Professional Documents
Culture Documents
Bai Thảo Luận Cac Phương Phap Nghien Cứu Phan Tich Carbohydrate Lipit Va Nucleic Acid
Bai Thảo Luận Cac Phương Phap Nghien Cứu Phan Tich Carbohydrate Lipit Va Nucleic Acid
MSV: 1153060841
Ông quyết định theo học hóa học ở Đại học Manchester năm 1903, sau khi làm việc
một thời gian trong nhà máy chế tạo linoleum của người cha. Ông đã lấy quyết định này,
mặc dù có sự không đồng tình của cha mẹ.
Sau khi tốt nghiệp cấp thạc sĩ khi học với William Henry Perkin, Jr., ông tiếp tục
học ở Đại học Göttingen với Otto Wallach và đậu bằng tiến sĩ.
Năm 1912 Haworth làm giảng viên ở United College của Đại học St Andrews tại
Scotland và quan tâm tới hóa học carbohydrate (carbohydrate chemistry), do Thomas
Purdie (1843-1916) và James Irvine (1877-1952) nghiên cứu ở đại học St Andrews.
Haworth bắt đầu nghiên cứu trên đường năm 1915 và phát triển một phương pháp mới để
chế tạo các methyl ether của đường, dùng methyl sulfate và alkali (nay gọi là Haworth
methylation). Sau đó ông bắt đầu nghiên cứu về mặt cấu trúc của các disacarit.
Haworth đã tổ chức các phòng thí nghiệm ở đại học St Andrews để sản xuất các hóa
chất và dược phẩm cho chính phủ Anh trong Thế chiến thứ nhất (1914-1918). Ông được
bổ nhiệm làm giáo sư khoa hóa học hữu cơ ở Đại học Durham năm 1920. Ba năm sau,
ông làm giáo sư hóa học ở Đại học Birmingham.
Năm 1934, làm việc chung với Sir Edmund Hirst, một nhà hóa học Anh khác, ông
đã có thể tổng hợp được vitamin C.
Ông phát triển một phương pháp đơn giản để biểu thị trên giấy cấu trúc 3 chiều của
đường. Cách trình bày này, nay gọi là Haworth projection (hình chiếu Haworth), vẫn còn
được sử dụng rộng rãi trong ngành hóa sinh.
2. Phương pháp phân tích:
a. Các phương pháp hóa học:
Phương pháp định lượng đường tổng số hòa tan:
• Được sử dụng rộng rãi để xác định
carbohydrate tổng trong thực phẩm
– Carbohydrate được chuyển thành dạng định lượng
đường tổng sốhòa tan 24 chuyển thành dạng
monosaccharide dưới tác nhân acid và nhiệt độ
– Dạng dehydrate cua Carbohydratee sẽ tạo thành
các dẫn xuất (furan) có thể kết hợp với nhau hoặc
với phenol, orcinol, anthrone...
III. Lipit:
1. Lịch sử nghiên cứu:
Overton (1899) thấy rằng, nếu một chất hòa tan trong dung môi không phân cực thì chất
ấy dễ thấm vào bên trong tế bào. Do đó, màng phải được cấu tạo bởi các phân tử kỵ
nước.
Theo Gorter và Grendel (1925), vì các lipit tạo một lớp đơn phân tử trên mặt trung gian
nước - khí, nên chúng phải được tổ chức thành lớp đôi trong màng. Khi đó, phần có cực
của mỗi lớp đơn hướng về môi trường nước (môi trường ngoài tế bào và môi trường tế
bào chất), phần vô cực xủa hai lớp màng đơn đối diện nhau ở giữa màng.
Theo hai mô hình trên, lipit của màng liên hệ trực tiếp với môi trường ngoài. Tuy nhiên,
sức căng bề mặt của màng rất thấp sp với trung gian lipit/nước. Do đó, Danielli và
Davson (1935) co rằng có một lớp đơn protein hình cầu ngậm nước trên mỗi lớp lipit.
Các protein này tương tác với môi trường nước xung quanh và phần hữu cực của lipit (do
đó làm giảm sức căng bề mặt.
Robertson (1955) đề nghị mô hình lớp đôi lipit với các protein hình sợi đặt lên trên.
Hơn nữa, do tính thấm mạnh của vài phân tử thích nước có kích thước nhỏ (nước,
methanol), nên ông nghĩ tới các ống ưa nước tạo bởi các protein hình sợi xuyên màng.