You are on page 1of 12

BÀI THAM KHẢO VỀ TÍNH NGUYÊN HỢP CỦA VHDG

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Văn học dân gian (VHDG) là thành phần ngôn từ trong các sáng tác dân gian mang
tính nguyên hợp của nhân dân. Văn học dân gian bao gồm nhiều thuộc tính và chức
năng khác nhau: tính nguyên hợp, tính đa chức năng, tính truyền miệng, tập thể, vô
danh và dị bản, thực hành… trong đó tính nguyên hợp là một trong những thuộc tính
cơ bản, nổi trội của văn học dân gian.
Ngay từ xa xưa, khi nghiên cứu văn học dân gian, các nhà khoa học đã đặc biệt chú ý
đến thuộc tính nguyên hợp của nó và đã có khá nhiều công trình khoa học đề cập đến
lĩnh vực này. Ngày nay, vai trò của thuộc tính nguyên hợp trong văn học dân gian
được được các nhà khoa học quan tâm nhiều hơn, toàn diện hơn trong cả lĩnh vực sưu
tầm, nghiên cứu và phổ biến văn học dân gian.
B. NỘI DUNG
I. Khái niệm tính nguyên hợp trong tác phẩm văn học dân gian
Tính nguyên hợp trong các tác phẩm văn học dân gian là sự tổng hợp một cách tự
nhiên nhiều thành phần nghệ thuật, chức năng, ý thức… trong một chỉnh thể nghệ
thuật không thể chia cắt. Khi nghiên cứu văn học dân gian, các nhà nghiên cứu, tùy
theo góc độ và cách thức tiếp cận của mình đã đề cập đến thuộc tính nguyên hợp trên
nhiều phương diện khác nhau.
Tác giả V.E. Guxep trong công trình nghiên cứu lí luận Mĩ học folklore (1967), đã xác
định folklore là một loại hình nghệ thuật diễn xướng mang tính nguyên hợp của quần
chúng nhân dân. Theo ông: “folklore nói chung xét về mặt bản chất nghệ thuật, phải
được xem như là một tổng thể các loại hình nghệ thuật nguyên hợp đa thành phần
phức tạp, sử dụng những biện pháp nghệ thuật lĩnh hội trực tiếp vừa bằng thính giác
vừa bằng thị giác trong thời gian diễn xướng”.
Tác giả Đinh Gia Khánh trong cuốn “Văn học dân gian Việt Nam” đã khẳng định:
VHDG là một hình thái ý thức xã hội phức tạp. Tính nguyên hợp về hình thái ý thức
của VHDG có nguồn gốc và là biểu hiện của sự nhận thức nguyên hợp của người
nguyên Thủy. Tính chất nguyên hợp thể hiện ở nhận thức thẩm mĩ, thể hiện ở nội bộ
nghệ thuật nguyên thủy chưa có sự phân hóa rõ rệt và sự phát triển độc lập của các
loại hình nghệ thuật khác nhau. VHDG sinh ra trong xã hội nguyên thủy, thành phần
ngôn từ kết hợp chặt chẽ và hữu cơ với nhiều thành phần nghệ thuật khác nhau: như
âm nhạc, nhảy múa, điệu bộ,… Tùy theo hoàn cảnh mà thành tố này hoặc thành tố
khác nổi bật lên [7;23].
II. Các phương diện biểu hiện tính nguyên hợp của văn học dân gian
1. Nguyên hợp về mặt chức năng
Văn học dân gian là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đa chức năng. Bên cạnh các
chức năng của loại hình nghệ thuật ngôn từ, người dân sáng tác văn học dân gian  chủ
yếu là để phục vụ những sinh hoạt hàng ngày, công việc lao động sản xuất hoặc thực
hành các nghi thức cầu cúng… Malinowski khi nói về chức năng của văn học dân gian
đã nhấn mạnh về chức năng giáo dục, củng cố niềm tin, tín ngưỡng của con người
trong thần thoại: Truyện thần thoại không mang tính giải thích mà có tác dụng như
một thứ đảm bảo, một thứ hiến chương và thậm chí chỉ như một chỉ dẫn thực tế đối
với các huyền bí, lễ lạt, nghi thức và cấu trúc xã hội. Truyện thần thoại trong nền văn
hóa nguyên thủy có một chức năng không thể thiếu: nó biểu đạt, thúc đẩy và mã hóa
niềm tin; nó bảo vệ và nâng cao luân lí; nó bảo đảm cho giá trị của nghi thức và hàm
chứa những quy tắc thực tiễn để hướng dẫn con người…. Ở Đông Phi, người Chaga kể
các truyện yêu tinh ăn thịt người để rèn luyện những đứa trẻ rất bé, còn những bài hát
ru con được hát lên để đem lại cho chúng một trạng thái vui vẻ. Truyện ngụ ngôn để
khắc sâu những thái độ và nguyên tắc chung như tính siêng năng, lòng hiếu thảo của
phận làm con và chế nhạo thói lười nhác, bướng bỉnh hay hợm hĩnh…
Malinowski cũng cho biết về vai trò, chức năng của thần thoại đối với người Jicarilla
trong việc hướng đạo hình thành ở họ, lòng tin của họ và các nghi lễ: Thần thoại đối
với họ là cả một sự tổng kết tri thức làm cơ sở cho hành động. Người mẹ hoặc ông bà
rèn luyện con cháu họ vào khuôn phép theo đúng yêu cầu của thần thoại. Người chủ lễ
cúng tiến hành các nghi thức theo đúng những chỉ dẫn nếu trong thần thoại. Hệ thống
thần thoại của một dân tộc thường chính là hệ thống giáo dục của họ và những đứa trẻ
đang ngồi nghe câu chuyện dân gian vào buổi tối đang hấp thụ những tri thức và suy
nghĩ truyền thống [16;142-145].
Hoàng Tiến Tựu trong cuốn: “Văn học dân gian Việt Nam” đã cho rằng nhân dân sáng
tác và sử dụng văn học dân gian không phải như một loại nghệ thuật chuyên môn cách
biệt với đời sống hàng ngày mà là một công cụ vạn năng (đa chức năng) của đời sống,
giao cho nó tất cả những gì mà nó có thể thực hiện được để đáp ứng nhu cầu mọi mặt
về đời sống. Vì thế, văn học dân gian không phải chỉ là văn học – nghệ thuật mà nó
còn là triết lí. Lịch sử, luân lí, tín ngưỡng, khoa học thường thức… là kho tàng trí
khôn và kinh nghiệm sống của nhân dân về mọi phương diện (chăn nuôi, trồng trọt,
dạy con cái, làm nhà, khí tượng, thiên văn…) [19;11]. Chẳng hạn thần thoại: “Sơn
Tinh Thủy Tinh” không chỉ là nghệ thuật ngôn từ biểu hiện trí tưởng tưởng thẩm mĩ
phong phú, bay bổng, kỳ diệu của người xưa mà nó còn là khoa học nhận thức, giải
thích về hiện tượng lũ lụt xẩy ra hàng năm vào một thời điểm nhất định ở vùng đồng
bằng Bắc bộ hoặc nó ghi lại những nguyên tắc trong phong tục, tập quán hôn nhân của
người Việt cổ, đồng thời nó cũng biểu hiện tín ngưỡng của họ. Sử thi: “Đẻ đất, đẻ
nước” của người Mường bao gồm chức năng thực hành nghi lễ tang ma (được thầy
cúng hát kể trong đám tang); chức năng nhận thức của người Mường cổ về thế giới tự
nhiên, về thủa hồng hoang khai trời, mở đất, nguồn gốc muôn loài; chức năng giáo
dục: là bài học luân lí, nhận thức để giáo dục con cháu về cội nguồn dân tộc; chức
năng thẩm mĩ: là tác phẩm sử thi nổi tiếng với nhiều giá trị nghệ thuật độc đáo…; Đối
với biểu tượng văn học dân gian, tính nguyên hợp thể hiện rõ nét ở tính đa chức năng
của chúng: Chức năng thăm dò hay chính là chức năng nhận thức; chức năng thay thế
hay có thể gọi là chức năng biểu hiện; chức năng trung chuyển, liên kết các yếu tố của
đời sống văn hóa, đặc biệt là mối quan hệ giữa con người với vũ trụ, giữa cái nội tại và
cái siêu nội tại; chức năng giáo dục và trị liệu, điều chỉnh và hoàn thiện nhân cách con
người; chức năng xã hội hóa, tạo ra các đặc trưng của một thời đại, một nền văn hóa,
là cơ sở cho giao lưu thẩm thấu các nền văn hóa; chức năng siêu nghiệm, thiết lập mối
liên thông giữa các năng lực đối kháng trong tinh thần, từ đó vượt lên mở đường cho
sự tiến bộ của ý thức; Chức năng thẩm mĩ – cái đẹp nghệ thuật ngôn từ của biểu tượng
văn học dân gian [11]…
2. Tính nguyên hợp thể hiện ở sự đa thành phần trong một tác phẩm văn học dân
gian
Tác phẩm văn học dân gian không chỉ là phần lời đã được cố định trong các văn bản
mà nó bao gồm nhiều thành phần khác nhau. Chẳng hạn trong các hình thức nghệ
thuật biểu diễn dân gian, múa rối nước là một loại hình nghệ thuật tổng hợp tự nhiên
rất rõ rệt. Loại hình nghệ thuật này tiếp thu và sử dụng linh hoạt, sáng tạo nhiều loại
nghệ thuật thẩm mĩ và dân gian khác nhau: đan, dệt, chạm khắc, vẽ màu, sơn thếp, làm
pháo, kiến trúc, thêu thùa, âm nhạc, nhảy múa, thơ ca, truyện kể…
Tính nguyên hợp của VHDG chẳng những thể hiện ở sự kết hợp nhiều loại phương
tiện và chất liệu nghệ thuật khác nhau: lời, nhạc, vũ… mà còn thể hiện ở sự kết hợp
đan xen nhiều loại hình thái ý thức chưa phân hóa rõ rệt, sâu sắc (ngoài hình thái ý
thức thẩm mĩ còn có nhiều thành tố ý thức khác nhau: tín ngưỡng, tôn giáo, triết lí,
luận lí, khoa học sơ khai…). Sự đan xen giữa các hình thái ý thức thẩm mĩ và các loại
hình thái ý thức khác diễn ra một cách tự nhiên, tự phát, tạo ra sự hài hòa và vẻ đẹp
hồn nhiên, độc đáo đến mức tuyệt vời của những hình tượng nghệ thuật trong tác
phẩm văn học dân gian. Chẳng hạn truyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh” cũng như truyện
“Cóc kiện trời” và truyện “Chú Cuội cung trăng” đều là những sáng tác dân gian mang
tính nguyên hợp rõ nét (vừa là văn học, vừa là khoa học, đồng thời cũng là tín ngưỡng
sùng bái các lực lượng tự nhiên của người Việt Cổ). Chúng vừa phản ánh, vừa lí giải
thể hiện ước mơ, khát vọng chinh phục, chi phối tự nhiên theo sự hiểu biết còn ít ỏi
nhưng rất táo bạo của người Nguyên Thủy, Tất cả những điều đó đã góp phần tạo nên
giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc cho tác phẩm. Hoặc trong bài đồng dao: “Con gà
cục tác lá chanh…” thì tính nguyên hợp thể hiện sự kết hợp hồn nhiên khó tách bạch
giữa cảm xúc thẩm mĩ, sự bông đùa, hài hước và sự tổng kết, truyền đạt tri thức, kinh
nghiệm thực tế một cách độc đáo của các tác giả dân gian.
Tính nguyên hợp trong các tác phẩm văn học dân gian không những được thể hiện ở
sự kết hợp, hòa quyện một cách nhuần nhuyễn giữa các yếu tố thành phần trong một
tác phẩm mà còn được thể hiện trong từng yếu tố. Chẳng hạn chèo là hình thức nghệ
thuật sân khấu dân gian lâu đời và giàu tính dân tộc của người Việt. Tính nguyên hợp
trong chèo được thể hiện nổi bật không chỉ ở sự hòa quyện một cách nhuần nhuyễn
giữa các yếu tố: tích chèo (truyện), diễn viên, người xem, nhạc cụ, đạo cụ, trang phục,
giai điệu, vũ đạo,… mà còn được thể hiện trong từng yếu tố: khán giả của chiếu chèo
vừa là người thưởng thức, đánh giá về vở diễn, vừa có thể là diễn viên tham gia biểu
diễn (Thông qua hình thức tiếng “đế”: lời hỏi, lời đỡ giọng, lời họa theo… của người
xem trong các vở chèo); hoặc nhân vật trong chèo bộc lộ tâm trạng, tính cách qua cả
lời hát, điệu hát và động tác điệu bộ cử chỉ khi hát; thủ pháp gây cười của nhân vật anh
hề được gợi lên từ tên gọi nhân vật (mẹ Đốp, anh Khèo, cu Sứt…), hóa trang – trang
phục (râu vểnh, mặt nhọ, quần ống cao, ống thấp…), điệu đi, dáng đứng (lảo đảo như
say, đi khèo…), lời nói (nói chệch, nói lái…)… hay đến cả chiếc gậy (đạo cụ biểu
diễn) trong vai hề chèo cũng được sử dụng với nhiều chức năng: khi thì được dùng để
múa, khi thì tượng trưng cho cái đòn gánh, khi là cái gậy phòng thân, đánh chó, đuổi
kẻ trộm…
Hoặc trong lĩnh vực biểu tượng văn học dân gian, tính nguyên hợp được thể hiện ở
bản chất sống động, khó xác định; Sự tổng hợp một cách tự nhiên những đặc tính nổi
trội trong một biểu hiện rễ cảm nhận tất cả những ảnh hưởng của vô thức và ý thức
cùng các sức mạnh bản năng và trí tuệ… đang tồn tại bên trong của mỗi con người;
Nó vừa mang tính ổn định, bền vững lại vừa chứa đựng dấu hiệu của sự gẫy vỡ, sự
phát triển, tiếp nối mở rộng, sự đa chiều trong mọi biểu đạt… Chẳng hạn, biểu tượng
nước trong văn học dân gian Thái vừa mang ý nghĩa hủy diệt vừa mang ý nghĩa tái
sinh: Những trận đại hồng thủy là sự hủy diệt kinh hoàng đối với con người và vạn vật
nhưng nó cũng chứa đựng một sự tái sinh mãnh liệt. Nhiều nhà nghiên cứu đã cho
rằng sau nạn hồng thủy, con người bước vào thời mới, văn minh hơn so với trước nạn
hồng thủy. Các truyện dân gian Thái kể rằng: trước nạn hồng thủy con người ăn hang
ở lỗ, ăn tươi nuốt sống, không biết cha, chỉ biết mẹ, sống thành bầy đàn. Sau nạn hồng
thủy, con người đã tìm ra lửa để nấu chín thức ăn, biết làm nhà để và bước đầu hình
thành các tổ chức xã hội….
3. Tính nguyên hợp của văn học dân gian thể hiện trên phương diện thể loại
Không chỉ biểu hiện ở phương diện chức năng, hình thái ý thức, nghệ thuật… tính
nguyên hợp của văn học dân gian còn được biểu hiện khá rõ nét trên phương diện thể
loại. Tìm hiểu các tác phẩm văn học dân gian ta thấy hiện tượng đồng xuất hiện các
yếu tố thi pháp của nhiều loại thể trong một tác phẩm không phải là hiếm, đặc biệt
giữa các loại thể: Sử thi thần thoại với dân ca nghi lễ; thần thoại với truyền thuyết;
truyện cổ tích loài vật với ngụ ngôn; truyện thơ mượn cốt chuyện cổ của dân tộc mình
hoặc các dân tộc khác, thăng hoa trở thành truyện thơ hoặc mượn lời thơ, lời hát trong
ca dao – dân ca để diễn tả tâm trạng nhân vật, hoặc khắc họa bối cảnh nhân vật xuất
hiện… Những tác phẩm dạng này thường khó phân biệt về mặt thể loại. Để xếp loại
chúng, các nhà khoa học thường dựa vào những yếu tố thi pháp nổi trội để quyết định
nó thuộc thể loại nào. Chẳng hạn các tác phẩm: “Sơn Tinh, Thủy Tinh”; “Mo đẻ đất,
đẻ nước”, “Thánh Gióng”… đã gây nhiều tranh cãi giữa các nhà khoa học. Có người
cho “Mo đẻ đất đẻ nước” của người Mường là mo, là dân ca nghi lễ tang ma, do các
thầy mo (thầy cúng) diễn kể trong nghi lễ đưa ma. Nhưng các nhà nghiên cứu văn hóa
dân gian khác lại coi nó là sử thi, một số người còn xác định nó là sử thi thần thoại hay
sử thi cổ sơ để phân biệt nó với sử thi anh hùng hay sử thi cổ điển [19;297].
Hoặc trong nền VHDG truyền thống của các dân tộc Việt Nam có bộ phận truyện thơ.
Các truyện thơ nói chung đều được sáng tác và lưu truyền theo phương thức truyền
miệng nhưng cũng có một số tác phẩm vừa được lưu truyền bằng miệng vừa được ghi
chép thành văn bản (truyện thơ của người Thái, người Tày, Nùng…). Một số nhân vật
trong các truyện đã được tác giả dân gian khắc họa bằng những nét tính cách riêng,
bộc lộ nội tâm sâu sắc. Có nhà nghiên cứu coi truyện thơ là những tác phẩm trung
gian, quá độ (hay gạch nối) giữa VHDG và văn học viết.
4. Tính nguyên hợp của văn học dân gian thể hiện trong quá trình sáng tác và diễn
xướng tác phẩm văn học dân gian
Tính nguyên hợp trong văn học dân gian còn biểu hiện trong quá trình sáng tác và diễn
xướng tác phẩm văn học dân gian. Nếu trong loại hình nghệ thuật hiện đại thì việc
trình diễn một vở kịch trên sân khấu nghệ thuật là kết quả cuối cùng của một sự phối
hợp có ý thức những sáng tạo cá nhân của người viết kịch bản, nhà đạo diễn, các diễn
viên, nhà soạn nhạc, họa sĩ,…nghĩa là của những cá nhân đại diện cho những ngành
nghệ thuật khác nhau, phát triển một cách độc lập. Những quá trình sáng tạo cá nhân
này được phân bố và thực hiện một cách độc lập miễn là cuối cùng sẽ đạt được sự
thống nhất về hiệu quả của các thành phần nghệ thuật khác nhau nhằm đảm bảo tính
thống nhất của sự thể hiện nội dung một vở diễn trên sân khấu. Nói cách khác, mối
quan hệ giữa các thành phần nghệ thuật trong quá trình sáng tác là mối quan hệ phối
hợp có ý thức được thực hiện bằng sự phân công và do đó được thực hiện bởi một
nhóm người nhất định. Hơn nữa có một khoảng cách nhất định giữa quá trình sáng tác
và việc trình diễn tác phẩm. Ngược lại với, văn học dân gian quá trình sáng tác và biểu
diễn nhiều khi hòa vào làm một, bởi tính ứng tác tức thời trong văn học dân gian nên
người nghệ sĩ trong quá trình biểu diễn họ có thể ứng tác theo ý của mình. Nhiều khi
người nghệ sĩ chỉ mượn làn điệu (hoặc công thức truyền thống) để sáng tác lời cho phù
hợp với văn cảnh giao tiếp. Có thể nói ở VHDG, mối quan hệ giữa các thành phần
nghệ thuật trong quá trình sáng tác và diễn xướng là mối quan hệ hữu cơ, tự nhiên,
vốn có; sự tham gia của các thành phần nghệ thuật trong quá trình sáng tác và diễn
xướng thường được thực hiện một cách đồng thời. Nói một cách khác, quá trình sáng
tác và diễn xướng thường nhập làm một, không có một khoảng cách về thời gian nào
[7].
       C. KẾT LUẬN
Như vậy, nguyên hợp là một trong những thuộc tính nổi trội, cơ bản, quan trọng vào
bậc nhất của văn học dân gian. Thuộc tính này có mặt ở hầu hết các phương diện: nội
dung, tư tưởng, chức năng, hình thái ý thức nghệ thuật, sáng tác, biểu diễn, lưu
truyền… của văn học dân gian và ảnh hưởng sâu sắc đến các thuộc tính khác: tập thể,
dị bản, thực hành…., có thể nói nó là dấu hiệu riêng biệt để phân biệt nhận dạng các
tác phẩm văn học dân gian với các tác phẩm văn học hiện đại: truyện ngắn, tiểu
thuyết, ký, thơ mới…
       D. THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Chu Xuân Diên, “Văn học dân gian Việt Nam mấy vấn đề về phương pháp luận và
nghiên cứu thể loại”, NXB Giáo dục, Hà Nội 2001.
2. Nguyễn Văn Dân (2004), “Phương pháp luận nghiên cứu văn học” – Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
3. Cao Huy Đỉnh, “Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam”, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội 1976.
4. Nguyễn Bích Hà, “Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam”, NXB Đại học Sư phạm,
2008.
5. Nguyễn Thị Bích Hà (2003), “Nghiên cứu văn hóa dân gian từ mã văn hóa dân
gian” – Tập bản chuyên đề giảng dạy tại trường ĐH Sư phạm Hà Nội.
6. F. Hê – Ghen (1999), “Mỹ học”, Tập I,II – Nxb Văn học Hà Nội
7. Đinh Gia Khánh (chủ biên), “Văn học dân gian Việt Nam” NXB Giáo Dục, Hà nội
2002
8. E.M.Mêletinsky (2003), “Thi pháp của huyền thoại”, (Người dịch Trần Nho Thìn,
Song Mộc), Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội.
9. Bùi Mạnh Nhị (Chủ biên) (2000), “Văn học dân gian – những công trình nghiên
cứu” – Nxb Giáo Dục, HN. (Tái bản lần I).
10. H. Russel Bernard (2007), “Các phương pháp nghiên cứu trong nhân học – tiếp
cận định lượng và định tính”, (Bản dịch), Nxb Đại học Quốc Gia. TP. Hồ Chí Minh.
11. Jean Chavelier, Alain Gheer brant (1997), “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới” –
Nxb Đà Nẵng – Trường Viết văn Nguyễn Du.
12. “Tuyển tập V.IA.Propp”, Tập II, Nxb Văn hóa Dân tộc, Tạp chí Văn hóa Nghệ
thuật Hà Nội.
13. Lê Trường Phát (1997), “Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu số” –
Luận án tiến sĩ – Trường ĐH Sư Phạm Hà Nội.
14. Lê Trường Phát, “Thi pháp văn học dân gian Việt Nam”, NXB Giáo Dục, Hà Nội
2000.
15. Ngô Đức Thịnh (Tổ chức bản thảo), (2006), “Giá trị và tính đa dạng của Folklore
Châu Á trong quá trình hội nhập”, Hội Folklore Châu Á, Nxb Thế Giới.
16. Ngô Đức Thịnh – Fank Prochan (chủ biên) (2005), “Folklore – Một số công trình
nghiên cứu cơ bản” – Nxb Khoa học xã hội.
17. Ngô Đức Thịnh – Fank Prochan (chủ biên) (2005), “Folklore – Một số thuật ngữ
đương đại” – Nxb Khoa học Xã hội.
18. Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Lạc (1993), “Giáo trình văn học dân gian Việt Nam”
– NXB Giáo dục.
19. Hoàng Tiến Tựu “Văn học dân gian Việt Nam”, NXB Giáo Dục, 2000.
20. Viện Nghiên cứu Văn hóa “Văn hóa dân gian một chặn đường nghiên cứu”, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội 2004).
21. Phạm Thu Yến (Chủ biên) (2002), “Giáo trình văn học dân gian Việt Nam” (Dành
cho ĐH từ xa) – Nxb ĐHSP HN.
(Đặng Thị Oanh – Phòng ĐT-NCKH)
Trang chủ › Bản tin NCKH
Gửi vào: 11:37 29/01/2015
        A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Văn học dân gian (VHDG) là thành phần ngôn từ trong các sáng tác dân gian mang
tính nguyên hợp của nhân dân. Văn học dân gian bao gồm nhiều thuộc tính và chức
năng khác nhau: tính nguyên hợp, tính đa chức năng, tính truyền miệng, tập thể, vô
danh và dị bản, thực hành… trong đó tính nguyên hợp là một trong những thuộc tính
cơ bản, nổi trội của văn học dân gian.
Ngay từ xa xưa, khi nghiên cứu văn học dân gian, các nhà khoa học đã đặc biệt chú ý
đến thuộc tính nguyên hợp của nó và đã có khá nhiều công trình khoa học đề cập đến
lĩnh vực này. Ngày nay, vai trò của thuộc tính nguyên hợp trong văn học dân gian
được được các nhà khoa học quan tâm nhiều hơn, toàn diện hơn trong cả lĩnh vực sưu
tầm, nghiên cứu và phổ biến văn học dân gian.
B. NỘI DUNG
I. Khái niệm tính nguyên hợp trong tác phẩm văn học dân gian
Tính nguyên hợp trong các tác phẩm văn học dân gian là sự tổng hợp một cách tự
nhiên nhiều thành phần nghệ thuật, chức năng, ý thức… trong một chỉnh thể nghệ
thuật không thể chia cắt. Khi nghiên cứu văn học dân gian, các nhà nghiên cứu, tùy
theo góc độ và cách thức tiếp cận của mình đã đề cập đến thuộc tính nguyên hợp trên
nhiều phương diện khác nhau.
Tác giả V.E. Guxep trong công trình nghiên cứu lí luận Mĩ học folklore (1967), đã xác
định folklore là một loại hình nghệ thuật diễn xướng mang tính nguyên hợp của quần
chúng nhân dân. Theo ông: “folklore nói chung xét về mặt bản chất nghệ thuật, phải
được xem như là một tổng thể các loại hình nghệ thuật nguyên hợp đa thành phần
phức tạp, sử dụng những biện pháp nghệ thuật lĩnh hội trực tiếp vừa bằng thính giác
vừa bằng thị giác trong thời gian diễn xướng”.
Tác giả Đinh Gia Khánh trong cuốn “Văn học dân gian Việt Nam” đã khẳng định:
VHDG là một hình thái ý thức xã hội phức tạp. Tính nguyên hợp về hình thái ý thức
của VHDG có nguồn gốc và là biểu hiện của sự nhận thức nguyên hợp của người
nguyên Thủy. Tính chất nguyên hợp thể hiện ở nhận thức thẩm mĩ, thể hiện ở nội bộ
nghệ thuật nguyên thủy chưa có sự phân hóa rõ rệt và sự phát triển độc lập của các
loại hình nghệ thuật khác nhau. VHDG sinh ra trong xã hội nguyên thủy, thành phần
ngôn từ kết hợp chặt chẽ và hữu cơ với nhiều thành phần nghệ thuật khác nhau: như
âm nhạc, nhảy múa, điệu bộ,… Tùy theo hoàn cảnh mà thành tố này hoặc thành tố
khác nổi bật lên [7;23].
II. Các phương diện biểu hiện tính nguyên hợp của văn học dân gian
1. Nguyên hợp về mặt chức năng
Văn học dân gian là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đa chức năng. Bên cạnh các
chức năng của loại hình nghệ thuật ngôn từ, người dân sáng tác văn học dân gian  chủ
yếu là để phục vụ những sinh hoạt hàng ngày, công việc lao động sản xuất hoặc thực
hành các nghi thức cầu cúng… Malinowski khi nói về chức năng của văn học dân gian
đã nhấn mạnh về chức năng giáo dục, củng cố niềm tin, tín ngưỡng của con người
trong thần thoại: Truyện thần thoại không mang tính giải thích mà có tác dụng như
một thứ đảm bảo, một thứ hiến chương và thậm chí chỉ như một chỉ dẫn thực tế đối
với các huyền bí, lễ lạt, nghi thức và cấu trúc xã hội. Truyện thần thoại trong nền văn
hóa nguyên thủy có một chức năng không thể thiếu: nó biểu đạt, thúc đẩy và mã hóa
niềm tin; nó bảo vệ và nâng cao luân lí; nó bảo đảm cho giá trị của nghi thức và hàm
chứa những quy tắc thực tiễn để hướng dẫn con người…. Ở Đông Phi, người Chaga kể
các truyện yêu tinh ăn thịt người để rèn luyện những đứa trẻ rất bé, còn những bài hát
ru con được hát lên để đem lại cho chúng một trạng thái vui vẻ. Truyện ngụ ngôn để
khắc sâu những thái độ và nguyên tắc chung như tính siêng năng, lòng hiếu thảo của
phận làm con và chế nhạo thói lười nhác, bướng bỉnh hay hợm hĩnh…
Malinowski cũng cho biết về vai trò, chức năng của thần thoại đối với người Jicarilla
trong việc hướng đạo hình thành ở họ, lòng tin của họ và các nghi lễ: Thần thoại đối
với họ là cả một sự tổng kết tri thức làm cơ sở cho hành động. Người mẹ hoặc ông bà
rèn luyện con cháu họ vào khuôn phép theo đúng yêu cầu của thần thoại. Người chủ lễ
cúng tiến hành các nghi thức theo đúng những chỉ dẫn nếu trong thần thoại. Hệ thống
thần thoại của một dân tộc thường chính là hệ thống giáo dục của họ và những đứa trẻ
đang ngồi nghe câu chuyện dân gian vào buổi tối đang hấp thụ những tri thức và suy
nghĩ truyền thống [16;142-145].
Hoàng Tiến Tựu trong cuốn: “Văn học dân gian Việt Nam” đã cho rằng nhân dân sáng
tác và sử dụng văn học dân gian không phải như một loại nghệ thuật chuyên môn cách
biệt với đời sống hàng ngày mà là một công cụ vạn năng (đa chức năng) của đời sống,
giao cho nó tất cả những gì mà nó có thể thực hiện được để đáp ứng nhu cầu mọi mặt
về đời sống. Vì thế, văn học dân gian không phải chỉ là văn học – nghệ thuật mà nó
còn là triết lí. Lịch sử, luân lí, tín ngưỡng, khoa học thường thức… là kho tàng trí
khôn và kinh nghiệm sống của nhân dân về mọi phương diện (chăn nuôi, trồng trọt,
dạy con cái, làm nhà, khí tượng, thiên văn…) [19;11]. Chẳng hạn thần thoại: “Sơn
Tinh Thủy Tinh” không chỉ là nghệ thuật ngôn từ biểu hiện trí tưởng tưởng thẩm mĩ
phong phú, bay bổng, kỳ diệu của người xưa mà nó còn là khoa học nhận thức, giải
thích về hiện tượng lũ lụt xẩy ra hàng năm vào một thời điểm nhất định ở vùng đồng
bằng Bắc bộ hoặc nó ghi lại những nguyên tắc trong phong tục, tập quán hôn nhân của
người Việt cổ, đồng thời nó cũng biểu hiện tín ngưỡng của họ. Sử thi: “Đẻ đất, đẻ
nước” của người Mường bao gồm chức năng thực hành nghi lễ tang ma (được thầy
cúng hát kể trong đám tang); chức năng nhận thức của người Mường cổ về thế giới tự
nhiên, về thủa hồng hoang khai trời, mở đất, nguồn gốc muôn loài; chức năng giáo
dục: là bài học luân lí, nhận thức để giáo dục con cháu về cội nguồn dân tộc; chức
năng thẩm mĩ: là tác phẩm sử thi nổi tiếng với nhiều giá trị nghệ thuật độc đáo…; Đối
với biểu tượng văn học dân gian, tính nguyên hợp thể hiện rõ nét ở tính đa chức năng
của chúng: Chức năng thăm dò hay chính là chức năng nhận thức; chức năng thay thế
hay có thể gọi là chức năng biểu hiện; chức năng trung chuyển, liên kết các yếu tố của
đời sống văn hóa, đặc biệt là mối quan hệ giữa con người với vũ trụ, giữa cái nội tại và
cái siêu nội tại; chức năng giáo dục và trị liệu, điều chỉnh và hoàn thiện nhân cách con
người; chức năng xã hội hóa, tạo ra các đặc trưng của một thời đại, một nền văn hóa,
là cơ sở cho giao lưu thẩm thấu các nền văn hóa; chức năng siêu nghiệm, thiết lập mối
liên thông giữa các năng lực đối kháng trong tinh thần, từ đó vượt lên mở đường cho
sự tiến bộ của ý thức; Chức năng thẩm mĩ – cái đẹp nghệ thuật ngôn từ của biểu tượng
văn học dân gian [11]…
2. Tính nguyên hợp thể hiện ở sự đa thành phần trong một tác phẩm văn học dân gian
Tác phẩm văn học dân gian không chỉ là phần lời đã được cố định trong các văn bản
mà nó bao gồm nhiều thành phần khác nhau. Chẳng hạn trong các hình thức nghệ
thuật biểu diễn dân gian, múa rối nước là một loại hình nghệ thuật tổng hợp tự nhiên
rất rõ rệt. Loại hình nghệ thuật này tiếp thu và sử dụng linh hoạt, sáng tạo nhiều loại
nghệ thuật thẩm mĩ và dân gian khác nhau: đan, dệt, chạm khắc, vẽ màu, sơn thếp, làm
pháo, kiến trúc, thêu thùa, âm nhạc, nhảy múa, thơ ca, truyện kể…
Tính nguyên hợp của VHDG chẳng những thể hiện ở sự kết hợp nhiều loại phương
tiện và chất liệu nghệ thuật khác nhau: lời, nhạc, vũ… mà còn thể hiện ở sự kết hợp
đan xen nhiều loại hình thái ý thức chưa phân hóa rõ rệt, sâu sắc (ngoài hình thái ý
thức thẩm mĩ còn có nhiều thành tố ý thức khác nhau: tín ngưỡng, tôn giáo, triết lí,
luận lí, khoa học sơ khai…). Sự đan xen giữa các hình thái ý thức thẩm mĩ và các loại
hình thái ý thức khác diễn ra một cách tự nhiên, tự phát, tạo ra sự hài hòa và vẻ đẹp
hồn nhiên, độc đáo đến mức tuyệt vời của những hình tượng nghệ thuật trong tác
phẩm văn học dân gian. Chẳng hạn truyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh” cũng như truyện
“Cóc kiện trời” và truyện “Chú Cuội cung trăng” đều là những sáng tác dân gian mang
tính nguyên hợp rõ nét (vừa là văn học, vừa là khoa học, đồng thời cũng là tín ngưỡng
sùng bái các lực lượng tự nhiên của người Việt Cổ). Chúng vừa phản ánh, vừa lí giải
thể hiện ước mơ, khát vọng chinh phục, chi phối tự nhiên theo sự hiểu biết còn ít ỏi
nhưng rất táo bạo của người Nguyên Thủy, Tất cả những điều đó đã góp phần tạo nên
giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc cho tác phẩm. Hoặc trong bài đồng dao: “Con gà
cục tác lá chanh…” thì tính nguyên hợp thể hiện sự kết hợp hồn nhiên khó tách bạch
giữa cảm xúc thẩm mĩ, sự bông đùa, hài hước và sự tổng kết, truyền đạt tri thức, kinh
nghiệm thực tế một cách độc đáo của các tác giả dân gian.
Tính nguyên hợp trong các tác phẩm văn học dân gian không những được thể hiện ở
sự kết hợp, hòa quyện một cách nhuần nhuyễn giữa các yếu tố thành phần trong một
tác phẩm mà còn được thể hiện trong từng yếu tố. Chẳng hạn chèo là hình thức nghệ
thuật sân khấu dân gian lâu đời và giàu tính dân tộc của người Việt. Tính nguyên hợp
trong chèo được thể hiện nổi bật không chỉ ở sự hòa quyện một cách nhuần nhuyễn
giữa các yếu tố: tích chèo (truyện), diễn viên, người xem, nhạc cụ, đạo cụ, trang phục,
giai điệu, vũ đạo,… mà còn được thể hiện trong từng yếu tố: khán giả của chiếu chèo
vừa là người thưởng thức, đánh giá về vở diễn, vừa có thể là diễn viên tham gia biểu
diễn (Thông qua hình thức tiếng “đế”: lời hỏi, lời đỡ giọng, lời họa theo… của người
xem trong các vở chèo); hoặc nhân vật trong chèo bộc lộ tâm trạng, tính cách qua cả
lời hát, điệu hát và động tác điệu bộ cử chỉ khi hát; thủ pháp gây cười của nhân vật anh
hề được gợi lên từ tên gọi nhân vật (mẹ Đốp, anh Khèo, cu Sứt…), hóa trang – trang
phục (râu vểnh, mặt nhọ, quần ống cao, ống thấp…), điệu đi, dáng đứng (lảo đảo như
say, đi khèo…), lời nói (nói chệch, nói lái…)… hay đến cả chiếc gậy (đạo cụ biểu
diễn) trong vai hề chèo cũng được sử dụng với nhiều chức năng: khi thì được dùng để
múa, khi thì tượng trưng cho cái đòn gánh, khi là cái gậy phòng thân, đánh chó, đuổi
kẻ trộm…
Hoặc trong lĩnh vực biểu tượng văn học dân gian, tính nguyên hợp được thể hiện ở
bản chất sống động, khó xác định; Sự tổng hợp một cách tự nhiên những đặc tính nổi
trội trong một biểu hiện rễ cảm nhận tất cả những ảnh hưởng của vô thức và ý thức
cùng các sức mạnh bản năng và trí tuệ… đang tồn tại bên trong của mỗi con người;
Nó vừa mang tính ổn định, bền vững lại vừa chứa đựng dấu hiệu của sự gẫy vỡ, sự
phát triển, tiếp nối mở rộng, sự đa chiều trong mọi biểu đạt… Chẳng hạn, biểu tượng
nước trong văn học dân gian Thái vừa mang ý nghĩa hủy diệt vừa mang ý nghĩa tái
sinh: Những trận đại hồng thủy là sự hủy diệt kinh hoàng đối với con người và vạn vật
nhưng nó cũng chứa đựng một sự tái sinh mãnh liệt. Nhiều nhà nghiên cứu đã cho
rằng sau nạn hồng thủy, con người bước vào thời mới, văn minh hơn so với trước nạn
hồng thủy. Các truyện dân gian Thái kể rằng: trước nạn hồng thủy con người ăn hang
ở lỗ, ăn tươi nuốt sống, không biết cha, chỉ biết mẹ, sống thành bầy đàn. Sau nạn hồng
thủy, con người đã tìm ra lửa để nấu chín thức ăn, biết làm nhà để và bước đầu hình
thành các tổ chức xã hội….
3. Tính nguyên hợp của văn học dân gian thể hiện trên phương diện thể loại
Không chỉ biểu hiện ở phương diện chức năng, hình thái ý thức, nghệ thuật… tính
nguyên hợp của văn học dân gian còn được biểu hiện khá rõ nét trên phương diện thể
loại. Tìm hiểu các tác phẩm văn học dân gian ta thấy hiện tượng đồng xuất hiện các
yếu tố thi pháp của nhiều loại thể trong một tác phẩm không phải là hiếm, đặc biệt
giữa các loại thể: Sử thi thần thoại với dân ca nghi lễ; thần thoại với truyền thuyết;
truyện cổ tích loài vật với ngụ ngôn; truyện thơ mượn cốt chuyện cổ của dân tộc mình
hoặc các dân tộc khác, thăng hoa trở thành truyện thơ hoặc mượn lời thơ, lời hát trong
ca dao – dân ca để diễn tả tâm trạng nhân vật, hoặc khắc họa bối cảnh nhân vật xuất
hiện… Những tác phẩm dạng này thường khó phân biệt về mặt thể loại. Để xếp loại
chúng, các nhà khoa học thường dựa vào những yếu tố thi pháp nổi trội để quyết định
nó thuộc thể loại nào. Chẳng hạn các tác phẩm: “Sơn Tinh, Thủy Tinh”; “Mo đẻ đất,
đẻ nước”, “Thánh Gióng”… đã gây nhiều tranh cãi giữa các nhà khoa học. Có người
cho “Mo đẻ đất đẻ nước” của người Mường là mo, là dân ca nghi lễ tang ma, do các
thầy mo (thầy cúng) diễn kể trong nghi lễ đưa ma. Nhưng các nhà nghiên cứu văn hóa
dân gian khác lại coi nó là sử thi, một số người còn xác định nó là sử thi thần thoại hay
sử thi cổ sơ để phân biệt nó với sử thi anh hùng hay sử thi cổ điển [19;297].
Hoặc trong nền VHDG truyền thống của các dân tộc Việt Nam có bộ phận truyện thơ.
Các truyện thơ nói chung đều được sáng tác và lưu truyền theo phương thức truyền
miệng nhưng cũng có một số tác phẩm vừa được lưu truyền bằng miệng vừa được ghi
chép thành văn bản (truyện thơ của người Thái, người Tày, Nùng…). Một số nhân vật
trong các truyện đã được tác giả dân gian khắc họa bằng những nét tính cách riêng,
bộc lộ nội tâm sâu sắc. Có nhà nghiên cứu coi truyện thơ là những tác phẩm trung
gian, quá độ (hay gạch nối) giữa VHDG và văn học viết.
4. Tính nguyên hợp của văn học dân gian thể hiện trong quá trình sáng tác và diễn
xướng tác phẩm văn học dân gian
Tính nguyên hợp trong văn học dân gian còn biểu hiện trong quá trình sáng tác và diễn
xướng tác phẩm văn học dân gian. Nếu trong loại hình nghệ thuật hiện đại thì việc
trình diễn một vở kịch trên sân khấu nghệ thuật là kết quả cuối cùng của một sự phối
hợp có ý thức những sáng tạo cá nhân của người viết kịch bản, nhà đạo diễn, các diễn
viên, nhà soạn nhạc, họa sĩ,…nghĩa là của những cá nhân đại diện cho những ngành
nghệ thuật khác nhau, phát triển một cách độc lập. Những quá trình sáng tạo cá nhân
này được phân bố và thực hiện một cách độc lập miễn là cuối cùng sẽ đạt được sự
thống nhất về hiệu quả của các thành phần nghệ thuật khác nhau nhằm đảm bảo tính
thống nhất của sự thể hiện nội dung một vở diễn trên sân khấu. Nói cách khác, mối
quan hệ giữa các thành phần nghệ thuật trong quá trình sáng tác là mối quan hệ phối
hợp có ý thức được thực hiện bằng sự phân công và do đó được thực hiện bởi một
nhóm người nhất định. Hơn nữa có một khoảng cách nhất định giữa quá trình sáng tác
và việc trình diễn tác phẩm. Ngược lại với, văn học dân gian quá trình sáng tác và biểu
diễn nhiều khi hòa vào làm một, bởi tính ứng tác tức thời trong văn học dân gian nên
người nghệ sĩ trong quá trình biểu diễn họ có thể ứng tác theo ý của mình. Nhiều khi
người nghệ sĩ chỉ mượn làn điệu (hoặc công thức truyền thống) để sáng tác lời cho phù
hợp với văn cảnh giao tiếp. Có thể nói ở VHDG, mối quan hệ giữa các thành phần
nghệ thuật trong quá trình sáng tác và diễn xướng là mối quan hệ hữu cơ, tự nhiên,
vốn có; sự tham gia của các thành phần nghệ thuật trong quá trình sáng tác và diễn
xướng thường được thực hiện một cách đồng thời. Nói một cách khác, quá trình sáng
tác và diễn xướng thường nhập làm một, không có một khoảng cách về thời gian nào
[7].
       C. KẾT LUẬN
Như vậy, nguyên hợp là một trong những thuộc tính nổi trội, cơ bản, quan trọng vào
bậc nhất của văn học dân gian. Thuộc tính này có mặt ở hầu hết các phương diện: nội
dung, tư tưởng, chức năng, hình thái ý thức nghệ thuật, sáng tác, biểu diễn, lưu
truyền… của văn học dân gian và ảnh hưởng sâu sắc đến các thuộc tính khác: tập thể,
dị bản, thực hành…., có thể nói nó là dấu hiệu riêng biệt để phân biệt nhận dạng các
tác phẩm văn học dân gian với các tác phẩm văn học hiện đại: truyện ngắn, tiểu
thuyết, ký, thơ mới…
       D. THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Chu Xuân Diên, “Văn học dân gian Việt Nam mấy vấn đề về phương pháp luận và
nghiên cứu thể loại”, NXB Giáo dục, Hà Nội 2001.
2. Nguyễn Văn Dân (2004), “Phương pháp luận nghiên cứu văn học” – Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
3. Cao Huy Đỉnh, “Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam”, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội 1976.
4. Nguyễn Bích Hà, “Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam”, NXB Đại học Sư phạm,
2008.
5. Nguyễn Thị Bích Hà (2003), “Nghiên cứu văn hóa dân gian từ mã văn hóa dân
gian” – Tập bản chuyên đề giảng dạy tại trường ĐH Sư phạm Hà Nội.
6. F. Hê – Ghen (1999), “Mỹ học”, Tập I,II – Nxb Văn học Hà Nội
7. Đinh Gia Khánh (chủ biên), “Văn học dân gian Việt Nam” NXB Giáo Dục, Hà nội
2002
8. E.M.Mêletinsky (2003), “Thi pháp của huyền thoại”, (Người dịch Trần Nho Thìn,
Song Mộc), Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội.
9. Bùi Mạnh Nhị (Chủ biên) (2000), “Văn học dân gian – những công trình nghiên
cứu” – Nxb Giáo Dục, HN. (Tái bản lần I).
10. H. Russel Bernard (2007), “Các phương pháp nghiên cứu trong nhân học – tiếp
cận định lượng và định tính”, (Bản dịch), Nxb Đại học Quốc Gia. TP. Hồ Chí Minh.
11. Jean Chavelier, Alain Gheer brant (1997), “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới” –
Nxb Đà Nẵng – Trường Viết văn Nguyễn Du.
12. “Tuyển tập V.IA.Propp”, Tập II, Nxb Văn hóa Dân tộc, Tạp chí Văn hóa Nghệ
thuật Hà Nội.
13. Lê Trường Phát (1997), “Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu số” –
Luận án tiến sĩ – Trường ĐH Sư Phạm Hà Nội.
14. Lê Trường Phát, “Thi pháp văn học dân gian Việt Nam”, NXB Giáo Dục, Hà Nội
2000.
15. Ngô Đức Thịnh (Tổ chức bản thảo), (2006), “Giá trị và tính đa dạng của Folklore
Châu Á trong quá trình hội nhập”, Hội Folklore Châu Á, Nxb Thế Giới.
16. Ngô Đức Thịnh – Fank Prochan (chủ biên) (2005), “Folklore – Một số công trình
nghiên cứu cơ bản” – Nxb Khoa học xã hội.
17. Ngô Đức Thịnh – Fank Prochan (chủ biên) (2005), “Folklore – Một số thuật ngữ
đương đại” – Nxb Khoa học Xã hội.
18. Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Lạc (1993), “Giáo trình văn học dân gian Việt Nam”
– NXB Giáo dục.
19. Hoàng Tiến Tựu “Văn học dân gian Việt Nam”, NXB Giáo Dục, 2000.
20. Viện Nghiên cứu Văn hóa “Văn hóa dân gian một chặn đường nghiên cứu”, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội 2004).
21. Phạm Thu Yến (Chủ biên) (2002), “Giáo trình văn học dân gian Việt Nam” (Dành
cho ĐH từ xa) – Nxb ĐHSP HN.

You might also like