You are on page 1of 48

TÀI LIỆU TẶNG HỌC VĂN CHỊ HIÊN

1. Tây Tiến (Quang Dũng)


Đề bài: Cảm nhận của về khung cảnh thiên nhiên và hình ảnh người lính Tây
Tiến trong 14 câu thơ đầu bài thơ “Tây Tiến” - Quang Dũng.
Bài làm
Có một người nghệ sĩ đã từng viết trong tác phẩm của mình:
“Có khoảng không gian nào, đo chiều dài nỗi nhớ
Có khoảng mênh mông nào, sâu thẳm hơn tình thương”
Thơ ca Việt Nam hiện đại có cả một khoảng trời dành cho nỗi nhớ thương. Đó là nỗi
nhớ thương Hoàng Cầm gửi lại mảnh đất của mình qua bài thơ “Bên kia sông
Đuống”, là nỗi nhớ thương của những kẻ đi xa qua bài thơ “Bếp lửa” – Bằng Việt,
đôi khi cũng là nỗi nhớ thương tình yêu mà người bên ấy chỉ dám gửi cho người bên
này qua “hương bưởi” trong bài thơ “Hương thầm” – Phan Thị Thanh Nhàn. Trước
những rung cảm của con tim, người nghệ sĩ dùng ngòi bút để trải lòng, viết về nỗi
nhớ niềm thương nhiều như vậy. Quang Dũng – người nghệ sĩ đa tài cũng không
ngoại lệ khi đặt để những tình cảm của mình nơi những người đồng chí, đồng đội
qua bài thơ “Tây Tiến”. Nổi bật trong bài thơ này là mười bốn câu thơ đầu tiên diễn
tả khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, trữ tình cùng hình ảnh người lính Tây Tiến dũng
cảm, hào hùng nhưng cũng vô cùng lạc quan, dí dỏm và yêu đời.
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Quang Dũng ghi dấu ấn của mình với
hình ảnh của một người nghệ sĩ đa tài. Bên cạnh việc làm thơ, ông còn mang trong
mình những tài năng khác như viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,…Thế nhưng xét ở mọi
phương diện, điều mang người nghệ sĩ này đến gần nhất với người yêu mến mình
đó chính là những thi phẩm hay. Thơ của Quang Dũng bất cứ khi nào cũng vậy, luôn
lột tả một chất thơ: hồn hậu, lãng mạn, phóng khoáng, tài hoa – Phong cách nghệ
thuật rất riêng của một chàng trai Hà Nội khoác áo lính lên đường. “Tây Tiến” là thi
phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của Quang Dũng, được ông viết vào
năm 1948 khi đang tham gia Đại hội thi đua ở làng Phù Lưu Chanh. Những ký ức
quay trở lại lung linh. Vào năm 1947, Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến và
từng giữ chức vụ đại đội trưởng. Sau đó không lâu, ông điều chuyển sang đơn vị
khác. Khi những niềm thương nỗi nhớ rủ nhau về bầu bạn, Quang Dũng không thể
ngăn nổi lòng mình mà viết lên bài thơ này – Bài thơ được coi là khúc độc hành của
nỗi nhớ thương.
Lật giở lại từng trang thơ thấm đẫm những kỷ niệm của một đời chiến binh,
ta chợt nhận ra, “Tây Tiến” được bắt đầu bằng một tiếng gọi đầy thiết tha, trìu mến
như thế:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”
Cả bài thơ không một dấu chấm câu, nỗi nhớ tràn từ câu thơ này sang câu thơ khác,
bắt nhịp từ tứ thơ này sang tứ thơ khác. Nỗi nhớ tích tụ, dồn nén, bật lên thành tiếng
gọi thiết tha “Tây Tiến ơi!” – Đó cũng chính là cách mà Quang Dũng mở đầu bài
thơ của mình. Cảm xúc hiện hình trong nỗi nhớ “chơi vơi”.Đó vừa là trạng thái của
nỗi nhớ vừa là trạng thái của cảnh vật được nhớ. Cả chủ thể và đối tượng dường như
đã trộn lẫn vào nhau mà đồng hiện trong nỗi nhớ “chơi vơi” ấy. Nỗi nhớ trở thành
cội nguồn cảm hứng sáng tạo và làm nên cấu trúc của thi phẩm. Mạch bài thơ là
mạch nhớ, là sự đan dệt của kỉ niệm, với những sực nhớ miên man, những vụt hiện
bất chợt... Cũng từ đây nỗi nhớ dậy lên làm một nguồn sinh khí, nó soi tràn đến đâu
muôn vàn hình sắc trong kí ức tươi tắn, sống dậy đến đó. Nhờ nỗi nhớ mà những
hình ảnh của những ngày qua cồn cào sống dậy. Chính nỗi nhớ “chơi vơi” đã dẫn
ngòi bút tác giả đi miên man trong thế giới thơ. Tất cả kỉ niệm về quãng thời gian
không thể nào quên với đồng đội chiến đấu trên vùng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở mà
cũng rất thơ mộng ấy bỗng trở thành tiếng gọi hối thúc, cất lên thành tiếng thơ, tiếng
lòng của người chiến sĩ, thành âm vang của cả thời đại, của cả dân tộc trong những
năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh dòng sông Mã gắn với bao
tháng ngày gian khổ, con sông mang âm điệu của núi rừng, của địa bàn hoạt động
gắn với một đời chiến binh nay cũng đã xa rồi, binh đoàn Tây Tiến cũng đã xa rồi,
tất cả chỉ còn lại trong hồi ức mà thôi. Có thể thấy từ “xa rồi” cũng chính là điểm rơi
thấp nhất của câu thơ này, nó giống như một khoảng hụt hẫng khi những kỷ niệm
chỉ giống như những thước phim trôi qua để lại biết bao nhiêu cảm xúc đong đầy.
Nỗi nhớ đầu tiên được nhắc tới chính là nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc, về
địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến. Giữa khoảng không gian nhớ thương quá
rộng lớn, mênh mang, da diết, cồn cào, tâm trí của nhà thơ không biết đặt để vào đâu
cho phải, thế nên mới tạo ra một cách dùng từ thật lạ: “nhớ chơi vơi”. Chỉ với hai
câu thơ đầu tiên, những ký ức gắn với binh đoàn đã từ từ hiện ra lung linh huyền
diệu, trong chuyến độc hành quay về với những ký ức, nhà thơ Quang Dũng thêm
một lần đi lại những con đường đã qua.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Từ hai câu thơ khơi nguồn đầy thiết tha trìu mến ấy, mạch chảy dòng tâm sự hoài
niệm của nhà thơ mở ra lan tỏa như mỗi chuỗi kỉ niệm giờ đây thức dậy, lay động
và xôn xao trong lòng. Hai địa danh Sài Khao, Mường Lát vốn dĩ là những mốc
không gian địa lý in đẫm kỷ niệm của một thời chiến binh nay trở thành mốc thời
gian lịch sử giúp người chiến sĩ năm nao nhớ lại những kỷ niệm trong bao chặng
được hành quân vất vả. Và ở câu thơ tiếp theo này, hình ảnh “đoàn quân mỏi” giữa
Sài Khao sương lấp đập mạnh gây ấn tượng. Sự chân thực sinh động của hình ảnh
thơ khiến ta như hình dung Thấy tư thế, dáng vẻ của đoàn quân trong gian lao, cơ
cực của những ngày phải đương đầu với trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn.
Chân thực song cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân mỏi lại được miêu tả trong
một khung cảnh đẹp huyền ảo của thiên nhiên. Những tiếng sương lấp, hoa về, đêm
hơi khiến cho toàn bộ cảnh thực chợt nhòa đi, gây được ấn tượng nhiều chiều trung,
tâm trí người đọc. Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” nhanh chóng kéo bạn đọc trở về
với sự cân bằng. Không gian được liên tưởng tới là địa danh Mường Lát trong những
cuộc hành quân đẫm sương đêm, hoa nở giữa rừng thơm ngát, khiến những bước
chân giữa đêm khuya tưởng nặng nề những nay lại được tiếp thêm sức mạnh. Cũng
với hình ảnh đoàn quân cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Tô
Hữu lại mở ra một trường liên tưởng khác:

“Những đường Việt Bắc của ta,


Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
Thiên nhiên như cùng hát lên, cùng âm điệu với khúc quân hành của người lính ra
trận. Còn trong thơ Quang Dũng, bối cảnh thiên nhiên hiện ra trong kí ức và tâm
trạng là những hình ảnh sóng đôi của sự trái ngược:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
Đây là đoạn thơ mang dáng dấp của một bài thơ tứ tuyệt, đặc tả bước hành quân gian
lao của người lính vệ quốc mở ra trong không gian nhiều chiều. Thiên nhiên Tây
Bắc hiểm trở, gập ghềnh cũng được vẽ ra một cách chân thực ở đoạn thơ này. Ta
như nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chiến gian lao của người lính
qua câu thơ đầy những vần trắc: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm". Những con
dốc là hình ảnh đầu tiên được đề cập tới. Những con dốc được miêu tả bằng từ láy
tượng hình “khúc khuỷu, thăm thẳm” khiến người đọc dễ dàng liên tưởng tới địa
hình gấp gãy. Từ dốc này đến dốc khác, liên tiếp nối nhau, con đường hành quân
phía trước vừa khó đi, vừa nguy hiểm. Chưa dừng lại ở đó, câu thơ thứ hai miêu tả
độ cao của những ngọn núi nơi đây.
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Hình ảnh những người lính trên chặng đường hành quân với những khoảnh khắc tinh
nghịch, dí dỏm, đậm chất lính. Đường hành quân dài thăm thẳm muôn trùng, có
khoảnh khắc đi lên cao tới mức tưởng như đang đi giữa biển mây. Đây cũng là
nguyên cớ có hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời”. Cảm giác của người đọc liên tưởng
tới khung cảnh đầu mũi súng chạm vào mây, người lính tinh nghịch dí dỏm liên
tưởng tới hình ảnh súng đang chạm tới trời. Chi tiết này càng thể hiện sự hào hoa,
lãng mạn trong chất thơ của Quang Dũng. Nó rất giống với liên tưởng trong thơ của
Chính Hữu:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
(“Đồng chí”)

Cảnh vừa khắc nghiệt, gian khổ, đan xen nét tinh nghịch của anh bộ đội cụ Hồ chính
là điểm nhấn cho đoạn thơ này. Chưa dừng lại ở đó, cảnh thiên nhiên Tây Bắc còn
được tái hiện trong câu thơ tiếp theo:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Biết bao nhiêu gian lao thử thách, vừa như muốn quật ngã người lính cách mạng, lại
vừa như kích thích họ đi tới, dẫn tới của sự chinh phục. Cảnh rừng núi hiểm trở với
dốc lên khúc khuỷu, với hun hút cồn mây, với độ cao thấp đến choáng ngợp của
"ngàn thước lên cao ngàn thước xuống", khiến người đọc dường như đang chơi một
trò bập bênh chóng mặt. Núi cao thì cao vời vợi, vực sâu thì sâu thăm thẳm. Câu thơ
mang dáng dấp của hai vế tiểu đối sử dụng các cặp từ đối lập để đặc tả địa thế hiểm
trở của núi rừng nơi đây. Thế nhưng sau tất cả những gian khổ đe dọa bởi địa hình
hiểm trở, người ta vẫn nhìn thấy sự sống của con người khi dừng lại ngắm nhìn
những nếp nhà Pha Luông:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Những nếp nhà Pha Luông nằm giữa biển mưa bụi, mưa nhẹ nhàng, êm đềm. Những
chiến sĩ Tây Tiến dừng chân nơi đèo cao, ngắm nhìn khoảnh khắc bình yên hiếm hoi
sau những chặng đường hành quân vất vả. Tôi tự hỏi lòng mình, trong giây phút
được lắng lại nhiều phần tâm hồn như vậy, người chiến binh Tây Tiến liệu có đang
nhớ về quê hương của mình hay không?
Hoài niệm về đoàn binh Tây Tiến còn có hình ảnh người lính dẫn chặng đường
hành quân vất vả bởi núi cao, vực sâu, mưa sa, sương phủ, không ít người trong số
họ đã gục ngã, Quang Dũng không hề giấu giếm hiện thực đau thương ấy, nhà thơ
tái hiện lại trong những vần thơ của mình:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Nhà thơ nói về "anh bạn" là nói về những đồng chí, đồng đội của mình, ngày nối
ngày, đêm nối đêm, mưa nắng đói rét bệnh tật thiếu thốn mệt mỏi tới mức kiệt sức.
Từ "gục" có phần nặng nề nhưng bị xóa nhòa đi và được cân bằng trở lại, bằng hình
ảnh "bỏ quên đời". Cái chết với người lính Tây Tiến rất đỗi nhẹ nhàng và thanh thản.
Kết cấu đối sánh đan xen giữa thiên nhiên và con người tạo nên một sự đối chiếu
thầm lặng để rồi từ đó tôn vinh sức mạnh của con người, dù con người có nhỏ bé
trước thiên nhiên hiểm trở và dữ dội, hiểm nguy đe dọa họ từ mọi phía, mọi nơi

Giữa những gập ghềnh, gấp gãy nơi rừng thiêng nước độc, người lính còn bị
đe dọa bởi thác dữ, thú rừng:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”
“Chiều chiều” và “đêm đêm” diễn tả khoảng thời gian tuần hoàn, lặp đi lặp lại. Điều
này chứng tỏ thác dữ, thú rừng không phải xuất hiện ngày một ngày hai, mà lặp đi
lặp lại ngày nào cũng như vậy. Sự đe dọa dường như bủa vây từ mọi phía, người lính
trong hoàn cảnh phải chống chọi với thiên nhiên núi rừng khắc nghiệt. Thế nhưng,
giữa nơi rừng thiêng nước qua con mắt hào hoa lãng mạn của chiến binh Tây Tiến
một thời người ta vẫn nhìn thấy được những khung cảnh bình yên, nỗi nhớ chợt ùa
về Mai Châu xinh đẹp:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hình ảnh gắn với tình quân dân chợt hiện về, đó là khoảnh khắc những bữa ăn của
đồng bào chuẩn bị cho cán bộ cách mạng, để rồi sau bao tháng ngày nhớ lại, vẫn
thấy vương vấn đâu đây nếp nhà cơm lên khói, những bữa cơm tỏa thơm nếp xôi.
Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” Chế Lan Viên từng viết:
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn nhớ tỏa mùi hương.”
Trong những vần thơ này, Quang Dũng đã lựa chọn một địa danh có tên nghe thật
mềm mại, êm ái, gợi ra sự bình yên “Mai Châu” nếu như không lựa chọn địa danh
này mà thay nó bằng “Lai Châu” có lẽ sự duyên dáng của câu thơ sẽ vơi đi vài phần.
Đặc biệt lưu ý, ở trong câu thơ cuối có một danh từ nghe rất lạ, đó là “mùa em”. Đất
trời có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông nhưng trong những vần thơ của nhà thơ Quang
Dũng lại có một mùa thật lạ đó là mùa em. Mùa em là mùa con ong đi lấy mật, mùa
con voi xuống sông uống nước, mùa em đi phát rẫy làm nương, mùa ta gặp nhau
mùa trao yêu thương mùa vương luyến nhớ để xa rồi sẽ mãi mãi không quên. Mùa
em ở đây cũng chính là mùa của sự đủ đầy.
Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại
thêm bút pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà
hài hoà bổ sung cho nhau, Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh người lính Tây
Tiến, rừng núi Tây Tiến trong nỗi nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến. Những chuỗi kỉ
niệm về thiên nhiên và con người đó như những thước phim vừa chân thực sinh động
vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa đã góp phần tạo nên thành công cả về nội dung
và nghệ thuật của đoạn trích. Cái hay của nhà thơ này là bên cạnh những nét đậm tô
hiện thực, Quang Dũng vẫn bộc lộ rõ những góc nhìn đầy lãng mạn của một chàng
trai Hà Nội. Có người nhận định rằng với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng
nên bức tượng đài bằng thơ về hình tượng người lính đánh Pháp trong cuộc kháng
chiến mà dũng cảm và cũng đầy chất thơ của nhân dân ta.
Đọc đoạn thơ, ta hiểu thêm về người lính Tây Tiến, hiểu thêm những điều ẩn
phía sau của “đoàn binh không mọc tóc” và hiểu hơn về nguồn cội của sức mạnh mà
người lính đem vào trận chiến. Yêu quý, khâm phục, tự hào là những dư vang tha
thiết trong lòng người đọc khi biết về binh đoàn Tây Tiến qua vần thơ của Quang
Dũng. Xin được mượn lời thơ của Giang Nam để thay lời kết cho bài viết này, có lẽ
Giang Nam đã nói giúp tấm lòng của biết bao người yêu mến nhà thơ Quang Dũng
và bài thơ “Tây Tiến”:
“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”
2. Việt Bắc (Tố Hữu)
Đề bài: Trình bày cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:

- Mình về mình có nhớ ta


Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

- Tiếng ai tha thiết bên cồn


Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
(Trích “Việt Bắc”, Tố Hữu)
Qua đó, hãy bình luận về sự hài hòa giữa chất chính trị và chất trữ tình trong
thơ Tố Hữu.

Bài làm

Có một người nghệ sĩ đã từng tâm sự trong thi phẩm của mình:

“Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ

Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều

Phần cho thơ và phần để em yêu…”

Cũng là thi sĩ ấy, khi sắp phải lìa xa với cuộc đời, đã cất tiếng thơ sâu lắng:

“Tạm biệt đời ta yêu quý nhất

Còn mấy dòng thơ, một nắm tro

Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất

Sống là cho. Chết cũng là cho.”

Hào sảng là vậy nhưng cũng nặng nghĩa nặng tình là vậy, đó không ai khác ngoài
người nghệ sĩ, người chiến sĩ cách mạng Tố Hữu. Cứ như thế, bao trang thơ hay
cũng chính là trang sử vẻ vang, trang cách mạng hào hùng mà Tố Hữu chấp bút đã
đi vào lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Tiêu biểu trong số đó không thể không kể đến
“Việt Bắc”, thi phẩm ra đời nhân một sự kiện lịch sử trọng đại, là kết tinh của phong
cách thơ trữ tình - chính trị, là thứ văn chương cách mạng “chí nghĩa chí tình, cái
văn chương nên thơ nên nhạc…” (Xuân Diệu). Thi phẩm đã ghi dấu ấn trong lòng
bạn đọc ngay từ những câu thơ đầu tiên mà qua đó sự hài hòa giữa chất chính trị và
chất trữ tình được thể hiện sâu sắc:

“- Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

- Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Những câu thơ thiết tha, bồi hồi được chấp bút bởi người nghệ sĩ, người chiến
sĩ cách mạng Tố Hữu. Ông là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách
mạng Việt Nam. Chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật
những chặng đường cách mạng đầy gian khổ, hy sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi
vinh quang của dân tộc, đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong quan
điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ. Xuân Diệu từng nhận xét
rằng: “...Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình rất đỗi trữ tình...” Minh chứng
cho điều này phải kể đến bài thơ ‘‘Việt Bắc’’ trong tập thơ cùng tên. Tác phẩm được
hoàn thành khi Hiệp định Giơ-ne-vơ về Bán đảo Đông Dương được ký kết (tháng 7
năm 1954). Hòa bình trở lại, tháng 10 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cơ
quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc
trở về Hà Nội. Trong không khí lịch sử ấy và tâm trạng khi chia tay với Việt Bắc,
Tố Hữu đã chắp bút viết nên thi phẩm này. “Việt Bắc” như một khúc hùng ca và
cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.
Là nhà cách mạng, nhưng Tố Hữu lại hiện lên trong mắt bạn đọc giống như
một nhà thơ “kể chuyện”, một nghệ sĩ chuyên viết “tình ca”. Tình cảm gắn bó với
đồng bào Việt Bắc trong những năm tháng sinh hoạt và chiến đấu tại đây đã trở thành
niềm trăn trở trong Tố Hữu. Có lẽ cũng bởi vậy mà giây phút chia ly giữa người đi
kẻ ở đã được tái hiện vô cùng chân thực và sinh động:

“- Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.”

Mở đầu bài thơ là lời của người ở lại – đồng bào Việt Bắc. Trước khoảnh khắc chia
tay đầy lưu luyến với cán bộ Cách mạng, đồng bào đã không thể kìm nổi lòng mình
mà cất thành tiếng tỏ bày. Câu hỏi được đặt ra một cách trực tiếp về tình cảm của
cán bộ cách mạng: “Khi về đến thủ đô Hà Nội rồi, liệu có còn nhớ đến chúng tôi hay
không?”. Chữ “về” nghe sao mà tha thiết, bâng khuâng đến thế. Điểm rơi thấp nhất
của câu thơ khiến người đọc dễ dàng nhìn ra một khoảng hụt hẫng trong tâm hồn
giữa buổi chia tay đầy bịn rịn. Đọc một bài thơ viết về tháng năm cách mạng, vậy
mà cách xưng hô nhà thơ này sử dụng lại là “mình – ta” – cách xưng hô thắm thiết
yêu thương gợi nhớ những khúc hát tình nghĩa trong ca dao dân ca. Nhắc đến “mình
- ta” là nhớ tới:

“Mình về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”

Là không thể quên:

“Mình về ta chẳng cho về

Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ

Câu thơ ba chữ rành rành

Chữ trung, chữ hiếu, chữ tình

Chữ trung thì để phần cha

Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình”


Với cách xưng hô “ta” – “mình”, dường như Tố Hữu đã đem tất cả kí ức yêu thương
tình nghĩa để phổ vào cuộc chia tay Việt Bắc giữa đồng bào kháng chiến với đồng
bào chiến khu. Cuộc chia tay lớn mang ý nghĩa lịch sử trọng đại bỗng ùa về trong
dáng dấp của cuộc biệt li giữa những đôi lứa yêu nhau. Bao ân tình cách mạng đã
hóa thành hàng loạt lời hỏi tha thiết vừa để dò hỏi, vừa để tỏ bày nỗi nhớ niềm thương
đang đong đầy cõi lòng. Đây cũng là thời điểm phù hợp để người ở lại nhắc nhớ về
khoảng thời gian mười lăm năm. "Mười lăm năm", nghe vừa xa xôi, vừa gần gũi. Tố
Hữu đã rất tinh tế khi sử dụng chữ “ấy” để cá nhân hóa khoảng thời gian này. Đây
là khoảng thời gian đã chứng kiến biết bao kỷ niệm trong chiến đấu, trong sinh hoạt
của cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Và đặc biệt thay, đó cũng là mốc thời
gian nhắc nhớ về cội nguồn cách mạng. Cách sử dụng từ ngữ của Tố Hữu thật đặc
biệt, nói về tình cảm của những người cán bộ cách mạng với đồng bào Việt Bắc mà
lại sử dụng tính từ: “thiết tha, mặn nồng.” Đây vốn là những từ ngữ thường sử dụng
cho tình cảm của đôi lứa, uyên ương. Vậy mới thấy được chất trữ tình nồng đượm
trong tứ thơ của nhà thơ cách mạng Tố Hữu. Chế Lan Viên – người bạn thơ đồng
thời đã từng đưa ra nhận xét về thơ Tố Hữu như sau: “Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi
vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ
dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình
giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng
ý”. Đọc “Việt Bắc” chúng ta càng thêm thấm thía nhận định này. Chưa dừng lại ở
đó, người ở lại tiếp tục tỏ bày:

“Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.”

Vẫn là câu hỏi tu từ nhắc nhớ người đi về tình cảm của người ở lại. Lời ướm hỏi
nhắc người đi về nỗi nhớ thiên nhiên và con người nơi đây. Về với Hà Nội của đèn
đường, phố thị, những cảnh sắc thiên nhiên của Việt Bắc nơi đây có khiến người
quên đi hay không. Từ “nhìn” được điệp lại hai lần mang theo lời nhắn nhủ thiết tha,
“nhìn cây” – “nhớ núi” – nhớ về thiên nhiên Việt Bắc đẹp tươi, “nhìn sông – nhớ
nguồn”- nhớ về cội nguồn của tình nghĩa, cội nguồn Cách mạng. Giống với Tố Hữu,
nhà thơ Chế Lan Viên cũng đã từng gửi gắm tình cảm của mình, nói hộ biết bao trái
tim về những cung bậc trước khi chia xa:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở


Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

Việt Bắc bây giờ đã trở thành một phần ký ức không thể nào quên với cán bộ cách
mạng. Càng nhìn lại càng thấy nhớ, thấy thương. Điều này còn được thể hiện rõ hơn
qua lời tâm sự của Tố Hữu: “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi,
máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi.”

Nếu như bốn câu thơ đầu cho ta thấy tình cảm thiết tha, trìu mến của người ở
lại dành cho người ra đi thì ở bốn câu thơ tiếp theo chính là lời đáp trả của người ra
đi. Đối với người ra đi, cảm xúc chủ đạo bây giờ là xuyến xao, bồi hồi, bâng khuâng
khó tả:

“- Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

“Tiếng ai”, là tiếng của ai thiết tha khiến cho lòng ai bâng khuâng, bồn chồn không
nỡ cất bước ra đi? Những vần thơ bịn rịn khiến người đọc cũng thấy xao xuyến theo.
Mặc dù tác giả đã bỏ ngỏ phần chủ ngữ nhưng đọc câu thơ, ta vẫn hiểu được ai là
người rối bời bao cảm xúc trong tâm trí. Có lẽ trong giây phút ấy, kẻ ở người đi chỉ
có thể “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”. Dấu ba chấm bị bỏ lửng thay cho bao
điều muốn nói. Xúc động và nghẹn ngào, hẳn là trong giây phút này có không ít
người đang rưng rưng nước mắt. Lúc gian khó ở bên nhau, giờ hòa bình độc lập lại
phải xa nhau. Tình nghĩa sắt son, mặn nồng nhưng cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến lúc
phải chia ly. Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” chính là những người dân miền núi, Tố
Hữu đã khéo léo tận dụng hình ảnh hoán dụ này càng thể hiện sự gần gũi, giản dị
giữa quân và dân miền núi. Họ không cùng một quê hương, nhưng chung một đất
nước, có thể lý tưởng sống của mỗi người cũng khác nhau nhưng một khi đã gặp
nhau trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng, trong lòng họ không ai bảo ai đều chung
một niềm tin chiến đấu, chiến đấu đến cùng đập tan quân giặc.

Màu chàm sắc áo là màu của bền bỉ, của tình nghĩa, sự nồng hậu, thủy chung
từ con người Việt Bắc. Tác giả sử dụng hình ảnh hoán dụ "áo chàm" để chỉ người
dân Việt Bắc và bởi vậy nói "áo chàm đưa buổi phân li" là nói về cuộc chia tay đầy
lưu luyến giữa người Việt Bắc với người cách mạng. Mượn hình ảnh "áo chàm"
dường như tác giả muốn nói đến tình cảm thủy chung sắt son khó phai mờ của người
dân Việt Bắc với người chiến sĩ cách mạng. Và ấn tượng đậm nét nhất với người ra
đi chính là hành động "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...". Trước tiên là hành động
"cầm tay nhau" là hành động quen thuộc và rất đẹp của những ai khi chia li, nó thể
hiện tình cảm gắn bó thân thiết và đồng thời thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ ở người
đi. Họ cầm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào, vì thế không nói lên lời. Trong
giây phút chia ly đầy lưu luyến, người đi người ở bao nhiêu mối vương bận tơ lòng
chưa thể ngỏ cùng nhau, chỉ một ánh mắt trao đi là đủ. Dấu ba chấm xuất hiện cuối
dòng thơ như nốt lặng không lời, nhưng chính nó lại quý giá hơn rất nhiều những lời
nói thường ngày bởi cái cầm tay đã nói lên tất cả những lưu luyến, bịn rịn. Câu thơ
kết lại đoạn thơ có nhịp thơ thay đổi khác thường. Sự thay đổi của nhịp thơ không
chỉ tạo nên sự ngập ngừng cho giọng điệu của câu thơ mà còn tạo nên cái ngập ngừng
của tình cảm. Và đồng thời sự khác lạ trong nhịp thơ ấy đã diễn tả sự khác lạ trong
diễn biến tình cảm của kẻ ở người đi.

“Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”, đó là những
gì Xuân Diệu nhận xét về thơ ca của người chiến sĩ, thi sĩ này. Và qua tám dòng thơ
đầu của “Việt Bắc”, ta đã thấy được sự hài hòa giữa chất chính trị và chất trữ tình
ấy. Đoạn thơ đã đề cập đến một sự kiện lịch sử có ý nghĩa lớn với cả dân tộc: Trung
ương Đảng và chính phủ rời căn cứ địa Việt Bắc để trở về Hà Nội sau chiến thắng
Điện Biên Phủ năm 1954. Cuộc chia tay giữa “mình” và “ta” trong đoạn thơ thực
chất là cuộc chia tay giữa đồng bào Việt Bắc với người cán bộ kháng chiến, góp
phần thể hiện mối quan hệ gắn bó sâu sắc giữa cách mạng với quần chúng nhân dân.
Đây là một tình cảm lớn lao, mang tính chính trị, nó khác với những tình cảm riêng
tư, cá nhân. Cảm hứng chủ yếu của đoạn thơ là cảm hứng ân tình cách mạng, niềm
biết ơn sâu sắc với Đảng, Bác Hồ, với căn cứ địa Việt Bắc. Không chỉ vậy, kỉ niệm
được nhắc đến là kỉ niệm về một thời cách mạng, một vùng cách mạng mà “mình”
và “ta” đã cùng nhau trải qua “mười lăm năm ấy”... Tất cả đó đem đến chất chính trị
rất đỗi cao cả cho đoạn thơ. Nhưng bên cạnh đó, cái hay của Tố Hữu là ở chỗ hòa
quyện được chất chính trị với chất trữ tình, dù chỉ trong tám dòng thơ ngắn ngủi.
Đoạn thơ được viết với kết cấu đối đáp giữa “mình” và “ta” trong một cuộc chia tay
quyến luyến bịn rịn. Đó là cách xưng hô thân mật thường thấy trong ca dao, dân ca,
là lời xưng hô trong tình yêu đôi lứa, nghe sao mà tha thiết, bâng khuâng. Tiếng nói
trữ tình tha thiết của người đi - kẻ ở đã gieo vào lòng người đọc sắc thái của một
cuộc chia tay lớn mang ý nghĩa lịch sử trọng đại nhưng lại ùa về trong dáng dấp của
cuộc biệt li giữa đôi lứa yêu nhau. Như vậy, bằng hình ảnh ẩn dụ giản dị mà sâu sắc,
thể thơ lục bát thiết tha bồi hồi, lời thơ duyên dáng, ngọt ngào, Tố Hữu đã mở ra
trước mắt người đọc cuộc chia li giữa người đi kẻ ở, giữa đồng bào Việt Bắc và cán
bộ Cách mạng, biết bao lưu luyến, ân tình nhưng cũng là biết bao tự hào về trang sử
vẻ vang của dân tộc. Chất chính trị và chất trữ tình đã cùng hòa quyện, hài hòa và
thống nhất trong một hồn thơ - Tố Hữu.

Tiếng lòng của người ra đi và người ở lại vẫn còn âm vang đâu đây, gieo vào
lòng người bao xúc cảm nhớ nhung và yêu mến trước nghĩa tình sâu nặng, tha thiết
ấy. Lời hỏi cũng đồng thời là lời đáp, lời khẳng định, lời nhắn gửi ân tình giữa cán
bộ chiến sĩ về xuôi với người dân Việt Bắc. Chia tay là khoảnh khắc, ra đi là tất yếu
nhưng khoảng thời gian “mười lăm năm ấy”, sự hòa quyện độc đáo giữa chất chính
trị và chất trữ tình ấy sẽ mãi luôn thường trực trong tiềm thức, ấp ủ trong trái tim
mỗi người, để dù khoảng cách về thời gian, không gian có xa đến đâu thì “Việt Bắc”
vẫn luôn sống mãi trong lòng người dân, người chiến sĩ cách mạng và trong lòng
bạn đọc mọi thế hệ về sau. Cũng giống như lời hứa sắt son năm ấy mà người đi kẻ ở
vẫn hoài mong và nhắc nhớ:

“- Nước trôi, lòng suối chẳng trôi

Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non

Ðá mòn nhưng dạ chẳng mòn

Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhoà.”

(“Việt Bắc” - Tố Hữu)

3. Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm)

Đề bài: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi


Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay
kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
(Trích Đất Nước, trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm)
Từ đó bình luận về tư tưởng mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.

Bài làm

Ai đó đã từng nói rằng: “Nếu mỗi người không thuộc về một đất nước, một
quê hương thì giống như con chim không có tổ, cái cây không có rễ...” Và ai đó cũng
đã từng tự hỏi lòng: “Có mối tình nào nặng sâu hơn là mối tình Tổ quốc?” Đi tìm
câu trả lời cho câu hỏi ấy đã có biết bao hồn thơ cất cánh. Với Nguyễn Đình Thi là
hình ảnh của một đất nước đau thương, căm hờn, quật khởi, vùng lên chiến đấu và
chiến thắng huy hoàng. Với Lê Anh Xuân là dáng đứng Tổ quốc bay lên bát ngát
mùa xuân. Với Xuân Diệu là vẻ đẹp của đất nước “Tổ quốc tôi như một con tàu, mũi
tàu rẽ sóng Cà Mau”. Đặc biệt vào cuối năm 1971, từ chiến trường Bình Trị Thiên
khói lửa, Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một tiếng thơ hay về đề tài Đất nước qua
trích đoạn: “Đất nước” - Trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đoạn trích này ghi dấu
ấn trong lòng bạn đọc với một tư tưởng mới mẻ về đất nước: “Đất nước của Nhân
dân” được thể hiện qua chín câu thơ đầu:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có từ ngày đó…”

Nguyễn Khoa Điềm được coi là một trong những đại diện tiêu biểu của thế hệ
nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông xuất thân
trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước, sớm tham gia cách mạng và
từng bị địch bắt giam. Thơ ông có sức hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng
nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước. Kết tinh cho hồn thơ ấy phải
kể đến “Đất Nước” - một trích đoạn thuộc chương V của trường ca “Mặt đường khát
vọng”, viết năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn ác
liệt. Bấy giờ, phong trào đấu tranh chống Mỹ của nhân dân các đô thị miền Nam
ngày càng trở nên mạnh mẽ, sôi nổi tiêu biểu là phong trào xuống đường đấu tranh
của học sinh, sinh viên. Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Nguyễn Khoa
Điềm đã sáng tác trường ca “Mặt đường khát vọng” để góp thêm tiếng thơ hay về
đất nước, để lay động và thức tỉnh ý thức trách nhiệm của mỗi người đặc biệt là của
tuổi trẻ đối với quê hương, dân tộc.

Nguyễn Khoa Điềm đã mở đầu trích đoạn thơ của mình bằng lời hồi đáp cho
câu hỏi: “Đất nước có tự bao giờ?”:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

Hai chữ “Đất Nước” vang lên trong trang thơ đầy thiết tha, trìu mến. Độc giả sẽ phát
hiện một điều khác lạ đó là xuyên suốt trong cả đoạn thơ này từ “Đất Nước” đều
được viết hoa. Chia sẻ về lý do tại sao lại trình bày như vậy, Nguyễn Khoa Điềm lý
giải với ông đất nước không đơn thuần là vùng đất vô tri, đất nước là nhân vật, là
sinh thể có tâm hồn và với cách viết này cũng đồng thời bài tỏ sự trân trọng của tác
giả những tình cảm thành kính, thiêng liêng, trân trọng dành cho đất nước. Điệp từ
“Đất Nước” vang vọng suốt cả trường ca như một khúc nhạc thiết tha gợi cảm xúc,
đưa ta về một miền không gian nối dài từ quá khứ, hiện tại đến tương lai. Hai từ
thiêng liêng ấy không chỉ xuất hiện trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm mà còn “làm
bạn” với rất nhiều thi sĩ khác:

“Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn

Cánh cò bay lả rập rờn

Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”

(Nguyễn Đình Thi)

hay

“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu.

Nghe dịu nỗi đau của mẹ.


Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ.

Các anh không về mình mẹ lặng im…”

(Tạ Hữu Yên)

Và đất nước cứ như thế trở thành một danh từ thiêng liêng trong trái tim của bất cứ
ai, chỉ cần trái tim còn đập trong lồng ngực nhỏ. Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm bàn
về vấn đề chính luận, thời sự, nhưng lại sử dụng đại từ xưng hô “ta” thể hiện nét tâm
tình trò chuyện thân mật giữa người con trai với người con gái, giữa “anh” và “em”
về đất nước. Người con trai ở đây – “ta” như đang muốn cắt nghĩa, lý giải về cội
nguồn, sự lớn lên của đất nước cho người con gái anh yêu. Tuy nhiên nếu mở rộng
ý thơ, “ta” ở đây cũng có thể coi là tất cả mọi người, là một cách nói bao hàm đại
diện cho dân tộc Việt Nam. Cách xưng hô khiến vấn đề trừu tượng, lớn lao như đất
nước nay trở nên gần gũi, rõ ràng, cụ thể. Điều này thể hiện rất rõ phong cách thơ
trữ tình – chính luận của tác giả. Nhà thơ khẳng định sự hình thành của đất nước qua
ba chữ: “đã có rồi” khiến cho hình ảnh đất nước bỗng sừng sững, hiện hữu trong
lòng người đọc. Theo cách lý giải của Nguyễn Khoa Điềm thì “đất nước là một giá
trị lâu bền, vĩnh hằng, đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được
truyền từ đời này sang đời khác. Cho nên “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!”. Lời
khẳng định này thể hiện sự tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy
ngàn năm lịch sử. Đất nước cũng như trời và đất, khi ta sinh ra đã có đất và trời cũng
như vậy, ta không biết được đất nước hình thành từ bao giờ, chỉ thấy hiện diện xung
quan ta với những gì thân thương nhất.

Những câu thơ tiếp theo tác giả triển khai và làm sáng rõ vấn đề được nên ra
ở câu thơ đầu: “Đất nước đã có từ rất lâu đời”. Ngược về quá khứ xa xôi, tuổi thơ
của mỗi người lớn lên trong những lời ru, những câu chuyện cổ tích của bà, của mẹ:

“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể”

Tác giả đã mượn chất liệu dân gian để diễn tả về sự ra đời của đất nước. Bốn chữ
“ngày xửa ngày xưa” đưa chúng ta về một miền thăm thẳm, xa xôi. Nơi đó có hình
ảnh của cô Tấm dịu hiền, Thạch Sanh lương thiện, bà tiên ông bụt với những phép
màu diệu kỳ giúp đỡ cho những người ở hiền gặp nạn,.. Là người Việt, ai mà không
biết tới những câu chuyện gắn liền với tuổi thơ êm đềm đó. Và đất nước có trong
những điều xa xưa ấy, tức là đất nước đã xuất hiện trước khi những câu chuyện này
có mặt trong kho tàng dân gian đầy sắc màu. Khi những câu chuyện cổ có mặt trong
đời sống tinh thần phong phú của nhân dân ta, ta lại thấy hình hài đất nước trong đó.
Là đất nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện, cổ tích,
truyền thuyết. Chính những câu chuyện và lời ru thân quen thủa nào là nguồn sữa
ngọt lành nuôi dưỡng tâm hồn ta hướng về những điều tốt đẹp. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ
Dạ đã từng rất xúc động khi viết về ý nghĩa của kho tàng truyện cổ:

“Tôi yêu truyện cổ nước tôi

Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa

Thương người rồi mới thương ta

Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm

Ở hiền thì lại gặp hiền

Người ngay thì được phật, tiên độ trì.

Mang theo truyện cổ tôi đi

Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa

Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa

Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi.”

Không chỉ có trong cái “ngày xửa, ngày xưa” Nguyễn Khoa Điềm còn xác định buổi
ban đầu ấy qua một nét sống giản dị trở thành phong tục tập quán tốt đẹp của nhân
dân ta đó là phong tục ăn trầu:

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”

Hình ảnh đất nước lớn lao kì vĩ, đối lập với hình ảnh miếng trầu bé nhỏ. Hình thức
câu thơ có vẻ phi lí nhưng lại cực kỳ hợp lý xuất phát từ chân lý: “Những điều lớn
lao đều được bắt đầu từ những điều nhỏ bé”. Câu thơ gợi nhắc về truyện cổ tích: “Sự
tích trầu cau” được xem là câu chuyện xưa nhất trong các câu chuyện cổ. Tục ăn trầu
của người Việt cũng bắt nguồn từ chính câu chuyện này. Điều này cho thấy miếng
trầu nhỏ bé được nhắc tới chứa đựng trong đó là cả 4000 năm lịch sử, 4000 năm
phong tục cùng truyền thống hiếu khách: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Trải qua
thời gian đằng đẵng, miếng trầu trở thành hình ảnh thiêng liêng trong đời sống tinh
thần của người Việt: miếng trầu giao duyên, miếng trầu cưới hỏi,… Và từ đó, hình
ảnh này trở nên quen thuộc trong thơ ca:

“Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng”

(Hoàng Cầm)

Bên cạnh những phong tục tập quán tốt đẹp trở thành khởi nguyên cho đất nước,
Nguyễn Khoa Điềm còn nhấn mạnh vào quá trình lớn lên của đất nước song hành
cùng truyền thống đánh giặc giữ nước trong suốt 4000 năm của dân tộc ta:

“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Hai chữ “lớn lên” để chỉ sự trưởng thành của đất nước. Câu thơ gợi nhắc bạn đọc tới
2 hình ảnh: cây tre và truyền thuyết “Thánh Gióng”. Bao đời nay, tre không còn là
hình ảnh xa lạ đối với đời sống của người dân Việt Nam. Nó đã đi vào trong những
tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa với những đặc điểm tượng trưng cho phẩm cách của con
người Việt Nam như:

“Tre xanh

Xanh tự bao giờ?

Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh

Thân gầy guộc, lá mong manh

Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?

Ở đâu tre cũng xanh tươi

Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu”

(Nguyễn Duy)
Người Việt Nam giống như những cây tre thẳng tắp, mạnh mẽ, kiên cường. Cây tre
ấy cũng gắn liền với hình ảnh Thánh Gióng – cậu bé vụt lớn trở thành tráng sĩ, nhổ
tre bên đường diệt giặc n khỏi bờ cõi Việt:

“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng

Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân”

(Tố Hữu)

Cũng từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam
kiên cường, bất khuất. Truyền thống vẻ vang ấy đã đi theo suốt chặng đường lịch sử
dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã có biết bao nhiêu người con gái
con trai sẵn sàng lên đường ra mặt trận. Họ ra đi mang trong mình lời thề “Quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh”. Những tháng năm ấy và cả những năm tháng sau này,
truyền thống yêu nước vẫn luôn là cội nguồn, là dòng huyết chảy trong lịch sử hào
hùng của dân tộc ta.

Cùng với đó, đất nước đã có từ rất lâu đời gắn liền với những thuần phong mĩ
tục tốt đẹp. Nhà thơ đã đề cập đến tập tục bới tóc của người phụ nữ Việt Nam qua
câu thơ:

“Tóc mẹ thì bới sau đầu”

Do công việc trồng lúa nước, phải lội xuống ruộng nên người phụ nữ phải bới tóc
cho gọn gàng. Lâu dần điều đó trở thành nét đẹp mang đậm tính truyền thống của
người phụ nữ Việt Nam. Tóc cuộn búi cao sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp
nữ tính, thuần hậu rất riêng. Nét đẹp ấy khiến người đọc chúng ta gợi nhớ tới câu ca
dao:

“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới

Để chi dài cho rối lòng anh”

(Ca dao)

Không chỉ thế, Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận về đất nước thông qua lối sống,
tình cảm gắn bó giữa người với người, quan hệ đối xử giữa vợ và chồng, tình yêu
chung thủy của vợ chồng: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Trong
kho tàng ca dao, tục ngữ đã có câu:

“Tay bưng đĩa muối chén gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

Muối và gừng vốn là những gia vị quen thuộc trong bữa ăn của người Việt Nam.
Nguyễn Khoa Điềm mượn câu ca dao, mượn vị mặn của muối, vị cay nồng của gừng
để nói về tình yêu dài lâu, nồng thắm, tình cảm thủy chung, sự gắn bó keo sơn của
vợ và chồng để làm nên một gia đình chan chứa hạnh phúc, yêu thương. Đó cũng là
một truyền thống rất quý báu của nhân dân ta.

Không chỉ vậy, Đất nước đã có từ rất lâu trong tiến trình phát triển của cuộc
sống đời thường. Cội nguồn của đất nước cũng được tác giả cảm nhận từ cách đặt
tên giản dị: “Cái kèo, cái cột thành tên”. Ngôn ngữ Việt Nam có từ lâu đời, bắt nguồn
từ việc đặt tên cho những vật dụng quen thuộc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày,
lấy tên của chính những vật dụng ấy để gọi tên cho con cái. Bởi xa xưa, người Việt
đã quan niệm đặt tên cho con càng xấu thì càng dễ nuôi. Hơn thế, là cảm nhận của
Nguyễn Khoa Điềm về truyền thống của con người Việt Nam cần cù, chịu khó, gắn
với một nền văn minh nông nghiệp. Để đất nước có được như ngày hôm nay, không
thể không kể đến công sức lao động của thế hệ ông cha, hay nói cách khác là quá
trình dựng nước. Nhà thơ chọn ra một nghề đặc trưng nhất của ngành nông nghiệp-
nghề trồng lúa nước: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.” Bằng
thành ngữ “một nắng hai sương” kết hợp với một loạt động từ “xay, giã, giần, sàng”
đã diễn tả rất cụ thể công việc của nhà nông, kèm theo đó là nỗi vất vả, cực nhọc.
Lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm như phảng phất lời ca dao, cũng là lời khu yên răn:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”

Thành ngữ “một nắng hai sương” gợi ra sự cần cù, chịu thương chịu khó, chăm chỉ
lao động của ông cha ta. Để làm ra hạt gạo ăn mỗi ngày đó là một quá trình đầy vất
vả. Thấm vào trong hạt gạo nhỏ bé ấy là mồ hôi mặn, là những nhọc nhằn của những
người nông dân tần tảo sớm hôm. Đất nước của chúng ta trưởng thành từ những vất
vả, lam lũ, một nắng hai sương như thế.
Và sau tất cả những diễn giải ấy, tác giả một lần nữa khẳng định cội nguồn
của đất nước với niềm tự hào mãnh liệt nhất:

“Đất Nước có từ ngày đó”

“Ngày đó” là một từ mang tính chất phiếm định về thời gian. Ngày đó không biết
chính xác là ngày nào chỉ biết rất rõ một điều: Đất nước của chúng ta đã tồn tại từ
rất lâu đời. Từ khi có những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, thời điểm bắt đầu của
những thuần phong mỹ tục, truyền thống đánh giặc giữ nước và cả nền văn minh lúa
nước được lưu giữ ngàn đời. Những nét văn hóa đẹp đẽ nhất được Nguyễn Khoa
Điềm đưa vào thơ mình một cách tự nhiên, chân thật để cho mỗi người đọc hiểu rằng
văn hóa chính là đất nước và chúng ta cần phải có trách nhiệm hiểu biết, gìn giữ
những giá trị cốt lõi này.

Chín dòng thơ không những thuyết phục bởi tư tưởng chính luận mà còn đi
vào lòng người bởi vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo. Trong đoạn thơ, cấu trúc câu “Đất
Nước đã có”, “Đất Nước bắt đầu”, “Đất Nước lớn lên”, “Đất Nước có từ” cho phép
hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian
trường kì. Kết hợp với đó là điệp từ “có” đã nối kết những hình ảnh tưởng chẳng liên
quan gì với nhau thành một khối không thể tách rời, khẳng định sự hiện hữu vừa có
tính truyền thống vừa đầy ân tình sâu nặng của đất nước như một nét riêng không
thể hòa lẫn. Nhà thơ cũng đã thật khéo léo khi sử dụng cách nói giản dị, tự nhiên,
đậm đà màu sắc dân gian quen thuộc nhưng trong một thể loại hết sức mới mẻ - thể
loại trường ca.

Nhìn lại bao quát đoạn thơ, ta thấy Nguyễn Khoa Điềm sử dụng cấu trúc tổng-
phân - hợp rất chặt chẽ. Đoạn thơ có sự hài hòa giữa chất trữ tình – chính luận, vừa
được viết bằng chiều sâu trí tuệ, văn hóa, vừa được viết bằng những rung động của
cảm xúc, nên rất dễ đi vào lòng người. Trả lời cho câu hỏi “Đất Nước có từ khi
nào?”, Nguyễn Khoa Điềm đã chiêm nghiệm là lựa chọn những chi tiết, hình ảnh hết
sức thân thuộc, trong đời sống gia đình, đời sống lao động cần lao hàng ngày, trong
câu chuyện cổ và tình cảm giữa những người thân yêu nhất. Lịch sử đất nước ta
không được cắt nghĩa bằng những vương triều nối tiếp, những sự kiện lịch sử trọng
đại mà bằng đời sống văn hóa tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn truyền
lại.
Như vậy, từ cội nguồn sâu thẳm của quá trình sinh ra, lớn lên và phát triển,
đất nước đã gắn liền với nhân dân. Do đó, tư tưởng mà chín dòng thơ thể hiện là tư
tưởng “Đất nước của Nhân Dân”- tư tưởng chủ đạo của đoạn trích, đã thấm nhuần
từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của tác phẩm. Tư
tưởng này không phải đến Nguyễn Khoa Điềm mới có mà đã có một quá trình dài
được khẳng định trong lịch sử văn học dân tộc. Lật giở từng trang trong lịch sử dân
tộc có thể nhận thấy tư tưởng Đất nước –nhân dân có nhiều biến chuyển trong mỗi
thời kỳ. Trong thời trung đại khái niệm Đất nước gắn liền với kỷ niệm quân vương:
“Nam quốc sơn hà”, gắn liền với các triều đại: “Bình Ngô đại cáo” –Nguyễn Trãi.
Nhưng một số tướng lĩnh, quan lại như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đã nhận thấy
vai trò to lớn của nhân dân đối với Đất nước.Trần Hưng Đạo đã từng dâng kế sách
cho vua: “muốn đánh thắng giặc phải biết khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”.
Nguyễn Trãi đã từng khẳng định: “Lật thuyền mới biết dân như nước”, Nguyễn Bỉnh
Khiêm cũng từng nói: “Cổ lai quốc dĩ dân vi bảo”. Thời cận đại một số chí sĩ yêu
nước như Phân Bội Châu, Phan Châu Trinh cũng đã nhìn ra sức mạnh và vai trò to
lớn của nhân dân. Phan Châu Trinh đã có lần nhấn mạnh: “Dân là nước, nước là
dân”, đến thời đại của Hồ Chí Minh, Bác cũng luôn nhắc nhở “Đảng ta phải biết lấy
dân làm gốc” Dù ở thời đại nào, các nhà tư tưởng lớn vẫn nhìn thấy vai trò và sức
mạnh của nhân dân đối với Đất nước. Nhân dân gánh trên đôi vai của mình Đất nước
đi suốt cuộc trường chinh cũng như những cuộc khai khẩn đất đai, miền rộng, bờ
cõi. Điều này, các nhà thơ nhà văn hiện đại đã có ý thức một cách rõ rệt, sâu sắc.
Tuy nhiên, để tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên
thấm mọi biểu hiện tinh tế nhất của hình tượng Đất Nước, lại được cảm nhận một
cách toàn diện sâu sắc trên nhiều bình diện, thì đóng góp đặc sắc của Nguyễn Khoa
Điềm thực sự là một viên ngọc sáng.

Thành công khi thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân là Nguyễn Khoa
Điềm đã lựa chọn cho mình chất liệu văn hóa rất phù hợp đó là chất liệu văn hóa dân
gian. Vẫn biết rằng chất liệu thuộc hình thức nghệ thuật của một bài thơ mà nghệ
thuật chỉ làm nên câu thơ còn trái tim là nghệ sĩ. Tuy nhiên việc thể hiện tiếng nói
của trái tim là rất quan trọng. Văn hóa dân gian trong tác phẩm nói chung và trong
đoạn trích nói riêng là những câu tục ngữ ca dao, những làn điệu dân ca, những câu
hò sông nước, những câu chuyện cổ tích, những phong tục tập quán mà Nguyễn
Khoa Điềm đã chiêm nghiệm và chọn lọc dựa trên vốn hiểu biết am tường và sâu
rộng.
Chín câu thơ đầu trong trích đoạn “Đất Nước” của trường ca “Mặt đường khát
vọng" là sự khẳng định về một tư tưởng mới mẻ “Đất nước là của Nhân dân”, là lý
giải hoàn hảo cho những thắc mắc của đọc giả về câu hỏi: “Đất nước có từ bao giờ
và đất nước là của ai?” Một cách cắt nghĩa, giải thích đầy mới mẻ. Chẳng phải nơi
chúng ta đang sống, mọi thứ quanh mình, đều là những gì thuộc về đất nước hay
sao? Và những câu hỏi thắc mắc về quê hương, đất nước mình vẫn còn là những điều
sẽ còn được nhắc hoài, nhắc mãi, để bạn đọc không ngừng tìm kiếm những điều mới
lạ ấy, sự thú vị ấy trong thơ văn:

“Quê hương là gì hở mẹ

Mà cô giáo dạy phải yêu

Quê hương là gì hở mẹ

Ai đi xa cũng nhớ nhiều"

4. Sóng (Xuân Quỳnh)

Đề bài: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của những đoạn thơ sau: (5 khổ thơ
đầu) (Trích “Sóng” - Xuân Quỳnh)

Bài làm

Tôi vẫn còn nhớ như in có một bận, Xuân Diệu đã từng thủ thỉ trong tác phẩm
của mình:

“Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ không thương một kẻ nào”

Con người ta vẫn thường vì tình yêu mà si mê nhiều như thế! Người thường đã vậy,
thi sĩ hẳn sẽ nhạy cảm hơn, đó cũng là lí do vì sao giữa muôn nẻo của thơ ca Việt
Nam, những bài thơ viết về tình yêu, những nhà thơ viết về tình yêu vẫn thường
được bạn đọc chú ý bằng cái nhìn đầy trìu mến. Và bài thơ “Sóng” của nữ sĩ Xuân
Quỳnh cũng là một tác phẩm như thế. Đọc thi phẩm“Sóng” điều đọng lại trong lòng
mỗi độc giả không chỉ là tình yêu thủy chung, khát vọng hóa thân của hình tượng
“sóng” hay cũng chính là hình tượng “em” mà còn gây ấn tượng về những thông
điệp mới mẻ trong tình yêu mà Xuân Quỳnh đem lại. Điều đó được thể hiện rất rõ
trong năm khổ thơ đầu bài.
Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ
thời kháng chiến chống Mỹ. Những dòng thơ của tác giả thể hiện trái tim phụ nữ đôn
hậu, chân thành, giàu đức hy sinh và lòng vị tha cùng khát vọng sống, khát vọng yêu
chân thành, mãnh liệt luôn gắn liền với những dự cảm, lo âu. Tiến sĩ Chu Văn Sơn
từng nhận định: “Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ
nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời ...” Và quả thực, những vần thơ
của Xuân Quỳnh là vậy. Với chị, mỗi dòng thơ hệt như những dòng nhật kí bỏ ngỏ
xuất phát từ trái tim về những khát khao, những cảm xúc, những suy nghĩ lo âu của
người phụ nữ khi đứng trước bao lo toan, hạnh phúc đời thường. Để rồi cứ thế,
“Sóng” của Xuân Quỳnh lặng lẽ đi vào lòng người như một “ nốt nhạc xanh giữa
thời kì lửa cháy” với bao khát vọng về tình yêu và tuổi trẻ. Tác phẩm là một bài thơ
đặc sắc viết về tình yêu, tiêu biểu cho phong cách thơ của nữ sĩ, được sáng tác năm
1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình). Bài thơ được in
trong tập ''Hoa dọc chiến hào''. Qua hình tượng sóng và trên cơ sở khám phá sự tương
đồng, hoà hợp giữa ''sóng'' và ''em'', bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết
tha, nồng nàn, chung thuỷ, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của
đời người. Từ đó, bạn đọc cảm nhận được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một
hạnh phúc lớn lao của con người.

Viết về đề tài tình yêu, đặc biệt khi lựa chọn hình tượng sóng làm hình tượng
chính cho tác phẩm của mình, Xuân Quỳnh không phải là người nghệ sĩ đầu tiên
nhưng lại là người nghệ sĩ vô cùng tinh tế, viết về sóng để gửi gắm tình yêu của trái
tim người phụ nữ. Điều này được thể hiện rõ qua những vần thơ:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Tôi đã nhìn thấy những con sóng ngoài đại dương rồi! Tôi cũng đã từng tìm về biển
với những mong mỏi được trải lòng và tôi cũng hiểu tại sao, khi đứng trước đại
dương bao la, trước muôn trùng con sóng vỗ bạc đầu, người nghệ sĩ lại có trong
mình nhiều rung cảm đến vậy, để cho tới tận bây giờ, biển vẫn hát khúc ca của đại
dương, và chúng tôi, độc giả của những năm tháng này, vẫn ru hoài giấc mơ qua
những thi phẩm khởi nguồn từ con sóng. Trong khổ thơ này, nghệ thuật đối đã được
sử dụng một cách rất tinh tế. Các cặp từ đối lập: “Dữ dội – dịu êm”, “Ồn ào – lặng
lẽ” là biểu hiện rõ ràng nhất cho những trạng thái đối cực của con sóng ngoài đại
dương. Khi đại dương hiền hòa, những con sóng thật nhẹ nhàng, êm dịu, khi có bão
đi ngang biển động sóng mạnh mang theo bao bão tố, phong ba. Những trạng thái
đối cực của sóng cũng chính là những trạng thái đối cực của tình yêu, có những khi
rất bình yên, nhưng cũng có những ngày bão tố. Ta cũng có thể hiểu hai câu thơ này
theo một trường nghĩa khác, với trạng thái đối cực của trái tim người phụ nữ khi yêu,
một người phụ nữ khao khát tình yêu. Khi vui, khi buồn, khi giận hờn, khi trách móc,
khi hạnh phúc, khi tổn thương,… những cung bậc cảm xúc của tình yêu quả thật rất
diệu kỳ bởi một lẽ:

“Vì tình yêu muôn thủa

Có bao giờ đứng yên”

Ý thơ chưa dừng lại ở đó, bởi nội tâm của người phụ nữ vốn dĩ sâu sắc hơn những
gì ta tưởng tượng. Hai câu thơ này còn diễn tả sự yếu đuối tất yếu bên trong của
người phụ nữ khi có những mạnh mẽ che phủ bên ngoài. Suy cho cùng, sau tất cả
những hỉ, nộ, ái, ố của cuộc đời, những trái tim ấy vẫn thuộc về trọn vẹn tâm hồn
phái yếu.

Chuyển đến hai câu thơ tiếp theo, ta nhìn thấy sự mới lạ trong tứ thơ của Xuân
Quỳnh:

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Những hình ảnh xuất hiện liên tiếp, hình ảnh của dòng sông, của con sóng và của
“bể”, ở đây có thể hiểu là biển, là đại dương. Trăm suối đổ về một sông, trăm sông
đổ về biển lớn, sóng không chấp nhận giới hạn nhỏ bé tầm thường, sóng chuyển
mình ra biển lớn, tìm về đại dương, tìm đến nơi thuộc về. Ở hai câu thơ này, mạch
sóng như bứt phá ra khỏi một không gian chật hẹp để tìm đến những điều lớn lao.
Cũng giống như trái tim tình yêu của những người phụ nữ, vượt qua những giới hạn
nhỏ bé tầm thường, để tìm đến với tình yêu đích thực của cuộc đời mình. Có thể thấy
rằng, đây cũng chính là một trong những nét hiện đại trong thơ Xuân Quỳnh, cũng
là góc nhìn, một quan niệm mới mẻ về người phụ nữ hiện đại, dám đấu tranh vì tình
yêu, vượt qua những thứ lễ giáo phong kiến để đến với hạnh phúc đích thực của cuộc
đời mình. Nếu như trong bài “Hương thầm” nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn từng viết:

“Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay

Cô gái ngượng ngùng sang nhà hàng xóm

Bên ấy có người ngày mai ra trận


Bên ấy có người ngày mai đi xa”

Để rồi họ chia tay mà chẳng dám nói với nhau điều gì. Xuân Quỳnh thì không như
vậy, chị luôn quan niệm không chỉ riêng con trai có thể chủ động trong tình yêu, mà
người phụ nữ cũng vậy, phải chủ động tìm đến tình yêu để sống được là chính mình.
Đây chính là thông điệp mới mẻ mà Xuân Quỳnh muốn gửi gắm đến bạn đọc qua
khổ thơ này.

Hơn cả những gì anh nghĩ, dẫu đó thực chất là trái tim mềm yếu của em thì
em vẫn muốn dùng sự mạnh mẽ của chính mình để hướng tới, để theo đuổi tình yêu
duy nhất trong cuộc đời của mình. Những điều em muốn nói cùng anh là những điều
không thể nào ngăn cách, bao mong mỏi, bao buồn vui đau khổ cuộc đời cũng không
thể ngăn nổi trái tim mềm yếu hướng tới tình yêu. Bởi duy nhất chỉ có phương anh
mới khiến trái tim em thổn thức. Thế nên Xuân Quỳnh mới viết:

“Tôi ghét bầu trời sau khung cửa bình yên

Con đường vắng người đi và hàng cây lộng gió

Tôi yêu dòng sông mùa nước lũ

Sông phá phách ngàn đời nhưng đỏ lặng phù sa”

Xuân Quỳnh viết “Sóng”, chị đang hát những khúc hát về tình yêu để đến bây
giờ, biết bao nhiêu thập kỷ trôi qua rồi, những độc giả vẫn dành biết bao nhiêu tình
yêu của mình cho một mảnh “tình thơ” đã cũ. Và tình yêu trong “Sóng” – mãi mãi
là khát vọng của tuổi trẻ, của lứa đôi:

“Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

Thán từ “ôi” được sử dụng, bộc lộ mạnh mẽ những trạng thái cảm xúc đang trào lên
trong lòng. Cặp từ đối “ngày xưa” – “ngày sau” khiến cho người đọc có biết bao
nhiêu liên tưởng. Đó là thời gian chỉ quá khứ, quá khứ nối dài đến hiện tại, tương lai
để nhắc nhở người trẻ chúng ta về thông điệp ý nghĩa. Trải qua hàng ngàn hàng vạn
năm, từ khi đại dương xuất hiện, những con sóng cũng ra đời. Và dẫu cho thời gian
mãi là một dòng tuyến tính không bao giờ quay trở lại thì sóng vẫn cứ mãi hát khúc
ca của đại dương bất diệt, vẫn cứ là mình, vẫn “dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng lẽ”. Cũng
giống như tình yêu, những khát khao về tình yêu luôn luôn là những hoài bão đang
đập nhanh trong trái tim của những người trẻ. Câu chuyện tình yêu vốn dĩ không
phải câu chuyện của riêng ai mà đó là câu chuyện của tôi, của bạn, của chúng ta, của
quá khứ, hiện tại và muôn đời sau sẽ còn nhắc mãi, nhắc hoài. Còn đại dương là còn
sóng, còn những trái tim đang đập trong lồng ngực là còn khát vọng tình yêu. Điều
này thật giống với ý thơ trong “Bài thơ tuổi nhỏ” của ông hoàng thơ tình Việt Nam
– Xuân Diệu:

“Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ, không thương một kẻ nào...”

Có những khoảnh khắc, bản thân mình rất muốn tìm một nơi nương náu cho
những trầm tư của chính mình. Không phải vì bản thân yếu đuối mà chỉ bởi trái tim
sau những lần cứng cỏi rất muốn có một khoảng dừng chân để suy nghĩ, chiêm
nghiệm về tình yêu mình đã đi qua. Và “em” đã chọn cho mình một khoảng trầm tư
bình yên như thế khi đứng trước đại dương bao la, trước muôn ngàn con sóng vỗ bạc
đầu.

“Giữa muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên”

Đến khổ thơ này, em tách mình khỏi sóng, để hạ lời thì thầm hai tiếng “em – anh”.
Khi đứng trước đại dương bao la, trước muôn ngàn những con sóng đang gối lên
nhau chạy xa tít tắp tới đường chân trời, em nghĩ về anh, nghĩ về bản thân mình, em
nghĩ về tình yêu của chúng ta. Cảm giác nhỏ bé trước khoảng không bao la vốn dĩ là
cảm xúc bình thường có được. Thế nên:

“Đừng ví em là biển

Sâu thẳm và bao la

Thuyền nan em bé nhỏ

Không xa được bến bờ...”


Trước khoảng không vô tận và đối diện với trái tim, em tự đặt ra một câu hỏi cho
lòng mình, để truy tìm căn nguyên của sóng nhưng cũng chính là lúc em muốn truy
tìm căn nguyên của tình yêu.

“Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau?”

Em đang trên chuyến hành trình truy tìm căn nguyên của tình yêu. Em không thẳng
thẳn nói ngay vào điều đó, mà em muốn thông qua hình ảnh sóng để trải lòng mình.
Theo khoa học, sóng sinh ra từ gió. Thơ Xuân Quỳnh vốn không thường viết về
những điều khô khan như thế, tác giả bẻ ngay “cuống lái” về những nốt nhạc của trái
tim. Vậy thì gió bắt đầu từ đâu? Em suy hoài, nghĩ mãi nhưng cuối cùng lại chẳng
tìm được câu trả lời. Và rồi để bao biện cho sự thất bại trong cuộc truy tìm của mình,
người con gái ấy buông nhẹ một cái lắc đầu đáng yêu: “Em cũng không biết nữa”.
Và gửi lời tới “anh” một câu hỏi rất nhẹ nhàng: “Khi nào ta yêu nhau?”. Trái tim
“em” luôn muốn tìm sự lý giải, cắt nghĩa tình yêu, truy tìm căn nguyên tình yêu của
chính mình: “Chúng ta yêu nhau từ bao giờ, chúng ta yêu nhau vì điều gì...” Tất cả
đều là những câu hỏi rất khó để trả lời, hoặc là sẽ chẳng thể nào tìm ra được một câu
trả lời nào trọn vẹn cả. Xuân Quỳnh đã thất bại trong cuộc truy tìm, cắt nghĩa tình
yêu nhưng lại ghi được ấn tượng sâu đậm trong lòng đọc giải từ cách lý giải đầy nữ
tính. Lý giải về tình yêu vốn dĩ là một hành trình rất thú vị, gây được sự hấp dẫn với
viết bao cây bút tài hoa, nếu như Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình Việt Nam từng lý
giải tình yêu bằng một buổi chiều nắng cắt:

“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu

Có khó gì đâu một buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt

Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”

Thì Nguyễn Bính lại khiến lòng người rạo rực khi lý giải chữ yêu bằng cảm xúc
“ghen tuông”:

“Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi

Thế nghĩa là yêu quá mất rồi


Và nghĩa là cô là tất cả của riêng tôi!”

Nhìn nhận trong cách truy tìm căn nguyên, cắt nghĩa về tình yêu của những người
nghệ sĩ mới thấy được, Xuân Quỳnh đã tự lý giải tình yêu cho bản thân mình một
cách rất riêng, rất nữ tính, rất trực cảm. Em không biết tình yêu có từ đâu cả. Cũng
chính vì sự không rõ ngọn ngành này mà đã biết bao nhiêu thế kỷ trôi qua rồi, con
người vẫn cữ phân vân đi tìm câu trả lời cho tình yêu, say mê trong tình yêu, dành
trái tim của mình để sẵn sàng đập nhanh hơn vì một người. Có một quy luật của tình
yêu đó là chẳng có quy luật nào cả và em vẫn sẽ can đảm bên cạnh anh, yêu anh
bằng tất cả đủ đầy những cảm xúc của riêng mình. Tình yêu vốn dĩ là một ẩn số giữa
hai tâm hồn chứa đầy bí mật:

“Dù tin tưởng chung một đời một mộng

Anh là anh mà em vẫn là em

Có thể nào qua Vạn Lý Trường Thành

Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật”

Và những tâm hồn bí mật ấy vẫn luôn khao khát được giao hòa cùng nhau, khám
phá những điều mà cả cuộc đời cũng chẳng thể nào lý giải nổi. Bởi tình yêu là bài
toán chẳng thể nào đưa ra được một đáp số đúng nhất, cũng chính vì thế mà nó luôn
mới mẻ, luôn hấp dẫn, luôn là khởi nguồn cho rất nhiều những tác phẩm hay.

Tiếp tục với hành trình nghĩ suy và chiêm nghiệm, Xuân Quỳnh, với những
dòng thơ trong “Sóng”, đã không thể nào bỏ qua một cung bậc cảm xúc tất yếu của
tình yêu - nỗi nhớ. “Nỗi nhớ của con người thường gắn liền với một cái cớ nào đó.
Hễ gặp duyên cớ kia là nhớ nhung, cứ thế mà thức dậy, mà da diết.” Cội nguồn của
tình yêu bắt nguồn từ nỗi nhớ, “đặc tính” của tình yêu cũng gắn với nhớ nhung. Lấy
cảm hứng thơ từ điều này nên Xuân Quỳnh viết:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”


Năm tháng trôi qua nhanh, để tình yêu ở lại. Tình yêu hiện hữu trong cuộc sống, ở
mỗi con người và được bộc bạch qua trạng thái đầu tiên đó là nỗi nhớ. Tình yêu xưa
nay luôn gắn liền với nỗi nhớ, một trái tim đang yêu là một trái tim đang nhớ, một
trái tim ngừng nhớ là dấu hiệu chắc chắn của một trái tim ngừng yêu bởi mấy ai yêu
mà không một lần thương nhớ. Những câu thơ của Xuân Quỳnh đã chạm tới nơi sâu
thẳm nhất của trái tim tình yêu mang theo một thông điệp thật tình tứ, mến thương:
Sóng nhớ bờ và em nhớ anh.

Có một điều đặc biệt trong khổ thơ này đó là đến đây, biên độ của khổ thơ đã
được mở rộng từ bốn câu lên sáu câu, phá vỡ những quy luật về độ dài của một khổ
trong cả bài. Phải chăng, chỉ khi mở rộng biên độ khổ thơ mới có thể diễn tả cho
thỏa, cho đạt sự ngút ngàn của nỗi nhớ. Một nỗi nhớ bao trùm không gian, choán
luôn cả thời gian, khoảng cách. Việc phá vỡ biên độ của khổ thơ thêm một lần nữa
chứng minh cho phong cách nghệ thuật đôi khi “bất tuần theo những quy luật nghề
thơ” của Xuân Quỳnh. Quan trọng nhất trong những vần thơ của chị là được bày tỏ,
được sẻ chia, được thấu hiểu. Bởi “Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ; sáng
tạo và cách tân, tất tật là nhất thể. Cho nên, tìm những miền thi cảm khác lạ cho thơ,
chế tác những hình thức tân kỳ cho thơ không phải thao thức của chị. Cứ hết mình
sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi
ảnh, thi điệu đó là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay
mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ. Thơ Xuân Quỳnh là tính
linh Xuân Quỳnh. Trường hợp Xuân Quỳnh thật điển hình cho qui luật: Thơ là sự
ký thác phận người vào chữ. Có lẽ vì thế mà, dù đời thơ Xuân Quỳnh đã dừng, sóng
thơ Xuân Quỳnh vẫn vỗ khôn nguôi.” (Chu Văn Sơn)

Trong khổ thơ này có sự xuất hiện của cả hai hình tượng “sóng” và “em” đan
xen với nhau, bốn câu thơ trước em ẩn mình trong sóng bộc lộ những cảm xúc trong
lòng mình, hai câu thơ sau em tách mình khỏi sóng, hạ lời thì thầm hai tiếng “em –
anh”. Các cặp từ đối lập được sử dụng rất tinh tế ở đoạn thơ này: “lòng sâu – mặt
nước” – cụm từ diễn tả về không gian; “ngày – đêm” – diễn tả về thời gian, một nỗi
nhớ thường trực, choán hết cả không gian, thời gian tầm sâu bề rộng. Nỗi nhớ ấy
không chỉ xuất hiện trong ý thức, trong tiềm thức mà còn xuất hiện cả trong vô thức,
phá vỡ mọi giới hạn về thời gian và không gian:

“Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Xuân Quỳnh tinh tế lắm khi sử dụng cụm từ “lòng em” – là nơi thẳm sâu nhất trong
tâm hồn người nghệ sĩ. Khi chị nói “lòng em nhớ đến anh” có nghĩa là em đang dốc
cả tâm can của mình để trao gửi nỗi nhớ thương ấy đến anh – tình yêu đích thực
trong cuộc đời mình. Vị ngọt ngào, mê đắm của tình yêu lan tỏa trong một câu thơ
thật lạ: “Cả trong mơ còn thức”. Cái thức trong mơ chính là biểu hiện cao nhất của
nỗi nhớ, nỗi nhớ bây giờ không chỉ xuất hiện trong ý thức, tiềm thức mà còn xuất
hiện cả trong vô thức. Cái thức trong mơ là một trong những nét nghệ thuật độc đáo
ở khổ thơ này, đưa chúng ta đến những góc nhìn mới mẻ hơn về tình yêu, về nỗi
nhớ. Một nỗi nhớ mãnh liệt và sâu sắc, nỗi nhớ ấy cũng đã từng xuất hiện ở một tác
phẩm khác của nữ sĩ Xuân Quỳnh:

“Những ngày không gặp nhau

Biển bạc đầu mong nhớ

Những ngày không gặp nhau

Lòng thuyền đau rạn vỡ”

Năm khổ thơ đầu khép lại đã thể hiện được nỗi băn khoăn, trăn trở của những
con sóng hay cũng là người con gái khi yêu. Con gái khi yêu luôn có những trăn trở
suy tư cần được giãi bày. Nhờ các biện pháp đảo ngữ, tương phản đối lập, thể thơ
ngũ ngôn với nhịp thơ linh hoạt, giọng điệu chân thành, da diết, sự sáng tạo, phá vỡ
khuôn khổ của khổ thơ truyền thống. Ngôn ngữ thơ bình dị, thủ pháp nhân hoá, ẩn
dụ, các điệp từ; cặp hình tượng sóng đôi "sóng - em" , đoạn thơ đã thể hiện rõ tư
tưởng và suy tư khi yêu của em, cũng như của Xuân Quỳnh. “Sóng” chính là nỗi
lòng của em và em là hiện thân của sóng. Sóng và em đồng hiện tạo nên chiều sâu
nhận thức độc đáo. Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc
kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái
ào ào ra trận “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân
trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn
cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu: “Ôi con
sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được”. Ta càng ngưỡng mộ hơn những con người
phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình
yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong
phú hơn cho nền thơ nước nhà.

Nhận định về bài thơ “Sóng", GS Trần Đình Sử có viết: “Sóng” là một bài thơ
về tình yêu. Có hàng trăm dáng vẻ của thơ tình yêu. Thơ tỏ tình, thơ mong nhớ, thơ
hoài niệm, thơ đau khổ vì thất tình... “Sóng” là bài thơ giãi bày và chiêm nghiệm...”
Quả thực là như vậy. Từ cấu tứ bài thơ, cách gieo vần, nhịp, sử dụng hình ảnh và đôi
khi còn bất tuân theo cả những quy luật của nghề thơ, chỉ với năm khổ thơ đầu nhưng
Xuân Quỳnh đã đưa người đọc từ cung bậc này tới cung bậc khác trong tình yêu, để
người đọc thêm một lần chìm đắm và suy ngẫm về tình yêu của chính mình. “Sóng”
đã tự nhiên, trở thành tiếng hát, tiếng lòng của biết bao nhiêu người trẻ khát sống,
khát yêu, hệt như Xuân Quỳnh.

5. Vợ nhặt (Kim Lân)


Đề bài: Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã viết: “ Mặt hắn có
một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì
sáng lên lấp lánh”. Từ những câu văn trên và hiểu biết của anh/chị, hãy phân
tích sự chuyển biến tâm trạng nhân vật anh cu Tràng từ khi đón người “vợ
nhặt” về nhà. Qua đó hãy làm rõ tư tưởng nhân đạo của nhà văn Kim Lân.
Bài làm
Còn nhớ sinh thời tác giả của “Bỉ vỏ” - nhà văn Nguyên Hồng từng “phán” về
đồng nghiệp của mình rằng: Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người”
với “thuần hậu nguyên thuỷ của cuộc sống nông thôn”. Quả thật không chê vào đâu
được lời “truyền thần” ấy của nhà văn Nguyên Hồng! Sự nghiệp và những quan niệm
về văn chương của Kim Lân qua những tác phẩm của ông đã để lại rất nhiều ấn
tượng đẹp trong lòng độc giả, và càng chứng minh nhận định của nhà văn Nguyên
Hồng không thể bỏ đi từ nào được. Đọc “Vợ nhặt”, tác phẩm tiêu biểu trong sự
nghiệp sáng tác của Kim Lân, ta càng hiểu rõ và thấm nhuần hơn điều này. Tràng là
nhân vật chính trong tác phẩm. Qua những cảm nhận về diễn biến tâm trạng của
Tràng từ khi đón người vợ nhặt về nhà, được Kim Lân miêu tả tiêu biểu qua chi tiết:
“Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai
mắt thì sáng lên lấp lánh”, bạn đọc có cơ hội để thấm thía hơn tư tưởng nhân đạo của
tác giả.
Kim Lân - nhà văn suốt một đời gắn bó với cuộc sống nông thôn thuần hậu,
chất phác đã mở ra cánh cửa văn chương của mình bằng sở trường viết truyện ngắn.
Tuy số lượng tác phẩm không nhiều nhưng cũng đủ cho ông có một chỗ đứng vững
chắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong những truyện ngắn nổi bật của
Kim Lân mà người đọc không thể không nhắc đến đó là “Vợ nhặt”. Ông đã tâm sự
trên báo rằng: “Vợ nhặt” ban đầu là một tiểu thuyết nhưng loay hoay thế nào, kết
cục nó lại về lại truyện ngắn.”. “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân
in trong tập “Con chó xấu xí”, với tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được viết
ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và mất bản thảo. Sau khi hòa bình
lập lại (năm 1954), ông dựa vào một phần truyện cũ để viết truyện ngắn này. Tác
phẩm đã mang đến những thành công vang dội gắn liền với tên tuổi Kim Lân trong
đó nổi bật nhất là tài năng miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật một cách tinh tế, tiêu
biểu là sự chuyển biến trong tâm trạng của nhân vật anh cu Tràng khi đưa người “vợ
nhặt” về nhà. Qua đó, những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật ấy đã thể hiện tư
tưởng nhân đạo sâu sắc của nhà văn.
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân -
một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng
đi về với "thuần hậu phong thủy" ấy. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào
thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm.
Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông
dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất
thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám
phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ, đặc biệt đối với hình ảnh nhân vật chính – anh
cu Tràng.
Tràng hiện lên là một nhân vật có ngoại hình thô kệch, xấu xí: “thân hình to
lớn, lưng bè như lưng gấu, hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên
quai hàm bạnh ra rung rung làm cho bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp
nhỉnh những ý nghĩ vừa lí thú vừa dữ tợn”. Vẻ ngoài xấu xí như thể hiện Tràng chính
là “sản phẩm được gọt đẽo sơ sài bởi bàn tay của tạo hóa”. Không chỉ xấu xí, anh ta
còn cộc cằn, thô lỗ và ngây ngô “hắn có tật vừa đi vừa nói lảm nhảm những điều mà
hắn nghĩ”. Tràng thường trở thành thú vui, trò cười cho bọn trẻ con xóm ngụ cư.
Tràng xuất thân trong một gia đình nghèo, sống cảnh mẹ góa, con côi và là dân ngụ
cư - vốn là những con người vì nghèo đói mà phải bỏ nhà đi tha hương cầu thực. Có
thể nói ở Tràng hội tụ đủ những điều kiện ế vợ. Thế nhưng, Tràng đã có vợ trong
hoàn cảnh rất đỗi bi hài. Giữa nạn đói thê thảm, tự nuôi thân chưa chắc đã xong mà
Tràng lại vô tư đồng ý đưa thị - một người phụ nữ xấu xí, cũng nghèo khổ, đang ở
trong tình cảnh cùng đường vì thiếu miếng ăn - về làm vợ. “Sính lễ” chỉ có hai lần
gặp mặt, bốn bát bánh đúc và một câu nói tầm phơ tầm phào, thị đã đồng ý theo
Tràng, và Tràng từ đây đã có vợ.
Mới đầu, Tràng cũng lo lắng, chợt nghĩ: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng
chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Sau không biết nghĩ thế nào Tràng tặc
lưỡi “Chậc, kệ”. Lòng nhân hậu khiến anh không nỡ từ chối bởi trong cái đói quay
quắt thế này, cho miếng ăn là cho nhau sự sống, gắn thêm miệng ăn vào mình là
thêm một nguy cơ chết đói. Thế là Tràng quyết định “nhặt” vợ trong một tình huống
độc đáo, lạ lùng, thêm một chút hài hước. Phải chăng đằng sau quyết định ấy là một
niềm khát khao có được hạnh phúc lứa đôi, điều mà trong hoàn cảnh bình thường,
đó chỉ là mơ ước. Người ta bảo, câu chuyện anh cu Tràng nhặt được vợ là quyết định
liều lĩnh của những kẻ liều lĩnh. Nhưng phải thừa nhận với nhau một điều rằng, từ
sự liều lĩnh như vậy, chúng ta đã có được những thông điệp rất đáng trân trọng được
rút ra.
Chuyện Tràng nhặt được vợ khiến ai nấy đều bất ngờ, ngạc nhiên, bản thân
Tràng chính là người ngạc nhiên nhất. Với bản thân mình cộng với gia cảnh nhà
mình, có lẽ anh chưa bao giờ nghĩ tới việc xảy ra ngày hôm nay. Nhưng chỉ với một
lời bông đùa vu vơ, người phụ nữ đó đã theo anh về thật. Khoảnh khắc cầu hôn đối
với mỗi người đều là phút giây đáng trân trọng, nhưng với anh cu Tràng đó lại là
một giây phút, khoảnh khắc ngẫu nhiên không tính toán trước. Diễn biến tâm trạng
của Tràng sau đó khiến người đọc bắt được rất nhiều khoảnh khắc thú vị, cũng chứng
tỏ những người giống như anh ham sống tới nhường nào.
Trên đường về nhà, thái độ của Tràng có nhiều khác lạ. “Mặt hắn có một vẻ
gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp
lánh.” Nhà văn Kim Lân đã diễn tả sinh động niềm hạnh phúc và sự cưu mang, đùm
bọc lẫn nhau của những người nghèo khổ trong hoàn cảnh tăm tối của những ngày
đói kém. Tràng như quên cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, trong lòng chỉ còn tình
nghĩa đối với người đàn bà đi bên. Với anh, tình yêu (hay khởi đầu chỉ là tình thương)
gắn liền với trách nhiệm. Đó là cảm giác và biểu hiện đầu tiên cho thấy Tràng là một
người đàn ông tốt, chân thành, đáng quý. Trên đường về, Tràng cố tìm một khoảnh
khắc nào đó để nói với thị một câu cho thật tình tứ sau khi đưa thị vào chợ mua mấy
thứ đồ con con nhưng anh chàng lại không thể ngay lập tức thay đổi bản ngã thô
kệch của mình. Thế nhưng, sự chu đáo quan tâm tới người đàn bà bên cạnh mình
cũng đã được thể hiện khá rõ với việc nhìn thị xem thị đang cảm thấy thế nào, mua
2 hào dầu để tối nay thắp cho sáng, đùa với thị trên đường về nhà. Khi lũ trẻ trong
xóm chạy ra trêu anh, hôm nay anh không đùa mà nghiêm mặt lại, biết có bao nhiêu
ánh mắt đang đổ dồn về thị, anh thấy đó làm thích chí lắm. Lần đầu tiên đi bên một
người đàn bà mà người đó lại là vợ mình khiến người đàn ông như Tràng vốn dĩ rất
trẻ con nay là trưởng thành. Hạnh phúc dường như đang chạm khẽ, mơn man trái
tim của người đàn ông này sau biết bao tháng năm sống ngày qua ngày không chút
suy nghĩ.
Về đến nhà, anh cu Tràng đứng tây ngây trước khung cảnh cái nhà nằm rúm
ró giữa những bụi cỏ dại lổm nhổm. Khi dẫn thị vào nhà, tâm trạng và thái độ của
Tràng cũng có những diễn biến khá phức tạp. Bắt đầu là “xăm xăm bước vào trong
nhà”, dọn dẹp sơ qua, thanh minh về cảnh nhà bừa bộn vì thiếu tay đàn bà. Rồi Tràng
thấy ngượng nghịu “đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc”, chợt thấy sờ sợ, anh lấm
lét bước vội ra sân, sốt ruột mong mẹ về. Anh cứ chạy ra ngoài sân ngóng mẹ rồi lại
nhìn vào trong nhà, lòng thắc mắc không hiểu sao thấy thị cứ buồn buồn như vậy.
Anh không dám hỏi, chỉ tự hỏi mình, lòng cứ suy nghĩ vẩn vơ. Tràng hồi hộp và lo
lắng không biết mẹ sẽ nói gì với nàng dâu mới, mong ngóng mẹ trong lòng sốt ruột
như có lửa. Tràng bây giờ, đã trở thành một người đàn ông biết lo lắng những công
việc của mình.
Khi thấy mẹ về, Tràng “reo lên như một đứa trẻ”, trịnh trọng mời mẹ vào nhà,
trình bày mộc mạc câu chuyện lấy vợ đặc biệt của mình và xin ý kiến mẹ. Tràng là
người rất lễ nghĩa, ai dám bảo cái nghèo, cái đói sẽ tiêu diệt được đạo lí của con
người. Khi bà mẹ tỏ ý “mừng lòng”, anh thở phào nhẹ nhõm “bước từng bước dài ra
sân”. Niềm hạnh phúc của anh ngỡ như không phải bây giờ đã biến thành hiện thực.
Anh cu Tràng hiện tại đã là một người đàn ông chân chính của gia đình, anh đã có
vợ. Diễn biến tâm trạng từ ngạc nhiên, bất ngờ tới gần gũi, thân quen, từ lo lắng hồi
hộp tới hạnh phúc vỡ òa. Tất cả xảy ra giống như một câu chuyện kỳ diệu trong cuộc
sống, một câu chuyện khó tin nhưng có thật.
Sáng hôm sau, Tràng dậy muộn hơn và thấy cuộc đời mình từ đây đã thay đổi
hẳn. Tràng cảm thấy “Trong người êm ái lửng lơ như từ trong giấc mơ đi ra.” Tràng
ngạc nhiên vì nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng, mẹ và vợ đang dọn dẹp sân vườn. Từ giây
phút này, Tràng đã có một gia đình mới với bao đổi thay từ những thành viên trong
gia đình. Có vợ, nhân cách của Tràng cũng hoàn thiện hơn, anh bỗng thấy yêu
thương, gắn bó với cái nhà của mình hơn: “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn
thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng rất muốn bây giờ mình
có thể cùng với mẹ, với vợ thu dọn và tu sửa, làm một cái gì đó cho gia đình. Ánh
mắt của anh hướng phía người vợ. Bây giờ trước mặt anh là một người phụ nữ đảm
đang đúng mực, một người con dâu hiếu thảo không có vẻ gì là chao chát, chỏng lỏn
như hôm qua anh gặp ngoài chợ. Hạnh phúc khi có một gia đình lan tỏa khiến khoảnh
khắc gia đình chưa bao giờ vui vẻ đến thế. Anh nhẹ nhàng nói năng với mẹ, hiếu
thuận ngoan ngoãn, mang tâm thế của một người con hiếu thảo, một người chồng có
trách nhiệm và một người chủ gia đình.
Vậy là cuối cùng cuộc sống gia đình thực sự đã đến với Tràng- người đàn ông
thô kệch, nghèo khổ, giữa cơn đói khát, bên bờ vực của cái chết. Có một câu chuyện
cổ tích được viết giữa đời thường, giữa những ngày đói khủng khiếp 1945. Chính vẻ
đẹp lung linh tỏa sáng của tình người đã gắn kết họ với nhau, sống nhân ái, chan
hòa, hạnh phúc và nghĩ về tương lai với bao niềm tin, hi vọng. Bởi như lời của vợ
Tràng “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không chịu đóng thuế nữa đâu”
và Tràng nghĩ đến những người đi phá kho thóc của Nhật với lá cờ đỏ bay phấp phới,
mở đường đến một chân trời mới. Khi được vợ gợi ý về đoàn người đi phá kho thóc
trong bữa cơm ngày đói. Tràng đã bắt đầu mơ hồ một điều gì đó và cảm thấy tiếc rẻ
vẩn vơ. Đây là chi tiết mở cho người đọc có thể hoàn toàn tin tưởng vào sự thay đổi
của Tràng và thị khi được giác ngộ cách mạng.
Bằng cái nhìn mới mẻ về cuộc sống của người nông dân trước Cách mạng
tháng Tám, Kim Lân đã vẽ lên một bức tranh hiện thực về nạn đói và cái chết đầy bi
thương của những năm tháng này nhưng vẫn ánh lên khát khao hạnh phúc mãnh liệt
của người lao động nghèo khổ. Kim Lân đã không nỡ “giết chết đứa con tinh thần”
của mình mà đã gieo vào đó mầm hy vọng, mang đến hạnh phúc cho họ vào những
tháng ngày tăm tối nhất. Tấm lòng cảm thông, thấu hiểu thể hiện ở nghệ thuật miêu
tả tâm lí nhân vật một cách chi tiết, chính xác và hấp dẫn. Tràng, có lẽ chỉ dưới ngòi
bút của Kim Lân mới hiện lên mộc mạc, gần gũi và đáng mến đến thế. Nhà văn đã
khẳng định vẻ đẹp đáng trân trọng của người lao động dù trong hoàn cảnh nào họ
cũng không nguội tắt hy vọng, vẫn vươn lên để sống với một niềm tin vào tương lai
tốt đẹp hơn, thể hiện ở hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới cứ trở đi
trở lại trong tâm trí Tràng ở cuối câu chuyện. Tất cả đó đã thể hiện một tinh thần
nhân đạo cao cả của một nhà văn đôn hậu, giản dị - nhà văn Kim Lân.
"Cái đẹp cứu vớt con người" (Đôxtôiepki). Và, "Vợ nhặt" của nhà văn Kim
Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc
sống là nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm, xây dựng nên một nhân vật
anh cu Tràng với diễn biến tâm lí đầy tự nhiên nhưng cũng thật thấm thía, cảm động,
đặc biệt là từ khi đón người vợ nhặt về nhà, giúp bạn đọc khái quát được tinh thần
nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Đọc xong thiên truyện, dấu ấn mạnh mẽ nhất trong
tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy. Và nếu để dùng một nhận định
khái quát về thiên truyện này, tôi xin được mạn phép mượn lời văn của tác giả
Nguyễn Khải: “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ những
gian khổ, hy sinh. Trên đời không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều
cốt yếu là phải có đủ sức mạnh để bước qua những ranh giới đó.”
6. Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)
Đề bài: Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đêm mùa đông cởi trói cho
A Phủ (“Vợ chồng A Phủ” - Tô Hoài)
Bài làm
“Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc
cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn
đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến
ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên
đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh
Châu). Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã
thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy. Nhà văn mang đến cho người đọc một hình tượng
nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong đêm mùa
đông cởi trói cho A Phủ.
Tô Hoài – nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với vốn am hiểu
sâu rộng về nhiều lĩnh vực khác nhau, tác giả này thường lựa chọn được những hình
ảnh, từ ngữ rất phù hợp để đưa vào trong từng trang văn của mình. Tô Hoài sáng tác
nhiều ở các mảng đề tài khác nhau, có thể kể tới như truyện cho thiếu nhi, truyện về
Tây Bắc và viết cả về Hà Nội. Nhà thơ Trần Đăng Khoa khi được tiếp xúc với người
nghệ sĩ này đã trầm trồ thán phục rằng: “Tô Hoài là nhà Hà Nội học” bởi những kiến
thức mà ông biết không có trong bất cứ một cuốn sách nào, một thư viện nào. Sáng
tác nhiều như vậy, nhưng nhà văn này lại dành một sự quan tâm sâu sắc cho hình
ảnh của người lao động đặc biệt là đồng bào Tây Bắc. Theo như Tô Hoài tâm sự, vì
mảnh đất miền Tây đã để thương để nhớ cho ông nhiều quá nên ông đã quyết định
quay trở lại đây, trả món ân tình bằng một tập “Truyện Tây Bắc” xuất sắc. “Vợ chồng
A Phủ” là một trong số ba truyện ngắn in trong tập truyện này. Tác phẩm là thành
quả đẹp của chuyến đi thực tế dài 8 tháng vào năm 1952 cùng bộ đội. Thời gian ở
đây, được sống, được làm việc, được tiếp xúc đã giúp cho ngòi bút của nhà văn nay
có biết bao nhiêu cảm hứng để xây lên những áng văn đẹp và tình cho đời. Không
quên sứ mệnh của một nhà văn, Tô Hoài nhìn thấy những con người vất vả, yêu câu
chuyện mà họ kể lại viết thành những tác phẩm để đời. “Vợ chồng A Phủ” chính vì
lý do đó mà đã thể hiện mạnh mẽ một trong những phẩm chất cao đẹp của người lao
động – sức sống tiềm tàng.
Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Cô vốn là một cô
gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp và tài hoa nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt
về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Vì vậy, Mị phải từ bỏ tuổi thanh xuân,
phải sống một cuộc sống bị đọa đày về cả thể xác lẫn tinh thần. Mị đã từng muốn
tìm đến cái chết với nắm lá ngón trong tay nhưng Mị không thể chết. Nếu Mị chết,
cha Mị sẽ khổ, sẽ không thể trả được món nợ cho nhà thống lí. Mị đành chấp nhận
quay trở lại làm con dâu gạt nợ, sống kiếp đời nô lệ, tủi nhục, bất hạnh. Song song
với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong
muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong
đêm mùa xuân. Trong đêm mùa xuân ấy, Mị ý thức được về bản thân và về cuộc
đời rồi Mị muốn đi chơi. Sức sống tiềm tàng dưới tác động của bao yếu tố đã dần
trỗi dậy mạnh mẽ. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử lại một lần nữa dập tắt sức sống
của Mị. Dù phải chịu đau đớn và kết cục ê chề nhưng đêm ấy thật là một đêm có ý
nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống
vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực
đế sống theo tiếng gọi trái tim. Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời
trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà
Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị.
Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm
lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Và cuối cùng,
luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng
Tây Bắc đang về.
Mùa đông trên núi cao dài và lạnh, Mị chỉ có bếp lửa là người bạn duy nhất
của mình. Mị có thói quen sưởi lửa hàng đêm dù rất nhiều lần thằng A Sử nó về nhìn
thấy Mị sưởi lửa nó đã đạp Mị ngả dụi xuống đất. Nhưng Mị không bỏ được. Bếp
lửa đối với người con gái này không chỉ là công cụ sưởi ấm mà quan trọng hơn đó
còn là người bạn sưởi ấm tâm hồn của Mị trong những năm tháng đầy chai sạn này,
mà theo cách lí giải của tác giả Tô Hoài, ấy chính là phần vô thức của con người:
“Ngọn lửa là hình ảnh có tính chất tượng trưng, nó ở trong sự vô vọng của cuộc đời
Mị, dù rất mơ hồ nhưng nó níu kéo không để sự vô vọng lùa đi đến tuyệt cùng”.
Đêm hôm đó, cũng nhờ bếp lửa, Mị nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ - Chàng trai
gạt nợ cho nhà thống lý có thể ngày mai, ngày kia sẽ chết.
Chỉ vì mải bẫy nhím để hổ vồ mất bò, A Phủ phải chịu cảnh trói đứng nghiệt
ngã. Nhưng ban đầu, khi đối diện với một con người đang đứng trên bờ vực cái chết
là A Phủ ấy, “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Mị còn tự nghĩ A Phủ nếu là “cái
xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Mị hoàn toàn vô cảm, thờ ơ trước cảnh A Phủ bị
trói. Đây cũng là một diễn biến tâm lí bình thường, hợp lí. Nó hợp lí là bởi Mị đã ở
lâu trong khổ đau, đã chịu bao đày đọa về thể xác và tinh thần. Cái cuộc sống ở nhà
thống lí Pá Tra đã làm bào mòn đi tâm hồn Mị. Mị đã bị tê liệt đi mọi cảm xúc, ý
thức, nhận thức, Mị trở nên vô cảm, thờ ơ với nỗi đau của chính mình và cả nỗi đau
của người khác. Hơn thế nữa, cảnh trói người, đánh người cũng chẳng còn là xa lạ ở
nhà thống lí Pá Tra. Nó diễn ra một cách thường xuyên, hằng ngày, hằng giờ. Cuộc
sống của những con người ở nhà thống lí đầy cơ cực, đắng cay và đày đọa. Chính vì
vậy họ chẳng còn có thể đồng cảm, quan tâm đến nỗi đau của người khác.
Như vậy hoàn cảnh nghiệt ngã của đồng loại cũng chẳng còn lay động được
tâm hồn Mị nữa rồi. Có lẽ phải cần thêm một tác nhân nữa. Và đó chính là dòng
nước mắt của A Phủ. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ
cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”.
Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần.
Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng
Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người cùng cảnh ngộ. Quả thật “Khi tình thương
chạm vào trái tim thì cho dù sỏi đá cũng thành châu lệ”. Mị hiểu cảm giác bị trói
đứng đến chết “chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”, bởi Mị đã từng bị A Sử trói
như vậy. Ở đoạn văn này, tác giả không hề đề cập đến nỗi đau về thể xác của Mị,
cũng không hề viết về nỗi tủi nhục của A Phủ nhưng tất cả đều hiện lên thật rõ. Mị
đã cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính những cảm xúc xuất phát từ nỗi đau của
mình. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà đời trước cũng bị trói đến chết trong
căn nhà này. Lần đầu tiên, Mị nhận thức được tội ác của cha con thống lí một cách
cặn kẽ: “Chúng nó thật độc ác!” – điều mà từ trước đến nay, ngay cả khi bị trói
không cựa được Mị cũng chưa từng nghĩ. Đó là sự trỗi dậy ý thức về kẻ thù, căm
ghét cái ác, cái tàn bạo. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng.
Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho
thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì
chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Từ thương mình, tới thương người, Mị
cảm thấy thương A Phủ: “cơ chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau,
chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị
phảng phất nghĩ như vậy”. Trong Mị đã le lói để rồi xuất hiện thật rõ ý muốn phản
kháng, ý muốn cứu người, rồi tất yếu sẽ dẫn đến hành động cắt dây trói đầy dũng
cảm.
Một loạt nét tâm lí ấy đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cứu A Phủ. Nhưng trước
khi cắt: Mị băn khoăn “cha con thống lý sẽ đổ cho Mị cởi trói, Mị sẽ bị trói thay vào
đấy...”, rất có thể Mị sẽ phải chết thay A Phủ. Nhưng làm sao, “Mị cũng không thấy
sợ”, lòng thương người trong Mị đã lớn hơn cả sự sợ hãi. Mị rón rén bước lại gần A
Phủ, rút con dao nhỏ, cắt nút dây mây. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy
hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Trong Mị
giờ đây không chỉ tiềm tàng ý thức muốn phản kháng cái ác mà mạnh mẽ hơn đó là
sự thôi thúc của tình thương, của lòng trắc ẩn đã trỗi dậy. Sau khi cắt dây cởi trói
cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì
thào lên một tiếng “Đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. Đó là mệnh lệnh đối với A Phủ đồng
thời là một lời kiên quyết đối với tâm hồn mình. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn
đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối
của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây
chờ chết? Bởi theo tập tục của dân tộc của Mị, đã cúng trình ma rồi thì dù chết cũng
phải chết ở nhà đó, nếu chạy trốn cùng A Phủ thì Mị không đơn giản chỉ là giải thoát
cho mình mà còn là làm trái với tập tục, với truyền thống. Đây chẳng còn là chuyện
về ý chí nữa mà còn là chuyện về tâm linh, ý niệm.
Nhưng cận kề nhất với Mị sẽ là cái chết, chắc chắn là chết, nếu Mị ở lại. Đồng
thời cái hình ảnh của A Phủ “quật sức vùng lên” tác động mạnh vào Mị. Mị đứng
lặng trong bóng tối. Rồi cũng vụt chạy ra. “Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”.
Nghĩa là phía trước mọi cái vẫn tối tăm và bất định lắm, nhưng đó là sự bất định
chưa rõ, còn cụ thể ngay giờ đây là cái chết. Trong tình huống đó, cả A Phủ và Mị
không thể có con đường nào khác là chạy đi. Bước chân của Mị như đạp đổ chế độ
cường quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đã đè nặng tâm hồn Mị suốt
bao nhiêu năm qua. Mị gọi với theo: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là
khao khát sống, khao khát tự do mãnh liệt của Mị. Câu nói ấy khi cất lên đã làm
quặn đau trái tim độc giả, truyền đến độc giả sự cảm nhận rõ nhất về biết bao khổ
cực Mị đã phải gánh chịu, cùng với đó là sự phục sinh mạnh mẽ hơn tất thảy của
niềm khao khát sống trong Mị. Kể từ đây, những áp chế về cường quyền, bạo quyền
và thần quyền đều ở lại. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, những ngày
phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến, chỉ biết rằng phải cật lực chạy thoát khỏi
địa ngục trần gian này.
Hành động cắt dây cởi trói cứu A Phủ chính là bước ngoặt quan trọng trong
cuộc đời Mị. Từ thân phận nô lệ, Mị làm chủ cuộc đời mình. Từ sức sống tiềm tàng,
âm ỉ đã phát triển thành sức mạnh giải phóng để thay đổi cuộc đời. Nhà văn Tô Hoài
đã thật tinh tế khi sử dụng nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, cách dựng cảnh sinh động,
cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ, thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị đã đưa
ta đến chốn Hồng Ngài đầy dẫy đau thương nhưng vẫn sáng lên khao khát sống mãnh
liệt của con người. Từ hành động cứu người của Mị, chúng ta nhớ đến sự việc giải
cứu linh hồn quỷ dữ làng Vũ Đại của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo”
của Nam Cao. Chỉ với việc đem cho Chí bát cháo hành mà Thị Nở đã làm thay đổi
suy nghĩ và tâm tính của một con người triền miên trong cơn say và tội lỗi. Phải
chăng “tình thương là một thứ năng lượng kì diệu mà bản thân nó có thể tạo ra những
phép lạ”. Hay như sức sống mãnh liệt của những con người đang trên bờ vực chết vì
đói trong “Vợ nhặt” của Kim Lân, sau cùng họ vẫn hướng về ánh sáng của no ấm,
tự do, hạnh phúc. Tiềm ẩn trong mỗi con người vẫn luôn là khát vọng sống lớn lao
mà không một khó khăn, không một cường quyền, bạo quyền nào có thể vùi dập
hoàn toàn.
Một loạt câu văn ngắn, nhiều động từ đã được Tô Hoài sử dụng tạo nên
tình huống hành động, giàu kịch tính cho đoạn trích. Khác với những sự kiện ở đoạn
trước, tâm lí của Mị được thể hiện chủ yếu qua ngôn ngữ độc thoại. Trong sự kiện
cuối cùng mang tính chất cao trào này, nhà văn vừa sử dụng ngôn ngữ độc thoại, vừa
xen kẽ những lời thoại ngắn nhằm tạo độ nén, độ căng cho tác phẩm. Từ đó nhà văn
khẳng định sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã
giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với
việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những
phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt
Nam nói chung. Nhà văn đã rất cảm thông và xót thương cho số phận tủi cực, không
lối thoát của đồng bào bị áp bức như Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và
chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong
trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời, tác giả Tô
Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: “Ở đâu có áp bức bất công thì ở đó
có sự đấu tranh’’, để chống lại áp bức, con người có thể dũng cảm vùng lên mạnh
mẽ, dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị.
Câu chuyện “Vợ chồng A Phủ” khép lại nhưng đồng thời mở ra trong ta những
xúc cảm đặc biệt. Hình tượng nhân vật Mị trong đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ
đã cởi nút thắt cho bao nhiêu tăm tối và cùng cực của con người, đó nhưng một lời
tuyên ngôn về sức mạnh của tình thương yêu và khát khao sống, khát khao tự do
mãnh liệt. Ngòi bút Tô Hoài đã diễn tả thành công cuộc đời cũng như con đường
đấu tranh từ tự phát đến tự giác của đồng bào miền núi, bằng lời văn giàu tính tạo
hình, ngôn ngữ giản dị, phong phú và nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, lôi cuốn. Với
“Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã thực sự trở thành “kẻ nâng giấc cho những con người
bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường.” (Nguyễn
Minh Châu)

7. Người lái đò sông Đà


Đề bài: Cảm nhận của anh/chị về sự hung bạo của sông Đà trong đoạn trích
sau:
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những
cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng
cầu… Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho
người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân rồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép
một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy
đánh phèn.
Bài làm
Trong những vần thơ của mình, Nguyễn Đình Thi đã từng viết:
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.”
Việt Nam - một đất nước với hơn bốn nghìn năm lịch sử, lưng tựa thế núi, mặt trông
ra biển Đông. Một đất nước được tạo hóa ban tặng những phong cảnh thiên nhiên
tươi đẹp, cảnh sắc hùng vĩ, rung động lòng người. Có biết bao nhiêu cảnh đẹp đã
bước vào văn học nghệ thuật, trở thành nguồn cảm hứng bất tận của nhiều áng văn
thơ. Một trong số đó ta không thể không kể đến vẻ đẹp của dòng sông Đà – một
trong những kiệt tác của thiên nhiên mà chỉ khi được viết dưới ngòi bút của Nguyễn
Tuân mới thực sự trở nên chân thực, sống động. Khát khao cống hiến cho nghệ thuật,
khát khao đi tìm và thể hiện những cảm giác mạnh mẽ, dữ dội, cộng với chất nghệ
sĩ phóng túng, tự do đã thúc đẩy Nguyễn Tuân đến với dòng sông Đà để văn học
Việt Nam có thêm hình tượng một con sông, người yêu văn chương có thêm một tác
phẩm để mà yêu dấu, kính trọng – “Người lái đò Sông Đà”. Trong tác phẩm này, nổi
bật có thể kể đến đoạn trích miêu tả con sông Đà hung bạo với những cái hút nước
chết người nơi quãng Tà Mường Vát.
“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải
có phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình".
Đúng vậy, những nhà văn, nhà thơ, những người nghệ sĩ luôn sáng tạo nên những
sản phẩm nghệ thuật độc đáo và đúng chất riêng của mình. Về phong cách độc đáo,
ta không thể không kể đến Nguyễn Tuân - người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp,
người đã tự nhận mình “sinh ra để tôn thờ Nghệ Thuật bằng hai chữ viết hoa”. Phong
cách sáng tác tài hoa, uyên bác cùng đam mê xê dịch đã đưa Nguyễn Tuân đến với
nhiều vùng miền Tổ quốc, chắp bút cho bao áng văn đặc sắc, điêu luyện. Và Nguyễn
Tuân cứ thế đến với sông Đà như một lẽ tất yếu. Là thành quả chuyến đi gian khổ
và hào hứng của Nguyễn Tuân lên miền đất Tây Bắc xa xôi và rộng lớn những năm
1958 – 1960, tùy bút “Sông Đà” nói chung mà tiêu biểu là đoạn trích “Người lái đò
Sông Đà” đã không chỉ thỏa mãn niềm khát khao xê dịch của tác giả mà chủ yếu đã
tìm được chất vàng trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, phát
hiện thứ vàng mười đã qua thử lửa của tâm hồn con người nơi đây trong cuộc sống
hằng ngày của họ.
Những hình tượng được xây dựng trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân đều
bao chứa những tính cách đặc biệt. Sông Đà cũng là một hình tượng như vậy. Trải
suốt từ trang đầu đến trang cuối tác phẩm là hình ảnh dòng sông Đà được chụp lại ở
nhiều chiều, nhiều góc độ khác nhau. Đặc biệt những dòng văn miêu tả cái hút nước
trên sông Đà với sự huy động một vốn hiểu biết phong phú ở nhiều lĩnh vực của
Nguyễn Tuân đã đem đến cho bạn đọc những trải nghiệm văn chương thực thú vị và
độc đáo.
Những cái hút nước trên sông Đà là nỗi đe dọa thường trực với bất cứ con
thuyền nào đi ngang qua. Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn
La lại ghê rợn hơn nữa. Về hình thù nó giống như “cái giếng bê tông thả xuống để
chuẩn bị làm móng cầu”. Cách so sánh của Nguyễn Tuân giúp bạn đọc vừa có sự
hình dung khái quát trong góc nhìn từ xa đối với những cái hút nước ấy, lại vừa
khiến cho bạn đọc như đang ngồi trên thuyền mà nhìn trực diện vào những hút nước
đó vậy. Miêu tả về hình thù thôi là chưa đủ, nhà văn còn đưa đến những âm thanh
dữ dội: “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nó kêu ặc ặc như tiếng rót
dầu sôi vào”. Những từ tượng thanh kết hợp cùng hình ảnh so sánh chân thực đã tái
hiện thành công thứ âm thanh của một con thủy quái khổng lồ đang bị bóp cổ. Chẳng
những thế, sự chết chóc hiện ra khi nhà văn so sánh “trên mặt cái hút xoáy tít đáy,
cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn” rồi tường thuật: “Không thuyền nào dám
men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng
sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp
ra ngoài bờ vực” hay “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Thật là những cái bẫy ghê sợ, chết
người! Từ hình ảnh đến âm thanh, tất cả đều khiến người đọc dễ dàng hình dung ra
một loài thủy quái với tâm địa độc ác. Nguyễn Tuân sử dụng nhiều từ ngữ đặc tả, sử
dụng hình ảnh so sánh thú vị để thể hiện cảm giác mà chính bản thân mình trải
nghiệm sau những lần thực tế trôi thuyền trên sông Đà.
Cứ như thế, để người đọc có thể trực tiếp trải nghiệm cảm giác đáng sợ của
những cái hút nước chết người, Nguyễn Tuân đưa ra một hình ảnh so sánh liên tưởng
táo bạo: Cho một anh quay phim táo tợn ngồi vào chiếc thuyền thúng mang theo
máy quay của mình để lao vào cái hút nước. Sau đó lia máy quay lên để thu hình cột
nước cao vài sải, “cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy
lia ngược contre-plogée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước
sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp
vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem”. Cái hay của nhà văn này hay
cũng đã trở thành thói quen, phong cách của ngòi bút Nguyễn Tuân, chính là sự kết
hợp rất nhịp nhàng giữa những câu văn thật dài và những câu văn rất ngắn. Tác giả
thường dùng câu văn ngắn để tổng kết cho biết bao những gập ghềnh, trắc trở, hiểm
nguy dồn dập trong câu văn dài đằng trước. Ở đây là tổng kết cho quá trình anh quay
phim quay cuồng cùng hút nước sông Đà để thu về thước phim táo tợn: “Thế rồi thu
ảnh.” Hay ở đoạn sau, một câu văn ngắn cũng được dùng để tổng kết cho trận chiến
gian lao người lái đò vật lộn với sóng nước Đà giang: “Thế là hết thác.” Lối viết
“độc tấu” ấy, người đọc thực sự thán phục ở ngòi bút Nguyễn Tuân. Sự hung bạo
độc đáo của sông Đà dường như khiến cho nhà văn này liên tưởng bao nhiêu, hóa
thân bao nhiêu cũng là không đủ. Đặt mình vào vị trí anh quay phim cũng là chưa
thể diễn tả hết cảm giác khi đối diện với hút nước sông Đà, nhà văn còn “lấn sân”
sang tâm thế của người xem phim kí sự: “Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng
xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân rồi
giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước
khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn”. Không biết nhà văn đã thỏa mãn với những
dòng văn miêu tả này chưa nhưng với bạn đọc, từ tri giác đến cảm giác đều thấy
được sông Đà hung bạo và dữ tợn lắm rồi, chính ở những cái hút nước mà nhà văn
đã dụng công khắc họa ấy. Đọc những dòng văn của người nghệ sĩ này, người đọc
đang trong bất cứ tư thế nào cũng thường tìm tới một điểm để bấu víu. Họ sợ độ
rung, độ xoáy tít, âm thanh dữ tợn mà những cái hút nước tạo ra.
Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, sự hùng vĩ của Đà giang đã hiện ra
ở nhiều dáng vẻ khác nhau mà đáng sợ nhất có thể kể tới là những cái hút nước ở
quãng Tà Mường Vát, tất cả đều toát lên sự hoang dại, sức mạnh kỳ bí, một đối
tượng ẩn chứa bao sức mạnh lạ lùng của thiên nhiên. Con sông độc, lạ đấy thích hợp
với ngòi bút độc lạ Nguyễn Tuân: “Sông Đà quay sóng và câu văn Nguyễn Tuân
cũng dậy sóng” (Phan Huy Dũng). Những dòng văn xuôi trúc trắc gập ghềnh như
muốn chạy đua cùng với sóng thác sông Đà. Ở đó ta bắt gặp rất nhiều phép so sánh
liên tưởng thú vị và bất ngờ, ngôn ngữ miêu tả thì không thể nào độc đáo và tài hoa
hơn. Hình tượng dòng sông Đà được tái hiện trong trang văn bằng tất cả tài năng và
tâm huyết của nhà văn, con người ngang tàng đấy, mạnh mẽ đây mà cũng nồng nàn
tình cảm với đất nước, con người quê hương... Văn chương bao giờ cũng là con
người tác giả, thể hiện cái nhìn tác giả trong từng chi tiết, hình ảnh. Nhiều yếu tố tập
hợp lại, cho người đọc làm quen với một con người nhà văn hoàn thiện.
“Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến với
xứ sở của cái đẹp” (K.Pautopxki). Với tùy bút “Người lái đò Sông Đà” nói chung và
đoạn trích trên nói riêng, ngòi bút của Nguyễn Tuân như nở hoa trong sự hòa phối
diệu kì giữa cái đẹp của ngôn từ và ánh sáng tuyệt mĩ của chiều sâu hình ảnh, dẫn
dắt người đọc đến vẻ đẹp hung bạo mà ấn tượng vô cùng của thiên nhiên Tây Bắc.
Văn chương Nguyễn Tuân đã đem đến cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng
biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó chính là chân trời của cái đẹp, sự tài hoa và uyên bác.

8. Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)


Đề bài: Anh/chị hãy phân tích câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại tòa
án huyện trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu). Từ
đó, hãy bình luận về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam thể hiện qua nhân vật
này.
Bài làm
Ai-ma-tốp từng nhận xét: “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc
ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp”.
Văn học và tình thương luôn gắn bó khăng khít như thế. Để rồi mỗi nhà văn cũng là
một “nhà nhân đạo”, biết rung động, biết viết lên những trang văn, trang đời thấm
thía, truyền tải bao thông điệp khó quên. Về những cây bút chân chính ấy, ta không
thể không kể đến Nguyễn Minh Châu. Bởi với truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”,
nhà văn này đã đem lên trang giấy số phận của những con người còn đang lam lũ,
vất vả giữ cuộc sống mới với còn đó là bao vấn đề đáng trăn trở, nghĩ suy. Tác phẩm
có nhiều chi tiết ấn tượng, song tiêu biểu nhất có thể kể đến là câu chuyện của người
đàn bà hàng chài ở toà án huyện. Từ những cảm nhận về câu chuyện đó, bạn đọc
thêm xúc động và thấm thía về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Nguyễn Minh Châu là một tác gia tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt
Nam. Là cây bút đi tiên phong cho quá trình đổi mới văn học như nhà văn Nguyên
Ngọc từng ca ngợi: “Nguyễn Minh Châu thuộc trong số những nhà văn mở đường
tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”; ông luôn ý thức về ngòi bút của
mình, luôn trăn trở, tìm tòi, đổi mới cách viết cũng như phát hiện những điều mới
mẻ, có ý nghĩa trong cuộc sống để thể hiện. Là cây bút có nhiều trải nghiệm trong
cuộc sống, cuộc sống của những người lính ngoài chiến trường cũng như cuộc sống
của những người dân chài sau chiến tranh, Nguyễn Minh Châu đã dựng lên một bức
tranh góc cạnh có chiều sâu, có sức khái quát cao về cuộc sống đa diện, nhiều chiều
luôn vận động và phát triển. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện
ngắn đặc sắc của Nguyễn Minh Châu trong chặng đường văn học thời kỳ đổi mới.
Truyện xoáy sâu vào bức tranh hiện thực của đời sống người lao động thuyền chài
ở một vùng ven biển miền Trung. “Chiếc thuyền ngoài xa” được tác giả viết vào
năm 1983, lúc đầu được in trong tập “Bến quê”, sau đó có vinh dự được nhà văn
dùng để đặt tên cho cả tập truyện ngắn xuất bản năm 1987.
Truyện kể về chuyến đi thực tế của nghệ sĩ nhiếp ảnh tên Phùng tại vùng biển
miền Trung để chụp ảnh làm lịch nghệ thuật. Một buổi sáng, Phùng đã chụp được
bức ảnh “trời cho”, đó là ảnh của một chiếc thuyền lưới vó trong buổi bình minh
sương sớm. Cùng lúc ấy, Phùng phát hiện ra câu chuyện kì lạ về gia đình hàng chài
sống trên chiếc thuyền ấy: người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn với thái độ cam
chịu. Đó không phải là lần duy nhất bạo lực diễn ra trong gia đình này. Bởi vậy,
người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện theo lời mời của chánh án Đẩu, người có
ý định khuyên bảo, thậm chí đề nghị người đàn bà khốn khổ ấy từ bỏ lão chồng vũ
phu. Nhưng người đàn bà đã từ chối sự giúp đỡ, chị chịu đau đớn, đánh đổi bằng
mọi giá để không phải bỏ chồng. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án
huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời. Nó giúp những người như Phùng, Đẩu hiểu
được nguyên do của những điều tưởng chừng vô lí.
Bề nổi của câu chuyện, tác giả Nguyễn Minh Châu đem lên trang truyện hình
ảnh một người đàn bà nhọc nhằn, lam lũ: “người đàn bà trạc ngoài 40, một thân hình
quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ
mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang
buồn ngủ”. Vất vả là vậy nhưng gia đình lại không mấy yên vui, cứ “ba ngày một
trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, người chồng vũ phu. Bạn đọc, cũng giống như
Đẩu và Phùng đã rất thương cảm trước tình cảnh nhẫn nhục, cam chịu của chị. Mọi
người đều muốn khuyên nhủ và giúp đỡ chị nhưng tất cả những gì nhận về lại là sự
phản đối, cầu xin không bỏ chồng. Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu
người lại” càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó
bỏ. Tuy nhiên chỉ một lát, “người đàn bà lại lúng túng và sợ sệt”. Có lẽ cuộc sống
của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua.
Nhưng về sau, trong mong muốn từ chối sự giúp đỡ của mọi người, người đàn
bà đã kể lại câu chuyện về cuộc đời mình và gián tiếp giải thích lí do vì sao chị nhất
quyết không thể bỏ lão chồng vũ phu. Giọng điệu sắc sảo, phong thái chững chạc
từng trải bất ngờ thể hiện trong dáng vẻ của người đàn bà này càng kích thích trí tò
mò của những người có mặt tại đó. Nhưng giây phút ấy không lâu, người đàn bà lại
trở về với vẻ lúng túng và sợ sệt, mong muốn được chia sẻ nhiều hơn. Và mụ bắt
đầu kể câu chuyện về cuộc đời mình, đồng thời cũng là mở cánh cửa nhận thức và
chiêm nghiệm cho mỗi chúng ta.
Từ nhỏ đã mang ngoại hình xấu xí: bị rỗ mặt, bị lên đậu mùa, lớn lên gặp được
người con trai cục tính nhưng hiền lành, mở đầu cho câu chuyện là những kỉ niệm
có phần hạnh phúc, người đàn bà thâm trầm và chững chạc hơn. Lắng nghe câu
chuyện của chị, cả Đẩu và Phùng đi từ bất ngờ, phẫn nộ sang cảm thương, xúc động.
Suy cho cùng, sự nhẫn nhịn, chịu đựng của chị đều vì con, vì cái gia đình nhỏ này
cần có người chèo chống lúc biển động, phong ba. Chị hiểu cơ cực của của cuộc
sống mưu sinh đầy cam go trên biển nếu không có người đàn ông: thuyền ở xa biển,
cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Đối với chị, các con chính là cuộc
sống, là lí do để chị sống tiếp. Khi thằng con trai chị xăm xăm con dao trên tay định
xông vào khi chứng kiến cảnh bố đánh đập mẹ. Chị đã nhanh tay ôm lấy nó, khóc
lóc van xin nó đừng làm ra chuyện có lỗi với đạo lí. Chị hy vọng nó đừng đi vào vết
xe đổ của cha. Chị thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau khi bị chồng đánh, chị xem
điều ấy là lẽ đương nhiên, bình thường của cuộc sống đầy cam go. Trên chiếc thuyền
kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khỏe mạnh và biết nghề, và quan
trọng hơn tất cả vì những đứa con của chị cần được sống và lớn lên. Vì thế, chị chấp
nhận mọi thứ, nhận hết vào mình bao đau đớn về thể xác, nhận hết những gì vất vả
và tủi cực trong tâm hồn. Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là
sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho
con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”.
Không chỉ hy sinh tất cả vì con cái, người đàn bà ấy con bao dung, thấu hiểu
cho chồng mình. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Chị nhận hết cái
sai về mình. Chị cho rằng do mình đẻ nhiều, do nghèo đói, do áp lực lên chồng chị
mới như vậy. Chị giải thích chồng mình khi xưa từng là một người hiền lành chăm
chỉ, do hoàn cảnh nên mới trở nên hung bạo, vũ phu. Chính cuộc vật lộn mưu sinh
đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Ta thấy trong khổ đau triền miên, người
đàn bà ấy vẫn chắt chiu được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi. “Vui nhất là lúc ngồi
nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”, “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái
chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Niềm vui ấy không phải xuất phát từ những giá
trị vật chất, cũng không phải niềm vui riêng cá nhân của người đàn bà mà đó là niềm
vui của một người mẹ, người vợ. Chỉ cần con cái hạnh phúc là chị cũng cảm thấy
hạnh phúc. Những điều tưởng chừng bình dị ấy – bữa cơm no, tiếng cười vui vẻ của
lũ trẻ lại là những điều mà người đàn bà khát khao và dù niềm vui chỉ “có lúc” nhưng
cũng đủ để người đàn bà chấp nhận cam chịu những đòn roi. Bởi chị không chỉ sống
cho riêng mình mà còn sống vì con. Đó là nguyên nhân mang tính chất quyết định
cho việc bà nhất mực không đồng ý ly hôn với chồng. Ẩn sau sự cam chịu ấy là tâm
hồn của một người mẹ với biết bao tình yêu, sự hi sinh đáng nể.
Trong câu chuyện của mình, người đàn bà không đứng trên phương diện của
người dân – chính quyền mà chị đứng trên phương diện của kinh nghiệm và sự từng
trải: “các chú đâu phải người làm ăn …cho nên các chú đâu có biết cái việc của các
người làm ăn lam lũ, khó nhọc …”, “bởi các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ
các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không
có đàn ông”. Ta thấy người phụ nữ ấy còn là người từng trải, sâu sắc. Chị không còn
xưng hô “con – quý toà” mà tự xưng là “chị” và gọi Phùng, Đẩu là “các chú”. Nguyên
nhân của sự thay đổi ấy là vì chị đã cảm nhận được thiện ý của hai người và có lẽ
còn là sự cảm thông của chị cho góc nhìn còn phiến diện của họ. Giờ đây người đàn
bà đã bỏ đi sự sợ sệt khúm núm mà chuyển sang tâm sự chuyện đời mình.
Câu chuyện đã giúp chánh án Đẩu hiểu về người đàn bà hàng chài - một phụ
nữ nghèo khổ, nhẫn nhục, sống kín đáo, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, có tâm hồn đẹp đẽ,
giàu đức hi sinh và lòng vị tha; về người chồng của chị - vì nghèo đói bất lực nên
bất kể lúc nào thấy khổ quá là lôi vợ ra đánh; về nghệ sĩ Phùng - sẵn sàng làm tất cả
vì sự công bằng nhưng lại đơn giản trong cách nhìn nhận, suy nghĩ và về chính mình
- có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng kinh nghiệm sống chưa nhiều. Trước
khi nghe câu chuyện của người đàn bà, thái độ của anh rất cương quyết. Anh tin ở
lời khuyên đúng đắn và đầy sức thuyết phục của mình: “chị không sống nổi với cái
lão đàn ông vũ phu ấy đâu”. Nhưng khi nghe xong câu chuyện “một cái gì đó vỡ ra
trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm
nghị và đầy suy nghĩ”. Có lẽ giải pháp “bỏ chồng” mà Đẩu áp dụng trong trường
hợp của người đàn bà này là không ổn. Trong hoàn cảnh ấy, cách hành xử của chị ta
dường như là không thể nào khác.
Cũng như Đẩu, nghệ sĩ Phùng im lặng sau câu chuyện của người đàn bà. Hẳn
rằng, người nghệ sĩ nhiếp ảnh cũng đang trầm ngâm suy nghĩ những gì vừa xảy ra.
Lúc này, Phùng vỡ ra được nhiều điều. Người đàn bà thất học, quê mùa không hề
cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực ra chị ta
là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Trong khổ đau, cơ cực, chị biết chắt chiu từng
giọt của hạnh phúc đời thường. Chị luôn sống với tâm niệm thiêng liêng là: “sống
cho con chứ không thể sống cho mình”. Chánh án Đẩu là người có lòng tốt, sẵn sàng
bảo vệ công lí nhưng còn xa rời thực tế, chưa thực sự đi vào cuộc sống nhân dân.
Lòng tốt là điều rất quý, luật pháp là điều cần thiết nhưng cả hai vẫn chưa đủ sức
mạnh giúp con người thoát khỏi cuộc sống tăm tối và những hành động man rợ. Tất
cả phải đặt vào hoàn cảnh cụ thể và cần phải có giải pháp thiết thực. Phùng nhận
thấy mình đã đơn giản khi nhìn nhận cuộc đời và con người. Cũng như người đồng
đội Đẩu, anh chỉ nhìn người một cách phiến diện, nông nổi ngây thơ chẳng khác gì
thằng bé Phác: chỉ thấy được một khía cạnh của người đàn ông hàng chài là độc ác,
tàn nhẫn, vì vậy cần phải đấu tranh, lên án. Trong khi đó, người đàn bà quê mùa, xấu
xí, thất học lại có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn. Đối với người đàn ông độc ác,
dữ dằn, chị đau đớn nhưng không oán hận vì chị thấu hiểu nguyên nhân sâu xa
nguyên nhân dẫn đến hành động vũ phu ấy, bởi xét đến cùng, anh ta cũng chỉ là một
nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Tuy là nạn nhân của nạn bạo hành nhưng
người phụ nữ ấy đã để lại cho người đọc không chỉ niềm thương cảm về số phận bất
hạnh mà còn là sự cảm phục sâu sắc và đức hi sinh.
Từ câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện, ta thấy thấp
thoáng trong hình ảnh người phụ nữ ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt
Nam. Chị hiện lên với những vẻ đẹp phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam:
chịu thương, chịu khó, cam chịu, nhẫn nhục, một lòng một dạ vì chồng, vì con, hi
sinh hạnh phúc của mình để đổi lấy hạnh phúc gia đình; chắt chiu hạnh phúc mong
manh nhỏ nhoi để làm động lực cho cho cuộc hôn nhân không mấy êm đẹp, thấu
hiểu và cảm thông cho chồng khi phải vất vả chèo chống một nhà đông con, hiểu
hoàn cảnh gia đình nên không đòi hỏi gì cho mình,... Khám phá và khắc hoạ vẻ đẹp
của người phụ nữ, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã thể hiện niềm tin vào phẩm chất
của con người dù trong hoàn cảnh khốn cùng nhất. Cách phát hiện, miêu tả những
phẩm chất đẹp đẽ của người đàn bà hàng chài gợi trong ta nhiều bài học về cách nhìn
con người, đồng thời cũng bồi đắp ở ta thái độ yêu thương, quý trọng hơn tấm lòng,
sự hi sinh của những bà những mẹ trong cuộc sống hàng ngày. Hình ảnh người đàn
bà hàng chài không đẹp đẽ về ngoại hình nhưng chính chị lại là viên ngọc quý – là
một hạt ngọc bị khuất lấp trong sự lấm láp lem lũ của cuộc sống mà Nguyễn Minh
Châu hằng tìm kiếm.
Tóm lại, qua câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài và cách ứng
xử của các nhân vật, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến người đọc thông
điệp: đứng nhìn cuộc đời, con người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh giá
sự việc, hiện tượng trong các mối quan hệ đa diện, nhiều chiều. Từ nhân vật người
đàn bà làng chài, người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người
phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. Dù rơi vào hoàn cảnh nào cũng chịu thương,
chịu khó, nhẫn nhục, hi sinh. Sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí đọc giả về hình ảnh
tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa
con. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa
cho số phận con người bị mà còn thể hiện niềm tự hào cũng như sự trân trọng với
những vẻ đẹp tâm hồn cao quý dù “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

Học văn chị Hiên – Hơn cả một bài văn !!

You might also like