Professional Documents
Culture Documents
Bandwidth, theo Lạc Việt Từ Điển có nghĩa là "dải tần ( dải tần số )", hay theo một số trang web thì nó là
"băng thông". Thực ra nếu ai hoạt động trong lĩnh vực viễn thông thì chắc sẽ hiểu rõ hơn về khái niệm này.
Tuy nhiên, chúng ta hãy cùng nhau lướt qua 1 số định nghĩa về bandwidth :
- Khái niệm Bandwidth (the width of a band of electromagnetic frequencies) ( dịch nôm na là độ rộng của
một dải tần số điện từ ), đại diện cho tốc độ truyền dữ liệu của một đường truyền, hay, chuyên môn một
chút, là độ rộng (width) của một dải tần số mà các tính hiệu điện tử chiếm giữ trên một phương tiện truyền
dẫn.
- Nói chung, bandwidth đồng nghĩa với số lượng dữ liệu được truyền trên một đơn vị thời gian. Bandwidth
cũng đồng nghĩa với độ phức tạp của dữ liệu đối với khả năng của hệ thống. Ví dụ, trong 1 giây, download
1 bức ảnh sẽ tốn nhiều bandwidth hơn là download 1 trang văn bản thô ( chỉ có chữ ).
- Trong lĩnh vực viễn thông, bandwidth biểu diễn cho tốc độ truyền tải dữ liệu (tính theo bit) trên một giây
( thường gọi là bps ). Vì thế, một modem với 57,600 bps ( thường gọi là 56K modem ) có bandwidth gấp đôi
so với 28,800 bps modem.
- Trong từng ngữ cảnh riêng, việc định nghĩa bandwidth lại khác đi một chút, nhưng chúng ta sẽ không đi
quá sâu, mà hãy quay lại với những gì gần gũi với chúng ta, đó là bandwidth với máy chủ, tác động của nó
tới trang web của chúng ta. Và vì vậy, chúng ta sẽ hiểu một cách đơn giản, càng có nhiều bandwidth,
website của chúng ta càng có nhiều khả năng xử lý các yêu cầu trong một khoảng thời gian nhất định.
Dwell time
Dwell time
Khi thảo luận về hệ thống nhảy tần nghĩa là chúng ta đang thảo luận về hệ thống phải
truyền trên một tần số xác định trong một khoảng thời gian và sau đó nhảy sang một tần
số khác để tiếp tục truyền. Khi một hệ thống nhảy tần truyền trên một tần số, nó phải
dùng tần số đó trong một khoảng thời gian xác định, khoảng thời gian này được gọi là
Dwell time. Một khi dwell time kết thúc, hệ thống sẽ chuyển sang một tần số khác và bắt
đầu truyền tiếp.
Giả sử rằng hệ thống nhảy tần truyền trên chỉ 2 tần số 2.401 GHz và 2.402 GHz. Hệ
thống sẽ truyền trên tần số 2.401 GHz trong một khoảng thời gian dwell time (ví dụ 100
milisecond). Sau 100 ms radio phải thay đổi tần số truyền của nó sang 2.402 GHz và
truyền thông tin tại tần số đó trong khoảng 100 ms. Vì trong ví dụ chúng ta chỉ sử dụng 2
tần số nên radio sẽ nhảy trở lại tần số 2.401 GHz và tiếp tục tiến trình truyền.
Hop Time
Khi xem xét hành động nhảy của radio nhảy tần, dwell time chỉ là một phần của quá trình
nhảy. Khi radio nhảy tần nhảy từ một tần số A sang một tần số B, nó phải thay đổi tần số
truyền theo một trong 2 cách. Nó phải chuyển sang một mạch (điện) khác để có thể
truyền ở tần số mới hoặc nó phải thay đổi một số thành phần của mạch hiện tại để có thể
chuyển sang một tần số mới. Trong cả 2 trường hợp, quá trình thay đổi phải được hoàn
tất trước khi việc truyền có thể bắt đầu, khoảng thời gian thay đổi này bao gồm độ trễ của
mạch điện. Khoảng thời gian nhỏ này là khoảng thời gian mà radio không thể truyền tín
hiệu được gọi là Hop time. Hop time được đo bằng microsecond (us), với khoảng thời
gian dwell time tương đối lớn vào khoảng 100-200 ms thi hop time là không đáng kể.
Một hệ thống 802.11 FHSS thường nhảy giữa các kênh khoảng 200-300 us.
Với dwell time rất ngắn khoảng 500-600 us được sử dụng trong một số hệ thống nhảy tần
như Bluetooth thì hop time có thể rất đáng kể. Nếu chúng ta nhìn vào tác dụng của hop
time đối với băng thông dữ liệu, chúng ta sẽ phát hiện rằng hop time càng lớn (trong mối
liên quan với dwell time) thì tốc độ truyền dữ liệu càng chậm. Điều này cũng có nghĩa là
dwell time càng lớn thì tốc độ càng cao.
Thông thường thì radio nhảy tần sẽ không được lập trình để hoạt động ở mức giới hạn bởi
luật, thay vào đó, nó cung cấp một số khoảng trống giữa giới hạn luật và khoảng hoạt
động thực tế cho phép người sử dụng có thể điều chỉnh một cách linh động. Bằng cách
điều chỉnh dwell time, administrator có thể tối ưu mạng FHSS nơi có nhiễu xảy ra. Trong
một vùng có ít nhiễu thì dwell time càng lớn thì băng thông càng lớn. Ngược lại trong
một vùng mà nhiễu rất đáng kể sẽ làm cho tăng số lượng truyền lại các gói tin bị hỏng do
nhiễu, vì thế dwell time nhỏ được ưa thích hơn.
Sóng mang là những tín hiệu hình Since tần số cao trong đó nó sẽ có các thành phần như
pha hay biên độ sẽ biến thiên theo sóng tín hiệu, để tạo thành các sóng cao tần mang các
sóng tín hiệu này đi trong không gian.
Nếu không có sóng mang thì các sóng tín hiệu không thể truyền đi xa do bị suy hao tần
số.
Sóng mang có nhiệm vụ đưa tín hiệu lên mức tần số cao để truyền đi xa hơn .
Sau đó sẽ được loại bỏ để thu được tín hiệu nguyên thủy ( tất nhiên là có khác chút ít