Professional Documents
Culture Documents
NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC TRONG THUẬN LỢI HOÁ THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM
NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC TRONG THUẬN LỢI HOÁ THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM
TIỂU LUẬN
MÔN THUẬN LỢI HÓA THƯƠNG MẠI
ĐỀ TÀI
NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC
TRONG THUẬN LỢI HOÁ THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM
Chương 2. Những thành tựu trong thuận lợi hóa thương mại của Việt Nam .............7
2. 3. Thời gian và chi phí thực hiện thủ tục xuất nhập khẩu.................................12
Chương 3. Những vấn đề còn tồn tại và kiến nghị giải pháp....................................17
3.1.1. Thiếu một bộ máy tổ chức thống nhất tạo thuận lợi hóa thương mại ......17
2
Chất lượng hạ tầng bến Chất lượng hạ tầng
0
cảng đường sắt
Nguồn: Báo cáo xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu WEF, 2019
Dù đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển KCHTGT theo hướng đồng
bộ, hiện đại, nhưng thực tế vẫn còn là điểm nghẽn đối với nhu cầu phát triển. Vì thế,
chưa hình thành được hệ thống KCHTGT đồng bộ, hiện đại, nhất là so sánh với các
tiêu chí của quốc tế (mạng đường bộ cao tốc, đường sắt tốc độ cao, cảng hàng không,
cảng biển đầu mối).
2. 3. Thời gian và chi phí thực hiện thủ tục xuất nhập khẩu
Khảo sát Môi trường Kinh doanh của Ngân hàng Thế giới gồm các đo lường về thời
gian và chi phí (không bao gồm thuế quan) liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa
được tiêu chuẩn hóa theo đường vận tải biển cho thấy: Năm 2019, Việt Nam đứng
thứ 100 trong số 190 nền kinh tế xét theo chỉ số này, mặc dù xếp hạng tổng thể của
Việt Nam trong Chỉ số Môi trường Kinh doanh là 69.
Thời gian và chi phí xuất nhập khẩu của các quốc gia ASEAN năm 2019
400 800
300 600
200 400
100 200
0 0
Thời gian làm thủ tục xuất khẩu (giờ) Chi phí xuất khẩu (USD/cont)
Thời gian làm thủ tục nhập khẩu (giờ) Chi phí nhập khẩu (USD/cont)
Nguồn: Chỉ số Môi trường Kinh doanh, Ngân hàng Thế giới, 2019.
2. 4. Môi trường pháp lý
Phạm vi trong nước
Nhà nước đang tiếp tục đổi mới thể chế và nhấn mạnh vai trò của kinh tế tư nhân,
tiến hành cổ phần hóa mạnh mẽ DN nhà nước; Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng
cho các DN tư nhân tốt hơn bằng cách xóa bỏ các điều kiện kinh doanh của các ngành
nghề khác nhau...
- Về vấn đề kiểm soát tham nhũng: Trong năm 2017, chống tham nhũng là một trong
các chiến lược cải cách của Nhà nước. Theo công bố của Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI) về chỉ số PCI: Chi phí không chính thức đã có sự giảm
tương đối (2011: 6,81 điểm, đến 2017: 5,31 điểm). Kết quả đó cũng cho thấy, những
nỗ lực kiểm soát tham nhũng của Chính phủ đang khẳng định sự đúng đắn của Chính
phủ nhằm chống tham nhũng, giảm thiểu chi phí không chính thức cho DN.
- Về cải thiện môi trường kinh doanh: Nhà nước đã ban hành một loạt nghị quyết
nhằm cải cách thủ tục hành chính. Cụ thể như Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính
phủ ban hành ngày 01/01/2017 yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền địa phương lập
kế hoạch chi tiết để cải thiện tất cả các lĩnh vực PCI có liên quan đến các quy định và
thủ tục hành chính”. Cùng với đó là Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP của Chính phủ
yêu cầu các tỉnh, thành phố nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh và năng lực cạnh
tranh quốc gia. Chỉ số gia nhập thị trường là một trong những chỉ số đã có nhiều cải
thiện rõ rệt. Theo kết quả công bố PCI của VCCI thì chỉ số gia nhập thị trường năm
2017 đạt cao nhất trong tất cả các chỉ số thành phần khi đạt 7,84 điểm. Năm 2006,
thời gian đăng ký kinh doanh trung bình là 21,9 ngày, đến năm 2017 chỉ còn 6 ngày.
Điều đó cho thấy, cải cách hành chính đã đạt được những kết quả kỷ lục, giúp cho
việc thành lập DN trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Năm 2017, đã có 126.859 DN
đăng ký thành lập, với số vốn đăng ký là 1.295.911 tỷ đồng, tăng 15% về số DN và
tăng 45,4% về số vốn đăng ký so với năm 2016. Những con số ấn tượng đó đã phản
ánh những quyết tâm mạnh mẽ của Nhà nước với chủ trương khuyến khích “khởi
nghiệp” và xây dựng “chính phủ kiến tạo”.
- Về thiết chế pháp lý: Kết quả điều tra PCI 2017 cho thấy, về cơ bản, chỉ số thiết chế
pháp lý có sự thay đổi tích cực so với các năm trước khi đạt 5,94/10 điểm; Tỷ lệ DN
tin tưởng vào hệ thống pháp luật sẽ đảm bảo quyền tài sản/thực thi hợp đồng của DN
đạt tương đối cao (85%). Tuy nhiên, tỷ lệ DN sẵn sàng sử dụng tòa án để giải quyết
các tranh chấp giảm chỉ còn 36% vào năm 2017, trong khi ở năm 2013 là 60%.
Trên phạm vi quốc tế
Việt Nam đã cam kết và tham gia một số thỏa thuận với các nội dung về tạo thuận lợi
thương mại. Đó là: (i) Hiệp định GATT của WTO năm 1994 trong đó có quy định về
tự do quá cảnh, lệ phí và thủ tục kết nối với nhập khẩu và xuất khẩu hàng hoá, và
thông báo và quản lý các quy định thương mại, (ii) APEC với các thành viên phải
thực hiện hai Kế hoạch Hành động Thúc đẩy Thương mại (TFAPs), (iii) Diễn đàn
Hợp tác Á-Âu (ASEM), với Kế hoạch Hành động Thúc đẩy Thương mại giữa
ASEAN và Liên minh Châu Âu, và (iv) ASEAN, trong đó Việt Nam đã ký các thỏa
thuận và chương trình thúc đẩy thương mại sau đây:
Thỏa thuận Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA);
Hiện đại hóa Hải quan ASEAN;
ASEAN Một cửa (ASW);
Những thoả thuận công nhận lẫn nhau trong ASEAN; và
Hài hòa hóa các Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật.
Việt Nam cũng tham gia một số sáng kiến ASEAN:
Một cửa ASEAN;
Hiệp định Công nhận lẫn nhau (MRAs); và
Hài hòa hóa các Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật
Việt Nam đã chủ động trong việc xây dựng, đàm phán, phê duyệt, thực hiện các cam
kết và thực hiện các quy định về tạo thuận lợi thương mại và logistics như là một
phần của các thỏa thuận quốc tế. Tác động kết hợp của việc ký kết và tuân thủ các
thỏa thuận song phương và đa phương đã tăng cường môi trường thể chế, tạo điều
kiện thúc đẩy thương mại và logistics giữa Việt Nam và các nước thành viên khác
của cộng đồng quốc tế. Tuy vậy, độ cải thiện tạo thuận lợi thương mại chưa rõ ràng
bởi nhiều cam kết chưa được thực hiện. Về những quy định liên quan đến các thỏa
thuận song và đa phương mà Việt Nam bắt đầu tuân thủ, hiệu quả thực hiện như thế
nào sẽ phụ thuộc vào hiệu quả của các thể chế tại các tầng thấp hơn.
2. 5. Cơ sở hạ tầng dịch vụ viễn thông
Cơ sở hạ tầng viễn thông
Tuyến cáp quang biển mạng viễn thông quốc tế:
Cáp quang biển đóng một vai trò rất quan trọng trong kết nối viễn thông, Internet
giữa các châu lục trên toàn cầu, là “cửa ngõ” để chúng ta kết nối liên tục với thế giới
24/24. Hiện Việt Nam đang khai thác 6 tuyến cáp quang biển quốc tế là AAG, SMW3,
APG, AAE-1, TGN-IA, T-V-H và sắp tới là SJC2 với chiều dài các tuyến lên đến
hàng chục nghìn km và công nghệ truyền tải dữ liệu hiện đại
Công nghệ 4G:
Theo báo cáo của OpenSignal về tình trạng phủ sóng 4G LTE trên toàn cầu trong quý
I/2019, với tốc độ mạng 4G trung bình đạt 14,1Mbps, Việt Nam xếp thứ 44 trên tổng
số 87 quốc gia được OpenSignal nghiên cứu (cao hơn cả Israel (13,6 Mbps) hay Nga
(12Mbps)), và xếp thứ 3 tại khu vực Đông Nam Á. Các nhà mạng cũng liên tục tăng
cường các điểm phát sóng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong nước. Hiện cả
nước có hơn 100.000 trạm thu phát sóng 4G thuộc sở hữu của 3 công ty viễn thông
lớn nhất là VNPT, Viettel và Mobiphone.
Công nghệ 5G:
Hiện nay, quá trình phát triển công nghệ 5G tại Việt Nam đã đạt được những bước
tiến lớn. Các nhà mạng đang cạnh tranh tích cực để nhanh chóng triển khai phủ sóng
công nghệ này trên quy mô lớn. Điển hình là mới đây, tháng 3/2020, Mobiphone
thông báo đã thử nghiệm thành công công nghệ 5G tại 4 thành phố Hồ Chí Minh, Hà
Nội, Đà Nẵng và Hải Phòng. Sau hơn một năm chuẩn bị, việc thử nghiệm 5G của nhà
mạng này đã diễn ra thành công với tốc độ dữ liệu tải xuống đạt xấp xỉ 2 Gbps, đỗ trễ
ghi nhận gần bằng 0
Dịch vụ viễn thông:
Dịch vụ di động và kết nối mạng dữ liệu di động
Việt Nam có tới hơn 145,8 triệu kết nối mạng dữ liệu di động tính tới tháng 1 năm
2020. Con số tăng trưởng cũng khá là ấn tượng với hơn 1,9% so với cùng kì năm
trước. Vì thế, số lượng thiết bị có kết nối internet tại Việt Nam vào tháng 1 năm 2020
đã tương đương 150% trên tổng dân số mà Việt Nam đang có
Dịch vụ Internet
Tình hình sử dụng Internet tại Việt Nam trên tổng dân số là ở mức 70% tính đến tháng
1 năm 2020. Cùng với đó, tốc độ truy cập Internet vẫn tăng trưởng hàng năm. Cụ thể,
tốc độ truy cập năm 2019 là 21,56 Mbps (tăng 6,1% so với năm 2018) và ở máy tính
là 27,18 Mbps (tăng 9,7%).
Tác động của cơ sở hạ tầng viễn thông và dịch vụ viễn thông đến hoạt động thương
mại của doanh nghiệp Việt Nam
Nâng cao hiệu quả sản xuất, qua đó gia tăng lợi thế cạnh tranh cho các doanh
nghiệp
Sự phát triển CSHT, dịch vụ viễn thông cho phép doanh nghiệp gia tăng hiệu quả sản
xuất nhờ tiếp cận được các luồng thông tin chính xác, đa chiều với tốc độ nhanh nhất.
Qua đó xác định nhu cầu thị trường và tham khảo về giá sản phẩm tương tự tại thị
trường mục tiêu cũng như tiếp cận các giải pháp công nghệ giúp đẩy mạnh quá trình
thương mại cho doanh nghiệp và bắt kịp xu thế của thế giới. CSHT, dịch vụ viễn
thông cũng giúp quảng bá hình ảnh doanh nghiệp và kết nối các doanh nghiệp với
nhau dễ dàng hơn nhà nền tảng mạng internet và các sàn thương mại điện tử, cũng
như là các chiến dịch marketing online vô cùng hiệu quả.
Giảm chi phí thương mại
CSHT, dịch vụ viễn thông giúp doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với nguồn cung đầu
vào chất lượng, giá cả hợp lý, từ đó giảm chi phí sản xuất. Thứ hai, việc phát triển
các nền tảng online giúp giảm chi phí logistics và giúp kết nối với các bên trung gian
dễ dàng, thuận tiện hơn. Thứ ba, thông qua quá trình máy tính hóa quy trình quản lý
thông tin, thời gian tiến hành thủ tục và thông quan hàng hóa sẽ được rút ngắn đáng
kể, đồng thời cũng sẽ giúp doanh nghiệp tối ưu hóa phương thức quản lý doanh
nghiệp, qua đó tiết kiệm chi phí vận hành và gia tăng hiệu quả kinh doanh.
Tăng luồng hàng thương mại
Sự phát triển CSHT, dịch vụ viễn thông giúp giảm đi rủi ro thiếu hụt thông tin của
doanh nghiệp đối với thị trường cũng như là thông tin của khách hàng đối với doanh
nghiệp. Việc cắt giảm được chi phí Logistics và sản xuất, vận hành cũng như sự nở
rộ của các sàn thương mại điện tử cũng khiến cho giao dịch thương mại quốc tế trở
nên nhanh chóng và thuận tiện hơn bao giờ hết.
Chương 3. Những vấn đề còn tồn tại và kiến nghị giải pháp
3. 1. Những vẫn đề còn tồn tại
3.1.1. Thiếu một bộ máy tổ chức thống nhất tạo thuận lợi hóa thương mại
Hoạt động quản lý thúc đẩy thương mại được thực hiện tự chủ bởi các bộ, ngành khác
nhau. Trách nhiệm thúc đẩy thương mại được phân cấp theo chiều ngang cho các bộ,
ngành và các cơ quan trực thuộc quản lý và thực hiện trong các lĩnh vực phụ trách
tương ứng của mình, và theo chiều dọc từ các bộ ngành trung ương xuống các cấp
chính quyền thấp hơn. Phân cấp theo chiều ngang đã dẫn đến thiếu sự phối hợp giữa
các khu vực trong khi phân cấp theo chiều dọc ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện các
hoạt động. Quyền hạn chồng chéo và trách nhiệm giữa các bộ, ngành thường gây khó
khăn trong việc quản lý và hướng dẫn các địa phương triển khai chiến lược ở cấp cơ
sở. Mặt khác, chưa có một định hướng quốc gia chung về tạo thuận lợi thương mại;
việc quản lý và thúc đẩy tạo thuận lợi thương mại ở từng địa phương thường là mang
tính cục bộ, không đồng bộ và nhất quán với các địa phương khác.
Từ đó không tạo ra sự nhất quán trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính liên
quan, gây tốn kém thời gian và chi phí. Điều này thực sự gây ra sự cản trở thương
mại hàng hóa. Không những thế, nhiều mặt hàng hiện nay nhiều mặt hàng vẫn phải
chịu sự quản lý, kiểm tra của nhiều cơ quan. Thống kê cho thấy có đến 50% các mặt
hàng đang chịu sự kiểm tra của hai đến ba bộ, thậm chí trong cùng một bộ nhưng có
những mặt hàng phải do hai đến ba cục, vụ kiểm tra,.. Ví dụ điển hình như các dòng
sản phẩm nồi cơm điện, nồi áp suất, nồi hấp, nồi chiên… phải chịu sự quản lý của 3
Bộ đó là Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Công Thương; Bộ Y tế quản lý. Hay như
đối với xe ô tô con, loại 9 chỗ trở xuống, cũng do 3 Bộ quản lý là: Bộ Giao thông và
Vận tải; Bộ Khoa học và Công nghệ; và Bộ Công Thương quản lý.
3.1.2. Kẽ hở trong chính sách
Lợi dụng những kẽ hở trong chính sách thuế, hiện nay tình trạng buôn lậu, gian lận
thương mại trong lĩnh vực xuất nhập khẩu đã xảy ra rất phổ biến. Tại thị trường Việt
Nam, hàng nhập lậu, hàng trốn thuế, không có hóa đơn chứng từ… chiếm thị phần
rất lớn trong tổng ngành hàng nhập khẩu vào trong nước.
Lợi dụng chính sách ân hạn thuế (cho phép doanh nghiệp chậm nộp thuế đối với
những mặt hàng máy móc thiết bị, nguyên phụ liệu nhập khẩu, các loại hàng nhập
khẩu dạng gia công…) nhiều doanh nghiệp áp dụng phương thức chiếm đoạt tiền thuế
bằng cách trốn khỏi địa chỉ kinh doanh, hoặc cố tình nợ chây ỳ không chịu nộp thuế.
Ngoài ra, cũng có những trường hợp lợi dụng chính sách cho phép doanh nghiệp tự
xây dựng và tự quyết toán định mức, nhiều doanh nghiệp đã hạch toán khống bằng
cách sử dụng hoá đơn của doanh nghiệp "ma" hoặc không khai đúng doanh thu để
trốn thuế, gây khó khăn cho cơ quan chức năng.
Chính vì chính sách thuế còn nhiều kẽ hở nên việc áp dụng và quản lý giữa các ngành
Thuế, Hải quan với doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Đó cũng là điều kiện thuận lợi
để một số doanh nghiệp lợi dụng khe hở này chiếm dụng tiền thuế, gây thất thoát
ngân sách Nhà nước.
3.1.3. Logistics thiếu hiệu quả
Sự thiếu hiệu quả trong hệ thống logistics tại Việt Nam, điều này khiến cho chi phí
hàng hóa tăng cao, làm cho sản phẩm giảm khả năng cạnh tranh. Nguyên nhân chủ
yếu dẫn tới sự thiếu hiệu quả trong hệ thống logistics là do:
Thứ nhất, hệ thống kết cấu hạ tầng vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mạng lưới giao thông chưa kết nối giữa các loại đường, giữa đường với cảng, giữa
các vùng, nên chưa có khả năng phát triển vận tải đa phương thức. Tình trạng kỹ thuật
của hệ thống đường bộ chưa cao, chất lượng đường bộ còn thấp và lạc hậu. Đường
cấp I, II, II chiếm 48,3%; đường cấp IV chiếm 31,3% và đường cấp V chiếm 20,4%.
Năng lực thông qua hạn chế, đường bốn làn xe chỉ chiếm gần 4%, đường 2 làn xe
chiếm 36%. Tỷ lệ quốc lộ có tiêu chuẩn kỹ thuật cao và trung bình mới chiếm 47%,
tỷ lệ đường cao tốc mới chỉ đạt 0,1% trong khi ở Thái Lan là 13,3%, Malaysia là
2,1% và Hàn Quốc là 3,3%.
Đường sắt chủ yếu là đường đơn khổ 1.000 mm, lại hạn chế về kỹ thuật nên tốc độ
chạy tàu thấp, kém an toàn, khai thác mới chỉ đạt 60-70% năng lực. Đường sắt nối
vào các cảng biển chưa được chú trọng đầu tư. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
và Tây Nguyên chưa có đường sắt.
Hệ thống cảng biển quy mô, công nghệ kỹ thuật thấp, số cầu cảng tiếp nhận được tàu
50.000 DWT chỉ chiếm có 1,4%, tỷ lệ bến chuyên dùng cho hàng container còn thấp
trong khi nhu cầu vận tải hàng này tăng rất nhanh. Chưa có cảng trung chuyển quốc
tế lớn, hiện đại, mặc dù đã có những hải cảng quốc tế như Cảng Sài Gòn, Đà Nẵng,
Hải Phòng đón nhận các tàu lớn, song dịch vụ của các cảng này chưa đáp ứng yêu
cầu. Quy hoạch bến bãi chưa tốt, không gian bến chưa hợp lý, quản lý khai thác thiếu
tính chuyên nghiệp nên hiệu quả bốc xếp container tại các cảng Việt Nam thấp hơn
mức trung bình của các cảng trong khu vực. Hệ thống cảng sông còn rất lạc hậu, chưa
đáp ứng được yêu cầu.
Đối với cảng hàng không, trong 22 cảng thì chưa có cảng hiện đại tầm cỡ quốc tế,
chưa có sân bay đạt tiêu chuẩn loại 4F hiện đại. Nhiều cảng hàng không chưa đủ khả
năng tiếp nhận máy bay vào ban đêm hoặc khi thời tiết xấu, 40% số cảng hàng không
chỉ có khả năng khai thác máy bay nhỏ. Năng lực vận tải hành khách và hàng hóa
bằng đường hàng không còn thấp so với các nước trong khu vực.
Thứ hai, quy trình thủ tục hải quan còn nhiều chồng chéo và cứng nhắc làm chậm tốc
độ luân chuyển hàng hóa.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới thì kết quả cải cách thủ tục hải quan và quản
lý chuyên ngành của Việt Nam đang dậm chân tại chỗ, thậm chí chỉ số thứ hạng về
giao dịch thương mại qua biên giới của Việt Nam còn tụt hạng từ 94 năm 2017 xuống
100 trong năm 2018. Các mục tiêu tạo thuận lợi thương mại của Chính phủ trong năm
2018 theo “Nghị quyết 19-2018/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia năm 2018 và những năm tiếp theo”, đến thời điểm này vẫn gặp rất nhiều thách
thức. Điển hình như mục tiêu đến cuối năm 2018, thời gian thực hiện thủ tục đối với
hàng hóa xuất khẩu là 70 giờ là khó khả thi khi thời gian thực hiện hiện nay đang là
105 giờ, tương tự thời gian làm thủ tục với hàng hóa nhập khẩu đang là 132 giờ, trong
khi mục tiêu đến cuối năm 2018 là 90 giờ. Hiện nay 19,4% các lô hàng nhập khẩu
phải kiểm tra chuyên ngành trước thông quan và rất khó để giảm xuống dưới 10%
vào cuối năm nay.
Thứ ba là vận tải biển nội địa chưa được phát huy hết tiềm năng để giảm tải cho vận
tải đường bộ.
Vận tải thủy nội địa có nhiều lợi thế như chi phí vận chuyển rẻ, ít rủi ro và khối lượng
chuyên chở lớn. Tuy nhiên hiện nay, năng lực vận tải hàng hóa đường thủy nội địa
nước ta, nhất là khu vực vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chưa phát huy hết tiềm
năng, lợi thế sẵn có.
Theo thống kê, hiện nay việc kết nối các cảng khu vực TP. Hồ Chí Minh và BR-VT
với các tỉnh, thành, địa phương trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long bằng
phương thức vận tải thủy vẫn chưa phát huy được hết tiềm lực sông ngòi sẵn có. Gần
80% lượng hàng của vùng vẫn phải vận tải bằng đường bộ với chi phí trung bình tăng
thêm khoảng 8 đến 10USD/tấn, làm giảm tính cạnh tranh của hàng hóa, đặc biệt đối
với các loại hàng hóa nông, thủy sản.
Nguyên nhân chính là do tuyến đường thủy nội địa khu vực này còn tồn tại một số
khó khăn nên chưa phát huy được hiệu quả cao. Luồng tàu biển một số điểm còn hạn
chế độ sâu và độ tĩnh không các cầu phà; một số hệ thống phao neo còn gây mất an
toàn cho tàu thuyền neo đậu chờ làm hàng, thủ tục hành chính phức tạp, chồng lấn…
Thứ tư là sự phát triển thiếu quy hoạch và thiếu tính liên kết của các cảng và dịch vụ
hậu cảng như kho, bãi, trung tâm logistics.
3. 2. Kết luận và đề xuất một số giải pháp
Về cơ bản, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể tuy nhiên tốc độ cải thiện
môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi hóa thương mại còn chậm, chưa đạt được những
mục tiêu cũng như đáp ứng kỳ vọng của doanh nghiệp, Chính phủ. Bên cạnh đó, còn
tồn tại một số vấn đề gây ảnh hưởng tới quá trình thực hiện tạo thuận lợi hóa thương
mại và giảm hiểu quả những chính sách đề ra của Chính phủ.
Xu thế hội nhập kinh tế với thế giới ngày càng tăng khiến cho việc tạo thuận lợi hóa
thương mại trở nên cấp thiết và quan trọng hơn bao giờ hết. Sự tạo thuận lợi hóa thành
công sẽ khiến một quốc gia trở thành một điểm sáng, một đích đến đầu tư vào giao
thương đối với cả thế giới. Với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc tạo
thuận lợi hóa thương mại sẽ trở thành trọng tâm của sự nghiên cứu, phát triển và hoàn
thiện. Để làm được điều này Việt Nam cần phải:
Về phía nhà nước:
Thành lập một cơ quan nào phụ trách tổng thể về tạo thuận lợi thương mại.
Theo đó, việc thành lập Ủy ban chỉ đạo quốc gia về Cơ chế một cửa ASEAN,
Cơ chế một cửa quốc gia và tạo thuận lợi thương mại là một khởi đầu tốt. Bước
tiếp theo là cần phải có một bộ máy giúp việc được trao đủ quyền và có kiến
thức chuyên môn cần thiết để hỗ trợ Ủy ban thực hiện chỉ đạo liên ngành và
giám sát việc thực hiện chương trình cải cách các biện pháp phi thuế quan
Bổ sung, khắc phục những kẽ hở trong chính sách
Hợp lý hóa và cải thiện tính minh bạch của các biện pháp phi thuế quan tại
Việt Nam
Phải xóa bỏ căn bản sự chồng chéo, một mặt hàng chịu sự quản lý, kiểm tra
của nhiều cơ quan
Hiện thực hóa việc ứng dụng công nghệ trong thúc đẩy thuận lợi thương mại,
thực hiện việc kết nối các thủ tục hành chính với cổng thông tin điện tử quốc
gia, không để tình trạng vừa làm thủ tục điện tử vừa yêu cầu doanh nghiệp nộp
hồ sơ giấy.
Đầu tư hiện đại hóa cơ sở hạ tầng rất cần sự cân nhắc kỹ càng, triển khai đồng
bộ cũng như một tầm nhìn trong dài hạn, tránh tình trạng thiếu nhất quán, thiếu
sự kết nối hài hòa.
Về phía doanh nghiệp;
Chủ động tận dụng các điều kiện tạo thuận lợi thương mại thông qua việc nắm
bắt và thực hiện đúng, đủ các chính sách quản lý với hàng hóa xuất nhập khẩu
trong quá trình làm thủ tục hải quan.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần kịp thời phản ánh những khó khăn, bất
cập trong thực hiện các thủ tục hành chính và tích cực đóng góp ý kiến xây
dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách của Nhà nước. Cơ chế đối thoại chính là
giải pháp hiệu quả trong việc hài hòa các mục tiêu quản lý Nhà nước và tạo
thuận lợi hóa thương mại cho doanh nghiệp.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. WB, Doing Business 2019.
2. Bộ Công thương, Tài liệu Hướng dẫn về chỉ số hiệu quả Logistics (LPI)
3. VNNSW, Năm 2019: Nỗ lực của Bộ Tài chính (Tổng cục Hải quan) trong
thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia,
<https://vnsw.gov.vn/profile/detailNews.aspx?id=222>, truy cập 14/09/2020.
4. Khánh Hòa, Ngành Hải quan hiện đại hóa để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà
nước, <http://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/nganh-hai-quan-hien-dai-
hoa-de-nang-cao-hieu-qua-quan-ly-nha-nuoc-324537.html>, truy cập
14/09/2020.
5. VCCI, Tạo thuận lợi thương mại để tăng cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài,
<https://trungtamwto.vn/chuyen-de/13830-tao-thuan-loi-thuong-mai-de-tang-
co-hoi-thu-hut-dau-tu-nuoc-ngoai>, truy cập 13/09/2020.
6. Gia Nguyên, Bài 1: Hải quan ứng dụng CNTT, lợi cả đôi đường,
<https://nhandan.com.vn/tin-tuc-kinh-te/bai-1-hai-quan-ung-dung-cntt-loi-
ca-doi-duong-
343522/?fbclid=IwAR1GTX1xJtQtyD6en0ZCxMgtWGwmcd3ReZxoKC12f
X4XVUjnB88O_8BD5M4>, truy cập 13/09/2020.
7. Lưu Hiệp, Doanh nghiệp lợi dụng lỗ hổng pháp lý để gian lận, giả mạo xuất
xứ Việt Nam, < http://cand.com.vn/doanh-nghiep/Doanh-nghiep-loi-dung-lo-
hong-phap-ly-de-gian-lan-gia-mao-xuat-xu-Viet-Nam-
553963/?fbclid=IwAR0IaH1Nzn9IxCiPvMp6Oe6YPpM5P-u4H_h4cMcW-
Y4COC2SdI6UQx_TTsc>, truy cập 13/09/2020.