Professional Documents
Culture Documents
Trong các bài viết trước của tôi, cũng như ở rất nhiều các tài liệu... xem tứ trụ, tử vi, các tác giả, người
xưa từng thống kê ra rất nhiều các đặc điểm, tính chất của Thực, Thương. Bạn đọc nên tham khảo, đọc,
ngẫm nghĩ, lĩnh hội dần. Ở thời bây giờ, tác giả cuốn sách "Tự xem bát tự", ông Lý cư Minh lại có những
tìm tòi mới, mà tôi cho là rất hợp lý, sáng tạo, đúng đắn, xin trích để mọi người biết thêm:
"Đối với nam giới, cái mà ta sinh ra không chỉ là con cái mà có thể là năng lực sáng tạo nghệ thuật hoặc
đồ đệ, học trò. Cái mà ta sinh ra chính là Thực thần, hoặc Thương quan. Ví dụ: Nhật can của một người
là mộc dương, thì hỏa dương là Thực thần, hỏa âm là Thương quan, biểu thị từ trong công việc sinh ra
thế lực phản đối, cũng đại diện cho đệ tử nữ và cấp dưới"
"Chính quan của mộc dương là Tân kim. Nữ đệ tử là Đinh hỏa, Đinh hỏa khắc chế Tân kim, tức làm tổn
hại đến Chính quan, vì vậy gọi là Thương quan. Đinh hỏa thường thiêu cháy Chính quan Tân kim, biểu thị
nam giới có nữ đệ tử sẽ ảnh hưởng đến công việc, không lợi cho danh tiếng"
"Nếu mộc là chồng, Mậu thổ là vợ, kim mà thổ sinh ra chính là con cái. Nếu vợ là thổ âm, kim âm được
sinh ra là con gái, kim dương là con trai. Do kim khắc mộc, thất sát của nam giới thuộc mộc là con trai,
chính quan thuộc mộc là con gái"
"Về phương diện ngũ hành sinh khắc, mệnh nam và mệnh nữ hoàn toàn khác nhau. Ngũ hành khắc chế
nhật can mệnh nữ đại diện cho chồng, tức chính quan. Thất sát đại diện cho tình nhân, và cũng đại diện
cho anh em thuộc nhà chồng", là anh em, bạn bè của chồng.
Vận dụng: Giả sử có người nữ, nhật can Giáp mộc, thì Tân kim là chồng, là Chính quan, Canh kim là anh
em chồng, nhân tình, Đinh hỏa thực thần là con gái, Bính hỏa con trai. Nếu trong tứ trụ không xuất hiện
Bính, Đinh, mà muốn sinh con cần chờ đến vận, đến năm tháng xuất hiện Bính, Đinh. Năm Bính sẽ sinh
con gái, năm Đinh sinh trai...
Nếu Thương quan, Thực thần là hành nổi bật trong tứ trụ (nằm ở lệnh tháng, hoặc tuy không có trong
lệnh tháng nhưng nhiều, liên kết nhau thành mạnh), mệnh lý học gọi là "cách thương quan, cách thực
thần", mệnh chủ thường có các tính cách sau:
THƯƠNG QUAN:
+ Thương quan đại diện cho sự thông minh, cao ngạo, tùy tiện, tình cảm phong phú, sớm trưởng thành,
giỏi ăn nói, giỏi giao tiếp, thích thể hiện, linh động, hoạt bát, khả năng lĩnh ngộ cao, năng lực học tập tốt,
phản ứng nhanh nhạy, cá tính, giỏi giang, coi trọng sự nghiệp, tự tin, không thích bị bó buộc, nhưng có
tính phản nghịch.
+ Thương quan vượng, hoặc khắc chính quan, tính tình trầm lắng, khả năng tự khống chế (đúng hơn, là
kiềm chế) kém, vui buồn lộ rõ, không thích bó buộc bởi lễ giáo, thiếu tính năng nổ, thiếu sự nhẫn nại.
+Cách cục thương quan kim, thủy, trưởng thành sớm, đa tình, đào hoa, tướng mạo đẹp, khả năng lĩnh
ngộ tốt.
+ Thực thần và Thương quan đều không sinh tài (trong tứ trụ, đại, tiểu vận, lưu niên không xuất hiện
tài), vẻ ngoài lạc quan mà bên trong không như vậy.
+ Thương quan mà không có tài dẫn hóa thì cuối đời vất vả bôn ba, không được nhàn thân.
+ Cách cục thương quan có hỏa đức thuộc Lễ, Thực, Thương tiết hóa vừa phải, thích giúp người, nhân
duyên tốt và đa tình, thường theo phe chính nghĩa.
+ Cách cục thương quan có thủy đức thuộc trí, chủ về thông minh, tuấn tú, học hành giỏi giang, lĩnh ngộ
tốt, đa tài đa nghệ.
THỰC THẦN:
+ Cách cục thực thần chủ về người thông minh, lạc quan, nho nhã, đa tài đa nghệ.
+ Cách cục thực thần chủ về người tài hoa, phản ứng nhanh nhạy, hài hước, hiếu khách, tấm lòng lương
thiện, thích vui chơi giải trí, thích theo đuổi những điều thú vị trong cuộc sống, có tài về âm nhạc.
+ Người có thực thần ẩn trong địa chi thì tài hoa khó biểu lộ ra, không giỏi biểu đạt.
+ Người thân vượng, Thực thần phá Ấn, cuộc sống tuy không lo lắng, nhưng khó trở thành đại phú, đại
quý.
+ Thân vượng, cách cục Thực thần sinh Tài, có thể làm kinh doanh mà phú quý. Hoạt bát, có kế hoạch, có
tài, giỏi mưu lược, dũng cảm, biết quản lý tiền bạc. Nhưng nếu hành vận ngược thì không nên làm kinh
doanh.
Ta thấy: mệnh chủ sinh tháng Mùi, trong Mùi hàm chứa Kỉ thổ, năm và giờ cũng đều chứa Ki, là cách
Thương quan. Hành thổ trong tứ trụ là Thương quan chiếm thế áp đảo. Nhật can trở nên suy nhược (tuy
được Dần mộc trường sinh) do đó Thương quan là hành bất lợi. Mọi tính cách tích cực, các ưu điểm của
Thương quan đều không có trong mệnh chủ. Các nhược điểm (suy luận ngược lại, thông minh thành dốt,
nhanh nhẹn thành chậm chạp, lạc quan thành chán nản...) sẽ chính là đặc điểm của người này. Nhật chủ
Bính hỏa bị tiết khí mạnh, theo quan điểm lấy dụng thần (hoặc không dùng từ dụng thần nữa) thì khi vào
các vận, năm tháng gặp Kim, để tiết bớt khí thổ đi mới là may mắn. Nhưng kim có thể khắc mất Dần mộc
vì vậy chỉ là các may mắn khiến cuộc sống bớt khó khăn chứ không thể giàu có thành đạt bằng người.
Hành vận mộc sinh hỏa để khắc chế thổ hình như tốt, song do Thổ quá mạnh, không chống lại được, vì
thế người này nhìn chung cuộc sống khó khăn, không thành đạt, không tài năng, toàn diện kém, xấu hơn
bình thường. Trong cuộc đời, chỉ duy nhất hành vận hỏa, hoặc gặp năm tháng có hỏa mạnh là tốt hơn cả
(nhưng bị tiết khí tiếp tục nên chỉ khá hơn mà thôi).
Càn tạo: Đinh dậu, Canh tuất, Bính dần, Tân mão.
Nhìn sơ qua thì Tứ trụ này hình như giông giống với ví dụ trước, nhưng khác ở chỗ mệnh chủ sinh mùa
thu, hành kim nhiều mà vượng tướng. Mậu thổ có trong lệnh tháng là Thực thần bị tiết khí mạnh. Hành
hỏa, ứng với nhật chủ tuy yếu, nhược, song có thêm trợ giúp, mệnh tốt hơn nhiều..., có thể luận mệnh
theo sự cân bằng của tứ trụ, nghĩa là ấn tinh được lấy làm dụng thần. Những ai dị ứng với khái niệm
dụng thần, thì chỉ cần tưởng tượng, nếu... thì. Nếu trong đại vận, lưu niên gặp mộc, mộc sinh Bính hỏa,
Bính hỏa có rễ, có sức, có thể nhận lấy sự sinh trợ này ắt khỏe mạnh hơn, ứng với các may mắn... có
thêm tiền bạc..., nếu gặp hỏa, sẽ là được bạn bè, đồng nghiệp, anh em trợ giúp... cũng là tốt... Thực thần
trong mệnh này ẩn trong nguyệt chi, không biểu thị ra bên ngoài được, mệnh chủ không giỏi biểu đạt,
không biết tự tiến cử mình... Tài nhiều khắc Ấn, nên không hứng thú với nghiên cứu học thuật, đồng
nghĩa với học hành chỉ cốt cho qua, không giỏi... Hành vận hợp với mộc hỏa, kị thổ, kim, thủy.
THỰC THẦN.
ƯU: lịch sự, tao nhã, đối đãi rộng lượng, lương thiện, biết quan tâm chăm sóc đến người khác, biết đủ,
không thích tranh đấu với đời, lạc quan, không thích độc tài chuyên chế, không tính toán công danh, làm
việc không cần báo đáp, tự do tự tại, khoan dung độ lượng, hòa khí sinh tài, quan tâm đến con người và
động vật, có tài năng thiên bẩm.
KHUYẾT; Nhát gan, sợ việc, không phân thị phi, quá nhu nhược, qua loa đại khái, không có chí tiến thủ.
THƯƠNG QUAN.
ƯU; Thông minh hoạt bát, tài hoa hơn người, thanh cao, hiếu thắng, thích danh khí, đứng mũi chịu sào,
lạc quan, coi trọng bản thân, ban ơn cho người khác nhưng lại hy vọng người ta cảm kích mình, tinh thần
rộng mở, thích tự do, linh hoạt thông biến, trời phú tài năng nghệ thuật cao, tràn đầy lòng hiếu kì và
thích cảm xúc mới lạ...
KHUYẾT: Buông thả, không thích bị ràng buộc, thích hư vinh, hay bàn luận viển vông, không thích ràng
buộc bởi lễ pháp thế tục, có tâm phản kháng. Ở trên người khác tất khắt khe, ở dưới người khác thì coi
thường mệnh lệnh, cố chấp, không tuân thủ quy tắc, tự cho mình là trung tâm vũ trụ, thích chia bè kết
phái.
QUAN SÁT ĐẠI DIỆN CHO CHỒNG, CÔNG VIỆC VÀ TIỂU NHÂN.
Trong tứ trụ, bát tự, bất luận là tương sinh hay tương khắc đều lấy âm dương tương phối là cát lợi (trừ
thực thần, thương quan). Điều này xuất phát từ các quan sát của người xưa, cùng cực đẩy nhau, khác
cực hút nhau, cây cối, sinh vật... con người đều cần có âm dương mới phát triển, thành đạt, kết trái...
Bất luận là mệnh nam hay nữ nếu có Chính quan đều chủ về người thuận lợi đi theo con đường hoạn lộ,
có thể thành đạt, có xu hướng muốn tuân thủ pháp luật, dễ tuân thủ các quy chuẩn về đạo đức, luân
thường... trong xã hội, trong gia đình. Hễ có Thất sát đều chủ về mệnh chủ dễ bị sa ngã, có thể làm điều
sai trái...
Thất sát đại diện cho thị phi, tiểu nhân. Trong trường hợp bát tự đều là thất sát, hoặc đều là chính quan
thì thất sát xuất hiện là tốt. Trường hợp này thuộc dạng cực đoan, khác biệt, thông thường ứng với
mệnh chủ là người kì tài, xuất chúng. Ở các tình huống bình thường, người ta rất kị cả hai đồng thời xuất
hiện, đặc biệt phụ nữ thì càng kị hơn. Đối với nam giới "quan sát hỗn tạp" biểu thị trắng đen bất phân,
bùn nát không xây được tường, tức không thể thành danh, thành đạt. Đối với nữ giới, vừa có chồng vừa
có tình nhân, cả hai gặp nhau, hiển nhiên phiền phức.
Chính quan đại diện cho công việc, danh tiếng, địa vị xã hội, nhận được sự tán thưởng của người khác.
Nếu lại có thêm thất sát, trong thanh danh có vết nhơ, có tiếng xấu, gặp thị phi bất lợi. Người vừa có
chính quan lẫn thất sát là người thuộc cả hai phe chính tà, trắng đen bất phân, cuối cùng khó tránh khỏi
kết cục thất bại. Trong cuộc sống, người làm quan mà câu kết với tà đạo, với xã hội đen, hiển nhiên phải
có lúc lộ ra, thanh danh mất hết và ngược lại "xã hội đen" mà liên kết với quan lại, cũng là trắng đen bất
phân, không thể chung đường, kết quả cuối cùng của hai bên sẽ đều là thất bại.
ƯU: Chính trực, trách nhiệm, tôn trọng pháp luật, đoan trang, nghiêm túc. Làm việc tuần tự, khách quan
công bằng, quang minh chính đại. Tự biết kiềm chế bản thân, giàu lòng nhân ái, coi trọng lợi ích tập thể.
KHUYẾT: Bảo thủ, phong kiến, ý chí không kiên định, nhát gan, cố chấp, máy móc.
THIÊN QUAN:
ƯU: Hào sảng, hiệp nghĩa, uy nghiêm trang trọng, thông minh nhanh nhạy, chủ động trong vấn đề tình
cảm, không chịu lùi bước, có tính quyền uy, tích lũy, tiến thủ.
KHUYẾT: Kích động, vô lễ, tính cách phản nghịch, sa đọa cực đoan, không thích bị quản chế, thích bạo
lực, tự hủy hoại mình, đa nghi, có tâm thù dai, bá đạo, quật cường không chịu khuất phục, chủ nghĩa cá
nhân, chỉ biết đến bản thân mình...
Thiên quan còn gọi là Sát, Thất sát. Về phương diện lục thân, đại diện cho chồng thứ hai của mệnh nữ, là
con trai của mệnh nam. Thiên quan và Chính quan về cơ bản có công dụng giống nhau, nhưng Chính
quan lấy hợp tác làm chính, tính khí ôn hòa, Thất sát lại lấy cạnh tranh làm chính, tính khá nóng nảy, bá
đạo vô tình.
Người có mệnh cách Thiên quan, nếu bát tự chế hóa vừa phải, thì Sát có thể thành quyền, giàu có, nắm
quyền thế lớn. Nếu chế hóa không hợp lý thì nhật trụ suy yếu (thiên quan quá vượng), họa đến khó
lường trước được, nhật trụ mạnh, chịu được thì mệnh cũng quái dị.
Chính quan thường được các nhà mệnh lý học gọi là Lộc thần, có nghĩa là bổng lộc, ở thời phong kiến,
lộc đại diện cho chức quan. Trong mệnh nhất định phải có chính quan mới tốt. Nếu quan tinh hiển lộ ra
ở thiên can, mà có sự hỗ trợ của Tài, Ấn, trong tứ trụ không có Thương, Sát hành vận lại đến đất Quan,
là mệnh phú quý. Chính quan không nên bị hình, xung, phá, hại, gặp Thương quan, Thất sát, tham hợp
quên quan (gặp hợp, hợp mất quan), Kiếp tài, Tỷ kiên (bị chia bớt quyền), gặp các trường hợp như thế
gọi là phá cách, ứng với Chính quan mất tác dụng, không thành đạt.
Bạn đọc nên tham khảo thêm sách Tam mệnh thông hội, trong đó có giới thiệu một số loại Quan khác, là
các Quan được xem xét theo trụ năm.
Có một câu hỏi phổ biến, tôi thường gặp khi tiếp xúc với mọi người là: Bao giờ tôi, em, (bây giờ là)
cháu... lấy vợ, bao giờ có người yêu, gặp được người yêu mình để lấy... làm vợ. Trả lời câu hỏi này rất dễ,
bạn tìm xem trong tứ trụ, mệnh chủ có tài tinh không, nếu tài tinh nằm trên trụ tháng, trụ năm, vượng
tướng ắt nhất định có vợ, bất kể nhật can vượng suy thế nào. (nhật can suy là người sợ vợ, bị vợ sai
khiến, chỉ huy, nếu mình vượng thì ngược lại). Tài tinh xuất hiện ở trụ ngày, trụ giờ thì lấy vợ muộn hơn
(với mệnh nữ là cưới chồng, tìm xem quan tinh ở đâu). Nếu trong mệnh không xuất hiện tài tinh, đây là
một thông tin bất lợi, nhiều khả năng, cuối đời sống cô đơn (phụ thuộc tài tinh ở vận cuối đời có hay
không, tức xuất hiện trong vận hay không). Tiếp theo, bạn tìm trong đại vận, ứng vời thời kì nào (đang
trong tuổi thanh niên, trung niên, ở tuổi lấy vợ thì tốt), tài tinh xuất hiện trong hành vận, có nghĩa là
trong 10 năm hành vận ấy, đều có cơ hội lấy vợ. Thời điểm kết hôn thường ứng với cung hôn nhân xảy
ra biến động, tức là địa chi trụ ngày phát sinh xung hợp với Thái tuế, Lưu niên, hoặc đang hợp bị xung,
đang xung bị hợp.
Một người không có tài tinh (hoặc quan tinh) trong mệnh, nếu kết hôn nhờ vận, lưu niên thì cần phải hết
sức đề phòng khi qua vận, lúc ấy dễ phát sinh ra các xung đột trong quan hệ vợ chồng. Không biết giữ
gìn, ắt ly hôn là khó tránh khỏi. Bạn đọc nên chú ý điều này. Tôi thường hay quan sát, ngầm kiểm tra
trong thực tế, xác suất rất cao xảy ra đối với nhiều người mà tứ trụ thiếu, hoàn toàn vắng bóng quan
tinh (với nữ), hay tài tinh (với nam).
Chính tài đại diện cho vợ chính, thiên tài đại diện nhân tình. Vào các năm tháng, đại vận xuất hiện thiên
tài, mệnh chủ nếu là người thân vượng, không những ứng với việc đột nhiên có tiền, 'trúng quả" làm ăn,
tiền đột nhiên từ trên trời rơi xuống mà còn có thể "trúng quả" ai đấy nhảy vào, trở thành nhân tình, đe
dọa cuộc hôn nhân chính thống. Người chưa vợ trở thành có vợ ở thời điểm may mắn này. Tất nhiên,
mọi may mắn nói trên lại trở thành tai họa với người "thân nhươc", không kham nổi tài, mệnh chủ thân
nhược không những mất tiền mà hôn nhân của mình có thể trở nên "bung bét', có nguy cơ mất cả chì
lẫn chài.
Với những người (cả nam lẫn nữ), khi trong mệnh không xuất hiện Quan tinh (nữ), hoặc tài tinh (nam),
rất nhiều trường hợp là do không có khả năng hấp dẫn được người khác giới tính. Tuy nhiên vẫn còn
một thông tin khác, bất chấp mệnh có tài tinh, quan tinh hay không, đó là sao "hàm trì", hay còn gọi là
sao "đào hoa", tức là trong mệnh (tứ trụ của họ) xuất hiện một trong các địa chi Tý, Ngọ, Mão, Dậu (với
Mộc là Tý. Hỏa, Thổ là Mão. Kim là Ngọ. Thủy là Dậu), chúng đều là đất mộc dục của các ngũ hành.
Những người này nếu muốn kết hôn đều không khó, song do họ mang nhiều cá tính đặc biệt, có thể lại
không bao giờ muốn gắn bó lâu dài với bất kì ai, rốt cuộc nhiều người trong họ vẫn không có hôn nhân.
Ông Thiệu vĩ Hoa trong cuốn 'Dự đoán theo tứ trụ" nói rằng: Người trong mệnh mà có tài tinh thì nhất
định không bao giờ rơi vào hoàn cảnh bí bách. Tôi thì thường hay nói với khách của mình rằng: Cháu
không rơi vào số Tịt. Mức độ giầu có, tiền của thế nào phục thuộc vào quan hệ mạnh yếu giữa nhật can
với hành biểu thị cho tài tinh... ấy. Nếu mệnh chủ thân nhược, thì chỉ duy nhất gặp tình huống có tỷ kiên,
kiếp tài trợ giúp mới có thể khá lên được.
Giả sử có người sinh ngày Giáp mộc, hàm trì ở Tý, khi gặp năm Tý là gặp hàm trì, chủ về nếu chưa vợ sẽ
ứng với sự kiện có thể kết hôn, nếu đã có gia đình thì dễ phát sinh quan hệ với người khác. Tài tinh của
người này là Mậu, Kỉ thổ. Nhưng nếu ngày sinh của vợ cũng là Mậu thổ, vậy nhân tình và vợ cả hai chính
là một người. Chỉ khi ngày sinh của vợ là Kỉ thổ hoặc các ngũ hành khác, thì việc có nhân tình mới có thể
xảy ra...
CHÍNH TÀI,
ƯU: Chăm chỉ, tiết kiệm, thật thà, nhẫn nhục chịu khó, đối với tiền bạc có thái độ thực tê, thực dụng,
tính tình thiên về hướng bảo thủ, cần kiệm, tình cảm chân thành.
NHƯỢC: Keo kiệt, bủn xỉn, thiếu chí tiến thủ, nhu nhược bất tài, mưu cầu lợi lộc, quá câu nệ vào tiền tài,
đã có được thì rất khó buông tay.
THIÊN TÀI.
ƯU: Khảng khái, trọng tình, thông minh lanh lợi, lạc quan, yêu đời, biết tiến thoái, không câu nệ vào tiền
tài vật chất, là người trọng nghĩa khinh tài...
KHUYẾT: Vung tay quá trán, không biết tiết chế, phù hoa, phong lưu, không biết chân trọng vật chất, tình
cảm, tùy tiện, lãng phí, phô trương hình thức, tham lam, ham hưởng thụ, dối trá, đầu cơ trục lợi, thiếu
tinh thần trách nhiệm, không chân thành...
TÓM TẮT VỀ PHƯƠNG PHÁP XEM MỆNH KHÔNG THÔNG QUA DỤNG THẦN.
Việc dùng dụng thần hay không dùng dụng thần chẳng qua là hai cách nhìn, hai cách xem xét tứ trụ khác
nhau, kết quả rút ra thế nào cũng giống như khi ta giải các bài toán thời còn đi học, bắt buộc chúng phải
cho ra cùng một đáp đáp số, nếu làm đúng. Như thế thì dụng thần chính là một công cụ, chẳng qua là
thứ phương tiện dùng để giải bài toán số mệnh, tựa như khi ta giải một số bài toán số học ở cấp 1,
nhưng dùng đến phương pháp đại số là lập ra phương trình có một hay nhiều ẩn số ở cấp hai vậy.. Bạn
đọc nào hứng thú, muốn tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn... hiển nhiên, nên biết, cần biết càng nhiều công
cụ càng tốt.
Bạn muốn biết về sự thành đạt, thi đỗ, thăng quan, danh tiếng... tất tần tật gì gì thuộc về số mệnh của
mình hay ai khác, muốn biết những tính chất, đặc điểm một người mà các đặc điểm, tính chất ấy do
Quan tinh, Thất sát đảm nhiệm, đại diện. Hãy so sánh mức độ mạnh yếu, tương quan lực lượng giữa hai
ngũ hành, tức giữa nhật can và quan tinh, xem chúng cần thiết với nhau đến đâu, khi nào có lợi, khi nào
thành hại... Có lợi, hữu ích thì các ưu điểm lộ ra, là hại ắt ứng với các khuyết điểm..
Tương tự, với các thông tin khác như giàu có, lấy vợ, quan hệ anh em, bạn bè, bố mẹ yếu khỏe, khả năng
học tập, khi nào thuận lợi để kinh doanh, có thể kinh doanh, khi nào thi cử nhiều khả năng đỗ đạt nhất
(ấn tinh, thương quan, thực thần), xuất ngoại (trạch mã), vân vân... Cách làm cũng tương tự, là so sánh
ngũ hành nhật can với các ngũ hành khác, chúng đại diện cho gì, tượng trưng gì, ắt ứng với sự việc
tương ứng, liên quan... Trong các bài mà tôi đã viết, những thông tin cần đến này đều đã có... đầy đủ, đủ
dùng, nói chung là bạn sử dụng được chúng... thì ắt trình độ dự đoán như thế đã là quá đủ để xem cho
mình... và cho các người thân, không cần nhờ thêm ai, nhờ thầy... nào hết.
Việc "cân, đong, đo, đếm" sự mạnh yếu của các ngũ hành phụ thuộc trước tiên vào lệnh tháng (khí hậu
nóng lạnh khác nhau, thuận lợi cho gì rõ ràng bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi các mùa), yếu tố ảnh hưởng
thứ hai, rất đáng kể là trụ giờ (buổi trưa nóng hơn buổi tối...), sau đó là trụ ngày, trụ năm (nạp âm trụ
năm mà ta thường gọi là mệnh sa trung kim, lô trung hỏa... vân vân phụ thuộc, ảnh hưởng từ các vì sao
trong hệ mặt trời như sao Kim, sao Mộc, sao Hỏa...).
Tính chất, đặc điểm, khả năng, tình tình... mỗi cá nhân không bất biến, mà thay đổi theo thời gian, theo
vận, theo hoàn cảnh... tức phụ thuộc các ngũ hành... đại diện cho gì.. chiếm ưu thế, gây ảnh hưởng chủ
yếu đến nhật can. Đó là kết quả tổng hợp, hôm nay tốt, ngày mai xấu và ngược lại, tuy nhiên sẽ thăng
giáng xung quanh các yếu tố chủ đạo bị quy định của ngày tháng năm sinh...nguồn gốc gia đình, anh em
họ hàng, địa phương, nơi cư trú... lúc ra đời.
TẠI SAO TỰ XEM CHO MÌNH LẠI TỐT HƠN NHỜ THÀY?
Thứ nhất, lý do là không ai quan tâm đến mình sâu sát, kĩ càng, thân thiết, mến yêu, cụ thể... bằng mình
với chính mình.
Thứ hai, tuy trình độ xem... của mình không bằng ai nhưng do quan tâm, suy nghĩ về chúng hàng ngày
thì các chi tiết tỉ mỉ, cụ thể mà mình tìm ra ắt chính xác hơn các thày, bởi họ chỉ tiếp xúc với mình trong
chốc lát, gặp nhau ngắn ngủi, có thể thày sẽ không nghĩ tới, kịp nghĩ tới các chi tiết, thông tin... quan
trọng ấy, để thông báo cho mình biết.
Thứ ba, mình biết rõ về mình nhất, hiển nhiên có điều kiện kiểm chứng tốt nhất, đối chứng tốt nhất,
xem các lý thuyết... xem mệnh ấy chính xác đến đâu, cần điều chỉnh, hoàn thiện... thế nào, ứng thế nào,
khi vận dụng cho mình, mình tất nhiên sẽ cẩn thận nhất, thận trọng nhất, không thể cứ dễ dàng, thử
xem sao, chọn các phương pháp có khi lại là mạo hiểm mà ông thầy nào đấy cứ ra sức khuyên mình
(khuyên cứ lấy... ai đấy chẳng hạn, nếu nhầm sẽ hối hận cả đời...)
Thứ tư, tứ trụ của mình là một tình huống cụ thể trong ty tỷ các tình huống số mệnh trên đời, do đó các
thông tin, kiến thức mình cần biết, cần thu thập sẽ ít hơn rất nhiều so với một ông thày, là người muốn
xem được hết... cho mọi người. Ngoài ra, khi ta giải một bài toán 'số mệnh" của chính ta, làm đi làm lại
trong suốt thời gian... cả cuộc đời, ắt ta giỏi hơn bất kì ai khác, hơn bất kì một ông thày nào khác, nhất
định đúng hơn, chính xác hơn, tỷ mỉ hơn nhiều lần... Lý do, bạn đã tự biết rồi.
Còn một điều cuối cùng, ở bài này, tôi muốn nhắn... đến bạn đọc:
Giả sử bạn muốn ăn bát phở. Bạn tìm đến một cửa hàng nào đấy mình thấy ưng ý, ta trả tiền, rồi ăn.
Trường hợp bạn muốn tự nấu, rõ ràng ta có thể hỏi bạn bè, ông chủ quán cách làm... song, bạn bè hay
ông chủ quán ấy không thể làm thay bạn, bạn phải tự mình biết cần cho vào... bao nhiêu hành, thịt, đun
lâu mau... thế nào?
Tương tự vậy, bạn có thể hỏi tôi bất cứ... gì, nhưng không thể không tìm hiểu, không biết gì, không đọc...
rồi cứ hỏi. Tôi rất khó chịu với những người thích "ăn sẵn" như thế.
Tất nhiên, còn một tình huống đặc biệt khác, nếu bạn là cha mẹ, vợ con, anh em, bạn bè... người thân
của tôi. Tất nhiên khi đó, tôi phải sẵn sàng nấu cho bạn ăn... bát phở ấy, rồi sung sướng, hồi hộp, phấn
khởi xem thấy bạn ăn... ngon miệng thế nào, có hài lòng hay không?