Professional Documents
Culture Documents
Bảng này liệt kê những tam giác vuông có cạnh là các số nguyên, tức bộ ba số
x, y, z thỏa mãn x2 + y2 = z2. Việc xây dựng lại phương pháp lựa chọn các số này có
lẽ đưa đến công thức x = p2 – q2, y = 2pq, z = p2 + q2 mà trong số luận gọi là công
thức Điôphăng.
Kiến thức hình học của người Babilon có thể là cao hơn người Cổ Ai cập, vì
còn có khái niệm sơ bộ về đo góc và các hệ thức lượng giác. Tuy vậy, về căn bản
cũng chỉ gồm các phép tính diện tích các đa giác và thể tích các hình đa diện thông
thường trong hình học sơ cấp. Họ đã biết định lý Pitago, định lý Talet và định lý
“Đường vuông góc hạ từ đỉnh của một tam giác cân cạnh đối diện thì chia cạnh ấy
thành hai đoạn thẳng bằng nhau”. Diện tích hình tròn được tính theo công thức S =
C2/12 (dùng pi = 3)
Họ cũng trình bày phương pháp tính gần đúng thể tích các hình bằng cách lấy
giá trị trung bình của các kích thước một cách độc đáo. Phát triển các kiến thức về
thiên văn và tam giác lượng như lập các tỉ số thực nghiệm về thiên văn, bảng tỉ số
lượng giác, …
Nhiều nhà nghiên cứu đã chú ý và thích thú tính chất thuật toán trong các tài
liệu toán Babilon, nhưng cũng có người đánh giá những thành tựu toán Babilon một
cách khiêm tốn hơn.
Những kiến thức toán học Babilon được truyền sang Hi Lạp và các quốc gia ở
Cận đông vào khoảng thế kỉ VII TCN và có thể là đã được kế thừa ở đây cho mãi đến
khoảng năm 300 TCN; Từ đó toán học phát triển sang giai đoạn 2 (toán sơ cấp)
IV. Kết luận về giai đoạn phát sinh toán học
Quá trình tích lũy một số lớn các sự kiện toán học cụ thể dưới dạng phương
tiện tính toán số học, phương pháp xác định diện tích và thể tích, phương pháp giải
một số bài toán, … đã diễn ra lâu dài và khác nhau. Sự tích lũy các kiến thức về số
cũng như về hình học đã tạo ra những tiền đề cho sự hình thành các kĩ thuật toán học:
a) Khả năng chuyển từ việc nghiên cứu trên các vật cụ thể sang việc nghiên
cứu trên các hình ảnh thu gọn, trên sơ đồ và kí hiệu của chúng. Về sau điều này đưa
đến sự phát triển hệ thống ghi số và các phép dựng hình.
b) Biết thay thế những bài toán cụ thể bằng những bài toán có dạng tổng quát
hơn, giải theo những qui tắc xác định, bao gồm một loại các trường hợp riêng. Đây là
những hình thức đầu tiên tạo nên những thuật toán và các phép tính có liên quan.
Chỉ khi nào các tiền đề trên đã phát huy tác dụng một cách rõ rệt và trong xã
hội có một lớp người biết sử dụng một số nhất định những phương tiện toán học, thì
lúc đó mới có căn cứ để nói rằng: đã bắt đầu trở thành một khoa học độc lập.
Giai đoạn phát sinh toán học kết thúc khi toán học đã tích lũy đủ điều kiện để
có thể trở thành một khoa học độc lập.