Professional Documents
Culture Documents
Tỉ lệ giữa lượng thủy tinh từ bể nấu sang bể sản xuất với lượng thuỷ tinh từ bể
sản xuất sang bể nấu gọi là hệ số dòng (n). Hệ số dòng thay đổi tùy cơ cấu lò, cũng như
tùy phương pháp sản xuất.Với lò không cống và sản xuất kính tấm hệ số dòng 5 – 10 (1
– 4 ). Lò có cống hệ số dòng 1 – 2.
4
Ảnh hưởng của hệ số dòng: Làm thủy tinh đồng nhất, ăn mòn VLCL, mang
phần phối liệu chưa tan vào bể sản xuất. Để giảm hệ số dòng dùng các biện pháp như
nâng đáy bể sản xuất lên hay dùng cống.
(Do hiện tượng dòng chảy đối lưu, thủy tinh lỏng trong lò được khuấy trộn, đảo lên đảo
xuống liên tục làm tăng nhanh quá trình khuyếch tán trong thủy tinh. Vì thế nó có tác
dụng đặc biệt lên quá trình tinh luyện trong lò. Tuy vậy, ta nhớ rằng thủy tinh có độ
nhớt khá cao, dòng chảy đối lưu này mang tính chất chảy tầng, nghĩa là thủy tinh dịch
chuyển với khối lượng lớn, do đó hiệu quả khuấy trộn để làm dồng nhất thành phần thủy
tinh ở phạm vi thể tích nhỏ là không cao. Cường độ dòng chảy đối lưu lớn quá mức sẽ
gây hại )
Lò bể: Áp lực trên bề mặt thủy tinh hơi dương ở bể nấu và hơi âm ở bể sản xuất.
Không khí, khí vào buồng hồi nhiệt vào lò nhờ: Áp suất hình học tạo ra bởi lò và quạt
đẩy. Khí thải thoát ra khỏi lò nhờ sức hút ống khói hay quạt hút ở chân ống khói.
Tốc độ khí thải vào miệng lửa: Lửa ngang v=4+l [m/s]; (l là khoảng cách giữa 2 miệng
lửa đối diện nhau ). Lửa chữ U v=7+l [m/s] ( l là khoảng cách từ miệng lửa đến cống ).
Lò nồi khống chế tốc độ ngọn lửa 12-15m/s.
Tốc độ của khí đi trên đệm: Lửa ngang 0,2-0,3m/s, lửa chữ U 0,3-0,5m/s.
Phụ thuộc vào năng suất yêu cầu, năng suất riêng.
1/ Bể nấu: - Diện tích F= [m2] ; G là lượng thủy tinh tính bằng kg trong 24h
-Chiều sâu bể: Tùy tính chất của thủy tinh của VLCL và cấu tạo lò. Bể cạn
nấu thủy tinh tốt hơn nhưng VLCL ở đáy lò dễ bị ăn mòn. Thủy tinh màu phải cạn hơn
thủy tinh không màu. Độ sâu mức thủy tinh lớn thì nhiệt độ giữa đáy và bề mặt chênh
lệch lớn dẫn đến dòng thủy tinh mạnh làm ăn mòn tường lò, gây bẩn thủy tinh,giảm tuổi
thọ lò.
Kính tấm h=1,2-1,6m. Bao bì không màu h =0,7-1m. Thủy tinh màu h=0.6-
0,8m
2/ Bể sản xuất: Diện tích bể sản xuất phụ thuộc vào loại thủy tinh cũng như cơ cấu lò.
Chiều sâu bể sản xuất thường bằng chiều sâu bể nấu hoặc nhỏ hơn 200-
300mm.
Luồng
phun
Luồng
phun
b/
a/
Luồng
phun
c/
Hình a/ trường hợp gạch đèn có kích thước đường ống của loe quá rộng so với loe của
luồng phun hoặc độ loe của côn gạch > hơn độ loe của luồng phun. Trường hợp này sẽ
xuất hiện một luồng gió lạnh từ môi trường ngoài lò hút vào bên trong cặp sát mặt côn
8
của lỗ gạch đèn với rìa luồng phun làm cho: Mặt gạch bị nguội làm giảm khả năng cấp
nhiệt của gạch cho hỗn hợp luồng phun ở giai đoạn đầu. Khả năng được sấy nóng của
luồng phun bị giảm dẫn đến phản ứng cháy chậm lại. Trường hợp b/ cũng xấu. Mặt gạch
bị đóng than, bị phá và lửa cháy không tốt. Trường hợp c/ tốt.
Vật liệu làm gạch béc đốt: Vật liệu làm gạch béc đốt có ảnh hưởng đến độ ổn
định của quá trình cháy trong ngọn lửa do yếu tố nhiệt độ của gạch tạo ra và độ nhẵn của
mạch loe gạch. Khi gạch có hệ số dẫn nhiệt càng lớn, bề mặt gạch nhẵn bóng láng thì
càng giúp ổn định quá trình cháy của ngọn lửa do nhiệt độ gạch cao( nhận nhiệt từ lò
mạnh) sẽ sấy nóng luồng hỗn hợp phun vào nhanh. Mặc khác, mặt gạch nhẵn láng sẽ
giúp hạt dầu nếu có bắn lên đó sẽ dàn mỏng nhanh hơn để bốc hơi nhanh. Ngược lại,
gạch có hệ số dẫn nhiệt kém sẽ hấp thu nhiệt lò thấp, nhiệt độ gạch không cao, tác dụng
sấy luồng hỗn hợp phun yếu hơn. Mặt gạch xù xì nhám ( nhất là gạch ép) sẽ làm giọt
dầu nếu có bắn lên sẽ bám vào các vết rỗ, bị thấm vào mặt gạch làm chậm việc bốc hơi
hoàn toàn giọt dầu. Do đó dễ phá hỏng gạch béc đèn.Như vậy chọn gạch đúc từ thể nóng
chảy tốt hơn gạch ép nung.
Tăng cường độ ổn định của ngọn lửa bằng nhiệt độ gió dầu: Gió đốt được
sấy , dầu được hâm nóng lên gần điểm sôi sẽ làm phản ứng cháy xảy ra nhanh hơn, ngọn
lửa ổn định hơn. Đối với gió đốt, ở nhiệt độ sấy nóng 150-200 0C chỉ là biện pháp kĩ
thuật để ổn định quá trình cháy, giúp phản ứng cháy xảy ra hoàn toàn hơn, từ đó tiết
kiệm được dầu. Còn gió nóng sấy qua buồng hồi nhiệt mới là biện pháp kinh tế tiết kiệm
dầu vì nhiệt độ sấy trước của nó rất cao ( 900-1000 0C) và cũng là biện pháp kĩ thuật để
nâng cao được nhiệt độ lò.
***Một số yêu cầu về lửa trong lò nấu
Để đạt phân bố nhiệt độ hợp lí đều khắp lò và đặt vùng bức xạ cao nhất của ngọn
lửa nằm ngay trên vùng phối liệu chưa tan, lửa bên trong lò phải đạt một số điều kiện:
- Độ phủ của lửa trên bề mặt thủy tinh trong lò nấu phải khá lớn, vì vậy trong lò
lửa chữ U, đốt sau đuôi mà có bề rộng bể nấu lớn người ta nên đốt hơn 1 đèn ( 2 đèn đốt
cho 1 miệng lửa). Lửa sẽ đều ở khắp ½ lò phía bên đang đốt. Chiều dài ngọn lửa gần 2/3
chiều dài lò nấu. Hai cây đèn với một miệng lửa đốt với dạng lửa hơi khác nhau; các đèn
sát vách dọc lò nấu đốt với ngọn lửa ngắn hơn và yếu hơn đèn bên trong nhằm tránh phá
vách dọc và không để cho nhiệt độ phân gần vùng vách dọc lò nấu lên quá cao.
khói
Đèn 2
Đèn1
2/3 L
1/3 L
9
Hướng lửa: Hướng lửa không được chĩa xéo lên nóc lò, không được chĩa ngang hoặc
chúi sát mặt thủy tinh . Ngọn lửa 2 đèn giữa lò (số 2 và số 3) không quá mềm , yếu dến
nổi bị bẻ ngoặc vào miệng lửa phía hút khói lò. Lửa mang tính chất trung tính: Nghĩa là
không có tính khử mạnh ( dư dầu )và cũng không có tính ôxy hóa mạnh( dư gió). Khi đó
phân bố nhiệt độ lò tốt mà hiệu suất sử dụng nhiệt tỏa ra của quá trình cháy dầu cũng
cao. Trong trường hợp dư dầu ngọn lửa mềm, thân lửa vàng mờ, đuôi lửa có màu đỏ,
ngả màu sậm đen vì nó có mồ hóng, lò vàng đục. Trường hợp dư gió ngọn lửa sáng chói
ở đầu ngọn, bụng và đuôi có màu sáng trắng, ngọn lửa mạnh, lưỡi lửa và lò trong
suốt.Lửa trung tính có đầu lửa sáng trắng , đuôi lửa vàng không sậm đen.
Chú í: Chỉnh dộ mở ống khói để áp suất trong lò bằng áp suất môi trường ngoài.
Nếu ống khói mở lớn, áp suất lò âm thì lượng nhiệt mất theo ống khói rất lớn. Vì tốc độ
mất nhiệt quá lớn, nên lượng dầu gió tăng lên để giữ nhiệt độ qui định , nghĩa là đốt lửa
mạnh. Đó chính là tổn hao không cần thiết.
Buồng hồi nhiệt và chu kỳ đổi lửa tối ưu
Xét loại buồng hồi nhiệt gián đoạn : Khi vận hành bao giờ cũng có một buồng có
gió lạnh đi vào để được sấy nóng lên nhờ nhiêt tỏa ra của gạch đệm và một buồng có
khói thải đi ra đốt nóng gạch đệm. Chu kỳ thay đổi nhiệt độ gạch đệm ngược nhau.
Buồng có gió lạnh đi vào thì:
Nhiệt độ gạch giảm từ đầu chu kỳ đến cuối chu kỳ đổi lửa.Nhiệt độ gió giảm theo
nhiệt độ gạch từ đầu chu kỳ đổi gió.
Buồng có khí thải đi qua thì: Nhiệt độ gạch tăng từ đầu chu kỳ đổi lửa đến cuối chu
kỳ.Nhiệt độ khói thải tăng dần từ đầu chu kỳ đến cuối chu kỳ do tốc độ ngấm nhiệt vào
gạch giảm dần.
Như vậy các thông số sau đây cần chú í : Nhiệt độ trung bình của gió nóng cung
cấp cho miệng lửa: Nhiệt độ trong bình càng cao thì hiệu suất thu hồi nhiệt càng cao.Sai
biệt nhiệt độ của gió nóng ∆t = tmax-tmin càng cao thì nhiệt độ lò càng không ổn định.
Nhất là khi nhiệt độ tối thiểu của gió ở cuối chu kỳ càng thấp thì nhiệt độ lò bị hạ xuống
nhiều.Điều này xảy ra khi chu kỳ đổi lửa quá lâu cho bất kỳ loại gạch đệm nào.Nhiệt độ
trung bình của khói thải tại chân ống khói: Nhiệt độ trung bình càng cao thì hiệu quả thu
hồi nhiệt càng kém. Như vậy chu kỳ đổi lửa có ảnh hưởng tới : Độ ổn định nhiệt độ lò;
khả năng duy trì lò ở nhiệt độ cao; tuổi thọ buồng hồi nhiệt; hiệu quả tiết kiệm dầu.Mỗi
lò cụ thể phải tìm chu kỳ đổi lửa riêng bằng thực nghiệm . Thường từ 15 đến 30 phút.
Khi chu kỳ đổi lửa ngắn thì thao tác đổi lửa phải nhanh để tránh ảnh hưởng đến biến
động nhiệt độ lò do thao tác chậm nhiệt độ lò khó lên nổi . Thao tác đổi lửa phải hoàn tất
trong vòng 20 giây đối với đổi lửa bằng tay và 10 – 15 giây đối với đổi lửa tụ đông. Chu
kỳ đổi lửa quá ngắn( < 15 phút) có thể gây biến động nhiệt độ lò liên tục, không hoặc
khó đưa nhiệt độ lò lên cao.
10