You are on page 1of 23

Bạn cần nắm chắc, lập ra đúng tứ trụ, nghĩa là thật chính xác ngày tháng năm sinh

của mình cùng


các đại vận, bằng thứ ngôn ngữ "âm lịch" cổ xưa là các thiên can, địa chi mà tôi đã phổ biến.
Cần phải hiểu rõ ý nghĩa, nội dung mà các thiên can địa chi ấy tượng trưng cho gì, đại diện cho gì,
quan hệ sinh khắc giữa chúng với nhau?
Trong các ngũ hành, thứ gì mạnh nhât, thứ gì yếu nhất, khi nào ngũ hành nào chiếm ưu thế... trong
mỗi thời kì, năm tháng trôi đi... trong cuộc đời mình?
Bây giờ là xác định ngũ hành của nhật can, đại diện cho gì, tính chất ra sao, biết điều này cũng là
sơ bộ hiểu một chút về bản thân mình cùng các ưu khuyết điểm chính.
Thứ gì cản trở mình phát huy khả năng, thứ gì ủng hộ, thứ gì làm mình tổn hao công sức, làm suy
yếu nhật can...?
Sau khi xem xét hết, tất cả mọi thứ ấy cẩn thận, ta mới bắt đầu để ý đến lệnh tháng, ngũ hành của
lệnh tháng thông thường sẽ mạnh nhất, ảnh hưởng mạnh nhất (trừ trường hợp xuất hiện ngũ hành
khác đối địch trên trụ giờ mà có rất nhiều yếu tố ủng hộ). Từng có quan điểm rằng ngũ hành của
lệnh tháng chính là dụng thần. Tức cách lấy dụng thần này không phải để xem xét, tìm cân bằng
cho tứ trụ, mà dụng thần này dùng để tìm các đặc điểm nổi bật nhất của tứ trụ, cũng tức là chính
mệnh chủ. (tuy dùng nhật can đại diện bản thân, nhưng rõ ràng các tháng, năm, giờ đều là của
mình, tất nhiên phải đại diện cho mình, thuộc về đặc điểm nào đấy của mình). Quan hệ của lệnh
tháng ấy (hoặc của hành mạnh nhất, một loại dụng thần khác) với nhật can thế nào, tức thuộc thập
thần nào, xem xét tính chất của thập thần ấy, chính là đã đoán mệnh, rồi trên cơ sở này đưa ra
phương pháp cải mệnh.
Trước khi bàn sâu hơn về việc xem mệnh theo thập thần, tức tìm yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất, tôi
thấy cần nhấn mạnh một thông tin (đúng hơn là một quan điểm, mà tôi cho là rất quan trọng), như
này:
Bạn biết được, trông thấy ai đấy thành đạt ra sao, bằng phương pháp nào, thông thường là do họ
có, nhận được phúc báo của riêng họ, cộng với sự nỗ lực lao động của riêng họ. Nếu các cách,
phương pháp thành đạt ấy không chính thống, vi phạm pháp luật hoặc trái đạo đức, trái luân
thường, thuần phong mỹ tục xã hội, ắt phúc ấy nhanh chóng, ngày nào đấy phải cạn kiện, kết quả
xấu tương ứng nhận được có thể xảy ra nhanh chậm khác nhau nhưng luật nghiệp báo nhân quả là
không thể tránh, vì luật này hoạt động khách quan như các quy luật vật lý có trong vũ trụ, tuy ta
không thể trông thấy bằng mắt thường nhưng nhất định xảy ra, nhất định đúng. (các vụ án Dương
chí Dũng, Phạm thanh Bình, Hà văn Thắm... là những ví dụ)
Mình có thể bắt chước họ để thành công nhưng không chắc chắn, vì không hợp với bản tính, không
hợp mệnh, mình không có "phúc báo" sâu dày bằng họ, có thể sẽ là thất bại thảm hại, xôi hỏng
bỏng không ngay tức thời, tức nhận hậu quả xấu ngay tức thời.
Chỉ duy nhất có một cách là hiểu mệnh, biết ưu khuyết của mình, dần dần khắc phục mới thành
công lâu bền, chắc chắn. Mình là duy nhất trong vũ trụ, cách làm, cách phấn đấu, học tập, thành
công, thất bại... thế nào, cũng sẽ là duy nhất, không thể giống tuyệt đối với bất kì ai khác. Vậy, yếu
tố cá nhân, cá tính, sự khác biệt... không giống ai không phải là khuyết điểm, đôi khi lại là ưu điểm
vượt trội, cần phát huy.
1/ TỶ KIÊN, KIẾP TÀI ĐẠI DIỆN CHO ANH CHỊ EM RUỘT VÀ NGƯỜI CẠNH TRANH.
Nếu ngũ hành của lệnh tháng cùng khí với Nhật can, ta gọi là gặp Tỷ kiên, Kiếp tài. Biểu thị họ là
anh, chị em của ta, bạn bè, người yêu, vợ của ta. Ngoài ra, xung quanh ta, trong cuộc sống thực tế,
nhất định tồn tại, xuất hiện, có người giống ta, sẽ cạnh tranh với ta trong việc làm ăn, phấn đấu,
thăng tiến, thậm chí có thể trở thành nhân tình của vợ, cướp mất vợ ta, lấy của cải của ta... Tóm tắt
lại là đối địch, cạnh tranh với ta.
Việc xem xét ngũ hành của lệnh tháng tốt xấu với ta thế nào, phụ thuộc vào Nhật can trong mệnh
mạnh hay yếu, có cần thêm trợ giúp hay không? Rất nhiều trường hợp lệnh tháng là cần thiết, do đó
sự giúp đỡ của anh em, bạn bè là cần thiết, họ hỗ trợ ta, là đồng minh của ta trong mọi việc. Nhưng
khi hành vận, vào thời điểm năm tháng nào đấy, sự giúp đỡ này lại không cần thiết nữa (do đã gặp
vận, gặp năm, tháng), thì những người anh em ấy có thể sẽ trở thành kẻ đối địch, là ruột thịt nhưng
mâu thuẫn nhau, gây hại cho nhau, bạn bè có thể biến thành kẻ thù, phản bội... vân vân. Việc đoán
mệnh... như thế cần mềm dẻo, linh hoạt là do vậy, phụ thuộc vào mệnh vận, vào thời gian, năm
tháng... trong cuộc đời.
Giả sử lệnh tháng của bạn là Giáp, Át mộc, tức bạn sinh mùa xuân, trung hòa với các can chi khác,
sự trợ giúp của Giáp, Ất mộc đang rất hữu ích với Nhật can cũng là Giáp Ất mộc, bạn đang làm ăn
tốt đẹp, thăng tiến, đang hạnh phúc, bình thường. Khi trong cuộc đời, lại gặp phải năm Giáp Ất mộc
(Giáp gặp Giáp, Ất gặp Ất), nghĩa là mộc trở nên thừa, mạnh rồi không cần thêm nữa, người ta gọi
là gặp "phục ngâm", nghĩa là nước mắt. Hành mộc quá mạnh có thể khắc chết hành thổ là Tài (nếu
không có cứu), Tài có thể ứng với người vợ, hoặc cha (thiên tài là cha), hai người thân này của bạn
dễ gặp ốm đau, chết chóc, tức là "nước mắt". Tứ trụ báo trước cho ta như thế đấy. Tài cũng là tiền,
xuất hiện Giáp, Ất mộc là bạn gặp kẻ cạnh tranh, thi đấu với bạn, muốn cướp mối làm ăn của bạn,
chặn con đường thăng tiến của bạn, nghĩa là Quan tinh của bạn suy yếu hơn so với trước, ứng với
uy tín giảm đi, có thể còn gặp lôi thôi trong kiện tụng, phức tạp các kiểu trên chốn quan trường,
khiến bạn phải tốn hao tiền của, chạy chọt...
Đối với anh chị em trong nhà, hoặc bạn bè cộng tác làm ăn, những rắc rối đến sẽ khiến bạn bắt
buộc phải chia sẻ tài sản, đem của cải dâng cho kẻ khác...
Suy luận ngược lại, đối với cách xem mệnh theo dụng thần, đó là khi Nhật can yếu ớt, suy nhược,
may mắn gặp được dụng thần là Tỷ, Kiếp trong đại vận (hành vận), năm tháng... ắt tất cả các bất lợi
nói trên lại trở thành tốt, mệnh chủ gặp bạn bè tốt... vân vân.
Thông thường, các trụ ngày thuộc dạng tự vượng như Giáp dần, Ất mão, Bính ngọ, Đinh tỵ, Mậu
thìn, Mậu ngọ, Kỉ tỵ, Kỉ mùi, Canh thân, Tân dậu, Nhâm tý, Quý hợi, là những trụ ngày ít khi cần
thêm đến trợ giúp của lệnh tháng nếu trong trụ giờ hoặc các trụ khác đã có, gặp được "đắc địa"
được sinh, được giúp... đủ rồi.
Tính cách của người có Tỷ kiên, kiếp tài:
Tỷ kiên (có lợi, tính tích cực): Trầm tĩnh, cương nghị, dám mạo hiểm, đối ngoại khéo léo, luôn dành
đường lui, tự lực tự cường, có chí tiến thủ, không lỗ mãng, nóng vội.
Mặt bất lợi (tỷ kiên là thừa), ứng với nhật can vượng quá mức: Hẹp hòi, ích kỉ, không hòa đồng, cô
độc, không thích liên quan đến người khác...
Kiếp tài (mặt lợi): Hào sảng, rộng lượng, trọng nghĩa khinh tài, có khả năng tập hợp quy tụ mọi
người, nhiệt tình, thẳng thắn, mạnh mẽ, kiên cường, thích kết giao, có chí phấn đấu...
Mặt bất lợi: Thô bạo, lỗ mãng, kích động, thiếu lý trí, làm việc nghĩa khí, không biết nể sợ...
À, còn một thông tin cuối cùng nữa, khi tỷ kiên, kiếp tài là hành không cần thiết thì không những anh
em bạn bè gây hại cho ta mà ngược lại, ta cũng có thể không phải là bạn tốt, không là anh em tốt
của họ. Rất nhiều người mà tôi biết, có nhật can quá vượng, kị tỷ kiên kiếp tài không những làm ăn
khó khăn, không ai chơi với, cô độc một mình, tình tình khó chịu, ki bo bần tiện, khắc vợ (thậm chí
không lấy được vợ), khắc cha, nghèo khổ... nghĩa là các bất lợi mà lúc trước ta nói về anh em, bạn
bè lại ứng với chính chủ nhân, chủ nhân chính là người không ổn... Những người này, thông
thường đã kị Tỷ kiên, Kiếp tài ngay từ khi sinh ra, đã có tứ trụ mang thông tin ấy.
2/ ẤN, KIÊU ĐẠI DIỆN CHO MẸ VÀ HỌC THỨC.
Nếu nhật can ở thế suy nhược mà gặp lệnh tháng sinh cho như Giáp mộc gặp Thủy, thì Thủy này
chính là Ấn, Kiêu. Cần lưu ý là tuy nhật can không vượng song vẫn cần có đủ khả năng nhận lấy,
nhận được sự sinh trợ này. Nếu vô khí (không rễ), không được trợ giúp, không được sinh ở đâu
(các can chi khác), ắt tứ trụ thuộc loại có cấu hình khác. Người ta gọi là tòng cách, cách theo, tức
mệnh chủ cần phải mất đi bản tính ngũ hành gốc của mình, ngả theo, thuận theo ngũ hành nào
mạnh nhất có trong tứ trụ. Khi ấy, thành đạt hay các thăng giáng trong cuộc đời mình sẽ phụ thuộc
vào các thăng giáng của ngũ hành mạnh nhất ấy. Nhật can quá nhược mà có ấn mạnh thì rơi vào
tình huống "mẫu đa diệt tử", thủy nhiều mộc trôi, mộc nhiều hỏa tắt, không thể cháy... vân vân, tức
không thể nhận được sự sinh trợ ấy. Lúc này cần phân tích tứ trụ theo phương pháp tìm dụng thần
cân bằng... như đã nói trong các bài khác.
Ấn, kiêu đại diện cho mẹ và học thức nhưng cũng bao gồm những thứ, những việc che chở cho ta,
như trong môn xem quẻ Dịch thì ứng với mái nhà, nơi công tác, nơi làm việc, là phụ mẫu, là những
người hơn tuổi mình như cô, dì, chú bác. Vì Ấn, kiêu sinh ra ta, nuôi dưỡng ta nên cũng đại diện
cho đồ ăn, thức uống, quần áo mặc, sách vở, học tập, ngủ nghỉ. Do vậy, đối vói những ai có nhật
can yếu cần đến ấn kiêu, trong mệnh có ấn kiêu, ắt sẽ thích đọc sách, thích học hành, thường nảy
sinh ra các như cầu muốn hiểu biết (càng hiểu biết nhiều, học nhiều tương ứng với càng khỏe
mạnh, tốt đẹp)... là do vậy. Ngoài ra, ấn kiêu cũng liên quan đến các sinh hoạt như ngủ, nghỉ, bồi
dưỡng sức khỏe. Người cần ấn kiêu, hay ấn kiêu là dụng thần nên ngủ đủ giấc, ăn đủ chất mới có
sức khỏe để phấn đấu, học tập.
Nếu trong mệnh không có ấn kiêu, bất luận nhật can cần đến hay không, thường ứng với việc
không có mẹ, bị mẹ bỏ lại sau khi sinh mình ra (trường hợp thân nhược chính xác hơn tình huống
thân vượng), cũng thường hay ứng với mẹ có sức khỏe yếu (thân vượng), mệnh chủ không được
ăn uống đầy đủ, không có học thức hoặc không thích học, không được đi học (mệnh kị ấn hay gặp,
tức thân vượng, nghèo khổ, thất học, không muốn học).
Tuy cùng tượng trưng cho mẹ, nhưng chính ấn và thiên ấn có chỗ khác nhau. Giả sử nhật can của
bạn là Giáp mộc, thì hiển nhiên Quý thủy sẽ là chính ấn, là mẹ ruột, người sinh ra mình. Nếu trong
tứ trụ không xuất hiện Quý thủy, lúc ấy mới coi Nhâm thủy, thiên ấn là mẹ ruột. Nếu Quý và Nhâm
đều đồng thời xuất hiện, ở thời xưa chủ về người cha có 2 vợ, Nhâm thủy tương ứng với mẹ kế.
Ngày nay có thể là cha mẹ ly hôn rồi sau đó mình có mẹ kế, một tình huống khác nữa là cha có ai
đấy, có nhân tình, vợ bé ở bên ngoài. Đôi khi, Quý và Nhâm là chị em của nhau, hoặc đồng thời là
tình địch của nhau. Cũng còn thêm một ý nghĩa khác nữa, bát tự không có Quý thủy, chỉ có Nhâm
thủy, có thể mẹ mình không phải là người vợ đầu tiên của cha mình, trước đó ông đã có người
khác, có vợ khác rồi mới lấy mẹ mình. Ta thấy, từ trong tứ trụ có thể suy ra nhiều chuyện, biết nhiều
thông tin về ai đấy. Ví dụ, nếu trong hành vận, gặp phải thời kì, năm tháng không có lợi cho hành
thủy, chủ ứng với thời kì mẹ mình không gặp may mắn, có thể ốm đau, sức khỏe xấu. Dụng thần là
thủy, hành thủy hữu ích với tứ trụ (với nhật can) mà gặp kim sinh, tất nhiên mẹ mình gặp may mắn,
ứng với giai đoạn may mắn, thành công của mẹ, mẹ vui vẻ, khỏe mạnh. Đại vận gặp hỏa, hỏa này
không gây hại với Nhật can, hỏa là Tài của mẹ, đồng nghĩa với mẹ mình làm ăn thành đạt, có thu
nhập cao, kinh tế phát triển, tức có tài lộc.
Trường hợp hành thủy đã đủ rồi, nhật can không cần thêm nữa, mà gặp đại vận lưu niên lại có thêm
thủy, ắt ứng với mẹ mình bị cạnh tranh, làm ăn khó khăn, trong gia đình phát sinh chuyện cha có
nhân tình, nhân ngãi bên ngoài... Có câu: "Kiêu thần đoạt thực", chính là ứng với tình huống, thực
thần là hành rất cần trong tứ trụ, Nhật can vốn đã đủ vượng rồi, gặp thêm thiên ấn, thiên ấn thực
thần xung khắc nhau, ắt có chuyện xấu thuộc các lĩnh vực ăn uống (thực thần là thức ăn), thực còn
là nguồn của Tài tinh, là tiền tài hao tổn, Thực chế Sát, Sát không có chế, ắt gây hại (chuyện quan
trường, tai nạn, thương tật...). Đối với nữ giới, khi trong tứ trụ đồng thời có Quan lẫn Sát, Sát không
có chế có thể còn mang ý nghĩa người nữ này bắt đầu chú ý đến một người đàn ông khác, là người
không phải chồng mình, bắt đầu thích có nhân tình, ăn chơi, ong bướm (trước kia không có)
Tóm tắt tính cách của người cần hoặc không cần chính ấn, thiên ấn:
Khi cần, ta gọi là mặt lợi, ưu điểm. Ngược lại nếu không cần sẽ là khuyết điểm.
Chính ấn:
Ưu: Thông minh, nhân từ, thích học hỏi, coi trọng danh dự, coi thường danh lợi, nhẫn nhục chịu
đựng, không thích ganh đua, từ bi, bác ái, chăm chỉ, nhẫn nại, trọng tình trọng nghĩa, thường quan
tâm, nghĩ cho người khác, coi trọng an toàn của bản thân, có lòng hướng đạo.
Khuyết điểm: Tầm thường, vô dụng, chậm chạp, tiêu cực, không có chí tiến thủ, không có ý thức
quyền lợi, thiếu sự hứng thú, thiếu sức cảm hóa, không cuốn hút, an phận, nhạt nhẽo, vô duyên...
Thiên ấn:
Ưu: Thông minh, tháo vát, đa tài, đa nghệ, phản ứng nhanh nhẹn, có tâm dâng hiến nhưng không
cam tâm tình nguyện, có danh khí, có thể nhẫn nhục để hoàn thành nhiệm vụ, cần cù lao động
nhưng hay oán thán. Không thích bị động chạm, cũng không động chạm đến người khác, không
phản bác ý kiến của người khác, nhưng cũng không thích tiếp thu ý kiến người khác...
Khuyết điểm: Tự cho mình thanh cao, thiếu tình người, tự tư, lãnh đạm, không chạy theo trào lưu,
sống khép kín. Không quan tâm đến người khác, cũng không thích người khác quan tâm đến mình,
biết chừng mực, có lòng hướng đạo, nhưng thường có vọng tưởng nhỏ mọn.
Chú ý: Các ưu khuyết này không cố định, đóng đinh, mà thay đổi trong mỗi người. Tùy từng thời kì,
tùy thời gian, do vận khí mà chúng bộc lộ ra (ta hay cho rằng do ngoại cảnh). Nhìn chung, các đặc
điểm, tính cách trong con người ta thường là tổng hợp, có cả ưu lẫn khuyết, chúng pha trộn lẫn
nhau phức tạp, tựa như tính lương thiện, tốt xấu, tình yêu... trong chúng ta tăng giảm, thay đổi theo
thời gian, cái gì chiếm ưu thế nhất, ắt cuối cùng sẽ là... cái đó.
Trong cuốn sách "Tự xem bát tự", tác giả là đại sư Lý cư Minh viết thế này: "Người xưa nói Ấn là chỉ
vật nuôi dưỡng ta. Bất luận nhật can là gì, ngũ hành sinh ta cần phải đầy đủ. Ví dụ, nếu nhật can
thuộc hỏa, trong bát tự phải có đầy đủ mộc. Nếu nhật can thuộc mộc, trong bát tự phải có đầy đủ
thủy. Nếu nhật can thuộc thổ, trong bát tự phải có đầy đủ hỏa. Nếu nhật can thuộc kim, trong bát tự
phải có đầy đủ thổ. Nếu không, chủ về thường xuyên mất ngủ, không có học thức hoặc mẹ không
khỏe mạnh"
"Nếu nhật can thuộc kim, sinh vào tháng mùa xuân, mộc vượng, kim tất sẽ suy nhược, cần có thổ
đến sinh kim, tất cần có mẹ. Nhưng nếu trong bát tự không có thổ, chủ từ nhỏ đã bị mẹ bỏ lại. Khi
trưởng thành, người này có xu hướng thích những người phụ nữ biết quan tâm lo lắng cho gia đình,
cũng như tìm lại hình bóng mẹ vậy"
"Nếu nhật can suy nhược, chủ có nhiều việc không thể hoàn thành. Cái ta khắc là vợ, là Tài. Nhật
can suy nhược sẽ không đảm nhiệm được Tài, hoặc chồng không khống chế, kiểm soát được vợ.
Điều mà bát tự cần là ngũ hành sở thuộc đầy đủ. Biết được ngũ hành của bản thân mình không đầy
đủ, có thể tìm ra được nhật can cường vượng hay suy nhược, rồi sau đó mới có thể tìm dụng thần"
Hết bài một trăm linh năm.
3/ THỰC THƯƠNG ĐẠI DIỆN CHO TÀI HOA VÀ CON CÁI.

Trong các bài viết trước của tôi, cũng như ở rất nhiều các tài liệu... xem tứ trụ, tử vi, các tác giả, người
xưa từng thống kê ra rất nhiều các đặc điểm, tính chất của Thực, Thương. Bạn đọc nên tham khảo, đọc,
ngẫm nghĩ, lĩnh hội dần. Ở thời bây giờ, tác giả cuốn sách "Tự xem bát tự", ông Lý cư Minh lại có những
tìm tòi mới, mà tôi cho là rất hợp lý, sáng tạo, đúng đắn, xin trích để mọi người biết thêm:

"Đối với nam giới, cái mà ta sinh ra không chỉ là con cái mà có thể là năng lực sáng tạo nghệ thuật hoặc
đồ đệ, học trò. Cái mà ta sinh ra chính là Thực thần, hoặc Thương quan. Ví dụ: Nhật can của một người
là mộc dương, thì hỏa dương là Thực thần, hỏa âm là Thương quan, biểu thị từ trong công việc sinh ra
thế lực phản đối, cũng đại diện cho đệ tử nữ và cấp dưới"

"Chính quan của mộc dương là Tân kim. Nữ đệ tử là Đinh hỏa, Đinh hỏa khắc chế Tân kim, tức làm tổn
hại đến Chính quan, vì vậy gọi là Thương quan. Đinh hỏa thường thiêu cháy Chính quan Tân kim, biểu thị
nam giới có nữ đệ tử sẽ ảnh hưởng đến công việc, không lợi cho danh tiếng"
"Nếu mộc là chồng, Mậu thổ là vợ, kim mà thổ sinh ra chính là con cái. Nếu vợ là thổ âm, kim âm được
sinh ra là con gái, kim dương là con trai. Do kim khắc mộc, thất sát của nam giới thuộc mộc là con trai,
chính quan thuộc mộc là con gái"

"Về phương diện ngũ hành sinh khắc, mệnh nam và mệnh nữ hoàn toàn khác nhau. Ngũ hành khắc chế
nhật can mệnh nữ đại diện cho chồng, tức chính quan. Thất sát đại diện cho tình nhân, và cũng đại diện
cho anh em thuộc nhà chồng", là anh em, bạn bè của chồng.

Vận dụng: Giả sử có người nữ, nhật can Giáp mộc, thì Tân kim là chồng, là Chính quan, Canh kim là anh
em chồng, nhân tình, Đinh hỏa thực thần là con gái, Bính hỏa con trai. Nếu trong tứ trụ không xuất hiện
Bính, Đinh, mà muốn sinh con cần chờ đến vận, đến năm tháng xuất hiện Bính, Đinh. Năm Bính sẽ sinh
con gái, năm Đinh sinh trai...

Nếu Thương quan, Thực thần là hành nổi bật trong tứ trụ (nằm ở lệnh tháng, hoặc tuy không có trong
lệnh tháng nhưng nhiều, liên kết nhau thành mạnh), mệnh lý học gọi là "cách thương quan, cách thực
thần", mệnh chủ thường có các tính cách sau:

THƯƠNG QUAN:

+ Thương quan đại diện cho sự thông minh, cao ngạo, tùy tiện, tình cảm phong phú, sớm trưởng thành,
giỏi ăn nói, giỏi giao tiếp, thích thể hiện, linh động, hoạt bát, khả năng lĩnh ngộ cao, năng lực học tập tốt,
phản ứng nhanh nhạy, cá tính, giỏi giang, coi trọng sự nghiệp, tự tin, không thích bị bó buộc, nhưng có
tính phản nghịch.

+ Thương quan vượng, hoặc khắc chính quan, tính tình trầm lắng, khả năng tự khống chế (đúng hơn, là
kiềm chế) kém, vui buồn lộ rõ, không thích bó buộc bởi lễ giáo, thiếu tính năng nổ, thiếu sự nhẫn nại.

+Cách cục thương quan kim, thủy, trưởng thành sớm, đa tình, đào hoa, tướng mạo đẹp, khả năng lĩnh
ngộ tốt.

+ Thực thần và Thương quan đều không sinh tài (trong tứ trụ, đại, tiểu vận, lưu niên không xuất hiện
tài), vẻ ngoài lạc quan mà bên trong không như vậy.

+ Thương quan mà không có tài dẫn hóa thì cuối đời vất vả bôn ba, không được nhàn thân.
+ Cách cục thương quan có hỏa đức thuộc Lễ, Thực, Thương tiết hóa vừa phải, thích giúp người, nhân
duyên tốt và đa tình, thường theo phe chính nghĩa.

+ Cách cục thương quan có thủy đức thuộc trí, chủ về thông minh, tuấn tú, học hành giỏi giang, lĩnh ngộ
tốt, đa tài đa nghệ.

THỰC THẦN:

+ Cách cục thực thần chủ về người thông minh, lạc quan, nho nhã, đa tài đa nghệ.

+ Cách cục thực thần chủ về người tài hoa, phản ứng nhanh nhạy, hài hước, hiếu khách, tấm lòng lương
thiện, thích vui chơi giải trí, thích theo đuổi những điều thú vị trong cuộc sống, có tài về âm nhạc.

+ Người có thực thần ẩn trong địa chi thì tài hoa khó biểu lộ ra, không giỏi biểu đạt.

+ Người thân vượng, Thực thần phá Ấn, cuộc sống tuy không lo lắng, nhưng khó trở thành đại phú, đại
quý.

+ Thân vượng, cách cục Thực thần sinh Tài, có thể làm kinh doanh mà phú quý. Hoạt bát, có kế hoạch, có
tài, giỏi mưu lược, dũng cảm, biết quản lý tiền bạc. Nhưng nếu hành vận ngược thì không nên làm kinh
doanh.

HAI VÍ DỤ VỀ CÁCH CỤC THỰC THẦN, THƯƠNG QUAN.

Càn tạo: Kỉ sửu, Tân mùi, Bính dần, Kỉ sửu.

Ta thấy: mệnh chủ sinh tháng Mùi, trong Mùi hàm chứa Kỉ thổ, năm và giờ cũng đều chứa Ki, là cách
Thương quan. Hành thổ trong tứ trụ là Thương quan chiếm thế áp đảo. Nhật can trở nên suy nhược (tuy
được Dần mộc trường sinh) do đó Thương quan là hành bất lợi. Mọi tính cách tích cực, các ưu điểm của
Thương quan đều không có trong mệnh chủ. Các nhược điểm (suy luận ngược lại, thông minh thành dốt,
nhanh nhẹn thành chậm chạp, lạc quan thành chán nản...) sẽ chính là đặc điểm của người này. Nhật chủ
Bính hỏa bị tiết khí mạnh, theo quan điểm lấy dụng thần (hoặc không dùng từ dụng thần nữa) thì khi vào
các vận, năm tháng gặp Kim, để tiết bớt khí thổ đi mới là may mắn. Nhưng kim có thể khắc mất Dần mộc
vì vậy chỉ là các may mắn khiến cuộc sống bớt khó khăn chứ không thể giàu có thành đạt bằng người.
Hành vận mộc sinh hỏa để khắc chế thổ hình như tốt, song do Thổ quá mạnh, không chống lại được, vì
thế người này nhìn chung cuộc sống khó khăn, không thành đạt, không tài năng, toàn diện kém, xấu hơn
bình thường. Trong cuộc đời, chỉ duy nhất hành vận hỏa, hoặc gặp năm tháng có hỏa mạnh là tốt hơn cả
(nhưng bị tiết khí tiếp tục nên chỉ khá hơn mà thôi).

Càn tạo: Đinh dậu, Canh tuất, Bính dần, Tân mão.

Nhìn sơ qua thì Tứ trụ này hình như giông giống với ví dụ trước, nhưng khác ở chỗ mệnh chủ sinh mùa
thu, hành kim nhiều mà vượng tướng. Mậu thổ có trong lệnh tháng là Thực thần bị tiết khí mạnh. Hành
hỏa, ứng với nhật chủ tuy yếu, nhược, song có thêm trợ giúp, mệnh tốt hơn nhiều..., có thể luận mệnh
theo sự cân bằng của tứ trụ, nghĩa là ấn tinh được lấy làm dụng thần. Những ai dị ứng với khái niệm
dụng thần, thì chỉ cần tưởng tượng, nếu... thì. Nếu trong đại vận, lưu niên gặp mộc, mộc sinh Bính hỏa,
Bính hỏa có rễ, có sức, có thể nhận lấy sự sinh trợ này ắt khỏe mạnh hơn, ứng với các may mắn... có
thêm tiền bạc..., nếu gặp hỏa, sẽ là được bạn bè, đồng nghiệp, anh em trợ giúp... cũng là tốt... Thực thần
trong mệnh này ẩn trong nguyệt chi, không biểu thị ra bên ngoài được, mệnh chủ không giỏi biểu đạt,
không biết tự tiến cử mình... Tài nhiều khắc Ấn, nên không hứng thú với nghiên cứu học thuật, đồng
nghĩa với học hành chỉ cốt cho qua, không giỏi... Hành vận hợp với mộc hỏa, kị thổ, kim, thủy.

CÁC ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA THỰC, THƯƠNG.

THỰC THẦN.

ƯU: lịch sự, tao nhã, đối đãi rộng lượng, lương thiện, biết quan tâm chăm sóc đến người khác, biết đủ,
không thích tranh đấu với đời, lạc quan, không thích độc tài chuyên chế, không tính toán công danh, làm
việc không cần báo đáp, tự do tự tại, khoan dung độ lượng, hòa khí sinh tài, quan tâm đến con người và
động vật, có tài năng thiên bẩm.

KHUYẾT; Nhát gan, sợ việc, không phân thị phi, quá nhu nhược, qua loa đại khái, không có chí tiến thủ.

THƯƠNG QUAN.

ƯU; Thông minh hoạt bát, tài hoa hơn người, thanh cao, hiếu thắng, thích danh khí, đứng mũi chịu sào,
lạc quan, coi trọng bản thân, ban ơn cho người khác nhưng lại hy vọng người ta cảm kích mình, tinh thần
rộng mở, thích tự do, linh hoạt thông biến, trời phú tài năng nghệ thuật cao, tràn đầy lòng hiếu kì và
thích cảm xúc mới lạ...

KHUYẾT: Buông thả, không thích bị ràng buộc, thích hư vinh, hay bàn luận viển vông, không thích ràng
buộc bởi lễ pháp thế tục, có tâm phản kháng. Ở trên người khác tất khắt khe, ở dưới người khác thì coi
thường mệnh lệnh, cố chấp, không tuân thủ quy tắc, tự cho mình là trung tâm vũ trụ, thích chia bè kết
phái.

QUAN SÁT ĐẠI DIỆN CHO CHỒNG, CÔNG VIỆC VÀ TIỂU NHÂN.

Trong tứ trụ, bát tự, bất luận là tương sinh hay tương khắc đều lấy âm dương tương phối là cát lợi (trừ
thực thần, thương quan). Điều này xuất phát từ các quan sát của người xưa, cùng cực đẩy nhau, khác
cực hút nhau, cây cối, sinh vật... con người đều cần có âm dương mới phát triển, thành đạt, kết trái...

Bất luận là mệnh nam hay nữ nếu có Chính quan đều chủ về người thuận lợi đi theo con đường hoạn lộ,
có thể thành đạt, có xu hướng muốn tuân thủ pháp luật, dễ tuân thủ các quy chuẩn về đạo đức, luân
thường... trong xã hội, trong gia đình. Hễ có Thất sát đều chủ về mệnh chủ dễ bị sa ngã, có thể làm điều
sai trái...

Thất sát đại diện cho thị phi, tiểu nhân. Trong trường hợp bát tự đều là thất sát, hoặc đều là chính quan
thì thất sát xuất hiện là tốt. Trường hợp này thuộc dạng cực đoan, khác biệt, thông thường ứng với
mệnh chủ là người kì tài, xuất chúng. Ở các tình huống bình thường, người ta rất kị cả hai đồng thời xuất
hiện, đặc biệt phụ nữ thì càng kị hơn. Đối với nam giới "quan sát hỗn tạp" biểu thị trắng đen bất phân,
bùn nát không xây được tường, tức không thể thành danh, thành đạt. Đối với nữ giới, vừa có chồng vừa
có tình nhân, cả hai gặp nhau, hiển nhiên phiền phức.

Chính quan đại diện cho công việc, danh tiếng, địa vị xã hội, nhận được sự tán thưởng của người khác.
Nếu lại có thêm thất sát, trong thanh danh có vết nhơ, có tiếng xấu, gặp thị phi bất lợi. Người vừa có
chính quan lẫn thất sát là người thuộc cả hai phe chính tà, trắng đen bất phân, cuối cùng khó tránh khỏi
kết cục thất bại. Trong cuộc sống, người làm quan mà câu kết với tà đạo, với xã hội đen, hiển nhiên phải
có lúc lộ ra, thanh danh mất hết và ngược lại "xã hội đen" mà liên kết với quan lại, cũng là trắng đen bất
phân, không thể chung đường, kết quả cuối cùng của hai bên sẽ đều là thất bại.

CÁC ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA CHÍNH QUAN, THIÊN QUAN


CHÍNH QUAN:

ƯU: Chính trực, trách nhiệm, tôn trọng pháp luật, đoan trang, nghiêm túc. Làm việc tuần tự, khách quan
công bằng, quang minh chính đại. Tự biết kiềm chế bản thân, giàu lòng nhân ái, coi trọng lợi ích tập thể.

KHUYẾT: Bảo thủ, phong kiến, ý chí không kiên định, nhát gan, cố chấp, máy móc.

THIÊN QUAN:

ƯU: Hào sảng, hiệp nghĩa, uy nghiêm trang trọng, thông minh nhanh nhạy, chủ động trong vấn đề tình
cảm, không chịu lùi bước, có tính quyền uy, tích lũy, tiến thủ.

KHUYẾT: Kích động, vô lễ, tính cách phản nghịch, sa đọa cực đoan, không thích bị quản chế, thích bạo
lực, tự hủy hoại mình, đa nghi, có tâm thù dai, bá đạo, quật cường không chịu khuất phục, chủ nghĩa cá
nhân, chỉ biết đến bản thân mình...

BÀN THÊM VỀ CHÍNH, THIÊN QUAN.

Thiên quan còn gọi là Sát, Thất sát. Về phương diện lục thân, đại diện cho chồng thứ hai của mệnh nữ, là
con trai của mệnh nam. Thiên quan và Chính quan về cơ bản có công dụng giống nhau, nhưng Chính
quan lấy hợp tác làm chính, tính khí ôn hòa, Thất sát lại lấy cạnh tranh làm chính, tính khá nóng nảy, bá
đạo vô tình.

Người có mệnh cách Thiên quan, nếu bát tự chế hóa vừa phải, thì Sát có thể thành quyền, giàu có, nắm
quyền thế lớn. Nếu chế hóa không hợp lý thì nhật trụ suy yếu (thiên quan quá vượng), họa đến khó
lường trước được, nhật trụ mạnh, chịu được thì mệnh cũng quái dị.

Chính quan thường được các nhà mệnh lý học gọi là Lộc thần, có nghĩa là bổng lộc, ở thời phong kiến,
lộc đại diện cho chức quan. Trong mệnh nhất định phải có chính quan mới tốt. Nếu quan tinh hiển lộ ra
ở thiên can, mà có sự hỗ trợ của Tài, Ấn, trong tứ trụ không có Thương, Sát hành vận lại đến đất Quan,
là mệnh phú quý. Chính quan không nên bị hình, xung, phá, hại, gặp Thương quan, Thất sát, tham hợp
quên quan (gặp hợp, hợp mất quan), Kiếp tài, Tỷ kiên (bị chia bớt quyền), gặp các trường hợp như thế
gọi là phá cách, ứng với Chính quan mất tác dụng, không thành đạt.
Bạn đọc nên tham khảo thêm sách Tam mệnh thông hội, trong đó có giới thiệu một số loại Quan khác, là
các Quan được xem xét theo trụ năm.

5/ TÀI TINH ĐẠI DIỆN CHO VỢ, CHA VÀ TÀI PHÚ.

Có một câu hỏi phổ biến, tôi thường gặp khi tiếp xúc với mọi người là: Bao giờ tôi, em, (bây giờ là)
cháu... lấy vợ, bao giờ có người yêu, gặp được người yêu mình để lấy... làm vợ. Trả lời câu hỏi này rất dễ,
bạn tìm xem trong tứ trụ, mệnh chủ có tài tinh không, nếu tài tinh nằm trên trụ tháng, trụ năm, vượng
tướng ắt nhất định có vợ, bất kể nhật can vượng suy thế nào. (nhật can suy là người sợ vợ, bị vợ sai
khiến, chỉ huy, nếu mình vượng thì ngược lại). Tài tinh xuất hiện ở trụ ngày, trụ giờ thì lấy vợ muộn hơn
(với mệnh nữ là cưới chồng, tìm xem quan tinh ở đâu). Nếu trong mệnh không xuất hiện tài tinh, đây là
một thông tin bất lợi, nhiều khả năng, cuối đời sống cô đơn (phụ thuộc tài tinh ở vận cuối đời có hay
không, tức xuất hiện trong vận hay không). Tiếp theo, bạn tìm trong đại vận, ứng vời thời kì nào (đang
trong tuổi thanh niên, trung niên, ở tuổi lấy vợ thì tốt), tài tinh xuất hiện trong hành vận, có nghĩa là
trong 10 năm hành vận ấy, đều có cơ hội lấy vợ. Thời điểm kết hôn thường ứng với cung hôn nhân xảy
ra biến động, tức là địa chi trụ ngày phát sinh xung hợp với Thái tuế, Lưu niên, hoặc đang hợp bị xung,
đang xung bị hợp.

Một người không có tài tinh (hoặc quan tinh) trong mệnh, nếu kết hôn nhờ vận, lưu niên thì cần phải hết
sức đề phòng khi qua vận, lúc ấy dễ phát sinh ra các xung đột trong quan hệ vợ chồng. Không biết giữ
gìn, ắt ly hôn là khó tránh khỏi. Bạn đọc nên chú ý điều này. Tôi thường hay quan sát, ngầm kiểm tra
trong thực tế, xác suất rất cao xảy ra đối với nhiều người mà tứ trụ thiếu, hoàn toàn vắng bóng quan
tinh (với nữ), hay tài tinh (với nam).

Chính tài đại diện cho vợ chính, thiên tài đại diện nhân tình. Vào các năm tháng, đại vận xuất hiện thiên
tài, mệnh chủ nếu là người thân vượng, không những ứng với việc đột nhiên có tiền, 'trúng quả" làm ăn,
tiền đột nhiên từ trên trời rơi xuống mà còn có thể "trúng quả" ai đấy nhảy vào, trở thành nhân tình, đe
dọa cuộc hôn nhân chính thống. Người chưa vợ trở thành có vợ ở thời điểm may mắn này. Tất nhiên,
mọi may mắn nói trên lại trở thành tai họa với người "thân nhươc", không kham nổi tài, mệnh chủ thân
nhược không những mất tiền mà hôn nhân của mình có thể trở nên "bung bét', có nguy cơ mất cả chì
lẫn chài.

Với những người (cả nam lẫn nữ), khi trong mệnh không xuất hiện Quan tinh (nữ), hoặc tài tinh (nam),
rất nhiều trường hợp là do không có khả năng hấp dẫn được người khác giới tính. Tuy nhiên vẫn còn
một thông tin khác, bất chấp mệnh có tài tinh, quan tinh hay không, đó là sao "hàm trì", hay còn gọi là
sao "đào hoa", tức là trong mệnh (tứ trụ của họ) xuất hiện một trong các địa chi Tý, Ngọ, Mão, Dậu (với
Mộc là Tý. Hỏa, Thổ là Mão. Kim là Ngọ. Thủy là Dậu), chúng đều là đất mộc dục của các ngũ hành.
Những người này nếu muốn kết hôn đều không khó, song do họ mang nhiều cá tính đặc biệt, có thể lại
không bao giờ muốn gắn bó lâu dài với bất kì ai, rốt cuộc nhiều người trong họ vẫn không có hôn nhân.
Ông Thiệu vĩ Hoa trong cuốn 'Dự đoán theo tứ trụ" nói rằng: Người trong mệnh mà có tài tinh thì nhất
định không bao giờ rơi vào hoàn cảnh bí bách. Tôi thì thường hay nói với khách của mình rằng: Cháu
không rơi vào số Tịt. Mức độ giầu có, tiền của thế nào phục thuộc vào quan hệ mạnh yếu giữa nhật can
với hành biểu thị cho tài tinh... ấy. Nếu mệnh chủ thân nhược, thì chỉ duy nhất gặp tình huống có tỷ kiên,
kiếp tài trợ giúp mới có thể khá lên được.

Giả sử có người sinh ngày Giáp mộc, hàm trì ở Tý, khi gặp năm Tý là gặp hàm trì, chủ về nếu chưa vợ sẽ
ứng với sự kiện có thể kết hôn, nếu đã có gia đình thì dễ phát sinh quan hệ với người khác. Tài tinh của
người này là Mậu, Kỉ thổ. Nhưng nếu ngày sinh của vợ cũng là Mậu thổ, vậy nhân tình và vợ cả hai chính
là một người. Chỉ khi ngày sinh của vợ là Kỉ thổ hoặc các ngũ hành khác, thì việc có nhân tình mới có thể
xảy ra...

VÀI ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA CHÍNH, THIÊN TÀI.

CHÍNH TÀI,

ƯU: Chăm chỉ, tiết kiệm, thật thà, nhẫn nhục chịu khó, đối với tiền bạc có thái độ thực tê, thực dụng,
tính tình thiên về hướng bảo thủ, cần kiệm, tình cảm chân thành.

NHƯỢC: Keo kiệt, bủn xỉn, thiếu chí tiến thủ, nhu nhược bất tài, mưu cầu lợi lộc, quá câu nệ vào tiền tài,
đã có được thì rất khó buông tay.

THIÊN TÀI.

ƯU: Khảng khái, trọng tình, thông minh lanh lợi, lạc quan, yêu đời, biết tiến thoái, không câu nệ vào tiền
tài vật chất, là người trọng nghĩa khinh tài...

KHUYẾT: Vung tay quá trán, không biết tiết chế, phù hoa, phong lưu, không biết chân trọng vật chất, tình
cảm, tùy tiện, lãng phí, phô trương hình thức, tham lam, ham hưởng thụ, dối trá, đầu cơ trục lợi, thiếu
tinh thần trách nhiệm, không chân thành...

TÓM TẮT VỀ PHƯƠNG PHÁP XEM MỆNH KHÔNG THÔNG QUA DỤNG THẦN.
Việc dùng dụng thần hay không dùng dụng thần chẳng qua là hai cách nhìn, hai cách xem xét tứ trụ khác
nhau, kết quả rút ra thế nào cũng giống như khi ta giải các bài toán thời còn đi học, bắt buộc chúng phải
cho ra cùng một đáp đáp số, nếu làm đúng. Như thế thì dụng thần chính là một công cụ, chẳng qua là
thứ phương tiện dùng để giải bài toán số mệnh, tựa như khi ta giải một số bài toán số học ở cấp 1,
nhưng dùng đến phương pháp đại số là lập ra phương trình có một hay nhiều ẩn số ở cấp hai vậy.. Bạn
đọc nào hứng thú, muốn tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn... hiển nhiên, nên biết, cần biết càng nhiều công
cụ càng tốt.

Bạn muốn biết về sự thành đạt, thi đỗ, thăng quan, danh tiếng... tất tần tật gì gì thuộc về số mệnh của
mình hay ai khác, muốn biết những tính chất, đặc điểm một người mà các đặc điểm, tính chất ấy do
Quan tinh, Thất sát đảm nhiệm, đại diện. Hãy so sánh mức độ mạnh yếu, tương quan lực lượng giữa hai
ngũ hành, tức giữa nhật can và quan tinh, xem chúng cần thiết với nhau đến đâu, khi nào có lợi, khi nào
thành hại... Có lợi, hữu ích thì các ưu điểm lộ ra, là hại ắt ứng với các khuyết điểm..

Tương tự, với các thông tin khác như giàu có, lấy vợ, quan hệ anh em, bạn bè, bố mẹ yếu khỏe, khả năng
học tập, khi nào thuận lợi để kinh doanh, có thể kinh doanh, khi nào thi cử nhiều khả năng đỗ đạt nhất
(ấn tinh, thương quan, thực thần), xuất ngoại (trạch mã), vân vân... Cách làm cũng tương tự, là so sánh
ngũ hành nhật can với các ngũ hành khác, chúng đại diện cho gì, tượng trưng gì, ắt ứng với sự việc
tương ứng, liên quan... Trong các bài mà tôi đã viết, những thông tin cần đến này đều đã có... đầy đủ, đủ
dùng, nói chung là bạn sử dụng được chúng... thì ắt trình độ dự đoán như thế đã là quá đủ để xem cho
mình... và cho các người thân, không cần nhờ thêm ai, nhờ thầy... nào hết.

Việc "cân, đong, đo, đếm" sự mạnh yếu của các ngũ hành phụ thuộc trước tiên vào lệnh tháng (khí hậu
nóng lạnh khác nhau, thuận lợi cho gì rõ ràng bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi các mùa), yếu tố ảnh hưởng
thứ hai, rất đáng kể là trụ giờ (buổi trưa nóng hơn buổi tối...), sau đó là trụ ngày, trụ năm (nạp âm trụ
năm mà ta thường gọi là mệnh sa trung kim, lô trung hỏa... vân vân phụ thuộc, ảnh hưởng từ các vì sao
trong hệ mặt trời như sao Kim, sao Mộc, sao Hỏa...).

Tính chất, đặc điểm, khả năng, tình tình... mỗi cá nhân không bất biến, mà thay đổi theo thời gian, theo
vận, theo hoàn cảnh... tức phụ thuộc các ngũ hành... đại diện cho gì.. chiếm ưu thế, gây ảnh hưởng chủ
yếu đến nhật can. Đó là kết quả tổng hợp, hôm nay tốt, ngày mai xấu và ngược lại, tuy nhiên sẽ thăng
giáng xung quanh các yếu tố chủ đạo bị quy định của ngày tháng năm sinh...nguồn gốc gia đình, anh em
họ hàng, địa phương, nơi cư trú... lúc ra đời.

TẠI SAO TỰ XEM CHO MÌNH LẠI TỐT HƠN NHỜ THÀY?
Thứ nhất, lý do là không ai quan tâm đến mình sâu sát, kĩ càng, thân thiết, mến yêu, cụ thể... bằng mình
với chính mình.

Thứ hai, tuy trình độ xem... của mình không bằng ai nhưng do quan tâm, suy nghĩ về chúng hàng ngày
thì các chi tiết tỉ mỉ, cụ thể mà mình tìm ra ắt chính xác hơn các thày, bởi họ chỉ tiếp xúc với mình trong
chốc lát, gặp nhau ngắn ngủi, có thể thày sẽ không nghĩ tới, kịp nghĩ tới các chi tiết, thông tin... quan
trọng ấy, để thông báo cho mình biết.

Thứ ba, mình biết rõ về mình nhất, hiển nhiên có điều kiện kiểm chứng tốt nhất, đối chứng tốt nhất,
xem các lý thuyết... xem mệnh ấy chính xác đến đâu, cần điều chỉnh, hoàn thiện... thế nào, ứng thế nào,
khi vận dụng cho mình, mình tất nhiên sẽ cẩn thận nhất, thận trọng nhất, không thể cứ dễ dàng, thử
xem sao, chọn các phương pháp có khi lại là mạo hiểm mà ông thầy nào đấy cứ ra sức khuyên mình
(khuyên cứ lấy... ai đấy chẳng hạn, nếu nhầm sẽ hối hận cả đời...)

Thứ tư, tứ trụ của mình là một tình huống cụ thể trong ty tỷ các tình huống số mệnh trên đời, do đó các
thông tin, kiến thức mình cần biết, cần thu thập sẽ ít hơn rất nhiều so với một ông thày, là người muốn
xem được hết... cho mọi người. Ngoài ra, khi ta giải một bài toán 'số mệnh" của chính ta, làm đi làm lại
trong suốt thời gian... cả cuộc đời, ắt ta giỏi hơn bất kì ai khác, hơn bất kì một ông thày nào khác, nhất
định đúng hơn, chính xác hơn, tỷ mỉ hơn nhiều lần... Lý do, bạn đã tự biết rồi.

Còn một điều cuối cùng, ở bài này, tôi muốn nhắn... đến bạn đọc:

Giả sử bạn muốn ăn bát phở. Bạn tìm đến một cửa hàng nào đấy mình thấy ưng ý, ta trả tiền, rồi ăn.
Trường hợp bạn muốn tự nấu, rõ ràng ta có thể hỏi bạn bè, ông chủ quán cách làm... song, bạn bè hay
ông chủ quán ấy không thể làm thay bạn, bạn phải tự mình biết cần cho vào... bao nhiêu hành, thịt, đun
lâu mau... thế nào?

Tương tự vậy, bạn có thể hỏi tôi bất cứ... gì, nhưng không thể không tìm hiểu, không biết gì, không đọc...
rồi cứ hỏi. Tôi rất khó chịu với những người thích "ăn sẵn" như thế.

Tất nhiên, còn một tình huống đặc biệt khác, nếu bạn là cha mẹ, vợ con, anh em, bạn bè... người thân
của tôi. Tất nhiên khi đó, tôi phải sẵn sàng nấu cho bạn ăn... bát phở ấy, rồi sung sướng, hồi hộp, phấn
khởi xem thấy bạn ăn... ngon miệng thế nào, có hài lòng hay không?

Hết bài một trăm linh sáu.


Còn một cách tìm dụng thần rất dễ mà độ chính xác tương đối cao. Phân tích (sơ lược) tứ trụ bát tự
của một số người nổi tiếng Trung quốc.
Bạn đọc nào từng đọc sơ qua các bài viết trước của tôi, đến ngày hôm nay, chắc hẳn đã nhất trí với
quan điểm rằng: Tháng sinh chính là khí hậu của bát tự tứ trụ, quyết định rất lớn đến sự vượng suy
của tất cả các thiên can, địa chi, tức số mệnh mỗi cá nhân. Thứ nhì là thời điểm sinh, tức sáng trưa
chiều tối trong ngày, là trụ giờ, thứ ba là địa chi ngày, và cuối cùng mới đến trụ năm.
Mùa xuân, cây cối đâm chồi nảy lộc, hành mộc vượng thì hành kim tất suy yếu. Mùa hè hỏa vượng
tướng, tất hành thủy suy yếu. Mùa thu, mộc suy yếu, và mùa đông lạnh lẽo tất nhiên là hành hỏa
suy yếu.
Đối với đại đa số chúng ta, những người bình thường, hiển nhiên có cấu trúc tứ trụ bình thường
(nếu khác thường thì hoặc là ta đã thành đạt rồi hay chết... rồi), sinh mùa xuân tất sẽ thiếu kim,
hoặc chí ít là, nhìn chung cần bổ sung kim, mùa hè cần thủy, mùa đông cần hỏa. Khả năng này
chiếm đến 70% hoặc hơn với mọi cấu trúc tứ trụ.
Tác giả cuốn sách "Tự xem bát tự", ông Lý cư Minh, đã nghĩ ra một cách tìm dụng thần dễ nhất cho
đại đa số mọi người muốn biết về mệnh nhưng không có điều kiện hay thời gian đi sâu, nghiên cứu
kĩ, như sau:
Người sinh tháng Dần, đầu mùa xuân, đối diện với Dần là Thân, đầu mùa thu, dụng thần lấy Canh
kim.
Sinh tháng Mão, đối diện với Mão (hay xung Mão) là Dậu, dụng thần là Tân kim.
Sinh tháng Thìn, xung Thìn là Tuất, trong Tuất hàm chứa Tân, Mậu, Đinh, tùy tình hình ta chọn một
trong ba ngũ hành này.
Sinh tháng Tỵ, dụng thần lấy khí hàm chứa trong Hợi, tức Nhâm thủy làm chủ đạo.
Sinh tháng Ngọ, lấy Quý thủy trong Tý làm dụng thần.
Sinh tháng Mùi, lấy Sửu, chứa các khí Kỉ, Tân, Quý, một trong chúng làm dụng thần.
Sinh tháng Thân, tất nhiên xung Thân là Dần, lấy Giáp mộc làm chủ đạo.
Sinh tháng Dậu, xung Dậu là Mão, lấy Ất mộc làm dụng thần.
Sinh tháng Tuất, lấy Mậu, Ất, Quý có trong Thìn làm dụng thần.
Sinh tháng Hợi, xung Hợi là Tỵ, trong Tỵ chứa Canh, Bính, Mậu, một trong chúng là dụng thần.
Thông thường, tính theo dương lịch, những người sinh trong các ngày từ 19/2 đến 4/5 thuộc các
năm bất kì, sẽ cần kim, thiếu kim, hoặc khuyết kim.
Mệnh cần thủy: Sinh trong khoảng từ 5/5 đến 7/8 dương lịch.
Mệnh cần mộc: Sinh trong các ngày từ 8/8 đến 7/11 dương lịch
Người cần hỏa: Sinh trong các ngày từ 8/11 đến 18/2 dương lịch
Ví dụ, một người có bát tự, Khôn tạo: Binh dần, Đinh dậu, Mậu thìn, Canh thân.
Ta thấy, cô gái này sinh mùa thu, kim vượng, trụ giờ lại là Canh thân, nên thiếu mộc trầm trọng.
Hành mộc tượng trưng Quan, Sát, ứng với công danh, sự nghiệp đồng thời là chồng. Nhất định ở
hai việc này không gặp may mắn, thuận lợi bằng người khác. Theo lập luận trên, cần lấy mộc làm
dụng thần, tức lấy Ất mộc trong Mão (xung Dậu). Nếu trong hành vận, gặp năm tháng xuất hiện Ất
mộc dụng thần, thì ắt sẽ gặp may mắn, thuận lợi. Thực tế không chỉ đơn giản như vậy. Để ý rằng,
trụ năm có thiên can Bính hỏa, Bính tọa đất trường sinh Dần mộc (nạp âm Lô trung hỏa, là lò lửa
mạnh), nên khi Ất mộc xuất hiện phải cần thêm chút trợ giúp là hành thủy, một mình Ất có thể không
đủ, sẽ bị Bính, Đinh hỏa thiêu cháy. Tốt nhất là nên xuất hiện cả hai hành thủy lẫn mộc. Vậy, phải
tùy vào vận mà dụng thần là Thủy, hoặc Mộc, hoặc cả hai đồng thời.
Do vậy, dễ thấy rằng, về cơ bản như thế, song khi vận dụng cần linh hoạt, tùy tình hình, dụng thần
cũng cần thay đổi khi này khi khác. Điều này rất phù hợp trong thực tế, ta đã thấy có nhiều người
hôm trước lương thiện, hôm sau thành lưu manh (và ngược lại), ngày xưa... biết yêu thương gia
đình vợ con nhưng sau đó thay đổi... vân vân.
Biết mình cần gì, kị gì, là ta có thể cải mệnh, cải thiện một chút, tăng thêm may mắn trong cuộc
sống hàng ngày. Giả sử có người kị mộc (sinh mùa xuân, hoặc trong tứ trụ hành mộc quá nhiều,
chiếm thế áp đảo), nhưng thường thích mặc quần áo màu xanh, nhà ở nơi có nhiều cây xanh, thích
nuôi thỏ, hoặc mèo (Trung quốc coi thỏ là Mão, Việt nam là mèo), đó đều là các hành động sai lầm,
cách sống gây khó cho mình. Nếu là nam giới, mộc nhiều tượng trưng hình thức ưa nhìn, anh tuấn,
song tính tình cô độc, quái dị, không bình thường. Nữ giới thì dễ trở thành người thích đi ve vãn,
quyến rũ đàn ông.
Tình huống khác, người sinh tháng Mão, nhật can là Mậu, vậy Mão (hay Ất trong Mão) là chính
quan. Vì là mùa xuân, quan đã vượng rồi, người này vẫn cố chấp, phóng đại cho Mão mộc vượng
lên thêm nữa (mặc quần áo xanh, trồng nhiều cây, nuôi cá, có bể cá to trong nhà, nuôi nhiều
mèo...), thì vì quan cũng đồng thời tượng trưng, đại diện cho kỉ cương pháp luật, anh ta (ông ta) sẽ
rất dễ vướng vào các kiện tụng, thị phi, bị mất danh dự...
Ngoài ra Mão còn là sao Đào hoa, và nếu Mão ấy là kị thần thì sẽ vì Đào hoa mà gặp nạn lớn (quan
chức TQ gần đây ngã ngựa, có nhiều người vướng phải nạn này). Nếu Mão là Tài tinh, sẽ vì tiền
mà hao tiền tốn của, Mão là ấn tinh, biểu thị mẹ có thể gặp nạn, gặp chuyện không may mắn, sự
nghiệp học hành của chính bản thân bị trở ngại, ăn uống ngủ nghỉ gặp... vấn đề...
Tóm lại, bạn kị gì mà luôn tiếp cận nó, phóng đại nó lên ắt gặp chuyện không may mắn, ứng với các
sự việc mà yếu tố kị, hành kị ấy đại diện.
YẾU TỐ HỢP CỤC CÓ THỂ SINH RA BIẾN HÓA KHÔN LƯỜNG.
Các địa chi có thể kết hợp với nhau hình thành tam hợp, lục hợp, tam hội, các thiên can cũng có thể
kết hợp tạo ra các biến hóa trong khi hành vận, khi gặp lưu niên thái tuế... Việc hợp hay không hợp,
hợp có thể hóa hay không phụ thuộc rất lớn vào nguyệt chi, như thế là nguyệt chi khống chế toàn
bộ sức mạnh của bát tự, kiêm luôn cả các "hợp cục" này. Có những thuật ngữ rất phổ biến kể cả
trong các môn khác như xem quẻ Dịch, phong thủy, như: Trong xung gặp hợp, trong hợp gặp xung,
tham hợp quên quan, hoặc quên... gì đấy, chính là chỉ sự biến hóa, nhờ hợp mà hóa giải được yếu
tố xung bất lợi (hoặc ngược lại)...
Ví dụ, bạn sinh tháng Tý, thì các cục hợp như Bính Tân, Thân Tý Thìn, Hợi Tý Sửu, là các cục thủy
có thể hợp hóa thành công. Tương tự vậy, sinh tháng Ngọ thì các cục hỏa có thể hợp hóa thành
công, tháng Dậu, cục kim có thể thành công, tháng Mão là cục mộc có thể hợp hóa thành công.
Mỗi khi xảy ra hợp cục mà thành hóa, toàn bộ bát tự chịu sự chi phối bởi khí ngũ hành hợp hóa này,
ứng với các bước ngoặt trong cuộc đời, trong sự nghiệp của bạn, có thể là bất ngờ giầu có, thăng
tiến... hay ngược lại, là rùi ro, thất bại thảm hại (tôi đã gặp, đã xảy ra với chính mình).
PHÂN TÍCH VÀI ĐẶC ĐIỂM CÓ TRONG BÁT TỰ CỦA MỘT SỐ NGƯỜI NỔI TIẾNG (Trích, và lấy
thông tin từ trong cuốn "Tự xem bát tự" của ông Lý cư Minh)
1/ Nhật can Giáp mộc
Càn tạo: Ất tỵ, Bính tuất, Giáp thìn, giờ sinh: không biết.
Giáp mộc khi sinh trưởng là một loại cây có thân to, luôn cần đến nước tưới tắm, nước ấy là Quý
thủy. Sau khi khi trưởng thành, người ta hay dùng để làm xà, côt, xây nhà, tạo ra các đồ vật ích lợi,
do đó cần có Canh kim đến đẽo gọt. Trong quá trình "sản xuất, chế tạo đồ gỗ", ắt cần đến một chút
lửa, tức là cần Đinh hỏa. Người Giáp mộc, thân vượng, hữu khí, nếu trong mệnh có đủ Đinh hỏa,
Canh kim. Quý thủy là nhất định thành danh, thành đạt.
Người có tứ trụ ở ví dụ trên là Quách phú Thành, một diễn viên điện ảnh nổi tiếng Trung quốc.
Giáp mộc sinh ở tháng Tuất, trong Tuất tàng chứa Đinh hỏa (thương quan), biểu thị sức sống năng
động, tài hoa, có ý chí vươn lên (Chú ý: Giáp mộc không gặp Đinh hỏa dễ rơi vào trạng thái tinh
thần ủ rũ, chán nản). Trong Tỵ tàng chứa Canh kim, hiện chưa hiển lộ song nếu gặp cơ hội, Canh
kim phát huy tác dụng thì Giáp mộc ắt trở thành hữu ích, giá trị. Tháng Tuất tuy là cuối thu, hành
kim đã suy yếu nhưng không thể coi là yếu nhược do vậy khi gặp vận, ắt tiếng tăm, địa vị nổi bật, sẽ
là điều dễ trở thành hiện thực. Quan sát các đại vận, từ năm 53 tuổi đến 62 hành đại vận Canh thìn,
chính là thời kì vươn lên đỉnh cao (trước đấy không hiển lộ được).
Trong 3 trụ năm, tháng, ngày ta đều thấy khí hậu khô khan, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, dễ thấy
ngay rằng dụng thần cần nhất là Quý thủy (Nhâm thủy không thích hợp với Giáp mộc).
Bạn đọc nào theo dõi quá trình thành đạt của anh, ắt rõ sự nghiệp, thành tựu của anh có những
thay đổi thăng trầm, không thuận lợi, đặc biệt vào các năm hỏa vượng. Vì Quý thủy tương tự như
Tý, nên các năm Ngọ sẽ là các năm có hạn, Tý Ngọ xung nhau, mặc áo đỏ, di chuyển nơi công tác
về phương nam (đến Úc), chọn người cộng tác, đại diện cho mình... vân vân tuổi Ngọ, hoặc trong
bát tự của họ hàm chứa khí hỏa mạnh đều bất lợi...
2/ Nhật can Ất mộc.
Ất mộc là một thứ cây, cỏ, dây leo không thể tự mình vươn lên cao (cần cọc, cây khác để bám vào).
Trong khi Giáp mộc rất thích được đẽo gọt, thì Ất mộc kị Kim, gặp Kim, Ất mộc có thể bị đốn gãy.
Hiển nhiên Ất mộc cần ánh nắng mặt trời để lớn lên, phát triển, tức cần đến Bính hỏa, và không thể
thiếu nước, tức thiếu Quý thủy.
Ất mộc nếu sinh mùa đông, là thủy nhiều, ẩm thấp, nấm mốc gây hại, ắt cần đến Bính hỏa, thì đã rõ.
Mùa hè, khí hậu khô nóng, hiển nhiên cần thủy, song vì thủy mùa hè muốn đủ mạnh, hữu khí, lại
cần đến nguồn của nó tức cần xuất hiện thêm Canh kim. Ất mộc kị kim, không thể dùng, vậy thứ
thích hợp nhất với Ất mộc mùa hè là Thổ ẩm ướt, tản nhiệt, có thể làm dịu mát đi khí hậu khô nóng,
đó là thổ của Sửu và Thìn. Ngoài ra, do Ất mộc kị kim (Tân kim là xấu nhất) thì dù có sinh tháng
Mão cũng không nên lấy Dậu kim làm dụng thần.
Ất mộc thích Bính hỏa, là ánh nằng mặt trời, sự xuất hiện Tân kim có thể hợp mất đi Bính hỏa. Hai
yếu tố thuộc Bắc và Nam rất cần cho Ất mộc là Quý (tượng trưng Tý, phương bắc) và Bính (tượng
trưng Ngọ hỏa, phương nam). Thiếu Bính, Ất mộc thấy toàn thân mệt mỏi, không hưng phấn, thiếu ý
chí. Đối với hành thổ là Tài, Ất mộc cần Thìn, Sửu trong mùa hè, cần Mùi Tuất nếu sinh mùa đông.
Quan sát thực tế, do dê ứng với Mùi, chó ứng với Tuất, nhiều người thích ăn thịt dê, thịt chó, thích
ăn... hơn những người khác, lại có người thích trang trí trong nhà mình hình các con rồng hoặc trâu,
đều là do yếu tố cần... các thứ này của Ất mộc. Từng có người sinh ngày Ất tháng Ngọ, vào năm
2001, là năm Tân tỵ đã chết, bị kim khắc chết, tác giả "Tự xem bát tự" thông báo vậy.
3/ Nhật can Binh hỏa (Mai diễm Phương)
Khôn tạo: Quý mão, Nhâm tuất, Bính tuất, giờ sinh: Không biết.
Bạn đọc hãy tưởng tượng một cảnh vật thế này: Trên có Trời cao, mây trắng, ánh nắng rực rỡ, dưới
đất có dòng nước, sông nước trong xanh... ở một vùng quê... nào đấy. Người xưa quan niệm Bính
hỏa nhật can, tứ trụ cần có Nhâm thủy, Bính hỏa kị thổ, gặp thổ ắt suy yếu, hành tới vận thổ chính
là gặp vận suy, không may mắn. Lại tưởng tượng, một ngày đẹp trời, nhưng bị bụi làm cho vẩn đục,
chính là gặp thổ vậy, nói cách khác Bính hỏa kị bùn đất. Có câu: "Bính hỏa mãnh liệt, tan sương
chảy tuyết, có thể luyện Canh kim, gặp Tân, Tân sợ hãi (Tân sợ gặp Bính, gặp là bị nấu chảy thành
nước, Bính Tân hợp thủy là vì vậy). Gặp thổ thì là người mẹ hiền từ (hỏa sinh thổ), gặp thủy thì
hung dữ, Dần Ngọ Tuất đến thì thân thiết, Giáp đến bị diệt"
Nhật can của Mai diễm Phương sinh vào tháng Tuất, tượng trưng môi trường ô nhiễm, bụi bặm.
Hỏa sinh thổ, thổ là con cái, học trò của Bính hỏa, suy luận ra rằng càng nhiều học trò, mệnh chủ
càng suy. May mắn ở tứ trụ này là Mão Tuất hợp hóa, có thể thành hỏa, Mão là ấn tinh, nghĩa là mẹ
và học trò có thể trợ giúp Bính hỏa, Bính hỏa trở nên vượng khí. Trong nhiều thời điểm, ở vào các
năm tháng phù hợp, Mão Tuất thành hóa, khi ấy hành hỏa thành ra quá vượng, quá vượng lại là kị,
kị nên biến thành không hợp với mẹ và các anh em trong nhà. Hỏa là tỷ kiếp, tỷ kiếp đoạt tài, đây
cũng là các thời kì mệnh chủ thu nhập thấp kém, làm ăn khó khăn, hoặc buộc phải chi phí cho mẹ
và các anh chị em trong nhà, tiêu đi khá nhiều tiền.
Hỏa nóng cần thủy, bát tự của chủ nhân có hai thiên can thủy là Nhâm và Quý. Quý thủy chính quan
đại diện cho chồng, Nhâm thủy là tình nhân. Mai diễm Phương suốt đời khao khát, muốn tìm thấy
người tâm đắc, chia sẻ tâm hồn với mình là do chữ Nhâm có trong mệnh. Trong Tuất tàng chứa
Mậu thổ, do vậy Quý bị khắc, bị hợp đi mất, Mậu Quý hóa hỏa là làm tăng thêm sức nóng của bát
tự. Quý thủy trong cơ thể ứng với cơ quan nội tạng là Thận, cũng tương ứng với cơ quan sinh dục
nữ, suy ra nếu trong hành vận mà gặp thêm thổ nữa sẽ là nguy hiểm, phát sinh bệnh tật, có thể
nguy hiểm tình mạng.
Vào tháng Sửu, năm Quý mùi, Mai diễm Phương qua đời. Đây là thời điểm có 3 thổ gặp nhau, Bính
bị tiết khí, Sửu Tuất Mùi tam hình, hành vận cũng đang là Sửu thổ.
4/ Nhật can Đinh hỏa (Chương tử Di)
Khôn tạo: Kỉ mùi, Bính dần, Đinh mùi, Tân hợi.
Đặc điểm của người có nhật can Bính hỏa là rất thích làm việc thiện (ánh sáng mặt trời tỏa sáng nơi
nơi), bất kể Bính hỏa vượng hay suy. Ngành thích hợp làm việc cũng thuộc hỏa là ngành giáo dục,
người Bính hỏa rất nhiệt tình trong các công việc liên quan đến từ thiện và giáo dục. Trái lại, người
có nhật can Đinh hỏa đặc biệt thích việc kiếm tiền, và cũng có duyên với việc kiếm tiền.
Đinh hỏa là ngọn lửa nhỏ, nhưng sức sống dai dẳng, nên có tuổi thọ nhìn chung cao hơn Bính hỏa,
tính nhẫn nại cũng cao hơn Bính hỏa.
Quy luật phổ quát là, nhật can dương tuổi thọ kém hơn người nhật can âm. Người mệnh dương khi
mắc trọng bệnh thường nhanh chóng ra đi, mệnh có nhật can âm thì kéo dài dai dẳng, phần lớn là
thời gian từ lúc mắc bệnh đến khi kết thúc... đều lâu hơn.
Đinh hỏa sinh vào thời điểm có nhiều thủy hiển nhiên suy nhược, nhưng Đinh hỏa gặp được Giáp
mộc (tượng trưng củi, Ất không dùng làm củi được), thì lập tức vượng lên, được cứu. Vậy Giáp mộc
chính là dụng thần cần nhất, đầu tiên của Đinh hỏa. Tiếp theo, muốn củi cháy đượm, Giáp mộc cần
đến Canh kim để chẻ nhỏ ra, ngoài ra nếu lượng Canh kim vừa đủ, khiến Đinh hỏa thể hiện uy
phong (điều này giống như đắp đê, đê không có nước, sẽ không có ích lợi gì), nên Canh kim cũng
là dụng thần cần thiết với Đinh hỏa.
Đinh hỏa là ngọn lửa nhân tạo, là đèn, nến, nếu gặp thủy cục, thủy mạnh, ắt bị dập tắt, khi này cần
đến thổ khống chế thủy, vậy thổ (Mậu thổ mới chặn nổi thủy) sẽ là dụng thần số 3 của Đinh hỏa.
Chương tử Di sinh ngày Đinh hỏa, âm nhật can, chủ tính cách nhu hòa, mệnh nữ Đinh hỏa, xinh
đẹp hơn người, ngoài nhu trong cương, biết tiến thoái thích hợp. Mệnh có thực thần nhiều hóa
thương quan (thực thần mạnh, nhiều, luận như thương quan, quan nhiều hóa sát... vân vân), thân
lại vượng, do đó cá tính mạnh mẽ, độc lập tự chủ, trắng đen rõ ràng, không thích bị ràng buộc, có ý
chí phấn đấu vươn lên (đều là các tính cách tích cực của thương quan). Ngày sinh là Đinh mùi,
trong đó Mùi thuộc cung hôn nhân, đến vận Canh ngọ, phát sinh Ngọ Mùi hóa hợp, đây chính là thời
điểm hôn nhân thành tựu.
Trong mệnh Mộc Hỏa trùng trùng, nhật can cường vượng, Cường vượng ưa bị tiết khí (bị khắc, bị
khống chế là gây xung đột mẫu thuẫn). Năm 19 tuổi hành đại vận thương quan, tài năng hiển lộ.
Năm 29 tuổi hành đại vận thực thần, chủ về tài hoa và linh khí, ở giai đoạn trung niên đại diện cho
phong thái và khí chất. Trong vòng 10 năm từ 29 đến 39 tuổi, tài năng và sự nghiệp càng phát triển
rực rỡ.
5/ Nhật can Mậu thổ (Thư Kì)
Mậu thổ có công đức giúp con người phòng lũ lụt, nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới có nhật
can Mậu thổ. Mậu thổ là đất rắn, cần có Dần Mão mộc vừa phải để làm cho tơi xốp, khai thông thổ.
Đặc điểm của người nhật can Mậu là phải dày nặng mới thuộc mệnh tốt, hành vận ở thế cường
vượng thì sẽ gặp may mắn như ý. Mậu thổ sinh mùa đông cần thêm Bính hỏa sưởi ấm (chính là cần
gặp Dần, tàng chứa cả Giáp mộc và Bính hỏa), vào mùa có thủy, nước lên, Mậu thổ mới thể hiện
được công dụng của mình, do đó Mậu thổ không sợ cường vượng, mà sợ suy nhược.
Đối với các phương pháp luận mệnh thông thường, chủ yếu nghiêng về sự cân bằng mới coi là tốt.
Riêng đối với Mậu thổ, thổ vượng tựa như có thêm đất đắp vào, không có gì là bất lợi cả. Người có
nhật can Mậu thổ, cần dụng thần là Bính hỏa, Quý thủy, và Giáp mộc. Có đủ cả ba, nhất định thành
đạt, thuộc mệnh tốt.
Khôn tạo: Bính thìn, Nhâm thìn, Mậu tuất, giờ sinh: không biết.
Đây là bát tự của một nhân vật từng gây tiếng vang lớn ở Hong kong trong một thời gian, nhưng sau
đó lại nhanh chóng bị chìm xuống, đó là Thư Kì. Phàm người sinh ngày Mậu thổ, rất không nên là
ngày Mậu tuất, vì đó là ngày Quả tú, Cô thần, chủ về nương nhờ của Phật hoặc lưu lạc chốn phong
trần.
Thời cổ đại, thường những người làm các nghề nghệ thuật và ni cô có cùng mệnh cách, đều là
những người mệnh khổ. Thời xưa quan niêm xuất gia là vì sinh kế bức bách, xuất gia hay hành khất
giống nhau. Mậu tuất là thổ cứng rắn, hình khắc chồng, cha mẹ, chỉ có thể trở nên hữu dụng (đồng
nghĩa với thành công, thành đạt), nếu dùng đất ấy đắp đê, cống hiến hy sinh vì mọi người. Hiển
nhiên, phải xuất hiện hành thủy để đê ấy (đất ấy) thể hiện tài năng, công dụng của mình. Trong địa
chi Thìn của tứ trụ trên có ẩn tàng Quý thủy. Đó là dụng thần thứ nhất.
Dụng thần thứ hai, mà Mậu thổ cần là Bính hỏa, ở đây Mậu đã vượng rồi, nên Bính không thể quá
mạnh. Thiên can năm trong mệnh Thư Kì có Bính hỏa. Dụng thần thứ 3 là Giáp mộc, cần đến để
Mậu thổ được tơi xốp, Giáp mộc có công dụng khơi thông thổ.
Trong thời gian từ 19 đến 24 tuổi, Thư Kì hành vận Dần mộc, mậu thổ gặp Dần mộc là tượng "Tiếng
sấm nơi đồng bằng", trở nên vô cùng nổi tiếng, đó cũng chính là liên quan đến thanh danh và tiền
bạc. Từ sau 24 tuổi, vào vận Kỉ thổ (các vận lần lượt là Tân mão, Canh dần, Kỉ sửu, Mậu tý...).
Bạn đọc nên để ý đến chữ Kỉ trong vận, đối với nhật can Mậu thổ, Ất mộc là chính quan, ứng với
chồng, Giáp mộc thiên quan là nhân tình, người yêu, đồng thời cũng có thể là chồng nếu Ất mộc
không xuất hiện. Trong mệnh này, mỗi khi xuất hiện Giáp mộc, thuộc vận Kỉ thổ, Giáp lập tức hóa
hợp với Kỉ, lệnh tháng lại là Thìn. Thìn là biến đổi, ứng với các thăng trầm trong cuộc đời. Chuyện
phiền muộn lớn nhất trong đời của nhật chủ là cứ hễ xuất hiện Giáp mộc, ứng với việc có bạn trai,
người yêu... chồng tương lai, ắt sẽ bị đám bạn chị em của mình quyến rũ đi mất (vì Giáp hợp Kỉ hóa
thổ thành công). Trong vận Mậu tý tuy có đỡ hơn nhưng cũng vẫn là bị cạnh tranh... tương tự.
6/ Nhật can Kỉ thổ (Châu nhuận Phát).
Kỉ thổ cũng giống Mậu thổ, cần đến mặt trời, tức Bính hỏa chính ấn đến trợ giúp, Kỉ thổ thuộc âm
nên cũng đồng nghĩa gắn bó với mẹ. Người sinh ngày Kỉ nói chung rất cần mẹ đẻ che chở, giúp đỡ.
Hiển nhiên thứ cần tiếp theo là thủy, và là Quý thủy. Có nước nhỏ tưới tắm, kỉ thổ mới có thể trở
nên màu mỡ, giúp cây cối sinh sôi, phát triển. Nhưng Kỉ vốn đã là đất mềm, tơi xốp rồi, không cần
đến Giáp mộc nữa. Kỉ thổ nếu bắt buộc phải cần có mộc thì một chút Ất mộc là đầy đủ, hoàn hảo,
và tất nhiên là không nên có quá nhiều.
Càn tạo: Ất mùi, Tân tỵ, Kỉ mão, giờ sinh: không biết.
Các đại vận: Canh thìn, Kỉ mão, Mậu dần, Đinh sửu, Bính tý, Ất hợi...
Bạn đọc để ý đến chữ Tỵ ở tháng sinh, như đã biết Tỵ có thể hợp Thân, gặp Thân mà có thủy dẫn
hóa sẽ hóa thủy. Tỵ gặp Dậu, Sửu có thể hóa kim. Việc biến hóa này sẽ là thay đổi rất lớn trong số
mệnh của nhật chủ. Hiện tại Tỵ vẫn thuộc hỏa, Tỵ gặp Mùi gọi là củng hỏa, nghĩa là còn thiếu một
chữ Ngọ ở giữa thì thành tam hội (trong một ví dụ ở phần trên cũng xuất hiện tình huống củng, như
Thân với Thìn củng Tý, gặp Tý là được điền đầy thành tam hợp. Việc củng... cái gì này là một tiêu
chí thông tin tốt đối với một số cấu trúc tứ trụ, mà khi điền đầy lại thành xấu...)
Trong mệnh trên, Tỵ Mùi củng Ngọ, cho thấy thông tin hỏa vượng, Kỉ thổ có Ấn sinh, nên cường
vượng, đôi khi sẽ là cường vượng quá mức (ở năm tháng nào đó), ứng với sự nghiệp thăng trầm,
nhiều lần thất bại. Trong Tỵ ẩn tàng Canh kim, thiên can trụ tháng là Tân, do vậy xét trên quan điểm
lưu thông khí vận, cần một chút thủy ắt sẽ thành công, thành đạt. Bát tự thiếu thủy, Người Trung
quốc bổ sung điều này bằng cách đặt tên. Châu nhuận Phát, khi còn nhỏ được gọi là Phát tử, chữ
Phát hàm chứa Quý thủy, chữ Tử chính là Tý thủy.
Sau 44 tuổi, vào đại vận Bính tý, Tý tàng Quý thủy, biểu thị có nhiều cơ hội phát triển, nổi lên. Chữ
Bính thiên can biểu thị thế lực cản trở, vì vậy trong 10 năm này, ắt sẽ bỏ phí mất nhiều cơ hội (ở vào
vận Sửu tốt hơn một chút).
Đối với nam giới, cung con cái, hay hành ứng với con cái là Quan hoặc Sát. Quan, Sát của nhật chủ
trong mệnh này thuộc hành mộc. Vì Tỵ mùi củng hỏa, hỏa mạnh thiêu cháy mộc. vợ anh từng bị sảy
thai là do vậy. Quan sát các đại vận, chính Tý vận mới là vận nhật chủ có thể sinh con, do Tý xung
Ngọ (xung mất củng) để Tỵ có thể biến hóa (gặp Thân hóa thủy chẳng hạn), ứng với việc sinh con.
Hết bài một trăm linh bảy.
Bài một trăm linh tám.
Còn một cách tìm dụng thần rất dễ mà độ chính xác tương đối cao. Phân tích (sơ lược) tứ trụ bát tự
của một số người nổi tiếng Trung quốc, và thế giới.
7/ Nhật can Canh kim (Lương chấn Anh).
Canh kim là kim ngoan cường, là kim cường vượng (rắn nhất trong ngũ hành) và có sự khác biệt rất
lớn so với Tân kim. Người có nhật can Canh kim cần gặp Đinh hỏa thì mới có thể có được vận tốt.
Nếu không có Đinh hỏa thì chỉ là thứ kim vụn nát mà thôi, vĩnh viễn không thể thành khí (ý nói
khoáng sản không nung luyện, không thể trở nên đồ vật có ích lợi). Phàm bát tự của người nhật can
Canh kim cần phải có lượng lớn Đinh hỏa mới tốt (tốt nhất là tương quan lực lượng ngang bằng,
tương đương nhau). Đinh hỏa là thứ lửa cần được duy trì, do đó lại phải cần thêm Giáp mộc. Bộ ba
Giáp, Đinh, Canh cần đi cùng nhau, cần xuất hiện đầy đủ trong bát tự, hay tối thiểu là trong vận
(ứng với thời kì thành danh, thành đạt), và kết hợp chặt chẽ với nhau.
Một ví dụ mệnh tốt là bát tự của Lương chấn Anh:
Càn tạo: Giáp ngọ, Nhâm thân, Canh...
Ngày Canh sinh tháng Thân là Canh cường vượng, khí mạnh. Trên trụ năm có Ngọ tàng chứa Đinh
hỏa, lại gặp Giáp, thì chính là một mệnh cách không tầm thường.
Các đại vận: Quý dậu, Giáp tuất, Ất hợi, Bính tý, Đinh sửu, Mậu dần, Kỉ mão...
Dễ thấy, trong mệnh này, dụng thần hiển nhiên cần lấy là mộc, hỏa. Giáp mộc được Nhâm thủy
sinh, vậy dụng thần là Đinh hỏa. Bước vào đại vận Đinh sửu, trong 10 năm này, hễ có năm nào hỏa
vượng, ắt là gặp may mắn. Đinh hỏa đồng thời cũng là Chính quan, tượng trưng uy tín, danh vọng,
tiếng tăm, địa vị xã hội. Tuy vậy, vì trong Sửu thổ không tàng chứa hỏa, Sửu là thổ ẩm, sinh kim, tản
nhiệt, làm suy yếu hỏa nên cũng nhiều lúc thăng trầm, gặp nhiều việc, nhiều cản trở, sự nghiệp
không như ý muốn, không thể trọn vẹn.
Canh kim, nếu gặp tam hợp Dần Ngọ Tuất, hoặc tam hội Tỵ Ngọ Mùi, mà trong bát tự, đại vận
không có cứu trợ thì có thể bị nung chảy, tượng trưng sự nghiệp, sức khỏe xuống dốc, thậm chí
chết chóc, vong mạng. Cốt lõi vấn đề nằm ở dụng thần thế nào, mức độ cần hỏa đến đâu. Giả sử
trong bát tự có các địa chi Dần, hoặc Ngọ, hoặc Tuất là kị thần thì khi gặp hỏa cục ắt là nguy hiểm.
Lương chấn Anh thành công nổi bật trong năm 2007, là năm Đinh hợi, đại vận Đinh sửu, hai Đinh
hội tụ khiến hỏa mạnh lên, các năm sau hỏa suy yếu do vậy đây có lẽ là năm đỉnh cao trong sự
nghiệp của nhật chủ.
8/ Nhật can Tân kim (Lưu Hoan).
Canh kim cần hỏa mạnh để tôi luyện, trái lại Tân kim là thứ kim loại, đồ trang sức, ngọc trai, là kim
đã thành đồ vật, không cần hỏa nữa. Tân kim có khuynh hướng thích băng giá, bản thân Tân kim
bất luận có nhiều băng giá hay không vẫn tình nguyện tiếp tục đóng băng (ý nói thích thủy mùa
đông), không cần hỏa đến nung nóng (trái với Canh kim, cần hỏa sưởi ấm, mùa đông không có hỏa,
Canh kim vô dụng). Tân kim kị nhất hảo mạnh, sợ nhất Đinh hỏa, Tân gặp Đinh là gặp tai ương. Bát
tự nếu quá lạnh lẽo cần hỏa sưởi ấm thì đối với Tân kim tốt nhất là gặp Bính hỏa, bởi gặp Bính thì
Tân có thể biến đổi, hợp hóa thành thủy.
Thổ ướt có thể sinh trợ Tân kim, nhưng Tân bị bám đầy bùn đất, lại phải cần đến Thủy để tẩy rửa,
nên dụng thần thứ nhất mà Tân kim cần chính là hành thủy, cụ thể phải là Nhâm thủy. Ta thấy, để
Tân sinh vượng, phát triển, ắt cần đến thổ, sau lại cần thủy, muốn sưởi ấm thì là Bính hỏa. Đấy
chính là 3 dụng thần cần nhất của Tân kim (Kỉ thổ, Nhâm thủy và Bính hỏa). Tình huống "thổ dày
chôn kim" chính là bên cạnh Tân chỉ toàn thổ, chỉ toàn đất cứng, là chỉ trường hợp này đối với hành
kim. Đất cứng ẩn chứa Đinh hỏa, hỏa sinh thổ nên gọi là thổ dày, khiến kim trở nên quá nóng, thổ
khô không sinh được kim gọi là kim bị chôn vùi. Muốn giải cứu phải cần đến Mộc khai thông thổ, tức
là Giáp mộc (Ất mộc không thể đảm nhiệm nổi vai trò này), sau đó lại cần thủy đến tẩy rửa.
Người xưa nói: "Tân kim mềm yếu, dịu dàng thanh khiết, kị thổ nhiều, ưa thủy vượng". Tân kim sợ
nhất thổ vượng, đồng nghĩa với không chịu nổi sự chăm sóc, yêu thương quá mức của mẹ, hoặc
cha quá phong lưu khiến Tân có quá nhiều mẹ, rơi vào tình huống 'thổ dày chôn kim". Nhật can Tân
kim, nếu có người cha quá phong lưu, mình có nhiều mẹ, tất một đời không làm nên trò trống gì,
biểu tượng không có vận tốt, không thể thành công.
Càn tạo: Quý mão, Canh thân, Tân sửu, Giáp ngọ.
Trong mệnh này, Tân kim sinh tháng Thân là kim vượng tướng, thích hợp bị tiết khí, tức nên dùng
thủy làm dụng thần. Quý thủy trên trụ năm là thực thần, được kim sinh, thông gốc trong Sửu thổ, do
đó thực thần hữu dụng, chủ về nhật chủ bộc lộ tài hoa. Ngũ hành trong bát tự lưu thông hữu tình,
Giáp mộc sinh Ngọ hỏa, Ngọ hỏa sinh Sửu thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh thủy, mà là thủy vượng, thủy
sinh tiếp Mão, Giáp mộc... Đúng là một con người tài hoa xuất chúng. Quý thủy thực thần tượng
trưng, thích hợp trong các lĩnh vực nghệ thuật, thủy có căn, vượng khí, trong thực tế nhật chủ là
người năng khiếu, có sở trường về ca hát, lại tinh thông ngoại ngữ. Ngọ là quan, sát, là danh khí,
đại diện sự nghiệp. Từ 20 tuổi, Lưu đức Hoa hành đại vận Ngọ hỏa, bắt đầu nổi danh. Vận Đinh tỵ
tiếp theo, giống như ánh mặt trời tỏa sáng rực rỡ, năm 2008, anh được Trương nghệ Mưu chọn làm
người hát chính ở thế vận hội Olympic.
9/ Nhật can Nhâm thủy (La Văn).
Nhâm thủy là thủy dương, chủ về người không dễ gặp đau khổ, thất bại. Nhâm thủy là nước sông
Hoàng hà, Trường giang, chỉ dòng nước lớn, hồ nước lớn, sông lớn. Phàm người có Nhật can
Nhâm thủy không sợ thủy cường vượng, thủy nhược, thủy khô cạn mới là đau khổ lớn nhất, bất lợi
lớn nhất. Trong hai tình huống, cường vượng ắt gây ra lũ lụt, nước tràn lan và khô cạn, thì khô cạn
xấu hơn. Nhật can suy nhược, tức gặp đại nạn sẽ khó vượt qua hơn rất nhiều, so với trường hợp
ngược lại là cường vượng.
Ví dụ, càn tạo: Canh dần, Mậu dần, Nhâm ngọ, giờ sinh: Không biết.
Nhâm thủy của người trong mệnh này (La Văn), khi gặp vận có thể nổi lên, gây tiếng vang lớn, song
vì Nhâm yếu nhược, nếu gặp thời điểm bất lợi, ắt là nguy hiểm trùng trùng, khó khăn hơn người
khác rất lớn. Trong Ngọ ở trụ ngày hàm chứa Đinh hỏa. Đinh Nhâm có thể hợp mộc, biểu thị mất đi
bản tính, hành thủy trong mệnh nếu không có thêm (gọi là có cứu) thì đồng thời có nghĩa, là không
tồn tại Nhâm thủy nữa, thậm chí có thể còn ứng với thời điểm qua đời, là vong mạng. Vì Nhâm yếu
nhược nên trong thực tế có thời điểm chủ nhân dường như gây được tiếng vang lớn, lại cũng có
thời sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực.
Quan sát các đại vận: Kỉ mão, Canh thìn, Tân tỵ, Nhâm ngọ, Quý mùi...
Trước 16 tuổi, chủ nhân hành đại vận Mão mộc, đây là thời điểm vận thế kém nhất. Thời gian này,
anh học nghề thiết kế thời trang, rồi cùng bạn bè tụ tập thành lập ban nhạc. Từ 16 tuổi trở đi, vào
vận Canh thìn, kim sinh thủy, Nhâm thủy có gốc trong Thìn, do vậy La Văn dần nổi tiếng, nhưng vì
thân nhược không gánh nổi tài nên tiền kiếm được cũng không nhiều. Từ 26 tuổi hành vận Tân tỵ,
Tỵ là đất tuyệt của thủy, tuy được kim sinh nhưng lực sinh không đủ mạnh, cần có Tỵ Dậu hoặc Tỵ
Sửu kim cục để tạo đột phá nhưng tiếc thay trong suốt vận này, không xuất hiện cơ hội nào cho anh
thi thố.
Vào vận Nhâm thủy, đúng lẽ là thời cơ thuận lợi để sự nghiệp thăng hoa, nhưng Ngọ gặp Ngọ tự
hình. Địa chi Ngọ do ở bên cạnh Nhâm thủy nên là hạn chế lớn nhất, gây khó lớn nhất đối với Nhâm
thủy. Ngoài ra còn phải kể đến Mậu thổ. Nếu Nhâm thủy cường vượng thì Mậu thổ phát huy công
dụng, trở thành con đê chắn nước, ngăn thủy đầy tràn không cho gây lụt lội, vào các năm tháng
thủy vượng La Văn trở nên nổi tiếng là nhờ có Mậu thổ này. Nhưng khi Nhâm thủy suy yếu thì Mậu
thổ lại là nhân tố gây hại, ứng với danh tiếng càng cao càng gây thêm phiền toái, chuốc họa vào
mình, anh chịu nhiều thị phi bất lợi là do vậy. Vào vận Quý mùi, Mậu Quý hợp hóa hỏa, tháng tư
(Tỵ) năm 2002, Tỵ Ngọ Mùi tam hội hợp hóa hỏa cục, trụ ngày Nhâm ngọ gặp Thái tuế Nhâm ngọ
phạm phục ngâm, cũng là Ngọ Ngọ tự hình, La Văn qua đời trong tháng tư năm 2002.
10/ Nhật can Quý thủy (Lưu đức Hoa).
Quý thủy là nước yếu, nước mưa, nước sương, nhưng cũng giống với Nhâm thủy, hành thủy nhìn
chung không sợ cường vượng (hai dòng nước hợp lại không gây hai cho nhau). Thủy nhược cần
được bổ sung, sinh trợ để trở nên cường vượng mới là mệnh tốt. Dụng thần đầu tiên cần có là
Canh hoặc Tân kim. Nếu Quý thủy lại trở nên quá vượng, vượng quá mức cần thiết thì lại cần đến
hỏa và mộc để tiết bớt khí đi (khác Nhâm thủy, dùng Mậu thổ ngăn lại).
Càn tạo: Tân sửu, Đinh dậu, Quý hợi, giờ sinh: không biết.
Đây là bát tự của Lưu đức Hoa, chính là trường hợp Quý thủy vượng quá mức, cần đến Mộc, Hỏa
làm dụng thần.
Các đại vận là: Bính thân, Ất mùi, Giáp ngọ, Quý tỵ, Nhâm thìn, Tân mão, Canh dần...
Ta thấy, bắt đầu từ năm 17 tuổi, nhật chủ bước vào đại vận Ất mùi, rồi Giáp ngọ, Quý tỵ, là các vận
mộc hỏa tương sinh, kéo dài 30 năm, đỉnh cao đời người của nhật chủ đạt được chính là trong thời
gian này. Trong thực tế Lưu đức Hoa, từ sau 20 tuổi đã dần nổi tiếng ở lĩnh vực điện ảnh, đó là lúc
hành vận Mùi thổ. Hai mươi năm tiếp sau, đều là Tài tinh Bính Đinh hỏa lên ngôi vượng tướng, chủ
về thu nhập cao, gây dựng nên sản nghiệp, giàu có.
Trong vận Quý tỵ, Tỵ hàm chứa Bính hỏa tài tinh, nhưng Tỵ cũng có thể dễ dàng hóa hợp, với Dậu,
với Sửu thành ấn tinh, nghĩa là mất tài, phá tài. Nếu giờ sinh của mệnh chủ có bổ cứu như sinh vào
giờ Mùi, giờ Ngọ, thì Tỵ hỏa có xung hướng theo hỏa, không hóa kim, nghĩa là vẫn giữ được tài
phú. Năm 2008, Mậu tý, hành thủy do kết hợp thêm với thủy có trong mệnh, trở nên kiếp tài, phá tài,
Lưu đức Hoa vì ham đầu tư nên bị mất một số tiền lớn. May mắn là Quý thủy thuộc âm nhu, có sức
chịu đựng dẻo dai hơn Nhâm thủy, các tổn thất do phá tài, bại tài... đều không như Nhâm thủy, thiệt
hại bao giờ cũng nhỏ hơn. Can âm luôn không dễ dàng bị tiêu diệt, chẳng hạn Nhâm thủy suy
nhược gặp Mậu đê điều quá mạnh chủ về bị người khác mắng nhiếc, khinh miệt, Nhâm dễ mất tự
chủ dẫn đến các hành động sai lầm, gây nên thiệt hại lớn. Đối với Quý thủy, không rơi vào tình
huống như vậy, do họ khôn khéo, nhẫn nại hơn.
Trong thực tế dự đoán, các vận hạn, may rủi, thành công, thất bại của các thiên can nhật chủ, ngoài
phụ thuộc vào cấu trúc tứ trụ của riêng mình ra, họ đều còn chịu ảnh hưởng tương đối lớn của
những người thân đang sống bên cạnh, ở bên cạnh mình. Nếu tứ trụ của cha mẹ, vợ con, anh em,
bạn bè.. hay bất cứ ai mình có giao tiếp, quan hệ thường xuyên trong đời sống mà có các đặc điểm
bổ sung, khắc phục được các khiếm khuyết trong mệnh hay trong vận hạn... thì đều có thể giảm bớt
cái xấu... tăng thêm tốt... Việc xem thêm, biết thêm tứ trụ của những người ấy... là rất cần thiết, ta
thấy không ngẫu nhiên mà người xưa lại rất quan tâm đến việc so Tứ trụ của các cặp đôi sắp lấy
nhau, muốn lấy nhau, đang muốn trở thành bạn bè, vợ chồng của nhau...
NHỮNG DẤU HIỆU BÁO TRƯỚC TRONG TỨ TRỤ CỦA NGƯỜI GIÀU CÓ.
1/ Bát tự "có bệnh", dễ phát đạt.
Trong "Ngũ ngôn độc bộ" nói rằng: "Có bệnh mới là quý, không thương không là kì, trong mệnh
cách nếu loại bỏ bệnh, tài lộc theo nhau đến"
Bệnh ở đây chính là chỉ kị thần. Trong các bài trước tôi đã có từng nói, bát tự tứ trụ của những
người bình thường, sống cuộc đời phẳng lặng thì có cấu trúc cũng bình thường, bình bình, giống
nhau, ngũ hành trong tứ trụ nói chung bình hòa, thường cân đối, không thiên lệch quá mức so với
nhau.
Nhưng nếu, giả sử tứ trụ, ai đấy... quá thiên lệch, thiếu một ngũ hành nào đó, hoặc có ngũ hành quá
nhược, quá suy yếu thì khi đại vận, năm tháng nào... khiến cho sự thiên lệch này mất đi hay giảm
bớt, chính là lúc may mắn đến, mệnh chủ ắt có sự thay da đổi cốt, thành công bất ngờ trong sự
nghiệp, tiền tài, danh vọng...
Trong khoảng thời gian từ 1999 đến 2000, trên vũ đài kinh tế Hong kong
xuất hiện một ngôi sao: Lý trạch Khải. Tứ trụ của nhân vật Lý trạch Khải như này:
Càn tạo: Bính ngọ, Kỉ hợi, Tân mùi, Nhâm thìn.
Tân kim được Kỉ thổ, Mùi thổ, Thìn thổ sinh nên tuy suy nhược mà là có cứu, nếu gặp Canh Tân là
Tỷ kiếp trợ giúp đồng thời lại có thêm hỏa để cân bằng với thủy mạnh (do sinh mùa đông) thì sẽ là
may mắn, tốt đẹp.
Năm 1998 Mậu dần, 1999 Kỉ mão, Dần Mão đều góp phần khơi thông thổ, trong Dần tàng chứa
Bính hỏa, lĩnh vực làm việc của nhật chủ là máy tính, khoa học công nghệ, đều thuộc hỏa. Do đó
trong hai năm này, công việc hanh thông (chủ yếu do chữ Dần của lưu niên). Ta thấy, trụ năm Bính
ngọ cùng với Mậu dần kết hợp khiến hỏa mạnh lên, địa chi giờ Thìn thổ có tác dung thu bớt thủy
của Nhâm, Hợi tránh cho Tân kim không bị tiết khí quá mạnh. Ấn tinh thổ tuy sinh kim nhưng quá
nhiều lại cần bị khắc bớt, Dần mộc ở đây đã đóng vai trò đó. Kết quả, Lý trạch Khải nổi lên, trở
thành tỷ phú đô la Hông kong thời gian đó.
Vào năm Canh thìn, 2000, tháng 3 âm lịch năm ấy cũng là Canh thìn, Quá nhiều thổ khiến hỏa bị
tản nhiệt, cắt ngọn, không thể bùng cháy. Hai Canh hội tụ, kết hợp Tân kim lại thành ra quá nhiều, là
"tỷ kiếp đoạt tài", năm này anh thua lỗ, mất đi một số tiền lớn...
Mệnh cách này minh họa cho câu: "có bệnh mới là quý". Bệnh ở đây là hành thổ, Dần mộc là thuốc
chữa bệnh. Có bệnh, gặp thuốc quý nên thành công, tài lộc theo nhau đến là do vậy.
2/ Thân, Tài lưỡng đình, quyết định mệnh phú quý đệ nhất.
Lý gia Thành (tỷ phú Hông Kong)
Càn tạo: Mậu thìn, Mậu ngọ, Giáp thân, Mậu thìn.
Các đại vận: Kỉ mùi, Canh thân, Tân dậu, Nhâm tuất, Quý hợi, Giáp tý, Ất sửu...
Giáp mộc sinh tháng Ngọ, ở đất tử địa, chính là bệnh. Giáp tọa Thân, lực khắc chế ngay bên cạnh
mình, nên thân nhược rõ ràng, cũng là một loại bệnh khác. Trong Thìn ở trụ năm và giờ tàng chứa
Ất mộc, Giáp được coi như có căn, có thể nhận được trợ giúp của ấn tinh, là hành thủy. Hành thủy
là một thứ thuốc cứu mệnh. Nếu trong hành vận gặp được thủy mộc, khiến thân vượng lên, cân
bằng với Tài tinh, thuộc thổ, thì đó chính là tình huống Thân, Tài lưỡng đình (hoặc thân mạnh, nên
khảm nổi tài, ắt ứng với thời kì gặp may mắn, làm ăn phát đạt).
Trong tứ trụ này, thiên tài Mậu thổ vượng tướng, Mậu còn được Ngọ hỏa liên tục sinh cho, vấn đề
còn lại chỉ là "thiếu một chút gió đông", tức cần Nhật can cường vượng (hoặc vượng dần lên, mạnh
hơn trước). Bắt đầu từ năm 38 tuổi, nhật chủ hành vận Nhâm tuất, thủy sinh mộc, Giáp mộc dần
dần lớn mạnh, chủ sự nghiệp hanh thông, gây dựng được sản nghiệp. Từ năm 48 tuổi, rồi trong 30
năm tiếp theo, đều là các vận thủy mộc. Lý gia Thành trở thành một tỷ phú vô địch, giàu có sánh
ngang Thạch sùng, Đào chu ở đất Hông kong. Bạn đọc nên để ý đến Tài tinh của ông là Thiên tài,
chủ tiền tài từ trên Trời rơi xuống, ứng với lĩnh vực mà ông thành công nhất, gây dựng được phần
lớn gia sản là trên thị trường chứng khoán.
3/ "Tài thông môn hộ", một dấu hiệu khác báo trước mệnh phú quý thứ nhì.
Bill Gates. Càn tạo: Ất mùi, Bính tuất, Nhâm tuất, Nhâm dần.
Giờ sinh là Dần cùng với Tuất, thuộc trong tam hợp hỏa cục, củng Ngọ. Trong tất cả các địa chi Mùi,
Tuất, Dần đều tàng chứa hỏa, là Tài tinh vượng hơn so với Nhật can Nhâm thủy. Dựng thần, hỷ
thần của Nhâm thủy là Kim và Thủy. Khi hành vận hỏa hoặc gặp năm hỏa, là gặp vận tài, cần Nhâm
thủy vượng ắt thành công thành đạt. Trong cuộc sống, Tỷ kiếp chính là ứng với bạn bè, đồng
nghiệp, ứng với sự trợ giúp của bạn bè, đồng nghiệp rất hiểu quả, đắc lực. Ngoài ra, đối với người
cần Tỷ, Kiếp, khi Tỷ, Kiếp là hỷ dụng thần thường có nhiều bạn tốt, thích kết bạn (suy ra, người kị
Tỷ, Kiếp không nên có quá nhiều bạn). Sinh tháng Tuất mùa thu, trong Tuất tàng chứa Tân kim, là
ấn vượng, sinh phù Nhâm thủy đắc lực. Khi gặp các năm Canh, Tân, Nhâm, Quý, thì sẽ đều là các
năm may mắn.
Hết bài một trăm linh tám.

You might also like