You are on page 1of 5

Nguyễn Thị Hồng Hạnh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 59 - 63

HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG SẮN VÀ PHỤ PHẨM TỪ SẮN TRONG CHĂN NUÔI GIA SÚC
NHAI LẠI TẠI VIỆT NAM

Nguyễn Thị Hồng Hạnh và Nguyễn Hưng Quang*


Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT
Hiện nay, cây sắn là một cây trồng đóng vai trò quan trọng ở Việt Nam bên cạnh hệ thống các cây
lương thực như lúa, ngô và khoai lang. Sắn củ khá giầu năng lượng, nên nó là nguyên liệu sử dụng
phổ biến trong chăn nuôi lợn, gia cầm và đại gia súc. Có rất nhiều công trình nghiên cứu đã thực
hiện về việc sử dụng sắn và phụ phẩm từ cây sắn bằng các phương pháp chế biến khác nhau để sử
dụng làm thức ăn cho vật nuôi. Để tận dụng tốt nguồn phụ phẩm công, nông nghiệp cho chăn nuôi
gia súc nhai lại ở nước ta việc nghiên cứu phương pháp chế biến, bảo quản, mức bổ sung, cách
thức bổ sung phù hợp và hiệu quả cần tiếp tục được quan tâm đầu tư. Bã sắn là phụ phẩm của quá
trình sản xuất tinh bột sắn, chiếm khoảng 45% khối lượng sắn nguyên củ. Theo các kết quả đã
nghiên cứu, có thể sử dụng phương pháp ủ chua bã sắn để dự trữ làm thức ăn cho gia súc nhai lại
trong nông hộ. Tuy nhiên, bã sắn có hàm lượng protein thô rất thấp nên khi sử dụng cần bổ sung
nguồn thức ăn giàu protein để cân đối dinh dưỡng và mức bổ sung không nên vượt quá 40% so với
tổng chất khô trong khẩu phần. Phụ phẩm ngọn, lá sắn được coi là nguồn cung cấp protein sẵn có,
rẻ tiền rất tốt cho gia súc nhai lại. Phơi, sấy khô rồi nghiền bột hoặc đem ủ chua là biện pháp bảo
quản phù hợp. Theo các kết quả đã nghiên cứu, sử dụng bột lá sắn cho trâu bò ăn ở mức 1 -
1,5kg/con/ngày sẽ cho hiệu quả vỗ béo tốt.
Từ khóa: cây sắn, chế biến, bã sắn, dinh dưỡng, gia súc.


ĐẶT VẤN ĐỀ gluco, xiro, bánh kẹo, mạch nha, kỹ nghệ chất
Sắn (Manihot esculenta Crantz) hiện được dính (hồ vải, dán gỗ), bún, miến, phụ gia thực
trồng trên 100 nước có khí hậu nhiệt đới và phẩm, phụ gia dược phẩm…. Thân sắn dùng
cận nhiệt đới thuộc ba châu lục: Châu Á, để làm giống, nguyên liệu cho công nghiệp
Châu Phi và Châu Mỹ Latinh. Tổ chức Nông xenlulo (cellulose), làm nấm, làm củi đun….
Lương thế giới (FAO) xếp sắn là cây lương Lá sắn non dùng làm rau xanh giàu đạm, dùng
thực quan trọng ở các nước đang phát triển để nuôi tằm, nuôi cá, bột lá sắn hoặc lá sắn ủ
sau lúa gạo, ngô và lúa mì. chua dùng để nuôi lợn, gà, trâu, bò, dê,….
Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực, thức ăn GIÁ TRỊ CỦA CÂY SẮN
gia súc quan trọng sau lúa và ngô, Theo số Củ sắn và lá sắn là sản phẩm chính từ cây sắn,
liệu thống kê 2010, tổng diện tích sắn cả nước là nguồn dinh dưỡng có giá trị, tỷ lệ vật chất
là 496.200 ha, sản lượng đạt hơn 8,5 triệu tấn. khô 27,7%; Protein thô 0,9%; Lipit thô 0,4%;
Sắn dễ trồng, phù hợp với nhiều loại đất, vốn dẫn xuất không đạm 24,7%; khoáng tổng số
đầu tư thấp, phù hợp với khả năng kinh tế của 0,7%; caxi 0,05%; photpho 0,04% và năng
nhiều hộ gia đình nông dân nghèo, thiếu lao lượng trao đổi (ME) 968 Kcal (Viện Chăn
động. Các sản phẩm từ cây sắn bao gồm củ, nuôi, 2001) [16]. Bột củ sắn là nguồn thức ăn
thân, lá đều được có thể sử dụng được, củ sắn
giàu năng lượng nhưng nghèo protein, tỷ lệ
dùng để chế biến tinh bột sắn, sắn lát phơi
các axit amin không cân đối, nghèo
khô, bột sắn nghiền hoặc dùng để ăn tươi [6].
methionine và tryptophan, các chất khoáng,
Từ sắn củ tươi hoặc từ các sản phẩm sắn sơ
vitamin cũng ít. Một loại phụ phẩm từ củ sắn
chế tạo thành hàng loạt các sản phẩm công
sau khi chế biến là bã sắn, đây là sản phẩm
nghiệp như bột ngọt, rượu cồn, mì ăn liền,
phụ của quá trình sản xuất tinh bột của các

Tel:0985588164 nhà máy chế biến tinh bột sắn, chiếm khoảng

59

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nguyễn Thị Hồng Hạnh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 59 - 63

45% so với khối lượng sắn nguyên củ. Theo giống sắn ngọt có chứa khoảng 20 - 30mg/kg
Bùi Quang Tuấn (2005) [10], trong bã sắn củ tươi; giống sắn đắng chứa 60 - 150 mg/kg
chứa khoảng 8% tinh bột, 15 - 20% xơ thô. củ tươi (Mai Thạch Hoành, 2004) [5]. Theo
Theo Nguyễn Hữu Văn và cs (2008) [15], khi tác giả Phạm Sỹ Tiệp, 1999 [9] lá sắn càng
phân tích hàm lượng các chất trong bã sắn già thì hàm lượng HCN càng thấp, ở những lá
tươi tính theo hàm lượng vật chất khô như non hàm lượng HCN trong cuống lá cao hơn
sau: giá trị protein thô 3,6%, lipit thô 0,3%; trong phiến lá, còn trong lá già thì ngược lại.
năng lượng thô 4198 Kcal/kg. Hàm lượng Hàm lượng HCN ở những phiến lá búp là 330
HCN là 240mg/kg và pH là 4,21. Việc dự trữ - 790 ppm (khối lượng tươi), ở những lá bánh
và bảo quản đồng thời làm giảm hàm lượng tẻ là 340 - 1040 ppm và ở những lá già là 210
HCN trong bã sắn để sử dụng trong chăn nuôi - 730 ppm. Nồng độ HCN trong củ và lá sắn
cần có các biện pháp phù hợp, hiệu quả. có thể được giảm đi đáng kể bằng các phương
Lá sắn được coi là nguồn protein lý tưởng, pháp như bóc vỏ, nấu chín, thái lát ngâm
được sử dụng làm thức ăn giàu đạm cho vật nước, muối dưa lá, phơi khô và ủ chua. Khi
nuôi. Theo kết quả nghiên cứu của các tác giả sử dụng các sản phẩm từ sắn làm thức ăn cho
Nguyễn Văn Thưởng (1993) [11], Từ Quang vật nuôi cần áp dụng các biện pháp chế biến
Hiển (1982) [4] hàm lượng protein thô trong phù hợp để làm giảm hàm lượng độc tố và
vật chất khô của lá sắn tương đối cao, dao bảo quản nguồn thức ăn này được tốt.
động từ 22,6 – 29,9%. Hàm lượng protein CHẾ BIẾN, BẢO QUẢN VÀ SỬ DỤNG
biến động tùy theo giống sắn, tuổi thu hoạch, PHỤ PHẨM TỪ SẮN TRONG CHĂN
độ phì nhiêu của đất trồng và khí hậu vùng NUÔI GIA SÚC NHAI LẠI
canh tác. Theo Hội chăn nuôi (2003) [7] Theo số liệu của thống kê của nước ta, năm
Thành phần hóa học của bột lá sắn như sau: 2009 số lượng đàn bò là 6,1 triệu con, đàn
Vật chất khô 93%; protein thô 16% (16,7 - trâu gần 2,9 triệu con. Định hướng phát triển
39,9%); lipit 5,5% (3,8 - 10,5%); xơ thô 20% đến năm 2020 đàn bò sữa đạt khoảng 500 ngàn
(4,8 - 29%); khoáng tổng số 8,5% (5,7 - con, đang bò thịt đạt khoảng 12,5 triệu con,
12,5%); canxi 1,45%; photpho 0,45%; kẽm đàn trâu ổn định với số lượng khoảng 2,9 triệu
149 mg/kg; mangan 52 mg/kg; sắt 259 mg/kg; con [8]. Để đạt được mục tiêu trên một vấn đề
đồng 12 mg/kg. Trong lá sắn giàu vitamin C cần được quan tâm giải quyết đó là việc đảm
và A, có hàm lượng riboflavin đáng kể, giàu bảo nguồn thức ăn thô xanh cho đàn trâu bò.
lysine nhưng thiếu methionin. Việc thu hoạch, Theo thống kê thì diện tích bãi chăn thả ở
chế biến, bảo quản và sử dụng lá sắn làm nước ta rất hạn chế, năng suất cỏ tự nhiên khá
thức ăn cho gia súc sẽ tận dụng được nguồn thấp (6 - 8 tấn cỏ tươi/ ha/ năm), việc mở rộng
protein khá lớn, góp phần tăng hiệu quả kinh diện tích trồng cỏ gặp nhiều khó khăn, cùng
tế trong cho người nông dân. với đặc điểm thời tiết có mùa khô và mùa
Trong các bộ phận của cây sắn có chứa độc tố đông kéo dài dẫn tới thiếu thức ăn xanh cho
axit xianhydric (HCN) hình thành do thủy trâu bò. Là một nước sản xuất nông nghiệp,
phân xyanogen glucoside (C6H17O6N), chất chúng ta có nguồn phụ phẩm nông nghiệp khá
này gây độc cho cơ thể con người và động vật dồi dào như rơm lúa, thân cây ngô, dây lạc,
nói chung. Tùy theo từng giống sắn, thời gian dây lang, ngọn lá sắn, ngọn lá mía... Theo số
thu hoạch mà hàm lượng HCN chứa trong các liệu thống kê của Cục Chăn nuôi [3] lượng
bộ phận thân, lá và củ sắn sẽ khác nhau. Hàm phụ phẩm nông nghiệp ước tính hàng năm có
lượng HCN trong củ sắn nhiều hơn trong lá khoảng 40 triệu tấn, trong đó rơm khoảng
sắn và tập trung ở vỏ, lõi củ. Dựa vào hàm 36,6 triệu tấn, dây khoai lang 0,19 triệu tấn,
lượng HCN người ta chia ra hai giống sắn: dây lá lạc 0,45 triệu tấn, ngọn và lá ngô 0,62

60

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nguyễn Thị Hồng Hạnh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 59 - 63

triệu tấn, lá sắn 0,19 triệu tấn, ngọn lá mía 3,0 [10], khi sử dụng khẩu phần có 10kg bã sắn ủ
triệu tấn…nhưng tỷ lệ sử dụng chỉ chiếm chua và 0,75 kg cám đỗ xanh để vỗ béo bò
khoảng 18% (7,5 triệu tấn) còn lại trên 32,5 thịt đã cho tăng trọng tương đối cao 656,0 -
triệu tấn chưa được sử dụng cho chăn nuôi, 682,2 g/con/ngày so với lô đối chứng là
chưa tận dụng tốt nguồn phụ phẩm này thông 728,9g/con/ngày với khẩu phần thí nghiệm có
qua chế biến, dự trữ để cung cấp cho gia súc. thức ăn tinh. Theo các tác giả Nguyễn Hải
Việc nghiên cứu các biện pháp chế biến, dự Quân, Nguyễn Xuân Bả, 2008 [7] khi nghiên
trữ rất cần được thực hiện và phổ biến cho cứu về mức bổ sung bã sắn ủ chua với khẩu
người chăn nuôi. Tận dụng nguồn phụ phẩm phần giàu xơ, nghèo dinh dưỡng là rơm lúa
từ cây sắn là bã sắn và thân lá sắn để chăn thì mức bổ sung không nên vượt quá 40% so
nuôi gia súc nhai lại cũng đã được nhiều nhà với tổng chất khô khẩu phần, và việc bổ sung
khoa học ở nước ta nghiên cứu và đạt được các loại thức ăn giàu protein thực trong khẩu
một số kết quả có ý nghĩa nhất định, là tiền đề phần là rất cần thiết để đảm bảo khả năng tiêu
để tiếp tục nghiên cứu và phát huy được lợi hóa thức ăn và môi trường trong dạ cỏ.
thể của phụ phẩm trong chăn nuôi. * Chế biến và sử dụng lá sắn: Theo các tác
* Chế biến và sử dụng bã sắn: Ủ chua là giả Phạm Sỹ Tiệp, 1999 [15], Bùi Văn Chính
phương pháp đã được nhiều tác giả nghiên và Lê Viết Ly, 2001 [2], phương pháp băm
cứu để chế biến và bảo quản bã sắn làm thức nhỏ, phơi khô hoặc sấy khô rồi nghiền thành
ăn cho gia súc nhai lại [12]. Theo các tác giả bột là một biện pháp chế biến để có thể bảo
Bùi Văn Chính, Lê Viết Ly, 2001 [2] khi chế quản, dự trữ và làm giảm hàm lượng độc tố
biến sắn bằng phương pháp ủ chua đã làm trong lá sắn rất tốt, hơn nữa có thế thực hiện
giảm rõ rệt hàm lượng độc tố. Nếu lá sắn tươi với một khối lượng lá sắn khá lớn. Ủ chua lá
hàm lượng HCN là 862,5 mg/kg VCK thì ủ sắn để dự trữ và bảo quản cũng cho kết quả tốt,
chua chỉ còn 32,5 mg/kg VCK; bột khô chỉ theo tác giả Bùi Văn Chính, 1995 [1] khi thí
còn có 90,2 mg/kg VCK. Theo quy định của nghiệm ủ chua lá sắn thì hàm lượng HCN chỉ
Cộng đồng Châu Âu (EC) thì hỗn hợp cho gia còn 32,5 ppm trong vật chất khô.
súc chỉ được phép chứa thấp hơn 60 mg Theo kết quả nghiên cứu của các tác giả Trịnh
HCN. Như vậy, rõ ràng phương pháp ủ chua Văn Trung và cs, 2007 [13] khi nghiên cứu bổ
đã làm giảm mạnh mẽ lượng HCN. sung mức 0,5, 1,0 và 1,5 kg/con/ngày bột lá
Theo Nguyễn Hữu Văn và cs (2008)[15], khi sắn trong khẩu phần ăn của trâu tơ là cỏ xanh
nghiên cứu ủ chua bã sắn để làm thức ăn cho và rơm ủ urê nuôi trong vụ đông xuân đã cho
gia súc nhai lại thì ủ với công thức 0,5% muối kết quả là mức tăng trọng của trâu tăng dần
+ 3% rỉ mật, hoặc 0,5% muối + 3% cám gạo theo khối lượng bột sắn bổ sung trong khẩu
có thể bảo quản bã sắn và làm giảm đáng kể phần, tương ứng là 594 g/con/ngày, 589
hàm lượng HCN sau 21 ngày ủ nên có thể sử g/con/ngày, 444 g/con/ngày và thấp nhất là lô
dụng một lượng lớn bã sắn ủ trong khẩu phần đối chứng 389 g/con/ngày. Và để đạt hiệu quả
mà không gây độc. Tuy nhiên, theo các tác kinh tế cao nhất các tác giả cũng khuyến cáo
giả do bã sắn tươi có hàm lượng protein thô nên bổ sung bột lá sắn ở mức 1kg/con/ngày
rất thấp nhưng có giá trị năng lượng tương đối tương ứng với 17% vật chất khô trong khẩu
cao, vì vậy khi sử dụng làm thức ăn cho gia phần là phù hợp. Theo tác giả Vũ Văn Tý,
súc nhai lại cần thiết phải bổ sung nguồn thức 2002 [14] khi sử dụng lá sắn ủ chua để vỗ béo
ăn giàu protein để cân đối năng lượng và trâu tơ với mức bổ sung là 1,4; 2,8; 4,2
protein cho nhu cầu dinh dưỡng của vi sinh kg/con/ngày trong khẩu phần ăn là rơm khô
vật dạ cỏ và cho sản xuất. Theo các tác giả và cỏ hỗn hợp thì có mức tăng trọng tương
Mai Thị Thơm và Bùi Quang Tuấn (2006) ứng sau 90 ngày là 34,42 kg/con; 42,58

61

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nguyễn Thị Hồng Hạnh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 59 - 63

kg/con và 45,75 kg/con còn ở lô đối chứng là của một số phụ phẩm nông nghiệp quan trọng ở
27,33 kg/con. Kết quả vỗ béo trên đàn trâu Việt Nam cho trâu, bò, Hội thảo về dinh dưỡng gia
súc nhai lại, Hội Chăn nuôi Việt Nam.
già với mức bổ sung là 3 và 5,5 kg/con/ngày [3]. Cục Chăn nuôi Phát triển gia súc lớn, Việt
cho khối lượng tăng là 36,5 kg/con và 39,0 Nam cơ hội và thách thức/77 – Hội thảo phát triển
kg/con, ở lô đối chứng là 29,0 kg/con. bền vững ngành chăn nuôi Việt Nam, 2009
[4]. Từ Quang Hiển, Nghiên cứu sử dụng lá sắn
Như vậy, việc sử dụng phụ phẩm từ sắn trong
vào chăn nuôi lợn. KHKT Viện Chăn nuôi – Hà
chăn nuôi gia súc nhai lại sẽ tận dụng được Nội 4/1983.
nguồn thức ăn sẵn có, rẻ tiền ở địa phương, [5]. Mai Thạch Hoành (2004), Kỹ thuật thâm canh
góp phần giải quyết vấn đề cạnh tranh nguồn sắn, Nxb Nông nghiệp Hà Nội.
thức ăn giàu protein để cung cấp cho gia súc [6]. Hội Chăn nuôi Việt Nam (2003), Thức ăn
nhai lại, nâng cao hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc, Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội.
chăn nuôi nhất là các hộ nông dân. Các tác
[7]. Nguyễn Hải Quân, Nguyễn Xuân Bả (2008),
giả đã đưa ra khuyến cáo khi sử dụng bổ sung “Ảnh hưởng của mức bổ sung bã sắn ủ chua đến
bã sắn cho khẩu phần giàu xơ, nghèo dinh lượng ăn vào, tỷ lệ tiêu hóa và một số chỉ số môi
dưỡng là rơm lúa thì không nên bổ sung quá trường dạ cỏ của cừu được nuôi bằng rơm lúa”
40% trong khẩu phần, còn đối với bột lá sắn Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 46, 2008.
khi sử dụng để vỗ béo thì bổ sung ở mức 1,0 [8]. Quyết định số 10/2008/QĐ-TTg về việc phê
duyệt chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm
– 1,5 kg/con/ngày vào khẩu phần thì sẽ mang
2020 của Thủ tướng Chính phủ.
lại hiệu quả vỗ béo tốt. [9]. Phạm Sỹ Tiệp (1999), Nghiên cứu giá trị dinh
KẾT LUẬN dưỡng của một số giống sắn ở trung du và miền núi
Cây sắn là cây trồng đem lại năng suất, sản phía Bắc, ảnh hưởng của phương pháp chế biến
đến thành phần hóa học của củ, lá và khả năng sử
lượng cao hiện nay ở Việt Nam. Sắn không dụng bột sắn để vỗ béo lợn F1 (ĐB x MC), Luận án
chỉ là một loại cây lương thực, cây thực phẩm Tiến sỹ Nông nghiệp, Viện Chăn nuôi.
mà loại cây công nghiệp để tạo ra các sản [10]. Mai Thị Thơm, Bùi Quang Tuấn (2006), “Sử
phẩm như: cồn, đường, bột ngọt, tinh dụng bã sắn ủ chua với cám đỗ xanh để vỗ béo bò
bột....phục vụ ngành chế biến. Ngoài các sản thịt”, Tạp chí Khoa học nông nghiệp, số 2, 2006.
phẩm chính ra, chế biến sắn sẽ tạo ra một [11]. Nguyễn Văn Thưởng (1993), Thức ăn cho
gia súc, gia cầm – Thành phần hóa học, giá trị
lượng phụ phẩm lớn giúp ngành chăn nuôi. dinh dưỡng. Nxb Nông nghiệp Hà Nội.
Tuy giá trị dinh dưỡng của chúng không cao [12]. Bùi Quang Tuấn (2005), “Nghiên cứu ủ chua
nhưng cũng đem lại hiệu quả tích cực cho bã sắn làm thức ăn dự trữ cho trâu bò”, Tạp chí
chăn nuôi. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho Chăn nuôi, số 9, 2005.
thấy rằng vấn đề nghiên cứu mức bổ sung, [13]. Trịnh Văn Trung, Mai Văn Sánh, Nguyễn
cách thức bổ sung và đưa ra các phương pháp Công Định (2007), “Bổ sung bột lá sắn vào khẩu
phần cỏ xanh và rơm ủ urê nuôi trâu tơ trong vụ đông
chế biến thích hợp nhằm nâng cao khả năng
xuân”, Tạp chí Khoa học công nghệ, số 5, 2007.
tận dụng và cải thiện giá trị dinh dưỡng của [14]. Vũ Văn Tý (2002), Ảnh hưởng của bổ sung
nguồn phụ phẩm sử dụng trong chăn nuôi vẫn lá sắn ủ chua đến tỷ lệ tiêu hóa thức ăn, khả năng
cần tiếp tục được quan tâm nghiên cứu để sinh trưởng và vỗ béo trâu tại trung tâm nghiên
phát huy tối đa khả năng tiêu hóa của gia súc cứu và phát triển chăn nuôi miền núi, Luận văn
nhai lại và nguồn phụ phẩm công nông nghiệp Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp, trường Đại học
Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên.
ở nước ta hiện nay.
‘’ [15]. Nguyễn Hữu Văn, Nguyễn Xuân Bả, Bùi
TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn Lợi(2008), “Đánh giá giá trị dinh dưỡng của
[1]. Bùi Văn Chính (1995), Nghiên cứu, chế biến và bã sắn công nghiệp ủ chua với các phụ gia để làm
sử dụng phụ phẩm nông nghiệp và nguồn thức ăn thức ăn cho gia súc nhai lại”. Tạp chí Khoa học,
sẵn có ở nông thôn. Tuyển tập NCKH (69 - 95), ĐH Huế, số 46, 2008.
Nxb Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Hà Nội. [16]. Viện Chăn nuôi (2001), Thành phần và giá
[2]. Bùi Văn Chính, Lê Viết Ly (2001), Kết quả trị dinh dưỡng của thức ăn gia súc gia cầm Việt
nghiên cứu chế biến nâng cao giá trị dinh dưỡng Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

62

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Vũ Thị Lan và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 65 - 69

SUMMARY
CURRENT USE OF CASSAVA AND CASSAVA BY-PRODUCTS FOR
RUMINANT IN VIETNAM

Nguyen Thi Hong Hanh and Nguyen Hung Quang∗


College of Agriculture and Forestry - TNU

In Vietnam cassava is one of the most important food crops, besides rice, maize and sweet potato.
Cassava root is a high energy feed material. It is considered as good nutrition supply for pig,
poultry and ruminant. Some researches have been focussing on processing and using of cassava
and cassava by-products as animal feed. To make a good use source of by-products of industrial
and agricultural production for ruminants in our country, a number of methods such as processing,
storage, additional levels, additional appropriate manner and efficiency need continue to be
important of investments have been investigated. Cassava bagasse is a by-product of cassava
starch production process, which accounts for about 45% of the volume of raw cassava tubers.
According to some research results, it could be ensiled of cassava bagasse and stored for ruminants
feeding. However, cassava bagasse is very low crude protein content which ought to be
supplemented with high-protein source to balance the level of nutrition and the supplementation
should not exceed 40% of total dry matter in the diet. By-products: tops and cassava leaves are
high availability of protein source, which is cheap and good for ruminants. They could be dried,
dry crushed then grounded or ensiled for preservation and use. According to some research results,
using cassava leaf meal for cattle at 1 to 1.5 kg/head /day would be good for fattening effect.
Key words: Cassava, Processing, Cassava residue, Nutrition, Livestock.


Tel: 0985588164

63

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

You might also like