You are on page 1of 23

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC

TIỂU LUẬN MÔN LỊCH SỬ ĐÔNG NAM Á


ĐỀ TÀI
CUỘC CHIẾN CỦA NHÂN DÂN BANJAR CHỐNG LẠI KẺ THÙ
XÂM LƯỢC - HÀ LAN

Thực hiện: DƯƠNG THỊ NGỌC HUYỀN


MSSV: 1756110061
Giảng viên hướng dẫn: TH.S VĂN KIM HOÀNG HÀ

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2019

1
2
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Thế kỉ XVI, người châu Âu đã tìm đến Đông Nam Á, chính mối lợi của thương
mại là nguyên nhân thúc đẩy họ tới khu vực này trong khi các nhà truyền giáo bám theo
các chuyến tàu với hi vọng truyền bán Thiên chúa giáo.
Đầu tiên là Bồ Đào Nha rồi đến Hà Lan, Tây Ban Nha đã lần người chinh phục
vương quốc Hồi giáo Malacca. Hoạt động thông qua Công ty Đông Ấn Hà Lan, người
Hà Lan lập ra thành phố Batavia (hiện nay là Jakarta) để làm cơ sở thương mại và mở
rộng ra những vùng khác của Java và những vùng lãnh thổ lân cận.
Anh Quốc, dưới hình thức Công ty Đông Ấn Anh, xuất hiện muộn ở khu vực này
so với các nước kia. Khởi đầu từ Penang, người Anh bắt đầu mở rộng đế chế Đông Nam
Á của họ. Họ cũng tạm thời chiếm lấy các vùng đất của người Hà Lan trong thời Các
cuộc chiến tranh Napoleon.
Từ thập kỉ 1850 trở đi, nhịp độ thực dân hoá được đẩy mạnh với tốc độ cao nhất.
Hiện tượng này được gọi là Chủ nghĩa thực dân cũ, với việc các cường quốc thuộc địa
xâm chiếm hầu như toàn bộ lãnh thổ Đông Nam Á. Công ty Đông Ấn của Anh và Công
ty Đông Ấn Hà Lan bị chính phủ của họ chia nhỏ ra, và chính phủ chiếm lấy quyền quản
lý trực tiếp các thuộc địa. Chỉ còn Thái Lan là không bị nước ngoài quản lý, mặc dù,
chính Thái Lan bị ảnh hưởng chính trị của các cường quốc phương Tây.
Trong đó, Indonesia là một trong những quốc gia gánh chịu sự áp bức, bóc lột nặng
nề của thực dân phương Tây với 350 năm thực dân Hà Lan đô hộ. Với tham vọng độc
quyền kinh tế thương mại, chiếm đoạt nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, mở rộng
lãnh thổ,… vào thế kỉ XIX, hầu hết Indonesia đặt dưới ách thống trị của thực dân Hà
Lan. Trong thời gian này, ở khắp nơi trên đất nước Indonesia liên tục diễn ra nhiều cuộc
đấu tranh mạnh mẻ nhằm chống lại cái ác, kẻ thù xâm lược để bảo vệ đất nước. Một
trong số đó phải nhắc đến chính là phong trào đấu tranh chống lại Hà Lan của nhân dân
Banjar đã diễn ra trong vòng nổ ra vào năm 1859 và kết thúc vào năm 1905. Cuộc chiến
diễn ra giữa người dân bản địa ở Nam Kalimantan và quân xâm lược Hà Lan kéo dài
trong 46 năm. Trong quy mô của cuộc chiến 46 năm, đó là một khoảng thời gian rất dài.
Có vô số cái chết trong chiến tranh, cả về phía bản địa và phía Hà Lan.

3
Trong cuộc chiến nhiều chiến binh dũng cảm đã xuất hiện để chiến đấu với những
kẻ chiếm đóng vì tự do của quê hương. Mặc dù nhiều người ngã xuống chiến trường
nhưng tinh thần chiến đấu của họ nên là tấm gương của chúng ta đặc biệt là cho thế hệ
ngày nay.
Với những lí do đó, tác giả quyết định nghiên cứu về một trong những cuộc chiến
tiêu biểu của nhân dân Indonesia ở vùng Nam Kalimantan, nhằm đem lại cái nhìn sâu
sắc về Indonesia trong thời kì cận đại và cũng như những biến đổi trong xã hội khi bị
thực dân Hà Lan đô hộ đó chính là “Cuộc chiến của nhân dân Banjar chống lại kẻ thù
xâm lược - Hà Lan”
2. Mục đích nghiên cứu

Mang đến cái nhìn tổng quan hơn về cuộc đấu tranh chống thực dân Hà Lan của
Indonesia trong thế kỉ XIX, đặc biệt là nhân dân Banjar ở Nam Kalimantan qua diễn
biến trận chiến và những bài học kinh nghiệm rút ra từ trận chiến.
3. Phạm vi nghiên cứu

Nhóm tác giả nghiên cứu tổng quan đất nước Indonesia vào thế kỷ XIX, song tập
trung vào phong trào đấu tranh của nhân dân Banjar chống thực dân Hà Lan trong giai
đoạn từ năm 1859 đến năm 1905.
4. Phương pháp nghiên cứu

Để phân tích, nghiên cứu về đề tài này, tác giả đã dựa trên cơ sở chính của phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đó là phương pháp khoa học lịch sử và phương
pháp Logic. Ngoài ra còn các phương pháp hỗ trợ khác như phân tích, điều tra, phương
pháp tổng hợp đúc kết kinh nghiệm để nghiên cứu đề tài này.
5. Lịch sử nghiên cứu

Với đề tài “Cuộc chiến của nhân dân Banjar chống lại kẻ thù xâm lược - Hà Lan”,
tác giả nghiên cứu hoàn toàn sử dụng tài liệu tiếng Indonesia, đặc biệt là các tài liệu về
các cuộc đấu tranh của nhân dân Banjar chống thực dân Hà Lan trên Internet, tình hình
nhân dân ở Indonesia thế kỉ XIX, những người lãnh đạo và vai trò của họ, nguyên nhân
kết quả trận chiến. Qua các tài liệu tham khảo trên Internet, tác giả nhận thấy có nhiều
tài liệu ghi chép chỉ ở mức độ sơ lược, tóm tắt, có sự lệch về số liệu (ngày tháng diễn ra
trận chiến, số lượng binh lính,…) Do đó, tác giả mong rằng qua đề tài, người đọc dễ

4
dàng có được thông tin bằng ngôn ngữ tiếng Việt, đồng thời có thể cung cấp cho người
đọc thông tin, nội dung đầy đủ và chuẩn xác nhất.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của đề tài “Cuộc chiến của nhân dân Banjar chống lại kẻ thù
xâm lược - Hà Lan” này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn cặn kẽ hơn về quá trình đấu tranh
của nhân dân Banjar ở Indonesia chống lại thực dân phương Tây, mà ở đây là thực dân
Hà Lan, nhóm tác giả hy vọng có thể cung cấp thêm tài liệu tiếng Việt cho người đọc,
giúp người đọc có thêm tài liệu để học tập và nghiên cứu về lịch sử Indonesia thế kỷ
XIX.

5
CHƯƠNG I: TÌNH HÌNH CHUNG VÀ NGUYÊN NHÂN DIỄN RA TRẬN

CHIẾN

1. Tình hình chung ở Indonesia

Đầu thế kỷ XIX, sau khi Công ty Đông Ấn thuộc Vương quốc Anh sụp đổ và Hà
Lan lấy lại được Công ty Đông Ấn thông qua công ước Luân Đôn. Vào ngày 13/8/1814,
Anh phải trao trả lại cho Hà Lan những thuộc địa đã thôn tính từ năm 1803. Từ khi Hà
Lan bắt đầu khôi phuc lại chính quyền thì ở khắp Java nổi dậy lên những cuộc đấu tranh
chống lại Hà Lan. Đầu tiên có Reffles- một vị trung úy làm phó thống đốc Becoonlen,
ông đã cố gắng giữ lại vùng đất Padang khỏi tay Hà Lan. Tiếp theo là phong trào Saparua
1817, phong trào Palembang 1811-1822, phong trào Padri 1821-1837. Nổi trội có cuộc
chiến của hoàng tử Diponengoro. Cuộc chiến này về vấn đề chính quyền Hà Lan quyết
định xây dựng mọt con đường trên vùng đất của ngài, ông cùng với sự ủng hộ của đa số
người dân Trung Java đã chiến đấu từ năm 1825-1830. Cuối cùng là chiến tranh Aceh
từ năm 1873 đến 1904 chấm dứt các phong trào nổi dậy ở thế kỷ XIX.
Java trở thành nguồn thu chính của Hà Lan, bằng cách cúng nạp các hàng hóa do
người dân sản xuất và giá cả lại do Hà Lan quyết định, ngoài ra các loại thuế của Reffles
đưa ra cũng được áp dụng để bóc lột và cưỡng bức lao động ở nơi đây, với giá trị đóng
thuế gần 2/5 giá trị thu hoạch của họ. Ngoài ra có một hệ thống gọi là Taman Paksa hay
Sistem Kultivasi là hệ thống bắt buộc biến Indonesia thành một nơi sản xuất hàng hóa
riêng cho Hà Lan. Với hệ thống này đã dẫn đến thành công về tài chính của Hà Lan
những năm 1830 đến 1870. Hệ thống này đã mở rộng khắp Indobesia như vùng Trung
Java và Đông Java với tiềm năng xuất khẩu đường, Tây Java và Banten trồng cà phê,
Bắc Sumatra trồng thuốc lá, cuối cùng là Riau sản xuất dầu cọ và cao su. Thông qua hệ
thống người dân Indonesia đã được hưởng lợi từ những kỹ thuật canh tác và những giống
cây mới phù hợp với từng vùng miền. Tuy nhiên nó đem lại tác động tiêu cực nhiều hơn,
người dân phải chịu cảnh nghèo đói, bóc lột về thể xác lẫn tinh thần, không chỉ vậy mất
mùa làm không đủ đóng thuế. Đặc biệt nạn đói xảy ra nhiều nơi trên khắp Indonesia
khiến dân số giảm và phải trốn đến nhiều nơi khác để sinh sống khi mà chính quyền
ngày càng lộng hành và chèn ép nhân dân mở rộng đất lao động và giảm tiền lương
khiến cho cuộc sống ngày càng khốn khổ. Cho đến năm 1870 thì hệ thống này bị trỉ trích
và chống đối của nhiều tần lớp trong xã hội khiến nó phải sụp đổ và thay bằng một thời
6
mới. Thời đại được gọi là thời đại tự do khoảng từ năm 1870 đến 1900 nhưng tình trạng
nghèo đói thiếu lương thực bệnh tất vẫn tiếp diễn.
Có thể nói thế kỷ XIX là sự trở lại mạnh mẽ của Hà Lan với sự mở rộng không chỉ
thuộc địa trên đất Indonesia mà còn về thế lực kinh tế trên thế giới. Nhưng với mục đích
đó thì Hà Lan ngăn chặn được sự xâm chiếm của Châu Âu đến vùng đất này. Những
vấn đề dặt ra cho những nhà cách mạng là không chỉ thoát khỏi quyền kiểm soát của Hà
Lan mà còn về vấn đề xã hội bấy giờ. Vì Indonesia không chỉ rộng lớn mà còn có nhiều
đảo nên việc thống nhất là điều vô cùng khó khăn.
2. Nguyên nhân dẫn đến chiến tranh Banjar

Có thể thấy được nguyên nhân của cuộc chiến Banjar xuất phát từ bối cảnh lịch sử
của nó. Để bảo về quyền lực bất hợp pháp của mình bằng cách chiếm giữ ngai vàng từ
hậu duệ của Quốc vương Kuning và mối đe dọa từ hoàng tử Amir với tư cách là người
kế thừa ngôi vàng hợp pháp, Quốc vương Tahmidullah II đã ký thỏa thuận đầu hàng Hà
Lan năm 1817. Các khu vực như Dayak, Sintang, Bakumpai, Tanah Laut, Mundawai,
Kotawaredin, Lanwai, Jalai, Pigatan, Kutai Sand và Beran thuộc quyền sở hữu của Hà
Lan. Dẫn đến hậu quả vùng đất của Banjar ngày càng bị thu hẹp.
Những điều này đã ảnh hưởng trầm trọng đến cuộc sống của người dân cũng như
tầng lớp quý tộc và lãnh đạo của Banjar. Lối sống phương Tây của người Hà Lan đã làm
cho nền kinh tế ngày càng bị suy thoái,thực dân Hà Lan đưa ra nhiều thứ thuế và bắt
buộc người dân phải tuân theo. Dựa trên các thỏa thuận mà Sunan Nato Alam đưa ra để
bảo vệ quyền lực phi pháp của mình, Hà Lan có quyền tham gia và việc cai trị vương
quốc Banjar, sau đó hoàng tử Amir đã bị người Hà Lan bắt và đày đến Sri Lanka.
Do đó, nhân dân Banjar đã nổi dậy kháng cự, chống lại thực dân Hà Lan tàn ác.
Cuộc xung đột với Hà Lan bắt đầu từ khi Hà Lan giành được quyền độc quyền thương
mại ở vương quốc Banjar dựa trên lịch sử VOC, Hà Lan đã can thiệp vào các vấn đề nội
bộ vương quốc Banjar.
a) Nguyên nhân chung
Thứ nhất, Hà Lan chiếm các đồn điền và tiến hành khai thác khoáng sản tràn lan ở
Nam Kalimatan. Với tham vọng trở nên giàu có, thực dân Hà Lan ra sức giành lấy quyền
lực và chiếm lĩnh nguồn tài nguyên thiên nhiên vô giá của người Banjar, nơi có trữ lượng
lớn than đá, kim cương, vàng, mây, gỗ và các loại hương liệu.

7
Thứ hai, Hà Lan can thiệp sâu vào công việc nội bộ vương quốc Banjar, họ đã sử
dụng chiến thuật tiêu diệt những kẻ chống lại mình, Hà Lan đã tham gia vào công việc
chính trị của hoàng gia, họ trực tiếp lên quyết định đối với người thừa kế ngai vàng.
Cũng vào thời gian đó, Hà Lan đã tiếp cận Quốc vương Sulaiman với nhiều hứa hẹn nên
ông đã trao quyền kiểm soát một số khu vực ở Nam Kalimantan cho Hà Lan. Đây cũng
chính là điều kiện thuận lợi để Hà Lan có thể can thiệp sâu hơn vào các vấn đề hoàng
gia.
b) Nguyên nhân đặc biệt
Thứ nhất, thực dân Hà Lan đã can thiệp vào các cuộc bầu cử quốc vương của
vương quốc Banjar. Sau cái chết của quốc vương Muda Abdurrahman, hoàng từ
Hidayatullah là người được phép kế vị theo di chúc, nhưng thay vào đó, Hà Lan lại ủng
hộ hoàng từ Tamdjidillah, người có tính khí thất thường, thích đánh bạc và uống, trong
khi hoàng tử Mitchu Anom được cha mình truyền lại để trở thành thống đốc ở Nam
Kalimantan. Hà Lan đã thông qua đại diện là E.F. Graaf Von đã đưa hoàng tử
Tamdjidillah trở thành người thừa kế ngai vàng và chuyển Mitchu Anom đến Bandung,
Tây Java.
Thứ hai, Hà Lan luôn thổi bùng các cuộc sung đột với mong muốn nắm giữ quyền
lực trong vương quốc Banjar, sự hỗn loạn trong vương quốc Hồi giáo đã làm cho dân
nhân Banjar càng trở nên căm ghét thực dân Hà Lan.
Thứ ba, sự độc quyền của Hà Lan đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên của Banjar
cũng như việc áp đặt nhiều loại thuế cao đã làm cho nhân dân Banjar ngày càng trở nên
căm phẫn, cuộc sống của họ ngày càng trở nên khó khăn. Từ thế kỷ 17, sự độc quyền đã
gây bất lợi cho người dân. Hơn nữa, điều kiện kinh tế cũng tạo thành bối cảnh lịch sử
của cuộc chiến Kamang ở Tây Sumatra trong lịch sử của cuộc chiến Banten.

8
CHƯƠNG II: NHỮNG NGƯỜI LÃNH ĐẠO, DIỄN BIẾN CHIẾN TRANH

BANJAR VÀ KẾT QUẢ

1. Những người lãnh đạo

a) Hoàng tử Hidayatullah
Hoàng tử Hidayatullah sinh năm 1822 ở Nam Kalimantan, là con trai của quốc
vương Muda Abdurrahman và là cháu trai của quốc vương Adam Alwasikibillah. Ngày
9/10/1859 hoàng tử Hidayatullah kế nhiệm quốc vương Adam Alwasikibillah trở thành
quốc vương Banjar.

Hoàng tử Hidayatullah

9
(Nguồn: http://majelisalmunawwarah.blogspot.com/2017/08/pangeran-
hidayatullah-sultan-banjar.html)
Với tư cách là người đứng đầu vương quốc và tổng chỉ tuy cuộc chiến, Hoàng tử
Hidayatullah là người đã nghĩ ra chiến lược chiến tranh rộng khắp từ Nam đến Bắc
Mandala, bao gồm: Martapura, Banua Lima đến Tanah Dusun với lực lượng quân đội
hùng mạnh. Người đã huy động một lực lượng thủy quân lục chiến, bộ binh và một đội
tàu chiến đáng gờm.
Vương quốc Quốc vương Tajmid đã huy động một lực lượng thủy quân lục chiến,
bộ binh và một hạm đội chiến tranh đáng gờm di chuyển đến căn cứ ở Banua Lima và ở
Dusun Land để bắt Hidayatullah. Nếu ai bắt hoặc giết chết Hidayatullah sẽ được trọng
thưởng.
Sau những lần thất bại, Hà Lan đã sử dụng chiến thuật tàn nhẫn hơn chính là bắt
giữ những người thân của quốc vương Hidayatullah làm con tin để yêu cầu đàm phán ở
Martapura để giải hòa.
Sau ba năm rưỡi thất bại, Hà Lan đã sử dụng một chiến thuật tàn nhẫn và cực kỳ
bất lương bằng cách bắt các bà mẹ con tin, vợ và anh em để buộc các cuộc đàm phán ở
Martapura vì lý do hòa bình. Trên đường đi, anh ta bị phục kích và vội vã tới Banjar, và
đội quân của Hidayatullah đã bị đày đến Cianjur – Tây Java
Vào ngày 2 tháng 11 năm 1904, ông qua đời trong hòa bình và yên tĩnh. Được biết
đến với như một học giả vĩ đại, ông giải thích việc lưu vong của mình bằng cách tích
cực thuyết giáo và tương tác Hồi giáo với cộng đồng Cianjur.
b) Hoàng tử Antasari
Hoàng tử Antasari sinh năm 1797 tại vương quốc Banjar, Nam Kalimantan. Từ
nhỏ đã quen với cuộc sống ngoài xã hội, chứng kiến sự hỗn loạn của Banjar vì sự can
thiệp của Hà Lan trong vương quốc ngày càng nghiêm trọng. Người Hà Lan đã can thiệp
vào chính phủ của Vương quốc Banjar bằng cách bổ nhiệm quốc vương Tajmid trở thành
người nắm giữ ngai vàng của Vương quốc Banjar, mặc dù người xứng đáng với ngai
vàng là Quốc vương Hidayatullah. Quốc vương Tajmid không được lòng người dân vì
ông có mối quan hệ thân thiết với Hà Lan. Sau khi có sự can thiệp của quyền lực, Hà
Lan đã làm suy yếu vương quốc Banjar bằng những cuộc chiến tranh xung đột, nhận
thấy được tình hình, hoàng tử Antasari đã đứng ra bảo vệ quyền lợi của quốc vương
Hidayatullah và liên kết thủ lĩnh các bộ lạc ở thượng nguồn quyết tâm trục xuất Hà Lan.
10
Hoàng tử Antasari
(Nguồn:https://www.infobiografi.com/biografi-dan-profil-lengkap-pangeran-
antasari/)
Cuộc kháng chiến đầu tiêu của người tấn công Hà Lan là các mỏ than ở khu vực
Pengaron (Banjar). Với tinh thần chiến đấu mạnh mẻ, đội quân của người đã áp đảo
được Hà Lan, thực dân Hà Lan đã có ý định thuyết phục nhưng người vẫn tiếp tục chiến
đấu. Hoàng tử Antasari được người dân bổ nhiệm làm lãnh chúa và người lãnh đạo tôn
giáo khi người tuyến bố: “Sống vì Chúa và chết vì Chúa!” Vào thời điểm đó, hoàng tử
Antasari trở thành người lãnh đạo trong cuộc đấu tranh của người dân ở khu vực Banjar.
Cuộc đời hoàng tử Antasari có ý nghĩa to lớn trong cuộc đấu tranh chống ách áp
bức của Hà Lan và cuộc sống, sự phát triển xã hội Banjar. Ngày 11/10/1962 hoàng tử
Antasari đã qua đời tại Trung Kalimantan vì bệnh thủy đậu.

11
c) Kyai Demeng Leman
Kyai Demeng Leman sinh năm 1832 với tên Idies, là tổng tư lệnh của Vương quốc
Banjar trong thời đại của quốc vương Hidyatullah, niềm tự hào của người dân Banjar và
Nam Kalimantan. Ban đầu được biết đến như một phụ tá của hoàng tử Hidayatullah, sau
được bổ nhiệm làm người đứng đầu Riam Kanan, là người nắm giữ di sản hoàng gia
Banjar, Keris Singkir và một ngọn giáo tên là Kalibelah từ Sumbawa.

Kyai Demeng Leman


(Nguồn: https://ceritaparawali.wordpress.com/2016/05/18/mujahid-kalimantan-
yang-paling-ditakuti-penjajah-belanda-kyai-demang-lehman/)

12
Trong cuộc kháng chiến của nhân dân Banjar chống lại Hà Lan bùng lên tại các
khu vực dưới sự lãnh đạo của Hoàng tử Antasari, Kyai Demeng Leman đã huy động
3.000 quân và xâm chiếm các vị trí của Hà Lan. Các đồn bốt Hà Lan tại Martapura và
Pengaron đã bị lực lượng Antasri tấn công vào ngày 28/4/1859. Khi hoàng tử Antasari
bao vây pháo đài Hà Lan tại Pengaron, Kyai Demeng Leman với lực lượng của mình di
chuyển xung quanh Riam Kiwa và đe dọa pháo đài Hà Lan tại Pengaron. Cùng với tàu
Hajj Nasrun 30/6/1859, lính gác của Demang Leman đã xông vào đồn Hà Lan trong
cung điện Martapura. Vào tháng 8/1859 cùng với Haj Buyasin và Kiai Langlang, Kyai
Demeng Leman đã thành công trong việc chiếm giữ pháo đài Hà Lan tại Tabanio.
Vào ngày 27/9/1859, một trận chiến đã diễn ra tại pháo đài Núi Lawak được duy
trì bởi Demang Leman và đồng đội. Trong trận chiến này, sức mạnh của lực lượng của
Demang Leman nhỏ hơn quân địch nên Demang Leman buộc phải rút lui, điều này đã
làm suy yếu tinh thần của nhiều binh lính.
Sau khi bị bắt tại khu vực Tanah Bumbu, ngày 27/2/1864, Demang Lehman phải
đối mặt với án tử hình ở giữa thị trấn Martapura. Sau khi bị treo cổ chết, Kyai Demeng
Leman bị phân thay một cách vô cùng tàn nhẫn, ông đã qua đời khi 32 tuổi.
2. Diễn biến chiến tranh Banjar

a) Cuộc kháng chiến tấn công 1859 - 1863


Cuộc kháng chiến chống Hà Lan nổ ra dưới sự lãnh đạo của hoàng tử Antasani với
lực lượng gồm hơn 3.000 người tại nhiều khu vực của Hà Lan. Ngày 28/4/2859, Hoàng
tử Antasari đã lãnh đạo đội quân tấn công các đồn bốt Hà Lan ở Martapura và Pangaron.
Bên cạnh đó, đội quân của hoàng tử cũng tấn công quân đội Hà Lan ở bất cứ đâu họ bắt
gặp. Vào thời điểm hoàng tử Antasari bao vây pháo đài của Hà Lan ở Pengaron, Kyai
Demang Leman cùng đội quân của mình tiến đến xung quanh khu vực Riam Kiwwa và
đe dọa tấn công pháo đài Hà lan tại Pengaron. Sau đó, cùng với Haji Nasrun, vào ngày
30/06/1859, đã lãnh đạo đội quân tấn công quân đội Hà Lan tại cung điện Martapura.
Tháng 8/1859, Kyan Demang Lemann cùng với Haji Buyasin và Kyai Langlang đã
chiếm được pháo đài Hà Lan tại Tabanio.
Ngày 27/9/1859, Kyai Demang Leman lãnh đạo đội quân của mình tấn công pháo
đài Guning Lawak, không ngờ rằng lực lượng quân địch quá lớn mạnh so với đội quân
của mình nên Kyai Demang Leman đã chịu thua. Dân nhân Banjar liên tiếp tổ chức các

13
cuộc tấn công du kích, trong khi đó Hà Lan đã chiếm giữ pháo đài trong một khoảng
thời gian dài và liên tục phá hủy cung diện rồi nỏ đi. Khi biết được quân đội Hà Lan rời
khỏi pháo đài, đội quân của Kyai Demang Leman đã lên kế hoạch tấn công.
Ngay lúc đó, Tumenggung Surapati đã cam kết hỗ trợ Hà Lan bắt hoàng tử
Antasari. Nhưng ngay sau khi cuộc đàm phán kết thúc trên con tàu Onrust tháng
12/1859, ông cùng đồng đội của mình trở mặt tấn công đội lính Hà Lan trên tàu và thu
giữ toàn bộ của họ rồi đánh chìm con tàu. Tháng 2/1860, Hà Lan đã tiến hành tấn công
pháo đài của Tunmenggung Surapati tại Lambang, buộc Tumenggung Surapati phải rời
khỏi pháo đài.
Tumenggung Jalil tổ chức một trận đấu ở Amuntai. dưới sự giúp đỡ của công tước
Danureja, Hà Lan đã đánh bại Tumenggung và trở thành người đứng đầu Benua Lima.
Người Hà Lan đã mua chuộc các quan chức hoàng gia để ủng hộ sự kháng cự. Sau đó,
Hoàng tử Hidayatullah chính thức ủng hộ phía người dân nên người đã bị tước chức
thống đốc mà trước đó Hà Lan đã giao cho. Ngày 7/3/1860, Hà Lan đã gửi một bức thư
yêu cầu đầu hàng trong vòng 12 ngày nhưng hoàng từ Hidayatullah nhất quyết từ chối.
Do đó, người bị xem như kẻ chống đối thực dân Hà Lan. Ngày 11/6/1860, với sự thiếu
vắng người cầm đầu chính phủ Đông Ấn Hà Lan đã đơn phương bãi bỏ vương quốc
Banjar, khu vực ngày đặt dưới quyền của chính phủ Đông Ấn Hà Lan. Ngoài sự xuất
hiện các cuộc kháng chiến trong khu vực Banjar, một số cuộc kháng chiến khác cũng
được diễn ra ở khắp mọi nơi như Hulu Sungai, Tanah Laut, Barito, và Kapuas Kahayan.
Những nơi như Tembarang, Muning, Amawang, Gadung và Barabai được xây dựng làm
trung tâm kháng chiến của Hulu Sungai, trong khi ở khu vực Tanah Laut, các trung tâm
kháng chiến nằm trong số những nơi khác ở Riam Kiwa, Riam Kanan và Tabanio.
Với sự kháng cự rộng rãi của người dân, chính phủ Đông Ấn Hà Lan ở Banjar gặp
khó khăn. Tuy nhiên, ảnh hưởng của sự kháng cự trong nhân dân đã bị giảm đáng kể.
Những người đứng đầu khu vực và các giáo sĩ đã được trao một cơ quan quản lý, nhằm
thể hiện lòng trung thành với chính phủ Hà Lan và để tố cáo các tầng lớp kháng chiến
nhưng sau cùng nhận được mối đe dọa nghiêm trọng và tẩu thoát rồi tham gia vào các
cuộc chiến đấu. Trong lúc đó, hoàng tử Hidayatullah cùng đội quân của mình đã di
chuyển từ khu vực này sang khu vực khác

14
Ngày 16/6/1860, hoàng tử Hidayatullah đã tổ chức trận chiếm ở Ambawang trong
vòng một tuần nhưng sau đó phải dừng lại vì vũ khí của Hà Lan quá mạnh, cuối cùng
đội quân của người đã di chuyển đến Bangkal Wang.
Ngày 2/7, đội quân của hoàng tử Hidayatullah đã bị quân đội Hà Lan tấn công.
Những người lính trong đội quân của hoàng tử Hidayatullah chủ yếu là những người
nông dân từ đồn điền ở Martapura. Đối mặt trước sức mạnh về vũ khí hiện đại và lực
lượng đông đảo của Hà Lan, của hoàng tử Hidayatullah buộc phải chấp nhận thua cuộc
Ngày 10/7, quân đội của Hoàng tử Hidayatullah chuyển đến một nơi khác sau khi
nhận những đòn nặng nề từ quân đội Hà Lan. Trong khi ở các khu vực khác, lực lượng
của Hoàng tử Antasari vẫn đang tích cực thực hiện các cuộc tấn công vào các vị trí của
Hà Lan. Đầu tháng 8/1860, quân đội của Antasari đã ở Ringkau Katan và vào ngày 9/8,
các cuộc đụng độ vũ trang với quân đội Hà Lan.
Với lực lượng quân đội lớn được trang bị vũ khí hiện đại của quân đội Hà Lan gồm
225 binh lính được trang bị súng trường với vũ khí và được củng cố bởi 125 lính khác
và 10 khẩu súng thần công, hoàng từ Hidayatullah buộc phải rút khỏi Ringkau Katan.
Thất bại của hoàng tử Antasari chủ yếu là do sự xuất hiện của quân tiếp viện Hà Lan đã
chuyển từ Amuntai qua Awang đến Ringkau Katan. Tại Tameang Layang, Hà Lan đã
thiết lập khu căn cứ nhằm ngăn quân của hoàng tử Antasari tái xâm nhập Ringkau Ratan.
Việc di chuyển nhanh chóng của quân đội hoàng tử Hidayatullah từ khu vực này sang
khu vực khác làm cho quân đội Hà Lan gặp khó khăn trong quá trình bắt giữ hoàng tử.
Quân đội của hoàng tử Hidayatullah trên núi Mandela. Hà Lan mang theo một đội quân
gồm 140 người từ bãi biển Ambawang được trang bị lưỡi lê tấn công núi Mandela. Tuy
nhiên, quân đội Hà Lan đã không tìm thấy hoàng tử bởi vì quân đội của hoàng tử
Hidayatullah đã rời núi Mandela về phía Haroman. Hoàng tử Hidayatullah bị đe dọa
rằng Hidayatullah vẫn sẽ bị coi là một kẻ phản nghịch và sẽ bị áp bức nếu anh ta không
đầu hàng.
Ngày 2/10/1861, Kyai Demeng Leman đã đầu hàng Hà Lan, điều này dã làm cho
trận chiến trở nên suy yếu. Nguyên nhân chính dẫn đến sự đầu hàng chính là sự thiếu
lương thực. Nhưng vụ bắt giữ hoàng tử Hidayatullah đã gây ra sự phẫn nộ đối với Kyai
Demang Leman. Yêu cầu hủy bỏ lưu vong sang Java của Kyai Demang Leman và người
dân không nhận được sự chú ý từ người Hà Lan. Kyai Demang Leman bất lực và chạy
trốn khỏi thực dân Hà Lan và sau đó tiếp tục kháng chiến. Trong khi đó, Hoàng tử
15
Antasari ngày càng trở nên tích cực trong chiến đấu, đặc biệt là sau khi nghe tin tức về
người anh em họ của mình là hoàng tử Hidayatullah, bị đày đến Java.
Với kinh nghiệm chiến đấu của mình, hoàng tử Antasari đã được bầu làm chỉ huy
cuộc kháng chiến bảo vệ pháo đài Tundakan vào ngày 24/9/1861 và nhận được nhiều sự
giúp đỡ, cụ thể là Hoàng tử Miradipa và Tumenggung Mancanegara. Hơn nữa, người
cùng với Gusti Umar và Tumenggung Surapati chiến đấu để vào vệ pháo đài ở núi
Tongka vào ngày 8/11/1861
Để củng cố vị trí lãnh đạo cao nhất của mình, Hoàng tử Antasari đã hô vang khẩu
hiệu "Sống vì Chúa và chết vì Chúa". Vào ngày 14/3/1862, người dân đã bổ nhiệm
Hoàng tử Antasari làm lãnh đạo tôn giáo cao nhất với tước hiệu Panembahan Amiruddin
Khalifatul, điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự lãnh đạo của hoàng tử Antasari. Người
tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến chống lại người Hà Lan. Lịch sử của chiến tranh
Banjar đang đi đến hồi kết và sự thất bại của Vương quốc Banjar đang dần trở nên rõ
ràng. Quân đội Hà Lan đã cung cấp nhiều nguồn cung cấp và quân tiếp viện từ Batavia.
Do áp lực liên tục, Hoàng tử Antasari chuyển trụ sở chỉ huy trên sông Teweh. Từ đó,
Hoàng tử Antasari được hai người con trai của ông là Gusti Muhammad Said và Gusti
Muhammad Seman giúp đỡ. Và cũng được hỗ trợ bởi Kiai Demang Lehman và
Tumenggung Surapati. Nhưng vài ngày sau, 11/10/1862 Hoàng tử Antasari qua đời và
được chôn cất tại Hulu Teweh. Kyai Demang Leman tiếp tục tổ chức kháng chiến du
kích quanh Martapura. Aminullah tập trung hoạt động của mình ở biên giới Pasir, trong
khi hoàng tử Mitchu Anum tổ chức đánh du kích ở khu vực Amandit và khu vực xung
quanh Khayahan Atas đã gây áp lực nặng nề cho Hà Lan.
Người Hà Lan nhận ra rằng sức mạnh của sự kháng cự nằm ở những người lãnh
đạo. Do đó, các nhà lãnh đạo Banjar luôn bị tìm cách giết hại những nhà lãnh đạo của
nhân dân Banjar, họ ra sức bắt giữ Demang Leman. Với sự giúp đỡ của tù trưởng người
Java, Kyai Demang Leman và đồng đội của ông là Tumenggung Aria Pati Hà Lan đã
bắt được hoàng tử Syarif Hamid và hoàng tử Syarif Hamid Hamid và biến họ thành công
cụ để bắt Kyai Demang Leman và được hứa rằng người tù trưởng đó sẽ trở thành một
vị vua ở Batu.
Kyai Demang Leman cuối cùng đã bị bắt và vào ngày 17/2/1864, và bị đưa đến
Martapura để thi hành án treo cổ. Với sự bắt giữ và cái chết của Kyai Demang Leman,
chiến binh đã mất đi một trong những thủ lĩnh dũng cảm
16
b) Kháng chiến phòng thủ 1863-1905
Kháng chiến tiếp tục diễn ra dưới sự lãnh đạo của trai của hoàng tử Antasari, Gusti
Muhammad Said và Gusti Muhammad Seman. Ngày 26/1/1866, khi đang cố gắng trốn
khỏi Tanah Laut để đến Tanah Dusun thì Haji Buyasin – người đã cùng hổ trợ hoàng tử
Antasari trong các trận chiến chống Hà Lan, đã bị Hà Lan bắn chết. Sau đó, với tư cách
là người kế thừa cuộc kháng chiến Gusti Madsaid, hoàng tử Mas Natawijaya,
Tumenggug Surapati, Tumenggung Naro và Panghulu Rasyid đã tiến hành kháng chiến
với Đông Ấn Hà Lan ở biên giới giữa Amuntai, Kulua và Rantau. Các cuộc kháng chiến
này diễn ra ở nhiều vùng khác nhau nhưng không mạnh bằng các cuộc kháng chiến của
hoàng tử Antasari, nhưng nó cũng góp phần cản trở Hà Lan mở rộng lãnh thổ. Chính
phủ Đông Ấn Hà Lan đã lên kế hoạch tống con trai của hoàng tử Antasari đến khu vực
Dusun Atas để chúng có thể bình định. Nhưng trên thực tế khi đến khu vực Dusun Atas
con trai hoàng tử Antasari tiếp tục chuẩn bị thực hiện trận chiến tiếp theo. Ngày
25/0/1864, Tumenggung Surapati đã lãnh đạo đội quân tấn công pháo đài Hà Lan tại
Muara Teweh và giết chết 2 tên lính gác. Do đó, tháng 3 năm 1865, tại Muara Teweh đã
tăng số lượng binh lính canh giữ thành 4 sĩ quan, Tumenggung Surapati
Tumenggung Surapati đã cố gắng tấn công pháo đài tại Muara Teweh vào cuối
năm 1865, nhưng vì lực lượng phòng thủ của Hà Lan quá lớn, do đó nỗ lực của ông đã
không thành công. Sau đó, ông di chuyển với đội quân của mình về phía sông Kawatan.
Trong khi đó, vào ngày 1/11/1865, một đội quân Hà Lan đã hành quân đến Kuala Baru
để quyết định tuyến đường dẫn đến khu vực của máy bay chiến đấu tại Kawatan. Các
đội quân Hà Lan khác vào ngày hôm sau đã tìm cách đến gần Kawatan. Đội quân của
Surapati ở pháo đài Kawatan đã nổ súng với đại bác vào những chiếc thuyền Hà Lan
đang cố gắng tiếp cận pháo đài. Trong trận chiến này đội quân của Surapati đã thua trận
và hao tổn rất nhiều. Trong khi đó, các cuộc kháng chiến ở các khu vực khác, như cuộc
chiến của Demang Wang Khang bị ảnh hưởng, tại Marabahan, ông đã đồng ý với
Tumenggung Surapati tấn công thủ đô Banjar. Vào ngày 25/11/1870, Demang Wang
Khang cùng 500 tín đồ rời Marabahan để đến Banjarn. Trận chiến diễn ra bên trong
thành phố, nhưng vì sức mạnh của Hà Lan khá lớn, Demang Wang Khang đã rút quân
ra ngoài thành phố.
Demang Wang Khang và những người theo ông đã không trở về vị trí phòng thủ
ban đầu của họ ở Marabahan, mà đến sông Durrakhman. Không lâu ở đó, vào cuối tháng
17
12/1870 Hà Lan đã có thêm một lực lượng quân đội lớn mạnh, bao gồm 150 binh sĩ và
8 sĩ quan. Quân đội Hà Lan đã nhận được thêm quân tiếp viện từ quân đội Surabaya và
Dayak dưới quyền Suto Ono.
Trước khi đến Durrakhman, quân đội Hà Lan đã đến nơi phòng thủ ban đầu của
Demang Wang Khang là Marabahan, nhưng nó trống rỗng. Pháo đài Demang Wang
Khang ở Durrakhman bị lực lượng chính phủ Đông Ấn Hà Lan tiếp cận. Một trận chiến
xảy ra sau đó và Demang Wang Khang đã chết. Gusti Matseman vào cuối tháng 8/1883
hoạt động ở khu vực Dusun Hulu. Ông và quân đội của mình sau đó chuyển đến Telok
Mayang và liên tục tấn công các vị trí của Hà Lan tại Muara Teweh. Trong khi đó,
Pangeran Perbatasari, con rể của Gusti Matseman đã tổ chức một cuộc kháng chiến
chống lại người Hà Lan ở Pahu, khu vực Kutai. Năm 1885, ông thất bại và bị bắt.
Cuộc kháng chiến Tumenggung Gamar tại Lok Tunggul đã không thành công, vì
vậy ông và quân đội của mình buộc rút lui Tanah Bumbu. Ngay tại nơi này trận chiến
lại xảy ra, cuối cùng Tumenggung Gamar đã bị giết năm 1886. Gusti Matseman tiếp tục
kháng chiến ở khu vực Thượng Kahaya. Gusti Matseman đã cố gắng xây dựng một pháo
đài ở hạ lưu sông Teweh. Trước nỗ lực này Hà Lan củng cố vị trí của họ tại Kahayan
bằng cách bổ sung thêm quân mới và thiết lập lại một vị trí khẩn cấp ở Tuyun. Vào tháng
9/1886, các lực lượng của Gusti Matseman đã cố gắng cắt đứt quan hệ giữa hai đồn Hà
Lan, trong khi đó thành trì của các chiến binh ở Teweh được củng cố thêm nhờ sự xuất
hiện của quân viện trợ và lương thực được vận chuyển trong rừng. Nhưng mặt khác, đồn
Matseman gặp nguy hiểm, ở phía bắc và phía nam của pháo đài đã xuất hiện những trại
mới của Hà Lan cố gắng ngăn chặn sự xâm nhập của thực phẩm vào pháo đài.
Tình hình xung quanh lâu đài Matseman ngày càng nguy kịch và bị quân đội Hà
Lan tấn công. Trong trận chiến, lực lượng của Gusti Matseman buộc phải trốn thoát và
pháo đài rơi vào tay Hà Lan. Gusti Matseman tiếp tục chiến đấu bất chấp đồng đội của
ông là Gusti Acil, Gusti Arsat, Antung Durrakhman đãđầu hàng chính phủ Đông Ấn
Hà Lan. Và cuối cùng đã chết trong trận chiến năm 1905. Với sự đầu hàng và cái chết
của các nhà lãnh đạo chiến tranh, cuộc kháng chiến của người Banjar chống lại người
Hà Lan đã dừng lại ngay lập tức với cái chết của Gusti Matseman.

18
3. Kết quả trận chiến

Điều đầu tiên chúng ta có thể thấy là sự giải thể của vương quốc Banjar. Cuộc
kháng chiến được thực hiện bởi vương quốc Banjar và nhận được nhiều sự ung hộ từ
các bộ tộc khác ở vùng Kalimantan nhưng dường như không đủ sức mạnh để cạnh tranh
với cường quốc Hà Lan, lực lượng đông đảo cùng vũ khí chiến đấu hiện đại. Lúc bấy
giờ Banjar chủ yếu sử dụng vũ khí truyền thống, lực lượng phòng thủ còn nhiều yếu
kém môi trường xung quanh dễ dàng bị đàm áp bởi quân đội Hà Lan. Ngoài việc bãi bỏ
Vương quốc Banjar, người Hà Lan còn bãi bỏ các chính quyền cấp dưới khỏi vương
quốc. Bằng cách đó, chúng ta có thể chắc chắn rằng người kế vị của vương quốc không
còn nữa. Chính phủ ở khu vực Nam Kalimantan cũng trải qua một khoảng trống quyền
lực, bởi vì trung tâm của khu vực đã bị phá hủy.
Với cuộc chinh phạt của chính quyền trung ương khu vực Nam Kaliman, có thể
nói toàn bộ khu vực Banjar đã rơi vào tay Hà Lan, lúc này Hà Lan dễ dàng có được mọi
thứ ở Nam Kalimantan bao gồm cả việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và độc quyền
thương mại.
Người dân liên tục trải qua nhiều nổi đau khác nhau, cuộc sống bị đàm áp, bóc lột
nặng nề. Hà Lan tự do khai thác ồ ạt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và hương liệu mà
không có bất kì quy tắc ràng buộc nào.
Bên cạnh đó, tại vương quốc Banjar cũng xảy ra nhiều cuộc xung đột chủng tộc
dữ dội, sự thất bại của vương quốc Banjar đã gây ra cảm giác tuyệt vọng cho người dân
Kalimantan. Nhiều người trong số họ đã phải chấp nhận từ bỏ cuộc sống dưới tay Hà
Lan, nhiều người thậm chí phải chạy trốn khỏi quê hương của họ, và họ cảm thấy thận
may mắn nếu thoát khỏi được vùng đất này, vì họ có thể bị giết ngay tại chỗ nếu quân
đội Hà Lan nhận ra họ đang chạy trốn khỏi lãnh thổ của họ.
Hơn nữa hệ thống quan liêu ban đầu được tạo ra bởi chính phủ vương quốc Banjar
đã được thay thế bằng hệ thống quan liêu của chính phủ Hà Lan, chủ yếu chỉ mang lại
lợi ích cho người Hà Lan dễ dàng tiếp cận và khai thác khu vực.

19
CHƯƠNG III: NGUYÊN NHÂN THUA TRẬN VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ

1. Nguyên nhân thua trận

a) Nguyên nhân chủ quan


Vương quốc Banjar đã thật sự mất cảnh giác trước kẻ thù xâm lược, để cho kẻ thù có cơ
hội tiếp cận và mua chuộc những người thân cận, sử dụng thủ đoạn âm mưu tinh xảo
trong trận chiến. Hơn nữa việc mất đi những người lãnh đạo tài giỏi cũng như liên tiếp
bại trận trong các trận chiến đã làm cho quân đội và nhân dân mất phương hướng, thiếu
chiến thuật, không có kinh nghiệm trong tổ chức các trận chiến cũng như suy giảm tinh
thần chiến đấu.
b) Nguyên nhân khách quan
Lúc bấy giờ Hà Lan được xem như cường quốc với lực lượng vũ trang tốt nhất thế
giới như súng trường, đại bác,… cộng thêm đó là lực lượng quân đội hùng mạnh luôn
có lực lượng quân tiếp viện. Trong khi đó đội quân Banjar sử dụng vũ khí chiến đấu
truyền thống, thô sơ, lực lượng quân đội yếu kém, chủ yếu là những người nông dân từ
các đồn điền. Mặc khác thời gian kháng chiến kéo dài đã gây nên tổn thất lớn về người
và của, càng về sau, sức mạnh của Banjar càng giảm xuống rõ rệt.
2. Ý nghĩa lịch sử

Đây là cuộc kháng chiến chống thực dân Hà Lan giành độc lập của nhân dân Banjar
và cũng được xem như cuộc đấu tranh bảo vệ tôn giáo quốc gia. Tuy thất bại, nhưng qua
quá trình chiến đấu ta thấy được tinh thần dũng cảm, đoàn kết đấu tranh gian khổ, sự
kiên trì bền bỉ của nhân dân Banjar nói riêng và của người Indonesia nói chung trước
thực dân Hà Lan lớn mạnh.
3. Bài học kinh nghiệm

Cuộc kháng chiến chống thực dân Hà Lan của nhân dân Banjar đã để lại nhiều bài
học kinh nghiệm quý giá cho quá trình đấu tranh giành độc lập ở Indonesia, cần phải đề
cao cảnh giác trước mọi thế lực, cần phải có người lãnh đạo tài giỏi để dẫn dắt nhân dân
đấu tranh, quan sát tình hình địch kĩ càng, biết người biết ta, tìm ra những điểm yếu của
quân định đê đưa ra những chiến thuật đúng đắn.

20
Hơn nữa, tuy đã bị đánh bại, cuộc chiến tranh Banjar này đã dạy cho chúng ta một
bài học về sự kiên trì của các anh hùng dân tộc, các nhà lãnh đạo Hồi giáo và các học
giả trong việc chiến đấu cho vùng đất của họ. Ngoài Banjar, còn có khá nhiều cuộc đấu
tranh chống quân xâm lược ở một số vùng đã trở thành điểm khởi đầu cho sự phát triển
của chủ nghĩa dân tộc ở Indonesia. Ví dụ như lịch sử của Chiến tranh Kamang và lịch
sử của Chiến tranh Padri. Các tiểu vương khác ở Indonesia cũng chiến đấu với người
Hà Lan, như lịch sử Vương quốc Tidore, lịch sử Vương quốc Samudra Pasai và Vương
quốc Demak cùng với di sản của vương quốc Demak.

21
KẾT LUẬN

Nhìn chung hầu hết các cuộc đấu tranh của nhân dân Indonesia ở thế kỷ XIX – XX
đều nhằm mục đích chống thực dân xâm lược Hà Lan với mưu đồ độc quyền kinh tế,
chiếm đoạt nguồn tài nguyên thiên nhiên, các hương liệu có giá trị cũng như mở rộng
lãnh thổ, tăng cường sức mạnh của mình. Cuộc đấu tranh của nhân dân Banjar chống lại
thực dân Hà Lan 1859 – 1905 diễn ra quyết liệt dưới sự lãnh đạo của các vị tướng giỏi,
với nhiều chiến thuật, tinh thần dũng cảm hi sinh và quyết tâm đấu tranh của toàn thể
nhân dân,… nhưng nhìn chung đều thất bại trước thực dân Hà Lan vì lực lượng quân
đội lớn mạnh, đầu tư vũ khí tối tân hiện đại, sử dụng mưu đồ gian xảo.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Banjar chống thực dân Hà Lan không chỉ là cuộc
chiến đánh đuổi đế quốc xâm lược, giải phóng nhân dân thoát khỏi áp bức bóc lột, giành
độc lập dân tộc. Cuộc chiến này còn là cuộc chiến mang đậm tính chất tôn giáo, cho
thấy niềm tin của người Banjar vào Hồi giáo, sự quyết tâm bảo vệ tôn giáo quốc gia.
Qua quá trình nghiên cứu về phong trào đấu tranh của nhân dân Banjar chống lại
thực dân Hà Lan trong vòng 46 năm (1859-1905) tác giả biết được đây là một trong
những cuộc đấu tranh dài nhất của người Indonesia chống lại thực dân xâm lược. Qua
đó thấy được rằng sự bền bỉ, kiên trì, quyết tâm của nhân dân Banjar từ nông dân đến
học giả, tri thức can đảm đứng dậy đấu tranh giành độc lập. Tuy không đạt được kết quả
như mong đợi nhưng đây cũng là bài học quý giá cho nhân dân Indonesia trong quá trình
đấu tranh giành độc lập dân tộc.

22
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Penyebab perang Banjar melawan Belanda


https://sejarahlengkap.com/indonesia/penyebab-perang-banjarmasin
2. Latar Belakang Perang Banjar (1859-1905)
https://kelasips.co.id/perang-banjar/
3. Biography Pangeran Hidayatullah
http://himapersiscjr.blogspot.com/2012/03/pangeran-hidayatullah.html
4. Biografi Pangeran Antasari
https://www.romadecade.org/biografi-pangeran-antasari/#!
5. Kyai Demang Leman
https://ceritaparawali.wordpress.com/2016/05/18/mujahid-kalimantan-yang-paling-
ditakuti-penjajah-belanda-kyai-demang-lehman/
6. Perang Banjar (1859 -1905)
http://sejarahbudayanusantara.weebly.com/perang-banjar.html
7. Akibat Perang Banjar yang Terjadi di Pulau Kalimantan
https://hukamnas.com/akibat-perang-banjar
8. Sejarah dan budaya Nusantara
http://sejarahbudayanusantara.weebly.com/

23

You might also like