You are on page 1of 50

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIÊN GIANG

KHOA SƯ PHẠM VÀ XÃ HỘI NHÂN VĂN

LÊ QUỐC KHẢI

TIỂU LUẬN

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


Học phần: LỊCH SỬ TOÁN
Mã học phần: A27011

KIÊN GIANG – 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIÊN GIANG
KHOA SƯ PHẠM VÀ XÃ HỘI NHÂN VĂN

LÊ QUỐC KHẢI
MSSV: 21072008027

TIỂU SỬ, CÁC CÔNG TRÌNH NGUYÊN CỨU CỦA


NHÀ TOÁN HỌC EUCLIDE
VÀ CHỨNG MINH MỘT SỐ MỆNH ĐỀ

BÀI BÁO TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


Học phần: Lịch sử Toán
Mã học phần: A27011

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN


ThS. NGUYỄN THỊ KIM HOA

KIÊN GIANG – 2022


KHOA SƯ PHẠM VÀ XHNV CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BỘ MÔN SƯ PHẠM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

PHIẾU ĐÁNH GIÁ


BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Họ và tên giảng viên: ................................................................................................
Họ và tên sinh viên:..................................................................... MSSV:........................................
Tên bài báo cáo: ............................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
Ý KIẾN NHẬN XÉT
1. Hình thức trình bày bài báo cáo:
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
2. Nội dung bài báo cáo:
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
3. Điểm số (theo thang điểm 10; lẻ 0,5):…………………………………

……………., ngày tháng năm 20 …


GIẢNG VIÊN
4
LỜI CẢM ƠN

Bài tiểu luận này là cả một quá trình nghiên cứu một cách nghiêm túc và hơn hết em đã
nhận rất nhiều sự giúp đỡ từ bạn bè, thầy cô và mọi người xung quanh.
Trước hết, em xin của ơn cô – ThS. Nguyễn Thị Kim Hoa, giảng viên hướng dẫn của học
phần “Lịch sử Toán”. Cô luôn nhiệt tình giúp đỡ, giải đáp các thắc mắc, các chủ điểm khó
trong bài. Qua từng buổi học, chúng em học được từ cô rất nhiều điều, từ kiến thức đặc
trưng của học phần đến các kĩ năng thiết yếu mà chúng em sẽ cần nó khi trở thành một
người giáo viên thật sự. Em thật sự rất biết ơn cô vì những điều mà cô đã làm cho em cùng
với các bạn trong lớp và điều đó đã giúp chúng em hoàn thành bài tiểu luận này.
Đồng thời em cũng xin cảm ơn Trường Đại học Kiên Giang nói chung và Đoàn Khoa Sư
phạm và Xã hội Nhân văn nói riêng vì đã tạo cho chúng em một môi trường học tập thật sự
thoãi mái, hiệu quả và dạy em rất nhiều điều từ kiến thức nền tảng đến các kĩ năng thực tiễn.
Đễ rồi hôm nay, chính điều đó đã giúp em hoàn thành bài tiểu luận này một cách tốt đẹp.
Dù rất nghiêm túc trong việc nghiên cứu và tham khảo tài liệu, nhưng có lẽ không thể
tránh những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô cùng với các bạn. Chính
những sự đóng góp ấy sẽ giúp cho bài tiểu luận này được hoàn thiện hơn.

Châu thành, ngày 7 tháng 2 năm 2023


Sinh viên thực hiện

Lê Quốc Khải

5
6
7
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Hình học là một phân nhánh của Toán học liên quan đến các câu hỏi về hình dạng, kích
thước, vị trí tương đối của các hình khối, và cái tính chất của không gian. Hình học phát
triển một cách độc lập trong một số nền văn minh cổ đại như một phần kiến thức thực tiến
liên quan đến chiều dài, diện tích và thể tích với một phần các yếu tố của khoa học toán học
đến từ phương tây như các định lý của Thales (thế kỉ VI TCN).
Tuy nhiên đến thế kỉ III TCN, có thể nói Euclide đã đặt nền móng cho sự phát triển của
hình học. Những công trình nguyên cứu của ông về toán học nói chung cũng như hình học
nói riêng được xem là sách giáo khoa của nhân loại trong suốt 2000 năm qua. Nếu như hình
học được biết đến nhiều bởi Thales, Pythagore thì đến Euclid, ông là người có công sắp xếp
và hệ thống lại kiến thức hình học một cách khoa học và quy củ. Hình học Euclide đã trở
thành chuẩn mực cho nhiều thế kỉ sau đó. Đã có một thời gian khi nhắc về hình học, người ta
sẽ nghĩ ngay đến Euclide.
Ngày nay các nội dung toán như không gian vectơ, tích vô hướng của hai vectơ, nhóm
các phép biến hình, số đo của một đoạn thẳng hay của một góc, số đo diện tích của một hình
phẳng, số đo thể tích của một hình không gian,... đều được xây dựng dựa trên phương pháp
tiên đề. Phương pháp tiên đề được dùng để xây dựng các môn học hiện đại đã ra đời cách
đây hơn 2000 năm cùng với tác phẩm “Eléments” của Euclide và ngày nay được phát huy
tác dụng cùng với việc hoàn thiện phương pháp đó trong việc xây dựng các mô hình học
khác với hình học Euclide.
Chính vì vậy, ngay khi biết đến Euclide qua học phần “Lịch sử Toán” thì tôi đã cảm
thấy thích thú, muốn được hiểu nhiều hơn về ông và những công trình tiêu biểu mà nhà toán
học này để lại. Những kiến thức ấy sẽ giúp tôi có thêm góc nhìn về hình học và cuộc sống,
biết thêm, hiểu thêm và từ đó nó sẽ là hành trang vô giá cho quá trình trở thành giáo viên
dạy toán của tôi sau này.
2. Mục tiêu Nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
- Nghiên cứu về tiểu sử, các công trình nghiên cứu của Euclide và chứng minh một số mệnh
đề.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu về tiểu sử của Euclide.
- Nghiên cứu về các công trình tiêu biểu của Euclide trong đó có tác phẩm nổi bật
“Eléments” (các định nghĩa, tiên đề, định đề và chứng minh một số mệnh đề trong các quyển
của tác phẩm “Eléments”).
- Chứng minh một số mệnh đề.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Các công trình nghiên cứu của nhà toán học Euclide.
- Phạm vi: Hình học Euclide.

8
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ NHÀ TOÁN HỌC TIÊU BIỂU

1.1. Nhà toán học Isaac Newton


Isaac Newton là một trong những thiên tài lớn nhất thế giới, Newton là nhà toán học và thiên
văn học, ông cũng là nhà vật lý và cơ học, hóa học, về lý thuyết lẫn thực nghiệm. Chế ra
kính thiên văn, phát minh Toán vi phân và nhất là khám phá lực hấp dẫn.

Hình 1. Nhà toán học Isaac Newton

1.1.1. Tiểu sử
Isaac Newton sinh ra trong một gia đình ở Woolsthorpe, gần Grantham ở Lincolnshire
nước Anh, vào ngày 25 tháng 12 năm 1642 theo lịch Julius, còn theo lịch Gregory ông sinh
ngày 4 tháng 1 năm 1643. Là con của Isaac Newton và Hannah Ayscough, trại chủ. Ông
chưa từng thấy mặt cha ông là một nông dân cũng tên là Isaac Newton vì ông ta mất trước
khi Newton sinh ra không.
Khi Newton lên năm, Isaac học tiểu học trường làng, trước tiên tại Skillington, sau đó tại
Stoke. Mẹ Newton thấy con mình có năng khiếu về cơ học hơn là trông coi gia súc, nên bà
cho con tiếp tục đi học để học lên đại học.
Năm 17 tuổi (1661), Newton đậu vào trường Đại học Cambridge, nơi này ông đã gắn bó
trong suốt 40 năm. Đầu tiên là sinh viên, sau đó là giáo sư. Mục tiêu ban đầu của Newton tại
Đại học Cambrige là tấm bằng luật sư với chương trình nặng về triết học của Aristotle.
Nhưng ông nhanh chóng bị cuốn hút bởi toán học của Descartes, thiên văn học của Galileo
và cả quang học của Kepler. Ông đã viết trong thời gian này: “Plato là bạn của tôi, Aristotle
là bạn của tôi, nhưng sự thật mới là người bạn thân thiết nhất của tôi”. Tuy nhiên, đa phần
kiến thức toán học cao cấp nhất thời bấy giờ Newton tiếp cận được là nhờ đọc thêm sách,
đặc biệt là từ sau năm 1663, gồm các cuốn Element của Euclid, Clavis Mathematica của
William Oughtred, La Géométrie của Descartes, Geometri a Renato DesCastes của Frans
van Schooten, Algebra của Willis và các công trình của Francois Viète.
Sự gặp gỡ với giáo sư Isaac Barrow (1630-1677) đã quyết định nghề nghiệp khoa học của
ông sau này. Giáo sư Barrow ngạc nhiên về trí thông minh của Newton đến nỗi ông đã từ
chức để nhường chỗ cho Newton và Newton đã trở thành một nhà toán học, vật lý học thiên
tài.

9
Năm 1665, Newton nhận bằng Bachelor of Arts, tương đương với bằng cử nhân hiện nay.
Trong 2 năm nhà trường phải đóng cửa do bệnh dịch, Newton có một loạt các phát triển
quan trọng, trong đó với phương pháp tính vi phân và tích phân hoàn toàn mới đã thống nhất
và đơn giản hóa nhiều phương pháp tính khác nhau thời bấy giờ để giải quyết những bài toán
có vẻ không liên quan trực tiếp đến nhau như tìm diện tích, tìm tiếp tuyến, độ dài đường
cong… Cũng trong lúc đó, Gottfried Leibniz (1646-1716), nhà bác học Đức cũng tìm ra
cách tính này. Do đó sinh ra một cuộc bút chiến giành quyền tác giả ưu tiên, một cuộc bút
chiến dữ dội và lâu dài vì Newton xây dựng khái niệm về toán vi phân trước Leibniz rất lâu,
nhưng Leibniz lại in đề tài này ra trước.
Mùa hè năm 1666 tại Woolsthorpe, Isaac Newton sửa soạn trình bày một thí nghiệm sẽ là
nguồn gốc của tất cả những lý thuyết hiện đại về ánh sáng và màu sắc.
Năm 1670, ông được nhận làm giảng viên của trường Đại học Cambridge sau khi hoàn
thành thạc sĩ và bắt đầu nghiên cứu và giảng về quang học.
Năm 1672 Newton được bầu vào Hội Khoa học Hoàng gia Anh và bắt đầu vấp phải sự
phản bác từ Huygens và Hooke về lý thuyết hạt ánh sáng và tranh cãi về lý thuyết màu sắc
ánh sáng dẫn đến tinh thần suy sụp.
Năm 1684, Newton xuất bản quyển Philosoph iae Naturalis Principia Mathematica (Các
Nguyên lý Toán học của Triết lý về Tự nhiên). Quyển sách đã mang lại cho Newton tiếng
tăm vượt ra ngoài nước Anh, đến châu Âu. Trong đó ông chứng minh sự rơi, sức hút vạn vật
và sự chuyển động các vì sao. Đó là sức hấp dẫn vạn vật.
“...Quyển đầu tiên của bộ sách Nguyên tắc toán học, đề
cập đến sự chuyển động các vật thể trong không gian.
Phần thứ hai của quyển này đề cập đến sự chuyển động
trong môi trường trở lực, thí dụ như chuyển động dưới
nước. Trong phần cuối Newton đề cập đến sự chuyển
động phức tạp của thể lỏng và những bài toán về sự
chuyển động này đều được giải đáp. Ngoài ra Newton có
tính các tốc độ của âm thanh và diễn tả bằng toán học sự
chuyển động của làn sóng. Quyển một này là nền tảng
của khoa học vật lý toán học, khoa thủy tĩnh học và thủy
động học ngày nay...” (đoạn này trích trong “Lược sử
thời gian” của Hawking).

Hình 2. Nhà toán học Isaac Newton

Năm 1693, sau nhiều năm làm thí nghiệm hoá học thất bại và sức khoẻ suy sụp nghiêm
trọng, Newton từ bỏ khoa học, rời Cambridge để về nhận chức trong chính quyền tại Luân
Đôn.
Năm 1703 Newton được bầu làm chủ tịch Hội Khoa học Hoàng gia Anh và giữ chức vụ
đó trong suốt phần còn lại của cuộc đời ông. Ông được Nữ hoàng phong bá tước năm 1705.
Ông mất ngày 20 tháng 3 năm 1727 tại Luân Đôn
1.1.2. Đôi nét về thành tựu vật lí và thiên văn học
Ông đã đưa ra phát hiệ vĩ đại của mọi thời đại là Định luật vạn vật hấp dẫn và nhờ định
luật này mà nhiều nhà toán học về sau như Le Verrier (1811-1877), giám đốc đài thiên văn

10
Paris, thuần túy bằng tính toán đã phát hiện ra hành tinh Neptune năm 1846. Các hiện tượng
thiên nhiên như nguyệt thực, nhật thực, thủy triều,… cũng đều nhờ định luật vạn vật hấp dẫn
của Newton mà giải thích và tính toán trước ngày giờ sẽ xảy ra.
Ông là người đã sáng lập ra môn Cơ học thiên thể mà về sau nhà bác học Pháp Laplace đã
thừa kế và phát triển.
Vào năm 1668, Newton chế tạo được mô hình một kiểu kính viễn vọng mới: kính viễn
vọng phản xạ có nhiều ưu điểm hơn so với kính viễn vọng khúc xạ của Galilê, vì khắc phục
được hiện tượng sắc sai trong quan sát thiên văn và kích thước thì nhỏ gọn.
Ông đã khám phá ra lý thuyết về màu sắc khi cho ánh sáng trắng tán sắc qua lăng kính.
Năm 1704, Newton xuất bản cuốn Opticks, trong đó ông đã giải thích lý thuyết hạt ánh sáng
của mình.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu của Newton về giải tích toán học
1.1.3.1. Chuỗi lũy thừa
Newton tin rằng các phương pháp của ông đã mở rộng đáng kể lũy thừa của “Giải tích
mới” mà ông đã tìm thấy trong các bài đọc của mình. Đặc biệt, ông tin rằng ý tưởng về chuỗi
lũy thừa, chủ đề bắt đầu luận thuyết năm 1671, là trọng tâm để mở rộng lĩnh vực phân tích.
Và Newton đặc biệt bị ấn tượng bởi sự tương tự giữa số thập phân vô hạn của số học và “đa
thức” bậc vô hạn mà chúng ta gọi là chuỗi luỹ thừa.
Sau đó, Newton đã tiếp tục ở phần đầu của chuyên luận để chỉ ra bằng ví dụ về các chuỗi
biến vô hạn, hoặc chuỗi lũy thừa, mà ông coi đơn giản là các đa thức tổng quát có thể hoạt

động giống như với các đa thức thông thường. Vì vậy, ví dụ, phân số có thể viết dưới
dạng chuỗi chỉ bằng cách sử dụng phép chia dài để chia 1 cho
. Tương tự, người ta có thể sử dụng thuật toán số học tiêu chuẩn để xác định căn bậc hai
để tính nghiệm của đa thức dưới dạng chuỗi lũy thừa. Áp dụng phương pháp này cho
, Newton dễ dàng tính được kết quả là:

Newton tin rằng việc rút gọn “các phương trình nhiều biến”, nghĩa là, việc giải phương
trình khi cho theo chuỗi lũy thừa của có phần khó khăn hơn bởi vì phương
pháp giải phương trình về mặt số học không hoàn toàn quen thuộc. Do đó, Newton
đã giải thích phương pháp giải các phương trình như vậy theo ví dụ . Đầu
tiên, ông đã chú ý rằng số nguyên 2 có thể được coi là một xấp xỉ ban đầu cho một nghiệm
của phương trình trên. Sau đó, ông đặt và thay vào phương trình ban đầu để nhận
được phương trình mới là .Vì nhỏ nên Newton có thể bỏ qua
và để giải để được . Suy ra là xấp xỉ thứ hai của nghiệm.
Bước tiếp theo là đặt và thế nó vào phương trình của . Trong phương trình thu
được, , hai số hạng bậc cao nhất một lần nữa bị lược bỏ.

11
Phương trình tuyến tính sau đó được giải để nhận được , mang lại một giá trị
mới
xấp xỉ cho y là 2,0946. Người ta có thể tiếp tục phương pháp này bao lâu tùy thích. Newton
dừng lại sau một bước nữa với giá trị y = 2,09455148. Sau đó, ông đã điều chỉnh các
phương pháp giải phương trình số sang đại số và tính toán một số ví dụ. Như vậy, các
nghiệm của phương trình được cho dưới dạng:

trong khi của là:

1.1.3.2. Định lý về Nhị thức (Nhị thức Newton)


Khám phá về chuỗi lũy thừa của Newton xuất phát từ việc ông đọc cuốn sách
“Arithmetica infinito-rum” của Wallis, đặc biệt là phần xác định diện tích hình tròn. Trên
thực tế, ông đã thoát khỏi cái bóng của Wallis's và làm nhiều hơn những điều Wallis’s đã
đưa vào. Khi xem xét các diện tích, Wallis’s luôn tìm kiếm một giá trị số cụ thể, hoặc tỷ lệ
của hai giá trị như vậy, vì ông muốn xác định diện tích dưới một đường cong giữa hai giá trị
cố định, chẳng hạn, 0 và 1. Newton nhận ra rằng người ta có thể thấy các mẫu khác nếu
người ta tính diện tích từ 0 đến giá trị x tùy ý, cụ thể là, nếu người ta coi diện tích dưới một
đường cong là một hàm của điểm cuối khác nhau của khoảng. Do đó, khi xem xét cùng một
vấn đề như Wallis’s về tính diện tích hình tròn, ông đã xem xét một chuỗi các đường cong
tương tự như của Wallis’s, đó là các đường cong . Nhưng Newton sau đó đã lập
bảng các giá trị bên dưới các đường cong này dưới dạng các hàm của biến . Ví dụ, sử dụng
ký hiệu hiện đại,

Newton sau đó lập bảng không phải các diện tích số, mà là các hệ số của các lũy thừa khác
nhau của .

12
Giống như Wallis, Newton nhận ra rằng tam giác Pascal ở đây và vì vậy ông đã cố gắng
nội suy. Trên thực tế, để giải bài toán về diện tích hình tròn, anh ta cần các giá trị trong cột

tương ứng với . Để tìm những giá trị này, ông đã khám phá lại công thức Pascal

cho các giá trị nguyên dương của và quyết định sử


dụng cùng một công thức ngay cả khi không phải là số nguyên dương. Do đó, các mục

trong cột sẽ là:

, , , ,

Bây giờ Newton có thể điền vào bảng các cột tương ứng với cho mọi tích phân
dương . Ông ấy nhận ra thêm rằng trong bảng ban đầu, mỗi mục là tổng của số bên trái và
số ở trên. Nếu trong bảng của ông có thêm các cột được nội suy, ông sửa lại quy tắc đó một
chút để đọc rằng mỗi mục phải là tổng của hai cột số bên trái và cột phía trên cột đó, thì các
mục mới được tìm thấy bằng công thức hệ số nhị thức thỏa mãn quy tắc đó cũng. Điều này
không chỉ giúp Newton tự tin rằng phép nội suy của ông là đúng mà còn thuyết phục ông
thêm các cột vào bên trái tương ứng với các giá trị âm a trong cột là 1, số thứ tư là
−1, v.v. Tất nhiên, công thức hệ số nhị thức cho cùng các giá trị xen kẽ này là 1 và −1. Nội

suy Newton để tính diện tích theo từ đến được thể hiện trong Bảng
Newton sớm nhậ ra rằng, đầu tiên, không cần thiết chỉ xử lí các phân số có mẫu số 2. Quy
tắc nhân của sẽ áp dụng cho bất kỳ giá trị nào của , dương hay âm. Thứ hai, như ông đã

lưu ý trong bức thư gửi Leibniz ngày 24 tháng 10 năm 1676, các số hạng của tích
phân “có thể được nội suy theo cách giông như diện tích do chúng tạp ra; và không có gì
khác được yêu cầu cho mục đích này ngòa việc bỏ qua các mẫu số 1,3,5,7,v.v…, trong các
thuật ngữ biểu thị diện tích” (và tất nhiên, giảm các lũy thừa tương ứng đi ). Cuối cùng,
không có lý do gì để giới hạn bản thân trong các nhị thức có dạng . Với sửa đổi thích
hợp, các hệ số của chỗi lũy thừa với bất kì giá tri nào của có thể được tính bằng

13
công thức cho hệ số nhị thức, Như vậy, Newton đã phát hiện ra, mặc dù hầu như không biết
được Newton đã chứng minh nó bằng cách nào. Định lý nhị thức tổng quát:

Tuy nhiên, Newton đã hoàn toàn bị thuyết phục về tính đúng đắn của nó bởi vì trong một
số trường hợp, nó cung cấp cho ông cùng một câu trả lời mà ông đã suy ra theo những cách

khác. Ví dụ, Newton lưu ý rằng chuỗi suy ra từ bằng phép chia giống như chuỗi suy ra
từ định lý nhị thức sử dụng số mũ −1:

1.1.3.3. Phép tính Vi-Tích phân


Chuỗi có tầm quan trọng cơ bản đối với phép tính vi-tích phân của Newton. Ông đã sử
dụng chúng để giải quyết mọi quan hệ đại số hoặc siêu việt không thể biểu thị dưới dạng một
đa thức hữu hạn một biến. Nhưng đương nhiên còn nhiều điều nữa trong Luận thuyết về các
phương pháp của ông, bắt đầu với những vấn đề mà ông chỉ chỉ ra trong bức thư thứ hai gửi
cho Leibniz qua phép đảo chữ, hai vấn đề trung tâm, những giải pháp sẽ giải quyết mọi khó
khăn về đường cong mà những người tiền nhiệm của ông gặp phải. :
1. Cho chiều dài của không gian liên tục [nghĩa là tại mọi thời điểm], để tìm tốc độ của
chuyển động bất cứ lúc nào được đề xuất.
2. Cho biết vận tốc chuyển động liên tục, để tìm độ dài của khoảng không gian mô tả tại
thời điểm đề xuất.
Đối với Newton, những ý tưởng cơ bản của phép tính vi-tích phân liên quan đến chuyển
động. Mọi biến số trong một phương trình đều được xem xét, ít nhất là mặc nhiên như một
khoảng cách phụ thuộc vào thời gian. Tất nhiên, ý tưởng này không mới đối với Newton,
nhưng ông đã làm cho ý tưởng về chuyển động trở thành cơ sở: “Tôi coi các đại lượng như
thể chúng được tạo ra bởi sự gia tăng liên tục theo cách của một không gian mà một vật
chuyển động mô tả chuyển động của nó.” Bản chất sự gia tăng không ngừng của thời gian
được Newton gần như coi đó là một tiên đề, vì ông không đưa ra định nghĩa về thời gian.
Cái mà ông đã định nghĩa là khái niệm thông lượng: Thông lượng của một đại lượng
phụ thuộc vào thời gian (gọi là thông vận) là tốc độ mà tăng lên thông qua chuyển động
sinh ra nó. Trong những tác phẩm đầu tiên của mình, Newton đã không cố gắng định nghĩa
thêm về tốc độ. Newton tin rằng khái niệm về chuyển động thay đổi liên tục là hoàn toàn
trực quan. Nếu một thông vận, chẳng hạn như tung độ của điểm sinh một đường, được biểu
thị bởi y thì thông lượng của nó được kí hiệu là . Theo cách kí hiệu hiện nay, điều đó

tương đương với trong đó biểu thị thời gian.


Newton đã giải hai bài toán. Bài toán thứ nhất ông giải bằng một thuật toán hoàn toàn đơn
giản xác định mối quan hệ của các thông lượng x˙ và y˙của hai thông vận x và y có liên quan
với nhau bằng một phương trình có dạng : “Sắp xếp phương trình theo đó quan
14
hệ đã cho được biểu diễn theo thứ nguyên của một đại lượng thông vận nào đó, chẳng hạn

như , và nhân các số hạng của nó với bất kỳ cấp số cộng nào và sau đó với . Thực hiện
thao tác này một cách riêng biệt cho từng đại lượng thông vận và sau đó đặt tổng của tất cả
các tích bằng không, và bạn có phương trình mong muốn.”
Lấy ví dụ, Newton trình bày phương trình . Đầu tiên coi đây là đa
thức bậc 3 theo , Newton nhân với cấp số 3, 2, 1, 0 để được . Tiếp theo,
coi phương trình là một đa thức bậc 3 theo và sử dụng cùng một cấp số 3,2,1,0, ông
tính được . Đặt tổng bằng 0 sẽ cho quan hệ mong muốn :

Xét về tỉ lệ kết quả sẽ là:

Có một số ý tưởng quan trọng cần lưu ý trong quy tắc Newton để tính thông lượng. Đầu
tiên, Newton không tính đạo hàm, vì nói chung ông không bắt đầu với một hàm số. Những
gì ông đã tính toán là phương trình vi phân thỏa mãn bởi đường cong được xác định bởi
phương trình đã cho. Nói cách khác, cho trước với và là hai hàm của ,
quy trình Newton tạo ra cái mà ngày nay được biết là:

Thứ hai, Newton đã sử dụng khái niệm của Hudde về phép nhân với một cấp số cộng tùy
ý. Tuy nhiên, trong thực tế, Newton thường sử dụng cấp số bắt đầu với lũy thừa cao nhất của
lũy thừa. Thứ ba, nếu và được coi là các hàm của , quy tắc tích hiện đại cho đạo hàm
được tích hợp vào thuật toán Newton. Mọi số hạng chứa cả và đều được nhân lên hai
lần và hai thuật ngữ được thêm vào.
Newton cũng đưa ra một khái niệm khác gọi là momen của thông vận, đó là một đại lượng
vô cùng bé mà một thông vận như chẳng hạn sẽ tăng được trong một khoảng thời gian vô
cùng bé là . Momen của thông vận được cho bởi tích . Newton lưu ý rằng trong bất
kì bài toán nào ta đều có thể bỏ qua tất cả các số hạng trong đó có nhân với các bình phương
hoặc các luỹ thừa bậc cao hơn của và sẽ được một phương trình giữa các tọa độ và
của điểm sinh của đường cong và các thông lượng và của chúng.
Ví dụ như ông xét đường bậc .
Thay bằng , và bằng . Ta được:

Bây giờ dùng và chia các số hạng còn lại cho , rồi bỏ đi tất cả các
số hạng có chứa bình phương hoặc lũy thừa cao hơn của , ta được:
15
Trong bài toán thứ hai, cho trước hệ thức giữa một số thông vận và thông lượng của
chúng, yêu cầu tìm hệ thúc chỉ giữa các thông vận với nhau. Đây là bài toán ngược và tương
đương của nó là giải một phương trình vi phân. Ý tưởng tách bỏ các số hạng có chứa các
bình phương và các luỹ thừa cao hơn của ông về sau được Newton xác minh lại bằng cách
dùng các khái niệm về giới hạn. Newton đã thực hiện được nhiều ứng dụng rất đáng chú ý
của phương pháp thông lượng. Ông đã xác định cực đại và cực tiểu, tiếp tuyến của các
đường, độ cong của các đường, các điểm uốn, độ lồi, độ lõm của các đường và ông đã áp
dụng lí thuyết của mình vào việc cầu phương và cầu trường các đường cong. Trong việc lấy
tích phân của một số phương trình vi phân, ông tỏ ra có một khả năng khác thường. Trong
công trình này có một phương pháp (mà ngày nay có được điều chỉnh và gọi theo tên ông)
tìm gần đúng các giá trị của nghiệm thực của một phương trình đại số hoặc một số phương
trình siêu việt bằng số.
1.1.4. Một số giai thoại về nhà toán học Issac Newton
1.2. Nhà toán học Gottfried Wilhelm Leibniz
1.2.1. Tiểu sử
Gottfried Wilhelm Leibniz (1646 – 1716) là người Đức, được suy tôn là cha đẻ môn phép
tính vi tích phân. Ông rất thông minh nhưng từ nhỏ không được theo học toán mà phải học
luật. Về sau ông tựhọc toán. Ông lại là chính khách, nên có dịp qua lại Paris, nhờ đó ông bị
thuyết phục đi theo ngành toán và thành công rất nhanh trong nghiên cứu nên được mời
tham gia Viện Hàn Lâm khoa học Pháp năm 1699.

*****
Năm sau, theo đề nghị của ông, Viện Hàn Lâm khoa học Đức được thành lập. Từ năm
1672 ông nghiên cứu máy tính của Pascal, Lý thuyết tổ hợp, và quan tâm đến phép đếm cơ
số 2 là một công cụ cần cho máy tính điện tử sau này.
Nhưng vinh quang chính mà người đời sau dành cho ông là việc ông đóng góp to lớn cho
sự phát triển của phép tính vi tích phân và từ “vô cùng bé” cùng những ký hiệu “dx”, “dy” ...
mà ngày nay ta dùng cũng do ông đặt ra. Người đời đặt bài thơ ca ngợi ông là bậc thầy của
vua chúa, các nhà hiền triết và những nhà thông thái!
1.2.2. Các công trình nghiên cứu của Leibniz về giải tích toán học

16
1.2.2.1. Tam giác vi phân
Một trong những ứng dụng sớm nhất của Leibniz về khái niệm vi phân là ý tưởng về tam
giác vi phân, một phiên bản mà ông đã thấy khi đọc Pascal và, có lẽ, của Barrow. Tam giác
vi phân, tam giác vuông vô cùng nhỏ có cạnh huyền nối hai đỉnh lân cận của đa giác
cạnh vô hạn biểu thị một đường cong cho trước, tương tự như tam giác gồm có hoành độ ,
tiếp tuyến , và cạnh phụ , vì vậy (Hình 16.13). Bởi vì các tỷ lệ liên
quan đến ý tưởng về tiếp tuyến, nên Leibniz thường biến một trong ba vi phân này thành
một hằng số. Nói cách khác, khi chọn cách biểu diễn một đường cong dưới dạng một đa thức
có vô số cạnh, ông có thể tạo ra đa giác có các cạnh bằng nhau ( không đổi hoặc )
hình chiếu của các cạnh lên trục bằng nhau ( hằng hay ), hoặc hình chiếu của
các cạnh trên trục bằng ( hằng hay ). Theo một nghĩa nào đó, biến được chọn
để có vi phân không đổi có thể được coi là biến độc lập. Trong mọi trường hợp, chính nhờ
thao tác với các vi phân trong tam giác vi phân, sử dụng các quy tắc cơ bản để thao tác với vi
phân, mà Leibniz đã tìm ra các kỹ thuật trọng tâm cho phiên bản phép tính của mình.

Pascal đã sử dụng tam giác vi phân trong một đường tròn bán kính để chỉ ra rằng, theo
ngôn ngữ của Leibniz, . Leibniz nhận ra rằng quy tắc này có thể được tổng quát
hóa cho bất kỳ đường cong nào nếu người ta thay thế bán kính bằng đường , bởi vì tam
giác tạo thành từ trục tung, pháp tuyến và pháp ảnh tương tự như tam giác vi phân. Do đó,

hoặc . Bởi vì có thể được hiểu là diện tích bề mặt của bề mặt
được hình thành bằng cách xoay quanh trục , công thức này đã thay thế phép tính diện

tích bề mặt bằng phép tính diện tích. Tương tự, Leibniz lưu ý rằng hoặc .

Vì ông nhận ra rằng đại diện cho một tam giác có diện tích là , trong đó là giá

trị cuối cùng của hoành độ , anh ấy đã có kết quả là . Do đó, để tìm diện tích
dưới một đường cong có tung độ , chỉ cần tìm một đường cong có pháp ảnh bằng

17
là đủ. Nhưng vì , điều này tương đương với việc giải phương trình . Nói
cách khác, bài toán diện tích được rút gọn thành bài toán mà Leibniz gọi là bài toán nghịch
đảo của tiếp tuyến.
Mặc dù các quy tắc cụ thể này không dẫn Leibniz đến bất kỳ kết quả nào chưa biết trước
đó, nhưng việc tổng quát hóa phương pháp này đã mang lại cho ông định lý biến đổi và đưa

ông đến phép cầu phương số học của đường tròn, một biểu thức chuỗi cho . Trong đường
cong , trong đó và gần nhau vô cùng, ông đã dựng tam giác (*****).
Mở rộng thành tiếp tuyến của đường cong, vẽ vuông góc với tiếp tuyến và đặt
và như trong hình, ông chỉ ra, sử dụng sự đồng dạng của tam giác với tam giác vi

phân, rằng hay . Vế trái của phương trình thứ hai là diện tích bên dưới
hình chữ nhật trong khi vế phải gấp đôi diện tích của tam giác . Theo đó, tổng
của tất cả các tam giác, cụ thể là diện tích giới hạn bởi đường cong và đường thẳng
, bằng một nửa diện tích bên dưới đường cong có hoành độ là hoặc

Biểu thị bằng và bằng , định lý biến đổi của Leibniz giờ đây có thể được
phát biểu là:

1.2.2.2. Phép tính vi phân


Leibniz đã khám phá ra định lý biến đổi của mình và phép cầu phương số học của
đường tròn vào năm 1674. Trong hai năm tiếp theo, ông khám phá ra tất cả những ý tưởng
cơ bản của phép tính vi phân của mình. Lần đầu tiên ông công bố một số kết quả này trong
18
“A New Method for Maxima and Minima as well as Tangents, which is neither impeded by
fractional nor irrational Quantities, and a remarkable Type of Calculus for them” một bài
báo ngắn xuất hiện vào năm 1684 trên tạp chí “Acta eruditorum”. Trong bài báo này,
Leibniz định nghĩa các vi phân của mình là các số vô cùng nhỏ bởi vì ông tin rằng sẽ có
nhiều lời chỉ trích đối với các đại lượng này, vốn chưa được định nghĩa một cách chặt chẽ.
Do đó, ông đã giới thiệu là một đoạn thẳng hữu hạn tùy ý. Nếu là tung độ của một
đường cong mà là hoành độ, và nếu là tiếp tuyến của đường cong tại một điểm có là

tiếp tuyến, thì được định nghĩa là đường thẳng sao cho . Sau đó ông nêu một số
quy tắc hoạt động cơ bản:
i.

19
ii. Nếu là hằng số thì ;
iii. ;
iv. ;

v. , (Theo Leibniz, các dấu hiệu trong quy tắc thương số phụ thuộc
vào việc hệ số góc của tiếp tuyến là dương hay âm.)

Leibniz đã phát hiện ra quy tắc tích và thương vào năm 1675. Thực tế, trong một bản thảo
ngày 11 tháng 11 năm đó, ông đã viết, “Bây giờ chúng ta hãy kiểm tra xem có giống

với , và liệu có bằng giống như ”. Ông đã tiến hành:


+ Kiểm tra phỏng đoán của mình về quy tắc tích, ông đã làm một ví dụ trong đó
và . Đầu tiên, ông tính là hiệu của các giá trị tại và tại .
Vậy . Vì nhỏ hơn vô cùng
nên ông đã loại bỏ số hạng đó và kết luận rằng .
+ Tương tự, và . Sau đó, anh ấy đã viết, "nhưng bạn sẽ nhận
được điều tương tự nếu bạn tính ra một cách đơn giản."
Thật không may, Leibniz đã không ở đây để “giải quyết nó”. Tuy nhiên, sau đó trong bản

thảo, ông đã nhận ra lỗi của mình trong một ví dụ khác khi chỉ ra rằng không giống
với . Mười ngày sau, ông viết phiên bản đúng của quy tắc tích, sau đó đưa ra một
chứng minh đơn giản bằng lập luận hiệu:
“ cũng giống như hiệu giữa hai số liên tiếp; đặt một trong số này là và cái còn
lại ; thì ta có . Việc bỏ đi
đại lượng , nhỏ vô cùng so với các đại lượng còn lại,... sẽ để lại ”.
Ông đã chứng minh quy tắc thương tương tự.
Trong bài báo năm 1684, Leibniz tiếp tục đưa ra, cũng không cần chứng minh, quy tắc

lũy thừa và quy tắc căn , lưu ý rằng quy tắc đầu tiên bao
gồm quy tắc thứ hai nếu một căn được viết dưới dạng lũy thừa phân số. Quy tắc dây chuyền
gần như rõ ràng khi sử dụng ký hiệu của Leibniz. Ví dụ, để tính vi phân của ,

trong đó là hằng số, Leibniz đặt và lưu ý rằng và


Thay phương trình thứ nhất vào phương trình thứ hai, ông kết luận rằng:

20
Để chứng minh tính hữu ích phép tính mới của mình, Leibniz đã thảo luận cách xác
định cực đại và cực tiểu. Do đó, ông lưu ý rằng sẽ dương khi tăng và âm khi giảm,
vì tỷ lệ giữa và luôn dương mang lại hệ số góc của tiếp tuyến. Suy ra khi
không tăng cũng không giảm. Tại nơi đó, tọa độ sẽ là cực đại (nếu đường cong lõm xuống)
hoặc cực tiểu (nếu nó lõm lên). Tiếp tuyến ở đó sẽ nằm ngang. Leibniz lưu ý thêm rằng câu
hỏi về độ lõm phụ thuộc vào các vi phân thứ hai ,: “Khi tăng các tọa độ thì các gia số
hoặc chênh lệch của nó cũng tăng (nghĩa là, khi dương, , hiệu của các hiệu, cũng
là dương và khi âm, cũng âm), thì đường cong là [lõm lên], trong trường hợp còn
lại là [lõm xuống]. Khi số gia là lớn nhất hoặc nhỏ nhất, hoặc khi số gia từ giảm chuyển sang
tăng, hoặc ngược lại, thì có một điểm uốn,” nghĩa là khi .
Là vấn đề cuối cùng của bài báo năm 1684 của mình, Leibniz đã trình bày một ví dụ về
một trong những “bài toán khó nhất và hay nhất của toán học ứng dụng, mà nếu không có
phép tính vi phân của chúng ta hoặc thứ gì đó tương tự thì không ai có thể giải quyết một
cách dễ dàng như vậy”. Đây là bài toán bài toán đã được Debeaune đặt ra cho Descartes vào
năm 1639 để tìm một đường cong có tiếp tuyến là một hằng số cho trước. Nếu y là tung

độ của đường cong được đề xuất, thì phương trình vi phân của đường cong là hoặc
. Leibniz đặt là hằng số, tương đương với việc có các trục hoành tạo thành
một cấp số cộng. Phương trình sau đó có thể được viết là , trong đó là hằng số.
Theo đó, các tọa độ tỷ lệ với các gia số của chúng, hoặc tạo thành một cấp số nhân.
Do mối quan hệ của một cấp số nhân trong với một cấp số cộng trong giống như các số
với logarit của chúng, Leibniz kết luận rằng đường cong mong muốn sẽ là một đường cong
“logarit”. (Bây giờ nó được gọi là đường cong “lũy thừa”- nhưng xét cho cùng, các đường
cong hàm mũ và logarit ngày nay là những đường cong giống nhau được gọi là các trục khác

nhau.) Theo thảo luận của Leibniz, vì , , trong đó hằng số phụ


thuộc vào logarit cụ thể được sử dụng. Đây có thể xem là mốc thời gian ra đời của của phép
tính tích phân, khi Leibniz xuất bản bài báo trên. Nó ở dạng ngắn gọn và khó tiếp cận, đã
nêu ra các phương pháp mới được gọi laf phép tính tích phân.
Leibniz đã không xem xét logarit nữa vào năm 1684, nhưng sau khi thảo luận với
Johann Bernoulli (1667–1748) vài năm sau đó, ông quay trở lại vào năm 1695 với câu hỏi về
vi phân không chỉ của logarit mà còn của hàm số mũ. Trong một bài báo của năm đó, ông đã
đáp lại lời chỉ trích của Bernard Nieuwentijdt (1654–1718) rằng các phương pháp của ông sẽ
không đủ để tính vi phân của biểu thức hàm mũ (trong đó và đều là các biến).
Một phép tính trực tiếp của vi phân cho . Áp dụng định lý nhị thức và
loại bỏ lũy thừa của cao hơn lũy thừa đầu tiên cũng như bội số của tạo ra phương
trình , một phương trình vi phân không thuần nhất và dường như
21
không thể đơn giản hóa hơn nữa , ngay cả trong trường hợp đặc biệt khi là hằng số và
do đó . Để vượt qua khó khăn này, Leibniz, theo gợi ý của Bernoulli vào năm 1694,
đã giải quyết vấn đề theo cách khác bằng cách lấy logarit của cả hai vế của phương trình
thành lấy . Khi đó vi phân của phương trình này là

Suy ra

hoặc
Nếu là hằng số, Leibniz lưu ý, quy tắc này rút gọn thành quy tắc lũy thừa

.
Hai năm sau, Johann Bernoulli xuất bản một bài báo có tựa đề “Các nguyên tắc của
phép tính hàm mũ”, trong đó ông tổng quát hóa các kết quả của Leibniz để tìm mối quan hệ
của các vi phân trong các phương trình như , và . Ông cũng
tuyên bố rõ ràng kết quả tiêu chuẩn về vi phân của logarit trong trường hợp rằng “vi
phân của logarit, dù bao gồm như thế nào, chính bằng vi phân của [hàm số] chia cho [hàm
số]”. Ví dụ, anh đã viết,

1.2.2.3. Định lý cơ bản và phương trình vi phân


Hãy nhớ lại rằng Leibniz đã bắt đầu nghiên cứu về thứ đã trở thành phép tính của mình
với ý tưởng rằng tổng và hiệu là các phép toán nghịch đảo. Theo đó, định lý cơ bản của giải
tích là hoàn toàn hiển nhiên. Tuy nhiên, ông đã khuếch đại ý tưởng này trong một bản viết
tay khoảng năm 1680, trong đó đầu tiên ông ghi chú rằng “Tôi biểu thị diện tích của một
hình bằng tổng tất cả các hình chữ nhật chứa trong các hoành độ và hiệu của các trục

hoành,” hoặc như , và, thứ hai, rằng “Tôi tính được diện tích của một hình bằng cách
tìm tích của ma trận tổng hoặc ma trận bậc hai của nó; và quả thực tọa độ này bằng tọa độ
của hình đã cho theo tỷ lệ giữa tổng và hiệu”. Nghĩa là, để tìm diện tích bên dưới một đường
cong có tọa độ , người ta cần tìm một đường cong có tọa độ sao cho . Leibniz đã
làm cho ý tưởng này trở nên rõ ràng hơn trong một bài báo năm 1693 trên tờ “Acta
eruditorum”, trong đó ông chỉ ra rằng “bài toán tổng quát về phép tính bậc hai có thể quy về
việc tìm một đường cong có quy luật tiếp tuyến cho trước”. Như ông đã chứng minh, nếu,

cho trước đường cong có tọa độ , người ta có thể tìm đường cong sao cho

(đường cong có quy luật tiếp tuyến cho trước), khi đó , hoặc, theo ký hiệu hiện đại,
giả sử rằng ,

22
Nhưng Leibniz, giống như Newton, không quan tâm nhiều đến việc tìm diện tích bằng
việc giải các phương trình vi phân, đặc biệt là khi hóa ra các bài toán vật lý quan trọng có
thể được biểu diễn dưới dạng các phương trình như vậy. Và Leibniz, cũng giống như
Newton, đã sử dụng các phương trình chuỗi lũy thừa để giải các phương trình như vậy. Tuy
nhiên, kỹ thuật của ông thì khác. Ví dụ, xem xét phương trình biểu thị mối quan hệ giữa
cung và của nó trong một đường tròn bán kính 1 như đã được thảo luận bởi Leibniz
vào năm 1693. Tam giác vi phân có các cạnh , và tương tự như tam giác lớn có

các cạnh tương ứng là , , (Hình 16.16), do đó

Theo Định lý Pytago, . Thay giá trị của vào đây và đơn giản hóa, đã
cho Leibniz phương trình vi phân liên quan đến cung và sin: . Coi là
hằng số, ông đã áp dụng toán tử của mình cho phương trình này và kết luận rằng

hoặc, sử dụng quy tắc tích, rằng . Leibniz đã


đơn giản hóa điều này thành phương trình thứ hai - phương trình vi phân bậc hai

hoặc ,
phương trình vi phân sin quen thuộc. (Lưu ý rằng phương pháp thao tác với vi phân cấp hai
của Leibniz giải thích cách sắp xếp có vẻ kỳ lạ của chúng ta đối với các số 2 trong ký hiệu
hiện đại cho đạo hàm cấp hai.)
Vào đầu những năm 1690, Leibniz đã phát hiện ra hầu hết các ý tưởng có trong các văn
bản giải tích hiện nay, nhưng chưa bao giờ viết ra một cách hoàn chỉnh, mạch lạc. Tuy
nhiên, giống như Newton sau những năm 1670, ông muốn biện minh cho công việc của
mình bằng các tiêu chuẩn Hy Lạp. Ông đưa ra hai lời biện minh riêng biệt. Đầu tiên, ông cố
23
gắng liên hệ số lượng vô cùng với phương pháp vét kiệt của Archimede: “Vì thay vì vô cùng
hoặc vô cùng bé, người ta lấy số lượng lớn hoặc nhỏ đến mức cần thiết để sai số nhỏ hơn sai
số đã cho, do đó phong cách của Archimedes chỉ trong cách diễn đạt, trực tiếp hơn trong
phương pháp của chúng tôi và phù hợp hơn với nghệ thuật phát minh”. Do đó, ông dường
như nghĩ, giống như Kepler, rằng bất kỳ lập luận nào sử dụng số vô hạn đều có thể được
thay thế bằng một lập luận hoàn toàn chặt chẽ theo phong cách của người Hy Lạp. Nhưng
nếu lúc nào cũng phải đưa ra những lập luận đó thì sẽ không bao giờ có được những hiểu
biết mới. Cách tiếp cận thứ hai của Leibniz đã sử dụng quy luật về tính liên tục: “Nếu bất kỳ
quá trình chuyển đổi liên tục nào được đề xuất chấm dứt trong một giới hạn nhất định, thì có
thể hình thành một lập luận tổng quát, bao gồm cả giới hạn cuối cùng”. Nói cách khác, nếu
người ta xác định được rằng một tỷ lệ cụ thể là đúng nói chung, chẳng hạn khi các đại lượng
là hữu hạn, thì tỷ lệ tương tự sẽ đúng trong trường hợp giới hạn, khi các đại lượng này
bằng 0. Sự biện minh này, trên thực tế, rất tương tự như quan niệm riêng của Newton về giới
hạn. Dù hợp lý hay không, phương pháp với những vi phân vô cùng nhỏ này đã trở thành
một phương pháp rất hữu ích, đặc biệt đối với những môn đồ trực tiếp của Leibniz, Johann
Bernoulli và Jakob Bernoulli (1655–1705). Họ dường như chấp nhận các số vô cùng nhỏ
như các thực thể toán học thực tế và thông qua việc sử dụng chúng đã đạt được nhiều kết
quả quan trọng cả trong bản thân phép tính và trong các ứng dụng của nó cho các bài toán
vật lý.
1.2.3. Một số giai thoại của nhà toán học Leibniz
1.3. Nhà toán học Archimedes
1.3.1. Tiểu sử
Sinh trưởng ở Syracuse, một đô thị Hy Lạp lớn thời Cổ đại, ông là con trai của một nhà
thiên văn ít tên tuổi là Phédias. Ông có bà con với vua Hiéron miền Syracuse. Sử sách chép
rằng ông có một thời gian lưu học ở Ai Cập, đặc biệt là ở trường Đại học Alexandrie, và
chính tại đây ông đã được gặp Conon – học trò của Euclide và Eratostthène – Giám đốc Thư
viện Đại học Alexandrie, nổi tiếng là một nhà Địa lí học. (Trang 31)
Nhờ mối thâm giao này mà Archimedes tiếp cận với những phát minh mới về toán học
và khoa học trong thời gian ông lưu học xa nhà. Trở về quê hương ông say mê nghiên cứu,
truyền thụ cho học trò những tri thức, phát minh về toán học, khoa học đã làm nên tên tuổi
ông thành bất tử.
Cuộc đời của ông và ngay cái chết đáng tiếc của ông cũng thành huyền thoại được đời
đời truyền tụng thán phục, thương cảm. Sử gia La Mã đã không ngừng ca tụng thêu dệt thần
thoại hóa ông mong đời sau giảm nhẹ tội lỗi cho tướng La Mã Marcellus đã giết ông, một ân
nhân của nhân loại, vào năm 212 TCN khi thành Syracuse của Hy Lạp bị quân La Mã vậy
hãm.

24
25
1.3.2. Một số giai thoại về Archimedes

“Nhà bác học lãng trí”


Vị vua của xứ Syracuse lệnh làm một chiếc vương miện bằng vàng nguyên chất. Khi
vương miện làm xong và đưa đến, vua nghi ngờ rằng có thể pha lẫn bạc, bèn hỏi Acsimet
cách nào nhận biết đó có đúng là vàng nguyên chất không ? Acsimet suy nghĩ rất lâu và
chưa tìm đáp án khi ngày trả lời vua đến gần.
Bỗng một hôm, khi đang tắm ở một nhà tắm công cộng, Acsimet bỗng nhận thấy rằng
mực nước dâng cao lên khi ông nhảy vào nước. Và bất ngờ ông phát hiện ra một phương
pháp giải quyết bài toán về chiếc vương miện. Phương pháp đó chính là nguyên lý về sức
đẩy Acsimet mang tên ông, nó có thể sử dụng để xác định trọng lượng các vật thể, từ đó suy
ra chất liệu làm nên vật thể đó, như xác định chiếc vương miện của vua có phải vàng nguyên
chất hay không. Nhưng điều làm cho mọi người cười ra nước mắt là: Acsimet quá phấn
khởi, vội vàng nhảy ra khỏi bể tắm và vừa chạy trần truồng như nhộng trước mắt nhiều
người, vừa hét tướng lên: “Eureka! ( tức đã tìm ra rồi!).

“Archimedes hiến kế chống ngoại xâm”


Thời kỳ cổ Hi Lạp, giữa các nước nhỏ thường xảy ra chiến tranh. Acsimet ở xứ
Syracusenhỏ bé khi ngoại bang đánh vào xứ này. Đã dù ở tuổi 73 nhưng ông vẫn tham gia
bảo vệ tổ quốc bằng cả trí tuệ của nhà bác học.
Lực lượng của kẻ địch hết sức hùng mạnh, 60 chiếc thuyền ào ạt tiến vào Syracuse.
Acsimet đã tính toán thiết kế một loại súng bắn đá, có thể bắn đi được những viên đá nặng
hàng trăm kilogam. Khi kẻ thù đến gần, Acsimet lệnh: “Bắn!”, nhiều thuyền chiến bị phá
hỏng, địch sợ khiếp vía chạy tháo thân. Bị tổn thất chúng đành phải rút lui, rồi bàn nhau tìm
cách đánh tiếp, vào ban đêm. Và đêm đến, chiến thuyền địch lặng lẽ đến ngoài thành, dựng
thang, vác búa chuẩn bị phá cổng thành. Acsimet vẫn chỉ huy binh sĩ chuẩn bị máy bắn đá,
nhưng lần này là loại khác. Khi địch đến gần, những viên đá bắn thẳng lên trời rồi rơi thẳng
xuống, đánh trúng vào những chiến thuyền đang áp sát bờ và bọn binh sĩ, có một hòn đá đã
đập đúng đầu tên chỉ huy.
Kẻ thù điên cuồng phải chấp nhận thua một lần nữa. Nhưng vẫn không chịu cam tâm
thất bại hoàn toàn, chúng lại phát động cuộc tấn công lần thứ ba. Lần này, ông yêu cầu mỗi
một phụ nữ đều phải đem gương soi của mình đến tập trung ở bờ biển.
Tướng địch chỉ nhìn thấy rất nhiều phụ nữ, lệnh cho chiến thuyền tiến lên, chuẩn bị
đánh. Đâu ngờ các gương soi hội tụ ánh sáng và đốt cháy các cánh buồm và cả thuyền. Từ
những tướng chỉ huy đến bọn lính đều khiếp đảm, cho quân sĩ rút lui.
Nước Syracuse lại chiến thắng. Nhân dân vô cùng sùng bái và kính trọng trí tuệ người công
dân thông thái của mình – Achimedese

1.3.3. Những thành tựu của Archimedes trong lĩnh vực giải tích:
Ông đã lại cho đời sau một gia tài vô cùng quý giá về các phát minh khoa học của ông
thuộc các lĩnh vực: hình học phẳng, hình học không gian, số học, cơ học, thủy tĩnh học, thiên
văn học. Ngôn ngữ trình bày trong các công trình khoa học ấy rất khúc chiết, mạch lạc, trong
sáng, khiến cho ngày nay ai đọc cũng vô cùng kinh ngạc. Có thể tóm lược công trình của
Archimedes vào 10 tác phẩm nổi tiếng sau:

26
1. “Về trạng thái cân bằng” tập 1, nghiên cứu về trọng tâm, về hình bình hành, hình tam
giác.
2. “Cầu phương hình parabole”, trong đó ông vừa cho lời giải hình học, vừa cho lời giải
cơ học.
3. “Về trạng thái cân bằng” tập 2, nghiên cứu về trọng tâm của đới parabol (segment de
parabole).
4. “Bàn về hình cầu và hình trụ tròn” tập 1 và 2, trong đó Archimedes đã đưa ra những
kết quả sau:
+ Diện tích một hình cầu bằng 4 lần diện tích của hình tròn lớn của hình cầu ấy.
+ Diện tích của đới cầu bằng diện tích hình tròn có bán kính bằng đoạn thẳng nối
đỉnh của đới cầu tới một điểm của chu vi hình tròn đáy.
+ Khi một viên trụ ngoại tiếp với một hình cầu có chiều cao bằng đường kính của
hình cầu thì thể tích và diện tích toàn phần của hình viên trụ bằng 1,5 lần thể tích và
diện tích của hình cầu.
5. “Bàn về các hình xoắn”. Sau này ta quen gọi là hình xoan Archimedes
6. “Bàn về các conoides và các sphéroides”, nghiên cứu về thể tích có được do các ellips
và parabol quay quanh trục đối xứng.
7. “Đo đường tròn”.
8. “Arénaire”, nghiên cứu về hệ đếm các số lớn: Archimedes bảo rằng có thể viết số lớn
đó lớn hơn số hạt cát lấp đầy vũ trụ
9. “Nghiên cứu về các vật nổi”, gồm 2 tập.
10. “Bàn về phương pháp”. Trong tác phẩm này Archimede muốn đề cập đến
phương pháp luận. Ông đã trình bày một số phương pháp giúp ông phát minh ra định
lý toán học. Archimedes đã tìm ra giá trị gần đúng của số bằng cách dùng một đa
giác đều có 96 cạnh nội tiếp trong hình tròn. Công lao ông đóng góp cho toán học, cơ
học, vật lý, thiên văn học... thật là vĩ đại.

Ông là một trong những nhà toán học kiệt xuất nhất. Thành tựu to lớn đầu tiên của ông
là tính được diện tích giới hạn bởi tam giác cong parabol bằng A và tiếp tục gép thêm các
tam giác mới nằm xen giữa các tam giác đã có với đường đường parabol. Coi như một ví dụ
lớn nhất của ông, xét cầu phương một cung parabol: Gọi là các điểm trên cung
Parabol (hình) có được bằng cách vẽ song song với trục của parabol đi qua các
điểm giữa của . Từ hình học Parabol, Archimedes chỉ ra rằng:

Bằng cách áp dụng lặp lại tư tương này suy ra diện tích của cung parabol sẽ là:

Phương pháp trên được gọi là “Phương pháp vét kiệt” đây là mô hình đầu tiên của phép tính
tích phân.

27
CHƯƠNG 2
CÁC GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIẢI TÍCH TOÁN HỌC

2.1. Giải tích Toán học trước thế kỉ XVII


2.1.1. Sự xuất hiện của khái niệm vô hạn.
Khái niệm vô hạn xuất hiện trong toán học khi các đoạn thẳng vô ước (tức là các đại
lượng vô tỉ) được phát minh cũng như khi xác định thể tích của hình chóp, chu vi của đường
tròn,...
Để thoả mãn những nhu cầu đo lường đơn giản như chiều dài, trọng lượng và thời
gian, người ta cần đến các phân số bởi vì một chiều dài chẳng hạn, hiếm khi chứa chính xác

một số nguyên các đơn vị tuyến tính. Như vậy, nếu ta định nghĩa một số hữu ti là thương
của hai số nguyên và , , thì hệ thống các số hữu tỉ này vì chứa toàn bộ các số
nguyên và phân số nên đủ dùng cho những mục đích đo lường thực tiễn. Các số hữu tỉ được
biểu thị bằng hình học một cách đơn giản. Lấy hai điểm khác nhau và trên một đường
thăng nằm ngang, bên phải , và chọn đoạn làm một đơn vị độ dài. Nếu cho và
lần lượt biểu diễn các số 0 và 1 thì các số nguyên dương và nguyên âm có thể biểu diễn được
băng tập hợp các điểm trên đường thẳng đó được đặt cách nhau theo các khoảng đơn vị, các
số nguyên dương nằm bên phải còn các số nguyên âm nằm bên trái . Khi đó, các phân
số có mẫu số là có thể được biểu diễn bởi các điểm chia mỗi khoảng đơn vị thành phần
bằng nhau. Như vậy, mỗi một số hữu tỉ ứng với một điểm trên đường thẳng. Đối với các nhà
toán học cổ xưa dường như làm như vậy thì tất cả các điểm trên đường thẳng đều đã được sử
dụng hết. Do đó, chắc hẳn phải là một điều gây sốc khi nhận thấy rằng có những điểm trên
đường thẳng không ứng với bất kì một số hữu tỉ nào. Khám phá này là một trong những
thành tựu to lớn nhất của các môn sinh Py-ta-go. Nói riêng, họ đã biết rằng không có một số
hữu tỉ nào ứng với điểm trên đường thẳng mà khoảng cách bằng với đường chéo của
một hình vuông có cạnh bằng đơn vị (như hình 2,16).

*****
Các số mới phải được tạo ra để ứng với các điểm này, và vì chúng không thể là các số
hữu tỉ nên được gọi là các số vô tỉ. Trong hình học, việc phát hiện ra số vô tỉ gây nên sự
ngạc nhiên lớn bởi vì ai mà không tin rằng với hai đoạn thẳng cho trước, người ta có thể tìm
được một đoạn thẳng thứ ba, có thể là rất rất nhỏ, dùng để chia hai đoạn thẳng cho trước đó
thành một số nguyên lần. Tuy nhiên, giả sử là lấy một trong hai đoạn thẳng đó là một cạnh
và đoạn còn lại là một đường chéo của một hình vuông. Nếu có một đoạn thẳng thứ ba
có thể chia và thành một số nguyên lần thì ta có và , trong đó và là

các số nguyên dương. Nhưng vì nên . Như vậy, hay là


một số hữu tỉ, điều này là vô lí. Khi đó, trái với trực giác, có những đoạn thẳng vô ước, tức
là những đoạn thẳng không có đơn vị đo lường chung.

28
Để xác định tỉ số của hai đoạn thẳng, người ta đã dùng một thuật tính gọi là thuật tính
Ơclit. Thuật tính này cho phép tìm được ước chung của hai đoạn thẳng cho trước.

Nếu và thi . Nhưng nếu là các đoạn thẳng vô ước với nhau thì
thuật tính nói trên sẽ trở nên vô hạn và người ta không thể biết được các tỉ số đó có bằng
nhau hay không. Để giải thích vấn đề đó, một số người theo trường phái Py-ta-go đã giả thiết
rằng các đoạn thẳng vô ước có một ước chung vô cùng bé, đó là những phần tử đơn giản
nhất, xem là những điểm. Theo họ, đoạn thẳng là tập hợp gồm vô hạn các phần tử không còn
chia nhỏ được như vậy.
Khi xác định thể tích hoặc diện tích của các hình không giới hạn bởi những mặt phẳng
và đường thăng, người ta cũng phải dùng đến một quá trình vô hạn. Ở thế kỉ thứ V,
Antiphôn đã giải quyết bài toán cầu phương hình tròn như sau: “Ta hãy nội tiếp trong đường
tròn một đa giác đều; đối với đa giác đều này ta có thể dựng một hình vuông có cùng diện
tích bằng thước và compa. Bây giờ, ta lại nội tiếp trong đường tròn một đa giác đều có số
cạnh gấp đôi, và dựng hình vuông có cùng diện tích với nó. Nhưng vi hình tròn là đa giác
đều với số cạnh là vô hạn nên từ đó suy ra ta luôn luôn có thể dựng hình vuông có diện tích
bằng diện tích hình Fon". Như vậy, Antiphôn đã từ một mệnh để đúng đối với đa giác đều có
số cạnh hữu hạn chuyển thành một mệnh để với đa giác đều có số cạnh vô hạn và lập luận
của ông đã không được thừa nhận.
Những khó khăn liên quan đến vấn hạn đã thực sự làm các nhà toán học lo lắng. Không
những thế nó còn vượt ra ngoài phạm vi của toán học, trở thành đề tài tranh luận của các nhà
triết học đủ mọi trường phái.

2.1.2. Các nghịch lí của Zeno (Khoảng 450 TCN)


Zeno là người đã bóc trần những khó khăn thực sự có liên quan đến khái niệm vô hạn
và liên tục, đồng thời chứng tỏ rằng những khái niệm đổ về bản chất hoàn toàn không giống
như người ta đã quan niệm về chúng. Để trình bày lập luận của mình, ông đã nêu ra những
nghịch lí nổi tiếng. Các nghịch lí của ông nhằm bác bỏ một số quan niệm trực giác trước kia
về vô cùng bé và vô cùng lớn, cũng như quan niệm của trường phái Pythagoras cho rằng
đoạn thẳng là tập hợp những yếu tố “không chia nhỏ được”. Ông lập luận như sau: “Giả sử
đoạn thẳng gồm một số vô hạn các phần tử không chia nhỏ được, khi đó nếu độ dài mỗi
phần từ đó bằng không (tức mỗi phần tử đó là một điểm) thì độ dài của đoạn thẳng bằng
không. Còn nếu độ dài của mỗi yếu tố là một đại lượng nào đó thì độ dài của đoạn thăng
phải là vô cùng lớn”. Lập luận đó chứng tỏ rằng không nên định nghĩa độ dài đoạn thẳng là
tổng độ dài các phần tử không chia nhỏ được, rằng độ đo của một tập hợp nói chung không
phải là độ đo các phần tử của nó.
Bốn nghịch lí của Zênông (“Chia đôi”, “Asin đuổi rủa”, “Mũi tên" và "Sân vận động")
thực sự đã gây nên sóng gió cho toán học, mà cho đến ngày nay vẫn còn dư âm. Những
nghịch lí này nhằm nhấn mạnh sự mâu thuẫn trong những khái niệm liên tục của chuyển
động và thời gian, nhưng hoàn toàn không có ý định giải quyết những mâu thuẫn đó.

+ Nghịch lí Chia đôi: Nếu một đoạn thẳng được chia nhỏ vô hạn thì một vật chuyển động
không bao giờ có thể đến địch được. Thật vậy, nếu vật chuyển động từ đến thì trước

29
hết nó phải đến trung điểm của đoạn , sau đó lại phải đến được các trung điểm ,
... của các đoạn thẳng , ... Như vậy không bao giờ nó đến được .
+ Nghịch lí Achilles đuôi rùa: Achilles và con rùa cùng chạy theo một đường thẳng và theo
cùng một hướng; mặc dù Asin chạy nhanh hơn con rùa nhưng không bao giờ có thể đuổi kịp
con rùa, nếu ban đầu con rùa cách Achilles một khoảng là . Thật vậy, giả sư tốc độ của
Asin lớn gấp lần tốc độ của rùa. Khi Achilles chạy được khoảng là thì rùa chạy được

khoảng là được khoảng là , khi Achilles chạy được khoảng đó thì rùa lại chạy thêm được

một khoảng là … và mỗi lần như vậy, khoảng cách giữa Achilles và rùa vẫn không thể
bằng không.
+ Nghịch lí Mũi tên: Nếu thời gian được cấu thành bởi các khoảng nguyên tử không chia
nhỏ được thì một mũi tên chuyển động luôn luôn bị đứng yên vì ở bất kì khoảng thời gian
nào mũi tên cũng ở một vị trí cố định. Vì điều này dùng với mỗi khoảng thời gian nên suy ra
mũi tên không bao giờ chuyển động cả.
+ Nghịch lí Sân vận động: Hai người chạy theo hai hướng ngược nhau trên một sân vận
động. Đến một lúc nào đó, họ gặp nhau trước một địch. Ví dụ đích là một hòn đá có bề
ngang bằng thân thể của mỗi người. Như thế, khi hai người gặp nhau phải mất một thời gian
để vượt nhau. Thời gian từ lúc bắt đầu gặp nhau đến lúc rời nhau là thời gian vượt nhau.
Trong thời gian hai người vượt nhau ấy thì mỗi người chỉ vượt được nửa hòn đá. Nếu biểu
hiện thời gian bằng đường đi qua với một tốc độ nhất định thì thời gian vượt hơn đã gấp hai
lần thời gian hai người vượt nhau.
Nhiều cách giải thích các nghịch lí của Zeno đã được đưa ra và không khó khăn lắm
cũng thấy được rằng những giải thích đó đã bác bỏ sự tin tưởng chung theo trực giác là tổng
của một số vô hạn các đại lượng dương thì lớn vô hạn, kể cả khi mỗi đại lượng đó là vô cùng

nhỏ , và tổng của một số hữu hạn hoặc vô hạn các đại lượng có kích thước bằng
không đều bằng không ( và ). Không cần biết động lực của các nghịch lí đó
như thế nào song ảnh hưởng của nó là loại bỏ các vỏ cùng bé ra khỏi hình học suy diễn của
người Hy Lạp.
Các nghịch lí của Zeno đã làm các nhà toán học hoang mang. Protagoras (480-411
TCN) lên tiếng chống lại tính chất trừu tượng của toán học. Theo ông, không nên nói rằng
điểm không có thành phần, đường không có bề dày, bề rộng. vì chưa hề ai trồng thấy chúng.
Ông còn nói đường thẳng và đường tròn tiếp xúc với nhau không thể chỉ ở một điểm mà là ở
một đoạn thẳng hữu hạn. Nhưng các nhà Hy Lạp đã hiểu rất rõ rằng từ bỏ tính trừu tượng
của toán học là từ bỏ toàn bộ toán học. Con đường của Protagoras không được thừa nhận.
Democrites (460 – 380 TCN), nhà triết học nguyên tử luận, nhà toán học, đã để nghị
một phương pháp xây dựng toán học thoát khỏi những khó khăn gây ra bởi khái niệm vô
hạn. Ông xem nguyên tử và các khoảng trống trong đó các nguyên tử chuyển động là cơ sở
đầu tiên của vũ trụ. Nguyên tử, tức là những cái không chia được, của Democrites là những
phần tử của vật chất không chứa phần nhỏ hơn nhưng đồng thời lại có một độ đo có thể biết
được. Như vậy, nếu cái không chia được của trường phái Pytagoras không có độ dài thì cái
30
không chia được của Democrites lại đo được. Lịch sử toán học đã chứng tỏ rằng quan điểm
của Democrites đã đóng một vai trò tích cực trong sự phát triển của toán học. Theo

Archimedes thì Democrites đã tìm được kết quả: Thể tích của một hình chóp bằng thể tích

của hình lăng trụ có cùng diện tích đáy và chiều cao, thể tích hình nón bằng thể tích hình
trụ có cùng đáy và chiều cao. Dựa trên một số đoạn còn 1 tìm thấy được trong tác phẩm của
Democrites, có thể đoán rằng ông đã đi đến kết quả ấy bằng cách chia vật thể thành một số
hữu hạn phần - nguyên tử - mà thể tích có thể biết được. Thể tích của vật thể sẽ bằng tổng
thể tích của các phần như thế. Nhưng như chúng ta đã biết, hình chóp không thể chia ra
thành mọt số hữu hạn hình lăng trụ được, do đó muốn đi đến kết luận trên thì không thể nào
không chuyển qua giới hạn, mà điều đó thì chắc chắn Democrites không làm. Bới vậy
Archimedes xem những kết quả của ông là chưa được chứng minh.
Con đường của Democrites là toán học hữu hạn, hoàn toàn không áp dụng được để
nghiên cứu các đại lượng liên tục và chuyển động. Nhưng quan điểm cảu ông chứa đựng
phương pháp quan trọng mà Archimedes là người đầu tiên đã đánh giá cao và phát triển nó.
Đó chính là mầm móng của phương pháp tích phân. Decartes, Galilei, Pascal, Cavalieri ở
một mức độ nào đó cũng sử dụng phương pháp này của Democrites để để chuẩn bị cho sự
phát minh ra vô cùng bé.

2.1.3. Phương pháp vét kiệt của Eudoxe (408 – 355 TCN)
Phương pháp này thừa nhận tính chia hết vô hạn của các độ lớn và có mệnh để sau đây
là cơ sở: “Nếu từ bất kì một đại lượng nào và bỏ đi một phần không nhỏ hơn một nửa của
nó, rồi từ chỗ còn lại bỏ đi một phần khác không nhỏ hơn một nửa của nó … thì cuối cùng sẽ
còn lại một đại lượng nhỏ hơn bất kì đại lượng nào được ấn định trước cùng loại ”. Ta dùng
phương pháp vét kiệt để chứng minh rằng nếu và là diện tích hai hình tròn có đường
kính là và thì . Trước hết, bằng mệnh đề cơ bản, ta chứng minh được
rằng hiệu diện tích giữa một đường tròn và một đa giác đều nội tiếp có thể làm cho nhỏ bao
nhiêu cũng được. Như đã thấy trên hình 2.17, gọi là cạnh của một đa giác đều nội tiếp
và là điểm giữa của cung . Vì diện tích của tam giác bằng nửa diện tích của
hình chữ nhật nên lớn hơn nửa diện tích của hình viên phân , suy ra rằng bằng
cách tăng đôi số cạnh của đa giác đều nội tiếp ta sẽ làm tăng diện tích của đa giác hơn một
nửa hiệu diện tích giữa đa giác và hình tròn. Do đó, bằng cách tăng đổi số cạnh cho đủ thì ta
có thể làm cho hiệu diện tích giữa đa giác và hình tròn nhỏ hơn bất kì một diện tích nào đã
được ấn định, dù nhỏ đến đâu.

(***)

Bây giờ ta quay trở lại định lí và giả sử rằng thay vì đẳng thức, ta có .
Như vậy, ta có thể cho nội tiếp trong đường tròn thứ nhất một đa giác đều có diện tích .
khác rất ít so với để . Gọi là một đa giác đều đồng dạng với , nhưng
31
nội tiếp trong đường tròn thứ hai. Từ một định lí đã biết về đa giác đồng dạng thì
. Suy ra rằng nên , đây là điều vô lý vì diện tích của
một đa giác đều không thể vượt quá diện tích của đường tròn ngoại tiếp. Bằng cách tương tự
là có thể chứng minh rằng ta không thể có . Do đó, bằng quá trình kép đưa
đến điều vô lí này, định lí ban đầu được xác lập. Như vậy, nếu là diện tích và là đường

kính của một đường tròn thì , trong đó là hằng số (thực ra bằng ) giống nhau
cho mọi đường tròn.
Archimedes nói rằng Democrites (khoảng 410 TCN) đã nói rằng thể tích của một hình
chóp trên một đáy đa giác bất kì bằng một phần ba hình lăng trụ có cùng đây và chiều cao.
Người ta ít biết về Democrites nhưng ông khó có thể đưa ra một chứng minh chặt chẽ về
định lí này. Vì một lăng trụ có thể phân thành tổng các lăng trụ đều có các đáy tam giác và
đến lượt nó một lăng trụ loại này lại có thể phân thành ba hình chóp tam giác có từng cặp
một các cạnh đáy tương đương và các chiều cao bằng nhau, suy ra rằng mấu chốt của bài
toán Democrites là phải chứng minh rằng hai hình chóp có cùng chiều cao và các cạnh đáy
tương đương thì có các thể tích bằng nhau. Về sau, bằng cách dùng phương pháp vét kiệt,
Eudoxe đã đưa ra một chứng minh như vậy.
Như vậy, làm thế nào mà Democrites đã đạt được kết quả cuối cùng này? Đầu mối là
từ Plutarch khi ông bàn về một lưỡng để mà Democrites đã bắt gặp trong trường hợp coi một
hình nón là được tạo bởi nhiều thiết diện phẳng song song với đáy. Nếu hai thiết diện “kề
nhau” mà cùng cỡ thì hình khối sẽ là một hình trụ chứ không phải một hình nón. Mặt khác,
nếu các thiết diện “kề nhau” mà có diện tích khác nhau thì mặt ngoài của hình khối có thể
làm thành một chuỗi các bước nhỏ và chắc chắn đó không phải vậy. Ở đây ta có một giả
định về tính chia hết của các độ lớn như là ở lưng chừng giữa hai giả định đã được nói tới
bởi vì ta thừa nhận thể tích của một hình nón là chia được vô hạn, tức là thành một số vô hạn
các thiết diện phẳng nguyên tử, nhưng những thiết diện này là đếm được với nghĩa nếu cho
trước một trong các thiết diện đó thì có một thiết diện ở ngay cạnh nó. Bây giờ, Democrites
có thể lập luận rằng nếu hai hình chóp có đáy tương đương và chiều cao bằng nhau bị cắt bởi
các mặt phẳng song song với các đáy và chia các chiều cao theo cùng một tỉ số thì các thiết
diện tương ứng được tạo thành là tương đương. Do đó, các hình chóp chứa cùng một số vô
hạn các thiết diện phẳng tương đương và vì vậy phải có thể tích bằng nhau. Đây có thể là
một ví dụ ban đầu về Phương pháp các cái không chia được của Cavalieri.
Nhưng trong số những người cổ đại thì chính Archimedes là người đã những ứng dụng
đẹp nhất về phương pháp vét kiệt và ông đã trở thành người gần gũi nhất với phương nháp
tích phân hiện nay.
Ở đây ta đã làm gọn công việc trên bằng cách lấy giới hạn tổng của một cấp số nhân.
Archimedes đã hai lần dùng công cụ đưa đến vô lí của phương pháp vét kiệt.
Trong nghiên cứu của mình về diện tích, thể tích, Archimedes đã đạt đến các tương
đương của một số tích phân xác định trong sách giáo khoa về phép tính vi phân hiện nay.
2.1.4. Phương pháp cân bằng của Archimedes
Phương pháp vét kiệt là một phương pháp chặt chẽ nhưng khô cằn. Nói cách khác, một
khi đã biết được công thức thì phương pháp vét kiệt có thể là một dụng cụ tốt để xác lập nó
nhưng phương pháp đó lại không dùng được để khám phá ra kết quả ngay từ đầu. Về mặt
32
này thì phương pháp vét kiệt rất giống với quá trình quy nạp toán học. Như vậy, làm thế nào
mà Archimedes đã khám phá ra các công thức mà ông đã xác lập một cách ngắn gọn, rõ ràng
bằng phương pháp vét kiệt?
Câu hỏi trên cuối cùng đã được làm sáng tỏ vào năm 1906 khi Heiberg ở
Constantinople khám phá ra một bản sao của luận văn Phương pháp của Archimedes gửi Ơ-
ra-tốt-sten mà đã bị thất lạc từ lâu.
Tư tưởng chính của phương pháp Archimedes là như sau: Để tìm một diện tích hoặc
một thể tích thì cắt nó ra thành một số rất lớn các dài phẳng mỏng song song hoặc các lớp
mỏng song song và (nghĩ trong óc lá) treo chúng ở đầu tâm đã biết. Ta sẽ minh hoạ phương
pháp này bằng cách dùng nó để tìm công thức cho thể tích một hình cầu.
Gọi là bán kinh của hình cầu. Đặt hình cầu đó cùng đường kính cực của nó dọc theo
trục nằm ngang với cực bắc tại gốc như Hình 2.19

X-

Hình 2.19.

Dựng một hình trụ và một hình nón tròn xoay bằng cách cho quay hình chữ nhật
và hình tam giác quanh trục . Bây giờ cắt từ ba hình khối đó những lát mỏng
thẳng đứng (thừa nhận rằng chúng là những hình trụ dẹt) cách một đoạn bằng và có
chiều dày là . Thể tích của các lát cắt này xấp xỉ bằng:

Hình cầu:

Hình trụ:

Hình nón:

Ta treo các lát cắt ở hình cầu và hình nón tại T trong đó , Momen hợp của chúng

quanh N là:
Ta thấy nó bằng bốn lần momen của lát cắt từ hình trụ mà ta vẫn để nguyên vị. Cộng một số
lớn các lát cắt này với nhau ta được:
2r(thể tích hình cầu + thể tích hình nón) = 4r(thể tích hình trụ)

hoặc

2r(thể tích hình cầu )


hoặc

33
thể tích hình cầu

34
2.2. Giải tích toán học từ thế kỉ XVII – XVIII
2.2.1. Những bước đầu của phép tính tích phân ở Tây Âu

Lí thuyết tích phân nhận được rất ít kích thích kể từ sau những khám phá đáng chú ý
của Archimedes cho đến thời kì cận đại. Vào khoảng năm 1450, các công trình của
Archimedes đã đến được Tây Âu qua bản dịch. Vào thế kỉ IX, một bản thảo của ông được
tìm thấy ở Constantinople. Bản dịch này đã được Regiomontanus xem lại và cho phát hành
vào năm 1540. Vài năm sau một bản dịch thứ hai ra đời. Nhưng mãi đến đầu thế kỉ XVII, tư
tưởng của Archimedes được phát triển xa hơn.

Hai tác giả ban đầu của thời cận đại đã dùng những phương pháp có thể so sánh được
với các phương pháp của Archimedes là kĩ sư Simon Stavin (1548 1620) và nhà toán học
Italia Luca Valerio (khoảng 1552 – 1618). Mỗi người đều cố gắng tránh việc hai lần đưa đến
vô lí của phương pháp vét kiệt bằng cách trực tiếp cho qua giới hạn khi xét diện tích của một
phần parabolic. Stavin đã dùng phương pháp như vậy trong công trình của ông về thuỷ tĩnh
học, trong đó ông đã tìm ra áp lực của chất lỏng lên một đập hình chữ nhật thẳng đứng bằng
cách chia đập đó ra thành những dài mỏng nằm ngang rồi cho quay các dải đó quanh các
cạnh trên và cạnh dưới cho tới khi chúng song song với một mặt phẳng năm ngang. Đây chủ
yếu là phương pháp mà hiện chúng ta đang dùng trong các sách giáo khoa sơ cấp về phép
tính vi tích phân.

Trong số những người châu Âu cận đại, sớm phát triển tư tưởng về các vô cùng bé liên
quan tới phép tính tích phân, phải đặc biệt nói tới Johan Kepler, Chúng ta cũng đã có một
lưu ý rằng Kepler đã phải cần đến một thủ tục lấy tích phân để tính những diện tích có liên
quan đến định luật thứ hai của ông về chuyển động của hành tinh và để tính các thể tích nói
đến trong luận văn của ông về dung tích của các thùng rượu vang. Nhưng Kepler, giống như
những người khác thời đó, ít kiên tâm bền bỉ với sự khắt khe chu đáo của phương pháp vét
kiệt, rồi cũng là do muốn khỏi mất nhiều thời gian và cũng còn sợ rằng Archimedes coi
những quá trình đó chỉ là để hướng dẫn trong việc dạy học. Vì vậy Kepler coi chu vi của một
đường tròn như một đa giác đều có số cạnh vô hạn. Nếu mỗi cạnh đó dùng làm đáy của tam
giác có đỉnh tại tâm của hình tròn thì diện tích của hình tròn đã chia được thành một số vô
hạn các tam giác rất mảnh có chiều cao bằng với bán kính của hình tròn. Vì diện tích của
mỗi tam giác đó bằng một nửa tích của đáy nhân với chiều cao nên suy ra diện tích của hình
tròn bằng một nữa tích của chu vi của nó nhân với bán kính. Tương tự, thể tích của một hình
cầu coi là hợp bởi một số vô hạn các hình nón hẹp có đỉnh chung ở tâm của hình cầu. Suy ra
rằng thể tích của hình cầu bằng một phần ba tích của diện tích mặt ngoài của nó nhân với
bán kính. Theo quan điểm về tính chặt chẽ của toán học thì những phương pháp như vậy là
đáng phê phán, song nó lại đưa ra những kết quả đúng theo một cách quá ư đơn giản.

Có lẽ những cố gắng của Kepler về tính tích phân đã khiến Cavalieri phát triển phương
pháp những cái không chia được của mình.

2.2.2. Phương pháp những cái không chia được của Cavalieri

35
Bonaventura Cavalieri sinh ở Mi Lan năm 1598 sớm là một thầy tu Jesuat theo học
Galilê và là giáo sư toán tại Đại học Bologna từ 1629 cho đến lúc qua đời năm 1647. Ông là
một trong các nhà toán học có nhiều ảnh hưởng nhất thời mình và đã viết một số công trình
về toán học, quang học và thiên văn học. Ông là người rất có trách nhiệm trong việc sớm
đưa lôgarit vào Italia. Nhưng đóng góp to lớn nhất của ông là bản luận văn, xuất bản năm
1635 ở dạng nguyên thuỷ, nói về phương pháp những cái không chia được một phương pháp
có thể bắt nguồn từ Đêmôcrit.

Luận văn của Cavalier viết dài dòng mà không rõ và khó biết được chính xác nên hiểu
một “cái không chia được" là như thế nào. Dường như cái không chia được của một mẩu
phẳng cho trước là một dây của mẩu đó và cái không chia được của một hình khối cho trước
là một thiết diện phẳng của khối đó. Một mẩu phẳng được coi là tạo bởi một tập hợp vô hạn
các dây song song và một hình khối tạo bởi một tập vô hạn các thiết diện phẳng song song.
Cavalieri lập luận rằng nếu ta trượt một phần tử của tập hợp các dây song song của một mẩu
phẳng cho trước dọc theo trục của chính nó sao cho các điểm cuối của các dây đó vẽ một
biên liên tục thì diện tích của mẩu phẳng mới được hình thành sẽ giống như diện tích của
mẩu phẳng lúc đầu. Trượt tương tự các thiết diện phẳng của một hình khối cho thác sẽ cho
một hình khối khác có cùng thể tích như hình khỏi ban đầu. Từ những kết quả này ta có một
nguyên lí, gọi là nguyên li Cavalierials.

Nếu hai mẩu phẳng được chứa giữa hai đường thẳng song song và hai đoạn thẳng trên
một đường thẳng bất kì song song với hai đường thẳng trên bị chúng cắt mà bằng nhau về
chiều dài thì diện tích của các mẩu phẳng đó bằng nhau;

Nếu hai hình khối được chứa ở giữa hai mặt phẳng song song và hai thiết diện mà
chúng cắt trên một mặt phẳng song song với hai mặt trên có diện tích bằng nhau thì thể tích
của hai hình khối này là bằng nhau.

Nguyên lí Cavalieri là một công cụ có giá trị dùng để tính diện tích và thể tích và có
thể dễ dàng xác lập được một cách chặt chẽ. Để minh hoạ cho nguyên là đó ta xét ứng dụng
sau đây để tìm công thức cho thể tích hình cầu. Trong hình 2. 20 có một hình bán cầu bán
kính r ở bên trái và ở bên phải là một hình trụ có bán kính r và chiều cao r và một hình nón
khoét ra, có đáy là đáy trên của hình trụ đỉnh là tâm của đáy dưới của hình trụ. Hình bán cầu
và hình trụ đã bị khoét ra đều nằm trên cùng một mặt phẳng. Bây giờ ta cắt cả hai hình khối
này bằng một mặt phẳng song song với mặt phẳng đáy và cách nó một khoảng bằng h

Mặt phẳng này cắt một hình khối theo một thiết diện tròn và hình khối theo một thiết
diện hình khuyên hoặc có hình vành. Bằng hình học sơ cấp ta có thể dễ dàng tính được mỗi

thiết diện đều có có diện tích bằng . Theo nguyên lí Cavalier suy ra rằng hai hình
khối đó có thể tích bằng nhau. Do đó, tích của hình cầu được cho bởi

36
V = 2 × (thể tích hình trụ – thể tích hình nón)

Hình 2.20.

Việc thừa nhận và sử dụng nhất quán nguyên lí Cavalieri đã giúp tìm ra công thức về
hình khối. Thủ tục này đã được một số tác giả về sách giáo xứ chấp nhận và được biện hộ về
mặt sư phạm.

Quan niệm của Cavalieri về những cái không chịu được gây ra nhiều tranh luận và có
những phê phán nghiêm túc, nơi một số người nghiên cứu chủ đề này, đặc biệt là Paul
Guldin, một người Thụy Sĩ Cavalieri đã viết lại luận văn của mình với hi vọng là không còn
gặp những lời phản đối đó nữa. Nhà toán học Pháp Roberval cũng đã tìm ra phương pháp đó
và tuyên bố rằng đó là một phát minh độc lập về quan niệm đó. Phương pháp những cái
không chia được hoặc một quá trình rất tương tự như vậy đã được Torricelli, Phéc-ma Pa-
xcan, Saint – Vincent, Barrow và những người khác sử dụng có hiệu quả. Trong quá trình
làm việc, họ đã đạt được những kết quả tương đương với việc lấy tích phân các biểu thức
như .

2.2.3. Bước đầu của phép lấy vi phân

Phép lấy vi phân có thể nói là bắt nguồn từ việc giải bài toán vẽ các tiếp của các đường
cong và tìm các giá trị cực đại, cực tiểu của các hàm số. Mặc dù việc xem xét các vấn đề như
vậy có thể thấy ngược thời gian từ những người Hy Lạp cổ đại, nhưng có lẽ phải thừa nhận
rằng tiền thân của phương pháp tính vi phân thực sự bắt nguồn từ những tư tưởng mà Fermat
đã hình thành vào năm 1629.

Kepler đã có nhận xét là số gia của một hàm số sẽ trở nên nhỏ tới mức triệt tiêu tại lân
cận của một giá trị cực đại hoặc cực tiểu thường. Fermat đã chuyển sự kiện này thành một
quá trình xác định một cực đại hoặc một cực tiểu như vậy. Phương pháp này có thể trình bày
ngắn gọn như sau. Nếu có một cực đại hoặc một cực tiểu thường tại và nếu là rất
nhỏ thì giá trị của hầu như bằng với giá trị của . Ta sẽ cố tình đặt
và làm cho đẳng thức này trở thành đúng bằng cách cho e nhận giá trị là số
không. Các nghiệm của phương trình này sẽ cho những giá trị của mà sẽ là một cực
đại hoặc một cực tiểu.

37
Ta sẽ minh hoạ thủ tục trên bằng cách xét ví dụ thứ nhất của Fermat là chia một đại
lượng thành hai phần sao cho tích của chúng là một cực đại. Fermat đã dùng cách kí hiệu của
Vi-ét trong đó các hằng số thì được kí hiệu bằng các chữ cái phụ âm lớn và các biến thì bằng
các chữ cái nguyên âm nhỏ. Theo cách kí hiệu như vậy, gọi B là đại lượng cho trước và kí
hiệu các phần phải tìm là và . Ta viết và cho nó bằng với
ta sẽ có hoặc

Sau khi chia cho ta được . Bây giờ đặt ta được và như
vậy là ta đã tìm ra cách chia cần có.

Mặc dù logic trong cách trình bảy của Fermat còn thiếu nhiều cái cần có, sống người ta thấy

rằng phương pháp của ông là tương đương với việc đặt , tức là cho
đạo hàm của .
Đây là phương pháp quen thuộc để tìm cực đại, cực tiểu thường của một hàm và đôi
khi được gọi là phương pháp Fermat trong các giáo trình sơ cấp. Tuy nhiên, Fermat không biết rằng
cho triệt tiêu đạo hàm của chỉ là một điều kiện cần chứ không phải điều kiện đủ cho một cực
đại hoặc cực tiểu thông thường. Ngoài ra, phương pháp Fermat cũng không phân biệt giá trị cực đại
với giá trị cực tiểu. Fermat cũng đã nghĩ ra một thủ tục chung để tìm tiếp tuyến tại một điểm của một
đường cong khi biết phương trình Descartes của nó. Tư tưởng của ông là tìm tiếp ảnh của điểm đó,
tức là đoạn thăng trên trục giữa chân của tung độ vẽ từ tiếp điểm với điểm giao nhau giữa tiếp
tuyến và trục . Phương pháp này dựa vào một ý nghĩ cho rằng tiếp tuyến là vị trí giới hạn của một
cát tuyến khi hai giao điểm của nó với đường cong tiến tới chỗ trùng với nhau. Dùng các kí hiệu
hiện nay thì phương pháp đó là như sau: Cho phương trình đường cong (Hình 2 21) là
và tìm tiếp ảnh của đường cong tại điểm . Bảng các tam giác đồng dạng ta dễ dàng tìm

được toạ độ của một điểm ở gần nằm trên tiếp tuyến là . Điểm này có ý định

được coi như cũng nằm trên đường cong cho nên

Hình 2.21.
Đẳng thức này được làm cho đúng bằng cách cho giá trị bằng 0. Rồi ta giải phương trình để
tìm theo các toạ độ và của tiếp điểm. Tất nhiên việc này tương đương với việc đặt

38
Đó là một công thức về sau thấy trong công trình của Sluze. Bằng cách này Fermat đã tìm
được tiếp tuyển cho clip, cycloid, cissoid, conchoit, đường cấu phương và lá Descartes. Ta minh hoa
phương pháp này bằng cách tìm tiếp ảnh tại một điểm nói chung trên lá Descartes:

Ở đây, ta có

hoặc

Chia cho và đặt , ta thấy


2.2.4. Một số kết quả nghiên cứu của Wallis và Barrow
Issac Newton là người kế tục trực tiếp của John Wallis và Isaac Barrow ở Anh. John Wallis,
sinh năm 1616, là một trong các nhà toán học độc đáo nhất và có khả năng nhất ở thời của ông. Ông
là một tác giả uyên bác và viết nhiều trong một số lĩnh vực và là một trong những người đầu tiên
nghĩ ra hệ thống giảng dạy cho người câm điếc. Công trình của ông về giải tích đã thực hiện nhiều
điều để dọn đường cho một người có tầm cỡ cùng thời với ông là Issac Newto
Wallis là một trong những người đầu tiên đã luận bản về các cônic như những bậc hai hơn là các
thiết diện của một hình nón. Năm 1656 cuốn Arithmetica infinitorum (đề tặng Oughtred) của ông ra
đời, một cuốn sách dù còn một số thiếu sót về mặt logic song vẫn được coi là một luận văn có chất
lượng trong nhiều năm. Trong cuốn sách này, các phương pháp của Descartes và Cavalieri đã được
hệ thống hoá và mở rộng, một số các kết quả đáng chú ý đã được quy nạp từ một số trường hợp đặc

biệt. Chẳng hạn như công thức mà ngày nay chúng ta viết là trong đó, là một số
nguyên dương đã được tuyên bố là vẫn đúng khi là một phân số hoặc một số âm khác –1. Wallis
là người đầu tiên giải thích đầy đủ số mũ của các số mũ không, âm và phân số, và ông đã đưa ra kí
hiệu hiện nay về vô hạn .
Wallis ước ao xác định được bằng cách tìm một biểu thức cho diện tích, của một góc phần tư của

hình tròn . Điều này tương đương với việc tính mà Wallis không thể làm
trực tiếp được vì ông chưa biết tới định lí nhị thức tổng quát. Ông đã tính được

và được dãy Rồi ông lại xét bài toán


tìm quy luật để với sẽ cho dãy trên. Chính là Wallis muốn tìm giá trị nội suy cho định

luật này với . Bằng một quá trình dài và phức tạp, cuối cùng ông đã đạt được biểu thức tích vô

hạn cho . Các nhà toán học thời ông thường cần đến các quá trình 2 nội suy để tính các đại lượng
mà họ không tính được trực tiếp.
39
Wallis đã hoàn tất nhiều việc khác trong toán học. Ông là nhà toán học đã tiếp cận gần nhất
với cách giải các câu hỏi thách đố của Pascal về đường cycloid. Có thể nói rằng ông đã tìm được

một tương đương của công thức cho chiều dài của một phần tử của một cung
của đường cong.
Trong khi những đóng góp chủ yếu của Wallis cho sự phát triển của phép tính vi tích phân là ở
lí thuyết tích phân thì những đóng góp quan trọng nhất của Isaac Barrow có lẽ lại là những đóng góp
cho lí thuyết vi phân. Barrow sinh ở Luân Đôn vào năm 1630. Công trình toán học quan trọng nhất
của ông là “Lectiones opticae ef geometricae” ra đời vào năm 1669 năm ông trao lại học vị giáo sư
tại Cambridge cho Issac Newton. Trong lời nói đầu của luận văn này, ông đã gửi lời cảm ơn tới
Newton về sự đóng góp một số vấn đề cho cuốn sách, có lẽ là những phần nói về quang học. Chính
trong cuốn sách này ta thấy một cách tiếp cận rất gần gũi với quá trình tính vi phân hiện nay khi sử
dụng cái mà ta gọi là tam giác vi phân. Giả sử cần tìm tiếp tuyến tại điểm P trên một đường cong
cho trước biểu diễn trên hình vẽ dưới đây. Gọi Q là một điểm lân cận trên đường cong đó. Như vậy,
các tam giác PTM và POR là rất gần đồng dạng với nhau và Barrow lập luận rằng vì tam giác nhỏ sẽ

trở nên vô cùng nhỏ nên ta có .


(****)
Đặt và . Như vậy, nếu các toạn độ của P là và thì toạ độ của là
và . Thế các giá trịn này vào phương trình của đường cong và bỏ qua bình phương và

các lũy thừa bậc cao của cả và ta sẽ tìm được tỉ số

Như vậy, ta có: ,


và xác định được đương cong tiếp tuyến. Barrow đã áp dụng phương pháp này để dựng tiếp tuyến
cho các đường:

a) (đường cong kappa)


b) (một đường cong Lamé đặc biệt)
c) (lá Descartes, nhưng Barrow gọi là đường cong duyên dáng)

d) (đường cầu phương)

e) (một đường cong tiếp tuyến hoặc đường cong tiếp xúc)
Mặc dù điều hiển nhiên chỉ là mong mạnh đầu đó song Barrow vẫn được thừa nhận chung là
người đầu tiên đã thấy được đầy đủ một nét khái quát là phép tính vi phân và phép tính tích phân là
hai phép toàn ngược nhau. Khám phá tuyệt diệu này được gọi là định lí cơ bản của phép tính vi tích
phần và đã được phát biểu cũng như chứng minh trong “Lectiones” của Barrow.
Mặc dù Barrow đã để phần lớn thời gian cuối đời cho việc nghiên cứu thần học, song vào năm
1675, ông đã cho xuất bản (cùng với lời bình giải) bốn cuốn đầu của “Thiết diện cônic” của
40
Apollonius và những công trình còn lưu giữ được của Archimedesvà Theodosius.
Trong giai đoạn này của sự phát triển phép tính vi phân và tích phân thì nhiều tích phân đã được
thực hiện, nhiều việc tìm thể tích, cầu phương và cầu trường đã tỏ ra là có kết quả, quá trình lấy vi
phân đã tiến triển và đã dựng được tiếp tuyến cho nhiều đường, tư tưởng về giới hạn đã chín muối
và định lí cơ bản đã được nhận thức ra. Vậy thì còn gì phải làm nữa? Đó là việc cần phải tạo ra một
hệ kí hiệu tổng quát cùng với một tập hợp hệ thống các quy tắc giải tích hình thức cũng như phát
triển lại cho nhất quán và chặt chẽ những vấn đề cơ bản của chủ đề này. Cái đầu tiên chắc chắn phải
là một phép tính vi tích phân thích hợp và tiện dụng. và điều đó đã được hai nhà toán học là Newton
và Leibniz cùng cống hiến nhưng hoàn toàn độc lập với nhau. Việc phát triển lại các khái niệm cơ
bản trên một cơ sở chặt chẽ có thể chấp nhận được phải đợi đến thời kì mà chủ để này được áp dụng
mạnh mẽ và đó chính là công trình của một nhà giải tích tầm cỡ người Pháp tên là Augustin – Louis
Cauchy (1789 – 1857) và những người kể lại ông ở thế kỉ XIX.
2.2.5. Một số kết quả nghiên cứu của Niu-tơn
Năm 1665, Issac Newton tìm ra định lí nhị thức (một định lí về khai triển hàm mũ của tổng).
Kết quả của định lí này là khai triển một nhi thức bậc thành một đa thức bậc .
Khám phá quan trọng trong toàn học của Newton là Phương pháp thông lượng mà những nét
cơ bản của ông đã được thông báo đến Barrow vào năm 1669. Tác phẩm “Phương pháp thông
lượng” (Method of Fluxions) của ông được viết năm 1671 nhưng mãi tới năm 1736 mới công bố.
Đây là công trình được cho là thúc đẩy sự phát triển của mọi ngành toán học.
2.2.6. Một số kết quả nghiên cứu của Gottfried Wilhelm Leibniz
Leibniz đã phát minh phép vi tích phân từ năm 1673 đến 1676. Vào ngày 29 tháng 10
năm 1675, lần đầu tiên ông dùng dấu tích phân hiện đại, coi như chữ S dài lấy từ chữ cái đầu
tiên trong từ chữ Latin summa (tổng) để chỉ ra tổng của những cái không phân chia được của
Cavalieri.
Vài tuần sau, ông viết các vi phân và đạo hàm như ta viết ngày nay, và ông cũng viết

các tích phân là , . Tham luận đầu tiên của ông về phép toán vi phân mãi đến năm
1681 mới được công bố.
Nhiều quy tắc sơ cấp về lấy vi phân thường được trình bày trong các giáo trình đại học
là của Leibniz. Quy tắc tìm đạo hàm bậc của tích 2 hàm số vẫn được coi là quy tắc
Leibniz.

Leibniz rất nhạy cảm về một hệ kí hiệu hợp lý. Cách kí hiệu của ông trong vi tích phân
tỏ ra rất phong phú. Nó rõ ràng, thuận tiện hơn, linh hoạt hơn nhiều so với cách kí hiệu của
Newton

41
2.2.7. Giải tích toán học trong thế kỉ XVIII.
Toán vi tích phân giữ vị trí chi phối sự phát triển toán học thế kỉ 18. Việc khai phá lí
thuyết mạnh mẽ mới này tiến hành theo hai hướng – mở rộng và áp dụng vào cácphaanf của
toán học và vật lí, và xem xét nền tảng logic của nó. Việc nghiên cứu trong thời kì này chủ
yếu được tiến hành ở các viện Hàn lâm Hoàng gia, bảo trợ bởi “các quyền lực sáng suốt” của
thời đại, trong khi các trường đại học chỉ đóng vai trò nhỏ trong việc sản sinh các tư tưởng
mới. Những viện Hàn lâm hàng đầu ở Berlin, London, Paris, St Peterburg. Pháp chiếm phần
vượt trội về tài năng toán học, nhưng Thụy Sĩ cũng có những đóng góp có ý nghĩa trong lĩnh
vực này.

Dòng họ Bernoulli
Mở đầu và được biết nhiều nhất là hai anh em Jacob (1654 – 1705) và Johann (1667-
1748). Từ bỏ sự nghiệp thần học và y học do bị quyến rũ bởi công trình tiên phong của
Leibniz về toán vi tích phân, Jacob và Johann Bernoulli đã bước vào một cuộc tranh đua ráo
riết giữa hai ông với nhau và với chính Leibniz, điều này đã làm sản sinh ra phần lớn nguồn
tài liệu có trong các bài giảng sơ cấp vê tính vi tích phân hiện nay, cũng như các kết quả
trong lí thuyết phương trình vi phân thường. Phần lớn các công trình của hai ông tập trung
vào các tính chất của một số đa dạng các đường cong đặc biệt, kể cả đuờng dạng dây xích,
đường xoắn ốc logarit, và Johann Bernoulli thường đưọc xem như là cha đẻ của ngành toán
về các biến đổi do ông nghiên cứu về đường brachistochrone (đường cong mà theo đó một
chất điểm sẽ trượt từ một điểm này tới một điểm khác dưới ảnh hưởng của trọng lực trong
thời gian nhỏ nhất có thể có, lực ma sát xem như không đáng kể). Ngoài đóng góp của ông
cho toán vi tích phân, Jacob cũng đã làm được môt công trình nổi bậc về hình học và đã viết
quyển sách đầu tiên dành cho lí thuyết xác suất. Hai người con của Johann cũng được nổi
tiếng – Nicholaus (1695 – 1726) nhờ công trình về Hình học, và Daniel (1700 – 1782) nhờ
các bài viết sâu sắc trong lĩnh vực thiên văn, vật lí toán và thuỷ động học.

Leonhard Euler
Nhà toán học có nhiều thành quả nhất của thế kỉ này là Leonhard Euler, sinh năm 1707
ở Basel, Thuỵ sĩ. Ông là học trò của Johann Bernoulli, và cũng nghiên cứu về thần học, y
học, các ngôn ngữ phương Đông, thiên văn, và vật lí. Ông là thành viên của viện Hàn lâm St
Petersburg, rồi lãnh đạo viện Hàn lâm Berlin. Ông sở dĩ được hâm mộ khắp châu Âu vì đã
đóng góp quá nhiều cho Toán ứng dụng và Toán lý thuyết (thực ra hai lĩnh vực này chỉ là hai
mặt của toán học mà thôi). Ông quan tâm đến giải tích, đại số và đặc biệt là đã đặt được mối
liên hệ giữa hàm lượng giác và hàm lũy thừa bằng công thức mang tên ông (thông qua đơn
vị ảo của tập số phức ), công thức Euler được phát biểu như sau:
Ông đóng góp nhiều cho giải tích. Ông nghiên cứu về dây rung và nguyên nhân của gió về
phương diện toán học. Nhờ đó mà ông đặt cơ sở cho phương trình vi phân đạo hàm riêng.

Phần sau của thế kỉ 18 là một thời kì xáo trộn về chính trị. Anh đang bị ít nhiều khó
khăn trong việc ổn định thuộc địa còn rối ren của mình ở châu Mĩ, còn giai cấp quý tộc
Pháp thì mất khả năng điều khiển nông dân. Biến động ở Pháp quyết liệt đến nổi không thể
tin nổi là các nghiên cứu khoa học chẳng những vẫn tồn tại mà cón lớn mạnh suốt cả thời
gian này. Thật vậy, toán học Pháp vẫn giữ vị trị vượt trội của mình. Các nhà toán học trong
42
lục điạ châu Âu có lợi thế mạnh hơn các nhà toán học Anh ở chỗ toán vi tích phân của
Leibniz thì dễ hiểu và dễ áp dụng hơn nhiều so với lí thuyết khó xài về sự chuyển đổi liên tục
của Newton.

Jean d’Alembert
Một đột phá quan trọng trong toán vi tích phân đã được Jean d’Alembert (1717 –
1783) thực hiện khi ông khử trừ được ”các bóng ma về các đại lượng dời chỗ” của Newton
bằng cách đưa ra khái niệm giới hạn. Tuy nhiên các người cùng thời với ông không đánh giá
được ý nghĩa của ý tưởng này và để nó ngủ yên trong nhiều năm.

Pierre Simon Laplace (1749 – 1827)


Cuộc đời ông là những đóng góp cho sự hiện đại hóa của Giải tích toán học. Công trình
nghiên cứu của ông về Lý thuyết phương trình thật to lớn, đặc biệt với công trình “Cơ học
thiên thể” ông được xem như Newton của nước Pháp. Sau này, năm 1829 (16 năm sau khi
ông qua đời) đọc diễn văn tại Viện Hàn Lâm khoa học Pháp, nhà toán học Fourier nói:
“Laplace sinh ra là để đào sâu và đẩy lùi mọi giới hạn cản trở trí tuệ của con người, để giải
những gì mà người ta tưởng là không giải nổi”.

Brook Taylor (1685 – 1731)


Taylor có công lớn trong việc tạo ra một nhánh mới của toán học gọi là “calculus of
finite differences”, phát minh ra phương pháp tính tích phân từng phần và đăc biệt nổi tiếng
với công thức khai triển một hàm số thành dạng chuỗi mang tên ông, công thức Taylor.
Tầm quan trọng của định lý Taylor vẫn không được công nhận cho đến năm 1772 khi
Lagrange tuyên bố nó là nguyên tắc cơ bản của tính toán vi phân. Thuật ngữ “chuỗi Taylor”
dường như được Lhuilier sử dụng lần đầu tiên vào năm 1786.
2.3. Giải tích toán học hiện đại
2.3.1. Giải tích Toán học trong thế kỉ 19
Sự kiện toán học sâu sắc của thế kỷ 19 trong lĩnh vực giải tích toán học là việc số học
hóa giải tích. Ngay từ thế kỷ 18, các nhà toán học đã bắt đầu báo động về sự khủng hoảng về
cơ sở của giải tích. Năm 1754, D’Alembert đã thấy được rằng cần đạt tới lý thuyết các giới
hạn; Vào năm 1797, Lagrange đã nổ lực làm cho giải tích chặt chẽ hơn. Năm 1821, nhà toán
học Pháp là Augustin Luois Cauchy đã đạt một bước tiến khổng lồ khi thực hiện thành công
gợi ý của D’Alembert bằng cách phát triển một lý thuyết giới hạn chấp nhận được rồi sau đó
định nghĩa sự hội tụ, tính liên tục, tính khả vi và tích phân xác định bằng lý thuyết về giới
hạn này. Các định nghĩa này hiện chúng ta vẫn còn thấy trong các sách giáo khoa.
Tuy nhiên, những nổ lực của Cauchy cũng chỉ là xây dựng lý thuyết giới hạn trên cơ sở
những “trực giác” đơn giản về hệ thống số thực. Năm 1874, Karl Weierstrass đưa ra một ví
dụ về hàm liên tục mà không có đạo hàm, nói cách khác là đường mà không có tiếp tuyến tại
bất kỳ điểm nào của nó. Georg Bernhard Riemann thì đưa ra một hàm liên tục tại số vô tỉ
nhưng gián đoạn tại số hữu tỉ. Từ đó, người ta thấy rằng lý thuyết giới hạn, tính liên tục và
tính khả vi lại phụ thuộc vào những tính chất khó hiểu của hệ thống số thực. Do đó,
Weierstrass ủng hộ một chương trình trong đó bản thân hệ thống số thực phải làm cho chặt
chẽ rồi sau đó tất cả các quan niệm cơ bản về giải tích sẽ được rút ra từ hệ thống số này.
Chương trình nổi tiếng này được gọi là chương trình số học hóa giải tích, đã được

43
Weierstrass và các học trò của ông hoàn thành tốt đẹp. Ngày nay, mọi thứ trong giải tích đều
có thể rút ra hợp lý từ tập hợp tiên đề đặc trưng cho hệ thống số thực.
Các nhà toán học còn đi xa hơn nữa so với việc xác lập hệ thống số thực làm cơ sở cho
giải tích. Hình học Euclid thông qua cách biểu thị bằng giải tích cũng có thể thực hiện được
trên hệ thống số thực và các nhà toán học cũng phát hiện rằng đại bộ phận các ngành hình
học nhất quán nếu hình học Euclid nhất quán. Ngoài ra, hệ thống số thực hay một bộ phận
của nó có thể dùng để biểu thị nhiều ngành đại số nên tính nhất quán của nhiều ngành đại số
có thể thực hiện được nhờ vào hệ thống số thực. Thực ra, ngày nay có thể nói rằng (về cơ
bản): mọi toán học hiện hữu đều nhất quán nếu hệ thống số thực là nhất quán. Đó là tầm
quan trọng to lớn của hệ thống số thực trong việc xây dựng cơ sở cho toán học.
Từ thế kỉ 19 trở đi, toán học thế giới phát triển một cách mạnh mẽ và toàn diện. Ở thời
kì này xuất hiện nhiều nhà toán học không chỉ đóng góp nhiều về mặt lý thuyết mà còn thúc
đẩy cho kỹ thuật tiến những bước dài hơn nữa. Đặc biệt là về Gauss và Cauchy.

Carl Friedrich Gauss (1777 – 1855)


Về Giải tích toán học ông đóng góp nhiều vào Phép tính biến thiên.

Augustin Cauchy (1789 – 1857)


Ông là nhà toán học Pháp có nhiều đóng góp cho toán học thế giới, ở ngành nào ông
cũng có công lớn, đặc biệt về Giải tích toán học.

Niels Henrik Abel (1802 – 1829)


Giáo trình “Giải tích toán học” của Cauchy đã làm ông say mê. Ông qua Paris là nơi
mà ông cho là “Trung tâm của toán học thế giới” thời bấy giờ và công bố công trình “Về
tính chất tổng quát của một số lớn số siêu việt” nhưng ít được chú ý tới. Thất vọng, ông quay
về quê hương, sống trong nghèo khổ. Tuy vậy ông vẫn phát minh nhiều công trình về Giải
tích.

2.3.3. Giải tích Toán học của thế kỉ 20


Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, điển hình là sự phát triển của hệ thống
mạng internet, hệ thống giao thông, đã thúc đẩy lĩnh vực toán học mới ra đời và phát triển
mạnh mẽ, chẳng hạn như lĩnh vực tối ưu, sự mở rộng từ ánh xạ đơn trị sang đa trị, các bài
toán trên các hàm không trơn đưa đến khái niệm đạo hàm suy rộng và dưới vi phân.
Không còn có nhà toán học nào có thể hiểu được toàn bộ kiến thức về toán mà ngày
nay con người đã biết. Vì các kiến thức này quá nhiều và đi sâu vào các nhánh chuyên biệt.
Nhưng dù là với bất kỳ lí do gì thì toán học vẫn không tách rời với thế giới thực tại, mặc dù
có những thời điểm toán học đi trước. Thế kỷ 20 tuy không dài, so với lịch sử phát triển của
nhân loại, nhưng sự phát triển trong giai đoạn này lại gấp nhiều lần các thế kỷ trước đó gộp
lại, mà trong đó sự phát triển của khoa học và nói riêng là toán học đóng vai trò chủ đạo.

44
CHƯƠNG 3
CÁC BÀI TOÁN TIÊU BIỂU

Bài tập 3.1: Chứng minh rằng tập hợp các số nguyên tố là vô hạn.

Giải:

Trước tiên ta chứng minh mệnh đề: Mỗi số nguyên dương bất kì thì hoặc bằng 1, hoặc là
một số nguyên tố, hoặc có thể biểu diễn dưới dạng tích của các số nguyên tố.

Thật vậy, với số 1, khẳng định là đúng. Giả sử khẳng định đúng với những số nguyên dương
đầu tiên nhỏ hơn n, ta chứng minh khẳng định cũng đúng với : nếu là số nguyên
tố thì khẳng định là đúng. Còn nếu không phải là số nguyên tố thì nó sẽ là hợp số, tức
là , (hiển nhiên các số nhỏ hơn ). Hơn nữa dễ thấy đều nhỏ hơn
, nên theo tác giả thiết quy nạp chúng có thể phân tích thành tích các số nguyên tố và do
cũng phân tích được thành tích của các số nguyên tố. Mệnh đề đã được chứng minh.

Bây giờ ta chứng minh sự vô hạn của tập hợp của các số nguyên tố. Giả sử tập hợp các số
nguyên là hữu hạn, chẳng hạn chỉ có số: . Xét số nó lớn hơn
và phải là hợp số. Theo mệnh đề trên thì số này sẽ được phân tích thành tích
các số nguyên tố:

(*)

Với là các số nguyên tố không có thừa số nào có thể trùng với các
số vì giả sử chẳng hạn thì từ (*) ta suy ra:

(**) mà vế trái của (**) chia hết cho , do vậy 1 chia hết cho .
Vô lí!

Như vậy các số nguyên tố không thể trùng với các số nguyên tố nghãi là ngoài
các số nguyên tố còn có các số nguyên tố khác là . Hay nói cách
khác, tập hợp các số nguyên tố là vô hạn.

Euler cũng được ra một lời giải độc đáo bài toán này của Euclide. Ông dùng phương pháp
phản chứng.

Giả sử tập hợp các số nguyên tố hữu hạn, chẳng hạn là các số . Lập tổng của
cấp số nhân:

45
Rồi nhân các chuỗi số đó với nhau ta được:

Hay

Tích ở vế phải là hữu hạn, do đó chuỗi ở vế trái là hội tụ. Điều này là mâu thuẫn vì chuỗi ở
vế trái như đã biết là một chuỗi điều hòa, nó phân kì. Do đó, tập hợp các số nguyên tố là vô
hạn.

Bài tập 3.2: Tìm tổng bình phương của n số tự nhiên đầu tiên

Giải:

Lời giải của Archimedes được viết theo công thức toán học ngày nay như sau:

Công thức này nhận được từ đồng nhất thức:

Với , thay vào công thức ta có:

46
Cộng từng vế ta được:

Bài tập 3.3: Tìm tổng của những phân số dạng:

Trong đó là những số tự nhiên

Giải:

Để lập tổng của những phân số có dạng đã cho ta cho chạy từ đến. Khi đó:

. Nhận thấy rằng:

47
+

Kí hiệu:

Do đó:

PHẦN KẾT LUẬN

Qua bài tiểu luận này, em muốn trình bày một cách khái quát về tiểu sử cũng như giới thiệu
các tác phẩm của nhà toán học Euclide. Trình bày tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là
“Eléments” và thông qua đó em muốn giới thiệu về các tiên đề, định đề, các định nghĩa của
Euclide một trong công trình nghiên cứu tiêu biểu nhất và có sức ảnh hưởng lớn đối với sự
phát triển của nền văn minh nhân loại.
Cũng qua đó, em đã hiểu hơn nhiều điều về đề tài mà mình nghiên cứu, đồng thời đây sẽ là
hành trang giá trị để trờ thành một giáo viên toán trong chặn đường phía trước.

48
49
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Đặng Văn Thuận, Lâm Quốc Anh (2004), Giáo trình Cơ sở hình học, Đại học Cần Thơ.
[2] Nguyễn Cang (1999), Lịch sử Toán học, Nhà xuất bản Trẻ.
[3] Euclide – Vũ Thái Hà và nhóm dịch (2016), Cơ sở của hình học, Tri thức.
[4] Trần Trung, Nguyễn Chiến Thắng, Lịch sử kiến thức toán học ở Trường phố thông, nhà
xuất bản giáo dục.

50

You might also like