You are on page 1of 120

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ

HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO


CỦA VIỆT NAM SANG TRUNG QUỐC

Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế

HỒ THỊ HOÀNG MINH

Tp. Hồ Chí Minh, năm 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ

HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO


CỦA VIỆT NAM SANG TRUNG QUỐC

Ngành: Kinh tế học


Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 60310106

Họ và tên học viên: Hồ Thị Hoàng Minh


Người HDKH: PGS.-TS. Nguyễn Văn Hồng

Tp. Hồ Chí Minh, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan luận văn này là do tự bản thân thực hiện và không sao
chép các công trình nghiên cứu của người khác để làm sản phẩm của riêng mình. Các
thông tin thứ cấp sử dụng trong luận văn là có nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng.
Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận văn.
Tác giả
Hồ Thị Hoàng Minh
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA


VIỆT NAM VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU GẠO
VÀO THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC ....................................................................5

1.1. Giới thiệu về thị trường gạo Trung Quốc ........................................................5

1.1.1. Nhu cầu về gạo của Trung Quốc từ năm 2009 ..............................................5
1.1.2. Tổng quan về các nước xuất khẩu gạo vào thị trường Trung Quốc..................6

1.2. Giới thiệu về mặt hàng gạo xuất khẩu và tiềm năng xuất khẩu gạo của Việt
Nam.............................................................................................................................7

1.2.1. Tiềm năng xuất khẩu gạo của Việt Nam ...........................................................7
1.2.2. Các chủng loại gạo xuất khẩu của Việt Nam ..................................................11

1.3. Ý nghĩa của thị trường Trung Quốc đối với hoạt động xuất khẩu gạo của
Việt Nam...................................................................................................................12

1.3.1. Xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc góp phần làm tăng thu ngoại tệ,
tích lũy vốn cho quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước .......................12

1.3.2. Xuất khẩu gạo đóng vai trò chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất
phát triển .................................................................................................................... 13

1.3.3. Xuất khẩu gạo có tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân ............................................................................................14
1.3.4. Xuất khẩu gạo sang Trung Quốc giúp phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam
...................................................................................................................................15

1.4. Bài học kinh nghiệm xuất khẩu gạo của Thái Lan .......................................16

1.4.1. Kinh nghiệm xuất khẩu gạo của Thái Lan ......................................................16
1.4.2. Bài học thành công từ Thái Lan ......................................................................18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM VÀO
THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC TRONG GIAI ĐOẠN 2009 – 2016 ................20

2.1. Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc từ
năm 2009 đến năm 2016 .........................................................................................20

2.1.1. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu .................................................................20


2.1.2. Cơ cấu mặt hàng gạo xuất khẩu ......................................................................24
2.1.3. Chất lượng gạo xuất khẩu ...............................................................................26
2.1.4. Giá gạo xuất khẩu............................................................................................29

2.2. Hoạt động tổ chức xuất khẩu gạo của Việt Nam ...........................................33

2.2.1. Các quy định về công tác tổ chức xuất khẩu gạo ............................................33
2.2.2. Vai trò của Hiệp hội Lương thực Việt Nam....................................................35
2.2.3. Nguồn cung lúa gạo xuất khẩu và hoạt động chế biến ...................................37
2.2.4. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam .............................................38
2.2.5. Các kênh phân phối .........................................................................................41
2.2.6. Hoạt động vận chuyển .....................................................................................44

2.3. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc trong giai đoạn 2009 – 2016 ..............................................................47

2.3.1. Những thành tựu và nguyên nhân ...................................................................47


2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân ......................................................................49

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG


XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC
TRONG GIAI ĐOẠN 2017 - 2020 .........................................................................54

3.1. Định hướng xuất khẩu gạo của Việt Nam đến năm 2020 .............................54

3.1.1. Quan điểm của Đảng về xuất khẩu gạo...........................................................54


3.1.2. Mục tiêu và định hướng của Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu gạo .........54

3.2. Triển vọng hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường Trung
Quốc ..........................................................................................................................56
3.2.1. Dự báo tình hình thị trường và nhu cầu về gạo của Trung Quốc đến năm 2020
...................................................................................................................................56
3.2.2. Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường
Trung Quốc ...............................................................................................................57

3.3. Giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam vào thị
trường Trung Quốc trong giai đoạn 2017 - 2020 .................................................61

3.3.1. Các giải pháp nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu ..........................................61
3.3.2. Các giải pháp hạn chế rủi ro và phát triển thương hiệu ..................................64
3.3.3. Các giải pháp về liên kết và hợp tác trong ngành sản xuất lúa gạo xuất khẩu65
3.3.4. Giải pháp về nguồn vốn sản xuất cho nông dân và vốn kinh doanh cho các
doanh nghiệp xuất khẩu gạo ......................................................................................67

3.4. Một số kiến nghị ...............................................................................................68

3.4.1. Đối với Bộ Tài nguyên và Môi trường............................................................68


3.4.2. Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ..........................................69
3.4.3. Đối với Bộ Công thương .................................................................................70
3.4.4. Đối với Hiệp hội Lương thực Việt Nam .........................................................71

KẾT LUẬN ..............................................................................................................73


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa tiếng Việt
1 Tp.HCM Thành phố Hồ Chí Minh

STT Từ viết tắt Nghĩa tiếng Anh Nghĩa tiếng Việt


Cost, Insurance and
1 CIF Giá thành, bảo hiểm và cước phí
Freight
2 DWT Deadweight tonnage Tải trọng chuyên chở (tính bằng tấn)
Food and Agriculture Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp
3 FAO
Organization của Liên Hiệp Quốc
4 FOB Free on Board Miễn trách nhiệm khi trên boong tàu
Inland Clearance
5 ICD Cảng cạn
Depot
International Trade
6 ITC Trung tâm Thương mại quốc tế
Center
7 USD United States dollar Đô la Mỹ
World Trade
8 WTO Tổ chức Thương mại thế giới
Organization
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Diện tích và sản lượng lúa của Việt Nam giai đoạn 2009 – 2016 .............. 8
Bảng 2.1: Sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc giai
đoạn 2009 – 2016 ...................................................................................................... 20
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc trong giai đoạn 2009
– 2016 ........................................................................................................................ 23
Bảng 2.3: Một số tiêu chuẩn về loại gạo trắng hạt dài xuất khẩu của Việt Nam ...... 27

Bảng 2.4: Giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc thời
kỳ 2009 – 2016 ......................................................................................................... 30
Bảng 2.5: Giá FOB một số loại gạo của Việt Nam và Thái Lan .............................. 32
Bảng 2.6: Những tuyến đường thủy nội địa chính .................................................... 45
DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1.1. Biểu đồ lượng gạo nhập khẩu vào Trung Quốc từ năm 2009 đến năm
2016 .............................................................................................................................6
Biểu đồ 1.2. Biểu đồ thị phần các nước nhập khẩu gạo vào Trung Quốc...................6
Biểu đồ 1.3: Số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong ngành nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản giai đoạn 2009 – 2016 ..................................................9
Biểu đồ 2.1: Sản lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam và một số nước khác vào Trung
Quốc giai đoạn 2009 – 2016 .....................................................................................22
Biểu đồ 2.2: Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam và một số nước khác vào thị
trường Trung Quốc giai đoạn 2009 – 2016 ............................................................... 24
Biểu đồ 2.3: Tỷ trọng của từng nhóm gạo trong tổng sản lượng xuất khẩu của Việt
Nam vào thị trường Trung Quốc trong giai đoạn 2009 – 2016 ................................25
Biểu đồ 2.4: Giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam so với một số nước và cả thế
giới giai đoạn 2009 – 2016 ........................................................................................31
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ kênh phân phối gạo của Việt Nam ................................................42
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ liên kết và hợp tác trong ngành sản xuất lúa gạo ..........................66
1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trung Quốc là một đối tác thương mại vô cùng quan trọng của Việt Nam trong
thời gian dài, vì vậy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc luôn là một
đề tài được quan tâm nhiều trong những năm vừa qua. Đặc biệt từ năm 2008, Trung
Quốc trở thành thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam. Tuy vậy, Việt Nam
vẫn còn thiếu một chiến lược xuất khẩu gạo vào thị trường Trung Quốc nói riêng và
thị trường quốc tế nói chung. Cho đến nay, Việt Nam chưa có những phân tích thị
trường lúa gạo quốc tế một cách bài bản, có các đối thủ cạnh tranh nào trong lĩnh vực
lúa gạo, năng lực của doanh nghiệp Việt Nam ra sao có đáp ứng được nhu cầu ngày
càng cao về lượng và về chất hay không, chiến lược marketing lúa gạo như thế nào,
dựa trên những phân khúc thị thị trường nào…Điều này càng cần thiết hơn khi hiện
tại Việt Nam đang gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ các nước xuất khẩu gạo khác
như Thái Lan, Pakistan,...

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Xuất khẩu gạo được xác định là một ngành chiến lược của Việt Nam trong thời
gian kể từ năm 2010, vì vậy đề tài về xuất khẩu gạo rất được quan tâm trong những
năm vừa qua. Trong đó có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu gạo của Việt Nam từ khi là thành
viên của Tổ chức WTO của tác giả Cao Minh Trí (Tp. HCM, năm 2016) đề
cập đến năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường gạo thế giới kể từ
năm 2008 đến năm 2015, đồng thời đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao
năng lực và vị thế của Việt Nam trong giai đoạn 2016 – 2020.
- Xây dựng thương hiệu mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam của tác giả Bùi
Ngọc Anh Thư (Tp. HCM, 2014) đề cập đến vấn đề xây dựng thương hiệu
của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2015 đến năm
2020.
2

- Xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam sang thị trường Singapore của tác
giả Lê Thị Thanh Nga (Tp. HCM, 2011) đề cập đến thực trạng tình hình xuất
khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường này.
- Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2014 của tác giả
Trần Ngọc Bảo Châu (Tp. HCM, 2014) nêu lên sự cần thiết phải đẩy mạnh
xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2014 cũng như đề ra
một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới.
Sau khi xem xét về tình hình nghiên cứu đề tài, tác giả nhận thấy mặc dù Trung
Quốc là một đối tác quan trọng trong lĩnh vực thương mại gạo của Việt Nam, nhưng
hiện nay chưa có nghiên cứu cụ thể về tầm quan trọng của việc đẩy mạnh và hoàn
thiện quy trình xuất khẩu gạo vào thị trường Trung Quốc, trong khi thị trường này có
ảnh hưởng rất mạnh đến ngành gạo xuất khẩu của Việt Nam. Vì vậy, tác giả đã lựa
chọn đề tài này để nghiên cứu trên cơ sở tham khảo các công trình có liên quan.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài


3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung Quốc từ
năm 2009 đến năm 2016, bao gồm các nội dung như kim ngạch, sản lượng, cơ cấu
các loại gạo xuất khẩu, giá cả … trong đó có sự so sánh với gạo nhập khẩu từ các
nước khác như Thái Lan, Pakistan,... nhằm góp phần hoàn thiện quy trình xuất khẩu
gạo nói chung và xuất khẩu gạo sang Trung Quốc nói riêng, nhằm nâng cao vị thế
cạnh tranh mặt hàng gạo của Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tương ứng với các mục tiêu đã đề ra, người viết xác định những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:
- Khái quát về thị trường gạo của Trung Quốc và tầm quan trọng của thị trường
này đối với ngành xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng như nêu ra những ưu thế hiện
có của Việt Nam trên thị trường này
- Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường
Trung Quốc trong giai đoạn 2009 – 2016, làm rõ những thành tựu và hạn chế của hoạt
động này.
3

- Từ những phân tích về thực trạng, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm
hoàn thiện hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc, góp phần
giữ vững vị thế của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang
thị trường Trung Quốc, bao gồm các nội dung như: kim ngạch, sản lượng, cơ cấu, các
doanh nghiệp xuất khẩu, chính sách của Nhà nước Việt Nam…
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hoạt động xuất khẩu gạo từ Việt Nam sang Trung Quốc trong
thời gian từ năm 2009 – 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng là chủ yếu. Để làm rõ các
vấn đề trên, tác giả đã kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu gắn liền với lý thuyết
và thực tiễn như: thu thập, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê dữ liệu và phỏng
vấn chuyên gia.
Về các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, tác giả đã thu thập, phân tích, tổng
hợp dữ liệu từ các nguồn có uy tín như: báo, tạp chí, tài liệu hội thảo chuyên ngành,
các công trình nghiên cứu có liên quan của những nhà khoa học và tác giả đi trước;
kênh thông tin chính thức của ITC và Chính phủ cùng các Bộ, ban ngành có liên quan
tại Việt Nam. Sau đó, tác giả tiến hành phân tích, tổng hợp, so sánh trên nền tảng
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Về phương pháp nghiên cứu thực tiễn, tác giả sử dụng phương pháp phân tích
dữ liệu từ trademap của ITC, đồng thời sử dụng dữ liệu hải quan xuất khẩu của Việt
Nam trong giai đoạn 2009 – 2016 nhằm phân tích thực trạng của đối tượng nghiên
cứu.
Đặc biệt, phương pháp phỏng vấn chuyên gia được sử dụng như là một phương
pháp hỗ trợ quan trọng để tác giả có thể đưa ra những nhận định và giải pháp khách
quan, đáng tin cậy và khả thi. Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, tác giả có cơ hội
thực hiện phỏng vấn chuyên sâu với bà Phạm Lê Khánh Hân – Trưởng phòng xuất
4

nhập khẩu Công ty Cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An, một trong những
doanh nghiệp xuất khẩu gạo có uy tín của Việt Nam. Với trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm dồi dào, bà Khánh Hân đã cung cấp cho tác giả những đánh giá, nhận định
khách quan, góp phần không nhỏ để tác giả củng cố độ tin cậy của đề tài.

6. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, nội dung của khóa luận bao gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA
VIỆT NAM VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU GẠO VÀO
THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM VÀO
THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC TRONG GIAI ĐOẠN 2009 – 2016
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC
TRONG GIAI ĐOẠN 2017 - 2020
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả xin cảm ơn sự quan tâm, hướng dẫn tận
tình và kịp thời của giáo viên hướng dẫn – PGS.-TS. Nguyễn Văn Hồng. Đồng thời
tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tập thể giảng viên của trường Đại học Ngoại thương
đã truyền dạy những kiến thức chuyên môn vô cùng hữu ích và thực tế trong suốt hai
năm vừa qua.
Mặc dù đã cố gắng hết sức, nhưng do hạn chế về thời gian và kiến thức cũng
như kinh nghiệm thực tế, nội dung của khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu từ quý thầy, cô và độc giả để đề tài
được hoàn thiện hơn.
Học viên thực hiện
Hồ Thị Hoàng Minh
5

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA


VIỆT NAM VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU GẠO
VÀO THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC

1.1. Giới thiệu về thị trường gạo Trung Quốc


1.1.1. Nhu cầu về gạo của Trung Quốc từ năm 2009

Lúa gạo là một nguồn lương thực quan trọng khó có thể thay thế trong nhu cầu
hàng ngày của người dân Trung Quốc. Với dân số đông nhất thế giới (1,3 tỷ người
vào năm 2016) (theo World Bank, 2016), nhu cầu lương thực nói chung và nhu cầu
về gạo nói riêng của Trung Quốc là rất lớn. Trung Quốc sản xuất và tiêu thụ khoảng
1/3 sản lượng gạo của thế giới, tức là khoảng 200 triệu tấn/năm (Wei Xiong, Viện
Môi trường & Phát triển bền vững Viện Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, 2016).
Tuy nhiên, do đặc điểm của cây lúa là phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, không
phải vùng nào cũng có thể trồng lúa để đáp ứng nhu cầu lương thực của người dân
trong nước, trong khi Trung Quốc chỉ sở hữu 9% diện tích có thể canh tác nông nghiệp
của thế giới (Anh Minh, 2017). Do vậy, từ lâu Trung Quốc đã tham gia vào thị trường
thương mại gạo của thế giới với vai trò như một nhân tố có khả năng gây xáo trộn
mạnh thị trường gạo thế giới do có thể tăng sản lượng xuất khẩu (khi giảm lượng dự
trữ) hoặc tăng khối lượng nhập khẩu (khi mất mùa cần phải bổ sung dự trữ để đảm
bảo an ninh lương thực) (Nguyễn Văn Sơn, 2013).
Khi cuộc khủng hoảng lương thực thế giới năm 2008 diễn ra, giá lương thực thế
giới ở mức cao, sản lượng nhập khẩu gạo của Trung Quốc đã giảm xuống mức thấp
nhất kể từ năm 2003. Tuy nhiên, sau đó, khi giá lương thực ổn định trở lại, Trung
Quốc tiếp tục nhập khẩu gạo đều đặn và sản lượng liên tục tăng từ năm 2009 đến nay.
Biểu đồ dưới đây sẽ thể hiện rõ hơn về sản lượng nhập khẩu gạo của Trung Quốc qua
các năm:
6

Biểu đồ 1.1. Biểu đồ lượng gạo nhập khẩu vào Trung Quốc từ năm 2009
đến năm 2016

Đơn vị: tấn

4,000,000

3,000,000

2,000,000

1,000,000

0
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Sản lượng 337,537 366,171 578,383 2,344,622 2,244,317 2,556,549 3,349,984 3,533,938

Nguồn: tác giả tổng hợp từ “List of importers for rice” của ITC, 2017

Từ năm 2009, sản lượng gạo nhập khẩu vào Trung Quốc tăng lên nhanh chóng
và tăng đột biến kể từ năm 2012, từ 578.383 tấn vào năm 2011 đến hơn 2 triệu tấn
vào năm 2012. Đến cuối năm 2016, lượng gạo nhập vào Trung Quốc đã tăng lên 3,5
triệu tấn, chiếm 9,48% tổng khối lượng mua bán gạo của toàn thế giới. Điều này cho
thấy nhu cầu về gạo của thị trường Trung Quốc là rất lớn và có khả năng chi phối thị
trường gạo thế giới.
1.1.2. Tổng quan về các nước xuất khẩu gạo vào thị trường Trung Quốc

Dựa vào số liệu được thống kê trong “List of importers for rice” của ITC, 2017,
có thể thấy rằng các nước xuất khẩu gạo vào thị trường Trung Quốc chủ yếu là Thái
Lan, Việt Nam và Pakistan.

Biểu đồ 1.2. Biểu đồ thị phần các nước nhập khẩu gạo vào Trung Quốc
Đơn vị: %

100%
80%
60%
40%
20%
0%
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Việt Nam 0.86 15.32 40.42 65.90 65.99 52.89 53.56 45.80
Thái Lan 93.88 81.68 56.30 7.48 13.36 28.47 27.80 26.27
Pakistan 0.11 0.12 1.50 24.72 18.58 15.91 13.21 19.91
Các nước khác 5.15 2.89 1.78 1.90 2.07 2.74 5.42 8.02

Nguồn: tác giả tổng hợp từ “List of importers for rice” của ITC, 2017
7

Trong những năm 2009 – 2010, Thái Lan là nguồn nhập khẩu chủ yếu của thị
trường Trung Quốc với tỷ lệ lần lượt là 93,88% và 81,68%. Tuy nhiên từ năm 2011,
Việt Nam lại trở thành nguồn nhập khẩu gạo chủ yếu của Trung Quốc với thị phần
chiếm xấp xỉ 50%, thậm chí năm 2013 chiếm đến 65,99%. Nguyên nhân của sự thay
đổi này xuất phát từ sự cạnh tranh về giá gạo xuất khẩu của các nước. Từ trước đến
nay gạo Thái Lan luôn được biết đến với chất lượng tốt, ổn định đi kèm với những
thương hiệu lâu đời nên mức giá xuất khẩu thường cao hơn những nước khác. Trong
khi đó thị trường Trung Quốc lại là một thị trường khá dễ tính về chất lượng và rất
nhạy cảm về giá, nên khi Việt Nam xuất khẩu những loại gạo với chất lượng tương
đương Thái Lan mà mức giá lại rẻ hơn rất nhiều thì Trung Quốc lại chuyển hướng
nhập gạo của Việt Nam. Trường hợp này cũng tương tự đối với Pakistan khi từ năm
2012 đến 2016, thị phần của gạo Pakistan nhập khẩu vào thị trường Trung Quốc ở
mức tương đối ổn định sau khi đạt đỉnh 24,72% vào năm 2012.

1.2 Giới thiệu về mặt hàng gạo xuất khẩu và tiềm năng xuất khẩu gạo của Việt
Nam
1.2.1. Tiềm năng xuất khẩu gạo của Việt Nam
1.2.1.1. Điều kiện tự nhiên

Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình
Dương. Trên bản đồ, dải đất liền của Việt Nam kéo dài từ vĩ độ 23023’ Bắc đến 8027’
Bắc. Việt Nam nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa, quanh năm có nhiệt
độ cao, độ ẩm lớn, mưa nhiều. Do đó, nước ta có khí hậu rất thuận lợi để sản xuất lúa
gạo, trồng được nhiều vụ mùa trong năm. Ở miền Bắc một năm có hai vụ lúa chính
là vụ chiêm và vụ mùa. Ở miền Nam, nông dân trồng ba vụ một năm: vụ đông xuân
(có sản lượng cao nhất và cũng đạt chất lượng tốt nhất cho xuất khẩu), vụ hè thu và
vụ thu đông. Tuy nhiên, nước ta cũng thường xuyên gặp thiên tai như bão, lũ lụt, rét
đậm, sương muối,… gây ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất, sản lượng cũng như
chất lượng của lúa gạo.
Ngoài điều kiện khí hậu thuận lợi cho việc trồng lúa, Việt Nam còn có hệ thống
sông ngòi dày đặc với 2.360 con sông, tạo nên hệ thống cung cấp nước dồi dào cho
ngành nông nghiệp. Dọc bờ biển, khoảng 23 km có một cửa sông và theo thống kê có
8

112 cửa sông ra biển. Các sông lớn ở Việt Nam thường bắt nguồn từ bên ngoài, phần
trung du và hạ du chảy trên đất Việt Nam. Hầu hết các sông ở Việt Nam chảy theo
hướng tây bắc – đông nam và đổ ra biển Đông. Hai con sông lớn nhất là sông Hồng
và sông Cửu Long tạo nên hai đồng bằng rộng lớn, đất đai màu mỡ là hai vựa lúa
chính của cả nước, trong đó đồng bằng sông Cửu Long là nguồn cung cấp gạo xuất
khẩu chủ yếu của Việt Nam.
Bên cạnh đó, tài nguyên đất của Việt Nam cũng rất đa dạng, có độ phì cao, thuận
lợi cho phát triển nông nghiệp nói chung và ngành lúa gạo nói riêng. Tổng diện tích
cả nước là khoảng 33,1 triệu ha, trong đó diện tích đất trồng lúa là khoảng hơn 7 triệu
ha, chiếm hơn 21% diện tích cả nước và có xu hướng ngày càng tăng. Đất trồng lúa
nước ta không chỉ có độ phì nhiêu cao mà còn rất phù hợp với khả năng phát triển
của cây lúa. Đây là một lợi thế quan trọng cho việc thâm canh và quảng canh nhằm
tăng sản lượng cây lúa.
Bảng 1.1: Diện tích và sản lượng lúa của Việt Nam giai đoạn 2009 – 2016
Đơn vị: nghìn ha, nghìn tấn, tạ/ha
Năm Diện tích lúa (nghìn ha) Sản lượng (nghìn tấn) Năng suất (tạ/ha)
2009 7.437,2 38.950,2 52,4
2010 7.489,4 40.005,6 53,4
2011 7.655,4 42.398,5 55,4
2012 7.761,2 43.737,8 56,4
2013 7.902,5 44.039,1 55,7
2014 7.816,2 44.974,6 57,5
2015 7.834,9 45.215,6 57,7
2016 7.752,0 45.212,0 57,1
Nguồn: tác giả tổng hợp từ số liệu thống kê về sản lượng, diện tích và năng
suất của một số cây trồng của Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2017
Bảng số liệu trên cho thấy sự tăng trưởng của ngành sản xuất lúa gạo của Việt
Nam, về cả diện tích, sản lượng và năng suất. Tuy vậy, tốc độ gia tăng của năng suất
(trung bình trong giai đoạn trên là 1,25%) còn thấp so với tốc độ tăng của sản lượng
(trung bình trong giai đoạn trên là 2,17%). Mặt khác, vào năm 2016, khi Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chủ động giảm 100.000 ha gieo trồng lúa
để chuyển sang trồng ngô và cây thức ăn chăn nuôi thì sản lượng gạo của Việt Nam
9

có sự suy giảm nhẹ, chứng tỏ rằng năng suất lúa còn phụ thuộc nhiều vào diện tích
trồng lúa. Điều này đặt ra một thách thức cho ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam khi
phải tăng về cả năng suất và sản lượng trong khi diện tích trồng lúa có hạn.
1.2.1.2. Nguồn lao động cho nông nghiệp
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam, mỗi năm nước ta có khoảng trên
dưới 50% lao động từ 15 tuổi trở lên làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.
Với lợi thế lực lượng lao động dồi dào, được đánh giá là cần cù, thông minh, chịu
khó và có khả năng tiếp thu công nghệ, Việt Nam từ lâu đã phát triển ngành sản xuất
lúa gạo như một ngành sản xuất truyền thống gắn liền với nền văn minh lúa nước của
dân tộc. Hơn nữa, giá nhân công của nước ta ở mức thấp so với các đối thủ cạnh tranh
khác như Thái Lan, Pakistan, nên đã tạo ra lợi thế về chi phí sản xuất lúa gạo cho Việt
Nam.
Biểu đồ 1.3: Số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong
ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản giai đoạn 2009 – 2016
Đơn vị: nghìn người

TỔNG SỐ Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản


60,000
50,000
40,000
30,000
20,000
10,000
0
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Nguồn: Thống kê Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm
01/07 hàng năm phân theo ngành kinh tế của Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2017
Tuy lực lượng lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm trên dưới
50% dân số trong độ tuổi lao động nhưng số lượng này đang có xu hướng giảm dần
cả về giá trị tuyệt đối và tương đối. Cụ thể vào năm 2009, số lượng lao động trong
lĩnh vực này chiếm 51,54%, sau đó giảm dần và đến năm 2016, con số này chỉ còn
41,9%. Điều này chứng tỏ rằng lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp hiện nay không thu
10

hút được lực lượng lao động mới, mà họ đang chuyển sang các ngành công nghiệp
hoặc dịch vụ có sức hút hơn.
Mặt khác, tuy lực lượng lao động dồi dào như vậy nhưng trình độ chuyên môn
của lao động nông thôn chưa cao. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam,
hiện tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực này đã qua đào tạo chỉ chiếm 4,2% vào
năm 2015. So với những năm trước thì tỷ lệ này có tăng nhưng không đáng kể. Đây
chính là hạn chế lớn nhất của lao động nông thôn, bởi người nông dân chủ yếu làm
việc theo truyền thống và kinh nghiệm đúc kết từ thực tế, chưa có được trình độ
chuyên môn, kiến thức về chăm sóc cây lúa, phòng tránh dịch bệnh, tiếp thu những
tiến bộ khoa học kỹ thuật,… Nếu Nhà nước có thể giải quyết tốn vấn đề này thì nguồn
nhân lực dồi dào sẽ trở thành yếu tố quan trọng góp phần đẩy mạnh hoạt động sản
xuất lúa gạo của Việt Nam, tạo cơ sở cho hoạt động xuất khẩu.
1.2.1.3. Chính sách hỗ trợ của Nhà nước
Từ khi đổi mới nền kinh tế vào năm 1986, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng
nhiều chính sách theo hướng kinh tế thị trường. Các chính sách tác động đến sản xuất
lúa gạo và thúc đẩy gia tăng sản xuất như chính sách đất đai, chính sách đầu tư cơ sở
hạ tầng phục vụ nông nghiệp, hỗ trợ tín dụng cho nông dân và doanh nghiệp xuất
khẩu,… Theo Luật sửa đổi bổ sung Luật Đất đai nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam 2010, Nhà nước có chính sách bảo vệ đất chuyên trồng lúa nước, hạn chế
chuyển đất chuyên trồng lúa nước sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp.
Trường hợp cần thiết phải chuyển một phần diện tích đất chuyên trồng lúa nước sang
sử dụng vào mục đích khác thì Nhà nước có biện pháp bổ sung diện tích đất hoặc
tăng hiệu quả sử dụng đất chuyên trồng lúa nước. Nhà nước cũng có chính sách hỗ
trợ, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, áp dụng khoa học và công nghệ hiện đại cho
vùng quy hoạch chuyên trồng lúa nước có năng suất, chất lượng cao. Bên cạnh đó,
người sử dụng đất chuyên trồng lúa nước có trách nhiệm cải tạo, làm tăng độ màu mỡ
của đất; không được chuyển sang sử dụng vào mục đích trồng cây lâu năm, trồng
rừng, nuôi trồng thuỷ sản và vào mục đích phi nông nghiệp nếu không được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cho phép.
11

Về hỗ trợ tín dụng, Đảng và Nhà nước đã có nhiều quan tâm nhằm tháo gỡ khó
khăn về vốn cho các lĩnh vực nông nghiệp, tiêu biểu là Nghị quyết 26 của Trung ương
về chính sách cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Nghị định 41/2010/NĐ-CP
về chính sách tín dụng cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Hiện nay hệ thống hỗ
trợ tài chính nông thôn chính thức gồm có Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Việt Nam cho người nghèo và Quỹ tín dụng nhân
dân. Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành điều chỉnh một số chính sách tín dụng cho
nông nghiệp, ví dụ như giảm lãi vay xuất khẩu gạo từ 10%/năm xuống 9%/năm
(4/7/2013), gia hạn các khoản vay mua tạm trữ thóc gạo vụ đông xuân (24/6/2013),
cho phép ngân hàng thương mại kéo dài thời gian cho vay tạm trữ thóc gạo hè thu
2013 đến hết 15/8/2013… Nhờ đó, điều kiện và dư nợ tín dụng nông nghiệp được cải
thiện khá rõ rệt trong thời gian gần đây. Theo Ngân hàng Nhà nước, từ năm 2008 đến
nay, hàng năm tăng trưởng tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn tăng trung
bình khoảng 20%. Chính những chính sách của Chính phủ và đường lối lãnh đạo
đúng đắn của Đảng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất và xuất khẩu gạo của
Việt Nam, góp phần hoàn thiện hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam ra thị trường
thế giới.
1.2.2. Các chủng loại gạo xuất khẩu của Việt Nam

Các giống lúa ở Việt Nam rất đa dạng, phong phú và được gieo trồng quanh
năm trên khắp các tỉnh thành trong cả nước, trong đó hai vùng trồng lúa chính là đồng
bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Những giống lúa này là kết quả của
một công trình lâu dài bao gồm các công việc thuần hóa, du nhập, tuyển chọn và cải
thiện do nông dân và các nhà khoa học thực hiện. Có nhiều cách phân loại các giống
lúa ở Việt Nam hiện nay như sau:
Xét về thời vụ, các loại gạo được chia thành các loại: cực ngắn ngày, ngắn ngày,
trung hạn và dài ngày.
Xét về chất lượng, gạo xuất khẩu được chia thành: gạo phổ thông, gạo cao cấp,
gạo tẻ, gạo nếp
Ngoài ra còn có một số loại gạo như gạo sắt, gạo đồ, gạo lức, gạo thơm Đài
Loan,…
12

Tuy nhiên, thông thường trong xuất khẩu gạo, Việt Nam chủ yếu phân chia theo
tỷ lệ tấm và các loại gạo được phân thành 3 nhóm chính: nhóm gạo phẩm cấp cao
(loại 5 – 10% tấm), nhóm gạo phẩm cấp trung bình (loại 15 – 20% tấm) và nhóm gạo
phẩm cấp thấp (loại 25% tấm trở lên).
Ở Việt Nam hiện nay, gạo xuất khẩu chủ yếu là gạo trắng hạt dài, chất lượng
trung bình được sản xuất hầu hết từ đồng bằng sông Cửu Long. Trong cơ cấu xuất
khẩu đó, chúng ta vẫn chưa chú trọng nhiều tới gạo đặc sản truyền thống Thơm Lài,
Nàng Hương, Nàng Thơm, Huyết Rồng… Hiện nay trên thế giới, ở những nước phát
triển, loại gạo này rất được ưa chuộng và trong tương lai, nhu cầu về loại gạo này sẽ
ngày càng tăng, đem lại nguồn thu lớn cho các nước xuất khẩu.

1.3.Ý nghĩa của thị trường Trung Quốc đối với hoạt động xuất khẩu gạo của
Việt Nam

Trong những năm vừa qua, lúa gạo được xem là một mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam vì hoạt động này đem lại nhiều lợi ích to lớn cho quá trình phát
triển nền kinh tế nước nhà. Với những phân tích ở trên về nhu cầu lúa gạo của Trung
Quốc và những lợi thế sẵn có của Việt Nam trong ngành xuất khẩu gạo, cùng với ưu
thế về vị trí địa lý giáp ranh với Trung Quốc, Việt Nam đang có lợi thế rất lớn trong
việc đẩy mạnh xuất khẩu và gia tăng thị phần ở thị trường Trung Quốc so với các đối
thủ cạnh tranh như Thái Lan, Pakistan,… Ngoài việc chiếm tỷ trọng lớn trong thương
mại gạo của toàn thế giới, Trung Quốc cũng là nước nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt
Nam với tỷ lệ 30% - 40% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam nếu xét về khối lượng.
Vì vậy, thị trường Trung Quốc có sức ảnh hưởng rất lớn đến ngành xuất khẩu gạo
của Việt Nam, nếu như không xét đến nhũng hợp đồng chính phủ giữa Việt Nam với
Cuba, Iraq, Philippines,… Hoạt động xuất khẩu gạo, đặc biệt là xuất khẩu sang thị
trường Trung Quốc đem lại nhiều lợi ích cho Việt Nam như dưới đây.
1.3.1. Xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc góp phần làm tăng thu ngoại
tệ, tích lũy vốn cho quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước

Mục tiêu chủ yếu sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Để tiến hành thành công quá trình này, cần huy
động tối đa mọi nguồn lực của quốc gia, trong đó vốn là một yếu tố vô cùng quan
13

trọng. Có vốn mới có thể xây dựng cơ sở hạ tầng, nhập khẩu máy móc, trang thiết bị
tiên tiến, đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực... để theo kịp nền công nghiệp hiện đại
của các nước phát triển. Vốn thường được huy động từ nhiều nguồn khác nhau như:
đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, xuất khẩu…. Trong đó
vốn thu được từ hoạt động xuất khẩu có tác động lớn đến hoạt động nhập khẩu, qua
đó đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta những năm gần đây, kim ngạch từ
xuất khẩu gạo chiếm một tỷ trọng khá lớn. Gạo đã trở thành một mặt hàng chủ lực
của nông sản Việt Nam trên trường quốc tế. Thực tế cho thấy xuất khẩu gạo từ lâu đã
mang lại một nguồn vốn không nhỏ cho nước ta. Chính vì thế, Đảng và Nhà nước ta
đã chú trọng hơn tới tăng cường áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất, đặc biệt
chú ý tới những giống lúa có chất lượng và cho năng suất cao, đồng thời đẩy mạnh
hơn nữa xuất khẩu gạo nhằm đem lại nguồn vốn lớn phục vụ cho công cuộc đổi mới
đất nước. Trong đó, Trung Quốc lại là một thị trường rộng lớn với nhu cầu ổn định,
nên việc tập trung chiếm lĩnh thị trường này có thể xem là một định hướng lâu dài và
bền vững cho đầu ra của gạo Việt.
1.3.2. Xuất khẩu gạo đóng vai trò chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản
xuất phát triển

Xuất khẩu gạo tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có cơ hội phát triển
như nghiên cứu và sản xuất giống lúa mới; sản xuất phân bón và thuốc bảo vệ thực
vật; sản xuất và lắp ráp máy cày, máy kéo, máy tuốt lúa, máy gặt đập liên hợp….
Những hoạt động này không những làm tăng năng suất lao động mà còn mở rộng khả
năng cung cấp yếu tố đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Bên cạnh đó, các dịch vụ về marketing sản phẩm; xây dựng thương hiệu gạo; tìm
hiểu, nghiên cứu thị trường tiêu thụ, tìm kiếm đối tác trong và ngoài nước… cũng
được đẩy mạnh. Từ đó mở ra nhiều cơ hội cho các ngành nông nghiệp, công nghiệp,
dịch vụ, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay khi mà gạo Việt vẫn chưa xây dựng được
thương hiệu cho mình trên thị trường Trung Quốc.
Ở Việt Nam, đẩy mạnh xuất khẩu gạo đồng nghĩa với việc tăng cường sản xuất
theo quy mô vùng. Hiện nay, ở nước ta đã và đang hình thành những vùng lúa tập
14

trung chuyên sản xuất gạo xuất khẩu bao gồm cả hai khu vực chủ yếu là đồng bằng
sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Mỗi vùng phù hợp với những loại giống
lúa khác nhau. Như vậy, cơ cấu nông nghiệp sẽ thay đổi phát huy theo lợi thế của
từng vùng. Trong những năm gần đây, sản lượng lúa thu hoạch tăng cao. Xuất khẩu
gạo tạo điều kiện mở rộng tiêu thụ sản phẩm, tránh ứ đọng, tồn kho. Khi khâu tiêu
thụ được giải quyết sẽ tạo tâm lý an tâm, khuyến khích nông dân tăng cường, đẩy
mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Như vậy, xuất khẩu đã tác động ngược
trở lại đối với sản xuất, là một tiền đề cho sản xuất phát triển. Doanh thu từ xuất khẩu
gạo mang lại tạo ra nguồn vốn quan trọng, là tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm nâng cao
năng lực sản xuất trong nước.
1.3.3. Xuất khẩu gạo có tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân

Đối với mỗi quốc gia, việc phát triển nguồn nhân lực là nội dung lớn thuộc chiến
lược phát triển con người để thực hiện thắng lợi các chiến lược kinh tế – xã hội của
đất nước. Dân số nước ta với 80% dân số tập trung ở nông thôn, phần lớn sinh sống
bằng sản xuất lúa gạo và trồng cây lương thực. Trong khi đó, đời sống ở nông thôn
và thành thị có sự chênh lệch đáng kể. Đời sống của người nông dân còn thấp, xét cả
về mức thu nhập bình quân đầu người, điều kiện vật chất và cơ sở hạ tầng….
Xuất khẩu gạo trước hết làm tăng thu nhập của người nông dân đặc biệt ở các
vùng chuyên canh lúa nước, đời sống người dân phụ thuộc chủ yếu vào cây lúa. Sau
nữa, xuất khẩu giúp giải quyết một lượng lớn lao động dư thừa trong nước trong các
khâu sản xuất, phân phối, thu mua.
Khi xuất khẩu gạo được đẩy mạnh sẽ kéo theo những ngành nghề khác hỗ trợ
cho sản xuất như xay xát, chế biến, vận chuyển hàng hoá, các hoạt động thương mại,
dịch vụ bao gồm nhiều công đoạn tạo đầu vào cho xuất khẩu…. Những công tác trên
thu hút khá nhiều lao động từ không có trình độ kỹ thuật, quản lý đến lao động có
trình độ cao.
Xuất khẩu gạo giúp cho thị trường trong nước ít biến động, cân bằng được cung
cầu, không còn lượng hàng dư thừa và tồn kho trong nước, giá gạo nội địa sẽ ổn định
và cao hơn tạo thêm thu nhập cho người nông dân. Khi xuất khẩu gạo thu được thêm
15

ngoại tệ, một phần ngoại tệ để nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng mà trong nước
không sản xuất được. Điều đó góp phần cải thiện đáng kể đời sống nhân dân, khuyến
khích họ tăng cường sản xuất gạo xuất khẩu nhiều hơn nữa.
1.3.4. Xuất khẩu gạo sang Trung Quốc giúp phát huy lợi thế so sánh của Việt
Nam

Khí hậu nước ta là khí hậu nhiệt đới gió mùa, lượng mưa nhiều, độ ẩm cao rất
thích hợp cho trồng trọt, canh tác nông nghiệp đặc biệt là cây lúa. Ngoài ra nước ta
còn có hai đồng bằng phù sa màu mỡ rộng lớn, thích hợp cho việc trồng lúa. Điều
kiện lý tưởng này đã tạo nên lợi thế cho ngành lúa gạo Việt Nam, đặc biệt ở hai vựa
lúa chính là đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng.
Ngoài ra, vị trí địa lý cũng là một lợi thế của Việt Nam trong hoạt động xuất
khẩu gạo vào Trung Quốc. Gạo của Pakistan chỉ có thể vận chuyển bằng đường bộ
qua địa hình hiểm trở của tỉnh Tân Cương ở cực Tây mới đến được hai tỉnh phía Bắc
rất thiếu gạo là Thanh Hải và Cam Túc. Còn nếu họ tiếp tục vận chuyển bằng đường
sắt xuống các tỉnh phía Nam hoặc vận chuyển bằng đường biển vòng quanh Ấn Độ
Dương, qua eo Malacca để vào biển Đông thì chi phí sẽ tăng vọt. Tương tự, gạo Thái
Lan cũng phải vận chuyển một quãng đường dài bằng đường biển vòng qua Việt Nam
để đến Trung Quốc. Trong khi gạo của Việt Nam hoàn toàn có thể vận chuyển bằng
đường sắt hoặc chỉ phải vượt qua biển Đông để đến tỉnh Quảng Đông hoặc cập cảng
Phòng Thành ngay sát biên giới và chuyển qua đường sắt để tới nhiều tỉnh rất thiếu
gạo khác như Vân Nam, Quý Châu, Trùng Khánh… Chính vị trí địa lý đã làm cho
chi phí vận chuyển gạo từ Việt Nam rẻ hơn rất nhiều so với những đối thủ cạnh tranh
khác trên thị trường, góp phần làm giảm giá thành để thu hút các thương nhân Trung
Quốc. Mặt khác, do đặc thù của mặt hàng gạo là thời gian vận chuyển dài có thể ảnh
hưởng đến chất lượng sản phẩm, nên với cùng một chất lượng gạo, gạo Việt Nam
luôn là ưu tiên đối với Trung Quốc.
Yếu tố nhân lực không chỉ có ưu thế lớn về số lượng nhân lực mà còn có ưu thế
lớn về chất lượng, về sự tinh thông, am hiểu nghề trồng lúa. Với khoảng 80% dân số
sống ở nông thôn với nghề chính là nông nghiệp, nước ta có được số lượng lao động
đông đảo phục vụ sản xuất lúa gạo từ các khâu gieo, cấy, tưới tiêu cho đến khi thu
16

hoạch, vận chuyển…. Hơn nữa, lịch sử sản xuất lúa của Việt Nam đã trải qua truyền
thống hàng nghìn năm với nền văn minh lúa nước, cha ông ta đã đúc rút được nhiều
tri thức, kinh nghiệm trồng trọt quý báu. Kho tàng kinh nghiệm ấy thực sự là một lợi
thế đặc biệt, nó cho phép khai thác triệt để các lợi thế khác của đất nước ứng dụng
vào phát triển cây lúa.

1.4. Bài học kinh nghiệm xuất khẩu gạo của Thái Lan
1.4.1. Kinh nghiệm xuất khẩu gạo của Thái Lan

Thái Lan là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, có điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội gần giống Việt Nam. Việc Thái Lan phát triển mạnh mẽ ngành
nông nghiệp và nhiều năm liền là quốc gia đứng đầu trong hoạt động xuất khẩu gạo
đang là một bài học kinh nghiệm quý báu đối với Việt Nam trong tiến trình đổi mới
đất nước, phát triển ngành nông nghiệp.
Thái Lan có diện tích trồng lúa là 10,7 triệu ha, chiếm 55% diện tích đất canh
tác của cả nước, gấp 1,35 lần diện tích trồng lúa của Việt Nam. Cách đây 30 năm,
Thái Lan chỉ là một nước nông nghiệp lạc hậu, nhưng hiện nay Thái Lan đã vươn lên
trở thành một nước nông nghiệp phát triển. Trong nhiều năm qua, gạo là mặt hàng
xuất khẩu chiến lược của Thái Lan. Trong giai đoạn 2009 – 2011, Thái Lan hầu như
chiếm vị trí độc quyền trên thị trường gạo nhập khẩu của Trung Quốc. Tuy gần đây
kim ngạch và sản lượng xuất khẩu gạo của Thái Lan có sự sụt giảm do nhiều nguyên
nhân nhưng quốc gia này vẫn chiếm thị phần ổn định trên thị trường Trung Quốc.
Gạo Thái Lan được định vị là gạo chất lượng cao, xay xát tốt và tạo dựng được những
thương hiệu trên thị trường. Vì vậy giá của gạo Thái luôn ở mức cao so với thế giới.
Để đạt được những thành tựu như trên, bên cạnh những thuận lợi về mặt tự
nhiên, Thái Lan đã bắt đầu tiến hành cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp từ
những năm 1960, đồng thời quan tâm cải thiện chất lượng gạo và áp dụng khoa học
công nghệ nhằm tăng năng suất. Cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp được đầu tư
đồng bộ, sản xuất được cơ giới hóa. Nhà nước đẩy mạnh tiêu chuẩn hóa các cơ sở
xay xát, đầu tư công nghệ chế biến và hiện đại hóa kho bảo quản,… Phương hướng
của Thái Lan là đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nghiên cứu lúa gạo
một cách nghiêm túc, kĩ lưỡng nhằm cải thiện quá trình sản xuất và mở rộng diện tích
17

những vùng trồng lúa, qua đó tăng năng suất của ngành sản xuất lúa gạo. Thái Lan
cũng xác định rõ ràng chiến lược quy hoạch các vùng gieo trồng các loại lúa khác
nhau nhằm đáp ứng nhu cầu khác nhau của khách hàng. Từ đó, Thái Lan có thể tăng
cường khả năng cạnh tranh và kích thích khách hàng lựa chọn các loại gạo đặc biệt
và có chất lượng cao của họ để nhập khẩu.
Mặt khác, ngành lúa gạo Thái Lan có được sự trợ giúp rất lớn từ Hiệp hội các
nhà xuất khẩu gạo. Hiệp hội các nhà xuất khẩu Thái Lan là tổ chức tư nhân làm việc
để giúp đỡ và ủng hộ những nhà xuất khẩu gạo của Thái Lan. Nhiệm vụ chính của
Hiệp hội này là nghiên cứu và thu thập dữ liệu và thông tin liên quan đến xuất khẩu
gạo và gởi cho các thành viên của Hiệp hội. Do tính chất thay đổi nhanh chóng của
thị trường gạo, nhà kinh doanh gạo Thái Lan cần phải cập nhật thương mại lúa gạo ở
cả lĩnh vực trong nước và thế giới ở mọi thời điểm để nâng cao khả năng cạnh tranh
của mình. Chức năng khác của Hiệp hội là chức năng trung tâm của cả bộ phận tư
nhân và nhà nước. Hiệp hội sẽ nêu lên những vấn đề liên quan thương mại lúa gạo
hoặc kiến nghị để nhờ Chính phủ giải quyết những vấn đề còn tồn tại. Hơn nữa, bộ
phận Nhà nước sẽ cùng thảo luận với Hiệp hội trước khi Chính phủ đề ra chính sách
hoặc quy định về thương mại lúa gạo.
Bên cạnh đó, Thái Lan còn xây dựng nhiều chiến lược cạnh tranh với các nước
xuất khẩu gạo khác, trong đó có Việt Nam. Chiến lược áp dụng cho việc kinh doanh
xuất khẩu gạo là sự hợp tác giữa Bộ Thương mại với Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã.
Hai Bộ này sẽ hỗ trợ nghiên cứu và tìm giải pháp nhằm hạ chi phí sản xuất, giảm giá
thành sản phẩm và tăng năng suất. Ngoài ra, Thái Lan còn tăng cường đa dạng hóa
các sản phẩm gạo, bao gồm: gạo thơm trắng Thái Lan (Hommali, Jasmine), gạo trắng
Thái, gạo tấm trắng Thái, gạo nếp đen Thái, gạo đồ Thái, gạo lức Thái,… Chính phủ
Thái Lan kiên định thực hiện chính sách tự do hóa thương nghiệp và giá cả dựa trên
cơ chế thị trường, song vẫn tham gia điều tiết khi giá lúa gạo biến động bất lợi cho
nông dân, đồng thời cho nông dân vay thế chấp bằng gạo để họ giữ gạo chờ đến khi
giá gạo có lợi cho họ. Chính nhờ những điều trên mà thương hiệu gạo của Thái Lan
luôn ở những vị trí dẫn đầu và có khả năng cạnh tranh cao so với các đối thủ trên thị
trường.
18

1.4.2. Bài học thành công từ Thái Lan

Từ những kinh nghiệm của Thái Lan, ta có thể rút ra được những bài học như
sau:
Thứ nhất, cần không ngừng cải tạo những giống lúa cho năng suất cao, chất
lượng tốt, áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong khâu canh tác, thu hoạch và
bảo quản nhằm cung cấp ổn định lượng gạo cho xuất khẩu.
Thứ hai, cần đầu tư cải tạo, từng bước hiện đại hóa hệ thống xay xát lúa gạo,
đầu tư trang thiết bị, dây chuyền công nghệ tiên tiến, hiện đại cho kho bảo quản, cải
tiến bao bì, phương tiện vận chuyển nhằm đảm bảo chất lượng lúa gạo.
Thứ ba, cần đầu tư thích đáng cho lĩnh vực nông nghiệp. Do yêu cầu của quá
trình tăng trưởng kinh tế, hầu hết các quốc gia đều dành phần lớn nguồn vốn đầu tư
cho công nghiệp và dịch vụ, còn phần đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp rất hạn chế,
làm cho nông nghiệp vốn đã lạc hậu càng trở nên lạc hậu hơn. Vì vậy, cần có những
chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng hợp lý phục vụ cho sản xuất nông nghiệp nói chung
và sản xuất lúa gạo nói riêng.
Thứ tư, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn cho nông dân, cấp tín dụng ưu
đãi cho các doanh nghiệp xuất khẩu, tạo môi trường pháp lý thông thoáng cho các
doanh nghiệp tham gia xuất khẩu trên thị trường, điều tiết cung – cầu trong nước,
đảm bảo việc tiêu thụ gạo có lợi ích cho người nông dân và xuất khẩu gạo với giá có
lợi cho nhà xuất khẩu.
Thứ năm, tăng cường vai trò của Hiệp hội Lương thực Việt Nam trong việc hỗ
trợ doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu gạo. Hiệp hội nên chủ động có những đóng
góp tích cực vào việc khai thác mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, trực tiếp bảo vệ quyền lợi của các hội viên trước các vụ kiện chống
bán phá giá ở một số thị trường nước ngoài, tích cực tham gia góp ý trong việc xây
dựng cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với ngành lúa gạo.
Thứ sáu, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan, ban ngành như Bộ Công
thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Hiệp hội Lương thực Việt Nam,…
trong việc điều hành xuất khẩu gạo một cách hiệu quả, cung cấp thông tin cho thị
trường kịp thời, ổn định giá cả trong nước và xuất khẩu.
19

SƠ KẾT CHƯƠNG 1
Trong chương 1, đề tài đã nêu khái quát nhu cầu nhập khẩu gạo của thị trường
Trung Quốc và tình hình xuất khẩu của các nước vào thị trường này với 3 nước lớn
nhất là Việt Nam, Thái Lan và Pakistan. Nhu cầu nhập khẩu gạo của Trung Quốc tuy
có sự tăng giảm thất thường nhưng được dự báo sẽ tăng lên trong thời gian tới và mở
ra cơ hội rất lớn cho các quốc gia xuất khẩu gạo, trong đó có Việt Nam. Đồng thời,
chương 1 cũng đã cung cấp những thông tin khái quát về mặt hàng gạo xuất khẩu và
quy trình tổ chức xuất khẩu cũng như phân tích tiềm năng xuất khẩu gạo của Việt
Nam. Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động và những chính sách
hỗ trợ của Nhà nước khi xác định gạo là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của nước ta, Việt Nam được kì vọng sẽ tiếp tục giữ vững vị thế dẫn đầu trên thị
trường Trung Quốc trong thời gian tới. Để làm cơ sở cho việc nghiên cứu và đánh giá
tình hình hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung Quốc trong giai đoạn
2009 – 2016 ở chương 2, đề tài cũng đã nghiên cứu kinh nghiệm xuất khẩu gạo của
Thái Lan để từ đó rút ra bài học cho Việt Nam.
20

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM VÀO
THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC TRONG GIAI ĐOẠN 2009 – 2016

2.1.Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc từ năm
2009 đến năm 2016
2.1.1.Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu

Việt Nam từ một nước thiếu lương thực của những thập niên 80, 90 của thế kỷ
trước, đến nay đã vươn lên trở thành một nước xuất khẩu gạo quan trọng với sản
lượng xuất khẩu khá ổn định. Đặc biệt trong năm 2009, Việt Nam còn vươn lên trỡ
thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới. Trong khoảng thời gian này Việt Nam
cũng từng bước tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường Trung Quốc. Biểu đồ dưới đây thể
hiện sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này trong giai đoạn 2009
– 2016:
Bảng 2.1: Sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Trung
Quốc giai đoạn 2009 – 2016
Đơn vị: tấn, %
Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016

Sản lượng
2.899 56.089 233.775 1.545.079 1.480.958 1.352.048 1.794.261 1.618.415
(tấn)

Tỷ lệ
tăng/giảm so
- 1.834,77 316,79 560,93 -4,15 -8,70 32,71 -9,80
với năm trước
(%)

Tổng sản
lượng nhập
khẩu của 337.537 366.171 578.383 2.344.622 2.244.317 2.556.549 3.349.984 3.533.938

Trung Quốc
(tấn)

Thị phần trên


thị trường
0,86 15,32 40,42 65,90 65,99 52,89 53,56 45,80
Trung Quốc
(%)

Nguồn: tác giả tổng hợp từ “List of importers for rice” của ITC, 2017
Từ năm 2009 đến năm 2016, sản lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam xuất khẩu
sang thị trường Trung Quốc tăng giảm không ổn định, tuy đã có bước tăng trưởng đột
21

biến từ 2.899 tấn vào năm 2009 (chiếm 0,86% lượng nhập vào thị trường này) lên
đến 1.618.415 tấn vào năm 2016 (chiếm 45,8%). Đặc biệt vào giai đoạn 2012 – 2013,
nước ta xuất khẩu khoảng 1,5 triệu tấn gạo vào thị trường Trung Quốc, chiếm trên
65% thị phần và duy trì thị phần lớn nhất ở nước này từ đó đến nay. Sở dĩ Việt Nam
đạt được những thành tựu trên một phần là do sản xuất tăng nhanh và ổn định như đã
phân tích ở bảng 1.3, mức lương thực bình quân nói chung và lúa gạo nói riêng liên
tiếp được cải thiện, Việt Nam không chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước
mà còn dư thừa lương thực để xuất khẩu, trở thành nước xuất khẩu gạo quan trọng
của thế giới. Bên cạnh đó, các giải pháp và chính sách đổi mới nhằm khuyến khích
phát triển sản xuất trong nước, hoạt động thương mại quốc tế của ngành lúa gạo cũng
được đẩy mạnh, đặc biệt là việc xóa bỏ thuế xuất khẩu gạo và khuyến khích mọi thành
phần kinh tế tham gia xuất khẩu gạo, nhờ đó tăng nhanh sản lượng gạo xuất khẩu của
Việt Nam trên toàn thế giới nói chung và thị trường Trung Quốc nói riêng. Mặt khác,
do ảnh hưởng của lũ lụt ở các tỉnh miền Trung và miền Nam trong năm 2011, Trung
Quốc buộc phải tăng nhập khẩu gạo để đáp ứng nhu cầu trong nước và dự trữ. Cơ hội
đẩy mạnh xuất khẩu gạo trong giai đoạn này đã được Việt Nam nắm bắt một cách kịp
thời và hợp lý, mang lại nguồn ngoại tệ to lớn cho quốc gia. Tuy vậy, đến năm 2014,
sản lượng gạo của Việt Nam nhập vào Trung Quốc lại giảm nhẹ 8,7%, xuống còn
1.352.048 tấn, do sức ép cạnh tranh từ Thái Lan khiến Việt Nam sụt giảm về thị phần
trong thị trường Trung Quốc. Nhưng đến năm 2015, sản lượng gạo lại tăng mạnh trở
lại, tuy nhiên thị phần lại suy giảm xuống còn 53,56% vào năm 2015 và tiếp tục giảm
xuống 45,8% vào năm 2016. Điều này chứng tỏ tiềm năng tiêu thụ gạo của thị trường
này vẫn còn khá lớn, tuy nhiên, trong vài năm tới, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam
sang các thị trường này có thể sẽ bị thu hẹp dần do Trung Quốc ngày càng đặt ra
nhiều yêu cầu khắt khe cả về chất lượng, giá cả và những tiêu chuẩn kỹ thuật như
hàm lượng kim loại nặng, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong gạo, quy trình khử
trùng gạo... Điều này đặt ra thách thức không nhỏ cho hoạt động xuất khẩu gạo của
Việt Nam vào Trung Quốc.
22

Để có cái nhìn khái quát hơn, biểu đồ dưới đây sẽ so sánh sản lượng xuất khẩu
của Việt Nam và một số nước khác vào thị trường Trung Quốc trong giai đoạn 2009
– 2016:
Biểu đồ 2.1: Sản lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam và một số nước khác
vào Trung Quốc giai đoạn 2009 – 2016
Đơn vị: tấn
2,000,000

1,600,000

1,200,000

800,000

400,000

0
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Việt Nam 2,899 56,089 233,775 1,545,079 1,480,958 1,352,048 1,794,261 1,618,415
Thái Lan 316,883 299,071 325,620 175,353 299,772 727,768 931,447 928,431
Pakistan 364 426 8,668 579,583 417,020 406,720 442,613 703,766

Nguồn: tác giả tổng hợp từ “List of importers for rice” của ITC, 2017

Vào năm 2009, Thái Lan vẫn là nước chiếm tỷ trọng lớn nhất trên thị trường
nhập khẩu gạo của Trung Quốc (93,89%). Tuy nhiên, sau đó tỷ trọng của Thái Lan
liên tục giảm và kể từ năm 2012 Trung Quốc chuyển sang mua gạo của Việt Nam với
sản lượng tăng đột biến, đồng thời cắt giảm lượng gạo mua từ Thái Lan. Từ năm 2014,
tuy sản lượng gạo Trung Quốc nhập từ Thái Lan có sự tăng trưởng trở lại nhưng tỷ
trọng cũng chỉ chiếm khoảng trên dưới 27%. Có được thành quả này là do Việt Nam
đã ổn định một cách tương đối sản lượng sản xuất lúa gạo, cân bằng giữa nhu cầu
lương thực trong nước và dự trữ để tạo lượng xuất khẩu ổn định. Chính phủ cũng xác
định đây là mặt hàng xuất khẩu chủ lực do Việt Nam có nhiều lợi thế về điều kiện tự
nhiên, lao động,… nên đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu trong
môi trường thuận lợi bằng nhiều chính sách khuyến khích, trợ cấp tín dụng,… từ đó
tạo ra nhiều chuyển biến tích cực cho hoạt động sản xuất lúa gạo, nâng cao vị thế của
Việt Nam trên thị trường thế giới. Đặc biệt, Việt Nam còn xác định Trung Quốc là
một thị trường thương mại gạo trọng điểm của Việt Nam trong thời gian sắp tới nên
23

nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đã dành sự ưu tiên nhất định cho những khách hàng
Trung Quốc để phát triển thị trường này.
Cùng với tốc độ tăng trưởng của sản lượng, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
vào thị trường Trung Quốc cũng tăng trưởng ổn định trong giai đoạn 2009 – 2016.
Bảng dưới đây thể hiện kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc trong
giai đoạn 2009 – 2016:
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc trong giai
đoạn 2009 – 2016
Đơn vị: triệu USD, %

Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016

Kim ngạch (triệu USD) 1,0 22,3 123,6 682,1 616,3 626,1 732,4 733,9

Tốc độ tăng/giảm so với


- 2.050,87 453,48 452,01 -9,65 1,59 16,98 0,21
năm trước (%)
Tổng kim ngạch nhập
khẩu gạo của Trung 201,4 253,3 386,8 1.125,6 1.052,0 1.228,9 1.471,0 1.586,1
Quốc (triệu USD)
Tỷ trọng của Việt Nam
trong tổng kim ngạch
0,52 8,81 31,95 60,60 58,58 50,95 49,79 46,27
nhập khẩu của Trung
Quốc (%)

Nguồn: tác giả tổng hợp từ “List of importers for rice” của ITC, 2017

Giai đoạn 2009-2012 chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ trong kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc (từ 1 triệu USD vào năm 2009 lên
đến 682,1 triệu USD vào năm 2012) cùng với sự tăng trưởng về sản lượng như đã
phân tích ở bảng 2.1. Trong giai đoạn này Việt Nam cũng đã trở thành một nước xuất
khẩu gạo lớn trên thị trường thế giới, trong đó có Trung Quốc. Vào năm 2013, do sản
lượng có sự suy giảm nhẹ (4,15%) trong khi giá gạo vẫn ở mức tương đương nên kim
ngạch xuất khẩu cũng có sự suy giảm (giảm 9,65%). Từ năm 2015 đến nay, tuy kim
ngạch vẫn có sự tăng trưởng nhưng tôc độ tăng trưởng đã chậm lại so với giai đoạn
trước, nguyên nhân là do sự cạnh tranh từ Thái Lan làm cho sản lượng suy giảm nhẹ
như đã phân tích ở bảng 2.1. Tuy vậy giá gạo của Việt Nam vẫn giữ ở mức ổn định,
24

thậm chí tăng lên khiến cho kim ngạch vẫn có sự tăng trưởng nhất định. Biểu đồ dưới
đây sẽ so sánh kim ngạch xuất khẩu của các nước vào thị trường Trung Quốc trong
giai đoạn nói trên.Biểu đồ dưới đây sẽ so sánh kim ngạch xuất khẩu của các nước vào
thị trường Trung Quốc trong giai đoạn nói trên.
Biểu đồ 2.2: Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam và một số nước khác
vào thị trường Trung Quốc giai đoạn 2009 – 2016
Đơn vị: nghìn USD

2,000,000

1,600,000

1,200,000

800,000

400,000

0 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016


Viet Nam 2,899 56,089 233,775 1,545,07 1,480,95 1,352,04 1,794,26 1,618,41
Thailand 316,883 299,071 325,620 175,353 299,772 727,768 931,447 928,431
Pakistan 364 426 8,668 579,583 417,020 406,720 442,613 703,766

Nguồn: tác giả tổng hợp từ “List of importers for rice” của ITC, 2017

So với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc là Thái Lan và Pakistan,
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam có bước tăng trưởng mạnh mẽ và tương đối ổn
định trong giai đoạn trên, trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với nhà xuất khẩu lâu
đời là Thái Lan. Hiện nay Việt Nam vẫn là nước dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu vào
thị trường Trung Quốc. Dù Pakistan cũng đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong giai
đoạn từ năm 2012 trở đi, nhưng xét tổng thể về cả khối lượng và kim ngạch thì
Pakistan vẫn còn một khoảng cách khá xa so với Việt Nam.
2.1.2. Cơ cấu mặt hàng gạo xuất khẩu

Hiện nay, mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam rất đa đạng như gạo trắng hạt
dài 5% tấm, 10% tấm, 15% tấm, 25% tấm, gạo nếp, gạo thơm Jasmine,… Ngoài ra
còn có các loại gạo đặc sản như gạo Nàng Hương, Chợ Đào, Tài Nguyên,...
25

Căn cứ vào tỷ lệ tấm, gạo xuất khẩu của Việt Nam có thể chia thành 3 loại:
nhóm gạo phẩm cấp cao (loại 5 – 10% tấm), nhóm gạo phẩm cấp trung bình (loại 15
– 20% tấm) và nhóm gạo phẩm cấp thấp (loại 25% tấm trở lên).
Đối với thị trường Trung Quốc, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu 3 nhóm gạo chính
là gạo thơm (bao gồm các loại gạo như ST21, VD20, Jasmine, Nàng Hoa, OM4900...),
gạo trắng (bao gồm các loại gạo như IR5451, IR504, IR4218…) và gạo nếp (bao gồm
nếp Long An, nếp An Giang, nếp tròn, nếp thơm,…). Trong mỗi nhóm gạo lại được
phân thành nhiều loại gạo khác nhau nếu dựa trên tỷ lệ tấm. Đối với các loại gạo chất
lượng cao, tỷ lệ tấm thường yêu cầu tối đa là 5%. Đối với các loại gạo phẩm cấp trung
bình, tỷ lệ tấm có thể lên mức tối đa 15%. Còn gạo nếp phổ biến nhất là loại tỷ lệ tấm
10%.
Tỷ trọng các loại gạo nhập khẩu vào Trung Quốc thay đổi qua các năm, phù
thuộc vào nhu cầu và chính sách của thị trường Trung Quốc. Biểu đồ dưới đây sẽ nêu
rõ hơn về tỷ trọng của các loại gạo:
Biểu đồ 2.3: Tỷ trọng của từng nhóm gạo trong tổng sản lượng xuất khẩu
của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc trong giai đoạn 2009 – 2016
Đơn vị: %
100%
80%
60%
40%
20%
0%
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Gạo nếp 8.30 12.54 7.55 7.08 11.41 32.31 20.82 52.87
Gạo trắng 62.81 50.00 53.61 70.65 55.17 31.82 34.24 15.79
Gạo thơm 28.89 37.46 38.84 22.27 33.42 35.87 44.94 31.34

Nguồn: tác giả tự tổng hợp từ dữ liệu hải quan qua các năm
Trong giai đoạn 2009 – 2012, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu loại gạo trắng sang
thị trường Trung Quốc. Đây là loại gao có phẩm cấp trung bình, bao gồm bao gồm
các loại gạo như IR5451, IR504, IR4218… Trong đó loại gạo được nhập nhiều nhất
là IR5451 vì loại này giống với một loại gạo nội địa của Trung Quốc nhưng giá nhập
26

khẩu rẻ hơn nhiều, thường được dùng để đấu trộn với loại gạo nội địa, giảm giá thành
sản phẩm bán ra thị trường. Ngoài ra các loại gạo khác như IR504, IR4218,… thường
được dùng để làm bột. Gạo thơm chỉ chiếm khoảng 1/3 trong tỷ trọng nhập khẩu, hầu
hết là những loại gạo chưa có thương hiệu, được dùng để đấu trộn với các loại gạo
nội địa của Trung Quốc. Gạo nếp trong giai đoạn này chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn,
nhiều nhất chỉ là 12,54% vào năm 2010.
Từ năm 2013, sản lượng gạo trắng giảm cả về giá trị tuyệt đối lẫn tương đối,
thay vào đó là sự gia tăng về sản lượng gạo nếp và gạo thơm. Đến năm 2016, tỷ trọng
gạo trắng chỉ còn là 15,79%, trong khi gạo nếp chiếm 52,87% về sản lượng. Sở dĩ có
sự thay đổi này một phần do chính sách Trung Quốc áp dụng hạn ngạch nhập khẩu
cho các loại gạo trắng của Việt Nam, do đó các doanh nghiệp Trung Quốc chuyển
sang nhập gạo thơm để đạt được lợi nhuận cao hơn. Mặt khác trong thời gian này gạo
trắng Việt Nam chịu sự cạnh tranh trực tiếp từ giống gạo trắng hạt dài của Pakistan
với chất lượng tốt và ổn định hơn những loại gạo IR504 của Việt Nam đã dẫn đến sự
suy giảm trong sản lượng gạo trắng xuất khẩu sang Trung Quốc. Đặc biệt trong năm
2016 Trung Quốc đã nhập từ Việt Nam một lượng nếp rất lớn (855.584,8 tấn, chiếm
tỷ trọng 52,87% tổng sản lượng gạo) do giá nếp Việt Nam rẻ hơn giá nếp nội địa của
Trung Quốc, mặt khác loại gạo này có thuế nhập khẩu ưu đãi và không có hạn ngạch
như gạo trắng hay gạo thơm.
2.1.3. Chất lượng gạo xuất khẩu

Chất lượng gạo xuất khẩu là một yếu tố quan trọng, là mối quan tâm hàng đầu
trong thương mại quốc tế. Đảm bảo ổn định và không ngừng nâng cao chất lượng gạo
xuất khẩu là một biện pháp thúc đẩy việc hình thành và củng cố uy tín của nhà xuất
khẩu đối với khách hàng, đồng thời cũng là cơ hội để nâng cao giá trị của thương hiệu
gạo trên thị trường. Tiêu chuẩn thị trường đặt ra cho việc tiêu thụ và sản xuất gạo
xuất khẩu dựa vào các chỉ tiêu sau:
(1) Phẩm chất xay chà: đặc biệt quan tâm đến tỷ lệ gạo nguyên
(2) Phẩm chất cơm chú trọng nhất là hàm lượng amiloze, như sau: Amiloze 0-
2%: nếp; Amiloze 3-20%: cơm dẻo; Amiloze 20-25%: gạo mềm cơm.; Amiloze >
25%: cơm khô cứng.
27

(3) Độ trở hồ: gạo tốt còn phụ thuộc vào độ trở hồ, có các cấp độ sau: Độ trở hồ
cấp 1: khó nấu; Độ trở hồ cấp 5: Trung bình; Độ trở hồ cấp 9: gạo nát và đổ lông
(4) Độ dài hạt gạo: trên 7 ly là tiêu chuẩn thị hiếu yêu cầu.
(5) Bạc bụng: Yêu cầu đặt ra là không bạc bụng vì đây là thị hiếu của thị trường.
Các giống lúa thơm thường bị khuyết điểm này.
(6) Mùi thơm: được chia làm cấp 1, 2, 3. (Mai Thành Phụng & Lê Văn Bảnh,
2012)
Trong đó, tiêu thức phẩm chất xay chà (tỷ lệ tấm) được quan tâm hơn cả. Việt
Nam cũng đề ra một số tiêu chuẩn của một số loại gạo để đảm bảo chất lượng gạo
xuất khẩu:
Bảng 2.3: Một số tiêu chuẩn về loại gạo trắng hạt dài xuất khẩu của Việt
Nam
Đơn vị: %, hạt/kg
Loại 25% Loại 15% Loại 10% Loại 5%
Quy cách
tấm tấm tấm tấm

Tấm (% tối đa) 25,0 15,0 10,0 5,0

Độ ẩm (% tối đa) 14,5 14 14 14

Hạt hư (% tối đa) 2,0 1,5 1,25 1,5

Hạt vàng (% tối đa) 1,5 1,25 1,0 0,5

Tạp chất (% tối đa) 0,5 0,2 0,2 0,1

Thóc (hạt/kg tối đa) 30 25 20 15

Hạt bạc phấn (% tối đa) 8,0 7,0 7,0 6,0

Hạt non (% tối đa) 1,5 0,3 0,2 0,2

Xay xát Kỹ Kỹ Kỹ Kỹ
Nguồn: “Tiêu chuẩn gạo Việt Nam xuất khẩu” của Tổng công ty lương thực
miền Bắc, 2009
So với tiêu chuẩn của thế giới, tiêu chuẩn của Việt Nam chủ yếu quan tâm hình
thái bên ngoài như tỷ lệ tấm, tỷ lệ hạt vàng, bạc phấn, hạt non,… chứ chưa đưa ra
28

những tiêu chuẩn bên trong như chất lượng cơm, nhiệt độ trở hồ,… Hơn nữa những
yếu tố này cũng không thể dễ dàng xác định trong điều kiện thông thường nên việc
kiểm tra những tiêu chuẩn này thường tốn nhiều thời gian và chi phí. Ngoài ra, thị
trường Trung Quốc có những yêu cầu khác về chất lượng gạo nhập khẩu, ví dụ như
về dư lượng thuốc kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật, hàm lượng kim loại nặng trong
gạo, quy trình khử trùng và xử lý sinh vật mang mầm bệnh…
Xét theo tỷ lệ tấm, chất lượng gạo xuất khẩu Việt Nam đã tăng lên rõ rệt, thể
hiện ở việc tăng tỷ trọng các loại gạo phẩm cấp cao 5-10% tấm (gạo thơm) và giảm
tỷ trọng các loại gạo cấp thấp (như IR504, IR4218,…) (xem biểu đồ 2.3). Song do
các yếu tố kỹ thuật, giống, công nghệ, nên gạo Việt Nam vẫn thua kém hơn hẳn so
với gạo của các nước xuất khẩu khác như Thái Lan hay Pakistan. Có một thực tế là
giống lúa chất lượng cao lại không cho năng suất cao và ngược lại. Tuy nhiên nếu
xuất khẩu với số lượng lớn nhưng giá trị thấp không phải là điều tốt. Mục tiêu chính
của xuất khẩu gạo là để phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống của nông dân, nên
hoạt động xuất khẩu gạo trước tiên phải đem lại nguồn ngoại tệ cho đất nước.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng gạo thấp một phần là do Việt Nam
chưa xuất khẩu được nhiều những giống có chất lượng cao thơm ngon nổi tiếng trong
nước như gạo Nàng thơm Chợ Đào, Tài Nguyên, Nàng Nhen thơm, Huyết rồng,…
Ngoài ra cũng có những giống lúa thơm/thơm nhẹ do các nhà khoa học chọn tạo
nhưng chưa được khai thác cho xuất khẩu, ví dụ OM3536, OM7347, OM6162, ST3,
ST5, MTL495,… Trong khi đó, phần lớn gạo thơm nước ta đang xuất khẩu đều có
nguồn gốc từ nước ngoài ví dụ như Jasmine 85, VD20,… nên gặp phải nhiều khó
khăn trong việc xây dựng thương hiệu. Mặt khác, hiện nay các giống lúa có nguồn
gốc từ Việt Nam như ST21, Nàng Hoa, … đều được nhập vào Trung Quốc để đấu
trộn với các loại gạo nội địa của họ, do hình dáng tương tự nhau, sau đó dùng những
thương hiệu của Trung Quốc để bán ra thị trường, càng làm cho giá trị gạo của Việt
Nam giảm đi.
Mặt khác, Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu cho gạo trắng và gạo
thơm giống như các nước Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan,… Chúng ta chỉ có thương hiệu
chung là gạo hạt dài bao nhiêu phần trăm cho cả gạo thơm và gạo trắng thường. Vì
29

vậy chất lượng gạo kém do lẫn tạp nhiều giống khác nhau, trong đó có nhiều giống
chất lượng thấp. Theo Tiến sỹ Nguyễn Công Thành thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật
Nông nghiệp miền Nam, nguyên nhân chính mà các giống lúa chất lượng thấp như
IR 50404 còn được trồng với tỷ lệ khá cao do thương lái hay nhà máy thu mua xay
xát trộn chung các loại gạo trắng hạt dài với mức độ nhất định để trở thành gạo 5%,
10% hay 25% tấm (vì hạt gạo IR 50404 ngắn hơn, được xem như là tấm).
Bên cạnh đó, công nghệ thu hoạch của Việt Nam vẫn còn rất hạn chế: thiếu sân
phơi, hệ thống kho lưu trữ không đáp ứng được yêu cầu do đã cũ, các nhà máy xay
xát, chế biến với công nghệ lạc hậu, hệ thống phân loại chưa đạt được yêu cầu…
Do xu hướng của thị trường Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung hiện
nay đang đi vào sản xuất gạo có chất lượng cao, nước ta cần phải liên tục nâng cao
chất lượng và tạo ra thương hiệu gạo xuất khẩu cho Việt Nam. Nhu cầu gạo của Trung
Quốc ngày một tăng, nhưng nước này vẫn lấy rào cản về dư lượng thuốc bảo vệ thực
vật, an toàn thực phẩm và những quy định về hạn ngạch làm rào cản gia nhập thị
trường của gạo Việt Nam. Do vậy cần chú trọng khâu sản xuất an toàn, áp dụng kỹ
thuật tiên tiến vào sản xuất để nâng cao chất lượng gạo, tạo lợi thế nhằm rút ngắn
khoảng chênh lệch giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và các đối thủ cạnh tranh.
2.1.4. Giá gạo xuất khẩu

Khi tham gia vào thị trường gạo thế giới, Việt Nam phải căn cứ vào giá gạo
quốc tế làm cơ sở để định giá gạo xuất khẩu của mình. Thực tế trên thị trường gạo
thế giới từ những năm 60 trở lại đây, người ta thường dựa vào giá xuất khẩu gạo của
Thái Lan làm giá quốc tế mặt hàng gạo vì Thái Lan là nước xuất khẩu gạo đứng đầu
thế giới. Mọi biến động cung cầu và giá cả thị trường gạo thế giới đều chịu sự chi
phối sâu sắc và số liệu và giá cả xuất khẩu gạo của nước này.
Giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu mặt
hàng xuất khẩu do giá của mỗi loại gạo không giống nhau, trong khi tỷ trọng xuất
khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc biến đổi liên tục theo các năm.
Biểu đồ dưới đây sẽ cho thấy cái nhìn tổng quan về giá gạo xuất khẩu của Việt Nam
vào Trung Quốc trong giai đoạn 2009 – 2016.
30

Bảng 2.4: Giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam vào thị trường
Trung Quốc thời kỳ 2009 – 2016

Đơn vị: USD/tấn


Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016

Giá
358 398 529 441 416 463 408 453
(USD/tấn)

Tốc độ
tăng/giảm so
- 11,17 32,91 -16,64 -5,67 11,30 -11,88 11,03
với năm
trước (%)

Nguồn: tác giả tổng hợp từ “List of importers for rice” của ITC, 2017

Từ năm 2009 đến năm 2016, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam có nhiều biến
động, có giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ, có giai đoạn tăng trưởng chậm hoặc sụt
giảm. Năm 2011 giá gạo tăng mạnh từ 358 USD/tấn lên đến mức kỷ lục 529 USD/tấn.,
sau đó năm 2012 lại giảm mạnh chỉ còn 441 USD/tấn. Đặc biệt trong năm 2012, với
việc giá gạo bình quân giảm 16,64% đã đem lại lợi thế rất lớn cho Việt Nam ở thị
trường Trung Quốc. Trong những năm sau đó giá gạo của Việt Nam tăng giảm thất
thường, tuy nhiên biên độ dao động không lớn, xấp xỉ ở mức 11%. Tuy vậy nhìn
chung cả giai đoạn giá gạo của Việt Nam đã có sự tăng trưởng đáng kể từ USD358/tấn
lên USD453/tấn. Đây là kết quả của sự chuyển dịch cơ cấu mặt hàng gạo với việc gia
tăng tỷ trọng gạo thơm và gạo nếp, giảm tỷ trọng gạo trắng.
Đặt trong sự so sánh với hai đối thủ cạnh tranh là Thái Lan, Pakistan và giá nhập
khẩu gạo bình quân của Trung Quốc, có thể thấy giá gạo của Việt Nam thay đổi khá
sát với sự thay đổi giá gạo nhập khẩu gạo bình quân của Trung Quốc, thậm chí từ
năm 2014 xấp xỉ giá nhập khẩu gạo bình quân. Điều này cũng cho thấy vị trí quan
trọng và có khả năng chi phối thị trường gạo Trung Quốc của Việt Nam. Trong khi
hai đối thủ cạnh tranh trực tiếp là Thái Lan và Pakistan liên tục có sự suy giảm trong
giá gạo thì Việt Nam vẫn giữ được mức biên động dao động vào khoảng 11% như đã
phân tích ở trên. Điều này một mặt giúp Việt Nam gia tăng kim ngạch xuất khẩu, mặt
31

khác cũng đặt ra thách thức cho Việt Nam khi chịu sự cạnh tranh trực tiếp của nguồn
gạo chất lượng cao giá rẻ của Thái Lan và Pakistan.
Biểu đồ 2.4: Giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam so với một số
nước và cả thế giới giai đoạn 2009 – 2016
Đơn vị: USD/tấn
1,200

1,000

800

600

400

200

0
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Việt Nam 358 398 529 441 416 463 408 453
Thái Lan 614 759 785 885 784 549 510 498
Pakistan 931 962 494 464 413 390 367 356
Toàn thế giới 597 692 669 480 469 481 439 449

Nguồn: tác giả tổng hợp từ “List of importers for rice” của ITC, 2017

Tuy vậy, nhìn chung, chất lượng gạo của Việt Nam còn thấp hơn rõ nét so với
chất lượng gạo của các cường quốc về xuất khẩu gạo như Thái Lan và đó là lý do cơ
bản nhất quyết định giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn giá gạo quốc
tế. Ngoài chất lượng, mức chênh lệch giữa giá gạo Thái Lan và giá gạo xuất khẩu của
Việt Nam còn do những nguyên nhân khác như Việt Nam chưa có hệ thống bạn hàng
tin cậy từ nhiều năm, khả năng hạn chế của các doanh nghiệp về marketing, trong
việc tiếp cận thông tin, nắm bắt thị trường cũng như trong khâu giao dịch, đàm phán
và kí kết hợp đồng; cơ sở hạ tầng, vận tải, bốc dỡ hàng, chi phí tại cảng còn nhiều
yếu kém, bất cập.
32

Bảng 2.5: Giá FOB một số loại gạo của Việt Nam và Thái Lan
Đơn vị: USD/tấn
Thái Lan 5% Việt Nam Thái Lan Việt Nam
Năm
tấm 5% tấm 25% tấm 25% tấm

2009 555 432 460 384

2010 492 416 444 387

2011 549 505 511 467

2012 573 432 560 397

2013 518 391 504 363

2014 423 410 382 377

2015 386 353 373 334

2016 396 347 385 332

Nguồn: Báo cáo “Rice market monitor” của FAO, 2017

Với cùng một loại gạo, giá xuất khẩu của Thái Lan luôn cao hơn rất nhiều so
với giá của Việt Nam, mặc dù trong những năm gần đây, Việt Nam đã có sự trưởng
thành trong việc sản xuất, chế biến và nâng cao chất lượng gạo. Mặt khác, Thái Lan
còn xuất khẩu nhiều loại gạo có chất lượng cao như gạo thơm Homali, tấm thơm A1
super sortex,… làm giá trung bình của gạo Thái Lan thường ở mức cao. Nhiều chuyên
gia thậm chí còn đánh giá chất lượng gạo Việt Nam hiện nay không thua gạo Thái
Lan nhưng giá xuất khẩu vẫn thấp là do việc điều tiết, tiếp cận thị trường còn nhiều
hạn chế… Tính chất mùa vụ của sản xuất cũng ảnh hưởng tới xuất khẩu vì mang đặc
điểm từng chuyến, từng đợt nên khó có thể thoả mãn được nhu cầu của khách hàng
một cách thường xuyên, ổn định. So với Thái Lan là một nước xuất khẩu vào thị
trường Trung Quốc đã nhiều năm, Việt Nam vẫn còn là một nước non trẻ khi mới bắt
đầu phát triển thị trường này từ năm 2010. Các kênh thông tin không đủ hiện đại để
cung cấp cho các doanh nghiệp đầy đủ và cập nhật tình hình lương thực trên thế giới
nên dễ dẫn đến hiệu quả kém trong việc nắm bắt và ra quyết định xuất khẩu; chỉ 25%
nông dân tiếp cận được thông tin thị trường và 90% sản phẩm nông nghiệp được bán
33

ở dạng thô. Điều này làm giảm chất lượng cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam ở thị
trường quốc tế, dẫn đến tình trạng nước ta thường bị thua thiệt và chèn ép về mặt giá
cả khiến cho giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn giá của các nước đối
thủ cạnh tranh.

2.2.Hoạt động tổ chức xuất khẩu gạo của Việt Nam


2.2.1. Các quy định về công tác tổ chức xuất khẩu gạo

Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu gạo vào thị trường Trung Quốc chủ yếu qua hình
thức hợp đồng thương mại (doanh nghiệp tự chủ trong việc mua bán với đối tác nước
ngoài). Vì vậy, các doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc ký kết và thực hiện
hợp đồng.
Theo Nghị định số 109/2010/NĐ-CP ký ngày 04/11/2010, xuất khẩu gạo trở
thành ngành kinh doanh có điều kiện. Theo đó, thương nhân Việt Nam thuộc mọi
thành phần kinh tế, có quyền kinh doanh xuất khẩu gạo phải đáp ứng được các điều
kiện sau đây:

- Được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
- Có ít nhất một kho chuyên dùng với sức chứa tối thiểu 5.000 tấn thóc, phù hợp
quy chuẩn chung do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành.
- Có ít nhất một cơ sở xay, xát thóc, gạo với công suất tối thiểu 10 tấn thóc/giờ,
phù hợp quy chuẩn chung do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành.
- Kho chứa, cơ sở xay, xát trên phải thuộc sở hữu của thương nhân và phải nằm
trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thóc, gạo hàng hóa xuất
khẩu hoặc có cảng biển quốc tế có hoạt động xuất khẩu thóc, gạo tại thời điểm
thương nhân đề nghị cấp Giấy chứng nhận (Chính phủ, 2010).

Những thương nhân đáp ứng đầy đủ các điều kiện trên thì được Bộ Công thương
cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo. Quy định này nhằm
đảm bảo rằng các doanh nghiệp xuất khẩu gạo có trách nhiệm với xã hội, loại bỏ
những công ty tham gia kinh doanh theo thời vụ hoặc chế biến và bảo quản gạo xuất
khẩu không tốt làm giảm chất lượng gạo, ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam.
34

Thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo có trách nhiệm thông báo với Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương các điểm mua thóc, gạo và công bố
các điểm mua gạo xuất khẩu để người dân biết; niêm yết giá mua theo chất lượng,
chủng loại thóc, gạo hàng hóa để tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân trực tiếp
giao dịch. Trường hợp mua thóc, gạo hàng hóa qua thương nhân khác hoặc từ các cơ
sở chế biến, thương nhân và các cơ sở chế biến phải liên kết, tổ chức thành hệ thống
ổn định. Nhà nước cũng khuyến khích thương nhân mua thóc, gạo hàng hóa thông
qua hợp đồng ký với người sản xuất theo chính sách hiện hành của Nhà nước về tiêu
thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng.
Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu gạo, thương nhân phải nộp hồ sơ theo quy
định của Bộ Công thương để đăng ký hợp đồng xuất khẩu tại Hiệp hội Lương thực
Việt Nam. Thương nhân có Giấy chứng nhận được đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo
khi đáp ứng các tiêu chí sau:

- Hợp đồng xuất khẩu có giá xuất khẩu không thấp hơn giá sàn gạo xuất khẩu
được công bố.
- Có sẵn lượng gạo ít nhất bằng 50% lượng gạo trong hợp đồng xuất khẩu đăng
ký, không bao gồm lượng gạo thường xuyên phải có để duy trì mức dự trữ lưu
thông.
- Phù hợp với quy định về hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung do Bộ Công thương
ban hành (Chính phủ, 2010).

Ngoài ra, Nhà nước còn tiến hành điều tiết giá thóc, gạo xuất khẩu trên cơ sở
giá thóc định hướng bình quân từng vụ sản xuất được xác định và công bố theo quy
định nhằm góp phần bảo đảm lợi nhuận cho người trồng lúa theo chính sách hiện
hành. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban
hành quy định, hướng dẫn phương pháp điều tra, xác định chi phí sản xuất và tính giá
thành sản xuất lúa hàng hóa để Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương làm căn cứ xác định và công bố giá thành sản xuất lúa bình quân dự tính trong
toàn tỉnh, thành phố ngay từ đầu vụ đối với từng vụ sản xuất trong năm. Trên cơ sở
giá thành sản xuất lúa bình quân dự tính từng vụ sản xuất do Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương công bố, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ
35

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiểm tra, tổng hợp và xác định giá thành sản
xuất lúa bình quân dự tính cho từng vụ sản xuất của toàn khu vực sản xuất. Sau đó,
Bộ Tài chính xác định, công bố giá thóc định hướng ngay từ đầu vụ để làm cơ sở điều
tiết giá thóc, gạo hàng hóa trên thị trường, góp phần bảo đảm mức lợi nhuận bình
quân cho người trồng lúa theo chính sách hiện hành. Trường hợp giá thóc hàng hóa
trên thị trường bằng hoặc cao hơn giá thóc định hướng, Nhà nước không can thiệp.
Nhưng trong trường hợp giá thóc hàng hóa trên thị trường thấp hơn giá thóc định
hướng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ: Tài
chính, Công thương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Hiệp hội Lương thực Việt
Nam trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp điều tiết
cụ thể để duy trì giá thóc, gạo hàng hóa trên thị trường không thấp hơn giá thóc định
hướng, đồng thời bảo đảm hoạt động xuất khẩu gạo hiệu quả.
Hạt lúa từ khi thu hoạch đến khi thành gạo xuất khẩu phải trải qua nhiều công
đoạn, bao gồm: thu mua lúa rồi vận chuyển về nhà máy xay xát, cung ứng gạo nguyên
liệu cho các nhà máy đánh bóng thành gạo thành phẩm, vận chuyển gạo thành phẩm
đến cảng để giao hàng xuất khẩu. Hầu hết các doanh nghiẹp xuất khẩu gạo không
tham gia trực tiếp vào quá trình đó mà chỉ tham gia vào một trong các công đoạn trên.
Lúa gạo chủ yếu được thu mua bởi thương lái và chủ vựa rồi được các doanh nghiệp
thu mua lại để xuất khẩu.
2.2.2.Vai trò của Hiệp hội Lương thực Việt Nam

Hiệp hội Việt Nam là một tổ chức đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xuất
khẩu vì Hiệp hội đóng vai trò trực tiếp điều hành lĩnh vực này theo quy định của
Chính phủ. Hiệp hội Lương thực Việt Nam là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của các
doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, kinh doanh lương
thực, nông sản và các sản phẩm chế biến từ lương thực; tự nguyện thành lập nhằm
phối hợp các hoạt động kinh doanh lương thực để bảo đảm hiệu quả kinh doanh, bảo
vệ quyền lợi chính đáng của hội viên. Hiệp hội góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển,
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh
doanh của ngành lương thực; góp phần bảo đảm an ninh lương thực theo chủ trương
chính sách của Nhà nước.
36

Nhiệm vụ của Hiệp hội Lương thực Việt Nam được quy định tại Nghị định
109/2010/NĐ-CP như sau:

- Phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc
chỉ đạo, hướng dẫn thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo thực hiện mua thóc,
gạo thông qua hợp đồng ký với người sản xuất theo chính sách hiện hành của
Nhà nước.
- Phối hợp với cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, phát hiện vi phạm trong lĩnh vực
kinh doanh xuất khẩu gạo, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.
- Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương trong việc chỉ đạo, hướng dẫn thương
nhân mua thóc, gạo hàng hoá, duy trì mức dự trữ lưu thông bắt buộc, bình ổn
thị trường theo quy định tại Nghị định này.
- Xây dựng và duy trì hoạt động của trang thông tin điện tử về tình hình cung -
cầu gạo, thị trường trong và ngoài nước, khách hàng nhập khẩu, giá cả và dự
báo thương mại gạo, thông tin về xuất khẩu và tiêu thụ thóc, gạo.
- Chủ động tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu gạo; hướng dẫn hội viên chủ
động giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu để nâng cao hiệu quả xuất
khẩu gạo.
- Định kỳ báo cáo hàng tuần, hàng tháng, hàng quý về Bộ Tài chính, Bộ Công
Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Văn phòng Chính phủ, Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vùng đồng bằng sông
Cửu Long về diễn biến tình hình giá mua thóc, gạo; giá thóc, gạo xuất khẩu;
lượng gạo tồn kho dự trữ lưu thông của thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo.
- Kịp thời báo cáo các Bộ, ngành liên quan những vấn đề phát sinh theo chức
năng, nhiệm vụ được giao và đề xuất biện pháp xử lý (Chính phủ, 2010).

Như vậy, đối với ngành xuất khẩu lúa gạo, Hiệp hội có nhiệm vụ chính là điều
chỉnh nguồn cung thông qua việc phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền đưa ra chỉ
tiêu xuất khẩu gạo; ấn định mức giá sàn định hướng xuất khẩu; thực hiện việc quản
lý các hợp đồng xuất khẩu gạo. Từ khi thành lập đến nay, cùng với việc thực hiện tốt
các nhiệm vụ nêu trên, Hiệp hội đã đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an
37

ninh lương thực nói chung và giữ ổn định hoạt động xuất khẩu lúa gạo nói riêng, góp
phần thực hiện định hướng phát triển ngành nông nghiệp của Đảng và Nhà nước.
2.2.3. Nguồn cung lúa gạo xuất khẩu và hoạt động chế biến

Việc điều hành nguồn cung xuất khẩu gạo được Chính phủ giao cho Hiệp hội
Lương thực Việt Nam chịu trách nhiệm. Hiệp hội là một thành viên của Tổ công tác
điều hành xuất khẩu gạo do Thứ trưởng Bộ Công thương làm tổ trưởng với sự tham
gia của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, Văn phòng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Hiệp hội phân chia lượng
gạo xuất khẩu cho các địa phương, đưa ra mức giá định hướng xuất khẩu để tránh
tình trạng doanh nghiệp bán phá giá, xác nhận hợp đồng xuất khẩu nếu hợp đồng
đúng quy định. Trong trường hợp doanh nghiệp đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo với
số lượng lớn gây ảnh hưởng đến cung – cầu, gây tác động bất lợi đến thị trường gạo
trong nước, Hiệp hội sẽ tham vấn ý kiến của Bộ Công thương trước khi trả lời doanh
nghiệp.
Các doanh nghiệp ký kết hợp đồng xuất khẩu phải dựa trên chỉ tiêu sản lượng
xuất khẩu gạo do Chính phủ đưa ra (còn gọi là hạn ngạch). Hàng năm, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc cân đối nhu cầu tiêu dùng gạo trong nước,
công bố vào quý IV hàng năm nguồn thóc, gạo hàng hóa có thể xuất khẩu trong năm
kế hoạch tiếp theo và cập nhật và thông báo với Bộ Công thương, Hiệp hội Lương
thực Việt Nam về tình hình sản xuất, sản lượng, chủng loại theo mùa vụ trong năm.
Hoạt động chế biến lúa gạo đã có nhiều cải thiện với chủ trương cơ giới hóa
trong lĩnh vực nông nghiệp của Nhà nước. Theo số liệu của Cổng Thông tin Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, năm 2013, cả nước có gần 500 nghìn máy kéo các
loại sử dụng trong nông nghiệp, với tổng công suất trên 9 triệu mã lực, tăng 4 lần so
với năm 2001; 580.000 máy tuốt đập lúa; khoảng 19.221 máy gặt lúa các loại (máy
gặt đập liên hợp tăng 19 lần so với năm 2007; máy gặt xếp dãy tăng 1,2 lần), riêng
vùng đồng bằng sông Cửu Long có 12.455 chiếc máy gặt các loại. Qua hơn 3 năm
thực hiện chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy
sản theo Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg và Quyết định số 65/2011/QĐ-TTg của Thủ
38

tướng Chính phủ, chủ trương của Chính phủ đã bước đầu đáp ứng được yêu cầu cấp
thiết của nông dân cả nước, nhất là vùng sản xuất lúa hàng hóa ở Đồng bằng sông
Cửu Long. Việc sử dụng máy móc trong sản xuất nông nghiệp mang lại nhiều lợi ích
thiết thực, thay thế lao động thủ công ngày một khan hiếm và đạt được hiệu quả kinh
tế cao hơn hẳn so với trước đây. Thu hoạch bằng máy bình quân tiêu tốn 2.100.000 –
2.500.000 đồng/ha, giảm từ 500.000 - 900.000 đồng so với cắt bằng tay; giảm tổn
thất ở khâu này từ 5 – 6% xuống còn 2%. Hiệu suất sử dụng máy cao. Tùy loại máy,
năng suất thu hoạch đạt từ 200 – 300 ha/năm.
Ở khu vực vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long, đến nay năng lực sấy chỉ bảo
đảm được 45% sản lượng thóc hè thu cộng thêm vấn đề kho tàng và công nghệ bảo
quản lương thực còn lạc hậu, chủ yếu vẫn là thông thoáng tự nhiên, đảo trộn và bốc
dỡ thủ công nên tổn thất trong quá trình bảo quản còn cao (1,5% - 2%). Các hệ thống
xay xát gạo chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay dùng ru-lô cao su để bóc vỏ, với độ
ẩm lúa đầu vào dưới 15%. Trong khi đó, các nhà máy sản xuất gạo thường (chất lượng
thấp) thường xay xát lúa ở độ ẩm cao hơn (khoảng 16%), dùng hệ thống bóc vỏ kiểu
đĩa, xát trắng, rồi lại sấy gạo. Hiện nay hệ thống kho tàng chuyên dụng hầu như không
có, đa phần là loại kho cuốn và kho khung thép, xây dựng đã lâu, hết thời hạn sử dụng,
hư hỏng và cần phải sửa chữa nhiều (Mai Thành Phụng & Lê Văn Bảnh, 2012).
2.2.4. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam

Theo cam kết WTO, năm 2011 Việt Nam mở cửa thị trường xuất khẩu gạo, cho
phép doanh nghiệp nước ngoài trực tiếp tham gia bình đẳng với các doanh nghiệp
Việt Nam. Đây là một điều khoản quan trọng nhất được kỳ vọng sẽ tạo ra những
chuyển biến trong kết cấu ngành kinh doanh xuất khẩu gạo của Việt Nam. Việt Nam
cũng đã có sự chuẩn bị cho tiến trình này khi ban hành Nghị định 109/2010/NĐ-CP
quy định về điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo, vốn không chỉ là một khung pháp
lý quan trọng cho doanh nghiệp nước ngoài tham gia xuất khẩu gạo mà đã tạo dựng
một sân chơi chung cho kinh doanh xuất khẩu gạo trong và ngoài nước.
Những năm qua, xuất khẩu gạo tập trung vào một số doanh nghiệp nhà nước
như Tổng công ty lương thực miền Nam, Tổng công ty lương thực miền Bắc, các
công ty lương thực các tỉnh sản xuất gạo chủ yếu như An Giang, Tiền Giang, Vĩnh
39

Long, Long An... Bên cạnh các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài cũng được phép tham gia xuất khẩu gạo như công ty chế biến gạo hấp
JFT-Rice tại Long An, công ty Anginmex-Kitoku tại An Giang... tạo sự phong phú
và đa dạng cho hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam. Với quan điểm xuất khẩu gạo
là ngành nghề ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh lương thực, lợi ích người tiêu dùng và
nông dân sản xuất lúa, Bộ Công thương khẳng định Nhà nước phải kiểm soát, định
hướng đội ngũ xuất khẩu gạo từng thời kỳ. Theo đó, Bộ Công thương cho rằng Việt
Nam sẽ chỉ có 150 đầu mối kinh doanh xuất khẩu gạo để tập trung phát triển chiều
sâu, năng lực doanh nghiệp. Bộ Công thương nêu thêm tiêu chí sẽ chỉ cấp giấy chứng
nhận cho thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo khi có kho chứa, cơ sở xay xát thóc
gạo trên địa bàn 13 tỉnh thành vùng đồng bằng sông Cửu Long, TP.HCM và Thái
Bình, Hưng Yên, Tây Ninh. Đáng lưu ý, để khống chế số lượng doanh nghiệp, doanh
nghiệp xuất khẩu gạo phải đạt mức tối thiểu 10.000 tấn gạo/năm và phải bảo đảm tối
đa đầu mối xuất khẩu gạo như hiện trạng đã đầu tư, không tăng thêm đầu mối…
Ngoài ra, Bộ Công thương yêu cầu Hiệp hội Lương thực Việt Nam phải tăng
cường quản lý hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp hội viên, giám sát hoạt
động của các thương nhân xuất khẩu gạo, phát huy vai trò hỗ trợ, hướng dẫn, định
hướng thương nhân trong sản xuất, kinh doanh xuất khẩu gạo… Các doanh nghiệp
xuất khẩu gạo phải góp phần ổn định thị trường trong nước, phải hợp tác, đặt hàng
với hộ nông dân trồng lúa, chú trọng bảo vệ thương hiệu gạo xuất khẩu của Việt Nam
trên trường quốc tế…
Tuy thị trường Trung Quốc là một thị trường rộng lớn nhưng cũng tiềm ẩn nhiều
rủi ro, đặc biệt là về chính sách khi Chính phủ Trung Quốc khống chế rất chặt chẽ
hoạt động nhập khẩu gạo để đảm bảo an ninh lương thực trong nước. Từ ngày 15 -
30/11/2016, đoàn công tác phía Trung Quốc đã đến Việt Nam kiểm tra thực tế 31
doanh nghiệp đăng ký sản xuất, chế biến gạo xuất sang Trung Quốc theo đề xuất của
phía Việt Nam. Sau đó, phía Trung Quốc chỉ chấp nhận 22 doanh nghiệp sản xuất
chế biến gạo của Việt Nam được xuất khẩu gạo sang Trung Quốc, vì có đủ điều kiện
về cơ sở hạ tầng cũng như hệ thống quản lý chất lượng, phù hợp với Nghị định thư
về kiểm dịch thực vật đối với gạo Việt Nam xuất sang Trung Quốc và những yêu cầu
40

khác của phía Trung Quốc về quản lý chất lượng đối với gạo nhập khẩu. Từ
01/01/2017, phía Trung Quốc không chấp nhận các doanh nghiệp chưa được cho phép
xuất khẩu gạo sang Trung Quốc (mốc thời gian tính từ ngày hàng rời cảng của Việt
Nam). Điều này đã tạo ra một rào cản cho hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam
sang thị trường Trung Quốc.
DANH SÁCH CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT CHẾ BIẾN GẠO CỦA VIỆT
NAM ĐƯỢC PHÉP XUẤT KHẨU SANG TRUNG QUỐC
1. Thoai Son Food One Member Company Limited
2. Tan Dong Tien Joint Stock Company
3. TV Food Company Limited – TVFood Co., Ltd
4. Trung An Hi-Tech Farming Joint Stock Company – Trung An Hi-Tech
Farming JSC
5. Tin Thuong Investment Trading Joint Stock Campany – An Giang Factory
6. Thuan Minh Import Export Corporation – Long An Branch
7. Thanh Tin Service and Trade Company Limited
8. Phan Minh Investment Production Trading Services Co., Ltd – An Giang
Branch
9. Tien Giang Food Company – Tien Giang Food
10. Vinacam Agrifood Joint Stock Company – Agricam
11. The Branch of Vietnam Southern Food Corporation – Thotnot
12. Gentraco Corporation – Long Thanh High Quality Rice Processing Branch
13. Intimex Group Joint Stock Company
14. Vietnam Northern Food Corporation – An Giang Mill
15. Duong Vu Company Limited
16. Giong Rieng Rice Exporting and Processing Factory
17. Viet Thanh Company Limited – V.TH Co., Ltd
18. Cam Nguyen Rice Trading and Processing Limited Company – CAM Rice
19. Trung Thanh Private Enterprise
20. Branch of Tan Thanh An Company Limited
21. Viet Hung Company Limited - Viet Hung Co., Ltd
41

22. Hung Cuc Company Limited


Theo bà Phạm Lê Khánh Hân, Trưởng phòng Xuất nhập khẩu Công ty Cổ phần
Nông nghiệp công nghệ cao Trung An, việc phía Trung Quốc đưa ra danh sách 22
doanh nghiệp được phép xuất khẩu vào Trung Quốc thực sự đã phần nào hạn chế hoạt
động xuất khẩu của những doanh nghiệp không nằm trong danh sách này, dù phía
Việt Nam đã nhanh chóng sử dụng hình thức ủy thác xuất khẩu để đối phó (những
doanh nghiệp không nằm trong danh sách ủy thác cho những doanh nghiệp nằm trong
danh sách đứng tên xuất khẩu). Trong thời gian sắp tới Trung Quốc có thể sẽ tiến
hành kiểm tra đợt 2 để mở rộng danh sách này. Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam
cần phối hợp cùng với Hiệp hội Lương thực và Bộ Công thương nhằm cập nhật thông
tin kịp thời để có thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu phía Trung Quốc đưa ra.
2.2.5. Các kênh phân phối

Giữa người sản xuất và người tiêu thụ gạo có một hệ thống trung gian tham gia
vào hoạt động phân phối bao gồm những người thu gom, bán buôn, bán lẻ... có nhiệm
vụ hỗ trợ hoạt động phân phối gạo đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
Các kênh phân phối gạo của Việt Nam còn nhiều bất lợi trong hoạt động xuất
khẩu gạo. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách mở cửa ra thị trường thế giới của nước
ta đã tạo ra các hợp đồng sản xuất giữa nông dân với doanh nghiệp thu mua và chế
biến gạo. Loại hợp đồng này rất phổ biến ở các nước xuất khẩu gạo lớn trong khu vực
hiện nay như Thái Lan và đã có mặt tại Việt Nam, bảo đảm cho sản xuất được duy trì
với các điều kiện đã được thoả thuận trước, giảm được những rủi ro trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, loại hợp đồng này bắt buộc nông dân phải phụ thuộc nhiều vào người mua
sản phẩm. Nhìn chung, kênh phân phối gạo của Việt Nam dựa theo sơ đồ sau:
42

Sơ đồ 2.1: Sơ đồ kênh phân phối gạo của Việt Nam

Nguồn: tác giả tổng hợp từ Giáo trình marketing căn bản của Trần Minh Đạo,
2009, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân
Như sơ đồ trên đó chỉ rõ, hoạt động xuất khẩu gạo ở Việt Nam được chia làm
hai khâu. Ở khâu mua, chủ yếu gạo được chuyển từ người sản xuất, qua một số trung
gian tới người xuất khẩu hoặc được chuyển một cách trực tiếp. Các khâu trung gian
đóng vai trị rất quan trọng ở Việt Nam nên hình thức phân phối trực tiếp chỉ mới hình
thành nhưng xu hướng sẽ phát triển trong tương lai. Trong khâu xuất khẩu, nhà xuất
khẩu nước ta phần lớn phải dựa vào trung gian nước ngoài mới đưa dược gạo đến với
khách hàng. Các hợp đồng trực tiếp ít được ký kết và đưa vào thực hiện. Theo quan
điểm của marketing mix, có 4 kênh phân phối:
- Kênh 1: Người sản xuất – Khách hàng (người tiêu dùng cuối cùng). Kênh này
không có đối với xuất khẩu gạo ở Việt Nam vì kênh này không qua một trung gian
nào, kể cả người xuất khẩu.
- Kênh 2: Người sản xuất – Nhà xuất khẩu – Nhà nhập khẩu nước ngoài – Khách
hàng. Kênh này có hai trung gian là nhà xuất khẩu trong nước và nhà nhập khẩu nước
ngoài.
Nhà xuất khẩu ở kênh này thường là các công ty lớn như Tổng công ty lương
thực miền Bắc hoặc Tổng công ty lương thực miền Nam. Các công ty này có các chi
nhánh tại các nơi sản xuất lúa. Khi vào mùa thu hoạch, công ty cử người xuống tận
ruộng để mua lúa của nông dân, sau đó tiến hành vận chuyển về các cơ sở chế biến
gạo xuất khẩu của công ty. Sau khi chế biến xong, công ty sẽ xuất khẩu gạo ra nước
ngoài theo hợp đồng đã ký với đối tác.
43

- Kênh 3: Người sản xuất – Người thu mua – Nhà xuất khẩu – Nhà nhập khẩu
nước ngoài – Khách hàng.
Người nông dân sau khi cất trữ một lượng gạo nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng hàng ngày thì phần còn lại bán cho người thu mua. Người thu mua gom lúa
từ người nông dân, với khối lượng cao điểm là sau các vụ mùa, sau đó bán cho nhà
xuất khẩu. Nhà xuất khẩu có những nhà máy chế biến gạo xuất khẩu với công nghệ
tiên tiến, cho phép chế biến gạo đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
Người thu mua cũng có thể xay xát thóc thành gạo rồi bán cho nhà bán lẻ cố
định để phân phối gạo đến người tiêu dùng trong nước. Nhà bán lẻ cố định có thể là
các cửa hàng bán gạo tại nông thôn, thành thị hoặc các công ty buôn bán gạo.
- Kênh 4: Người sản xuất – Người thu mua – Người bán buôn – Nhà xuất khẩu
– Nhà nhập khẩu nước ngoài – Khách hàng.
Trong kênh này, người thu mua gom lúa lại rồi bán cho người bán buôn. Người
bán buôn (thường được gọi là “thương lái”) và các công ty kinh doanh lương thực
(như công ty chế biến lương thực Toàn Thắng – Cần Thơ, kho lương thực Cái Răng
– Cần Thơ). Họ thu mua lúa để sản xuất chế biến gạo theo các hợp đồng của người
kinh doanh lúa gạo khác. Nhà xuất khẩu thu mua gạo qua các chi nhánh địa phương
hoặc qua mạng lưới thương lái. Điển hình là Công ty Lương thực Sông Hậu, Công ty
Lương thực Thực phẩm An Giang, Công ty Lương thực Bạc Liêu, Công ty Lương
thực Long An,…. Gạo sau khi thu mua được vận chuyển về các nhà máy chế biến
của công ty, rồi sau đó được xuất khẩu theo hợp đồng công ty đã ký với đối tác. Nhà
nhập khẩu nước ngoài thường là các công ty nhập khẩu gạo ở Trung Quốc hoặc các
tập đoàn bán lẻ của nước ngoài (chẳng hạn như tập đoàn Wilmar của Singapore).
Những nhà nhập khẩu này đảm trách nhiệm vụ bán gạo đến khách hàng, hay người
tiêu dùng cuối cùng tại nước họ hay nước khác.
Qua việc chia các kênh như trên, chúng thấy rằng ở Việt Nam, phổ biến nhất
vẫn là kênh 4. Để tiến hành xuất khẩu gạo, cần qua tất cả các khâu trung gian mới
đến tay được người tiêu dùng. Ưu điểm của hình thức phân phối này là người sản
xuất tách được khỏi hoạt động phân phối nên có thể đầu tư nguồn lực vào quá trình
sản xuất gạo, nếu kết hợp nhịp nhàng sẽ tạo ra khả năng linh hoạt cho thị trường do
44

chuyên môn hoá cao. Tuy nhiên, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, việc phải dùng
đến quá nhiều trung gian sẽ phát sinh các vấn đề như giá cả tăng, người sản xuất
không có mối quan hệ với khách hàng nên không biết được nhu cầu và mong muốn
của họ. Hơn nữa, người sản xuất bị phụ thuộc quá nhiều vào trung gian dễ dẫn đến
tình trạng bị ép giá.
2.2.6. Hoạt động vận chuyển

Vận tải đường biển đóng vai trò quan trọng nhất trong việc vận chuyển hàng
hóa ngoại thương, chiếm tới 80% khối lượng hàng hóa trong buôn bán quốc tế vì vận
tải đường biển có năng lực chuyên chở lớn, thích hợp cho việc vận chuyển hầu hết
các loại hàng hóa trong thương mại quốc tế. Đặc biệt tàu biển thích hợp và hiệu quả
để chuyên chở các loại hàng rời có khối lượng lớn và giá trị thấp như: than đá, quặng,
ngũ cốc, dầu mỏ,… Hàng lương thực là một trong những mặt hàng rời lâu đời nhất
được vận chuyển bằng đường biển. Vì vậy, hầu hết các hợp đồng xuất khẩu gạo của
Việt Nam đều được chuyên chở bằng đường biển.
Với phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu gạo đều tập trung ở khu vực miền
Nam, đồng thời đồng bằng sông Cửu Long cũng là vựa lúa lớn nhất của cả nước nên
hoạt động vận chuyển lúa gạo xuất nhập khẩu diễn ra phần lớn ở các cảng biển quốc
tế ở thành phố Hồ Chí Minh. Thóc được thu từ khu vực đồng bằng, sau đó được vận
chuyển tới hai trung tâm xay xát chính: một dọc theo sông Hậu phục vụ các tỉnh An
Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ và một dọc theo sông Tiền cho đến các tỉnh
Tiền Giang, Long An, v.v. Khoảng 90% lượng gạo xuất khẩu được vận chuyển từ
khu vực đồng bằng sông Cửu Long tới Tp. HCM theo đường thủ nội địa, và một số
lượng nhỏ được vận chuyển theo quốc lộ 1A và tuyến cao tốc thành phố Hồ Chí Minh
– Trung Lương (dành cho gạo xuât khẩu từ Long An và Tiền Giang). Bảng dưới đây
cho thấy những tuyến đường thủy nội địa chính trong khu vực:
45

Bảng 2.6: Những tuyến đường thủy nội địa chính


Chiều dài
Tuyến đường
(km)

Tuyến đường 1: TP. HCM-Cà Mau qua kênh Xà No 338.3

Tuyến đường 2: Tp.HCM – Kiên Lương qua kênh Sa Đéc – Lấp Vò 322

Tuyến đường 3: Tp.HCM – Kiên Lương qua kênh Tháp Mười số 1 288.8

Nguồn: Bài viết “Các luồng giao thông xuất khẩu gạo ở đồng bằng sông Cửu
Long” của Công ty Cổ phần Phân tích và Dự báo Thị trường Việt Nam, 2014

Do có nhiều phù sa, tuyến đường số 3 không được sử dụng thường xuyên như
tuyến số 1 và 2. Trong năm 2010, những tuyến đường thủy nội địa đã vận chuyển
khoảng 5,9 triệu tấn gạo xuất khẩu, trong có có 5,6 triệu tấn đi qua tuyến số 1 và 2.
Hai kênh này nối với kênh Chợ Gạo, trên đường tới cảng sông Thị Vải ở Tp. HCM.
Kênh Chợ Gạo do đó phục vụ như là tuyến đường huyết mạch để vận chuyển gạo
xuất khẩu từ đồng bằng sông Cửu Long đến những của khẩu quốc tế chính. Điều này
khiến việc vận chuyển hàng đến các cảng và các điểm thông quan nội địa (ICD) mất
thời gian hơn và gây ra rủ ro về thời gian giao hàng. Hầu hết các tuyến đường thủy
nội địa từ đồng bằng sông Cửu Long đến Tp. HCM đều ở trạng thái không được tốt,
nhiều cây cầu bắc qua sông có từ trước đó không đạt chuẩn, gây hạn chế cho giao
thông đường sông. Quỹ bảo trì đường thủy nội địa còn hạn chế, chỉ dành cho những
công việc cấp bách nhất. Các cảng tại Tp. HCM, vận chuyển khoảng 87,9% lượng
gạo xuất khẩu, trong khi các cảng ở đồng bằng sông Cửu Long (cảng Mỹ Thới, cảng
Cần Thơ) chỉ 1,9% lượng gạo xuất khẩu. Còn 8,7% lượng gạo xuất khẩu được vận
chuyển qua các điểm thông quan nội cảng cạn (ICD) (chủ yếu là các ICD tại Tp.
HCM). Các cảng biển chính cho xuất khẩu gạo trong Tp.HCM bao gồm Bến Nghé,
Tân Cảng, Cát Lái, cảng container quốc tế Việt Nam (VITC), Hiệp Phước, Khánh
Hội và cảng Tân Thuận. Từ TP. HCM, 87,9% lượng gạo được vận chuyển trực tiếp
cho các tàu để xếp hàng. Khoảng 600.000 tấn gạo được thông quan tại các điểm thông
quan nội địa bao gồm Phước Long – Thủ Đức, Tây Nam (cảng Tp.HCM-khu vực IV),
Transimex III (cảng Tp.HCM-khu vực IV) và các điểm thông quan nội địa khác tại
46

Tp.HCM và Đồng Nai. Sau khi đóng vào container tại các cảng cạn ICDs và hoàn
thành thủ tục hải quan, gạo được vận chuyển bằng đường bộ đến các cảng để xuất
khẩu. Các tuyến đường từ các cảng cạn chủ yếu thông qua đường cao tốc Hà Nội-
Nguyễn Thị Định, đường đến cảng Cát Lái, các tuyến giao thông đến các cảng tại
Tp.HCM thường xuyên tắc nghẽn vì các cảng được đặt trong khu vực nội thành. Do
vậy các tuyến đường không thể đáp ứng như cầu vận tải trong khu vực. Gạo xuất
khẩu sang Trung Quốc thường được vận chuyển theo giao thức CFR hoặc CIF. Chi
phí vận chuyển đường sông từ đồng bằng sông Cửu Long tới các cảng ở TP. HCM
dao động từ 4-5 USD/tấn, chi phí xếp và bốc dỡ hàng (tại các cảng sông và từ các địa
điểm thông quan nội địa tới các tàu) từ 2,3-2,5 USD/tấn. Bên cạnh những chi phí hoạt
động, chi phí phát sinh bao gồm chi phí các trạm kiểm soát sông ở mức trung bình là
50 USD/lô hàng cũng như chi phí lao động bốc xếp ở mức trung bình là 0,75 USD/tấn,
đưa tổng chi phí đến 8,5 USD/tấn. Thời gian vận chuyển kéo dài từ 18 đến 36 giờ tùy
thuộc từng khu vực. Xếp và bố dỡ hàng thường mất hai ngày. Như vậy, trong điều
kiện thuận lợi, thời gian vận chuyển cho mỗi lô hàng là từ 3 đến 5 ngày. Chi phí như
vậy là hợp lý so với thời gian và chất lượng dịch vụ, do vậy vận tải đường thủy phù
hợp đối với gạo phẩm cấp thấp và trung bình. Chi phí vận chuyển đường bộ dao động
từ 12-20 USD/tấn, với tiền lệ phí trung bình khoảng 2 USD/tấn, bên cạnh đó những
chi phí hoạt động, chi phí phát sinh tại trạm kiểm soát đường bộ do những lỗi vi phạm
như quá tải hoặc xe chất lượng kém làm tăng thêm chi phí từ 15-20 USD/tấn. Thời
gian vận chuyển, xếp và bốc dỡ hàng tổng cộng khoảng 8-10 giờ. Do vậy vận tải
đường bộ chủ yếu được sử dụng cho gạo chất lượng cao đòi hỏi điều kiện cao hơn.
Đối với các chuyến hàng đến các cảng của Trung Quốc, tàu 3.000-5.000 DWT được
sử dụng phổ biến nhất. Cước tàu từ TP. HCM đến các cảng của Trung Quốc tương
đối rẻ do quãng đường ngắn, đồng thời tuyến đường biển tương đối an toàn: từ các
cảng tại TP.HCM đến Shekou (Quảng Đông) có giá cước âm (rẻ hơn so với giá FOB)
3 USD/tấn, tới Huangpu (Quảng Đông) chi phí chỉ 1 USD/tấn, tới Thượng Hải chi
phí dao động từ 2-4 USD/tấn, thậm chí đến những cảng ở phía Bắc như Thiên Tân
chi phí cũng chỉ tương đương với giá FOB; tốc đọ tàu dao động từ 11 đến 13 hải
lý/giờ. Như vậy, đối với các lô hàng gạo xuất sang Trung Quốc, thời gian vận chuyển
47

dao động từ 3 ngày (cho những cảng ở khu vực Quảng Đông, giáp với Việt Nam) đến
12 ngày (cho những cảng nằm ở sâu trong nội địa hoặc ở phía Bắc, phải trung chuyển
ở Thượng Hải).
Theo quy hoạch phát triển cảng biển, đến năm 2020 việc xây dựng và năng cấp
các cảng ở đồng bằng sông Cửu Long sẽ được hoàn thành, bao gồm các cảng như bến
Hoàng Diệu, Cái Cui, Trà Nóc với công suất 12 – 13,5 triệu tấn mỗi năm, có thể tiếp
tục nhận các tàu từ 5.000 đến 20.000 DWT. Nhu cầu về các tuyến đường vận chuyển
cho xuất khẩu gạo sẽ thay đổi do gạo được xuất khẩu trực tiếp từ cảng ở đồng bằng
sông Cửu Long, giảm khối lượng gạo vận chuyển từ đồng bằng sông Cửu Long đến
các cảng tại Tp.HCM. Như vậy, xuất khẩu gạo sang Trung Quốc có thể được vận
chuyển trực tiếp từ cảng Cần Thơ để giảm chi phí. Đối với các đơn đặt hàng số lượng
lớn hơn, gạo sẽ được vận chuyển bằng đường thủy nội địa đến các cảng của Tp.HCM
để xuất khẩu.

2.3.Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc trong giai đoạn 2009 – 2016

Kể từ sau cuộc khủng hoảng lương thực thế giới năm 2008, ngành lúa gạo Việt
Nam đã từng bước phát triển và tiếp tục giữ vững vị trí là một cường quốc xuất khẩu
gạo cho đến nay. Đối với thị trường nhập khẩu gạo của Trung Quốc, Việt Nam đã
từng bước thâm nhập và đến nay đã thành công trong việc chiếm lĩnh thị trường này.
Tuy vậy, hoạt động xuất khẩu gạo sang thị trường này còn gặp phải rất nhiều hạn chế
cần khắc phục.
2.3.1. Những thành tựu và nguyên nhân

Trong giai đoạn 2009 – 2016, hoạt động thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt Nam
sang thị trường Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận với sự nỗ
lực của cả chính phủ và các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gạo. Hoạt động xuất
khẩu gạo của Việt Nam không những tăng nhanh về sản lượng mà còn nâng cao được
chất lượng. Năm 2009, Việt Nam xuất sang Trung Quốc khoảng 2.899 tấn gạo và chỉ
thu về khoảng 1 triệu USD. Đến năm 2016 thì kim ngạch xuất khẩu gạo đã tăng lên
rất nhiều, đạt hơn 733,9 triệu USD với 1,5 triệu tấn gạo.
48

Cơ cấu các chủng loại gạo xuất khẩu đã có sự cải thiện, đặc biệt là loại gạo
trắng chất lượng trung bình đã giảm đáng kể, từ 62,18% vào năm 2009 giảm xuống
chỉ còn 15,79% vào năm 2016, nhường lại thị phần cho gạo thơm và gạo nếp. Gạo
thơm đang được xem là có nhiều tiềm năng để cạnh tranh với các đối thủ khác khi
chúng ta đưa mức giá cạnh tranh hơn so với Thái Lan thị trường Trung Quốc. Sự gia
tăng sản lượng gạo thơm xuất khẩu sang Trung Quốc được xem như là thành công
bước đầu khi Việt Nam tham gia vào thị trường gạo cao cấp, mặt khác cũng mang lại
kinh nghiệm để gạo thơm Việt Nam thâm nhập vào những thị trường cao cấp hơn
như châu Âu, châu Mỹ, Nhật Bản.
Công nghệ chế biến gạo xuất khẩu ngày càng được cải tiến theo hướng hiện đại
và phù hợp với trình độ sản xuất, an toàn vệ sinh môi trường trong nước. Chất lượng
hạt gạo Việt Nam được nâng cao một cách rõ rệt, có thể đáp ứng những đòi hỏi khắt
khe của thị trường Trung Quốc về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, quy trình khử
trùng, hàm lượng kim loại nặng trong gạo,… từ đó đem lại những kinh nghiệm quý
báu, giúp Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu vào những thị trường khó tính như
Nhật Bản, Singapore,…
Ngoài ra, với biện pháp hỗ trợ vốn từ phía Chính phủ, người nông dân sản xuất
lúa đã có thêm điều kiện để phát triển sản xuất, mua thêm nhiều giống lúa năng suất,
chất lượng cao, sử dụng các loại phân bón và thuốc bảo vệ thực vật vừa đảm bảo tốt
cho cây trồng vừa đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo cũng được tạo điều kiện về vốn nhằm đổi
mới công nghệ, nghiên cứu thị trường, giới thiệu và quảng bá sản phẩm,… đáp ứng
một cách hiệu quả cho hoạt động xuất khẩu.
Thủ tục hành chính được cải thiện một cách đáng kể, giảm thiểu chi phí và thời
gian cho người dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, góp phần thúc đẩy xuất khẩu.
Đặc biệt với quyết định đưa xuất khẩu gạo trở thành ngành kinh doanh có điều kiện,
Chính phủ đã cho thấy sự quan tâm, chú trọng đến chất lượng hạt gạo xuất khẩu của
Việt Nam, góp phần xây dựng thương hiệu gạo Việt.
Có thể nói, xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc nói riêng và ra thị trường
thế giới nói chung đã góp phần quan trọng đưa đất nước vượt qua thời kỳ khó khăn,
49

tạo sự ổn định về kinh tế, chính trị - xã hội, tạo tiền đề cho sự phát triển. Xuất khẩu
gạo còn có vai trò quan trọng với phát triển nông nghiệp nông thôn, tạo thêm việc
làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nói riêng và cả nước nói chung.
Ngoài ra xuất khẩu gạo còn góp phần hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn, nâng
cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Những thành tựu trên đạt được là do sự quan tâm đúng đắn của Đảng và Nhà
nước cũng như sự nỗ lực của chính các doanh nghiệp Việt Nam. Chính phủ Việt Nam
đã có những biện pháp hỗ trợ về vốn bằng cách khuyến khích các ngân hàng cho vay
vốn, bảo lãnh vay vốn, giảm lãi suất đối với các khoản tín dụng cho vay nhằm đáp
ứng kịp thời nhu cầu vay của người nông dân hoặc doanh nghiệp sản xuất, chế biến
và xuất khẩu gạo.
Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức được một cách đúng
đắn về tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến thương mại mặt hàng gạo, bởi đây là
hoạt động tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo tiếp cận với thị trường xuất
khẩu, thị hiếu người tiêu dùng, đối thủ cạnh tranh; nâng cao hiểu biết và kỹ năng tiếp
thị xuất khẩu; tuyên truyền cho gạo xuất khẩu của Việt Nam, góp phần nâng cao năng
lực cạnh tranh xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt nam.
Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam cũng tăng cường đầu tư nghiên cứu
ứng dụng và cải tiến công nghệ trong trồng trọt, sản xuất, chế biến và bảo quản gạo;
đặc biệt trong các vấn đề về giống, quy trình chăm sóc, thu hái, công nghệ sau thu
hoạch nhằm tăng sản lượng và nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam
sang thị trường Trung Quốc không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định như sau:
Thị trường thiếu tính bền vững, tính rủi ro cao. Rủi ro đến từ chính sách của
Chính phủ Trung Quốc và từ những thương nhân nhập khẩu gạo của nước này. Chính
phủ Trung Quốc thường dùng chính sách để điều tiết thị trường gạo trong nước nên
dẫn đến việc giá cả nội địa có khả năng biến động mạnh trong thời gian ngắn, gián
tiếp ảnh hưởng đến giá nhập khẩu. Các chính sách này bao gồm việc mở kho lương
thực để tăng nguồn cung trên thị trường nội địa hoặc thông qua việc tăng thu mua để
50

dự trữ của các công ty lương thực nhà nước, cấp hạn ngạch nhập khẩu cho các loại
gạo thơm, cử đoàn kiểm tra sang Việt Nam kiểm tra tình hình quản lý chất lượng của
các công ty xuất khẩu gạo,… Ngoài ra, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam
còn gặp phải rủi ro trong thanh toán khi các thương nhân Trung Quốc thường yêu cầu
những phương thức thanh toán có lợi cho họ, đẩy rủi ro về phía Việt Nam, dẫn đến
tình trạng khi có vấn đề về thanh toán xảy ra, thương nhân Việt Nam bị bắt buộc phải
giảm giá hàng cho phía Trung Quốc, nếu không tổn thất sẽ rất lớn. Những công ty
nhập khẩu gạo ở Trung Quốc phần lớn là những công ty tư nhân, cách làm việc thiếu
chuyên nghiệp, thiếu uy tín và thiện chí để giải quyết những vấn đề về chất lượng
hàng hóa. Vì vậy, dù nhu cầu của thị trường Trung Quốc là rất lớn, nhưng nhiều
doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn khá e dè trong việc giao dịch với thị trường này.
Chất lượng gạo của Việt Nam còn kém so với các đối thủ cạnh tranh. Mặc dù
đã có nhiều cố gắng trong nghiên cứu và triển khai chương trình cải tạo giống lúa
nhưng diện tích gieo trồng các loại giống có chất lượng cao chưa nhiều. Người nông
dân mới chỉ chú trọng đến việc nâng cao năng suất mà chưa quan tâm đến việc nâng
cao giống lúa và các biện pháp kỹ thuật để cải thiện chất lượng gạo phù hợp với thị
trường trong và ngoài nước. Có đến 90% diện tích hiện đang sử dụng các giống lúa
ngắn ngày cho năng suất cao nhưng chất lượng thấp. Các giống lúa đặc sản truyền
thống của Việt Nam chiếm một diện tích không đáng kể, trong khi có quá nhiều giống
lúa khác nhau được gieo trồng trên cùng một khu vực, trong cùng một mùa vụ là một
thực trạng đáng lo ngại cả cho việc sản xuất lúa đến chế biến gạo hiện nay. Theo số
liệu từ Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn, hàng năm chưa kể nhập khẩu, chúng
ta công nhận và đưa vào sản xuất 60 đến 80 giống lúa mới chưa kể sử dụng thóc thịt
làm giống khá phổ biến. Việc quản lý chất lượng trong quá trình xay xát chế biến
cũng là một vấn đề đáng quan tâm khi mà nhiều thương nhân Trung Quốc cho rằng
chất lượng gạo Việt Nam không ổn định và uy tín của các doanh nghiệp Việt Nam
không tốt. Ngoài ra khi giá thị trường thay đổi thì các doanh nghiệp Việt Nam cũng
không thể đảm bảo chất lượng hàng hóa giao cho khách hàng như khi ký kết hợp
đồng.
51

Công nghệ chế biến lạc hậu cũng đang là những trở ngại lớn. Cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ chế biến, bảo quản xuất khẩu còn yếu kém lại phân bố không đều. Hệ
thống nhà máy xay xát, đánh bóng gạo xuất khẩu những năm gần đây tuy có được
trang bị thêm máy móc, thiết bị hiện đại hơn nhưng số lượng còn ít, chủ yếu được bố
trí ở các thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho như các nhà máy thuộc Tổng
công ty lương thực, trong khi đó những vùng xa và địa phương có nhiều lúa hàng hoá
phục vụ xuất khẩu như An Giang, Đồng Tháp, Sóc Trăng …lại không có các nhà máy
chế biến và đánh bóng gạo xuất khẩu hiện đại, phần lớn các nhà máy của cơ sở chế
biến gạo tư nhân vẫn còn sử dụng công nghệ cũ, nhiều giai đoạn vẫn dùng lao động
thủ công. Nhìn chung công nghệ và thiết bị xay xát gạo phần lớn là lạc hậu, ít cải tiến
chi phí sản xuất cao, chất lượng thành phẩm thấp. Đây là nguyên nhân chính làm cho
gạo xuất khẩu của Việt Nam thiếu khả năng cạnh tranh trên thị trường, hiệu quả kinh
tế chưa cao. Mặt khác, trình độ canh tác của người nông dân và trình độ kỹ thuật,
nghiệp vụ của các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gạo còn chưa cao. Vấn đề này
đòi hỏi Chính phủ và các doanh nghiệp cần có biện pháp đào tạo và đào tạo lại cho
người nông dân, các cán bộ, nhân viên của doanh nghiệp một cách thường xuyên, có
hệ thống nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của hoạt động xuất nhập khẩu.
Giá gạo của Việt Nam luôn thấp hơn giá gạo của Thái Lan. Với nhiều nỗ lực,
khoảng cách này từng bước được thu hẹp và đến năm 2016, chênh lệch giá gạo của
ta so với giá gạo Thái Lan chỉ còn khoảng 40 USD/tấn. Đây là vấn đề bức xúc cần
được giải quyết, nhưng trước hết ta phải xem xét những nhân tố tác động đến giá gạo
xuất khẩu:
Thứ nhất, chất lượng gạo xuất khẩu còn kém, phẩm cấp thấp, mẫu mã chưa đáp
ứng được các thị trường khó tính đã làm giá gạo của ta thấp hơn giá gạo quốc tế.
Thứ hai, khả năng dự báo dự phòng các loại rủi ro trong sản xuất chưa cao, chưa
đủ sức dự báo chính xác, nhất là phòng chống thiên tai.
Thứ ba, việc quản lý gạo trong xuất khẩu còn bị buông lỏng, gạo có chất lượng
kém vẫn được tham gia vào thị trường xuất khẩu đã ảnh hưởng đến uy tín gạo của
Việt Nam trên thị trường thế giới. Mặt khác các chi phí từ sản xuất lúa đến vận chuyển
52

và bảo quản còn khá cao so với Thái Lan cũng trực tiếp ảnh hưởng đến xuất khẩu của
ta trong thời gian qua.
Thứ tư, dự báo thị trường nông sản của Trung Quốc chưa nhanh nhạy, thiếu
chính xác, chưa phân tích đầy đủ các yếu tố tác động tới giá cả gạo trong nhiều năm.
Hơn nữa phải kể đến khả năng hạn chế của doanh nghiệp xuất khẩu về marketing
trong việc tiếp cận thông tin nắm bắt thị trường cũng như trong khâu giao dịch và ký
kết hợp đồng.
Thứ năm, mức chênh lệch giá gạo quốc tế và giá gạo xuất khẩu của Việt Nam
còn do những nguyên nhân khác nữa như Việt Nam chưa có được hệ thống bạn hàng
tin cậy từ nhiều năm như Thái Lan, do đó doanh thu xuất khẩu cũng giảm do phải chi
khoản hoa hồng môi giới.
Ngoài ra, tuy Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc hỗ trợ vốn nhưng vẫn còn
những trường hợp người nông dân và các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gạo
chưa tiếp cận được với nguồn vốn. Điều đó đồng nghĩa với việc họ chưa có điều kiện
đầu tư, mua các loại giống lúa năng suất, chất lượng cao cũng như đổi mới trang thiết
bị sản xuất, chế biến gạo xuất khẩu. Nguyên nhân là do khi thẩm định khoản vay cho
các doanh nghiệp, các ngân hàng ngoài đòi hỏi tài sản thế chấp, còn đòi hỏi báo cáo
tài chính doanh nghiệp năm trước phải tốt, kế hoạch kinh doanh mới phải có tính khả
thi và chắc chắn. Điều đó dẫn đến các doanh nghiệp năm trước kinh doanh chưa có
hiệu quả, cần vốn để mở rộng sản xuất, đầu tư đổi mới trang thiết bị gặp khó khăn
trong vấn đề vay vốn. Bên cạnh đó, nếu gói hỗ trợ của Chính phủ không được quản
lý chặt chẽ sẽ dẫn tới việc các ngân hàng gây khó khăn cho khách hàng khi xét duyệt
cho vay.
SƠ KẾT CHƯƠNG 2
Chương 2 đã tập trung nghiên cứu thực trạng xuất khẩu gạo và tình hình tổ chức
xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong giai đoạn 2009 – 2016
qua nhiều tiêu chí như sản lượng, kim ngạch, giá cả, chất lượng, các kênh phân phối
và vận chuyển,… Qua phân tích ở trên, ta thấy hoạt động xuất khẩu gạo đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể. Thứ nhất, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu có xu hướng
tăng trong thời kỳ này, đem lại nguồn ngoại tệ to lớn cho Việt Nam. Thứ hai, chất
53

lượng gạo đã có sự tiến bộ đáng khích lệ. Thứ ba, sự hỗ trợ và quan tâm của Nhà
nước đối với hoạt động xuất khẩu gạo đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong
việc đẩy mạnh xuất khẩu gạo và khâu xúc tiến thương mại, cải thiện giống và ứng
dụng công nghệ cao vào quá trình sản xuất,…
Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu gạo vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Thứ nhất,
thị trường Trung Quốc tuy rộng lớn nhưng vẫn là thị trường thiếu tính bền vững, tính
rủi ro cao. Thứ hai, chất lượng gạo của Việt Nam tuy đã được cải thiện khá nhiều
nhưng nhìn chung vẫn còn thấp, do đó giá trị không bằng đối thủ cạnh tranh như Thái
Lan. Chất lượng thấp còn gây nhiều khó khăn trong việc xây dựng thương hiệu và
nâng cao giá trị của hạt gạo Việt. Thứ ba, do đặc điểm của mặt hàng gạo là sản phẩm
nông nghiệp mang tính thời vụ nên giá cả dễ bị ảnh hưởng bởi cung cầu trên thị
trường, trong khi đó các chính sách hỗ trợ của Chính phủ như thu mua tạm trữ chưa
phát huy được hiệu quả để đảm bảo quyền lợi cho nông dân và doanh nghiệp xuất
khẩu. Thứ tư, chính sách hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp và người nông dân còn nhiều
hạn chế, gây khó khăn cho họ trong việc tiếp cận nguồn vốn để đầu tư sản xuất, đổi
mới máy móc thiết bị, cải thiện giống lúa,…
54

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG


XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG
QUỐC TRONG GIAI ĐOẠN 2017 - 2020

3.1.Định hướng xuất khẩu gạo của Việt Nam đến năm 2020
3.1.1. Quan điểm của Đảng về xuất khẩu gạo

Vấn đề an ninh lương thực luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, chỉ
đạo nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt lẫn lâu dài. Lúa gạo là
cây trồng lương thực chủ yếu vì vậy việc điều tiết dự trữ gạo với điều hành xuất khẩu
gạo có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia. Quan điểm về xuất khẩu gạo của nước ta là tăng giá trị xuất khẩu, không ngừng
nâng cao chất lượng gạo, xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam trên thế giới nhưng
phải đảm bảo được vấn đề an ninh lương thực quốc gia đầu tiên, đồng thời đảm bảo
được các mục tiêu xã hội cho người nông dân và phát triển nông thôn. Quan điểm của
nước ta về hoạt động sản xuất và xuất khẩu lúa gạo như sau:

- Vấn đề an ninh lương thực quốc gia phải nằm trong chiến lược tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội, gắn với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn,
trong đó xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân
là quan trọng, góp phần bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia.
- Phát huy lợi thế về cây lúa là chính và phát triển lương thực, thực phẩm
thành các vùng sản xuất hàng hóa có hiệu quả và sức cạnh tranh cao; đẩy
mạnh cơ giới hóa, chế biến, bảo quản theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và bảo vệ môi trường bền vững.
- Giải quyết hài hòa tiêu dùng trong nước và xuất khẩu gạo tránh tình trạng
xuất khẩu nhiều mà trong nước người dân vẫn bị thiếu đói.
3.1.2. Mục tiêu và định hướng của Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu gạo

Nghị quyết 63/NQ-CP được Chính phủ ban hành ngày 23/12/2009 nêu ra những
mục tiêu quan trọng về vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đặc biệt là về
sản xuất lúa gạo. Xác định đây là vấn đề trọng đại của đất nước nên Chính phủ yêu
55

cầu phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, phát huy lợi thế về cây lúa, tổ chức tốt
hệ thống mua, bán và dự trữ ở các vùng miền, bảo đảm thu nhập cho người sản xuất
lương thực và tạo điều kiện cho các địa phương thuần nông phát triển.
Các mục tiêu cụ thể được đề cập đến như sau:
- Xác định cây lúa là thế mạnh, Chính phủ quy hoạch diện tích đất lúa đảm bảo
đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030 là khoảng 3,8 triệu ha để có sản lượng 41 – 43
triệu tấn lúa đáp ứng tổng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu khoảng 4 triệu
tấn gạo/năm. Trong đó, 3,2 triệu ha là đất lúa sản xuất 2 vụ trở lên, có thủy lợi hoàn
chỉnh. Diện tích này cần được giữ, bảo vệ nghiêm ngặt và được lập bản đồ hiện trạng
sử dụng đất lúa đến từng hộ sử dụng. Khuyến khích nông dân giữ gìn đất lúa, tránh
tình trạng lấy đất lúa làm khu công nghiệp, sân golf, kinh doanh dịch vụ… một cách
bừa bãi.
- Tăng cường năng lực cho nghiên cứu khoa học, khuyến nông... liên quan đến
an ninh lương thực bằng cách tăng ngân sách hàng năm đầu tư cho lĩnh vực này
khoảng 10-15% so với hiện nay.
- Tăng cường đào tạo nông dân về khoa học kỹ thuật và kiến thức quản lý theo
phương thức phù hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất lương thực và tăng thu nhập.
Mục tiêu đến năm 2020, 50% người sản xuất lương thực đã qua đào tạo.
- Mục tiêu quan trọng của Chính phủ thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm chi
phí sản xuất để đảm bảo cho người sản xuất lúa gạo có lãi trên 30% so với giá thành
sản xuất.
- Sớm hoàn thành Đề án bảo hiểm nông nghiệp, trước mắt là bảo hiểm sản xuất
lúa gạo.
- Để kiện toàn và có hệ thống giám sát an ninh lương thực quốc gia một cách
đầy đủ, quy chuẩn, Chính phủ giao Bộ Nội vụ nghiên cứu đề xuất việc thành lập Ủy
ban an ninh lương thực quốc gia.
Xuất phát từ những mục tiêu trên, chúng ta cần lưu ý thúc đẩy xuất khẩu gạo
theo các định hướng cơ bản sau đây:

- Tăng cường thâm canh tăng năng suất lúa gạo, kết hợp khai hoang, tăng vụ ở
những nơi có điều kiện, trong đó tập trung vào định hướng có tính chiến lược
56

lâu dài là thâm canh tăng năng suất lúa. Định hướng này cho phép chúng ta bảo
đảm mục tiêu lớn nhất là an ninh lương thực quốc gia, sau đó là dư gạo để xuất
khẩu. Bên cạnh đó có thể chuyển đổi các loại lúa canh tác trong thời vụ hiệu
quả nhằm đem lại năng suất cao nhất, góp phần tăng sản lượng gạo phục vụ
trong nước và xuất khẩu.
- Đa dạng hoá trong sản xuất lúa gạo bao gồm chủng loại gạo, phẩm chất các
giống lúa gạo và người sản xuất lúa gạo cho xuất khẩu. Theo định hướng này
thì đa dạng hoá phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường trên cơ sở nhu cầu và
biến động của thị trường quốc tế để sản xuất ra những sản phẩm thích hợp. Cụ
thể là chủng loại gạo bao gồm gạo thường, gạo đặc sản, gạo cao cấp; phẩm cấp
các loại gạo được cung cấp phong phú với cùng một mặt hàng lúa gạo; nguồn
sản xuất được định hướng theo quy mô lớn, nhỏ khác nhau.
- Tích cực ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để vừa tăng
năng suất và sản lượng lúa gạo cho tiêu dùng và cho xuất khẩu, vừa không
ngừng nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu đồng thời bảo vệ được môi trường
sinh thái. Yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái khi áp dụng khoa học kỹ thuật là
hoàn toàn cần thiết vì nếu không tính đến yếu tố này sẽ rất dễ gây nên tình trạng
ứng dụng không hợp lý các thành tựu công nghệ hiện đại, tăng cao năng suất
lúa nhưng phá hoại môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của con
người, nhất là trong tương lai.
- Đa phương hóa thị trường tiêu thụ gạo, xác định và có sự ưu tiên đối với thị
trường xuất khẩu gạo mang tính chiến lược, lâu dài bằng ổn định số lượng và
nâng cao chất lượng hàng hoá.
- Khuyến khích và tạo điều kiện cho nhiều hình thức tổ chức tham gia xuất khẩu
để có thể đáp ứng được mọi nhu cầu ở mọi nơi, mọi lúc, mọi quy mô của khách
hàng.

3.2.Triển vọng hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường Trung
Quốc
3.2.1. Dự báo tình hình thị trường và nhu cầu về gạo của Trung Quốc đến năm
2020
57

Gạo là mặt hàng thiết yếu hàng ngày không thể thiếu vắng đối với mọi thành
viên trong xã hội ở các nước châu Á, trong đó có Trung Quốc. Do vậy khi nghiên cứu
nhu cầu gạo cả trong hiện tại và tương lai thì phải nghiên cứu và đánh giá tình hình
gia tăng dân số. Theo Dự thảo đề cương Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
lần thứ 13 (2016-2020) của Trung Quốc công bố ngày 5/3/2016 cho biết dân số nước
này sẽ đạt 1,42 tỷ người vào cuối năm 2020. Điều này sẽ làm tăng đáng kể khối lượng
nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là các sản phẩm lương thực,
thực phẩm. Do đó, có thể thấy rằng, thị trường Trung Quốc đang tạo ra cơ hội lớn
cho các nông sản Việt Nam, nhất là sản phẩm gạo - đang là thế mạnh của nông nghiệp
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Dân số Trung Quốc ngày càng tăng, đời sống của người dân cũng đòi hỏi ngày
một cao hơn. Nhu cầu tiêu thụ gạo cấp thấp và trung bình sẽ dần giảm xuống và gạo
cao cấp sẽ tăng lên. Vì thế trong những năm tới xu hướng tiêu dùng gạo sẽ căn cứ
vào các tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh và chất lượng sản phẩm. Người tiêu dùng đều biết
rằng để có sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo vệ sinh thì giá thành phải cao hơn.
Thực tế, rất nhiều người tiêu dùng mong muốn được mua những loại gạo chất lượng
cao và sẵn sàng trả giá cao hơn nếu gạo đó thực sự ngon.
Dự báo những năm sau này sẽ có nhiều nước tham gia vào xuất khẩu gạo, tạo
sự sôi động và cạnh tranh gay gắt trên thị trường lúa gạo Trung Quốc, đặc biệt là
những nước xuất khẩu gạo truyền thống như Thái Lan, Việt Nam, Pakistan. Nguyên
nhân là do các nước xuất khẩu luôn tăng sản lượng lúa gạo không chỉ để thoả mãn
cho nhu cầu tăng dân số mà còn nhằm mang lại nguồn ngoại tệ đáng kể, đồng thời
chính sách của nhiều nước cũng cho phép khu vực tư nhân tham gia vào xuất nhập
khẩu gạo. Ngoài ra một số nước có nền nông nghiệp phát triển như Hoa Kỳ cũng đang
trong quá trình đàm phán với Trung Quốc để có thể xuất khẩu các loại gạo cao cấp
vào nước này, gia tăng sự cạnh tranh ở phân khúc cao cấp.
3.2.2. Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường
Trung Quốc

3.2.2.1 Cơ hội
58

Gạo là một trong những cây lương thực quan trọng hàng đầu trong đời sống của
người dân Trung Quốc. Trong bối cảnh dân số Trung Quốc ngày càng tăng làm cho
nhu cầu về lương thực, nhu cầu về gạo ngày một lớn hơn. Việc Trung quốc tiếp tục
gia tăng nhập khẩu gạo từ Việt Nam sẽ là xu hướng tất yếu khi mà giá gạo nội địa
của Trung Quốc hiện tại cao hơn giá xuất khẩu của Việt Nam khoảng 20-30%. Với
những lợi thế sẵn có, đây chính là cơ hội cho Việt Nam phát triển sản xuất và xuất
khẩu gạo, giữ vững vị trí dẫn đầu trên thị trường Trung Quốc nói riêng và trở thành
cường quốc về xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới nói chung.
Lúa gạo là cây lương thực chính ở Việt Nam, cây lúa chiếm trên 50% diện tích
đất nông nghiệp và trên 60% tổng diện tích gieo trồng hàng năm. Sản xuất lúa gạo
tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng, khoảng trên
80% hộ gia đình nông thôn trong cả nước tham gia vào sản xuất lúa gạo. Vì thế sản
xuất và xuất khẩu gạo không những mang về ngoại tệ, giải quyết vấn đề việc làm cho
lao động nông thôn mà còn tạo nhiều cơ hội cho Việt Nam mở rộng thị trường, giao
lưu thương mại với các nước trên thế giới.
Thời gian qua nhà nước rất quan tâm đến hoạt động xuất khẩu gạo và đã có
nhiều cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính khuyến khích sản xuất, chế biến lương thực
và mở rộng thị trường. Vì thế, hàng triệu hộ nông dân trồng lúa đã có môi trường kinh
doanh thông thoáng hơn để cần cù, sáng tạo, mạnh dạn đầu tư vốn, áp dụng khoa học
- công nghệ mới vào thâm canh, tăng vụ, chuyển vụ, đổi mới cơ cấu giống lúa phù
hợp với nhu cầu thị trường gạo xuất khẩu. Kết quả là sản lượng, chất lượng lúa gạo
Việt Nam đều tăng dần, vừa bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, vừa tạo nguồn
cung phong phú cho xuất khẩu gạo. Hệ thống cơ sở chế biến, bảo quản, đánh bóng
gạo xuất khẩu cũng từng bước được đầu tư, nâng cấp và hiện đại hóa đã góp phần
nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu.
Để sản xuất ra được nhiều gạo với chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu đa
dạng của khách hàng trong và ngoài nước, người nông dân đòi hỏi phải có các công
cụ sản xuất hiện đại giúp tăng năng suất lao động cũng như các loại giống lúa, phân
bón tốt. Chính những đòi hỏi này thúc đẩy các ngành sản xuất máy móc thiết bị nông
nghiệp, sản xuất phân bón và các viện nghiên cứu giống lúa phải liên tục tìm tòi, cải
59

tiến để cho ra đời các loại máy móc hiện đại, dễ sử dụng cũng như nhiều giống lúa
mới khỏe mạnh, chất lượng, chịu được sự khắc nghiệt của thời tiết,… Tương tự như
vậy, các ngành dịch vụ như vận chuyển, xuất nhập khẩu và marketing lúa gạo cũng
được chú trọng, góp phần đưa hạt gạo Việt Nam đến với người tiêu dùng. Do đó, sản
xuất và xuất khẩu gạo phát triển không những mang lại cơ hội cho các ngành khác
phát triển mà còn tạo nhiều cơ hội cho hạt gạo Việt Nam được vươn xa hơn.
Hiện tại, Trung Quốc đang là nước tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam kể từ
năm 2012. Năm 2016, Bắc Kinh và Hà Nội đã ký một hiệp định thúc đẩy thương mại
gạo thông qua các kênh chính thức. Trung Quốc đã chỉ định tên 22 công ty xuất khẩu
Việt Nam mà họ cho là có đủ điều kiện để bán gạo sang Trung Quốc nhằm kiểm soát
chặt chẽ chất lượng nguồn hàng. Điều đó cho thấy Chính phủ Trung Quốc đang rất
xem trọng vai trò của Việt Nam trên thị trường gạo của nước này. Trung Quốc cũng
đang cố gắng siết chặt việc quản lý hàng hóa nhập khẩu bằng đường biên giới, trong
đó có mặt hàng gạo. Đây là một nhân tố quan trọng thúc đẩy việc mua bán lúa gạo
bằng con đường chính ngạch cho Việt Nam.
3.2.2.2. Thách thức
Tuy có nhiều cơ hội mở ra trước mắt nhưng sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam
cũng phải đối mặt với nhiều thách thức.
Tham gia vào thị trường gạo Trung Quốc, Việt Nam phải cạnh tranh với cường
quốc về xuất khẩu gạo như Thái Lan, Pakistan, Hoa Kỳ… về cả số lượng và chất
lượng. Tuy những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên vị trí số 1 về sản lượng trên
thị trường Trung Quốc nhưng chất lượng gạo của Việt Nam không được đánh giá cao,
chỉ phục vụ cho thị trường gạo cấp trung bình và cấp thấp; trong khi Thái Lan,
Pakistan giành được thị phần đáng kể tại các thị trường gạo cấp cao.
Một điều bất lợi nữa là dù Việt Nam có tiếng là một trong những nước xuất khẩu
gạo hàng đầu trên thế giới nhưng hiện nay thương hiệu gạo Việt vẫn chưa có, tạo nên
một yếu thế cho gạo xuất khẩu Việt Nam trên thị trường lúa gạo thế giới nói chung
và thị trường Trung Quốc nói riêng. Nguyên nhân là do gạo của ta chưa cùng loại,
chưa cùng một giống nên khó xây dựng được thương hiệu trong khi năng lực
marketing xuất khẩu lại thấp. Gạo Việt Nam khi nhập vào Trung Quốc lại được dùng
60

để đấu trộn với những loại gạo nội địa của Trung Quốc, khác với gạo Thái Lan khi
xuất sang Trung Quốc sẽ sử dụng bao bì và thương hiệu của chính các công ty Thái
Lan. Đó cũng là câu trả lời vì sao giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn
gạo của Thái Lan 50- 80 USD/tấn.
Bên cạnh đó, vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia vẫn luôn là vấn đề
cực kỳ quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam. Ở mức độ
toàn cầu, lương thực cần có đủ để đáp ứng cho nhu cầu của dân số tăng nhanh. Ở mức
độ quốc gia, lương thực cần có đủ để đáp ứng cho người dân nước đó. Và ở mức độ
hộ gia đình, mỗi người kể cả người nghèo cần có đủ lương thực cho nhu cầu dinh
dưỡng của họ. Trong khi đó, tiến trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đang diễn ra ngày
một nhanh chóng và mạnh mẽ, nhu cầu chuyển đổi đất nông nghiệp, trong đó có đất
sản xuất lương thực sang các mục đích phi nông nghiệp ngày càng tăng. Nguyên nhân
này khiến cho sản lượng lúa gạo sụt giảm, trong khi dân số lại gia tăng. Đồng thời,
biến đổi khí hậu đang đe dọa đến sản xuất lúa gạo, ở nước ta cũng khó tránh khỏi
hiểm họa này. Tình trạng trên gây khó khăn cho việc vừa đảm bảo an ninh lương thực
của quốc gia vừa đảm bảo cho xuất khẩu gạo.
Nông dân nước ta thường xuyên phải đối phó với những biến động về giá cả thị
trường, từ nguyên liệu đầu vào cũng như sản phẩm được làm ra, trong khi nhà nước
chưa có chính sách đồng bộ để người làm ra lương thực có thu nhập ổn định. Vì vậy,
ở những thời điểm giá xuống thấp, người sản xuất lúa không có lãi nên nhiều nông
dân phải bỏ ruộng đi làm nghề khác.
Cơ sở vật chất và hạ tầng yếu kém cũng là một trở ngại không nhỏ cho sản xuất
và xuất khẩu gạo của Việt Nam. Cơ sở vật chất phục vụ chế biến, bảo quản xuất khẩu
còn yếu kém lại phân bố không đều. Hệ thống kho chứa hàng, nhà máy xay xát, đánh
bóng gạo xuất khẩu hiện nay tuy có được trang bị thêm máy móc, thiết bị hiện đại
hơn nhưng số lượng còn ít, chủ yếu được bố trí ở thành phố như Hồ Chí Minh, Cần
Thơ, Mỹ Tho. Trong khi đó, những vùng và địa phương có nhiều lúa, hàng hoá phục
vụ xuất khẩu lại không có các nhà máy chế biến và đánh bóng gạo xuất khẩu hiện đại.
Ngoài ra, năng lực về bốc dỡ hàng hóa và hệ thống cảng khẩu của nước ta vẫn còn
61

nhiều bất cập, gây khó khăn cho nhiều khâu trong xuất khẩu gạo nhưng không thể
giải quyết ngay trong ngắn hạn

3.3.Giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam vào thị
trường Trung Quốc trong giai đoạn 2017 - 2020

Xuất phát từ thực trạng của hoạt động xuất khẩu gạo sang Trung Quốc đã nghiên
cứu ở chương 2 và những kinh nghiệm từ bài học thành công của Thái Lan, có thể
thấy những điều cần giải quyết hiện nay của hoạt động xuất khẩu lúa gạo chủ yếu
nằm ở vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm; hoạt động mở rộng thị trường và phát
triển thương hiệu; vấn đề liên kết và hợp tác giữa các chủ thể tham gia trong hoạt
động xuất khẩu; tạo nguồn vốn cho nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Từ
đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động xuất khẩu gạo như
sau:
3.3.1. Các giải pháp nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu

Chất lượng gạo là quyết định hiệu qủa của kinh doanh xuất khẩu gạo, bởi nó là
yếu tố quan trọng nhất quyết định giá cả và khả năng cạnh tranh. Giá gạo của Việt
Nam thấp hơn các nước xuất khẩu khác chủ yếu cũng do chất lượng gạo còn thấp so
với đối thủ. Vấn đề chất lượng liên quan đến nhiều yếu tố như giống lúa, xay xát và
chế biến,…do đó phải giải quyết đồng bộ các yếu tố đó.
Về giống lúa, để nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu cần tăng cường đầu tư và
mở rộng dự án giống lúa xuất khẩu có năng suất cao và phù hợp với thị hiếu của thị
trường quốc tế. Trước hết cần hoàn thiện bộ giống lúa xuất khẩu, xây dựng vùng lúa
nguyên liệu tập trung sản xuất 1-2 giống chủ lực có đủ cơ sở hạ tầng (cơ sở nhân
giống, giao thông thuận lợi, cụm thu mua, chế biến, hệ thống kho, bến bãi). Điều này
sẽ tạo thuận lợi cho việc gieo sạ đồng loạt, khống chế dịch bệnh và cho phép thực
hiện quy trình cơ giới hóa một cách đồng bộ. Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ giá
giống lúa, xác nhận, khuyến cáo nông dân chỉ sử dụng nhóm giống lúa xuất khẩu.
Việt Nam cần nghiên cứu thị hiếu của từng khu vực thị trường để có những giống lúa
thích hợp với đòi hỏi của thị trường đó. Hiện nay, ở nước ta đa số giống lúa đang
trồng phục vụ cho xuất khẩu như: IR 64, OM 2031, OM 1490, 23MTL 250, VNĐ 95-
20 đều đáp ứng đủ tiêu chuẩn chung của thế giới về gạo dài.
62

Để hình thành vùng sản xuất lúa tập trung, cần rà soát về đất trồng lúa hiện nay
ở các vùng, đặc biệt là đất trồng lúa ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng
sông Cửu Long để xác định đúng thực trạng diện tích, năng suất, sản lượng từng
chủng loại giống lúa ở từng vùng. Trên cơ sở đó, xác định quy hoạch đất trồng lúa
lâu dài trên quy mô cả nước và từng vùng, từng tỉnh. Nhà nước nên đầu tư vốn và
thực hiện các chính sách huy động các thành phần khác cùng bỏ vốn đầu tư đồng bộ
hạ tầng phục vụ sản xuất lúa như: thủy lợi, giao thông đồng ruộng, hệ thống xử lý sau
thu hoạch, kho chứa thóc,… Đối với người dân trồng lúa trong vùng quy hoạch, Nhà
nước coi việc sản xuất lúa gạo của họ là thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia và nghĩa vụ quốc tế về cung cấp lương thực. Theo đó, Nhà nước nên
chủ động xây dựng quỹ bảo hiểm rủi ro sản xuất lúa gạo cho người nông dân, với sự
tham gia của Nhà nước, người sản xuất lúa, người thu gom, người chế biến, nhà phân
phối gạo và sự tham gia đóng góp của cộng đồng quốc tế. Quỹ bảo hiểm sản xuất lúa
gạo có chức năng bù đắp phần nào những rủi ro về thiên tai và thị trường trong sản
xuất lúa gạo.
Về khâu chế biến, đây là khâu có vai trò quyết định trong việc tạo ra gạo thành
phẩm xuất khẩu chất lượng cao. Theo Quyết định số 124/QĐ-TTg ngày 2/2/2012 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất ngành
nông nghiệp đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030: phải đầu tư công suất chế biến
công nghiệp đạt 25 triệu tấn/năm, đủ năng lực chế biến 60% tổng sản lượng thóc;
tuân thủ các quy trình công nghệ trong chuỗi sản xuất sản phẩm từ thu mua, sấy bảo
quản, xay xát, dự trữ, lưu thông, đưa tỷ lệ gạo thu hồi trên 68%; giảm tổn thất sau thu
hoạch còn 5-6%.
Để hướng đến mục tiêu trên, Việt Nam cần huy động vốn đầu tư từ ngân hàng,
kêu gọi đầu tư nước ngoài vào khâu chế biến, tích cực ứng dụng các thành tựu mới
của khoa học – công nghệ vào sản xuất để vừa tăng sản lượng lúa gạo cho tiêu dùng
và cho xuất khẩu, vừa không ngừng nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, vừa bảo vệ
được môi trường sinh thái. Đầu tư và quy hoạch theo chiều sâu mạng lưới xay xát
theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu
nên hợp tác và cùng với Nhà nước nhập các công nghệ xay xát chế biến hiện đại của
63

Nhật Bản, Hàn Quốc để giảm tỷ lệ tấm, đánh bóng gạo, giảm độ ẩm trong gạo. Ngoài
ra, Nhà nước còn phải hỗ trợ phát triển mạng lưới cơ sở chế biến gạo quy mô nhỏ và
vừa ở nông thôn, nâng cấp các cơ sở xay xát, bổ sung máy phân loại, đánh bóng gạo,
máy tách hạt để nâng cao phẩm cấp gạo. Điều này đòi hỏi một hệ thống kho đệm để
bảo quản bao gói và vận chuyển phải đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật mới có khả năng
bảo quản và tăng được chất lượng gạo cho xuất khẩu.
Về xây dựng hệ thống tiêu chuẩn gạo quốc gia phù hợp với tổ chức quốc tế để
tăng sức cạnh tranh. Theo Quyết định số 124/QĐ-TTg ngày 2/2/2012 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất ngành nông
nghiệp đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, cần phải cải thiện chất lượng gạo
xuất khẩu như sau: tỷ trọng gạo 5-10% tấm chiếm 70% sản lượng, tỷ lệ hạt trắng bạc
không quá 4%, tỷ lệ hạt hư hỏng không quá 0,2%, hạt vàng không quá 2%.
Chất lượng gạo chính là kết quả cuối cùng khi có đầu tư thoả đáng, có kế hoạch
và theo dõi tốt việc thực hiện. Do đó để có sản phẩm gạo chất lượng cao Nhà nước
cần phối hợp với các cơ quan kiểm định, giám sát chặt chẽ chất lượng gạo khi chế
biến xong và đặc biệt là chất lượng gạo xuất cảng, không nên để gạo chất lượng thấp
xuất ra ngoài vì nó gây thiệt hại về giá, khó cạnh tranh trên thị trường. Có như vậy
các doanh nghiệp xuất khẩu mới chú ý vào chất lượng, tạo điều kiện áp lực nâng cao
chất lượng gạo. Để thực hiện được điều đó biện pháp quyết định là quản lý kiểm tra
chặt đầu vào bao gồm : giống, kỹ thuật canh tác, thu hoạch và phơi sấy, thu mua và
chế biến, tồn trữ, tiếp thị và phân phối… Bên cạnh đó cần có hình thức tổ chức bình
chọn khen thưởng các doanh nghiệp sản xuất gạo chất lượng cao.
Theo bà Phạm Lê Khánh Hân, trưởng phòng xuất nhập khẩu Công ty Cổ phần
Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An, để tăng khả năng cạnh tranh của gạo Việt
Nam trên thị trường Trung Quốc, các doanh nghiệp Việt Nam phải tăng cường kiểm
soát chất lượng gạo, để hàng giao có chất lượng ngang bằng hoặc cao hơn mẫu chào
hàng lúc ký kết hợp đồng, đồng thời kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong
hạt gạo. Trung Quốc hiện nay không còn là thị trường dễ tính khi bắt đầu sử dụng
một số rào cản nghiêm ngặt về an toàn thực phẩm đối với mặt hàng gạo. Do đó, để
64

tiếp tục giữ vững vị trí dẫn đầu trên thị trường Trung Quốc, chất lượng phải là ưu tiên
hàng đầu trong hoạt động xuất khẩu gạo.
3.3.2. Các giải pháp hạn chế rủi ro và phát triển thương hiệu

Như đã phân tích ở chương 2, thị trường Trung Quốc tuy rộng lớn nhưng thiếu
tính bền vững và ẩn chứa nhiều rủi ro do uy tín của các thương nhân Trung Quốc
không cao. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các nước về xuất khẩu gạo như
hiện nay và các năm tới, để hạt gạo Việt Nam ngày càng đi xa hơn và có chỗ đứng
vững chắc trên thị trường gạo Trung Quốc, Việt Nam nhất thiết phải có hệ thống các
giải pháp hữu hiệu về hoạt động tiêu thụ và xuất khẩu gạo.
Để hạn chế về mặt rủi ro thanh toán với những đối tác, trước khi ký kết hợp
đồng xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự tìm hiểu về quy mô, uy tín của
thương nhân Trung Quốc qua các kênh thông tin như Hiệp hội lương thực, các hãng
tàu, các ngân hàng, dữ liệu nhập khẩu của Tổng cục Hải quan,… để có cái nhìn tổng
quát về đối tác này, từ đó hạn chế được những rủi ro có thể phát sinh. Mặt khác, đối
với những đối tác mới, các doanh nghiệp Việt Nam có thể yêu cầu những phương
thức thanh toán có độ an toàn cao như thư tín dụng, nhờ thu kèm bộ chứng từ, bảo
lãnh ngân hàng để phần nào hạn chế rủi ro về mặt thanh toán.
Bên cạnh đó, cần đa dạng hoá các kênh lưu thông với các cấp độ lưu thông lúa
gạo, chú trọng các hình thức lưu thông vừa và nhỏ tương ứng với quy mô cung – cầu
ở thị trường từng vùng và cơ sở hạ tầng, đồng thời xây dựng các kênh và cấp độ lớn
nhằm thúc đẩy mở rộng và thống nhất thị trường toàn quốc, tạo điều kiện cho việc
xuất khẩu gạo của Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường tiêu thụ.
Việt Nam cần tăng năng suất và chất lượng sản xuất lúa gạo trong nước để giảm
chi phí đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
phân công lao động xã hội, từng bước tham gia vào công cuộc hợp tác quốc tế, thực
hiện chính sách thương mại mở. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh và xây dựng
được thương hiệu gạo Việt trên thị trường thế giới, cần chú trọng cả hai vấn đề là giá
cả và chất lượng. Để làm được điều này, ngay từ khâu thu hoạch lúa gạo phải được
thực hiện một cách kỹ càng, chú trọng đầu tư cho công nghiệp chế biến,… Bên cạnh
đó, mặc dù Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn, nhưng hiện tại vẫn chưa có thương
65

hiệu gạo nổi tiếng hoặc đặc trưng cho Việt Nam như Homali của Thái Lan hay
Basmati của Ấn Độ. Do vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường,
nhất thiết phải xây dựng thương hiệu cho gạo Việt Nam.
Thị trường xuất khẩu gạo cấp trung và cấp thấp của Việt nam cũng mang lại
nhiều kết quả tốt trong thời gian qua khi điều kiện sản xuất lúa gạo của Việt Nam
chưa thể cung cấp gạo cho những phân khúc thị trường cao cấp như Thái Lan đã làm.
Trong ngắn hạn, việc tiếp tục khai thác và tăng thị phần xuất khẩu gạo đến các thị
trường này như đã làm là điều cần thiết, nhưng trong dài hạn, cần quan tâm đầu tư
chất lượng lúa gạo để phát triển thị phần tại các thị trường tiêu thụ gạo cao cấp hơn.
Việt Nam có rất nhiều loại gạo đặc sản như gạo Nàng Hương, Chợ Đào, Tài
Nguyên,… nên rất có tiềm năng trong việc tạo ra sản phẩm mới cũng như sự khác
biệt của sản phẩm nhằm tăng thêm giá trị của hạt gạo. Hiện nay một số vùng miền
núi phía Bắc đang đa dạng hóa các giống lúa đặc sản nhằm hướng tới các phân đoạn
thị trường khác nhau. Nhờ vậy nông dân nghèo ở các vùng cao, vùng sâu có thể gia
tăng thu nhập bằng các tham gia trồng các giống lúa đặc sản hoặc các loại gạo hữu
cơ không dùng phân bón. Cần khuyến khích họ đa dạng giống lúa đặc sản có chất
lượng cao được thị trường ưa chuộng để tiêu thụ ở trong nước và từng bước tiếp thị
ra thị trường nước ngoài. Đây cũng là giải pháp giúp người nghèo tham gia vào sản
xuất lúa gạo, tránh được việc cạnh tranh với những hộ sản xuất quy mô lớn ở những
vùng thuận lợi khi sản xuất các giống lúa năng suất cao.
Ngoài ra, giải pháp sản xuất gạo đặc sản đáp úng các phân đoạn thị trường khác
nhau có thành công hay không phụ thuộc vào khả năng xây dựng một hệ thống các
loại giấy chứng nhận để phân biệt giữa gạo thành phẩm đã qua chế biến, có thương
hiệu và được đóng gói với gạo “nguyên liệu” chỉ được phân loại. Khi lựa chọn xin
cấp loại giấy chứng nhận nào, cần xem xét một số yếu tố cơ bản như chất lượng sản
phẩm, độ an toàn thực phẩm, xuất xứ,… Do việc xin giấy chứng nhận có thể rất tốn
kém, đặc biệt là đối với thị trường xuất khẩu, nên phạm vi chứng nhận cần được xác
định cho phù hợp với yêu cầu của thương nhân nhập khẩu gạo ở nước ngoài.
3.3.3. Các giải pháp về liên kết và hợp tác trong ngành sản xuất lúa gạo xuất
khẩu
66

Một trong những nguyên nhân làm cho giá trị của hạt gạo Việt trên thị trường
quốc tế chưa cao là do nước ta chưa xây dựng được quy trình sản xuất chuyên môn
hóa cao với sự hợp tác của nhiều chủ thể có liên quan như nông dân, nhà chế biến,
nhà xuất khẩu,… Xu thế quốc tế trong việc phát triển những ngành dựa vào nông
nghiệp là áp dụng mô hình hợp tác theo chiều dọc giữa các tác nhân trong chuỗi giá
trị như liên kết giữa nông dân – nhà chế biến – nhà xuất khẩu – nhà nhập khẩu (Vũ
Văn Hùng & Phạm Văn Dũng, 2012).
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ liên kết và hợp tác trong ngành sản xuất lúa gạo

Nông dân

Nhà nhập khẩu Nhà chế biến

Doanh nghiệp
xuất khẩu

Nguồn: tác giả tổng hợp từ bài báo Xuất khẩu gạo của Việt Nam sau 5 năm
gia nhập WTO: Thực trạng và giải pháp của Phó Giáo sư – Tiến sĩ Phạm Văn Dũng
Tăng cường hợp tác giữa các bên tham gia vào ngành hàng là một phương thức
hiệu quả để có thể kiểm soát được các yếu tố này. Mối liên kết chặt chẽ giữa nhà sản
xuất và nhà chế biến cùng với việc hợp lý hóa hệ thống xay xát sẽ giúp giảm thiểu
các vấn đề như sự pha tạp các loại gạo khác nhau, giảm chi phí xay xát và tỷ lệ gạo
tấm. Trong thỏa thuận tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp và hợp tác xã, doanh
nghiệp có thể thuê cán bộ khuyến nông huấn luyện nông dân, theo dõi đôn đốc sản
xuất, đảm bảo sản phẩm tuân thủ điều kiện chất lượng mà doanh nghiệp cần. Hoặc
khi hợp tác xã cần vay vốn ngân hàng để sản xuất theo hợp đồng với các doanh nghiệp,
ngân hàng có thể thuê cán bộ khuyến nông theo dõi, giúp nông dân về kĩ thuật sản
xuất để thực hiện thành công hợp đồng với doanh nghiệp. Như vậy cũng giúp đảm
bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng của hợp tác xã.
67

Bên cạnh đó, để khắc phục tình trạng manh mún về ruộng đất dưới hình thức
sản xuất lúa theo nông hộ, Nhà nước cần tổ chức và hỗ trợ nông dân chuyển dần kinh
tế hộ gia đình thành kinh tế trang trại vừa và nhỏ, kinh tế hợp tác xã để phát triển sản
xuất lúa gạo tập trung, tạo điều kiện ứng dụng tiến bộ công nghệ, chuẩn hóa chất
lượng lúa gạo, nâng cao hiệu quả sản xuất. Khuyến khích phát triển kinh tế trang trại
chuyên môn hóa sản xuất lúa gạo hoặc kết hợp sản xuất lúa gạo với chăn nuôi, nuôi
trồng thủy sản, gieo trồng các cây ngắn ngày khác trên cơ sở luân canh, luân vụ hợp
lý. Tại vùng sản xuất lúa chuyên canh ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông
Cửu Long nên khuyến khích tập trung sản xuất lớn, phát triển kinh tế trang trại bằng
các chính sách như nới rộng quy định về mức hạn điền, miễn thuế chuyển nhượng
cho nông dân có nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất lúa, khuyến khích cho thuê đất để
sản xuất lúa trang trại,..
Mặt khác, để sản xuất hàng hóa quy mô lớn thì nông dân cần được tư vấn tổng
hợp về mặt kinh tế - xã hội, đào tạo về khuyến nông và tiếp cận các dịch vụ nông
nghiệp. Nông dân cần được giúp đỡ trong các vấn đề như tổ chức hiệp hội sản xuất
nhằm tổ chức lại ngành hàng, tiếp thị, đóng gói bao bì, đăng ký nhãn mác,… vì đây
là những việc mà các hộ nông dân cá thể khó thực hiện. Những nông dân tham gia
hiệp hội sẽ có được những thông tin thị trường tốt hơn, được hưởng lợi từ các dịch
vụ khuyến nông, tư vấn về quản lý, thương mại. Họ cũng có thể mua chung các vật
tư đầu vào với giá rẻ hơn, giảm được giá thành sản xuất, đảm bảo chất lượng ổn định,
đồng nhất và điều phối được thu mua một cách hợp lí hơn để đáp ứng các hợp đồng
thương mại.
3.3.4. Giải pháp về nguồn vốn sản xuất cho nông dân và vốn kinh doanh cho các
doanh nghiệp xuất khẩu gạo

Hiện nay, các hộ nông dân và các doanh nghiệp xay xát, xuất khẩu gạo còn gặp
nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn. Vì vậy, Nhà nước cần ban hành cơ
chế, chính sách cho hộ nông dân vay ưu đãi để sản xuất lúa gạo và đầu tư phương
tiện, máy móc cơ giới hóa sản xuất với các điều kiện vay ưu đãi như đối với các hộ
nông dân nghèo. Đối với các hộ nông dân đầu tư máy móc sản xuất có thể xem xét
cho vay ưu đãi không phải thế chấp nếu tham gia sản xuất lúa gạo xuất khẩu thuộc
68

các vùng có quy hoạch sản xuất lúa. Hình thành và phát triển ngân hàng lúa gạo ở các
vùng chuyên canh lúa để huy động vốn và cho vay vốn mua sắm phương tiện, máy
móc thực hiện cơ giới hóa sản xuất lúa gạo và cho vay ưu đãi để đầu tư đổi mới công
nghệ tiên tiến đối với các doanh nghiệp chế biến gạo. Ngoài ra Nhà nước có thể
khuyến khích các công ty lương thực có tiềm lực tài chính đầu tư vốn cho nông dân
sản xuất lúa và bao tiêu sản phẩm bằng các hình thức khác nhau như hỗ trợ nguồn vật
tư đầu vào, cung cấp giống có chất lượng cao.
Để có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn để sản xuất và đầu tư máy móc thiết bị,
các hộ nông dân và các doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng
và Nhà nước theo Quyết định số 124/QĐ-TTg ngày 2/2/2012 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất ngành nông nghiệp đến
năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, sử dụng vốn vay đúng mục đích, không làm
lãng phí nguồn vốn ngân sách của Nhà nước. Ngoài ra bản thân mỗi hộ nông dân và
doanh nghiệp cần có sự quan tâm đúng mức đến chất lượng gạo xuất khẩu.

3.4.Một số kiến nghị

Hoạt động xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc là một bộ phận của hoạt
động xuất khẩu gạo của Việt Nam. Hoạt động này không chỉ chịu chi phối bởi nhiều
yếu tố như người sản xuất, nhà xuất khẩu, nhập khẩu, mà còn do nhiều cơ quan, ban
ngành có liên quan quản lý như Bộ Công thương và Hiệp hội lương thực Việt Nam.
Hơn nữa, hoạt động xuất khẩu vốn có quan hệ liên quan trực tiếp với hoạt động sản
xuất trong nước, mà đối với một ngành nông nghiệp như lúa gạo thì vấn đề quản lý
có sự phối hợp giữa Bộ Tài nguyên – Môi trường và Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn. Bởi vậy, muốn hoàn thiện hoạt động xuất khẩu này cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan này để tạo ra một khung pháp lý đồng bộ và rõ ràng nhằm
hỗ trợ nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu. Dưới đây là một số kiến nghị với các
cơ quan có liên quan trực tiếp đối với hoạt động sản xuất và xuất khẩu lúa gạo:
3.4.1. Đối với Bộ Tài nguyên và Môi trường

Sản xuất lúa gạo của Việt Nam chủ yếu là quy mô nhỏ, sản xuất theo lối tự
nhiên, thiếu quy hoạch, không đáp ứng được yêu cầu của những phân khúc thị trường
cao cấp…, đồng thời các doanh nghiệp cũng không chủ động được nguồn cung về số
69

lượng và chất lượng gạo. Vì vậy, quy hoạch vùng lúa chuyên canh xuất khẩu là đòi
hỏi khách quan và là yêu cầu cấp thiết cho sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp với các chính quyền địa phương để xác
định đặc điểm, sản lượng, năng suất của từng giống lúa, đối chiếu với đặc điểm khí
hậu, đất đai của từng địa phương, từng vùng để quy hoạch những vùng chuyên canh
xuất khẩu phù hợp. Sau khi hoàn tất quá trình quy hoạch, Bộ Tài nguyên và Môi
trường cần phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và các địa phương
rà soát, kiểm soát chặt chẽ việc quy hoạch và quản lý, thực hiện quy hoạch sử dụng
đất nông nghiệp, có những biện pháp khuyến khích nông dân sản xuất lúa theo đúng
mục đích quy hoạch để có thể phát huy được lợi thế của từng địa phương. Bộ cũng
cần hạn chế việc thu hồi đất trồng lúa cho mục đích khác, đồng thời áp dụng chính
sách hỗ trợ, đảm bảo lợi ích chính đáng của người sử dụng đất bị thu hồi, tạo điều
kiện thuận lợi để nông dân chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong nội bộ ngành nông
nghiệp, đạt hiệu quả sử dụng đất cao hơn, bao gồm cả việc thay đổi cây trồng trên đất
lúa nhưng không làm mất năng lực sản xuất lúa về lâu dài.
3.4.2. Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cần xây dựng các chính sách để phát
triển và đa dạng hóa các hình thức khuyến nông, giúp nông dân thay đổi tập quán
canh tác và nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm thất thoát sau thu hoạch, bảo quản
và tiêu thụ sản phẩm. Hỗ trợ nông dân kết nối với các doanh nghiệp chế biến, hệ
thống tiêu thụ sản phẩm, từng bước hình thành mạng lưới sản xuất và chuỗi cung ứng
kết nối sản xuất – chế biến – phân phối sản phẩm, kết nối công nghiệp chế biến, xay
xát với sản xuất lúa gạo, kết nối “bốn nhà” trong sản xuất và tiêu thụ.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ đóng vai trò quan trọng trong “Đề
án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển
bền vững” do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 10/06/2013, trong đó ngành sản
xuất lúa gạo là một hoạt động chủ lực. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cần
xây dựng một kế hoạch hành động rõ ràng, cụ thể, thiết thực và giao nhiệm vụ cho
các cơ quan, đơn vị trực thuộc và địa phương triển khai thực hiện. Đồng thời, Bộ
cũng chịu trách nhiệm tổng hợp, đánh giá tình hình thực hiện hàng năm, báo cáo Thủ
70

tướng Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan để đề xuất sửa đổi, bổ sung Đề án
khi cần thiết.
3.4.3. Đối với Bộ Công thương

Bộ Công thương là cơ quan có nhiệm vụ nâng cao tính minh bạch, hiệu quả
trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại hàng nông sản,
trong đó có mặt hàng gạo. Đối với mặt hàng xuất khẩu chủ lực như gạo, Bộ Công
thương cần điều hành quản lý xuất khẩu một cách linh hoạt để vừa thực hiện đúng
các cam kết với các tổ chức quốc tế và các quốc gia mà Việt Nam đã ký Hiệp định
thương mại, vừa bảo vệ được sản xuất trong nước, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
và đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia.
Bộ Công thương cũng cần thường xuyên cập nhật, thông báo về các chính sách
thương mại của đối tác, các tổ chức quốc tế và các thị trường nhập khẩu để người sản
xuất, kinh doanh nắm được và điều chỉnh phương án sản xuất, kinh doanh hiệu quả,
đồng thời chủ động tiếp cận, đàm phán với các đối tác, quốc gia để giải quyết tranh
chấp hoặc tháo gỡ rào cản thương mại.
Bên cạnh đó, Bộ Công thương nên có những biện pháp hỗ trợ cần thiết đối với
những hoạt động xúc tiến thương mại cho hoạt động xuất khẩu mặt hàng gạo nhằm
mở rộng thị trường tiêu thụ. Đồng thời tăng cường kiểm soát chặt chẽ và xử lý nghiêm
những hành vi buôn lậu và gian lận thương mại, làm giảm giá trị của gạo xuất khẩu.
Ngoài ra, cần phải tôn trọng các quy luật thị trường và hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp xuất khẩu song song với việc bảo đảm an ninh lương thực và bình
ổn giá. Vì vậy, phải tách riêng vai trò dự trữ lương thực quốc gia ra khỏi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Điều kiện tiên quyết phải là đầu tư vốn xây dựng hệ
thống kho chứa quốc gia phục vụ mục tiêu dự trữ quốc gia, bảo đảm an ninh lương
thực và bình ổn giá và xây dựng quỹ bình ổn giá lương thực. Đẩy mạnh hoạt động
thu mua dự trữ khi giá lúa nội địa xuống thấp dựa trên quỹ bình ổn giá vừa giúp bảo
bảo an ninh lương thực vừa giúp tạo ra mặt bằng giá an toàn cho người sản xuất. Khi
có nhu cầu xuất khẩu gạo, Nhà nước có thể bán ra một phần lượng lúa dự trữ này cho
các công ty. Các doanh nghiệp cũng có thể thuê hệ thống kho chứa này để dự trữ lúa
trong khi chờ hợp đồng xuất khẩu.
71

3.4.4. Đối với Hiệp hội Lương thực Việt Nam

Hiệp hội Lương thực Việt Nam là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của các doanh
nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, kinh doanh lương thực,
nông sản và các sản phẩm chế biến từ lương thực. Hiệp hội lại hoạt động dưới sự
quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nên đây có thể xem như là “cầu
nối” giữa các doanh nghiệp xuất khẩu với cơ quan nhà nước. Hiệp hội đóng vai trò
quan trọng trong công tác tổ chức xuất khẩu thông qua việc quản lý hợp đồng xuất
khẩu và đưa ra giá định hướng xuất khẩu gạo. Hiệp hội cũng cần đóng vai trò là kênh
thông tin liên kết giữa Cơ quan kiểm soát chất lượng gạo nhập khẩu của Trung Quốc
và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam, nhằm cung cấp thông tin kịp thời
cho các doanh nghiệp, đáp ứng các nhu cầu của thị trường Trung Quốc.
Vì vậy, Hiệp hội Lương thực Việt Nam cần quản lý tích cực hơn trong đăng ký
hợp đồng xuất khẩu gạo. Hiệp hội Lương thực phải là nơi cung cấp thông tin về giá
xuất khẩu, và chi phí chế biến - xuất khẩu; phối hợp các ngành có liên quan như Hải
quan, thuế… ngăn chặn gian lận giá bán trong đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo.
Nhà nước nên cân nhắc lại việc duy trì cơ chế điều hành xuất khẩu gạo theo
cách ấn định khối lượng gạo xuất khẩu, và cách thức phân bổ chỉ tiêu cho hợp đồng
xuất khẩu tập trung. Để cân bằng các lợi ích quốc gia về khai thác lợi thế sản xuất và
xuất khẩu gạo để tăng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm lại lợi ích kinh tế cho nông dân
và đồng thời bảo đảm giá lương thực phù hợp cho khu vực đô thị và người tiêu dùng
lương thực, việc áp dụng công cụ thuế linh hoạt thay cho công cụ hạn ngạch vừa có
tính khả thi, vừa có hiệu quả tốt hơn. Khi áp dụng cơ chế thuế xuất khẩu, Hiệp hội
lương thực sẽ quay trở về vai trò đúng đắn của một hiệp hội ngành nghề là đại diện
cho lợi ích hợp pháp của các thành viên, nghiên cứu và cung cấp thông tin thị trường,
điều phối việc xuất khẩu của các thành viên thông qua cơ chế đấu thầu lại các hợp
đồng xuất khẩu lương thực cấp Chính phủ với mức thuế xuất khẩu xác định.
SƠ KẾT CHƯƠNG 3
Áp lực cạnh tranh trên thị trường gạo quốc tế ngày càng gay gắt đòi hỏi các giải
pháp đồng bộ để thích nghi và hoàn thiện hoạt động xuất khẩu gạo. Trên cơ sở phân
tích tổng quan tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc giai
72

đoạn 2009 – 2016, ở chương này, luận văn đã đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện hoạt động này trong giai đoạn 2017 – 2020, bao gồm các giải pháp nâng cao
chất lượng gạo xuất khẩu, hạn chế rủi ro, xây dựng thương hiệu, các giải pháp về tạo
liên kết trong ngành và giúp doanh nghiệp cũng như người nông dân tiếp cận nguồn
vốn. Chương này cũng đề ra một số kiến nghị với các Bộ và Hiệp hội Lương thực
Việt Nam nhằm thực hiện tốt định hướng của Nhà nước về xuất khẩu gạo và đảm bảo
an ninh lương thực.
73

KẾT LUẬN

Với những lợi thế sẵn có về vị trí địa lý, tài nguyên, con người, Việt Nam đã
từng bước chiếm lĩnh vị trí dẫn đầu về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo vào thị
trường Trung Quốc từ năm 2012 đến nay. Những con số báo cáo hàng năm là kết quả
thật đáng tự hào của ngành nông nghiệp nói chung và ngành sản xuất lúa gạo nói
riêng, thể hiện quyết tâm của nhân dân và đường lối chỉ đạo đúng đắn của Đảng và
Nhà nước. Trong thời gian sắp tới, cơ hội cho Việt Nam tiếp tục phát triển thị trường
Trung Quốc vẫn còn rất lớn, mặc dù đi kèm với đó cũng là rất nhiều thách thức đặt
ra. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, tìm hiểu và nghiên cứu vai trò, sức ảnh hưởng và
thực trạng sản xuất cũng như xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc là cần thiết,
mang lại cho chúng ta một cái nhìn sâu rộng hơn để có thể đưa ra những chính sách,
biện pháp thích hợp thúc đẩy xuất khẩu gạo, phát huy lợi thế của đất nước, nâng cao
thu nhập cho người nông dân và góp phần tăng trưởng kinh tế. Qua quá trình nghiên
cứu, đề tài đã giải quyết được những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, đề tài phân tích vị trí chiến lược của xuất khẩu gạo sang thị trường
Trung Quốc nói riêng và hoạt động xuất khẩu gạo nói chung trong nền kinh tế quốc
dân để thấy được lợi ích của việc sản xuất và xuất khẩu gạo. Những năm qua, xuất
khẩu gạo đã thu về một lượng ngoại tệ lớn cho đất nước, giúp chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân
dân, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước.
Thứ hai, thông qua việc phân tích, đánh giá các thông tin, số liệu về thực trạng
sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung Quốc từ năm 2009 đến năm
2016, chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn về diện tích gieo trồng, năng suất, sản lượng
lúa cũng như tình hình chế biến lúa gạo. Những yếu tố này đều tác động đến sản
lượng và chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Do sản xuất tăng nhanh và ổn định,
mức lương thực bình quân nói chung và lúa gạo nói riêng liên tiếp được cải thiện,
Việt Nam không chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn dư thừa
lương thực để xuất khẩu, chiếm vị trí quan trọng trên thị trường nhập khẩu của Trung
Quốc. Tuy trong những năm gần đây Việt Nam đạt vị trí cao về số lượng gạo xuất
74

khẩu nhưng về chất lượng thì còn nhiều yếu kém. Chất lượng của gạo nói chung phụ
thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên và tác động của con người như đất đai, khí hậu,
nước tưới, phân bón, giống lúa, chế biến, vận chuyển, bảo quản... mà quan trọng nhất
là giống lúa, các phương pháp sản xuất và các khâu sau thu hoạch. Chất lượng gạo
và khả năng hạn chế của các doanh nghiệp xuất khẩu trong tiếp cận thông tin, giao
dịch đàm phán, tìm kiếm bạn hàng,… làm cho giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thường
thấp hơn giá của Thái Lan.
Thứ ba, đề tài cũng đánh giá về tính chất của thị trường Trung Quốc và cơ cấu
mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Thị trường Trung Quốc tiềm ẩn nhiều rủi ro,
có thể biến đổi rất nhanh chóng và tác động tới cả ngành xuất khẩu gạo Việt Nam nói
chung. Do vậy khi thực hiện giao dịch với các thương nhân Trung Quốc, các doanh
nghiệp Việt Nam cần đề cao sự an toàn để hạn chế tối thiểu những rủi ro có thể phát
sinh. Mặt khác, Việt Nam cần tập trung phát triển các loại gạo cao cấp để đem lại
nguồn lợi nhuận cao hơn.
Thứ tư, thời gian qua, chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều cố
gắng trong công tác thúc đẩy xuất khẩu gạo với các biện pháp như hỗ trợ vốn, xúc
tiến thương mại mặt hàng gạo, đổi mới công nghệ sản xuất và chế biến gạo. Công tác
trên đã thu về một số thành tựu đáng ghi nhận nhưng vẫn còn một số hạn chế như
nhiều doanh nghiệp chưa nhận được hỗ trợ vốn để phát triển sản xuất, số vốn đầu tư
cho xúc tiến thương mại gạo còn quá ít.
Từ những thực trạng trên, đề tài rút ra những cơ hội và thách thức đối với xuất
khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc. Để tận dụng tối đa những cơ hội
cũng như loại bỏ thách thức, đòi hỏi nhà nước, các doanh nghiệp phải có những chính
sách, biện pháp thích hợp như: quy hoạch phân vùng thâm canh trồng lúa cho xuất
khẩu; áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất và chế biến; đầu tư cho cơ
sở hạ tầng, nguồn lực phục vụ sản xuất và xuất khẩu; đẩy mạnh công tác nghiên cứu
và mở rộng thị trường; xúc tiến thương mại;…. Có như vậy, nước ta mới thực hiện
tốt được mục tiêu vừa đảm bảo an ninh lương thực vừa xuất khẩu gạo, mang lại lợi
ích cho đất nước.
75

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã học tập được nhiều kiến thức quý báu
dưới sự hướng dẫn tận tình của PGS.-TS. Nguyễn Văn Hồng và tập thể thầy cô trường
Đại học Ngoại thương. Tuy đã cố gắng hết sức nhưng do hạn chế về thời gian cũng
như kiến thức, bài viết khó tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp
ý của quý thầy cô và bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, 2008, Nghị quyết số 26
–NQ/T.Ư về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Hà Nội.
2. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2009, Nghị quyết số
63/NQ-CP của Chính phủ về đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, Hà Nội.
3. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2010A, Nghị định số
41/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông
nghiệp, nông thôn, Hà Nội.
4. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 201B, Nghị định số
109/2010/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo, Hà Nội.
5. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2009, Nghị quyết về đảm
bảo an ninh lương thực quốc gia, Hà Nội.
6. Phạm Quang Diệu, 2012, Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu gạo của Việt Nam – sự
suy giảm của Philippines và sự nổi lên của Trung Quốc, AgroMonitor.
7. Trần Minh Đạo, 2009, Giáo trình marketing căn bản, Nhà xuất bản Đại học
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Hùng & Phan Hiếu Hiền & Trương Quang Trường, 2013, Giới
thiệu dự án IRRI – ADB và các vấn đề sau thu hoạch lúa gạo tại Việt Nam, Ban
Điều phối Dự án IRRI – ADB Việt Nam, Trường Đại học Nông Lâm Tp.HCM.
9. Vũ Văn Hùng & Phạm Văn Dũng, 2012, Xuất khẩu gạo của Việt Nam sau 5
năm gia nhập WTO: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Kinh tế châu Á – Thái
Bình Dương, số 367 tháng 6/2012, tr.28-32.
10. Hiệp hội Lương thực Việt Nam, 07/03/2014, Thông báo về Kết luận của Chủ
tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam tại cuộc họp Ban chấp hành ngày
05/03/2014 tại Tp.HCM, Tp.HCM.
11. Võ Khắc Huy, 2014, Nâng cao sức cạnh tranh và giá trị xuất khẩu gạo của các
tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Phát triển & Hội nhập, số 17 (27) tháng
7-8/2014, tr.73-77.
12. Trần Tiến Khai, 2010, Chính sách xuất khẩu lúa gạo Việt Nam và những vấn đề
cần điều chỉnh, Kỷ yếu Hội thảo Khoa Học Xã Hội và Phát triển bền vững vùng
Đồng bằng sông Cửu Long, Cần Thơ ngày 28/10/2010, Ban Chỉ đạo Tây Nam
Bộ, Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ, Cần Thơ.
13. Mai Thành Phụng & Lê Văn Bảnh, 2012, Bảng tổng hợp số lò sấy và tỷ lệ lúa
hè thu được sấy ở đồng bằng sông Cửu Long tính đến ngày 20/03/2012, Kỷ yếu
Hội nghị “Giải pháp cho sấy lúa hè thu ở đồng bằng sông Cửu Long”, Cần Thơ.
14. Trần Huỳnh Thúy Phượng, 2013, Xuất khẩu gạo Việt Nam năm 2012 & Định
hướng năm 2013, Tạp chí Phát triển & Hội nhập, số 9 tháng 03-04/2013, tr.48-
56.
15. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2010, Luật sửa đổi bổ
sung Luật Đất đai nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Sơn, 2013, Bàn về việc hoàn thiện chuỗi cung ứng gạo xuất khẩu
của Việt Nam, Tham luận đọc tại Hội thảo và triển lãm quốc tế về “Hậu cần vận
tải hàng hải Việt Nam năm 2013”, Tp.HCM.
17. Nguyễn Công Thành, 2012, Bàn về chất lượng và giá trị gạo xuất khẩu của
nước ta, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, Tp.HCM.
18. Thủ tướng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2012, Quyết định số
124/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát
triển sản xuất ngành nông nghiệp đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Hà
Nội.
19. Thủ tướng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2013, Quyết định số
899/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành
nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, Hà
Nội.
20. Lê Danh Vĩnh, 2012, Chính sách thương mại nhằm phát triển bền vững ở Việt
Nam thời kỳ 2011 – 2020, Nhà xuất bản Công thương, Hà Nội.
21. Wei Xiong, 2016, Tác động của Biến đổi khí hậu đến sản xuất lúa gạo ở Trung
Quốc, Viện Môi trường & Phát triển bền vững Viện Khoa học Nông nghiệp
Trung Quốc.
CÁC WEBSITE
22. Việt Âu, 17/10/2013, Xây dựng thương hiệu cho gạo xuất khẩu,
http://www.hoinongdan.org.vn/kinh-te/hoi-nhap/6463-x%C3%A2y-
d%E1%BB%B1ng-th%C6%B0%C6%A1ng-hi%E1%BB%87u-cho-
g%E1%BA%A1o-xu%E1%BA%A5t-kh%E1%BA%A9u.html, ngày truy cập
01/06/2017.
23. Cổng Thông tin điện tử Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 22/05/2013,
Cơ giới hóa nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long,
http://wcag.mard.gov.vn/pages/news_detail.aspx?NewsId=29106, ngày truy
cập 01/06/2017.
24. Hiệp hội Lương thực Việt Nam, 13/01/2012, Điều lệ Hiệp hội Lương thực Việt
Nam, http://vietfood.org.vn/vn/default.aspx?c=95&n=5914, ngày truy cập
01/12/2015.
25. Phân tích và Dự báo thị trường Việt Nam, 30/10/2014, Các luồng giao thông
xuất khẩu gạo ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, http://thitruongluagao.com/cac-
luong-giao-thong-xuat-khau-gao-o-dong-bang-song-cuu-long_7916.html,
ngày truy cập 25/06/2017.
26. Tổng Cục Thống kê Việt Nam, 2017A, Diện tích và sản lượng lương thực có
hạt, http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=390&idmid=3&ItemID=15303
ngày truy cập 27/07/2017.
27. Tổng Cục Thống kê Việt Nam, 2017B, Năng suất một số cây trồng hàng năm,
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=390&idmid=3&ItemID=15305,
ngày truy cập 28/07/2017.
28. Tổng Cục Thống kê Việt Nam, 2017B, Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm
việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo ngành kinh tế,
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=387&idmid=3&ItemID=15520,
ngày truy cập 20/07/2017.
29. Văn phòng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 24/09/2014, Tái cơ cấu
ngành trồng trọt từ lúa gạo, http://www.omard.gov.vn/site//vi-
VN/50/15767/9593/Tai-co-cau-nganh-trong-trot-tu-lua-gao.aspx, ngày truy cập
20/07/2017.
30. Vietnamnet, 07/11/2014, Bàn tròn 1/4 thế kỷ Việt Nam xuất khẩu lúa gạo,
http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/205847/-khong-phai-toi-ve-huu-noi-cho-
suong-mieng-.html, ngày truy cập 23/04/2017.
B. TÀI LIỆU TIẾNG ANH
31. FAO, 07/2017, Rice market monitor, Volume XX - Issue No. 2, Italia.
32. International Trade Center, 2017, List of supplying markets for a product
imported by China,
http://www.trademap.org/Country_SelProductCountry_TS.aspx?nvpm=1|156||||100
6|||4|1|1|1|2|1|2|2|1, 27/07/2017.
DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Kết quả phỏng vấn bà Phạm Lê Khánh Hân, Trưởng phòng Xuất nhập
khẩu Công ty Cổ phần công nghệ cao Trung An
Phụ lục 2: Số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm
phân theo ngành kinh tế
Phụ lục 3: Giá gạo xuất khẩu trung bình của một số nước vào thị trường Trung Quốc
giai đoạn 2009 – 2016
Phụ lục 4: Kim ngạch xuất khẩu gạo của một số nước vào thị trường Trung Quốc
giai đoạn 2009 – 2016
Phụ lục 5: Sản lượng xuất khẩu gạo của một số nước vào thị trường Trung Quốc
giai đoạn 2009 – 2016
Phụ lục 6: Nghị định về kinh doanh xuất khẩu gạo 109/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng
11 năm 2010
Phụ lục 7: danh sách các doanh nghiệp sản xuất chế biến gạo của Việt Nam được
phép xuất khẩu sang Trung Quốc
i

PHỤ LỤC 1: KẾT QUẢ PHỎNG VẤN CHUYÊN GIA

Trường Đại học Ngoại thương cơ sở 2


Điện thoại: (028) 35127254
Website: www.ftu.edu.vn

Kính gửi ông: Bà Phạm Lê Khánh Hân – Trưởng phòng Xuất nhập khẩu Công
ty Cổ phần nông nghiệp công nghệ cao Trung An.
Tôi là Hồ Thị Hoàng Minh – học viên cao học trường Đại học Ngoại thương.
Hiện tôi đang thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp về “Hoạt động xuất khẩu gạo
của Việt Nam sang Trung Quốc”. Để có những cơ sở tốt nhất cho việc thực hiện đề
tài, tôi rất mong nhận được sự hợp tác của bà trong việc cung cấp một số thông tin
liên quan theo các câu hỏi dưới đây. Tôi xin cam kết thông tin khảo sát chỉ phục vụ
cho mục đích nghiên cứu trong khuôn khổ của đề tài. Rất mong nhận được sự hợp tác
của ông.
Sau đây là nội dung câu hỏi phỏng vấn:
Câu hỏi 1: Theo bà việc Chính phủ đưa ra quy định về kinh doanh xuất
khẩu gạo theo Nghị định số 109/2010/NĐ-CP đã đem lại những thuận lợi và khó
khăn gì cho hoạt động xuất khẩu gạo nói chung?

Quyền lợi của nông dân trong xuất khẩu gạo nằm ở giá bán gạo xuất khẩu; nằm
ở việc có đủ kho chứa khoảng 6 triệu tấn lúa gạo để điều tiết quá trình xuất khẩu gạo
nhằm mục đích giữ giá gạo; nằm ở việc minh bạch giá thu mua lúa tương ứng từ giá
bán gạo xuất khẩu. Những điều vừa nêu về quyền lợi của nông dân không hề có trong
Nghị định 109.
Trong xuất khẩu gạo, việc ấn định giá bán gạo xuất khẩu là điều quan trọng nhất.
Thế nhưng trong Nghị định 109 vấn đề giá sàn xuất khẩu gạo qui định quá chung
chung và dễ bị Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) khống chế. Giá sàn bán gạo
xuất khẩu phải phù hợp với diển biến của giá gạo thế giới, giá sàn bán gạo xuất khẩu
phải qui chiếu về giá bán gạo của Thái Lan, chứ không thể phù hợp với giá gạo trong
nước, cũng không thể phù hợp với giá lúa định hướng hay mặt bằng giá mua lúa gạo
ii

hàng hóa trong nước. Giá sàn cần linh động và định ra để thi hành, mà được ấn định
bởi 3 bộ và một số ủy ban nhân dân các tỉnh và Hiệp hội lương thực Việt Nam, với
trách nhiệm tập thể này giá sàn thực chất sẽ bị VFA khống chế. Bộ Tài chính đưa ra
giá sàn 450 đô la Mỹ/ tấn. VFA nói giá sàn 400 đô la Mỹ/ tấn mới bán gạo được. Bộ
Tài chính tính sao đây? Bộ Tài chính không giảm xuống 400 đô la Mỹ/ tấn được
không? Cho nên trong thực tế vẫn là VFA ấn định giá sàn.
Kho chứa lúa gạo phải tính toán ở tầm vĩ mô, chứ không nên dùng nó làm công
cụ để triệt hạ cạnh tranh, bằng việc quy định có kho chứa mới đủ điều kiện xuất khẩu.
Không có đủ kho chứa lúa, phải bán gạo sang tay sẽ bị khách hàng ép giá. Vì vậy xây
dựng kho chứa lúa phải được nhìn ở tầm vĩ mô của số lượng gạo xuất khẩu hằng năm.
Quy định thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo phải có kho chuyên dùng với
sức chứa tối thiểu 5.000 tấn, chẳng giải quyết được việc thiếu kho chứa lúa gạo hiện
nay, mà nó còn hạn chế cạnh tranh vì xóa bỏ các doanh nghiệp nhỏ.
Câu hỏi 2: Bà đánh giá như thế nào về những chính sách hỗ trợ của Chính
phủ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo?
Chính phủ đã đề ra nhiều chính sách hỗ trợ hoạt động sản xuất và xuất khẩu
lúa gạo như xây dựng cơ sở hạ tầng, quy hoạch vùng trồng lúa, chuyển giao khoa học
kỹ thuật... Đối với doanh nghiệp thì quan trọng và có ảnh hưởng nhất là các chính
sách tín dụng để tạo nguồn vốn kinh doanh. Các ngân hàng tạo ra nhiều khoản vay
ưu đãi với lãi suất thấp tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện các hợp đồng. Ngoài
ra còn có các khoản trợ cấp tín dụng cho nông nghiệp góp phần giải quyết khó khăn.
Ví dụ như khi doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo theo chỉ tiêu do Hiệp hội
Lương thực Việt Nam giao chỉ tiêu chưa ký được hợp đồng xuất khẩu thì được xem
xét cho vay tạo nguồn vốn trước khi ký hợp đồng. Điều này giúp các doanh nghiệp
yên tâm hơn cũng như giảm thiểu rủi ro khi xuất khẩu.
Chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay, cùng với sự ra đời của
Nghị định 109/2010/NĐ-CP đã tạo ra khung pháp lý vững chắc để các doanh nghiệp
có đủ điều kiện xuất khẩu có thể tìm được chỗ đứng của mình trên thị trường, đảm
bảo uy tín cho hoạt động xuất khẩu gạo và góp phần xây dựng thương hiệu Việt.
Câu hỏi 3: Bà nhận định như thế nào về việc Trung Quốc trở thành một thị
trường lớn của Việt Nam trong những năm vừa qua?
iii

Trung Quốc bắt đầu gạo Việt Nam từ lâu nhưng từ năm 2010 lượng nhập của
họ mới thật sự lớn. Nguyên nhân là trong khoảng thời gian này ngành xuất khẩu gạo
Việt Nam mới bắt đầu nổi lên trên thị trường thế giới, đứng ngang bằng với Thái Lan
về sản lượng, thậm chí có thời điểm vượt qua Thái Lan. Khi đó Trung Quốc mới bắt
đầu chú ý đến Việt Nam như một nguồn cung dồi dào, giá rẻ và chất lượng khá tốt.
Việt Nam cũng có lợi thế về vị trí địa lý giáp ranh với Trung Quốc nên tiết kiệm thời
gian và chi phí vận chuyển, đảm bảo được chất lượng gạo. Ngoài ra còn nhiều nguyên
nhân khác như dân số Trung Quốc ngày càng tăng trong khi quỹ đất nông nghiệp có
hạn, cộng thêm vấn đề ô nhiễm môi trường làm họ không thể đáp ứng đủ nhu cầu lúa
gạo trong nước,… cũng là những nguyên nhân thúc đẩy Trung Quốc tăng nhập khẩu
từ Việt Nam. Vì vậy việc Trung Quốc trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam là một xu hướng tất yếu. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên bắt đầu
nhìn nhận thị trường tiềm năng này trở thành thị trường mục tiêu của mình để thu hút
những thương nhân Trung Quốc hơn nữa vì theo dự báo trong thời gian tới nhu cầu
của Trung Quốc về gạo Việt Nam vẫn tiếp tục tăng.
Câu hỏi 4: Là một trong những doanh nghiệp được phép xuất khẩu vào
Trung Quốc, trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng với các thương nhân
Trung Quốc, công ty bà đã gặp những thuận lợi và khó khăn gì?

Trước đây thị trường Trung Quốc được xem là một thị trường dễ tính vì họ chỉ
quan tâm đến giá cả mà không quan trọng chất lượng. Khi đó chúng tôi chỉ quan tâm
đến vấn đề thanh toán trong quá trình thực hiện hợp đồng khi lựa chọn ký kết hợp
đồng với những công ty uy tín tốt, tài chính ổn định. Bản thân Trung An lại tập trung
vào những loại gạo chất lượng cao như ST21, ST20, Nàng Hoa, 5451 do công ty bao
tiêu trên những cánh đồng mẫu nên rất đảm bảo về chất lượng, hầu như không gặp
phải những khiếu nại về vấn đề chất lượng. Nhưng trong những năm gần đây các
công ty Trung Quốc ngày càng có yêu cầu khắt khe về chỉ tiêu chất lượng, màu sắc,
độ ngon, dẻo của hạt gạo, đồng thời yêu cầu những phương thức thanh toán rủi ro
hơn… Đồng thời phía Trung Quốc còn đề ra những quy định khắt khe về tiêu chuẩn
kỹ thuật, ví dụ như danh sách 22 công ty đủ điều kiện xuất vào Trung Quốc, đã phần
nào làm hạn chế lượng xuất vào thị trường này.
iv

Câu hỏi 5: Theo bà, với tình hình hiện nay, Việt Nam nên lựa chọn phương
án giảm giá bán hay nâng cao chất lượng để tăng sức cạnh tranh? Việt Nam có
cần phải tăng cường xuất khẩu gạo sang Trung Quốc bằng mọi giá hay không?

Tham gia vào thị trường Trung Quốc, Việt Nam phải chấp nhận cạnh tranh
quyết liệt về giá với Thái Lan và những rủi ro mà thị trường Trung Quốc đem đến.
Trung Quốc là thị trường gạo lớn nhất của Việt Nam trong những năm qua. Đặc biệt
sản lượng gạo xuất khẩu qua biên giới, khoảng 1,5 triệu tấn, đã góp phần tiêu thụ lúa
gạo hàng hóa khi các thị trường khác sút giảm trong năm qua. Đây là một lợi thế mà
chúng ta không nên bỏ qua, chỉ cần tăng cường kiểm tra, giám sát tốt hơn.
Hiện nay VFA không đặt mục tiêu tăng sản lượng xuất khẩu mà tập trung củng
cố chất lượng. Mặc dù năm rồi chúng ta xuất khẩu gạo thơm tốt nhưng vẫn còn có
phản ánh về chất lượng gạo còn pha tạp nhiều và dư lượng hóa chất vẫn có trong gạo
Việt Nam. Ngoài gạo thơm thì nếp, gạo đồ và gạo trắng chất lượng cao cũng sẽ tập
trung xuất khẩu trong năm 2017. Để tăng khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên
thị trường Trung Quốc, các doanh nghiệp Việt Nam phải tăng cường kiểm soát chất
lượng gạo, để hàng giao có chất lượng ngang bằng hoặc cao hơn mẫu chào hàng lúc
ký kết hợp đồng, đồng thời kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong hạt gạo.
Trung Quốc hiện nay không còn là thị trường dễ tính khi bắt đầu sử dụng một số rào
cản nghiêm ngặt về an toàn thực phẩm đối với mặt hàng gạo. Do đó, để tiếp tục giữ
vững vị trí dẫn đầu trên thị trường Trung Quốc, chất lượng phải là ưu tiên hàng đầu
trong hoạt động xuất khẩu gạo.

Xin cảm ơn sự giúp đỡ của bà!


THÔNG TIN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC PHỎNG VẤN
Họ và tên: Phạm Lê Khánh Hân
Chức vụ: Trưởng phòng Xuất nhập khẩu Công ty Cổ phần nông nghiệp công nghệ
cao Trung An
Email: han.pham@trunganrice.com

Ngày trả lời phỏng vấn: 15/08/2017


v

PHỤ LỤC 2: SỐ LAO ĐỘNG TỪ 15 TUỔI TRỞ LÊN ĐANG LÀM VIỆC TẠI THỜI ĐIỂM 1/7 HÀNG NĂM PHÂN
THEO NGÀNH KINH TẾ
Đơn vị: nghìn người

Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016


TỔNG SỐ 47.743,60 49.048,50 50.352,00 51.422,40 52.207,80 52.744,50 52.840,00 53.386,30
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 24.606,00 24.279,00 24.362,90 24.357,20 24.399,30 24.408,70 23.259,10 22.368,86
Nguồn:Thống kê số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo ngành kinh tế của Tổng Cục
Thống kê Việt Nam, 2017
vi

PHỤ LỤC 3: GIÁ GẠO XUẤT KHẨU TRUNG BÌNH CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀO THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC GIAI
ĐOẠN 2009 – 2016
Đơn vị: USD/tấn

Nước 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016


Thế giới 597 692 669 480 469 481 439 449
Việt Nam 358 398 529 441 416 463 408 453
Thái Lan 614 759 785 885 784 549 510 498
Pakistan 931 962 494 464 413 390 367 356
Nguồn: tác giả tổng hợp từ “List of importers for rice” của ITC, 2017
vii

PHỤ LỤC 4: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU GẠO CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀO THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN
2009 – 2016
Đơn vị: nghìn USD

Nước 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016

Thế giới 201.402 253.287 386.750 1.125.598 1.051.994 1.228.944 1.470.951 1.586.120
Việt Nam 1.038 22.326 123.571 682.130 616.298 626.112 732.412 733.935
Thái Lan 194.571 226.934 255.661 155.244 234.986 399.680 474.890 462.225
Pakistan 339 410 4.278 268.781 172.376 158.764 162.507 250.631
Nguồn: tác giả tổng hợp từ “List of importers for rice” của ITC, 2017
viii

PHỤ LỤC 5: SẢN LƯỢNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀO THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN
2009 – 2016
Đơn vị: tấn
Nước 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Thế giới 337.537 366.171 578.383 2.344.622 2.244.317 2.556.549 3.349.984 3.533.938
Việt Nam 2.899 56.089 233.775 1.545.079 1.480.958 1.352.048 1.794.261 1.618.415
Thái Lan 316.883 299.071 325.620 175.353 299.772 727.768 931.447 928.431
Pakistan 364 426 8.668 579.583 417.020 406.720 442.613 703.766
Nguồn: tác giả tổng hợp từ “List of importers for rice” của ITC, 2017
ix

PHỤ LỤC 6: NGHỊ ĐỊNH 109/2010/NĐ-CP VỀ KINH DOANH


XUẤT KHẨU GẠO

CHÍNH PHỦ
_______ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
Số: 109/2010/NĐ-CP NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
_______________________________________

Hà Nội, ngày 04 tháng 11 năm 2010

NGHỊ ĐỊNH
Về kinh doanh xuất khẩu gạo
_________

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;


Căn cứ Luật Thương mại ngày 14 tháng 6 năm 2005;
Căn cứ Luật Doanh nghiệp ngày 29 tháng 11 năm 2005;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương,

NGHỊ ĐỊNH:

Chương I
QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh


1. Nghị định này quy định về kinh doanh xuất khẩu thóc, gạo các loại (sau đây
gọi chung là gạo).
2. Hoạt động nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu, quá cảnh,
gia công gạo cho nước ngoài; hoạt động xuất khẩu phi mậu dịch, viện trợ, biếu, tặng gạo
không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Nghị định này áp dụng đối với thương nhân theo quy định của Luật Thương mại;
các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong quản lý, điều hành xuất khẩu gạo và các tổ
chức, cá nhân khác có liên quan.
Điều 3. Quyền kinh doanh xuất khẩu gạo
1. Thương nhân Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, nếu đáp ứng đủ điều
kiện quy định tại Điều 4 Nghị định này và được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện
kinh doanh xuất khẩu gạo (sau đây viết tắt là Giấy chứng nhận), có quyền được kinh
doanh xuất khẩu gạo theo quy định tại Nghị định này và các quy định khác của pháp
luật có liên quan.
2. Thương nhân là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện
hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo theo quy định tại Nghị định này; các quy định
khác có liên quan của pháp luật Việt Nam và cam kết của nước Cộng hoà xã hội chủ
x

nghĩa Việt Nam trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên.
Chương II
ĐIỀU KIỆN KINH DOANH VÀ GIẤY CHỨNG NHẬN ĐỦ ĐIỀU KIỆN
KINH DOANH XUẤT KHẨU GẠO
Điều 4. Điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo
1. Thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:
a) Được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
b) Có ít nhất 01 (một) kho chuyên dùng với sức chứa tối thiểu 5.000 (năm nghìn)
tấn thóc, phù hợp quy chuẩn chung do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban
hành.
c) Có ít nhất 01 (một) cơ sở xay, xát thóc, gạo với công suất tối thiểu 10 tấn
thóc/giờ, phù hợp quy chuẩn chung do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban
hành.
2. Kho chứa, cơ sở xay, xát quy định tại Điều này phải thuộc sở hữu của thương
nhân và phải nằm trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thóc, gạo
hàng hoá xuất khẩu hoặc có cảng biển quốc tế có hoạt động xuất khẩu thóc, gạo tại
thời điểm thương nhân đề nghị cấp Giấy chứng nhận.
Điều 5. Kiểm tra và xác nhận kho chứa, cơ sở xay, xát
Sở Công Thương tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chủ trì,
phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiểm tra, xác nhận kho chứa,
cơ sở xay, xát trên địa bàn theo mẫu quy định tại Phụ lục IV, Phụ lục V kèm theo
Nghị định này trong thời hạn tối đa 10 (mười) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
đề nghị bằng văn bản của thương nhân và các giấy tờ, tài liệu liên quan.
Điều 6. Cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo
1. Bộ Công Thương cấp Giấy chứng nhận cho thương nhân theo quy định tại
Điều 4 Nghị định này.
2. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận gồm:
a) Đơn đề nghị theo mẫu quy định tại Phụ lục I kèm theo Nghị định này.
b) Bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đầu tư.
c) Bản chính bản kê kho chứa, bản chính bản kê cơ sở xay, xát theo mẫu quy
định tại Phụ lục IV, Phụ lục V kèm theo Nghị định này đã được Sở Công Thương
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xác nhận theo quy định tại Nghị định này.
3. Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp
lệ, Bộ Công Thương xem xét, cấp Giấy chứng nhận theo mẫu quy định tại Phụ lục II
kèm theo Nghị định này.
Trường hợp không cấp Giấy chứng nhận, Bộ Công Thương phải trả lời bằng văn
bản và nêu rõ lý do.
4. Giấy chứng nhận có thời hạn hiệu lực là 05 (năm) năm, kể từ ngày cấp. Khi
Giấy chứng nhận hết hiệu lực, thương nhân phải đề nghị cấp Giấy chứng nhận mới
để được tiếp tục kinh doanh xuất khẩu gạo.
5. Việc cấp Giấy chứng nhận mới cho thương nhân để thay thế Giấy chứng nhận
sắp hết hiệu lực được thực hiện như sau:
xi

a) Tối thiểu 30 (ba mươi) ngày trước ngày hết hiệu lực của Giấy chứng nhận,
thương nhân gửi hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận mới đến Bộ Công Thương, hồ
sơ gồm:
- Các giấy tờ theo quy định tại khoản 2 Điều này.
- Bản chính Giấy chứng nhận đã được cấp. Trường hợp không còn bản chính do
bị thất lạc, bị hư hỏng hoặc bị tiêu huỷ, thương nhân phải có báo cáo giải trình và nêu
rõ lý do.
- Bản báo cáo hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo theo mẫu quy định tại Phụ
lục VI kèm theo Nghị định này.
b) Thời hạn xem xét, cấp Giấy chứng nhận mới cho cho thương nhân thực hiện
theo quy định tại khoản 3 Điều này.
Điều 7. Cấp lại, điều chỉnh nội dung Giấy chứng nhận
1. Bộ Công Thương xem xét, cấp lại hoặc điều chỉnh nội dung Giấy chứng nhận
trong các trường hợp sau:
a) Có sự thay đổi nội dung Giấy chứng nhận.
b) Giấy chứng nhận bị thất lạc, bị hư hỏng hoặc bị tiêu huỷ.
2. Hồ sơ đề nghị cấp lại hoặc điều chỉnh nội dung Giấy chứng nhận gồm:
a) Đơn đề nghị theo mẫu quy định tại Phụ lục III kèm theo Nghị định này.
b) Bản chính Giấy chứng nhận đã được cấp. Trường hợp không còn bản chính
do bị thất lạc, bị hư hỏng hoặc bị tiêu huỷ, thương nhân phải có báo cáo giải trình và
nêu rõ lý do.
c) Các tài liệu liên quan đến sự thay đổi nội dung Giấy chứng nhận, nếu thuộc
trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.
3. Thời hạn xem xét, cấp lại hoặc điều chỉnh nội dung Giấy chứng nhận là 15
(mười lăm) ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Trường hợp không đồng
ý cấp lại hoặc điều chỉnh nội dung Giấy chứng nhận, Bộ Công Thương phải trả lời bằng
văn bản và nêu rõ lý do.
4. Thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận được cấp lại hoặc được điều chỉnh nội
dung trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này là thời hạn hiệu lực của Giấy
chứng nhận đã được cấp trước đó.
Điều 8. Thu hồi Giấy chứng nhận
1. Bộ Công Thương xem xét, quyết định việc thu hồi Giấy chứng nhận trong các
trường hợp sau:
a) Thương nhân được cấp Giấy chứng nhận đề nghị thu hồi.
b) Thương nhân bị giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật.
c) Thương nhân bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đầu tư.
d) Thương nhân không xuất khẩu gạo trong thời gian 12 (mười hai) tháng liên
tục, trừ trường hợp thương nhân đã thông báo tạm ngừng kinh doanh theo quy định
của pháp luật.
đ) Thương nhân không duy trì việc đáp ứng điều kiện kinh doanh quy định tại
điểm b, c khoản 1 Điều 4 Nghị định này trong quá trình kinh doanh.
e) Thương nhân có hành vi vi phạm được quy định từ khoản 1 đến khoản 5 Điều
26 Nghị định này.
g) Thương nhân tái phạm theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 27 Nghị định
này.
xii

2. Trong trường hợp thương nhân bị xử lý vi phạm theo quy định tại điểm e
khoản 1 Điều này, Bộ Công Thương chỉ xem xét, cấp Giấy chứng nhận mới cho
thương nhân sau khi đã hết thời hạn tối thiểu sau đây:
a) Trường hợp thương nhân vi phạm lần đầu, thời hạn này là 12 (mười hai) tháng,
kể từ ngày có quyết định thu hồi.
b) Trường hợp thương nhân vi phạm từ lần thứ hai trở đi hoặc vi phạm lần đầu
nhưng có từ 02 (hai) hành vi vi phạm trở lên, thời hạn này là 36 (ba mươi sáu) tháng,
kể từ ngày có quyết định thu hồi.
3. Việc cấp Giấy chứng nhận mới cho thương nhân sau khi bị thu hồi thực hiện
theo quy định tại Điều 6 Nghị định này.
Trường hợp thương nhân bị thu hồi Giấy chứng nhận nêu tại điểm e khoản 1
Điều này thì việc cấp Giấy chứng nhận mới phải tuân thủ thời hạn được quy định tại
khoản 2 Điều này.
4. Ngoài các trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận theo quy định tại Nghị định
này, thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo có thể bị thu hồi Giấy chứng nhận đã
được cấp theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật khác do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền ban hành.
Điều 9. Lệ phí cấp, cấp lại, điều chỉnh nội dung Giấy chứng nhận
Thương nhân đề nghị cấp, cấp lại, điều chỉnh nội dung Giấy chứng nhận không
phải nộp lệ phí.
Chương III
ĐIỀU HÀNH XUẤT KHẨU GẠO
Điều 10. Mục tiêu, nguyên tắc điều hành xuất khẩu gạo
Việc điều hành xuất khẩu gạo phải đảm bảo các mục tiêu, nguyên tắc sau:
1. Góp phần tiêu thụ thóc, gạo hàng hoá và bảo đảm lợi ích người trồng lúa theo
chính sách hiện hành.
2. Bảo đảm cân đối xuất khẩu và tiêu dùng nội địa; góp phần bình ổn giá thóc,
gạo trong nước.
3. Thực hiện các cam kết quốc tế; bảo đảm xuất khẩu có hiệu quả.
Điều 11. Cân đối nguồn thóc, gạo hàng hoá xuất khẩu
1. Hàng năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc cân đối nhu
cầu tiêu dùng gạo trong nước, công bố vào quý IV hàng năm nguồn thóc, gạo hàng
hoá có thể xuất khẩu trong năm kế hoạch tiếp theo; cập nhật và thông báo với Bộ
Công Thương, Hiệp hội Lương thực Việt Nam về tình hình sản xuất, sản lượng, chủng
loại theo mùa vụ trong năm.
2. Việc điều hành xuất khẩu gạo thực hiện trên cơ sở nguồn thóc, gạo hàng hoá được
cân đối cho xuất khẩu hàng năm theo quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều 12. Dự trữ lưu thông
Thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo phải thường xuyên duy trì mức dự trữ
lưu thông tối thiểu tương đương 10% (mười phần trăm) số lượng gạo mà thương nhân
đã xuất khẩu trong 06 (sáu) tháng trước đó.
Điều 13. Mua thóc, gạo hàng hoá xuất khẩu
1. Thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo có trách nhiệm thông báo với Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương các điểm mua thóc, gạo và công bố
xiii

các điểm mua này để người dân biết; niêm yết giá mua theo chất lượng, chủng loại
thóc, gạo hàng hoá để tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân trực tiếp giao dịch.
2. Trường hợp mua thóc, gạo hàng hóa qua thương nhân khác hoặc từ các cơ sở
chế biến, thương nhân và các cơ sở chế biến phải liên kết, tổ chức thành hệ thống ổn
định để thực hiện quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Khuyến khích thương nhân mua thóc, gạo hàng hóa thông qua hợp đồng ký
với người sản xuất theo chính sách hiện hành của Nhà nước về tiêu thụ nông sản hàng
hoá thông qua hợp đồng.
4. Thương nhân thực hiện mua thóc, gạo hàng hoá theo quy định tại Điều này
được vay tín dụng xuất khẩu theo quy định hiện hành.
Điều 14. Điều tiết giá thóc, gạo hàng hoá xuất khẩu
1. Nguyên tắc điều tiết.
Thực hiện cơ chế điều tiết giá thóc, gạo hàng hoá xuất khẩu trên thị trường trên
cơ sở giá thóc định hướng bình quân từng vụ sản xuất được xác định và công bố theo
quy định tại Điều này nhằm góp phần bảo đảm lợi nhuận cho người trồng lúa theo
chính sách hiện hành (dưới đây gọi là giá thóc định hướng).
2. Xác định, công bố giá thóc định hướng.
a) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
ban hành quy định, hướng dẫn phương pháp điều tra, xác định chi phí sản xuất và
tính giá thành sản xuất lúa hàng hóa để Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương làm căn cứ xác định và công bố giá thành sản xuất lúa bình quân dự tính
trong toàn tỉnh, thành phố ngay từ đầu vụ đối với từng vụ sản xuất trong năm.
Trên cơ sở giá thành sản xuất lúa bình quân dự tính từng vụ sản xuất do Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương công bố, Bộ Tài chính chủ trì, phối
hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiểm tra, tổng hợp và xác định giá
thành sản xuất lúa bình quân dự tính cho từng vụ sản xuất của toàn khu vực sản xuất.
b) Trên cơ sở giá thành sản xuất bình quân dự tính từng vụ, Bộ Tài chính xác
định, công bố giá thóc định hướng ngay từ đầu vụ để làm cơ sở điều tiết giá thóc, gạo
hàng hoá trên thị trường, góp phần bảo đảm mức lợi nhuận bình quân cho người trồng
lúa theo chính sách hiện hành.
3. Cơ chế điều tiết
a) Trường hợp giá thóc hàng hoá trên thị trường bằng hoặc cao hơn giá thóc định
hướng, Nhà nước không can thiệp.
b) Trường hợp giá thóc hàng hóa trên thị trường thấp hơn giá thóc định hướng,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ: Tài chính, Công
Thương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Hiệp hội Lương thực Việt Nam trình Thủ
tướng Chính phủ xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp điều tiết cụ thể để duy
trì giá thóc, gạo hàng hóa trên thị trường không thấp hơn giá thóc định hướng, đồng
thời bảo đảm hoạt động xuất khẩu gạo hiệu quả.
Điều 15. Bình ổn giá thóc, gạo trong nước
1. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ trì, phối hợp với
Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo các thương nhân
kinh doanh xuất khẩu gạo trên địa bàn tổ chức hệ thống thu mua, phân phối gạo và bảo
đảm bình ổn thị trường tiêu dùng nội địa; kiểm tra việc thực hiện mua thóc, gạo hàng
hoá theo quy định tại Nghị định này.
xiv

2. Khi giá gạo trong nước biến động gia tăng vượt mức quy định theo pháp luật
hiện hành, Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, Hiệp hội Lương thực Việt Nam, căn cứ quy định của pháp
luật hiện hành về bình ổn giá mặt hàng gạo và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, chỉ
đạo, hướng dẫn thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo đưa ngay gạo dự trữ lưu thông
bổ sung vào nguồn cung ứng thị trường trong nước.
3. Thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo có trách nhiệm tham gia bình ổn giá
và được bù đắp các chi phí phát sinh theo hướng dẫn của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.
4. Việc công bố và áp dụng các biện pháp bình ổn giá thóc, gạo thực hiện theo
quy định của pháp luật hiện hành.
Điều 16. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung
1. Hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung là hợp đồng xuất khẩu gạo được ký kết
theo thoả thuận giữa cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ Việt Nam và Chính
phủ nước ngoài hoặc vùng lãnh thổ nước ngoài và các hợp đồng xuất khẩu gạo
được ký kết theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
2. Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn và Hiệp hội Lương thực Việt Nam xây dựng cơ chế, tiêu chí để chỉ
định thương nhân ký kết, tổ chức thực hiện hợp đồng tập trung và chỉ đạo việc thực
hiện hợp đồng tập trung.
3. Thương nhân ký kết, tổ chức thực hiện hợp đồng tập trung trực tiếp xuất khẩu
20% (hai mươi phần trăm) lượng gạo trong hợp đồng.
Căn cứ các tiêu chí tại khoản 4 Điều này và quy định do Bộ Công Thương ban
hành, Hiệp hội Lương thực Việt Nam phân bổ số lượng gạo 80% (tám mươi phần
trăm) còn lại của hợp đồng cho các thương nhân khác để thực hiện uỷ thác xuất khẩu.
4. Việc phân bổ hợp đồng tập trung cho các thương nhân để thực hiện uỷ thác
xuất khẩu dựa trên cơ sở các tiêu chí sau đây:
a) Thành tích xuất khẩu trực tiếp 06 (sáu) tháng trước đó của thương nhân.
b) Trách nhiệm thực hiện giao hàng theo các hợp đồng tập trung đã được giao.
c) Lượng thóc, gạo hiện có sẵn của thương nhân.
d) Thành tích mua thóc gạo của thương nhân theo chỉ đạo của cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền.
5. Căn cứ quy định của Nghị định này, Bộ Công Thương ban hành quy định
hướng dẫn về hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung và xử lý vi phạm liên quan đến việc
giao dịch, ký kết, thực hiện hợp đồng xuất khẩu gạo vào thị trường có hợp đồng tập
trung.
Điều 17. Đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo
1. Căn cứ quy định của Nghị định này, Bộ Công Thương ban hành quy định về
đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo để Hiệp hội Lương thực Việt Nam thực hiện việc
đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo.
2. Trong thời hạn 03 (ba) ngày làm việc, kể từ ngày hợp đồng xuất khẩu gạo
được ký kết, thương nhân nộp hồ sơ theo quy định của Bộ Công Thương để đăng ký
hợp đồng xuất khẩu tại Hiệp hội Lương thực Việt Nam. Trường hợp có lý do chính
đáng, thời hạn này được kéo dài thêm nhưng không quá 10 (mười) ngày làm việc.
3. Thương nhân phải chịu trách nhiệm về tính xác thực của các thông tin nội
dung hợp đồng đã đăng ký; chỉ được thực hiện giao hàng sau khi hợp đồng đã được
xv

đăng ký theo quy định; xuất trình hợp đồng xuất khẩu đã được đăng ký với cơ quan
hải quan khi làm thủ tục xuất khẩu.
4. Trong thời hạn 02 (hai) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký
hợp lệ của thương nhân, Hiệp hội Lương thực Việt Nam có trách nhiệm đăng ký hợp
đồng xuất khẩu của thương nhân theo đúng quy định của Bộ Công Thương nếu thương
nhân đáp ứng đủ các tiêu chí đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo quy định tại khoản 1
Điều 18 Nghị định này.
Trường hợp không chấp thuận đăng ký, Hiệp hội Lương thực Việt Nam phải có
văn bản trả lời chậm nhất trong thời hạn 02 (hai) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
hồ sơ đăng ký của thương nhân và nêu rõ lý do.
Điều 18. Tiêu chí đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo
1. Thương nhân có Giấy chứng nhận được đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo khi
đáp ứng các tiêu chí sau:
a) Hợp đồng xuất khẩu có giá xuất khẩu không thấp hơn giá sàn gạo xuất khẩu
được công bố theo quy định tại Điều 19 Nghị định này.
b) Có sẵn lượng gạo ít nhất bằng 50% (năm mươi phần trăm) lượng gạo
trong hợp đồng xuất khẩu đăng ký, không bao gồm lượng gạo thường xuyên phải
có để duy trì mức dự trữ lưu thông theo quy định tại Điều 12 Nghị định này.
c) Phù hợp với quy định về hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung do Bộ Công
Thương ban hành theo quy định của Nghị định này.
2. Ưu tiên đăng ký trước hợp đồng đối với thương nhân đáp ứng các tiêu chí
quy định tại khoản 1 Điều này mua thóc, gạo trực tiếp từ người sản xuất lúa thông
qua hợp đồng tiêu thụ nông sản theo chính sách hiện hành của Nhà nước.
Điều 19. Giá sàn gạo xuất khẩu
1. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
có sản lượng lúa hàng hoá lớn và Hiệp hội Lương thực Việt Nam hướng dẫn phương
pháp xác định giá sàn gạo xuất khẩu theo các nguyên tắc sau:
a) Phù hợp với diễn biến của thị trường trong nước và thế giới.
b) Phù hợp với giá thóc định hướng được công bố, mặt bằng giá mua thóc, gạo
hàng hoá trong nước, chi phí kinh doanh và lợi nhuận của thương nhân kinh doanh
xuất khẩu gạo.
2. Căn cứ hướng dẫn của Bộ Tài chính, Hiệp hội Lương thực Việt Nam công bố
giá sàn gạo xuất khẩu trong từng thời kỳ để làm cơ sở cho việc ký kết và đăng ký hợp
đồng xuất khẩu.
3. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương kiểm tra, giám sát việc
công bố giá sàn gạo xuất khẩu do Hiệp hội Lương thực Việt Nam thực hiện theo quy
định tại Nghị định này.
Điều 20. Thống kê, báo cáo tình hình đăng ký hợp đồng xuất khẩu
1. Hiệp hội Lương thực Việt Nam có trách nhiệm thống kê, cập nhật số lượng,
trị giá, chủng loại thóc, gạo, thị trường, khách hàng, thương nhân xuất khẩu, số lượng
hợp đồng đăng ký hàng ngày và báo cáo bằng văn bản theo định kỳ hàng tuần, tháng,
quý, năm hoặc báo cáo đột xuất theo yêu cầu về Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Báo cáo định kỳ được đồng gửi Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương nơi có thóc, gạo hàng hoá xuất khẩu.
xvi

2. Trường hợp có diễn biến bất thường trong việc đăng ký hợp đồng xuất khẩu,
Hiệp hội Lương thực Việt Nam phải báo cáo ngay với các Bộ, ngành liên quan để kịp
thời xử lý.
Điều 21. Thuế xuất khẩu thóc, gạo
Việc áp dụng thuế đối với thóc, gạo xuất khẩu thực hiện theo quy định của pháp
luật về thuế.
Điều 22. Bảo đảm các mục tiêu, nguyên tắc điều hành xuất khẩu gạo
Để đảm bảo các mục tiêu, nguyên tắc điều hành xuất khẩu gạo, căn cứ yêu cầu
thực tế điều hành xuất khẩu, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc điều chỉnh
hoạt động xuất khẩu gạo trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng các Bộ: Công Thương, Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài chính và Hiệp hội Lương thực Việt Nam.

Chương IV
TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
VÀ CÁC TỔ CHỨC, CÁ NHÂN CÓ LIÊN QUAN
Điều 23. Trách nhiệm của các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương
Ngoài trách nhiệm được quy định tại Nghị định này và các quy định khác của
pháp luật hiện hành, các Bộ, ngành: Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương có thóc, gạo hàng hoá xuất khẩu còn có trách nhiệm sau:
1. Bộ Công Thương
a) Chủ động tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu gạo theo hợp đồng tập trung,
tiến hành đàm phán với các nước có nhu cầu nhập khẩu, ký kết các biên bản thoả thuận về
xuất khẩu gạo với nước ngoài hoặc vùng lãnh thổ của nước ngoài.
b) Kiểm tra việc đáp ứng các điều kiện kinh doanh của thương nhân; phối hợp
với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm về kinh
doanh xuất khẩu gạo; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong lĩnh vực
kinh doanh xuất khẩu gạo theo thẩm quyền.
c) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương và Hiệp hội Lương thực Việt Nam tổ chức điều hành xuất
khẩu gạo bảo đảm các nguyên tắc quy định tại Nghị định này.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
a) Thống nhất chỉ đạo các địa phương lập và tổ chức thực hiện quy hoạch vùng
sản xuất lúa hàng hoá; hướng dẫn nông dân sản xuất theo hướng chuyên canh các
giống lúa có chất lượng, năng xuất cao; áp dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ
trong sản xuất, chế biến thóc, gạo; nâng cao chất lượng, thương hiệu gạo Việt Nam
trên thị trường.
b) Chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
Hiệp hội Lương thực Việt Nam theo dõi tình hình sản xuất, nắm sản lượng thóc, gạo
để cân đối nguồn thóc, gạo hàng hoá xuất khẩu; chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành,
địa phương, Hiệp hội Lương thực Việt Nam, các Tổng Công ty Lương thực Nhà nước
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, bình ổn thị trường nội địa, đáp ứng mục tiêu,
nguyên tắc điều hành xuất khẩu gạo quy định tại Nghị định này.
xvii

c) Phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thóc,
gạo hàng hoá xuất khẩu trong việc chỉ đạo mua thóc, gạo trực tiếp từ người sản xuất
lúa theo chính sách hiện hành và quy định tại Nghị định này.
d) Xây dựng quy hoạch hệ thống kho chứa, cơ sở xay, xát thóc, gạo; ban hành
quy chuẩn chung về kho chứa, cơ sở xay, xát thóc, gạo và hướng dẫn thực hiện trên
phạm vi cả nước từ ngày 01 tháng 5 năm 2011.
3. Bộ Tài chính
a) Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban
hành chính sách, quy định về tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu đối với thương nhân
xây dựng, mở rộng, hiện đại hóa kho chứa, cơ sở xay, xát thóc, gạo và thương nhân
kinh doanh xuất khẩu gạo.
b) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan thực hiện các biện
pháp bình ổn giá gạo theo quy định của pháp luật hiện hành.
c) Chỉ đạo Tổng cục Hải quan tổng hợp, báo cáo định kỳ hàng tháng gửi Bộ Tài
chính, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Văn phòng Chính
phủ và Hiệp hội Lương thực Việt Nam về lượng, giá, thị trường xuất khẩu và kết quả
xuất khẩu gạo của từng thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo.
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Chỉ đạo các ngân hàng thương mại chủ động cân đối, bảo đảm nguồn vốn cho
thương nhân vay để mua thóc, gạo hàng hoá theo kế hoạch dự kiến được cân đối theo
quy định tại Nghị định này.
5. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
thóc, gạo hàng hoá xuất khẩu
a) Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển sản xuất lúa, bảo đảm cơ
cấu giống, chỉ đạo việc cung ứng vật tư, kỹ thuật canh tác, nâng cao chất lượng gạo
đáp ứng nhu cầu của thị trường; kiểm tra hoạt động sản xuất, lưu thông, tiêu thụ thóc,
gạo trên địa bàn; quản lý và tổ chức thực hiện quy hoạch xây dựng hệ thống kho chứa,
cơ sở xay xát thóc, gạo trên địa bàn; chỉ đạo việc mua thóc, gạo trực tiếp từ người sản
xuất và mua thông qua hợp đồng ký với người sản xuất theo chính sách hiện hành của
Nhà nước.
b) Báo cáo định kỳ hoặc đột xuất theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, các
Bộ, ngành liên quan về sản lượng, chủng loại thóc, gạo hàng hoá tồn đọng và dự kiến
năng suất, sản lượng thu hoạch thóc, gạo trên địa bàn để phục vụ công tác điều hành
xuất khẩu gạo.
c) Chỉ đạo các Sở: Tài chính, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công
Thương tổ chức điều tra, khảo sát chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất lúa từng vụ
trên địa bàn theo quy định của Nghị định này và hướng dẫn cụ thể của Bộ Tài chính; chỉ
đạo, kiểm tra, giám sát thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo trên địa bàn trong việc
chấp hành quy định và tuân thủ sự chỉ đạo điều hành của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
theo quy định tại Nghị định này.
d) Tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân địa phương thực hiện sản xuất lúa
theo quy hoạch và định hướng chung của Nhà nước để phát triển sản xuất, nâng cao
hiệu quả sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu thóc, gạo.
Điều 24. Trách nhiệm của Hiệp hội Lương thực Việt Nam
Ngoài chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật hiện hành, Hiệp hội
Lương thực Việt Nam còn có các trách nhiệm cụ thể sau:
xviii

1. Phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong
việc chỉ đạo, hướng dẫn thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo thực hiện mua thóc,
gạo thông qua hợp đồng ký với người sản xuất theo chính sách hiện hành của Nhà
nước.
2. Phối hợp với cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, phát hiện vi phạm trong lĩnh
vực kinh doanh xuất khẩu gạo, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.
3. Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương trong việc chỉ đạo, hướng dẫn thương
nhân mua thóc, gạo hàng hoá, duy trì mức dự trữ lưu thông bắt buộc, bình ổn thị
trường theo quy định tại Nghị định này.
4. Xây dựng và duy trì hoạt động của trang thông tin điện tử về tình hình cung -
cầu gạo, thị trường trong và ngoài nước, khách hàng nhập khẩu, giá cả và dự báo thương
mại gạo, thông tin về xuất khẩu và tiêu thụ thóc, gạo.
5. Chủ động tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu gạo; hướng dẫn hội viên
chủ động giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu để nâng cao hiệu quả xuất
khẩu gạo.
6. Định kỳ báo cáo hàng tuần, hàng tháng, hàng quý về Bộ Tài chính, Bộ Công
Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Văn phòng Chính phủ, Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vùng đồng bằng sông Cửu Long
về diễn biến tình hình giá mua thóc, gạo; giá thóc, gạo xuất khẩu; lượng gạo tồn kho
dự trữ lưu thông của thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo.
7. Kịp thời báo cáo các Bộ, ngành liên quan những vấn đề phát sinh theo chức
năng, nhiệm vụ được giao và đề xuất biện pháp xử lý.
Điều 25. Trách nhiệm báo cáo của thương nhân
Thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo có trách nhiệm thực hiện chế độ báo
cáo như sau:
1. Báo cáo định kỳ theo quý, năm và báo cáo đột xuất theo yêu cầu của Bộ Công
Thương, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hiệp hội Lương thực
Việt Nam, Ủy ban nhân dân và Sở Công Thương tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
nơi thương nhân có trụ sở chính và nơi thương nhân có kho chứa, cơ sở xay, xát về tình
hình mua, giá mua thóc, gạo, việc tạm trữ, dự trữ, ký kết và thực hiện hợp đồng xuất
khẩu gạo. Báo cáo định kỳ thực hiện theo mẫu quy định tại Phụ lục VI ban hành kèm
theo Nghị định này.
2. Báo cáo ngay bằng văn bản với Bộ Công Thương, Sở Công Thương tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương khi không đáp ứng được các điều kiện về kho chứa, cơ sở
xay, xát theo quy định tại Điều 4 Nghị định này hoặc khi không còn Giấy chứng nhận
đã được cấp do bị thất lạc, bị hư hỏng hoặc bị tiêu huỷ và nêu rõ lý do.

Chương V
VI PHẠM VÀ XỬ LÝ VI PHẠM
Điều 26. Hành vi vi phạm về kinh doanh xuất khẩu gạo
1. Kê khai không đúng thực tế kho chứa, cơ sở xay, xát hoặc có gian lận khác
để được cấp Giấy chứng nhận.
2. Giả mạo, tẩy xoá, sửa chữa Giấy chứng nhận.
3. Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng chỉ đạo, điều hành của cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại Điều 15 Nghị định này.
xix

4. Đầu cơ thóc, gạo nhằm lũng đoạn thị trường, gây bất ổn giá thóc, gạo trên thị
trường; ép giá hoặc có hành vi khác trong quá trình kinh doanh xuất khẩu gạo gây
thiệt hại cho người trồng lúa.
5. Không đảm bảo lượng gạo dự trữ lưu thông theo quy định tại Điều 12 Nghị
định này.
6. Gian lận trong việc khai báo giá xuất khẩu, lượng gạo có sẵn hoặc các thủ
đoạn khác nhằm lừa dối để được đăng ký hợp đồng xuất khẩu; không thực hiện đăng
ký hợp đồng xuất khẩu gạo theo quy định.
7. Giả mạo chứng từ hoặc các thủ đoạn gian lận khác để được ưu tiên trong đăng
ký hợp đồng xuất khẩu, phân bổ thực hiện hợp đồng tập trung.
8. Dự thầu, giao dịch hợp đồng xuất khẩu gạo trực tiếp hoặc gián tiếp vào thị
trường có hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung trái quy định và chỉ đạo của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền.
9. Báo cáo không đúng sự thật hoặc không thực hiện chế độ báo cáo được quy
định tại Điều 25 Nghị định này.
Điều 27. Xử lý vi phạm về kinh doanh xuất khẩu gạo
1. Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm về kinh doanh xuất khẩu gạo theo quy
định tại Nghị định này thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật,
xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, trường hợp gây thiệt hại thì
phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo có hành vi vi phạm các quy định của
Nghị định này, ngoài việc bị xử lý theo quy định của pháp luật, còn bị xử lý theo quy
định tại khoản 3, khoản 4 Điều này hoặc bị thu hồi Giấy chứng nhận theo quy định
tại Điều 8 Nghị định này.
3. Thương nhân có một trong các hành vi vi phạm quy định từ khoản 6 đến
khoản 9 Điều 26 Nghị định này bị áp dụng biện pháp tạm ngừng đăng ký hợp đồng
xuất khẩu gạo theo quy định sau đây:
a) Trường hợp thương nhân vi phạm lần đầu thì bị xử lý tạm ngừng đăng ký hợp
đồng xuất khẩu gạo trong thời hạn 03 (ba) tháng.
b) Trong thời hạn 12 (mười hai) tháng, kể từ ngày bị áp dụng biện pháp tạm
ngừng đăng ký hợp đồng xuất khẩu 03 (ba) tháng mà thương nhân tiếp tục có hành
vi vi phạm thì bị xử lý tạm ngừng đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo 06 (sáu) tháng,
không kể thời gian bị tạm ngừng đăng ký hợp đồng xuất khẩu trước đó.
c) Trong thời hạn 12 (mười hai) tháng, kể từ ngày bị áp dụng biện pháp tạm
ngừng đăng ký hợp đồng xuất khẩu 06 (sáu) tháng mà thương nhân tiếp tục tái phạm
thì Bộ Công Thương xem xét, quyết định thu hồi Giấy chứng nhận của thương nhân.
4. Trong trường hợp thương nhân có hành vi vi phạm các quy định của Nghị
định này, trên cơ sở đề nghị bằng văn bản của Ủy ban nhân dân, Sở Công Thương
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hiệp hội Lương thực Việt Nam hoặc cơ quan,
tổ chức khác, Bộ Công Thương xem xét, áp dụng biện pháp xử lý vi phạm đối với
thương nhân theo quy định của Nghị định này và các quy định khác của pháp luật có
liên quan.

Chương VI
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
xx

Điều 28. Điều khoản chuyển tiếp


1. Trong thời hạn 09 (chín) tháng, kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành,
thương nhân chưa có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo được
tiếp tục kinh doanh xuất khẩu gạo.
Kể từ ngày 01 tháng 10 năm 2011, thương nhân không có Giấy chứng nhận
không được hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo.
2. Thương nhân có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã hoạt động sản xuất, xuất
khẩu gạo trước khi Nghị định này có hiệu lực tiếp tục được hoạt động theo giấy phép
đã được cấp.
3. Trong thời hạn 01 (một) năm, tính từ khi hết thời hạn chuyển tiếp quy định
tại khoản 1 Điều này, thương nhân được thuê kho chứa, cơ sở xay, xát để đáp ứng
điều kiện kinh doanh quy định tại điểm b, c khoản 1, khoản 2 Điều 4 Nghị định này;
Việc thuê kho chứa và cơ sở xay, xát do Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn cụ thể.
Điều 29. Hiệu lực thi hành
1. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2011.
2. Bãi bỏ khoản 1 Điều 10 Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm
2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua
bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý, mua, bán, gia công và quá cảnh hàng
hoá với nước ngoài và các văn bản hướng dẫn thực hiện trước đây trái với quy định
của Nghị định này.
Điều 30. Tổ chức thực hiện và trách nhiệm thi hành
1. Căn cứ trách nhiệm cụ thể được phân công theo quy định tại Nghị định này
và các quy định khác của pháp luật có liên quan, các Bộ: Công Thương, Tài chính,
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách
nhiệm hướng dẫn thi hành Nghị định này.
2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chủ
tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này./.
xxi

Nơi nhận: TM. CHÍNH PHỦ


- Ban Bí thư Trung ương Đảng; THỦ TƯỚNG
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
CP;
- VP BCĐ TW về phòng, chống tham nhũng; (Đã ký)
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực
thuộc TW;
- Văn phòng TW và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước; Nguyễn Tấn Dũng
- Hội đồng Dân tộc và các UB của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- UB Giám sát tài chính QG;
- Kiểm toán Nhà nước;
- Ngân hàng Chính sách Xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
- Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN, các PCN, Cổng TTĐT,
xxii

PHỤ LỤC 7: DANH SÁCH CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT CHẾ
BIẾN GẠO CỦA VIỆT NAM ĐƯỢC PHÉP XUẤT KHẨU SANG TRUNG
QUỐC
BẢN DỊCH KHÔNG CHÍNH THỨC
TỔNG CỤC KIỂM NGHIỆM KIỂM DỊCH
VÀ GIÁM SÁT CHẤT LƯỢNG QUỐC GIA TRUNG QUỐC
Số: 1127/2016
VỀ VẤN ĐỀ ĐĂNG KÝ CỦA DOANH NGHIỆP
SẢN XUẤT VÀ CHẾ BIẾN GẠO VIỆT NAM XUẤT SANG TRUNG QUỐC
Kính gửi: Đại sứ quán nước CHXHCN Việt Nam tại Trung Quốc
Được sự giúp đỡ của các cơ quan hữu quan của Việt Nam, từ ngày 15 -
30/11/2016, đoàn công tác phía Trung Quốc đã hoàn thành việc kiểm tra thực tế các
doanh nghiệp đăng ký sản xuất, chế biến gạo xuất sang Trung Quốc theo đề xuất của
phía Việt Nam.
Nay xin có ý kiến như sau:
1. Phía Trung Quốc chấp nhận 22 doanh nghiệp sản xuất chế biến gạo của Việt
Nam (theo phụ lục đính kèm) được xuất khẩu gạo sang Trung Quốc, vì có đủ điều kiện
về cơ sở hạ tầng cũng như hệ thống quản lý chất lượng, phù hợp với Nghị định thư về
kiểm dịch thực vật đối với gạo Việt Nam xuất sang Trung Quốc và những yêu cầu
khác của phía Trung Quốc về quản lý chất lượng đối với gạo nhập khẩu.
2. Từ 01/01/2017, phía Trung Quốc không chấp nhận các doanh nghiệp chưa
được cho phép xuất khẩu gạo sang Trung Quốc (mốc thời gian tính từ ngày hàng rời
cảng của Việt Nam).
Đề nghị Quý cơ quan thông báo nội dung trên với các cơ quan chức năng của
Việt Nam, đồng thời tăng cường hơn nữa việc quản lý chất lượng gạo xuất khẩu, đáp
ứng các quy định hiện hành của phía Trung Quốc.
Trân trọng!
Người liên hệ: Từ Lượng, Hàn Uy
Điện thoại: 0086-10-82262021, 0086-10-82262427
Fax: 0086-10-82260175
Email: xul1@aqsiq.gov.cn, hanweinew@126.com
Ngày 22/12/2016
xxiii

VỤ HỢP TÁC QUỐC TẾ


TỔNG CỤC KIỂM NGHIỆM KIỂM DỊCH
VÀ GIÁM SÁT CHẤT LƯỢNG QUỐC GIA TRUNG QUỐC
(Đã đóng dấu)
PHỤ LỤC
DANH SÁCH CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT CHẾ BIẾN GẠO
CỦA VIỆT NAM ĐƯỢC PHÉP XUẤT KHẨU SANG TRUNG QUỐC
1. Thoai Son Food One Member Company Limited
2. Tan Dong Tien Joint Stock Company
3. TV Food Company Limited – TVFood Co., Ltd
4. Trung An Hi-Tech Farming Joint Stock Company – Trung An Hi-Tech
Farming JSC
5. Tin Thuong Investment Trading Joint Stock Campany – An Giang Factory
6. Thuan Minh Import Export Corporation – Long An Branch
7. Thanh Tin Service and Trade Company Limited
8. Phan Minh Investment Production Trading Services Co., Ltd – An Giang
Branch
9. Tien Giang Food Company – Tien Giang Food
10. Vinacam Agrifood Joint Stock Company – Agricam
11. The Branch of Vietnam Southern Food Corporation – Thotnot
12. Gentraco Corporation – Long Thanh High Quality Rice Processing Branch
13. Intimex Group Joint Stock Company
14. Vietnam Northern Food Corporation – An Giang Mill
15. Duong Vu Company Limited
16. Giong Rieng Rice Exporting and Processing Factory
17. Viet Thanh Company Limited – V.TH Co., Ltd
18. Cam Nguyen Rice Trading and Processing Limited Company – CAM Rice
19. Trung Thanh Private Enterprise
20. Branch of Tan Thanh An Company Limited
21. Viet Hung Company Limited - Viet Hung Co., Ltd
22. Hung Cuc Company Limited

You might also like