩm và thị trường chợ đen phát triển

Giá $/đơn vị

Số lượng đơn vị trong


một thời đoạn

Khi dự án chính quyền tăng mức cung của mặt hàng từ Qsđến Qschính quyền có thể phát hành
1 2
thêm số phiếu phân phối. Nếu họ cũng phân phối lượng phiếu tăng thêm này theo cùng cách thức
nhưr trên thìr đường cầu hữu hiệu bây giờ trở thành ADr. 1Diện tích giữa hai đường cầu hữu hiệu
AD và AD , nhưng ở trên giá trần, đo lường giá trị thặng dư của người tiêu thụ, tức là là số tiền
0 1
mà những người tiêu thụ nhận được số phiếu phân phối phát hành thêm sẵn sàng chi trả thêm
trên giá trần Pc để có sản lượng của dự án. Phần thặng dư của người tiêu thụ này cần phải được
tính như là một phần của lợi ích kinh tế của dự án. Trong trường hợp này lợi ích kinh tế của dự
án được tính như là số tiền người ta trả cho phần sản lượng tăng thêm (Qs2 Qs)P1 c cộng với phần
thặng dư mà người tiêu thụ được hưởng, thể hiện bằng diện tích IAJ. Diện tích này có thể được
tính bằng biểu thức: 1 2  P  P c  Qs  Qs , trong đó P là giá mà tại đó tất cả nhu cầu đối với
max 2 1 max
mặt hàng này đều bị triệt tiêu.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 17 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Trong trường hợp này, tổng lợi ích kinh tế (B) của mỗi đơn vị sản phẩm dự án có thể được biểu
diễn như sau:

Q s
 Qs P c  1 2  P
max
 P c  Q s  Q s 
2 1
B/đơn vị 
2 1
(918)
Q r
2  Q s1

= Pc  1 2 P  P c 
max

Một dạng phân phối khác đôi khi được chính quyền sử dụng để phân chia sự thiếu hụt là
phát hành một số lượng phiếu phân phối bằng với số lượng hàng hóa có thể cung cấp, và mỗi khi
mua một đơn vị hàng hóa với giá trần phải xuất trình một phiếu. Đồng thời chính quyền cho phép
việc mua bán hay trao đổi các phiếu phân phối giữa các cá nhân. Cách phân phối này cũng đã
thông dụng ở nhiều nước. Các nước này đã phát hành giấy phép để mua một số chủng loại hàng
nhập khẩu nhất định.

Khi phiếu phân phối được mua bán, giá thị trường của chúng sẽ bằng mức chênh lệch
giữa giá trần và giá mà thị trường chợ đen cần phải có để làm giảm số lượng cầu bằng với số
lượng cung. Trong Hình 98 giá phiếu phân phối Pr phải bằng với  P b0  P c nếu tổng số lượng
có thể cung cấp là Qs . Khi dự án làm số lượng cung cấp tăng lên đến Qs , mỗi phiếu phiếu phân
1 2

phối bây giờ sẽ có giá P  P. 1


b c

Giá trị kinh tế của một đơn vị sản phẩm tăng thêm từ dự án sẽ bằng giá trung bình (P r)
của phiếu phân phối cần có để mua một đơn vị hàng hóa cộng với giá trần P c. Nó là tổng của hai
yếu tố này vì cùng với nhau chúng cho biết tổng số tiền mà người tiêu thụ sẵn sàng chi trả cho
phần cung tăng thêm. Trong Hình 98 tổng giá trị kinh tế của sản phẩm dự án được thể hiện bằng
diện tích QsIJQscộng với diện tích IEDJ. Trong khi diện tích thứ nhất biểu diễn số tiền người
1 2
tiêu thụ thật sự trả cho nhà sản xuất để mua các sản phẩm, thì diện tích IEDJ đại diện cho số tiền
người tiêu thụ sẵn sàng chi trả để mua phiếu phân phối để được quyền tiêu thụ số hàng hóa tăng
thêm do dự án. Vì vậy, giá trị kinh tế của một đơn vị sản phẩm có thể được biểu diễn như sau:

(919) B/đơn vị = Pc + Pr

Nếu chúng ta so sánh giá trị kinh tế của phần cung tăng thêm khi có sự hiện hữu của chế
độ phân phối vừa nêu với trường hợp có thị trường chợ đen, chúng ta tìm được cùng một thước
đo cho lợi ích kinh tế. Tuy nhiên, sự phân phối thu nhập trong 2 trường hợp này lại có những
hàm ý rất khác nhau. Trong trường hợp thị trường chợ đen, tiền lãi từ việc bán lại hàng hóa, thể
hiện bằng diện tích P c P0b EItrong Hình 96, thuộc về những kẻ đặc quyền được mua từ đầu số
hàng cung cấp với giá trần. Trái lại, với chế độ phân phối như trên, lợi nhuận thu được từ việc
bán, hay tiềm năng bán được, phiếu phân phối thuộc về những cá nhân được phát phiếu ban đầu.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 18 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Hình 9-7: Đo lường lợi ích kinh tế của một dự án khi có giá trần áp đặt lên thị trường sản
phẩm và chế độ phân phối theo tỷ lệ được áp dụng

Giá $/đơn vị

Số lượng đơn vị trong một


thời đoạn

Bây giờ ta hãy xét trường hợp cấm nhập khẩu giày và giá trần ấn định là US$15,00 đối
với giày sản xuất trong nước bằng máy. Giả sử giá của một đôi giày sản xuất thủ công là
US$45,00, và giá này sẽ đại diện cho cho giá tối đa Pmax mà người ta có thể trả cho một đôi giày
làm bằng máy. Hiện tại các nhà sản xuất giày bằng máy đang sản xuất 5 triệu đôi một năm trong
khi mức cầu ít nhất là 8 triệu đôi với giá US$15,00 một đôi. Người ta áp dụng một hệ thống phân
phối theo tỷ lệ và không cho phép bán lại giày phân phối. Chính quyền cũng đề nghị xây dựng
một dự án để sản xuất thêm 1 triệu đôi giày mỗi năm. Lợi ích kinh tế trung bình của mỗi đôi giày
trong trường hợp này có thể được tính bằng phương trình (918) như sau:

(920) B/đơn vị = $15,00 + 1/2($45,00  $15,00)


= $15,00 + $15,00
= $30,00 một đôi

Nếu thay vào đó người ta ban hành một chế độ phân phối cho phép bán lại phiếu phân
phối, đồng thời người ta quan sát được rằng mỗi phiếu phân phối được bán với giá $11,25, thì lợi
ích kinh tế của mỗi đơn vị sản phẩm dự án trong trường hợp này được tính bằng phương trình
9  19như sau:

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 19 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

(921) B/đơn vị = $15,00 + $11,25


= $26,25

Hình 9-8: Đo lường lợi ích kinh tế của một dự án khi có giá trần áp đặt lên thị trường sản
phẩm và tem phiếu phân phối được phép mua bán

Giá $/đơn vị

Số lượng đơn vị trong một


thời đoạn

Đến đây, chúng ta mới chỉ thảo luận về việc đo lường các lợi ích kinh tế từ sự gia tăng mức cung
trong một thị trường có áp dụng chế độ phân phối. Cũng giống như trong những trường hợp đã
phân tích ở các phần trước của chương này, việc đánh giá các chi phí kinh tế của một nguyên liệu
đầu vào được thực hiện hoàn toàn giống như cách việc đánh giá lợi ích của một sản phẩm. Nếu
chính quyền thực hiện một dự án và mua những nguyên liệu được phân phối với giá trần để dùng
cho đầu vào của dự án, chi phí tài chánh sẽ không phản ánh tổn phí kinh tế đối với quốc gia.
Trong trường hợp như thế, chúng ta có thể xem việc chính quyền mua các nguyên liệu đầu vào
được phân phối như là sự cắt giảm mức cung có thể cung cấp cho những người tiêu thụ tư nhân.
Khi thị trường chợ đen hiện hữu, việc chính quyền mua hàng phân phối và do đó làm giảm mức
cung đối với những người tiêu dùng tư nhân, được minh họa bằng sự chuyển dịch về phía trái của
đường cung từ BS0 đến LSp (Hình 96). Điều đó sẽ làm cho giá thị trường chợ đen tăng lên đến
Ppb, phản ánh mức giá mà người tiêu thụ sẵn sàng chi trả cho những nguyên liệu đầu vào mà dự
án sử dụng. Như trong trường hợp đo lường lợi ích kinh tế, giá thị trường chợ đen Pb đo lường
chi phí kinh tế của một nguyên liệu đầu vào.

Khi một hệ thống phân phối theo tỷ lệ được áp dụng, việc mua nguyên liệu cho dự án có
thể trình bày như một sự dịch chuyển về phía trái của đường cung từ BS0 đến LSp (Hình 97).

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 20 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng


Chi phí kinh tế của những cá thể mà nay phải cắt giảm lượng tiêu thụ Q  Q sẽ bằng với  s
1
s
p 
phần tổn thất về giá trị thặng dư của người tiêu thụ, được biểu diễn bằng diện tích MAI, cộng với
số tiền mà họ trả cho số lượng này với giá trần QspMIQs.1 Các phương pháp đo lường những diện
tích này hoàn toàn giống như các cách thức đo lường lợi ích kinh tế thu được từ sự gia tăng mức
cung.

Cuối cùng, trong trường hợp có chế độ phân phối bằng tem phiếu và tem phiếu có thể bán
lại (Hình 98), nếu số lượng có thể cung cấp cho những người tiêu thụ tư nhân bị giảm đi vì dự
 
án thì giá tem phiếu sẽ tăng đến P pb  P c . Chi phí kinh tế đối với những người phải cắt giảm

 
tiêu thụ số lượng Q s1  Q sp sẽ bằng trị giá của tem phiếu cộng với giá trần Pc. Một lần nữa chúng
ta thấy rằng đại lượng này hoàn toàn giống như đại lượng dùng cho việc ước tính các lợi ích kinh
tế thu được do gia tăng sản xuất như đã trình bày ở phần trước.

9.7 ĐỘC QUYỀN VÀ SỰ ĐO LƯỜNG CÁC CHI PHÍ VÀ LỢI ÍCH KINH TẾ

Đôi khi lượng cung của một mặt hàng hay một dịch vụ bị chi phối bởi một số ít nhà sản
xuất, và trong trường hợp cực đoan chỉ có một nhà sản xuất duy nhất. Trường hợp thứ nhất
thường được gọi là độc quyền nhóm (oligopoly); trường hợp sau là độc quyền (monopoly).

Trong những thị trường như thế, nhà sản xuất cá thể không cần phải lấy giá sản phẩm, do
thị trường ấn định và nằm ngoài tầm điều khiển của mình, làm thông số cho sản phẩm đó như
trong trường hợp thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Trong trường hợp thị trường cạnh tranh hoàn
hảo, nhà sản xuất nằm trong tình trạng mà nếu họ quyết định sản xuất nhiều hơn thì giá thị
trường phải giảm đi để họ có thể bán phần sản phẩm tăng thêm. Hơn nữa, sự giảm giá không chỉ
áp dụng cho những sản phẩm bán cuối cùng, mà cho tất cả những sản phẩm đem bán khác. Do đó
phần tăng thêm trong tổng doanh thu khi bán thêm một đơn vị sản phẩm không bằng với giá bán
đơn vị sản phẩm này. Phần tăng thêm của tổng doanh thu, hay doanh thu biên, sẽ bằng với giá
bán đơn vị sản phẩm cuối cùng trừ bớt doanh thu bị mất do giảm giá bán của tất cả những đơn vị
sản phẩm khác.

Chúng ta hãy ký hiệu giá ban đầu tính cho dnhững người có nhu cầu là Pd0và số lượng bán
là Q . Sau khi tăng sản xuất, giá cầu cân bằng là P và số lượng bán là Q . Với số lượng và giá
0 1 1
ban đầu, tổng doanh thu là P Q nhưng sau khi tăng sản xuất, tổng doanh thu là P d Q . Do đó
d

0 0, 11
doanh thu biên MR được tính như sau:

(922) MR  P1d Q1  Pd0 Q 0


 P d Q  Q  Q  P d Q
 P d  Q  Q    P d  P d Q
1 1 0 0 0 0

1 1 0 1 0 0

Nếu phần gia tăng Q 1  Q0 là một đơn vị sản phẩm và  P d1  P d 0được ký hiệu là P d,
thì:

(923) MR  P1d  PdQ 0

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 21 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Vì đường cầu có độ dốc đi xuống nên Pd< 0; do đó MR < Pd. 1Ta có thể tìm được một
cách diễn tả khác cho MR bằng cách nhân số hạng cuối phía bên phải của phương trình (922)
với Q  Q Q  Q và PdPdđể có:
1 0 1 0 0 0

(924) 
MR  P d  Q  Q    P d  P d  /  Q  Q   Q 
P  P Q  Q  

1 1 0 1 0 1 0 0 0 0 1 0

Nếu Q 1  Q0 bằng 1 và chúng ta công nhận rằng


P d
1 
 P0d  /  Q 1 Q 0  Q 0 P0   1/ N ip

Phương trình (924) có thể đơn giản thành:

(925) MR  P1d 11/ N ip  



Chừng nào hệ số co dãn của cầu N ipđối với một mặt hàng là một số âm lớn hơn -1, thì
MR > 0. Tuy nhiên, nếu N ipnằm giữa 0 và 1, thì MR < 0.

Trong trường hợp chỉ có một nhà cung cấp, nhà độc quyền sẽ không bao giờ quyết định
sản xuất ra mức sản lượng mà ở đó doanh thu biên nhận được do sản xuất thêm một đơn vị sản
phẩm lại thấp hơn chi phí biên. Trong thị trường cạnh tranh, nguyên lý hoạt động để quyết định
mức cung cho một công ty muốn thu lợi nhuận tối đa là sản xuất đến mức mà chi phí biên bằng
giá thị trường.Nhưng nguyên lý hoạt động của của một nhà độc quyền là sản xuất cho đến mức
mà chi phí biên bằng doanh thu biên. Vì vậy, trong một thị trường thông thường có đường cầu
nghiêng xuống dưới và chi phí sản xuất biên là dương, nhà độc quyền luôn luôn cung cấp ít hơn
là trong trường hợp cạnh tranh hoàn hảo. Điều này được minh họa ở Hình 99.

Đối với một ngành canh tranh, mức sản xuất sẽ ở điểm (C), nơi mà đường chi phí biên
(MC) của ngành này đó cắt đường cầu. Do đó số lượng Qc sẽ được sản xuất và bán ra với giá Pc.
Trái lại, một nhà độc quyền sẽ ngưng sản xuất ở mức sản lượng mà chi phí biên của sản xuất vừa
bằng doanh thu biên. Điều đó xảy ra tại điểm A trong Hình 99, khi nhà độc quyền sản xuất Qm
đơn vị sản phẩm. Ở mức cung này, người tiêu thụ sẵn sàng trả giá Pd, đó cũng là giá mà nhà độc
quyền sẽ áp đặt để bán ra thị trường và thu lợi nhuận tối đa.

Trong tình trạng độc quyền sẽ tồn tại một khoảng cách biệt giữa chi phí biên của phần
cung tăng thêm (giá cung P s0) và giá mà người tiêu thụ sẵn sàng trả cho mặt hàng (giá cầu Pd). 0
Quan hệ này được biểu diễn trong Hình 99 cho trường hợp một nhà độc quyền trong thị trường
xi măng.

Nếu không có các loại thuế và trợ giá nào khác thì giá thị trường P m0sẽ phản ảnh giá cầu
Pdmà người tiêu thụ sẵn sàng trả để có thêm xi măng. Giá cung P ssẽ cho bởi chi phí biên MC
0 0 0
của nhà độc quyền ở mức sản xuất mà chi phí biên bằng doanh thu biên. Do đó Pdsẽ
0 lớn hơn P
s
0
một số tiền bằng khoảng cách AB trong Hình 910. Nếu sự chênh lệch này được xem là "thuế

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 22 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

độc quyền" (do nhà độc quyền thu) và bằng tm phần trăm của giá thị trường, thì giá cung P scủa
0
xi măng có thể diễn tả như là một hàm của giá thị trường P 0mnhư sau:

(926) P s= P m(1 tm)


0 0

Giá cầu Pd0đơn giản là:

(927) Pd= P m
0 0

Giả sử trong trường hợp này chính quyền đang xem xét một dự án sản xuất xi măng để
cạnh tranh với một nhà sản xuất độc quyền hiện tại. Điều đó được minh hoạ bằng sự dịch chuyển
song song về phía phải của đường chi phí biên MC0 của nhà độc quyền đến đường MC0 + SG,
trong đó SG là số lượng do dự án chính quyền cung cấp.

Phần cung tăng thêm sẽ làm cho giá thị trường giảm từ P mđến P m, đồng thời cũng làm
0 1
giảm doanh thu biên từ MR0 xuống MR1. Do việc giảm sút doanh thu biên này, nhà độc quyền
sẽ giảm bớt số lượng mình cung cấp từ Qm xuống Qs. Tương tự như vậy, việc giảm giá thị trường
sẽ làm cho người tiêu thụ tăng mức tiêu thụ của họ từ Qm đến Qd. Dự án xi măng của chính
quyền sẽ cung cấp phần chênh lệch giữa tổng mức cầu của thị trường và mức cung của nhà độc
quyền, hay (Qd  Qs).

Giá trị kinh tế của sẩn phẩm tăng thêm này bằng với: (a) giá trị của nguồn lực sản xuất
mà nhà độc quyền giải phóng do việc hạn chế sản lượng, được biểu diễn bằng diện tích Q sFAQm,
cộng với (b) giá trị mà người tiêu thụ sẵn sàng trả cho phần sản phẩm tiêu thụ tăng thêm, được
biểu diễn bằng diện tích QmBKQd. Vì vậy tổng giá trị kinh tế (B) của sản phẩm do dự án nhà
nước sản xuất mang lại có thể ước tính như sau:

(928) B = Q m  Q sMC 0  MC 1 / 2  Q d  Qm  P0d  P1d  / 2

Với giả thiết MC0  MC1 / 2có thể được biểu diễn như là giá thị trường trung bình Pm
trừ đi thuế độc quyền tm, và giá cầu Pd bằng với giá thị trường Pm, phương trình(928) có thể
biểu diễn như sau:

(929)  
B =  Q m  Q s P m 1 t m   Q d Q   P 
m
m



Biểu diễn phương trình (929) tính trên cơ sở một đơn vị sản phẩm, ta có:

(930) B/đơn vị = WsP m 1 t m   Wd Pm

Trong đó Ws là tỷ phần của sản lượng dự án trên thị trường tương ứng với phần sản lượng
bị cắt giảm bởi nhà độc quyền hiện hữu, và Wd là tỷ phần tương ứng với mức tiêu thụ tăng thêm
bởi người tiêu dùng.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 23 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Đối với trường hợp dự án xi măng được trình bày trong Hình 910, giả sử giá thị trường
ban đầu P 0m= $70, Qm = 90 ngàn tấn, MC0 = MR0 = P s= 0$42, và tm = 0,40. Nếu dự án chính
quyền sản xuất 30 ngàn tấn, ta hãy giả thiết rằng dự án làm giảm sản lượng của nhà độc quyền
hiện hữu 10 ngàn tấn mỗi kỳ so với mức mà lẽ ra sẽ được sản xuất nếu như không có dự án, và
đồng thời làm cho mức cầu tăng thêm 20 ngàn tấn. Do đó, W s = 0,333 và Wd = 0,667. Thay thế
những giá trị này vào phương trình (930) ta có:

(931) B/đơn vị = 0,333701 4  0,66770


= 13,99 + 46,69
= $60,68

Từ thí dụ này ta thấy rằng giá trị lợi ích kinh tế của mỗi đơn vị sản phẩm từ dự án chính
quyền là $60,68 trong khi giá thị trường là $70,00. Lợi ích kinh tế thấp hơn giá thị trường vì dự
án chính quyền một phần nhằm giảm bớt sản lượng của nhà độc quyền. Chi phí biên của nhà độc
quyền thấp hơn giá bán sản phẩm của mình.3

Chính quyền cũng thường đánh thuế doanh thu (ts) trên sản phẩm của nhà độc quyền. Khi
có thuế này, giá cầu Pd sẽ bằng giá thị trường Pm cộng với thuế, hay Pd = Pm(1+ ts). Đưa thuế
doanh thu này vào việc đánh giá các lợi ích kinh tế, phương trình (930) trở thành:

(932) B/đơn vị = Ws P m 1 t m  Wd P m 1 t 


s

Trong phân tích này, chúng ta mới chỉ xem xét việc mở rộng sản xuất từ một dự án của
chính quyền, và sản phẩm của dự án được bán cạnh tranh với nhà độc quyền. Đối với trường hợp
như vậy, lợi ích kinh tế của dự án nói chung sẽ thấp hơn giá thị trường của mặt hàng đó. Tương
tự như thế, việc đánh giá các chi phí kinh tế của một nguyên liệu đầu vào do nhà độc quyền sản
xuất sẽ đưa đến kết quả là giá thị trường của nó lớn hơn chi phí kinh tế. Giống như trong những
trường hợp khác đã xét ở trên, công thức để đánh giá chi phí kinh tế của một nguyên liệu đầu vào
hoàn toàn giống như công thức dùng để đánh giá lợi ích kinh tế của sản phẩm đầu ra. (Sinh viên
nên tự chứng minh điều này).

3
Đứng về phương diện phúc lợi kinh tế, ý nghĩa của những cái được và mất về thu nhập của nhà độc quyền đã được
phân tích bởi A. Bergson.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 24 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Hình 9-9: Giá đầu ra trong điều kiện độc quyền và cạnh tranh hoàn hảo

Giá

Doanh thu biên Đường cầu

Số lượng cầu và cung trong một


thời đoạn

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 25 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thẩm định đầu tư công Hướng dẫn phân tích chi phí – lợi ích cho
Bài đọc các quyết định đầu tư
Ch.9: Xác định lợi ích và chi phí trong thị
trường biến dạng

Hình 9-10: Lợi ích kinh tế của dự án chính quyền nhằm gia tăng mức cung trong một thị
trường độc quyền: trường hợp mặt hàng xi-măng

Giá $/đơn vị

Đường cầu

Doanh thu biên

Số lượng xi-măng được cầu và cung trong một


tháng (ngàn tấn)

Chi phí kinh tế của một nguyên liệu đầu vào thì thấp hơn giá tài chánh hay giá thị trường
vì một sự gia tăng mức cầu sẽ làm tăng mức sản xuất của nhà độc quyền, đồng thời làm giảm
lượng tiêu thụ của những người có nhu cầu. Chi phí biên của phần cung tăng thêm thấp hơn giá
thị trường của nguyên liệu đầu vào; do đó chi phí kinh tế, tức là bình quân gia quyền của 2 đại
lượng này, cũng sẽ nhỏ hơn giá thị trường. Phần lợi nhuận tăng thêm của nhà độc quyền, trong
khi nó là tổn phí tài chánh đối với dự án, không phải là tổn phí kinh tế đối với cả nước. Vì vậy,
sự chênh lệch giữa chi phí biên của nhà độc quyền và giá thị trường của sản phẩm không phải là
tổn phí kinh tế đối với dự án.

Glenn P. Jenkins & Arnold C. Harberger 26 Biên dịch: Kim Chi


Hiệu đính: Trương Sĩ Ánh

You might also like