You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - TÀI CHÍNH

TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA TÀI CHÍNH – THƯƠNG MẠI

HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG


THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Giảng viên: Tăng Mỹ Sang


Mã môn học: FIN1101E – B04E
Nhóm: 01
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN...............................................................................................3
1.1. Ngân Hàng Thương Mại là gì?..............................................................................................3
1.2. Các hoạt động chủ yếu của Ngân Hàng Thương Mại:...........................................................3
1.2.1. Huy động vốn:.......................................................................................................................................3
1.2.2. Sử dụng vốn:.........................................................................................................................................5
1.2.3. Thực hiện các dịch vụ trung gian:.........................................................................................................6
1.3. Đặc điểm hoạt động của Ngân Hàng Thương Mại:...............................................................7
1.3.1. Ngân Hàng Thương Mại là chủ thể thường xuyên nhận và kinh doanh tiền gửi:................................7
1.3.2. Hoạt động của Ngân Hàng Thương Mại gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ:.................7
1.3.3. Hoạt động của Ngân Hàng Thương Mại là hoạt động cung cấp các dịch vụ:.......................................7
1.3.4. Hoạt động Ngân Hàng Thương Mại phong phú đa dạng và có phạm vi rộng lớn:...............................8
1.4. Phân loại Ngân Hàng Thương Mại:.......................................................................................8
1.4.1. Ngân Hàng Thương Mại quốc doanh:...................................................................................................8
1.4.2. Ngân Hàng Thương Mại cổ phần:.........................................................................................................8
1.4.3. Ngân hàng liên doanh:..........................................................................................................................8
1.4.4. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài:........................................................................................................8
1.4.5. Ngân hàng liên doanh:..........................................................................................................................9
1.5. Những rủi ro trong hoạt động của Ngân Hàng:.....................................................................9
1.5.1. Rủi ro tín dụng:......................................................................................................................................9
1.5.2. Rủi ro lãi suất:.......................................................................................................................................9
1.5.3. Rủi ro ngoại hối:....................................................................................................................................9
1.5.4. Rủi ro nguồn vốn:..................................................................................................................................9
1.5.5. Rủi ro thanh khoản:..............................................................................................................................9
1.5.6. Rủi ro hoạt động:..................................................................................................................................9
1.5.7. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro:........................................................................................................10

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI........................10
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân Hàng Thương Mại............................................10
2.1.1. Quá trình hình thành:.........................................................................................................................10
2.1.2. Quá trình phát triển:...........................................................................................................................11
2.2. Thực trạng hoạt động của các Ngân Hàng Thương Mại......................................................11
2.2.1. Lượng và chất của Ngân Hàng Thương Mại:......................................................................................11
2.2.2. Nợ xấu:................................................................................................................................................11
2.2.3. Thực trạng thanh khoản:....................................................................................................................12
2.2.4. Thực trạng huy động tiền gửi:............................................................................................................14
2.3. SWOT.................................................................................................................................14
2.3.1. Điểm Yếu:............................................................................................................................................14
2.3.2. Điểm Mạnh:........................................................................................................................................15
2.3.3. Cơ Hội:.................................................................................................................................................17
2.3.4. Thách Thức:.........................................................................................................................................17

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 18
CHƯƠNG 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Ngân Hàng Thương Mại là gì?


Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận
tiền ký gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
1.2. Các hoạt động chủ yếu của Ngân Hàng Thương Mại:
1.2.1. Huy động vốn:
- Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân hang. Nó là những giá trị
tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã
hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ ký thác, các nghiệp vụ khác và
được dùng làm vốn để kinh doanh.
a. Huy động vốn từ tài khoản tiền gửi:
- Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi khách hàng gửi vào ngân hàng mà khách
hàng không có thoả thuận trước về thời gian rút tiền. Ngân hàng phải trả một mức
lãi suất thấp hoặc không phải trả một lãi cho số tiền gửi này. Bởi vì, tiền gửi không
kỳ hạn của khách hàng rất biến động, khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào, do đó
ngân hàng không chủ động sử dụng số vốn này, ngân hàng phải dự trữ một số tiền
để đảm bảo có thể thanh toán ngay khi khách hàng có nhu cầu.
- Tiền gửi thanh toán: là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng để thực
hiện các khoản thanh toán về tiền mua hàng hoá, dịch vụ và các khoản thanh toán
khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của khách hàng. Đứng trên góc
độ là khách hàng thì đây là tiền khách hàng gửi vào ngân hàng để sử dụng các công
cụ thanh toán không dùng tiền mặt: Séc, thẻ thanh toán, uỷ nhiệm chi... Họ có
quyền rút ra bất kỳ lúc nào thông qua công cụ thanh toán. Đứng trên góc độ ngân
hàng thì ngân hàng coi đây là một khoản tiền mà họ phải có trách nhiệm hoàn trả
cho khách hàng bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên ngân hàng cần tận dụng loại tiền gửi này
để làm vốn kinh doanh của mình bởi vì trong quá trình lưu chuyển vốn của ngân
hàng do có sự chênh lệch giữa các khoản tiền gửi vào và rút ra giữa các tài khoản
của khách hàng.
- Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Là loại tiền gửi không kỳ hạn, khách hàng gửi
vào ngân hàng nhằm bảo đảm an toàn về tài sản. Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý
cũng là tài sản của người ký thác, họ có quyền rút bất kỳ lúc nào, ngân hàng luôn
luôn phải đảm bảo có thể thanh toán, lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý cao
hơn lãi suất tiền gửi thanh toán. Mục đích của người gửi tiền là bảo đảm an toàn vì
khách hàng không xác định được thời gian nhàn rỗi cho số tiền của họ và họ không
có nhu cầu sử dụng tiền gửi thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng.
b. Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá:
Giấy tờ có giá mà các Ngân Hàng Thương Mại dùng để huy động vốn thực chất là
các giấy nhận nợ mà ngân hàng trao cho những người cho ngân hàng vay tiền xác
nhận quyền đòi nợ của khách hàng đối với ngân hàng ở một mức lãi suất và ngày

1
hoàn trả nhất định. Việc phát hành giấy tờ có giá của ngân hàng để hình thành vốn
sử dụng có tính ổn định cao, đồng thời nhằm giải quyết những khoản vốn thiếu hụt
có tính tình thế do khả năng thu hút bằng nguồn tiết kiệm hạn chế.
- Phát hành trái phiếu: là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và lãi) của
ngân hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích của ngân hàng
khi phát hành trái phiếu là nhằm huy động vốn trung và dài hạn. Việc phát hành trái
phiếu, các Ngân Hàng Thương Mại chịu sự quản lý của Ngân hàng Trung Ương,
của các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoán và có thể bị chi phối bởi uy tín
của ngân hàng.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi: nó là những giấy tờ xác nhận tiền gửi định kỳ ở một
ngân hàng. người sở hữu giấy này sẽ được thanh toán tiền lãi theo kỳ và nhận đủ
vốn khi đến hạn. Chứng chỉ sau khi phát hành được lưu thông trên thị trường tiền tệ.
- Phát hành kỳ phiếu: đây là loại giấy tờ có giá ngắn hạn (trong 1 năm). Nó có đặc
điểm giống như trái phiếu nhưng có thời hạn ngắn hơn trái phiếu vì vậy nó được sử
dụng cho mục đích huy động vốn ngắn hạn của ngân hàng.
- Giấy tờ có giá khác: Điển hình là việc phát hành EURO DOLLAR. Đây là hình
thức phát hành phiếu nợ để thu hút vốn ở nước ngoài. Nó có đặc điểm là chỉ dùng
huy động vốn bằng đô la và khi trả lãi và vốn gốc cũng bằng đô la. Đối với loại này
ngân hàng sử dụng để thu hút vốn huy động ngắn hạn (3 tháng). Ở các trung tâm tài
chính, loại phiếu nợ này được chấp nhận như là đô la. Quyền phát hành ở một số
nước trong đó có Việt Nam được giới hạn ở một số ngân hàng đặc biệt, như Ngân
hàng Ngoại thương, Ngân hàng xuất nhập khẩu. Các ngân hàng trên được phép phát
hành phiếu nợ này ở trong nước và nước ngoài, còn với các ngân hàng khác chỉ
được phát hành ở nước ngoài. Huy động vốn dưới hình thức phát hành giấy tờ có
giá các Ngân Hàng Thương Mại phải trả lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi. Vì vậy
khi phát hành các Ngân Hàng Thương Mại phải căn cứ vào đầu ra để quyết định đến
khối lượng huy động, mức lãi suất và thời hạn, phương pháp huy động phù hợp.
c. Vay Ngân hàng Nhà nước hoặc tổ chức tín dụng khác:
Đây là nguồn vốn mà Ngân Hàng Thương Mại có được nhờ thông qua quan hệ
vay mượn giữa Ngân Hàng Thương Mại với Ngân hàng Trung Ương hoặc các Ngân
Hàng Thương Mại với nhau hay với các tổ chức tín dụng khác. Vốn đi vay là nguồn
vốn mà ngân hàng chịu chi phí cao hơn vốn huy động vì vậy chỉ trong trường hợp
ngân hàng thiếu vốn khả dụng trong thời gian ngắn nào đó thì ngân hàng mới tìm đến
các Ngân Hàng Thương Mại khác để thoả mãn nhu cầu vốn khả dụng. Nếu Ngân
Hàng Thương Mại không thoả mãn được nhu cầu đó từ phía các Ngân Hàng Thương
Mại khác thì giải quyết tiếp theo là đi vay của Ngân hàng Trung Ương. Tuỳ theo mục
đích sử dụng và hình thức vay vốn, các Ngân Hàng Thương Mại có thể vay Ngân
hàng Trung Ương các loại vốn:
- Vốn vay ngắn hạn bổ sung vốn ngắn hạn còn thiếu của Ngân Hàng Thương Mại
hoặc vốn vay để thanh toán giữa các ngân hàng nhằm bù đắp những thiếu hụt tạm
thời trong thanh toán, hoặc các Ngân Hàng Thương Mại mang các giấy tờ có giá đến
Ngân hàng Trung Ương xin tái chiết khấu (tái cấp vốn).
- Ngân hàng Trung Ương thông qua nhu cầu vay vốn của Ngân Hàng Thương Mại
2
với Ngân hàng Trung Ương nhằm mục đích phát hành thêm tiền Trung Ương theo kế
hoạch, bổ sung lượng vốn khả dụng cho Ngân Hàng Thương Mại một cách thường
xuyên và là cứu cánh cho vay cuối cùng nhằm cứu nguy cho các Ngân Hàng Thương
Mại khi cần thiết, nếu sự đổ vỡ của các Ngân Hàng Thương Mại có thể gây ảnh
hưởng đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng.
1.2.2. Sử dụng vốn:
- Khi đã huy động được vốn rồi, nắm trong tay một số tiền nhất định thì các Ngân
Hàng Thương Mại phải làm như thế nào để hiệu quả hoá những nguồn này, nghĩa
là tìm cách để những khoản tiền đó được đầu tư đúng nơi, đúng chỗ, có hiệu quả,
an toàn, đem lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Và hoạt động sử dụng vốn của
Ngân hàng bằng những cách sau: Ngân hàng đã tài trợ lại cho nền kinh tế dưới
dạng các thành phần kinh tế vay, hoặc Ngân hàng đầu tư trực tiếp, Ngân hàng
tham gia góp vốn cùng kinh doanh hay cho thuê tài sản,Ngân hàng gửi tiền tại các
Ngân hàng khác- tại Ngân hàng Nhà nước- những tổ chức tín dụng khác, Ngân
hàng đầu tư trên thị trường chứng khoán , Ngân hàng nắm giữ chứng khoán vì
chúng mang lại thu nhập cho Ngân hàng và có thể bán đi để ra tăng ngân quỹ khi
cần thiết... Những đối tượng tài trợ không chỉ có các tổ chức kinh tế thực hiện hoạt
động trong lĩnh vực thương mại mà còn có cả các cá nhân tiêu dùng, thậm chí
Chính phủ cũng được Ngân hàng tài trợ dưới những hình thức : Ngân Hàng
Thương Mại mua tín phiếu kho bạc, trái phiếu của chính phủ trên thị trường tiền
tệ. Sự phát triển của hoạt động cho vay, đã giúp Ngân hàng có vị trí ngày càng
quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa thông qua hoạt động cho
vay, Ngân Hàng Thương Mại có khả năng “tạo tiền” hay mở rộng lượng tiền cung
ứng. Tuy nhiên hoạt động cho vay của Ngân hàng chứa đựng nhiều yế tố rủi ro
nên Ngân hàng thường áp dụng các nguyên tắc hoạt động và quản lý tiền vay một
cách chặt chẽ.

Lãi thu được từ hoạt động cho vay, Ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi suất cho
nguồn vốn đã huy động và đi vay, thanh toán những chi phí trong hoạt động, phần
còn lại sẽ là lợi nhuận của Ngân hàng. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt
của Ngân Hàng Thương Mại để tạo ra lợi nhuận, chỉ có lãi suất thu được từ cho
vay mới bù nổi chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi,
chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư.

Kinh tế ngày càng phát triển, lượng cho vay của Ngân Hàng Thương Mại ngày
càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng phong phú và đa dạng.
Tại hầu hết các nước công nghiêp trong nhóm những nước hàng đầu thế giới, cho
vay của các Ngân Hàng Thương Mại đã chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho
vay dài hạn. Ngược lại, ở các nước đang phát triển, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm
bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu
tư dài hạn (trong đó có các tác nhân chủ yếu như tình hình tăng trưởng, lạm
phát,...)

3
So với hoạt động cho vay thì hoạt động đầu tư của Ngân hàng có quy mô và tỷ
trọng nhỏ hơn trong mục tài sản sinh lời của Ngân Hàng Thương Mại. Phải sang
đến những năm đầu thế kỷ XIX các Ngân Hàng Thương Mại mới quan tâm mở
rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực đầu tư vào các ngành công nghiệp. So với
hoạt động cho vay hoạt động đầu tư đem lại thu nhập cao hơn nhưng rủi ro cao
hơn do thu nhập từ hoạt động đầu tư không được xác định trước vì phải phụ thuộc
vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mà Ngân hàng đầu tư vào. Ngoài ra thì
trong hoạt động đầu tư , Ngân hàng được lựa chọn doanh mục đầu tư có lợi nhất
cho mình.

Bên cạnh hoạt động cho vay và đầu tư, Ngân hàng có thể tham gia vào thị trường
chứng khoán tuỳ quy định của từng quốc gia. Ngân Hàng Thương Mại có thể tham
gia như một người cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán hay đóng vai
trò là nhà đầu tư, mua bán chứng khoán vì mục tiêu kiếm lời cho chính Ngân
hàng. Hoặc thực hiện kinh doanh chứng khoán thông qua uỷ thác của khách hàng.
1.2.3. Thực hiện các dịch vụ trung gian:
- Ngoài hai hoạt động cơ bản là hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn
thì Ngân Hàng Thương Mại cũng thực hiện các dịch vụ trung gian cho khách hàng
của mình. Các dịch vụ này được coi là hoạt động trung gian bởi vì khi thực hiện
các hoạt động này Ngân hàng không đứng vai trò là con nợ hay chủ nợ mà đứng ở
vị trí trung gian để thoả mãn nhu cầu khách hàng về dịch vụ mà khách hàng cần.

Ngày nay, các dịch vụ của Ngân hàng không ngừng phát triển cả về số lượng và
chất lượng, các dịch vụ ngày càng đa dạng. Hoạt động trung gian gồm rất nhiều
loại dịch vụ khác nhau: như dịch vụ thu hộ chi hộ cho khách hàng có tài khoản
tiền gửi tại Ngân hàng, dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này từ tài khoản này
đến tài khoản khác ở cùng một Ngân hàng hay ở hai Ngân hàng khác nhau; dịch
vụ tư vấn cho khách hàng các vấn đề tài chính, dich vụ giữ hộ các chứng từ, vật
quý giá dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu; dịch vụ khấu trừ tự
động. Đây là những khoản chi thường xuyên trong tháng, nếu không có dịch vụ
này khách hàng sẽ tốn nhiều thời gian và phiền toái khi thanh toán các khoản này,
cung cấp các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt.

Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ Ngân hàng theo đó cũng phát triển theo để
đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng thực hiện nghiệp vụ trung
gian mang tính dịch sẽ đem lại cho Ngân hàng những khoản thu nhập khá quan
trọng. Điều cần lưu ý là dịch vụ Ngân hàng sẽ giúp Ngân hàng phát triển toàn
diện.Tại các nước phát triển, các Ngân Hàng Thương Mại cạnh tranh với nhau
bằng con đường “phi giá”, tức là luôn có những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi
cho khách hàng, không ngừng tìm tòi những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho
khách hàng. Dịch vụ Ngân hàng càng phát triển, thể hiện xã hội càng văn minh,
nền công nghiệp càng phát triển. Lợi nhuận các Ngân hàng không chỉ ở nghiệp vụ

4
cho vay, mà phân nửa từ các hoạt động dịch vụ mang lại, nhưng lại là lĩnh vực ít
rủi ro.
1.3. Đặc điểm hoạt động của Ngân Hàng Thương Mại:
1.3.1. Ngân Hàng Thương Mại là chủ thể thường xuyên nhận và kinh doanh
tiền gửi:
- Tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất của các Ngân Hàng Thương là các khoản cho vay
và đầu tư. Nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất là vốn huy động. Doanh thu chính
của các Ngân Hàng Thương Mại là doanh thu từ hoạt động cho vay và chi phí lớn
nhất của Ngân Hàng Thương Mại là lãi phải trả cho tiền gửi của khách hàng.
- Vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng Thương Mại an toàn
và hiệu quả nâng cao khả năng cạnh tranh trong huy động vốn và cho vay các, ngân
hàng luôn phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định, quy chế hướng dẫn nghiệp vụ
của các cơ quan chủ quản.

1.3.2. Hoạt động của Ngân Hàng Thương Mại gắn bó mật thiết với hệ thống
lưu thông tiền tệ:
- Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng từ người cho vay sang người đi vay
các Ngân Hàng Thương Mại đã tự tạo ra những công cụ tài chính thay thế cho tiền
làm phương tiện thanh toán. Trong đó, quan trọng nhất là tài khoản tiền gửi không
kỳ hạn thanh toán bằng séc một công cụ chủ yếu để tiền vận động qua ngân hàng
Hoạt động này đưa lại kết quả là đại bộ phận tiền giao dịch trong giao lưu kinh tế là
tiền qua ngân hàng. Do đó, hoạt động của hệ thống ngân hàng gắn bó mật thiết với
hệ thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước đồng thời có mối liên
hệ quốc tế rộng rãi. Như vậy, sự phát triển ổn định của hệ thống Ngân Hàng
Thương Mại tác động tích cực đến hiệu lực và hiệu quả của chính sách tiền tệ của
Ngân Hàng Trung và là cơ sở để tạo ra sự ồn định và phát triển lành mạnh cho nền
kinh tế.

1.3.3. Hoạt động của Ngân Hàng Thương Mại là hoạt động cung cấp các dịch
vụ:
- Sản phẩm của hoạt động ngân hàng là các dịch vụ. Chất lượng của những sản phẩm
này chủ yếu được đánh giá qua sáu tiêu chí: tính đúng thời gian thái độ phục vụ của
nhân viên ngân hàng, tính đồng nhất, sự thuận tiện để có được sản phẩm tính hoàn
chỉnh của sản phẩm dịch vụ, tính chính xác, không sai sót.
- Những yêu cầu trên tác động mạnh mẽ đến hoạt động của Ngân Hàng Thương Mại.
Hoạt động cung cấp dịch vụ của Ngân Hàng Thương Mại càng đáp ứng được nhiều
tiêu chí, được khách hàng đánh giá tốt thì Ngân Hàng Thương Mại không những
giữ được khách hàng cũ mà còn lôi kéo thêm nhiều khách hàng mới. Từ đó, các
hoạt động này đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.

5
1.3.4. Hoạt động Ngân Hàng Thương Mại phong phú đa dạng và có phạm vi
rộng lớn:
- Hoạt động của Ngân Hàng Thương ngày càng tăng về số lượng cùng với sự phát
triển của nền kinh tế. Bên cạnh những hoạt động truyền thống như: nhận tiền gửi,
cấp tín dụng và thanh toán, Ngân Hàng Thương còn thực hiện tư vấn tài chính, làm
đại lý tài trơ xuất nhập khẩu, bảo lãnh, đầu tư chứng khoán, kinh doanh ngoại tệ…
Các ngân hàng đang có xu hướng chuyển từ ngân hàng chuyên doanh sang ngân
hàng đa năng.
- Sự gia tăng về khối lượng nghiệp vụ ngân hàng kéo theo sự gia tăng về đối tượng
và số lượng khách hàng. Mọi chủ thể trong nền kinh tế đều có thể là khách hàng
của ngân hàng: doanh nghiệp, cá nhân, nhà đầu tư trong nước, nước ngoài…
- Các ngân hàng đều có mạng lưới chi nhánh lớn và do đó đã mở rộng phạm vi hoạt
động của mình không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn vươn ra khu vực và
quốc tế.

1.4. Phân loại Ngân Hàng Thương Mại:


Dựa vào hình thức sở hữu, các Ngân Hàng Thương Mại được chia ra thành các
loại gồm: ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng
liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng tư nhân.
1.4.1. Ngân Hàng Thương Mại quốc doanh:
Là ngân hàng được thành lập từ vốn thuộc Ngân sách Nhà nước, là trụ cột của nền
kinh tế. Ở Việt Nam, ban đầu những ngân hàng này là những ngân hàng chuyên doanh,
đến năm 1992 thì đổi tên và trở thành ngân hàng kinh doanh đa năng. Ví dụ: Ngân hàng
TMCP VietinBank.
1.4.2. Ngân Hàng Thương Mại cổ phần:
Là ngân hàng được thành lập từ vốn góp của các cổ đông, kinh doanh đa năng. Hệ
thống ngân hàng TMCP bao gồm hai loại: ngân hàng TMCP đô thị và ngân hàng TMCP
nông thôn. Hiện nay, tất cả các Ngân Hàng Thương Mại tại Việt Nam đều là ngân hàng
TMCP và được thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng. Ví dụ: ngân
hàng TMCP SeaBank, Ngân hàng TMCP ACB, ngân hàng TMCP SacomBank, ngân
hàng TMCP Techcombank.
1.4.3. Ngân hàng liên doanh:
Là ngân hàng do các bên liên doanh góp vốn, tỷ lệ đóng góp của các đối tác nước
ngoài không quá 50% vốn điều lệ. Ví dụ: Ngân hàng liên doanh ShinhanVina, Ngân hàng
liên doanh Indovina, Ngân hàng liên doanh Viet Lao, Ngân hàng liên doanh Viet Nga.
1.4.4. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài:
Là ngân hàng được thành lập theo pháp luật Việt Nam do chủ sở hữu nước ngoài cấp
100% vốn; được quyền cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân hàng cho thị trường Việt Nam;
thời gian hoạt động không vượt quá 99 năm. Ví dụ: ngân hàng ANZ Việt Nam, Ngân
hàng HSBC Việt Nam, Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam…

6
1.4.5. Ngân hàng liên doanh:
Do cá nhân thành lập bằng vốn của cá nhân đó. Loại hình ngân hàng này thường nhỏ,
phạm vi hoạt động hẹp; thường có mối quan hệ tốt với khách hàng. Tuy nhiên, loại hình
ngân hàng tư nhân theo cách tiếp cận này chưa xuất hiện tại Việt Nam
1.5. Những rủi ro trong hoạt động của Ngân Hàng:
1.5.1. Rủi ro tín dụng:
Là những khoản tổn thất phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy
đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc khách hàng thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ
hạn. Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của Ngân Hàng Thương Mại,
đem lại lợi nhuận lớn nhất nhưng cũng là loại rủi ro lớn nhất của Ngân Hàng Thương
Mại. Rủi ro tín dụng được đề cập ở đây là rủi ro trong hoạt động cho vay, cấp tín dụng
của Ngân Hàng Thương Mại.
1.5.2. Rủi ro lãi suất:
Là những thiệt hại mà Ngân Hàng Thương Mại phải gánh chịu khi có sự thay đổi lãi
suất trên thị trường. Nếu ngân hàng duy trì cơ cấu tài sản Có và tài sản Nợ với những kỳ
hạn không cân xứng với nhau thì phải chịu những rủi ro về lãi suất trong việc tái tài trợ
tài sản Có hoặc khi giá trị của tài sản thay đổi do lãi suất thị trường biến động. Ngoài ra,
rủi ro lãi suất còn thể hiện khi tỷ lệ lạm phát tăng nhanh hơn lạm phát dự kiến trong khi
lãi suất cho vay không thể điều chỉnh được, thì ngân hàng có thể phải chịu rủi ro nếu tỷ lệ
lạm phát lớn hơn hoặc bằng lãi suất cho vay (lãi suất thực tế âm).
1.5.3. Rủi ro ngoại hối:
Rủi ro ngoại hối xảy ra do tài sản Có và tài sản Nợ bằng ngoại tệ không cân xứng với
nhau cả về số lượng và kỳ hạn. Rủi ro ngoại hối có mối quan hệ với rủi ro tín dụng thể
hiện như: Khi tỷ giá hối đoái biến động mạnh có thể dẫn đến tình trạng khan hiếm một
loại ngoại tệ nào đó và để chi trả cho bên bán, các DN phải mua ngoại tệ với giá cao
ngoài dự tính, lợi nhuận kinh doanh giảm, có thể ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay.
1.5.4. Rủi ro nguồn vốn:
Ngân hàng không khai thác hết được tiềm năng sinh lời của tài sản Có, hiệu quả sử
dụng vốn giảm, dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh. Nếu tình trạng này kéo dài mà không
được khắc phục có thể ngân hàng sẽ phá sản.
1.5.5. Rủi ro thanh khoản:
Là tình trạng Ngân Hàng Thương Mại không đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn khả
dụng (nhu cầu thanh khoản). Tình trạng này nhỏ thì gây thua lỗ, hoạt động kinh doanh
đình trệ, nặng thì làm mất khả năng thanh toán và dẫn đến ngân hàng phá sản. Thiếu ngân
quỹ ở đây có thể được hiểu theo 2 cách: thiếu dự trữ tại ngân hàng, hoặc là không thể huy
động được nguồn vốn ngay lập tức. Để tránh được rủi ro thanh khoản, các Ngân Hàng
Thương Mại phải tính toán được hệ số thanh khoản của mình, tức là tính được khả năng
đáp ứng nhu cầu thanh toán ngay của các tài sản Nợ.
1.5.6. Rủi ro hoạt động:
Là loại rủi ro tổn thất tài sản xảy ra do hoạt động kém hiệu quả, ví dụ như hệ thống
thông tin không đầy đủ, hoạt động có vấn đề, có vi phạm trong hệ thống kiểm soát nội bộ,
có sự gian lận hay những thảm họa không lường trước được.

7
1.5.7. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro:
Giữa các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng Thương Mại nói
chung và 5 loại rủi ro cơ bản được đề cập ở trên nói riêng có mối quan hệ mật thiết với
nhau, rủi ro này là nguyên nhân của rủi ro kia. Trong hoạt động tín dụng, để xẩy ra rủi ro
với tỷ lệ nợ xấu cao, khả năng thu hồi nợ thấp sẽ dẫn đến rủi ro thanh khoản. Khi Ngân
Hàng Thương Mại để xẩy ra rủi ro thanh khoản, phải đi vay vốn trên thị trường, phải huy
động vốn với lãi suất cao hơn, lại gây ra rủi ro nguồn vốn và rủi ro lãi suất. Rủi ro trong
hoạt động bởi nguyên nhân con người, sự không đầy đủ hay vận hành không tốt các quy
trình, hệ thống, các sự kiện khách quan bên ngoài lại gây ro rủi ro tín dụng và rủi ro ngoại
hối,…

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG


THƯƠNG MẠI

2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân Hàng Thương Mại
2.1.1. Quá trình hình thành:
Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ra đời, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng bắt đầu được xây dựng từng bước. Quá
trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ đây có thể chia làm hai thời kỳ:
- Từ năm 1951 đến năm 1987, chúng ta có hệ thống ngân hàng một cấp. Lúc này, hệ
thống ngân hàng Nhà nước Việt Nam mà tiền thân là ngân hàng quốc gia Việt Nam được
thành lập vào năm 1951 – giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống Pháp và trong điều
kiện nền kinh tế tiểu nông lạc hậu. Chức năng chủ yếu của ngân hàng quốc gia Việt Nam
là: phát hành giấy bạc và quản lý kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng và quản lý tiền
tệ. Chức năng này được thực hiện thông qua một mô hình tổ chức gọn, nhẹ, phù hợp với
điều kiện thời chiến gồm 3 cấp quản lý: trung ương, liên khu, tỉnh và thành phố.
Tuy nhiên cho đến năm 1987, hoạt động của ngân hàng Việt Nam vẫn mang tính chất
lưỡng tính. Nó vừa thực hiện chức năng quản lý và điều tiết lưu thông tiền tệ, vừa thực
hiện chức năng của các ngân hàng trung gian và được tổ chức thống nhất từ trung ương
xuống cơ cở. Đặc biệt trong thập kỷ 80, vừa không thể kinh doanh theo đúng nghĩa đồng
thời lại không làm tròn chức năng quản lý Nhà nước các hoạt động tiền tệ ngân hàng, nó
đã làm cho nền kinh tế Việt Nam trong những năm 80 rơi vào tình trạng khủng hoảng
trầm trọng, vừa thiếu tiền mặt, vừa lạm phát. Vì thế, cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản
lý kinh tế, từ cơ chế quản lý hành chính và trực tiếp sang việc sử dụng các biện pháp kinh
tế theo cơ chế thị trường, từ năm 1988 đến nay, hệ thống ngân hàng đã được cải cách
từng bước. Hệ thống ngân hàng hai cấp ra đời.
- Bước sơ khai của hệ thống ngân hàng 2 cấp được thể hiện trong Nghị định 53 ngày 26-
3-1988. Theo đó hệ thống ngân hàng Việt Nam bao gồm: ngân hàng Nhà nước và các
ngân hàng chuyên doanh. Ngân hàng Nhà nước hoạt động với tư cách là ngân hàng độc
quyền phát hành, là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và là cơ quan quản lý

8
dự trữ ngoại hối Nhà nước. Các Ngân Hàng Thương Mại, ngân hàng chuyên doanh, công
ty tài chính,… thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ – tín dụng. Đặc biệt các Ngân
Hàng Thương Mại phát triển mạnh và đa dạng. Chúng có vai trò là người môi giới trung
gian nhằm tập trung tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay các doanh nghiệp và dân
chúng.
2.1.2. Quá trình phát triển:
Ngay từ thời xa xưa người ta đã biết dùng tiền làm phương tiện thanh toán, hay làm vật
trung gian để trao đổi hàng hoá. Thông qua tiền, việc trao đổi hàng hoá trở nên thuận tiện
và dễ dàng hơn. Chính vì thê đã kích thích sản xuất, đưa xã hội loài người ngày càng phát
triển. Xã hội phát triển thì đồng tiền lại càng được phát huy. Thương mại phát triển, tầng
lớp thương nhân giàu có xuất hiện, họ cần có những nơi an toàn để gửi tiền. Và nững
người nhận tiền chủ yếu là chủ tiệm vàng, họ nhận thấy rằng tiền, vàng mà các thương
nhân gửi vào nhiều hơn là rút ra. Mặt khác lại luôn tồn tại nhu cầu cho vay mượn để chi
tiêu hay đầu tư kinh doanh. Chính vì thế mà những người giữ hộ đã nghĩ đến việc sử
dụng số tiền, vàng nhãn rỗi ấy cho việc vay kiếm lời và thay vì thu phí giữ hộ người ta trả
một khoản lãi cho người có tài sản đem gửi. Bên cạnh đó, ngời thu hộ cũng cho vay để
thanh toán cho người nào đó bằng cách ghi nợ cho người vay tiền và ghi có cho người
được thanh toán. Và lúc các nghiệp vụ trên được hình thành là lúc ngân hàng xuất hiện.
2.2. Thực trạng hoạt động của các Ngân Hàng Thương Mại
2.2.1. Lượng và chất của Ngân Hàng Thương Mại:
Trong vài năm qua, những đóng góp mà hệ thống Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
vào quá trình đổi mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hoá – hiện đại hoá là rất lớn. Tuy nhiên, các Ngân Hàng Thương Mại tập trung chạy đua
mở rộng thị phần và gia tăng lợi nhuận trong khi số lượng và chất lượng sản phẩm và các
dịch vụ khác nhau chưa phát triển dẫn tới việc huy động tiền gửi và tín dụng vẫn là sản
phẩm chủ yếu mà các ngân hàng sửa dụng để cạnh tranhh với nhau. Hệ quả là tốc độ tăng
trưởng tín dụng, lãi suất cho vay và huy động vốn của hệ thống ngân hàng luôn cao hơn
mục tiêu đề ra của Ngân hàng Nhà nước.

2.2.2. Nợ xấu:
Về tổng thể, đa số các Ngân Hàng Thương Mại công bố công khai báo cáo tài chính
theo quy định đều đang kiềm chế được tỷ lệ nợ xấu dưới mức 3% (trong đó chỉ có 7
trong tổng số 22 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao hơn 2%). Tuy nhiên, việc nợ xấu tiếp
tục tăng vẫn gây không ít lo ngại, đặc biệt là khi nợ có khả năng mất vốn đang chiếm
tỷ lệ khá cao ở nhiều ngân hàng, ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế
xét ở cả 3 góc độ: Ngân Hàng Thương Mại bị Ngân hàng Nhà nước hạn chế giao chỉ
tiêu tăng trưởng tín dụng; Lãi suất cho vay nền kinh tế khó giảm; Khách hàng có nợ
xấu không tiếp tục được vay vốn ngân hàng.

Thống kê được công bố công khai trên các báo cáo tài chính quý I/2019 của các Ngân
Hàng Thương Mại (Ngân Hàng Thương Mại) cho thấy, tổng số nợ xấu nội bảng của
22 ngân hàng đến hết tháng 3/2019 là hơn 84.200 tỷ đồng, tăng hơn 4.600 tỷ đồng so

9
với thời điểm đầu năm. Số Ngân Hàng Thương Mại có nợ xấu tăng vẫn chiếm đa số,
có tới 15 trong 22 ngân hàng có nợ xấu tuyệt đối tăng so với thời điểm đầu năm.

Ngân hàng có nợ xấu tăng mạnh nhất trong 3 tháng đầu năm là VietinBank, tăng tới
2,272 tỷ đồng, lên mức 15,963 tỷ đồng. So với cùng kỳ năm ngoái, tổng số nợ xấu của
VietinBank đã tăng hơn 5,600 tỷ đồng.

Về phía Ngân hàng TMCP VPBank có nợ xấu tăng mạnh với 610 tỷ đồng trong quý
I/2019, lên mức 8,376 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay ở ngân hàng hợp nhất
đã lên tới 3,62%, chủ yếu do nợ xấu tăng mạnh ở ngân hàng mẹ.

Các NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI quy mô lớn khác của Việt Nam như: Sacombank,
MBBank, Techcombank, SHB… cũng có số nợ xấu tăng trong quý I/2019. Tỷ lệ nợ
xấu trên tổng dư nợ cho vay ở những Ngân Hàng Thương Mại này lần lượt là 2,14%;
1,41%; 1,78% và 2,4%.
2.2.3. Thực trạng thanh khoản:
Nghiên cứu thanh khoản hệ thống các Ngân Hàng Thương Mại trong giai đoạn 2006-
2017, có thể thấy, về cơ bản được đảm bảo an toàn. Trong giai đoạn này, tình trạng
khủng hoảng thanh khoản diện rộng không xảy ra. Song cũng có NH đôi lúc còn căng
thẳng thanh khoản và những khó khăn thanh khoản cục bộ đối với một số Ngân Hàng
Thương Mại. Những trường hợp căng thẳng thanh khoản của hệ thống Ngân Hàng
Thương Mại có thể được nhận biết thông qua biến động lãi suất trên thị trường.

Lần thứ nhất là vào năm 2008, khi tỷ lệ tín dụng/huy động vốn của hệ thống vượt qua
mức 100% từ tháng 1/2008 thì ngay từ tháng 2/2008, lãi suất huy động vốn và cho vay
tăng cao. Cụ thể, các Ngân Hàng Thương Mại phải áp dụng nhiều hình thức khuyến mại
bằng tiền, hiện vật để tìm cách thu hút nguồn vốn. Xuất hiện tình trạng huy động vốn với
kỳ hạn rất ngắn, tương tự như thị trường liên ngân hàng (LNH) với mức lãi suất rất cao.
Các kỳ hạn đã được huy động là từ 2 đến 6 ngày với mức lãi suất hấp dẫn từ 0,45-
0,65%/tháng. Tình trạng này kéo dài đến tháng 7 khiến cho mặt bằng lãi suất trên thị

10
trường bán lẻ liên tục tăng. Mức tăng bình quân theo tháng từ 1 đến 2%/năm. Kết quả là
mức lãi suất huy động vốn kỳ hạn 6 tháng tăng mạnh lên mức 10,5%/năm, vượt ngưỡng
hơn 0,61%/năm so với quy định về mức lãi suất không được vượt quá 150% lãi suất cơ
bản. Đồng thời, mức lãi suất cho vay cũng tăng lên đáng kể. Đến tháng 7/2008, mức lãi
suất cho vay ngắn hạn bình quân của các Ngân Hàng Thương Mại tăng lên mức
13,8%/năm, trước tháng 2/2008 dao động ổn định quanh mức 12,3-12,7%/năm. Tình hình
căng thẳng hơn khi chịu thêm ảnh hưởng của thị trường chứng khoán. Bởi vì, các Ngân
Hàng Thương Mại không thể thực hiện bán giải chấp với các khoản vay kinh doanh
chứng khoán khi thị trường sụt giảm. Nguyên nhân là do VNIndex sụt giảm trên 60%
trong 6 tháng đầu năm 2008. Để tránh tình trạng trở nên tệ hơn, Ủy ban chứng khoán Nhà
nước đã vận động ngừng bán giải chấp cổ phiếu.

Lần thứ hai thanh khoản Ngân Hàng Thương Mại có biểu hiện căng thẳng là tháng
12/2009 khi lãi suất tái cấp vốn ở mức 8%/năm. Tỷ lệ vốn thanh khoản/tiền gửi huy động
từ nền kinh tế tháng 12/2009 giảm ở tất cả các nhóm Ngân Hàng Thương Mại so với cuối
năm 2008. Trong đó: Nhóm Ngân Hàng Thương Mại Nhà nước giảm từ 34,5% xuống
25,8%; Nhóm Ngân Hàng Thương Mại cổ phần giảm từ 47,2% xuống 43,4%; Nhóm NH
liên doanh và NH nước ngoài giảm từ 65,3% xuống 60,8%. Cuối tháng 12/2009, số dư
huy động vốn của các Ngân Hàng Thương Mại từ thị trường LNH tăng 65,8% so với cuối
năm 2008. Riêng tháng 12/2009, huy động vốn trên thị trường LNH tăng đột biến (gần
21%) so với tháng 11/2009. Theo đó: Tỷ lệ huy động vốn từ thị trường LNH so tổng dư
nợ cho vay nền kinh tế tăng từ 21,6% năm 2008 lên 26%; Tỷ lệ chênh lệch (tổng dư nợ
tín dụng - huy động vốn trên thị trường I) so với huy động vốn trên thị trường LNH tăng
từ -25,3% năm 2008 lên 5,4% năm 2009. Lãi suất LNH qua đêm và 1 tuần tăng mạnh.
Trong khi lãi suất thị trường mở và tái cấp vốn chỉ tăng 1% từ mức 7% lên 8%/năm vào
tháng 12/2009 thì lãi suất LNH bình quân tăng từ mức trung bình 6%/năm ở các tháng
trong năm lên gần 11%/năm vào tháng 12 đối với kỳ hạn qua đêm, tăng từ 8%/năm lên
12%/năm đối với kỳ hạn 1 tuần.

Lần thứ ba trong giai đoạn từ tháng 10/2010 - 1/2011, tỷ lệ tín dụng/huy động vốn VND
của toàn hệ thống TCTD tăng đáng kể từ mức 98,6% tháng 10/2010 lên mức 100,07%
tháng 11/2010. Mặc dù đến thời điểm cuối năm 2010, tỷ lệ này đã giảm nhẹ xuống còn
99,1%. Nhưng ngay sau đó, vào tháng 1/2011, mức 100% lại tiếp tục bị vượt qua và duy
trì đến tháng 5/2011. Nguyên nhân chủ yếu do tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh hơn
tăng trưởng huy động vốn bằng VND liên tục diễn ra trong vòng 6 tháng kể từ tháng
10/2010. Thậm chí trong 3 tháng đầu năm 2011, số dư huy động vốn VND vào hệ thống
Ngân Hàng Thương Mại liên tiếp giảm so với các tháng liền trước. Trên thị trường LNH,
mức lãi suất qua đêm tăng liên tục. Mặc dù, trước đó, lãi suất đang duy trì xu hướng giảm
từ đầu năm 2010 thì xu hướng ngược lại đã được xác lập từ tháng 7 đến cuối năm. Từ
tháng 7/2010 đến tháng 10/2010, mức tăng bình quân tháng của mặt bằng lãi suất LNH
liên tục là từ 0,1-0,5%/năm. Đến tháng 11/2010, chỉ trong vòng 1 tháng, mức lãi suất đã
tăng cao đột biến 2,8%/năm lên mức 10,3%/năm vào tháng 11/2010. Lãi suất bình quân
các kỳ hạn từ 1 tuần đến 12 tháng dao động xung quanh mức 13,3-13,5%/năm, cao hơn

11
mức ổn định 7-11%/năm trong các tháng trước đó. Đồng thời, các Ngân Hàng Thương
Mại tăng vay mượn trên thị trường LNH từ tháng 8/2010. Mức tăng mạnh nhất diễn ra
vào tháng 10/2010 với mức tăng theo tháng đạt 19,3%. Sự gia tăng lãi suất này chính là
nguyên nhân giúp cho tỷ lệ dư nợ/huy động vốn của các Ngân Hàng Thương Mại có dấu
hiệu sụt giảm nhẹ vào cuối năm. Bởi vì, số dư huy động vốn VND của các Ngân Hàng
Thương Mại từ thị trường LNH trong 11 tháng đầu năm tăng khá so với cuối năm 2009,
đạt 14,34%. Tỷ lệ vốn huy động từ thị trường LNH/tổng vốn huy động tăng từ mức phổ
biến 14% trong 7 tháng liền trước lên mức 17,1% tháng 11/2010 và tăng lên mức cao
nhất 21,03% vào tháng 1/2011.

Nguyên nhân gây ra tình trạng rủi ro thanh khoản của các Ngân Hàng Thương Mại trong
thời gian này là do nhiều yếu tố, từ điều kiện khách quan đến các yếu tố chủ quan của
Ngân Hàng Thương Mại. Điều kiện khách quan có thể kể đến là ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế thế giới, điều kiện kinh tế vĩ mô trong nước. Nhưng nguyên nhân chủ yếu
vẫn là các yếu tố chủ quan của hệ thống khi các Ngân Hàng Thương Mại không đáp ứng
được các yêu cầu về đảm bảo an toàn thanh khoản của Ngân Hàng Nhà Nước đưa ra cũng
như vấn đề về xử lý khủng hoảng thông tin liên quan đến uy tín, ảnh hưởng của Ban Lãnh
đạo Ngân Hàng Thương Mại.
2.2.4. Thực trạng huy động tiền gửi:
Tổng doanh thu cho vay, gửi tiền trên thị trường liên ngân hàng bằng VND đạt 8.765
nghìn tỷ đồng, bằng USD quy đổi VND là 4.791 nghìn tỷ đồng, lần lượt tăng 11,5% và
31,4% so với tổng doanh số của năm 2017. Doanh số mua bán có kỳ hạn giấy tờ có giá
giữa các TCTD, chỉ gửi tiền nhưng có xu hướng tăng trưởng khi tăng từ mức 1.047 nghìn
tỷ đồng năm 2017 lên 1.139 nghìn tỷ đồng đồng năm 2018 tương đương tăng 8,9%. Xét
theo kỳ hạn, các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng năm 2018 tiếp tục phát sinh chủ
yếu ở các kỳ hạn dưới 1 tháng, tập trung nhiều vào kỳ hạn qua đêm, 1 tuần. Doanh số
giao dịch qua đêm bằng VND cả năm đạt 4.302 nghìn tỷ đồng, bằng USD quy đổi VND
đạt 2.976 nghìn tỷ đồng, lần lượt chiếm 49,1% và 62,1% so với tổng donh số giao dịch cả
năm. Năm 2018, mặt bằng lãi suất giao dịch trên thị trường liên ngân hàng cao hơn năm
2017 nhưng duy trì ở mức hợp lý, thanh khoản thị trường được đảm bảo. Bình quân cả
năm 2018, lãi suất kỳ hạn qua đêm, 1 tuần, 2 tuần lần lượt ở mức 2,60%/năm, 2,76%năm
và 2,93%/năm.
2.3. SWOT
2.3.1. Điểm Yếu:
- Mất cân đối kỳ hạn, thanh khoản và chi phí xã hội: Các khoản cho vay dài hạn
chiếm tỷ trọng lớn hơn và có quy mô lớn hơn nhiều so với các khoản tiền gửi có
cùng kỳ hạn. Điều này được giải thích là do nhiều ngân hàng trong một thời gian
dài đã được sử dụng như là “sân sau” của các ông chủ ngân hàng, thực hiện việc
cho vay vào những dự án đầu tư dài hạn, trong đó chủ yếu là bất động sản dẫn tới
sự mất cân đối về kỳ hạn. Trong điều kiện chính sách tiền tệ nới lỏng, tiền rẻ xuất
hiện và các dòng tiền ngắn hạn có thể quay vòng liên tục để tài trợ gối đầu cho các
dự án dài hạn mà không gặp phải vấn đề về thanh khoản. Nhưng khi chính sách

12
tiền tệ thắt chặt trở lại, vòng quay vốn ngắn hạn bị hạn chế khiến nó bị đứt đoạn,
dẫn tới rủi ro thanh khoản lớn buộc các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng nhỏ, phải
huy động bằng mọi giá, đưa mặt bằng lãi suất lên cao
- Quản trị kém và rủi ro mất vốn: Việc quản trị kém được nhìn nhận ở hai giác độ
quan trọng là thiết chế quản trị (corporate governance) và quản trị hoạt động. Ở
giác độ thứ nhất, nhóm đánh giá rằng hệ thống quản trị chưa thật sự rõ ràng và
minh bạch. xuất phát từ mâu thuẫn lợi ích cốt lõi giữa vấn đề chủ sở hữu và người
thực hiện, tại một số ngân hàng có cổ phần chi phối của Nhà nước, những quyết
định quản trị được đưa ra không thật sự phù hợp với thông lệ phục vụ lợi ích của cổ
đông. Nói ngắn gọn, mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có một bước chuyển
biến mạnh mẽ trong quá trình cổ phần hóa hơn mười năm qua, nhưng gần như cơ
chế quản trị không có sự thay đổi đáng kể nào.
- Cơ cấu hệ thống tài chính mất cân đối:
- Vốn: Quy mô vốn điều lệ của các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam còn quá nhỏ
so với các ngân hàng trung bình trong khu vực. Những ngân hàng có quy mô lớn
nhất toàn hệ thống như Agribank, Vietcombank hay BIDV cũng chỉ khoảng trên
800 triệu USD, thấp xa so với các ngân hàng lớn của một số quốc gia trong khu
vực (như Ngân hàng Băng Cốc Thái Lan: hơn 3 tỷ USD, ngân hàng Maybach của
Malaysia hơn 4 tỷ USD và ngân hàng Philipines hơn 900 triệu USD). Với quy mô
vốn tự có thấp sẽ rất khó khăn cho Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam khi muốn
triển khai các loại hình dịch vụ mới, đồng thời năng lực chống đỡ các cú sốc tài
chính từ trong và ngoài nước cũng bị hạn chế. Cùng với việc mở cửa thị trường tài
chính thì việc thua thiệc trong cạnh tranh là điều khó tránh khỏi.
- Hoạt động Marketing vẫn còn rời rạc, nhỏ lẽ mang tính thời vụ và chưa có chiến
lược: Đối với các Ngân Hàng Thương Mại lớn, với tiềm lực cả về tài chính lẫn
nhân lực mạnh, hoạt động marketing thường được tổ chức rất bài bản, có tính hệ
thống, xuyên suốt và chuyên nghiệp. Thậm chí, việc hoạch định chiến lược
marketing được các ngân hàng này thuê các chuyên gia nước ngoài có nhiều kinh
nghiệm và năng lực triển khai. Chẳng hạn, một trong những nội dung của hoạt
động marketing là quảng cáo trên truyền hình, các Ngân Hàng Thương Mại lớn
thực hiện chuyên nghiệp hơn, có dung lượng dài hơn và thường được phát trực tiếp
vào giờ vàng. Hầu hết nội dung quảng cáo, dễ hiểu, không rườm rà nhưng lại gây
ấn tượng rất lớn đối với khách hàng. Trong khi đó, đối với các ngân hàng nhỏ và
tầm trung, hoạt động marketing vẫn còn kém và rời rạc, mang tính thời vụ mà chưa
có chiến lược phát triển dài hạn. Hoạt động marketing chỉ tâ ̣p trung ở các thành phố
lớn, trong khi ở một số thị trường còn yếu và chưa thường xuyên nhất là ở các
tuyến huyện, vùng sâu, vùng xa.

2.3.2. Điểm Mạnh:


- Có hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp cả nước: Hiện đã có 31 ngân hàng
TMCP, 4 ngân hàng 100% vốn nhà nước, 2 ngân hàng liên doanh, 9 ngân hàng
100% vốn nước ngoài. Cập nhật tại thời điểm tháng 9/2019, hệ thống các ngân
hàng thương mại Việt Nam (tính cả Agribank) có hơn 11.300 chi nhánh, phòng
13
giao dịch trải khắp cả nước, một số ngân hàng có điểm giao dịch ở nước ngoài như
Sacombank, Vietinbank, Vietcombank, BIDV, SHB, MB, … Agribank,
LienVietPostBank, Vietinbank và BIDV là những ngân hàng có mạng lưới giao
dịch lớn nhất, chiếm tới 50% tổng số lượng các điểm giao dịch của toàn hệ thống.
Trong đó, Agribank dẫn đầu với 2.232 điểm giao dịch, con số này gấp đôi cả
VietinBank (1113 điểm giao dịch) và BIDV (1060 điểm giao dịch). Việc sáp nhập
Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện năm 2011 giúp LienVietPostBank có thêm
hơn 1.300 phòng giao dịch bưu điện, nâng tổng số chi nhánh và phòng giao dịch
của ngân hàng này lên con số 1253, xếp thứ 2 toàn hệ thống. Cùng với việc mở
rộng các điểm giao dịch, các ngân hàng hiện nay còn hướng tới việc gia tăng độ
phủ thương hiệu khắp mọi tỉnh thành trên toàn quốc và ở cả nước ngoài. Vẫn là
những cái tên như Agribank, Vietinbank, BIDV, Techcombank, LienVietPostBank
cùng với số lượng "khủng" các điểm giao dịch đã phủ khắp toàn bộ 63 tỉnh thành
trên toàn quốc. Vietcombank, MBBank cũng chạy đua với số lượng tỉnh thành hoạt
động lên đến 53 tỉnh thành hay MSB và SHB với khoảng 50 tỉnh thành.
Một số ngân hàng khác chưa thực sự quen thuộc với đa số khách hàng thì mới xuất
hiện ở những địa bàn hoạt động là các tỉnh thành lớn như Nam A Bank (17 tỉnh
thành), VietABank (16 tình thành), Eximbank (22 tỉnh thành), NCB (27 tỉnh
thành), … Cũng có khác nhiều ngân hàng đã lan tỏa thương hiệu đi khá nhiều tỉnh
thành với mức 30 đến 50 tỉnh thành.
- Sản phẩm, dịch vụ của các ngân hàng thương mại đa dạng: Hiện nay, từ các dịch
vụ truyền thống như cho vay, nhận tiền gửi, mua bán ngoại tệ mà phát sinh các
dịch vụ song hành, các dịch vụ bảo trợ như: kinh doanh bảo hiểm; kinh doanh
chứng khoán – môi giới; tự doanh; bảo lãnh phát hành; quản lý tiền mặt; quản lý
danh mục đầu tư, tư vấn tài chính và đầu tư; lưu ký; bảo quản tài sản; dịch vụ quản
lý tài sản theo uỷ quyền của khách hàng; kinh doanh vàng; giữ bí mật về các khoản
đầu tư của khách hàng… Bên cạnh đó còn có các dịch vụ nhân hàng hiện đại khác:
tài trợ tiêu dùng; tư vấn tài chính; quản lý ngân quỹ; dịch vụ cho thuê tài chính; tài
trợ dự án; cung cấp các dịch vụ bảo hiểm; cung cấp các kế hoạch hưu trí; cung cấp
dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán; cung cấp dich vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp;
cung cấp dịch vụ đầu tư, dịch vụ kinh doanh chứng khoán và dịch vụ ngân hàng
bán buôn; cung cấp các dịch vụ ngân hàng quốc tế đều là các dịch vụ mới phát triển
theo xu hướng ngân hàng hiện đại.
- Ngân hàng số: Ngân hàng số là mô hình hoạt động chủ yếu dựa vào các nền tảng
và dữ liệu điện tử để kinh doanh sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Sự bùng nổ của
công nghệ thông tin (CNTT) kéo theo xu hướng phát triển ngân hàng số đã mang
lại nhiều tiện ích cho cả ngân hàng và khách hàng. So với ngân hàng truyền thống,
ngân hàng số giúp người tiêu dùng tiết kiệm thời gian, chi phí cũng như công sức
khi thanh toán tiền điện, tiền nước trực tiếp, mua sắm trực tuyến mà không phải
đến tận nơi. Đồng thời, với sự hỗ trợ từ công nghệ, dịch vụ ngân hàng số còn có thể
phục vụ tốt hơn nhiều đối tượng khách hàng, thậm chí cả những khách hàng ở vùng
sâu, vùng xa, giúp ngân hàng nâng cao lợi thế cạnh tranh hiệu quả so với đối thủ.
Ngân hàng số cũng giúp tạo ra sản phẩm độc đáo, giá trị cao, đáp ứng được đa

14
dạng đối tượng khách hàng. Việc phát triển và đưa vào sử dụng ngân hàng số mang
đến nhiều lợi ích thiết thực cho ngân hàng. Khi thu nhập từ hoạt động tín dụng
ngày càng giảm, phát triển các sản phẩm dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ số
tạo điều kiện cho nhiều ngân hàng nâng tỷ trọng nguồn thu trong tổng lợi nhuận
chung. Ví dụ năm 2017, TPBank đã khai trương điểm giao dịch LiveBank (ngân
hàng tự động) phục vụ 24/7, cho phép khách hàng có thể tương tác với các thiết bị
để thực hiện nhiều loại giao dịch.

2.3.3. Cơ Hội:
- Nền tảng phát triển kinh tế vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam tương đối cao (Thể
hiện qua tốc độ tăng trưởng kinh tế)
- Việt Nam là quốc gia được xếp vào hàng các nước đang phát triển trên thế giới với
mức tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt khoảng 7-8%.
- Đặc biệt tốc độ tăng trưởng của ngành ngân hàng cũng ở mức cao: 20%/năm. Khi
Việt Nam gia nhập WTO thì cơ hội xuất nhập khẩu tăng nhanh, làm cho nhu cầu về
thanh toán quốc tế tăng,làm cho thu nhập của hệ thống Ngân Hàng Thương Mại có
cơ hội tăng mạnh.
- Chính sách của Chính phủ trong việc hạn chế sử dụng tiền mặt trong thanh toán
thúc đẩy nhu cầu và thói quen sủ dụng các sản phẩm ngân hàng của người
dân.Nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, hạn chế lạm phát , tạo thói quen tiêu
dùng không sử dụng tiền mặt cho người dân …Chính phủ đã có những quy định và
chính sách hạn chế tiền mặt trong lưu thông như thực hiện chi trả lương cho cán bộ
công nhân viên qua thẻ ATM, khuyến khích người dân mua sắm qua thẻ thanh toán
của các ngân hàng….Từ đó các dịch vụ của ngân hàng như mở tài khoản cá nhân,
thanh toán hoá đơn qua thẻ ATM …của các ngân hàng ngày càng phát triển, mang
lại 1 nguồn thu lớn cho ngân hàng.
2.3.4. Thách Thức:
- Do Việt Nam đã gia nhập WTO nên trong những năm tới, sự “đổ bộ” của các ngân
hàng nước ngoài vào Việt Nam sẽ tạo ra sức cạnh tranh khốc liệt trong cuộc chạy
đua giữa các ngân hàng nhắm chiếm lấy thị phần Tài chính- Ngân hàng ở Việt
Nam.
- Các Ngân hàng nước ngoài với lợi thế vốn lớn, nhân viên đạt trình độ kĩ thuật cao,
có kinh nghiệm quản lý lâu năm, chiến lược kinh doanh rõ ràng và cụ thể trong thời
gian dài….sẽ khiến cho các ngân hàng trong nước gặp phải nhiều khó khăn trong
việc tranh giành “miếng bánh thị phần trong nước”.
- Kèm theo đó là sự tranh giành ở cả thị phần nguồn lao động chất lượng cao của các
Ngân hàng nước ngoài sẽ gây nên tình trạng chảy máu chất xám.

15
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT
ĐỘNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
- Giải pháp về công nghệ: Cùng với làn sóng công nghệ mới đang lan tỏa, việc đầu
tư công nghệ cải thiện năng suất lao động, mở rộng dịch vụ, rút ngắn thời gian giao
dịch, gia tăng trải nghiệm của khách hàng… là xu hướng đã trở nên rõ rệt. Tuy
nhiên, tùy theo tình hình tài chính, năng lực của hạ tầng và mức độ đáp ứng về con
người, các NHTM sẽ lựa chọn cho mình những mục tiêu cụ thể. Sự lựa chọn này
có thể sẽ tạo ra sự phân cấp hơn nữa giữa các NHTM Việt Nam. Sự phân hóa này
trong tương lai có thể không phụ thuộc vào mạng lưới của ngân hàng nhiều hay ít,
quy mô lớn hay nhỏ mà phụ thuộc vào hàm lượng công nghệ trong các sản phẩm,
dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.

- Xếp hạn tín dụng: Hiện nay, có một số Ngân Hàng Thương Mại chưa có sự đồng
nhất trong việc đánh giá xếp hạn tín dụng. Nên xây dựng chung hệ thống xếp hạng
tín dụng cho hệ thống Ngân hàng Thương Mại Việt Nam để khách hàng dễ dàng
hơn cho việc vay vốn đối với mọi phân khúc khách hàng.

- Đào tạo nguồn nhân lực: Trong kinh tế thị trường hiện nay, thì việc cạnh tranh
giữa các hệ thống Ngân Hàng Thương Mại trong nước và quốc tế ngày càng gay
gắt. Việc đào tạo nguồn nhân lực cao, hiệu quả, một cách bài bản sẽ giúp ngành
Ngân Hàng Thương Mại trong nước phát triển hơn và không bị chảy máu chất
xám.

16
Tài liệu tham khảo:
Luân, (30/12/2016).Đặc trưng hoạt động của Ngân hàng thương mại.
https://luanvanaz.com/dac-trung-hoat-dong-cua-ngan-hang-thuong-mai.html

Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, (30/06/2020). Danh sách các Ngân Hàng TMCP trong
nước. https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/fm/htctctd/nh/nhtm/nhtmcp?
centerWidth=80%
25&leftWidth=20%25&rightWidth=0%25&showFooter=false&showHeader=false&_adf.ctrl-state=
5nu2qgg5j_273&_afrLoop=10715614118712224#%40%3F_afrLoop%3D10715614118712224
%26centerWidth%3D80%2525%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26sho
wFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dinlk38z1x_4

Ngân hàng thương mại Việt Nam: Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức.
https://khotrithucso.com/doc/p/ngan-hang-thuong-mai-viet-nam-diem-manh-diem-yeu-co-hoi-va-
229427

Ths. Huỳnh Ngọc Lan Chi, (2007). Giải pháp phát triển sản phẩm dịch vụ tài chính ngân
hàng tại ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt. http://dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-
van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_783187.pdf
#page69

Ths. Nguyễn Thị Xuân Hoa, (2007). Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt Nam.
https://citeseerx.ist.psu.edu/viewdoc/download?doi=10.1.1.466.8166&rep=rep1&type=pdf

Ths. Đặng Phương Linh, (2020). Vấn đề hiệu quả marketing tại các ngân hàng thương
mại cổ phần. http://tapchitaichinh.vn/ngan-hang/van-de-hieu-qua-marketing-tai-cac-
ngan-hang-thuong-mai-co-phan-hien-nay-328416.html

TS. Quách Mạnh Hào, (2012). Những điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam Hiện
nay. http://eprints.lincoln.ac.uk/id/eprint/25196/1/505-968-1-SM.pdf

TS. Đỗ Hoài Linh, ThS. Lại Thị Thanh Loan, (2019). Thanh khoản hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị. http://tapchinganhang.gov.vn/thanh-
khoan-he-thong-ngan-hang-thuong-mai-viet-nam-thuc-trang-va-khuyen-nghi.htm

Lê Hường, (2007). Những điểm yếu của hệ thống ngân hàng. https://vneconomy.vn/tai-
chinh/nhung-diem-yeu-cua-he-thong-ngan-hang-66962.htm

TheBank.vn, (2020). Những tác động to lớn từ nợ xấu của các ngân hàng thương mại.
https://thebank.vn/blog/14580-nhung-tac-dong-to-lon-tu-no-xau-cua-cac-ngan-hang-
thuong-mai.html#:~:text=Th%E1%BB%91ng%20k%C3%AA
%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20c%C3%B4ng%20b%E1%BB%91,v
%E1%BB%9Bi%20th%E1%BB%9Di%20%C4%91i%E1%BB%83m
%20%C4%91%E1%BA%A7u%20n%C4%83m

Thực trạng hoạt động của ngân hàng hàng thương mại Việt Nam.
https://123doc.net//document/1808653-thuc-trang-hoat-dong-cua-ngan-hang-thuong-mai-
viet-nam.htm

Luân, (2014). Quá trình hình thành và phát triển hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam. https://luanvanaz.com/qua-trinh-hinh-thanh-va-phat-trien-he-thong-ngan-hang-
thuong-mai-viet-nam.html

Thanh Hoa, (2019). Ngân hàng thương mại (Commercial Bank) là gì? Chức năng của
Ngân hàng thương mại.https://vietnambiz.vn/ngan-hang-thuong-mai-commercial-bank-
la-gi-chuc-nang-cua-ngan-hang-thuong-mai-20190812165443325.htm

You might also like