You are on page 1of 4

Có một nhà thơ mà người Việt Nam không ai là không biết đến.

Có một truyện thơ mà hơn


200 năm qua không mấy người Việt Nam không thuộc vài câu hay vài đoạn. Người ấy, thơ ấy đã
từng được Tố Hữu ngợi ca:
“ Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”
Không ai khác đó chính là Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Quả thực, truyện Kiều là một
món ăn tinh thần không thể thiếu đối với mỗi người dân Việt Nam. Mỗi một đoạn, mỗi câu thơ
đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp bút. Đằng sau số phận
cuộc đời nhân vật đều được gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo sâu sắc. Đó là niềm trân trọng
nâng niu ước mơ khát vọng con người. Đó là tiếng nói lên án tố cáo những thế lực xấu trong
một xã hội thối nát bị đồng tiền chi phối Và hơn thế nữa nó phản ánh chân thực giấc mơ tự do
công lí, hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường mà
đoạn trích – bài thơ “Chí khí anh hùng” chính là tiêu biểu nhất cho điều này:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong
Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi
Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Bằng ngay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu”
Có thể nói trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng nhân vật Từ Hải
hoàn toàn mới so với hình tượng nhân vật này trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài
Nhân, ở “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, hình tượng Từ Hải giống như một tướng cướp đã bị
lược bỏ, thay vào đó là một hình tượng Từ Hải như một vị anh hùng tuyệt đẹp, phi thường.
Hình tượng này là sự hợp nhất của hình tượng nhân vật có tính ước lệ – là nghệ thuật miêu tả
nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du và hình tượng con người vũ trụ với nét vĩ đại, lớn lao.
Sau khi bị mắc bẫy và rơi vào chốn lầu xanh lần thứ hai, Kiều luôn sống trong tâm trạng đau
khổ, giày vò. Giữa lúc ấy, Từ Hải xuất hiện như một vị cứu tinh giúp Kiều thoát khỏi chốn lầu
xanh đầy nhơ nhớp ấy. Nhưng tình yêu giữa Thúy Kiều và Từ Hải vẫn không thể nào che khuất
đi ước mơ gây dựng một sự nghiệp lớn lao ở con người này. Đó chính là lí do mà khi mối tình
của họ vừa chớm nở được “nửa năm” thì Từ Hải đã tiếp tục lên đường với khát khao cháy bỏng
gây dựng sự nghiệp của mình:

“Nửa năm hương lửa đương nồng


Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Mặc dù trong thời gian sáu tháng ,tình yêu của họ luôn mặn nồng ,hạnh phúc “nửa năm hương
khói đương nồng”nhưng tâm chí Từ Hải luôn suy nghĩ đến việc lớn lao,khát khao lập công danh
nghiệp lớn .Vì thế Từ Hải “thoát đã động lòng bốn phương” là hợp lý. “Lòng bốn phương” ở đây
là hình ảnh ước lệ tượng trưng cho chí nguyện lập công danh ,sự nghiệp của Từ Hải tạo nên tầm
vóc lớn lao phi thường cho người chàng.Có thể nói tình yêu hay bất cứ một thứ gì khác cũng
không ngăn nổi bước chân của chàng.Trong 3254 câu Kiều ,Nguyễn Du chỉ dành duy nhất một
từ “trượng phu” cho Từ Hải để khẳng định sự trân trọng,kính phục của ông đối với Từ
Hải.Nguyễn Du xây dựng hình ảnh Từ Hải song song,sánh ngang với hình ảnh trời đất.Nhắc đến
Từ Hải là thấy hình ảnh cao rộng của trời đất vũ trụ .Những từ láy,từ biểu cảm chỉ độ rộng ,độ
cao càng khắc họa rõ hơn tư thế của Từ Hải. Cái nhìn của chàng không phải là cái nhìn bình
thường mà là “trông vời”-cái nhìn ẩn chứa sự sáng suốt và suy nghĩ phi thường.Hình ảnh “thanh
gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”diễn tả phong thái ung dung ,hiên ngang không vướng
bận của người anh hùng trên đường ra đi gây dựng sự nghiệp.
Đối với Thúy Kiều ,Từ Hải không chỉ như một người chồng mà còn như một vị ân nhân ,một tri
âm tri kỉ .Vì vậy ,trước quyết tâm ra đi thực hiện nghiệp lớn của chồng mình ,Thúy Kiều đã xin đi
theo để chăm sóc ,nâng khăn sửa túi cho chàng:
“Nàng rằng : Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.”

Nho giáo đã quy định người phụ nữ phải tuân theo luật "tam tòng": ở nhà theo cha, xuất giá
theo chồng, chồng chết theo con. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc đến luật lệ của đạo Nho để xin đi
theo chồng. Trong lúc "hương lửa đương nồng", nàng không muốn phải chịu cảnh xa cách, chia
lìa với Từ Hải - một người chồng nhưng đồng thời cũng là một người ân nhân cứu mạng Kiều
thoát khỏi chốn lầu xanh. Nàng muốn được theo chồng, muốn nâng khăn sửa túi và cùng chồng
sẻ chia những khó khăn trong cuộc đời. Mong muốn ấy vô cùng chính đáng bởi lẽ nữ nhi lấy
chồng thì phải theo chồng. Dù phải chịu những vất vả, gian nan thì Kiều cũng nguyện một lòng ở
bên Từ Hải. Nhưng với nghĩa khí của một bậc quân tử, Từ Hải đã đáp lại rằng: "Từ rằng: Tâm
phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?


Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì"

Hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau đến mức sâu sắc vậy tại sao Kiều vẫn "chưa thoát khỏi
nữ nhi thường tình". Đó là lời trách cứ Thúy Kiều tuy là tri âm tri kỉ mà tại sao lại không thấu
hiểu cho hành động của Từ Hải. Đồng thời đó cũng là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều vượt
qua những trắc trở trước mắt để hướng về tương lai tốt đẹp sau này và mong muốn nàng đừng
quá lo lắng cho mình. Từ Hải thuyết phục, hứa hẹn với Thúy Kiều bằng tình cảm chân thành, sâu
nặng. Từ Hải ra đi lập sự nghiệp, công danh đến khi trở thành một con người xuất chúng, phi
thường và nắm giữ trong tay "mười vạn tinh binh"thì chàng sẽ quay trở về rước Kiều "nghi gia"
bằng những hình thức lễ nghi trang trọng. Vợ chồng đoàn tụ trong âm thanh rộn rã của "tiếng
chiêng dậy đất" và khung cảnh ngập tràn bóng cờ trên các con đường. Chàng từ chối mong
muốn của Thúy Kiều là vì nàng sẽ làm bận lòng mình hay thật tâm chàng không muốn người vợ
của mình phải chịu những khổ cực, vất vả? Đối với đấng nam nhi, việc coi bốn bể là nhà là lẽ
thường tình nhưng đối với phận nữ nhi như Thúy Kiều thì việc đó không hề dễ dàng và rất khó
thích nghi. Có lẽ vì những lí do trên mà Từ Hải khuyên Kiều "đành lòng" chờ đợi ngày chàng
thành công trở về. Một năm chờ đợi không phải thời gian quá dài nhưng nó lại thể hiện chí
khí,lòng quyết tâm cao độ của người anh hùng Từ Hải.

Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình
thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay
mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương
lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:

“Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”

Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng
trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự
nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia
tay, niềm tin vào thắng lợi... tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng
tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao. Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm
khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi
bay thì chín vạn dậm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã
diễn tả những giây phút ngáy ngất say men chiến thắng cùa con người phi thường lúc rời khỏi
nơi tiễn biệt.

Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện
cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ trong
việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải. Từ Hải là hình ảnh thể
hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để
vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình
trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ.
Điều chắc chắn là cái khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành ! rong bốn bể để thực hiện
ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm
thường.
( Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc là yếu tố tạo nên thành công của tác phẩm. Từ Hải là
hình tượng mang tính ước lệ được thể hiện qua hình ảnh, qua các hành động cử chỉ. Từ Hải là
con người sánh ngang tầm vũ trụ, mang trong mình hùng tâm tráng trí lớn lao/ Tác giả chủ yếu
miêu tả những hành động và lời nói của Từ Hải, ít đi sâu vào nội tâm. Nguyễn Du đã sử dụng
cách miêu tả lí tưởng hoá để nâng cao tầm vóc của Từ Hải.)

Đoạn trích xứng đáng là tiêu biểu cho nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc của Nguyễn
Du – yếu tố tạo nên thành công của tác phẩm. Từ Hải là hình tượng mang tính ước lệ được thể
hiện qua hình ảnh, qua các hành động sánh ngang tầm vũ trụ, mang trong mình hùng tâm, sự
nghiệp lớn lao. Đó cũng là nét mới mẻ trong cách xây dựng hình tượng người anh hung của
Nguyễn Du trong nền văn học trung đại. Chính lòng yêu mến và tài năng nghệ thuật đã giúp
Nguyễn Du có được thành công lớn khi xây dựng hình tượng nhân vật Từ Hải trong đoạn trích
này

You might also like