You are on page 1of 9

VỘI VÀNG

Từ ngữ bình giảng


cảm niệm triết học
mai hậu
sống đã đầy
tự bạch, tự họa
phô bày tư tưởng
lập thuyết
cấu tứ
tự nhiên
nhuần nhị
thấm sắc đượm hương
xuân tình
mảnh vườn tình ái
sức sống thanh tân

Phân tích
Mở bài
Thơ, bao giờ cũng là sự phơi trải đến tột cùng, triệt để của tấm lòng người thi sĩ. Tâm hồn
của người thơ chưa bao giờ là một mặt hồ phẳng lặng êm ru. Là thi sĩ, nghĩa là anh phải đem
hết lòng mình trải lên giấy, là vật ngã chính mình ra trang thơ, phải để những xúc cảm trong
mình không ngừng sục sôi và khát khao được giao cảm với những nỗi lòng khác, những cuộc
đời khác. Chẳng thoát khỏi những lí lẽ ấy, hồn thơ Xuân Diệu cũng là một hồn thơ da diết
được tỏ bày. Những khát khao, nỗi niềm trong quan niệm sống về thời gian và tuổi trẻ ấy đã
được Xuân Diệu gói ghém, bộc bạch trong “Vội vàng”.
Động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái của Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Hoài Thanh đã
viết trong “Thi nhân Việt Nam”: “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội
vàng, cuống quýt.” Bởi vậy, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tựa đề “Vội vàng”,
hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự họa của Xuân Diệu, nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình. Cái
điệu sống vội vàng, cuống quýt ấy bắt nguồn sâu xa từ ý thức của nhà thơ về thời gian, về sự
ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là kết cục không thể tránh khỏi mai hậu. Nên sống
là phải tận hưởng và tận hiến. Sống hết mình, sống đã đầy, phải chớp lấy từng khoảnh khắc,
phải chạy đua với thời gian. Bài thơ này được viết từ cảm niệm triết học ấy.
Thi phẩm “Vội vàng” có thể được chia làm ba phần, với 9 câu đầu là một bức tranh
phác họa vẻ đẹp trần thế và tình yêu cuộc sống của Xuân Diệu, 16 câu sau thể hiện quan
niệm của thi nhân về tình yêu, tuổi trẻ, cuộc đời, và 10 câu cuối là những triết lí sống
mạnh mẽ, lời kêu gọi, khích lệ của nhà thơ với mọi người, sống và cống hiến một cách
trọn vẹn.
1. Mười một câu đầu lột tả rõ nhất niềm say đắm của nhà thơ trước cuộc sống tươi
đẹp nơi trần thế.
1.1. Ước muốn phi lí của niềm yêu
Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. Ấy là ước
muốn quay ngược quy luật tự nhiên – một ước muốn bất khả thi:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Điệp ngữ “tôi” muốn nhấn mạnh sự da diết ước muốn, cũng là cách tô đậm cái “tôi” chủ
quan, cái “tôi” ước muốn luôn xuất hiện trong văn học lãng mạn nói chung, trong thơ Xuân
Diệu nói riêng. Các động từ “tắt”, “buộc” với sắc thái tiêu cực khiến các ước muốn có vẻ như
phũ phàng; khi đặt trong hai cụm từ “tắt nắng”, “buộc gió” càng gợi lên sự phi lý, kì lạ đến
trái tự nhiên. Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió” thật là những ham muốn kì dị, chỉ có ở thi
sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được quy luật, làm sao có thể vĩnh viễn hóa được những thứ vốn
ngắn ngủi, mong manh ấy? Song, các phó từ “cho”, “đừng” lặp lại trong câu thơ 2 và 4 đã
bộc lộ sắc thái van nài, khẩn khoản thật tha thiết trong khát khao của Xuân Diệu: muốn “tắt
nắng” là để nắng đừng làm phai nhạt cái sắc màu của cỏ cây hoa lá, muốn “buộc gió” để giữ
cho hương đời không bị thổi bay. Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng
yêu bồng bột vô bờ với cái thể giới thắm sắc đượm hương này, khao khát nâng niu, gìn giữ
hương sắc cuộc đời, khao khát của một trái tim yêu đời mãnh liệy, được miêu tả thật tài hoa
trong 7 câu thơ tiếp sau đó.
1.2. Bức tranh cuộc sống tuyệt mĩ nơi trần thế
Hãy xem cách diễn tả vồ vập về một thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực
xuân tình:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Từ của ngay đầu đoạn thơ đã xác định mối quan hệ ngữ pháp gắn kết giữa hai đoạn thơ.
Tất cả những “sắc”, những “hương” tinh túy nhất mà nhà thơ muốn giữ gìn trong khổ trước
chính là những ong, những bướm, những lá, những hoa được nhắc đến ở khổ sau. Điệp ngữ
“này đây” lặp lại trong cả khổ thơ tạo ra một ngữ điệu liệt kê vừa bày tỏ niềm hân hoan sung
sướng của thi nhân, vừa thể hiện sự giàu có, thừa thãi, phong phú của hương sắc cuộc đời.
“Này đây” vừa là sự hiện hữu trước mắt trong không gian, vừa là khẳng định sự tồn tại ở
quãng thời gian hiện tại – vẻ đẹp cuộc đời đang hiện hữu ngay trước mắt, trong tầm tay, giữa
cuộc đời thực, trong khoảnh khắc của hiện tại.
Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên
đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi
nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân
tình. Cái thiên đường đầy sắc hương đó hiện diện trong “vội vàng” như một mảnh vườn tình
ái, vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như
một người tình đấy khêu gợi. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng. Ấy là hưởng
thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.
Hương sắc cuộc đời đã hiện lên hấp dẫn, sống động, gợi tình, tươi tắn trong những định ngữ
nghệ thuật đặc sắc. Trước hết, nó hiện ra trong “tuần tháng mật” của bướm ong. “Tuần tháng
mật” không chỉ là mật ngọt của thiên nhiên, hoa trái, nó còn gợi những liên tưởng ngọt ngào
đến khoảng thời gian nồng nàng, ngây ngất yêu thương, tuần trăng mật của tình yêu đôi lứa.
Sau đó là “hoa của đồng nội xanh rì”, là “lá của cành tơ phơ phất” – nếu tính từ “xanh rì” làm
hiện lên một không gian mênh mông của những cánh đồng xanh trên đó nổi bật hình ảnh
những cánh hoa tươi thắm thì trong câu thơ sau, sự kết hợp tài hoa giữ từ láy, phép láy vần
trong những âm tiết mang thanh bằng “cành tơ phơ phất” lai gợi tả những lá cành mơn mởn,
non tơ nhưng cũng thật mềm mại, mong manh, yếu đuối trong gió xuân, những hình ảnh
khiến ta vừa mê đắm vừa e ấp, nâng niu. Vẻ đẹp của cuộc đời được cảm nhận không chỉ bằng
thị giác mà còn hiện ra qua thính giác. Tiếng chim hót qua niềm yêu của thi nhân cũng không
chỉ là những âm thanh véo von, ríu rít mà còn là “khúc tình si” đắm đuối lòng người, ca vang
bởi “yến anh”, biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi. Hình ảnh ẩn dụ về “ánh sáng chớp hàng
mi” là một cách biểu hiện quen thuộc trong thơ Xuân Diệu, ông thường miêu tả ánh bình
minh của thiên nhiên theo dáng vẻ con người (“lá liễu dài như một nét mi…”). Dường như
sau cái chớp mắt duyên dáng của hàng mi thiếu nữ, ánh sáng tỏa ra muôn nơi, chan chứa
khắp thế gian. Ấy là ánh sáng của bình minh, của ngày mới khi “thần Vui gõ cửa” – tình yêu
đời, yêu người mãnh liệt đã đem đến niềm vui sống cho nhà thơ khi thức dậy mỗi ngày. Hình
ảnh ẩn dụ đã thể hiện tinh tế cảm giác hồi hộp, bồn chồn đón đợi của lòng người cùng sự gấp
gáp, hối thúc của cuộc đời bên ngoài, cảm giác của một con người yêu say đắm tới mức
không chịu để lỡ, dù chỉ một ngày, một khoảnh khắc của bình minh, của ngày mới.
Có lẽ trước Xuân Diệu, trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác “Tháng giêng ngon như
một cặp môi gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy
tháng giêng mơn mởn tơ non đầy một sức sống thanh tân kia sao mà quyến rũ – tháng giêng
mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng lại được của một người tình rạo rực, trinh
nguyên. Câu thơ ngắt nhịp 3/5 khiến trọng tâm rơi vào chữ “ngon” nhấn mạnh cảm giác
thưởng thức bằng vị giác. Phép ẩn dụ cảm giác đã khiến tháng giêng – một phạm trù thời gian
vốn vô hình, trừu tượng bỗng trở nên cụ thể trong sự tận hưởng say sưa của thi nhân lãng
mạn. Tháng giêng là hình ảnh hoán dụ cho mùa xuân, so sánh mùa xuân với “một cặp môi
gần” là suy nghĩ vô cùng táo bạo, tràn đầy nhục cảm; tính từ “gần” nhấn mạnh cảm giác kề
cận, chào mời thật cám dỗ. Tất cả đều như thể trong tầm tay.
Với những so sánh, nhân hóa, phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, những phép điệp tinh tế
trong cả âm sắc và từ vựng, những từ ngữ hình ảnh giàu sức biểu cảm, đoạn thơ đã vẽ nên
hình ảnh cuộc đời tràn đầy hương thơm, màu sắc, âm thanh, và niềm vui sống đầy quyến rũ.
Cuộc sống qua ánh mắt say đắm của thi nhân như đang lên hương lên mật, đang cựa quậy
sinh sôi, đang phô bày hương sắc. Đó là thiên đường ngay trên mặt đất, trong hiện tại, là bữa
tiệc trần gian ngay nơi đây chứ không phải một cõi xa xăm nào khác. Và đó chính là nguyên
nhân cho niềm yêu đời mê đắm của thi nhân.
2. Đoạn thơ 11 câu sau đó là đoạn thơ thể hiện rõ nhất quan niệm độc đáo và tích
cực của Xuân Diệu về thời gian và tuổi trẻ, làm gõ cội nguồn triết lí nhân sinh cùng
tuyên ngôn sống mới mẻ của thi nhân.
2.1. Cách cảm nhận về thời gian trong mối quan hệ với tuổi trẻ
Mở đầu đoạn 2 là một câu thơ của những cảm xúc gần như tương phản:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Nhịp 3/5 và dấu chấm giữa dòng như một nốt lặng đột ngột thể hiện trạng thái sững sờ,
hẫng hụt của nhà thơ khi bất chợp nhận ra những tương phản trớ trêu của cuộc sống. Nhà thơ
yêu đời vì cuộc đời quá đẹp đẽ, niềm yêu đời khiến nhà thơ sung sướng, nhưng cũng chính vì
niềm yêu ấy mà ông “vội vàng” bởi nỗi “hoài xuân”. Niềm sung sướng khi được hưởng thụ
những hương sắc của cuộc đời chưa trọn vẹn thì dòng thơ đã đứt lặng giữa chừng bởi nỗi lo
âu cuộc đời ngắn ngủi. Với nỗi ám ảnh của một người quá yêu đời, luôn sợ thiếu thời gian
cho tình yêu, Xuân Diệu “không chờ nắng hạ mới hoài xuân”, ông lo lắng nhớ nhung, tiếc
nuối ngay khi mùa xuân vẫn còn trong độ đã đầy của chính nó.
2 mảng thơ đầu kế tiếp nhau ở đoạn 1 đã được liên kết bằng cái lôgic luận lí ngầm của
nó. Thi sĩ muốn “tắt nắng”, “buộc gió” chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho một trần thế
đẹp đến vô thực. Hương sắc là cái sinh khí của nó, là vẻ đẹp, là nhan sắc của nó. Tất cả chỉ
rực rỡ trong độ xuân thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba của phần
luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của “xuân thì trong sự sống” và
cái “xuân thì của con người”. Cái thế giới này lộng lẫy nhất, “ngon” nhất là ở độ xuân; còn
con người cũng chỉ hưởng thụ được cái ngon kia khi còn trẻ. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca
Việt Nam có được quan niệm này:
Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Cấu trúc lặp lại được sử dụng với những điệp từ, điệp cú pháp trong kiểu câu định nghĩa
đã tăng thêm ấn tượng cho sự khẳng định còn những từ ngữ “tới” - “qua”, “non” – “già” lại
tạo nên những cặp phạm trù tương phản diễn tả sự trôi chảy. Câu trên là sự tiếc nuối khi cảm
nhận bước đi của thời gian; câu dưới là sự lo lắng cho cái phai tàn, héo úa, thâm chí chưa hề
hiện hữu trong không gian. Đến đây, mùa xuân không chỉ còn là một hoán dụ cho dòng thời
gian, mà đã thêm nét nghĩa ẩn dụ cho tuổi trẻ của mỗi con người. Mùa xuân là thời gian đẹp
nhất của thiên nhiên, tuổi trẻ là khoảnh khắc đẹp nhất của đời người. Nhưng mùa xuân của
đất trời thì tuần hoàn vĩnh viễn còn mùa xuân của đời người “chẳng hai lần thắm lại”, đó là
“xuân bất tái lai”.
Con người trung đại lấy sinh mệnh vũ trụ để đo đếm thời gian. Nên hình như họ yên trí
với quan niệm thời gian tuần hoàn, với cái chu kì 4 mùa xuân hạ thu đông, cũng như cái chu
kì ba vạn sáu nghìn ngày của kiếp người. Hết một vòng, thời gian lại quay về điểm xuất phát
ban đầu. Vậy nên họ không sợ tuổi già và cái chết, mà sống ung dung, thanh thản và tự tại.
Nhưng con người hiện đại lại lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian. Nên họ sống với
quan niệm thời gian tuyến tính. Thời gian như một dòng chảy vô thủy vô chung mà mỗi một
khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Không chỉ dùng sinh mệnh cá thể, Xuân Diệu còn đo đếm thời gian bằng cái quãng ngắn
ngủi nhất của sinh mệnh cá thể: tuổi trẻ. Tuổi trẻ đã một đi không trở lại thì làm chi có sự
tuần hoàn.
Với Xuân Diệu, trái tim yêu đời mãnh liệt không thể chấp nhận tuổi già, vì thế, thời gian
sống của ông nhất định phải gắn với tuổi trẻ, với mùa xuân. Nên thi nhân ngậm ngùi khi nhận
ra, “xuân hết” đồng nghĩa với “tôi cũng mất”. Sự đối lập giữa “lòng tôi rộng” và “lượng trời
cứ chật”, giữa “tuổi trẻ chẳng hai lần” và “xuân tuần hoàn”, giữa “chẳng còn tôi” và “còn trời
đất” như cho thấy nhà thơ oán trách, hờn dỗi quy luật nghiệt ngã của thời gian. Đây còn là
niềm khao khát được sống trong tuổi trẻ, và nỗi xót xa trước sự ngắn ngủi, hữu hạn của đời
người.
2.2. Cảm nhận về thời gian dẫn đến bâng khuâng, nuối tiếc trong không gian
Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người quá
ư ngắn ngủi hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi
ngậm ngùi thật mới mẻ:
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Không chỉ quan niệm, mà ngay cả cảm giác cũng hết sức mới lạ. Xuân Diệu đã đem đến
một cảm nhận đầy tính “lạ hóa” về thời gian và không gian:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nguyễn phép “tương giao” của lối thơ tượng trưng,
Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới,
trước hết là thời gian và không gian. Có những câu thơ mà cảm giác được liên tục chuyể qua
các kênh khác nhau. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: “Mùi tháng năm” – thời gian
của Xuân Diệu được làm bằng hương – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn “buộc gió lại” ư – hương
bay đi là thời gian trôi mất, là phai lạt phôi pha! Một chữ “rớm” cho thấy khứu giác đã
chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ “vị” ngay sau đó, lại cho
thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một thứ hoàn toàn phi vật chất: “vị chia
phôi”! Thì ra chữ “rớm” và chữ “vị” đều từ một hình ảnh ẩn hiện trong cả câu thơ là giọt lệ
chia phôi đó. Giọt lệ thường long lanh trên khóe mắt người trong giờ phút chia li. Giọt lệ
thành hiện thân, thành biểu tượng cho nỗi sầu li biệt. Vì sao thời gian lại mang hương vị -
hình thể của xa cách? Ấy là những cảm giác chân thực hay chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo
kịch bản của phép “tương giao”? Thực ra cái tinh tế của Xuân Diệu là ở chỗ này. Thi sĩ cảm
thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ thật sự là một
cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời khắc đều đang có một cuộc ra đi như thế, thời gian đang
chia tay với con người, chia tay với không gian và chia tay với cả chính thời gian. Tựa như
một phần của mỗi cá thể đang vĩnh viễn ra đi. Từng phần đời đang chia lìa với cá thể. Cho
nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than triền miên bất
tận. Không gian đang tiễn biệt thời gian! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho nhan sắc thiên
nhiên diệu kì này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không tài nào tránh khỏi! Hình ảnh
cuộc đời tràn đầy xuân sắc ở đoạn đầu đã bị thế chỗ bởi những chia phôi buồn thảm ở đoạn 2:
Cơn gió xinh thì thầm trong gió biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Đoạn thơ với kết cấu trùng điệp, giọng điệu gấp gáp đã thể hiện những quan niệm mới
mẻ của Xuân Diệu về thừi gian và tuổi trẻ, đưa ra những triết lí nhân sinh tích cực, mạnh mẽ
của một trái tim tha thiết yêu đời. Những quan niệm, triết lí cùng cách cảm nhận về thời gian,
tuổi trẻ ấy đã góp phần khẳng định giá trị cái tôi cá nhân của con người trong thời đại mới –
những con người không chấp nhận cách sống vô nghĩa, mờ nhạt trong quỹ thời gian hữu hạn
của đời mình.
3. Trong khổ cuối, Xuân Diệu đã thể hiện rõ nhất triết lí sống mạnh mẽ, tích cực của
mình qua niềm khát khao tận hưởng cuộc đời
Như vậy đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, không thể nắm giữ được thời gian,
thì chỉ còn một cách thực tế nhất, khả thi nhất, là chạy đua với thời gian, là tranh thủ sống
từng phút một. Đoạn thơ cuối đã đúc kết cả xúc cảm và giải pháp của nhà thơ khi thể hiện
tuyên ngôn sống của mình:
Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm
Điệp ngữ “chẳng bao giờ” khiến câu trên là một lời than tiếc nuối, tựa như tiếng nức nở,
nghẹn ngào vì nỗi một đi không trở lại của mùa xuân, vì sự chia phôi của thời gian với tuổi
trẻ, với mỗi khoảnh khắc quý giá không thể lấy lại trong cuộc đời. Ngay sau đó là một giải
pháp: “mau đi thôi”. Cấu trúc cầu khiến mang sắc thái giục giã, cuống quít rất quen thuộc của
Xuân Diệu đã chỉ ra cách để thi nhân tận hưởng cao nhất cuộc sống – đó là sống nhiệt tình,
sôi nổi say mê, sống hết mình với đời, với người, sống vội vàng, gấp gáp khi còn ở trong mùa
xuân, trong tuổi trẻ.
Đến đây, phần luận giải của tuyên ngôn “vội vàng” đã đủ đầy luận lí. Phần cuối của bài
thơ là lúc tuyên ngôn, triết lí sống ấy được hiện ra thành hành động, được khích lệ, giục giã.
Bài thơ kết thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, bằng những ham muốn mỗi lúc mỗi cuồng
nhiệt, vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có diễn tả
như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống trào cuộn của mình:
Ta muốn ôm:
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn;
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu;
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Dễ thấy, thi sĩ có dụng ý chọn cách xưng hô cho từng phần. Trên, xưng “tôi” – cái tôi cá
nhân, bộc lộ ý kiến chủ quan của một cá nhân đơn lẻ - nay đã chuyển thành đại từ “ta” như
thể hiện những tuyên bố lớn lao, mạnh mẽ của con người khi đối diện với cuộc sống. Và nếu
phải chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi, bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ
nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của
con tim Xuân Diệu trong từng lời thơ. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo
nhau, giao thoa, song song, thành những đợt sóng vỗ mãi vào tâm hồn người đọc. Câu thơ
“Ta muốn ôm” chỉ có 3 chữ, lại được đặt ở vị trí đặc biệt: chính giữa hàng thơ, là hoàn toàn
mang dụng ý. Xuân Diệu muốn tạo ra hình ảnh một cái tôi đầy khao khát, đang đứng giữa
trần gian, dang rộng vòng tay để ôm cho hết, cho khắp, gom cho nhiều nữa, nhiều nữa, mọi
cảnh sắc mơn mởn của trần thế vào lòng ham muốn vô biên của nó. Tư thế lớn lao và tâm thế
ham muốn ấy đã xác định hình tượng chủ thể trữ tình và cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ và
cả bài thơ, đó là cái tôi ham sống, ham hưởng thụ và mơ ước được hưởng thụ triệt để.
Nhà thơ bày ra trước mắt một bức tranh đời tuyệt diệu. Trong bức tranh ấy, cảnh vật
phong phú, đa dạng khi biến ảo vô hình như mây và gió, khi hữu hình, tươi tắn như cây cỏ,
khi mênh mang như non nước, khi xinh xắn như bướm hoa… Tất cả đều tràn đầy hương
thơm và ánh sáng để làm nên xuân hồng đầy thanh sắc. Chúng vừa như trong tầm tay, lại xa
vời tầm với, khiến thi sĩ vừa như có thể, vừa như không có khả năng, cảm giác ấy khiến
người ta càng thêm ham hố, cuống quít, cả hữu hạn lẫn vô biên, khát thèm tận hưởng. Nghệ
thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã khiến sự sống vốn trừu tượng đã hiện ra “mơn mởn”, non
tơ như một cây đời tràn đầy nhựa sống, và sự sống vốn vô biên, vô hạn như được thu vào
vòng tay ôm của nhà thơ. Cũng như thế, mây và gió vốn là những ảo thể, vô thể, biến đổi linh
diệu và luôn vụt thoát khỏi tầm tay, ánh mắt con người, nay trở nên hữu hình, cụ thể và thật
gợi cảm, tình tứ trong hình ảnh “mây đưa”, gió lượn”.
Cái điệp ngữ “ta muốn” được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng,
nhất là mỗi lần điệp lại liền đi với một động thái nồng nàn: “ôm” – “riết” – “say” – “thâu” –
“cắn”. Có thể nói, câu thơ “Và non nước, và cây, và cỏ rạng” là không thể có đối với thi pháp
trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với người xưa, đó sẽ là một câu thơ
vụng. Vậy mà, đó lại là một sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ “và” hiện
diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm
nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái
tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lồng ngực yêu đời của thi sĩ!
Câu thơ:
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ “cho” điệp lại với nhịp độ tăng tiến,
nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thỏa thuê được miêu tả bằng từ láy: “chếnh choáng” –
“đã đầy” – “no nê”. Sóng cứ càng lúc càng trào dâng, cao hơn, vỗ mạnh hơn, đẩy cảm xúc lên
tột đỉnh:
- Hởi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhụy đã no nê đang lảo đảo bay đi, lại thấy thi sĩ
như một tình lang chếnh choáng trong cuộc tình với men say và nhục cảm. Đó là cách Xuân
Diệu yêu thiết tha, và đắm mình trong mùa xuân của nhà thơ. Một tình yêu tràn đầy khát khao
và cuồng nhiệt.
Đoạn thơ toàn bộ là nỗi khát khao chiếm lĩnh và tận hưởng cuộc sống đã dậy lên từ đáy
lòng của một con người yêu đời da diết như Xuân Diệu. Để vượt qua giới hạn của thời gian,
nhà thơ đã phải vội vàng. Đó là sự vội vàng có ý thức, có hiểu biết và mang tính tích cực.
Kết bài
“Vội vàng” của Xuân Diệu không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn mãn nhãn về cả nghệ
thuật. Thông qua những phép điệp tạo âm hưởng thơ dồn dập, phấn khích, những ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác quá đỗi tài hoa, những hình tượng ngôn từ chứa chan cảm xúc, qua
mạch thơ chính luận – trữ tình vừa đắm say vừa chặt chẽ, nhà thơ đã thể hiện những xúc cả,
và suy ngẫm mới mẻ, thuyết phục về triết lí sống chưa từng có: triết lí sống vội vàng – một
triết lí sống tích cực, mạnh mẽ, bộc lộ rõ nhất không chỉ niềm yêu cuộc sống mà còn là ý thức
sâu sắc về giá trị sự sống mỗi cá nhân trong cuộc đời. Cũng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh
từng viết về Xuân Diệu: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng
nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa từng
thấy trong thơ ca truyền thống.”

You might also like