You are on page 1of 9

ĐÚC LIÊN TỤC PHÔI ĐỒNG KHÔNG OXI THEO PHƯƠNG

PHÁP UPCAST
Đúc liên tục theo phương pháp UPCAST (upward casting) là công nghệ sản
xuất phôi đồng không oxi đã được nghiên cứu và triển khai tại Outokumpu Pori foundries ở
Phần Lan vào năm 1968, sau 3 năm, dây chuyền sản xuất đầu tiên được lắp đặt tại
Outokumpu. Ưu điểm của phương pháp là: Công nghệ tiên tiến, sản phẩm chất lượng cao,
tiết kiệm nguyên liệu, tiết kiệm năng lượng, đầu tư ít, đưa vào sản xuất nhanh. Đặc biệt rất
phù hợp với nhu cầu của những nhà máy loại trung và nhỏ để sản xuất phôi kéo dây, phôi
ống và các loại thanh hình.
Hiện nay, ở nước ta nhiều công ty đã trang bị dây chuyền UPCAST để sản
xuất phôi đồng không oxi. Dưới đây là vài công ty đã trang bị dây chuyền UPCAST:

Bảng 1. Các công ty có trang bị dây chuyền UPCAST


STT Tên công ty Năng suất máy Nơi chế tạo
1 Công ty Cổ phần Cáp và Vật 3000 tấnnăm Outokumpu – Phần Lan
liệu Viễn thông (SACOM) 10000 tấn/năm Outokumpu – Phần Lan
2 Công ty Cổ phần Cáp Sài Gòn 10000 tấn/năm Outokumpu – Phần Lan
3 Công ty Cổ phần Dây điện từ 6000 tấn/năm Rautomead – Anh
Ngô Han
4 Công Ty TNHH Dây và Cáp 12000 tấn/năm Trung Quốc
điện Tân Cường Thành
5 Công ty TNHH Một thành viên 10000 tấn/năm Outokumpu – Phần Lan
Cơ Điện Trần Phú – TRAFUCO 2 dây chuyền 5000 Trung Quốc
tấn/năm
6 Công ty Cổ phần SNC Việt 6000 tấn/năm -
Nam

I. Quá trình đúc liên tục theo phương pháp Outokumpu Upcast
1.1. Dây chuyền công nghệ đúc phôi đồng liên tục Outokumpu Upcast.
Trên hình 1 là dây chuyền công nghệ đúc phôi đồng liên tục UPCAST. Phía
bên trái là máy nạp liệu tự động để nạp đồng catôt vào lò nấu chảy kiểu cảm ứng có kênh.
Một phần kim loại lỏng từ lò nấu chảy được đưa vào lò giữ nhiệt kiểu cảm ứng có kênh, theo
từng lượng nhỏ qua máng dẫn. Phía trên lò giữ nhiệt là thiết bị kéo phôi. Quá trình đúc phôi
bắt đầu bằng việc nhúng đầu khuôn graphit vào kim loại lỏng ở độ sâu gần 100 mm (như
hình 2). Dưới tác động của áp suất tĩnh kim loại lỏng, đồng lỏng xâm nhập vào khuôn
graphit. Sau đó, đồng đông đặc trên bề mặt trong của khuôn graphit. Thiết bị kéo với các con
lăn kẹp, kéo phôi đồng lên phía trên theo chu kỳ dừng và kéo, sau đó đưa vào máy thu.

1
Hình 1. Dây chuyền công nghệ đúc phôi đồng liên tục UPCAST

Trong dây chuyền UPCAST có thể


có 1 lò (năng suất đến 6000 t/năm) hay hai lò
(năng suất cao hơn 6000 t/năm). Trong dây chuyền
một lò, việc xử lý đồng catôt được thực trong lò
nung nóng sơ bộ đồng catôt và nạp liệu bằng máy
bán tự động. Trong dây chuyền hai lò, chỉ có máy
nạp liệu tự động (không cần phải nung nóng sơ bộ
đồng catôt).

1.2. Hiệu qủa nấu bằng lò cảm


ứng.
Năng lượng cần thiết để nung nóng
và nấu chảy đồng catôt và để giữ nhiệt được tạo ra
trong các bộ cảm ứng dạng kênh. Bộ cảm ứng là
thiết bị sử dụng năng lượng hiệu quả nhất để nấu
đồng. Bộ cảm ứng bao gồm các cụm chi tiết sau:
- Vỏ thép được làm nguội bằng
không khí hay bằng nước, có thể tháo ra khỏi thân

- Kênh chứa đồng lỏng, làm việc
như cuộn dây thứ cấp
- Lớp lót chịu lửa của kênh – lớp
chịu lửa có thành phần cơ bản là silic oxit (thạch
anh). Hình 2. Sơ đồ khuôn kết tinh
Bộ cảm ứng dạng kênh dùng để nung nóng trực tiếp đồng lỏng trong lò không
qua thiết bị công nghệ trung gian, đó là phương pháp nấu chảy bằng điện hiệu quả nhất.
Phương pháp này đảm bảo điều chỉnh nhiệt độ chính xác. Do dao động nhiệt độ kim loại lỏng
có thể ảnh hưởng xấu đến quá trình đông đặc, nên điều chỉnh nhiệt độ là yếu tố rất quan
trọng, không chỉ để tiết kiệm năng lượng điện mà còn đảm bảo chất lượng phôi đồng.
Nhiều khu công nghiệp, nhất là ở châu Á và Nam Mỹ có điện thế của lưới
điện không ổn định. Tất cả các dây chuyền UPCAST mới được trang bị thiết bị đặc biệt để
tối ưu hoá nguồn điện, nhờ vậy mà không còn sự dao động điện thế. Người thao tác có thể

2
đặt các thông số cần thiết từ buồng điều khiển. Hệ thống điều khiển của quá trình UPCAST
tự động điều chỉnh các thông số nấu luyện đã được thiết lập, nhờ đó mà tiêu hao điện năng
cần thiết để nấu luyện giữ ở mức yêu cầu, đảm bảo đủ khối lượng sản xuất. Hệ thống điều
khiển như vậy giữ nhiệt độ kim loại lỏng không đổi.

1.3. Hệ thống một lò có năng suất đến 6000 tấn/năm.


Hệ thống một lò đòi hỏi lắp đặt thêm lò để nung nóng sơ bộ đồng catôt trước
khi nạp vào lò tổ hợp nấu chảy – giữ nhiệt.
Trong hệ thống hai lò, lò nấu chảy được chú ý khử hơi ẩm trên đồng catôt và
làm đồng đều dao động nhiệt độ khi nạp đồng catôt “nguội” vào kim loại lỏng.
Ngay cả khi sử dụng lò tổ hợp nấu chảy – giữ nhiệt có dung tích lớn (tối thiểu
5 tấn) lò cũng chỉ được lắp đặt sau khi có lò nung nóng sơ bộ đồng catôt.
Đồng catôt được nung nóng đến 200oC sẽ nóng chảy nhanh hơn, sẽ không giữ
hơi ẩm trên bề mặt. Việc nấu chảy đồng catôt xảy ra trong buồng nấu chảy của lò. Buồng nấu
chảy được ngăn với buồng giữ nhiệt bằng bức tường ngăn, dưới tường ngăn có các lỗ để
đồng lỏng chảy từ buồng nấu vào buồng đúc. Do khối lượng đồng lỏng lớn và nhờ nung nóng
trong hệ thống cảm ứng dạng kênh, dao động nhiệt độ trong hệ thống được giảm thiểu, ngay
cả trong lò tổ hợp nấu chảy – giữ nhiệt.

1.4. Hệ thống hai lò có năng suất cao


Hệ thống hai lò có năng suất cao (từ 6000 đến 30000 tấn/năm và cao hơn),
gồm lò nấu chảy và lò giữ nhiệt. Cả hai lò này được trang bị các bộ cảm ứng, đảm bảo năng
lượng cho quá trình nấu chảy và ổn định đồng lỏng.
Các lò được nối với nhau bằng máng dẫn kín. Khí bảo vệ (N2 hay CO) ngăn
chặn sự oxi hóa của đồng lỏng. Thiết bị kéo phôi hoạt động dưới tác động của cơ cấu trợ dẫn
điều khiển bằng máy tính, điều khiển sự dịch chuyển của trục kéo. Chế độ dịch chuyển như
vậy đảm bảo mức độ đông đặc cần thiết của phôi trên bề mặt khuôn graphit. Đối với dây
chuyền có năng suất cao hơn 6000 tấn/năm, nấu chảy và đúc được thực hiện trong các lò
khác nhau do yêu cầu kỹ thuật về năng suất và chất lượng đúc.

1.5. Phương diện luyện kim của UPCAST.


Đồng catôt đưa vào lò nấu chảy (đối với hệ thống 2 lò) hay buồng nấu chảy
của lò tổ hợp nấu chảy và giữ nhiệt (đối với hệ thống 1 lò) chứa oxi trong phạm vi 10-15
ppm. Hàm lượng oxi này giảm nhờ lớp than gỗ trên bề mặt đồng lỏng trong lò. Để thực hiện
quá trình giữ nhiệt, đòi hỏi đủ thời gian, do khử oxi từ đồng lỏng nhờ lớp than gỗ hay than
graphit dạng vảy là quá trình hóa học phức tạp, đòi hỏi sự di chuyển khối lượng trong suốt
thời gian dài. Khối lượng đồng lỏng lớn dẫn đến dao động nhiệt tối thiểu trong thời gian nạp
đồng catôt và đảm bảo thu được kim loại lỏng đồng đều hơn. Dung tích của lò nấu chảy
UPCAST từ 7 đến 24 tấn đồng lỏng.
Trong hệ thống hai lò, đồng lỏng từ lò nấu chảy đưa vào lò giữ nhiệt qua
máng dẫn trong điều kiện khí bảo vệ, không cho oxi từ không khí xung quanh xâm nhập vào
đồng lỏng. Kim loại lỏng được phủ bằng lớp than graphit dạng vảy trong lò giữ nhiệt, nhờ đó
giảm được lượng oxi đủ thấp. Do hầu như toàn bộ oxi được loại ra khỏi lò nấu chảy, đồng
lỏng trở nên đồng nhất trước khí rót vào lò giữ nhiệt, chất lượng kim loại lỏng trở nên cao
hơn, còn hàm lượng oxi thấp. Phôi đồng của UPCAST thường chứa khoảng 1-2 ppm oxi.

3
Lò được lót bằng gạch cao nhôm và sau vài năm (5-6 năm hoặc cao hơn) mới
xây lại lò. Tuổi thọ lớp lót của bộ cảm ứng trong lò nấu chảy thường vào khoảng 1 năm và
cao hơn một ít trong lò giữ nhiệt. Tuổi thọ của lớp lót được quyết định bởi các phản ứng hóa
học, xảy ra trong lớp lót khi sấy lò lần đầu tiên. Khi tiếp xúc lớp lót với kim loại lỏng tạo
thành lớp oxit thiêu kết (“dạng thủy tinh”). Trên hình 3 là ví dụ tạo thành lớp như vậy: hình
3a là tổ chức cơ sở của vật liệu chịu lửa cao nhôm không tham gia phản ứng hóa học; trên
hình 3b cũng là vật liệu đó lấy từ lò đã làm việc, ở chỗ tiếp xúc với kim loại lỏng. Đồng lỏng
xâm nhập vào vật liệu cơ sở do tác động của lực mao dẫn và dưới tác động của khuếch tán ở
trạng thái rắn. Hiện tượng này chỉ xảy ra trong lớp chịu lửa xốp ban đầu và xảy ra trong thời
gian mở lò. Sản phẩm của phản ứng hoá học giữa vật liệu cơ sở và đồng như hình bên phải.
Các vùng sáng hơn là nền đã được thiêu kết, còn các vết tối là độ xốp đặc trưng của gốm.

Hình 3a. Tổ chức của vật liệu Hình 3b. Tổ chức của cùng vật liệu,
chịu lửa cao nhôm chưa tham gia nhưng đã tham gia phản ứng, ở
phản ứng dạng thiêu kết trong lớp lót lò

Qua lớp này, không hề xảy ra sự di chuyển khối lượng (ngoại trừ di chuyển do
khuếch tán), còn lớp chịu lửa của lò là môi trường trơ về mặt hóa học đối với đồng lỏng.
Việc khử oxi từ đồng lỏng chỉ xảy ra trên bề mặt đồng lỏng khi có mặt lớp than gỗ hay than
graphit. Trong thời gian khử oxi không xảy ra tiêu hao lớp chịu lửa. Nấu chảy theo công
nghệ UPCAST đảm bảo thu được kim loại lỏng có độ sạch cao, nhờ đó phôi đồng thu được
theo quá trình này là vật liệu rất tốt để sản xuất ra sản phẩm chất lượng cao. Dây kéo từ phôi
như vậy được kéo liên tục đến đường kính 0,015-0,02 mm khi sản xuất dây điện từ tráng men
và đến 0,001 mm để sản xuất dây siêu dẫn nhiệt độ thấp.

1.6. Phôi kéo dây được sản xuất trên hệ thống UPCAST.
Phôi UPCAST được sản xuất từ đồng không oxi và có tổ chức đúc. Do không
có oxi trong phôi đồng nên giảm được bước kéo trên máy kéo dây. Tuy nhiên, tổ chức đúc
khi kéo nguội đòi hỏi tiêu hao năng lượng để ủ nhiều hơn so với dây đã được cán nóng. Đó là
do quá trình kết tinh lại xảy ra gần biên giới hạt. Trong kim loại ở trạng thái đúc có cỡ hạt
lớn (kích cỡ hạt có thể đạt vài milimet), ngay cả sau khi kéo và biến dạng, vẫn còn một lượng
biên giới hạt tương đối ít. Do vậy cần thêm năng lượng để bắt đầu quá trình kết tinh lại. Để ủ
thành công trong quá trình ủ lần đầu, dây được kéo ngay sau khi đúc cần 10-15% năng lượng

4
cao hơn so với dây đồng cán nóng đã ở dạng kết tinh lại từ lúc đạt 8 mm. Giai đoạn ủ sau đó
chỉ cần năng lượng cao hơn 2-3%. Điều này được giải thích là do đối với đồng không oxi yêu
cầu nhiệt độ kết tinh lại cao hơn một ít.

1.7. Những vấn đề chủ yếu về chất lượng


Dưới đây là những vấn đề quan trọng nhất về chất lượng phôi kéo để đảm bảo
gia công tiếp theo, đảm bảo yêu cầu tính năng sử dụng cao của vật liệu.
- Đồng không oxi là vật liệu một pha (không có đồng oxit trong tổ chức vật
liệu). Do vậy, độ dẻo (dẫn đến khả năng kéo) của vật liệu này cao hơn đồng điện phân.
- Trong “công nghệ nấu chảy đồng”, việc giảm hàm lượng oxi do phản ứng
giữa oxi và cacbon (than gỗ, graphit, graphit dạng vảy) đòi hỏi thời gian giữ nhiệt lâu (và lò
có dung tích lớn) do tốc độ quá trình hoàn nguyên chậm. Một khối lượng đồng lớn sẽ pha
loãng oxi và giúp đạt được hàm lượng oxi thấp. Lò UPCAST được xác định kích thước để
mức oxi trong phôi đồng có thể giảm đến 1-2 ppm. Tiêu chuẩn quốc tế cho phép mức oxi tối
đa trong đồng không oxi mác Cu-OF là 10 ppm.
- Khi mức oxi cao (cao hơn 4 ppm), trong tổ chức kim loại có thể xuất hiện rỗ
khí, dẫn đến các vần đề phức tạp khi kéo dây.
- Nhờ công nghệ sản xuất vật liệu chịu lửa hiện đại, thu được đồng lỏng sạch
trong quá trình nấu chảy là cơ sở để sản xuất phôi chất lượng cao. Tính trơ của lớp chịu lửa
của lò đảm bảo các phần tử lạ, có thể gây đứt dây khi kéo, không xâm nhập vào phôi đồng.
- Thiết bị kéo phôi với cơ cấu trợ dẫn có trang bị máy tính điều khiển quá
trình đúc. Quá trình đúc phôi được thực hiện bởi sự đông đặc của kim loại lỏng trên bề mặt
khuôn graphit. Để đảm bảo chất lượng bề mặt phôi đồng tốt và ổn định, trên các dây chuyền
UPCAST do OUTOKUMPU chế tạo, chỉ sử dụng cơ cấu trợ dẫn với nguyên tắc dịch chuyển
được thiết kế đặc biệt để điều khiển sự tương tác giữa các bề mặt phôi và khuôn (masát). Đó
là sự tiến bộ kỹ thuật trong quan hệ giữa chất lượng phôi đúc và độ tin cậy trong sử dụng khi
so sánh với các hệ dẫn động cơ khí trước đây.

1.8. Kích thước cơ bản của hệ thống UPCAST.


Dưới đây là kích thước cơ bản của vài hệ thống UPCAST:
Bảng 2. Kích thước cơ bản của các hệ thống UPCAST
Năng suất Kích thước mặt bằng Công suất lắp đặt Kiểu máy
*
(tấn/năm) lắp đặt (KVA)
3000 16 m x 27 m 350 Một lò, 4 khuôn kết tinh
6000 16 m x 31 m 450 Một lò, 8 khuôn kết tinh
12000 18 m x 33 m ** 1050 Hai lò, 14 khuôn kết tinh
15000 18 m x 36 m ** 1100 Hai lò, 18 khuôn kết tinh
30000 21 m x 40 m 2000 Hai lò, 36 khuôn kết tinh
*) Kích thước mặt bằng xưởng bao gồm diện tích kho chứa nguyên liệu,
phòng điều khiển và khoản cách để thuận tiện thao tác. Ngoài ra, cần một buồng cho các tủ
điện (diện tích tương đối nhỏ). Các con số này chỉ là các số tham khảo, trong các địa hình
khác nhau, có thể thiết kế lại cho phù hợp.
**) Các cuộn thu dây được lắp đặt trên 2 tầng.

1.9. Ứng dụng của quá trình UPCAST


Quá trình UPCAST được sử dụng bởi:

5
- Các nhà sản xuất cáp và dây đồng có kích cỡ từ nhỏ đến vừa sẽ chọn hệ
thống UPCAST để sản xuất phôi kéo 8 mm thay thế cho việc mua từ các nguồn bên ngoài.
- Các nhà sản xuất đồng hay phôi đồng, cần đa dạng hóa sản phẩm gồm nhiều
loại đồng khác nhau (đồng không oxi) hay sử dụng tính linh hoạt của UPCAST để sản xuất
phôi có đường kính khác nhau cho khách hành (ví dụ phôi có đường kính 8-10-12-16-18-24
mm).
- Các nhà sản xuất dây kéo nhỏ hay kéo nhiều loại dây chỉ chấp nhận phôi kéo
chất lượng tốt. Các nhà sản xuất đặc biệt cần đồng không oxi cho sản xuất (ví dụ, các nhà sản
xuất cáp – LAN)
- Các nhà sản xuất hợp kim đồng (đồng thau, đồng thanh, niken-bạc, đồng
thau chứa chì v.v..) và các nhà sản xuất kim loại qúy.

II. Những vấn đề chủ yếu của công nghệ sản xuất phôi đồng không oxi
trên hệ thống UPCAST.
2.1. Thành phần hóa của đồng không oxi.
Thành phần hóa học của đồng không oxi theo các tiêu chuẩn ASTM B170-99
và GOST 859-78 như bảng 3.
Bảng 3. Thành phần hóa học của đồng không oxi
Nguyên tố ASTM B170-99 GOST 859-78
C10100 C10200 M00 M0 M0
(OFE) (OF)
Cu, min % 99,99 …
Cu (+Ag), … 99,5 99,99 99,97 99,95
min %
ppm, max ppm, max ppm, max ppm, max ppm, max
Sb 4 … 10 20 20
As 5 … 10 20 20
Bi 1 … 5 10 10
Cd 1 … … … …
Fe 10 … 10 40 40
Pb 5 … 10 30 40
Mn 0,5 … … … …
Ni 10 … 10 20 20
O2 5 10 10 10 30
P 3 … 5 20 20
Se 3 … … … …
Ag 25 … … … …
S 15 … 20 30 40
Te 2 … … … …
Sn 2 … 10 20 20
Zn 1 … 10 30 30

2.2. Yêu cầu đối với nguyên liệu.


- Để đảm bảo phôi đồng đúc ra nhẵn láng, không oxi, đồng điện phân phải phù
hợp với các yêu cầu sau:

6
+ Thành phần hóa học: hàm lượng các tạp chất có hại trong đồng catôt, được
sử dụng trong sản xuất đồng không oxi thường thấp hơn các giới hạn cho phép của mác M0k
theo GOST 859-78 (bảng 4).
Bảng 4. Thành phần hóa học của đồng catôt theo GOST 859-78
Mác Cu+Ag,%, Tạp chất, %, không lớn hơn
đồng Không Bi Sb As Fe Ni Pb Sn S O2 Zn P
catôt nhỏ hơn
M00k 99,99 0,0005 0,001 0,001 0,001 0,001 0,001 0,001 0,002 - 0,001 0,001
M0ky 99,97 0,0005 0,001 0,001 0,001 0,001 0,002 0,001 0,002 0,015 0,001 0,001
M0k 99,95 0,001 0,002 0,002 0,004 0,002 0,003 0,002 0,004 0,02 0,003 0,002

+ Trên bề mặt đồng catôt không có các u bướu hình nấm của các tinh thể dạng
nhánh; các bướu lớn, xốp; chỉ cho phép các bướu hình cầu không bị bong tróc khi va đập và
chuyên chở. Bề mặt đồng catôt và tai catôt phải sạch, được rửa sạch chất điện phân, bùn điện
phân, không còn các vết đồng sunfat và niken sunfat. Đồng catôt phải đặc chắc, không bị gãy
do va đập khi vận chuyển, không cho phép sử dụng đồng catôt giòn và phân lớp.
- Hồi liệu đồng không oxi của xưởng nấu đúc, sau khi cắt ra thành các phần
thích hợp được đưa vào liệu, không xử lý thêm. Phế pliệu đồng không oxi của xưởng gia
công phải tẩy bằng dung dịch 5-12% H2SO4, rửa lại và sấy rồi mới đưa vào nấu đúc.
- Trong các lò nấu chảy và giữ nhiệt cỡ lớn, yêu cầu chất lượng của nguyên
liệu có thể giảm, có thể không phải cắt bỏ các tai và mép cạnh đồng catôt như trong các lò cỡ
nhỏ. Đó là do mức độ khử oxi ra khỏi đồng phụ thuộc vào thời gian giữ kim loại lỏng dưới
lớp than, thời gian giữ trong các lò lớn nhiều hơn so với các lò có dung tích nhỏ.

2.3. Yêu cầu đối với chất khử oxi


- Than gỗ: Dùng để khử oxi và bảo vệ đồng lỏng trong các lò nấu chảy và lò
giữ nhiệt. Để sản xuất đồng không oxi, người ta thường sử dụng than gỗ thu được khi nhiệt
phân gỗ của cây giống lá với yêu cầu như sau:
Độ tro  2,5%
Cacbon không bốc hơi ≥ 88,0%
Hơi ẩm ≤ 6,0%
Than vụn nhỏ hơn 12 mm ≤ 7,0%
Trước khi sử dụng, người ta sàng lại than để loại bỏ các tạp chất lạ, nghiền
thành cục 10-50 mm, nung trong lò điện 3-4 giờ ở nhiệt độ 650-800oC. Để nung than, người
ta đổ than vào thùng bằng thép chịu nhiệt, đậy bằng nắp có cửa van bằng cát sông. Trong thời
gian nung, mở lỗ thoát khí trong nắp thùng để hơi ẩm và chất bốc thoát ra ngoài. Sau khi
nung, hơi ẩm giảm từ 5-10 đến 0,3-0,6%, chất bốc giảm từ 15-20 đến 11-12%.
- Ngoài than gỗ, có thể sử dụng than graphit dạng vảy để phủ bề mặt đồng
lỏng (loại có cỡ hạt qua sàng số 50, hàm lượng cacbon 99%, loại có cỡ hạt qua sàng số 32
càng tốt nhưng giá cả lên gấp đôi).

2.4. Chuẩn bị trước khi đúc.


- Lắp khuôn graphit (khuôn graphit hình trụ có đường kính ngoài gần 30 mm,
đường kính trong phụ thuộc vào kích thước phôi) vào áo nước làm nguội bằng đồng, rồi lắp
bọc bảo vệ bằng silic cacbua cho đầu dưới của áo nước như hình 2. Cắm thanh dẫn phôi có
gắn đầu kéo bằng đồng vào khuôn kết tinh sao cho đầu đồng nhô ra khỏi khuôn graphit ~20
mm.

7
- Thử áp lực nước làm nguội của áo nước, áo nước của khuôn kết tinh phải
chịu được áp lực nước khoảng 6-8 kG/cm2 trong khoảng 1 giờ.
- Đưa khuôn kết tinh vào lò để sấy nóng đồng đều, nối các đường nước ra vào
khuôn (đường nước vào lắp phía dưới, đường nước ra lắp phía trên như hình 2), mở van cho
một lượng nước thích hợp qua áo khuôn, rồi lắp khuôn vào máy đúc.
- Điều chỉnh độ cao của khuôn kết tinh sao cho đầu khuôn graphít cắm ngập
vào đồng lỏng với độ sâu khoảng 100 mm (mặt đồng lỏng cách bọc bảo vệ áo nước khoảng
30 mm). Nếu độ sâu khuôn kết tinh cắm vào đồng lỏng vượt qua chiều cao của bọc bảo vệ thì
có nguy cơ khuôn bị nứt, hỏng, chảy nước làm nguội vào đồng lỏng gây nổ.
- Nối khuôn với bơm chân không (nếu có).
- Kiểm tra cơ cấu báo mức đồng lỏng, kiểm tra cặp nhiệt độ.
- Kiểm tra nước trong tháp nước dự phòng.
- Kiểm tra hoạt động của máy phát điện để dự phòng vào lúc mất điện lưới.

2.5. Công nghệ nấu chảy và giữ nhiệt đồng lỏng.


Công nghệ nấu chảy đồng không oxi trong lò cảm ứng có kênh bao gồm các
công đoạn: nạp liệu, nấu chảy đồng, khử oxi bằng cách giữ dưới lớp than gỗ và nung quá
nhiệt đồng lỏng để đảm bảo rót vào lò giữ nhiệt.
Trong quá trình nấu chảy, bề mặt đồng lỏng phải được che phủ bằng than gỗ
khô với bề dày lớp than vào khoảng 150 mm. Người ta rót đồng lỏng từ lò nấu chảy vào lò
giữ nhiệt khi nhiệt độ đồng đạt 1170±10oC.
Trước khi rót phải kiểm tra máng dẫn và sấy máng, đồng lỏng trong lò nấu
chảy cần có thời gian giữ nhiệt khoảng 15-20 phút trước khi rót.
Lúc rót, cần ngắt dòng điện trong thiết bị cảm ứng, tốc độ rót phải đều đặn.
Sau khi rót cần làm sạch máng dẫn và kịp thời nấu chảy đồng catôt để bù lượng đồng đã rót.
Nhiệt độ đồng lỏng trong lò giữ nhiệt được giữ trong phạm vi 1150±10oC.
Bề dày lớp than phủ (than gỗ hay than graphit dạng vảy) trong lò giữ nhiệt
khoảng 100-150 mm.
Sau mỗi ca nấu đúc, phải hốt lớp than cũ trên bề mặt đồng lỏng ở lò nấu chảy
và lò giữ nhiệt, chỉ để lại một lớp than mỏng, làm sạch tro và thay bằng lớp than mới.
Trong quá trình nấu đúc, cần theo dõi nhiệt độ nước làm nguội các cuộn dây
cảm ứng của lò. Nhiệt độ nước làm nguội này vào khoảng 20-30oC.

2.6. Thao tác công nghệ đúc phôi đồng liên tục.
Khởi động thiết bị kéo phôi và điều chỉnh tốc độ kéo phôi (vào khoảng 400-
700 mm/phút đối với phôi có đường kính 14 mm), rồi kẹp chặt các con lăn dẫn phôi vào
thanh dẫn.
Nhiệt độ nước vào khuôn kết tinh khoảng 20-35oC, nhiệt độ nước ra khỏi
khuôn kết tinh < 55oC, chênh lệch nhiệt độ nước ra vào khuôn kết tinh khoảng 15oC. áp lực
nước vào khoảng 2-3 kG/cm2.
Sau khi kéo phôi ra khỏi khuôn kết tinh, tháo thanh dẫn phôi ra và đưa phôi
vào máy thu thành cuộn.

2.7. Xử lý sự cố trong quá trình đúc liên tục trên hệ thống UPCAST.
- Nếu mất điện lưới mà máy phát điện dự phòng không thể đảm bảo yêu cầu
sản xuất thì ngoài việc đảm bảo cung cấp nước làm nguội, phải lập tức lấy khuôn kết tinh ra

8
khỏi lò. Cần chú ý không được phép mất điện quá 10 phút, nếu mất lâu đồng lỏng sẽ đông
đặc làm hỏng lò. Khuôn kết tinh lấy ra phải thử lại áp lực nước và thay mới khuôn graphit,
bọc bảo vệ.
- Khi xảy ra sự cố mất điện hoặc các sự cố khác như ống dẫn nước bị xì phải
thay lại trong khoảng thời gian một phút phải cấp nước trở lại, nếu không sẽ gây tổn hại đối
với cuộn dây cảm ứng và khuôn kết tinh. Khi khẩn cấp phải dùng đến tháp nước dự phòng
cần chú ý lượng nước đã chảy đi trong tháp nước dự phòng.
- Khi mất điện lưới phải dùng máy phát điện hoặc xảy ra các sự cố khác như
hư hỏng thiết bị không thể tiếp tục sản xuất thì phải giữ nhiệt cho lò ở 1110-1130oC.
- Trong trường hợp khuôn kết tinh bị rò rỉ nước, lập tức khóa van của đường
nước vào khuôn và rút khuôn lên.
- Khi lò hư hỏng, phải rút hết đồng lỏng ra khỏi lò rồi mới xây lại lò. Lò
thường bị hư hỏng chủ yếu là ở vùng kênh cảm ứng do lâu ngày các chất bẩn bám vào thành
khuôn làm cho tiết diện kênh bị thu hẹp lại, hoặc do nhiệt độ cao làm nứt vỡ lớp chịu lửa của
kênh cảm ứng.

You might also like