Professional Documents
Culture Documents
Tài Liệu Tặng Học Văn Chị Hiên
Tài Liệu Tặng Học Văn Chị Hiên
Cảnh vừa khắc nghiệt, gian khổ, đan xen nét tinh nghịch của anh bộ đội cụ Hồ chính
là điểm nhấn cho đoạn thơ này. Chưa dừng lại ở đó, cảnh thiên nhiên Tây Bắc còn
được tái hiện trong câu thơ tiếp theo:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Biết bao nhiêu gian lao thử thách, vừa như muốn quật ngã người lính cách mạng, lại
vừa như kích thích họ đi tới, dẫn tới của sự chinh phục. Cảnh rừng núi hiểm trở với
dốc lên khúc khuỷu, với hun hút cồn mây, với độ cao thấp đến choáng ngợp của
"ngàn thước lên cao ngàn thước xuống", khiến người đọc dường như đang chơi một
trò bập bênh chóng mặt. Núi cao thì cao vời vợi, vực sâu thì sâu thăm thẳm. Câu thơ
mang dáng dấp của hai vế tiểu đối sử dụng các cặp từ đối lập để đặc tả địa thế hiểm
trở của núi rừng nơi đây. Thế nhưng sau tất cả những gian khổ đe dọa bởi địa hình
hiểm trở, người ta vẫn nhìn thấy sự sống của con người khi dừng lại ngắm nhìn
những nếp nhà Pha Luông:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Những nếp nhà Pha Luông nằm giữa biển mưa bụi, mưa nhẹ nhàng, êm đềm. Những
chiến sĩ Tây Tiến dừng chân nơi đèo cao, ngắm nhìn khoảnh khắc bình yên hiếm hoi
sau những chặng đường hành quân vất vả. Tôi tự hỏi lòng mình, trong giây phút
được lắng lại nhiều phần tâm hồn như vậy, người chiến binh Tây Tiến liệu có đang
nhớ về quê hương của mình hay không?
Hoài niệm về đoàn binh Tây Tiến còn có hình ảnh người lính dẫn chặng đường
hành quân vất vả bởi núi cao, vực sâu, mưa sa, sương phủ, không ít người trong số
họ đã gục ngã, Quang Dũng không hề giấu giếm hiện thực đau thương ấy, nhà thơ
tái hiện lại trong những vần thơ của mình:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Nhà thơ nói về "anh bạn" là nói về những đồng chí, đồng đội của mình, ngày nối
ngày, đêm nối đêm, mưa nắng đói rét bệnh tật thiếu thốn mệt mỏi tới mức kiệt sức.
Từ "gục" có phần nặng nề nhưng bị xóa nhòa đi và được cân bằng trở lại, bằng hình
ảnh "bỏ quên đời". Cái chết với người lính Tây Tiến rất đỗi nhẹ nhàng và thanh thản.
Kết cấu đối sánh đan xen giữa thiên nhiên và con người tạo nên một sự đối chiếu
thầm lặng để rồi từ đó tôn vinh sức mạnh của con người, dù con người có nhỏ bé
trước thiên nhiên hiểm trở và dữ dội, hiểm nguy đe dọa họ từ mọi phía, mọi nơi
Giữa những gập ghềnh, gấp gãy nơi rừng thiêng nước độc, người lính còn bị
đe dọa bởi thác dữ, thú rừng:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”
“Chiều chiều” và “đêm đêm” diễn tả khoảng thời gian tuần hoàn, lặp đi lặp lại. Điều
này chứng tỏ thác dữ, thú rừng không phải xuất hiện ngày một ngày hai, mà lặp đi
lặp lại ngày nào cũng như vậy. Sự đe dọa dường như bủa vây từ mọi phía, người lính
trong hoàn cảnh phải chống chọi với thiên nhiên núi rừng khắc nghiệt. Thế nhưng,
giữa nơi rừng thiêng nước qua con mắt hào hoa lãng mạn của chiến binh Tây Tiến
một thời người ta vẫn nhìn thấy được những khung cảnh bình yên, nỗi nhớ chợt ùa
về Mai Châu xinh đẹp:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hình ảnh gắn với tình quân dân chợt hiện về, đó là khoảnh khắc những bữa ăn của
đồng bào chuẩn bị cho cán bộ cách mạng, để rồi sau bao tháng ngày nhớ lại, vẫn
thấy vương vấn đâu đây nếp nhà cơm lên khói, những bữa cơm tỏa thơm nếp xôi.
Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” Chế Lan Viên từng viết:
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn nhớ tỏa mùi hương.”
Trong những vần thơ này, Quang Dũng đã lựa chọn một địa danh có tên nghe thật
mềm mại, êm ái, gợi ra sự bình yên “Mai Châu” nếu như không lựa chọn địa danh
này mà thay nó bằng “Lai Châu” có lẽ sự duyên dáng của câu thơ sẽ vơi đi vài phần.
Đặc biệt lưu ý, ở trong câu thơ cuối có một danh từ nghe rất lạ, đó là “mùa em”. Đất
trời có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông nhưng trong những vần thơ của nhà thơ Quang
Dũng lại có một mùa thật lạ đó là mùa em. Mùa em là mùa con ong đi lấy mật, mùa
con voi xuống sông uống nước, mùa em đi phát rẫy làm nương, mùa ta gặp nhau
mùa trao yêu thương mùa vương luyến nhớ để xa rồi sẽ mãi mãi không quên. Mùa
em ở đây cũng chính là mùa của sự đủ đầy.
Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại
thêm bút pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà
hài hoà bổ sung cho nhau, Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh người lính Tây
Tiến, rừng núi Tây Tiến trong nỗi nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến. Những chuỗi kỉ
niệm về thiên nhiên và con người đó như những thước phim vừa chân thực sinh động
vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa đã góp phần tạo nên thành công cả về nội dung
và nghệ thuật của đoạn trích. Cái hay của nhà thơ này là bên cạnh những nét đậm tô
hiện thực, Quang Dũng vẫn bộc lộ rõ những góc nhìn đầy lãng mạn của một chàng
trai Hà Nội. Có người nhận định rằng với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng
nên bức tượng đài bằng thơ về hình tượng người lính đánh Pháp trong cuộc kháng
chiến mà dũng cảm và cũng đầy chất thơ của nhân dân ta.
Đọc đoạn thơ, ta hiểu thêm về người lính Tây Tiến, hiểu thêm những điều ẩn
phía sau của “đoàn binh không mọc tóc” và hiểu hơn về nguồn cội của sức mạnh mà
người lính đem vào trận chiến. Yêu quý, khâm phục, tự hào là những dư vang tha
thiết trong lòng người đọc khi biết về binh đoàn Tây Tiến qua vần thơ của Quang
Dũng. Xin được mượn lời thơ của Giang Nam để thay lời kết cho bài viết này, có lẽ
Giang Nam đã nói giúp tấm lòng của biết bao người yêu mến nhà thơ Quang Dũng
và bài thơ “Tây Tiến”:
“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”
2. Việt Bắc (Tố Hữu)
Đề bài: Trình bày cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:
Bài làm
Có một người nghệ sĩ đã từng tâm sự trong thi phẩm của mình:
Cũng là thi sĩ ấy, khi sắp phải lìa xa với cuộc đời, đã cất tiếng thơ sâu lắng:
Hào sảng là vậy nhưng cũng nặng nghĩa nặng tình là vậy, đó không ai khác ngoài
người nghệ sĩ, người chiến sĩ cách mạng Tố Hữu. Cứ như thế, bao trang thơ hay
cũng chính là trang sử vẻ vang, trang cách mạng hào hùng mà Tố Hữu chấp bút đã
đi vào lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Tiêu biểu trong số đó không thể không kể đến
“Việt Bắc”, thi phẩm ra đời nhân một sự kiện lịch sử trọng đại, là kết tinh của phong
cách thơ trữ tình - chính trị, là thứ văn chương cách mạng “chí nghĩa chí tình, cái
văn chương nên thơ nên nhạc…” (Xuân Diệu). Thi phẩm đã ghi dấu ấn trong lòng
bạn đọc ngay từ những câu thơ đầu tiên mà qua đó sự hài hòa giữa chất chính trị và
chất trữ tình được thể hiện sâu sắc:
Những câu thơ thiết tha, bồi hồi được chấp bút bởi người nghệ sĩ, người chiến
sĩ cách mạng Tố Hữu. Ông là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách
mạng Việt Nam. Chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật
những chặng đường cách mạng đầy gian khổ, hy sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi
vinh quang của dân tộc, đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong quan
điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ. Xuân Diệu từng nhận xét
rằng: “...Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình rất đỗi trữ tình...” Minh chứng
cho điều này phải kể đến bài thơ ‘‘Việt Bắc’’ trong tập thơ cùng tên. Tác phẩm được
hoàn thành khi Hiệp định Giơ-ne-vơ về Bán đảo Đông Dương được ký kết (tháng 7
năm 1954). Hòa bình trở lại, tháng 10 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cơ
quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc
trở về Hà Nội. Trong không khí lịch sử ấy và tâm trạng khi chia tay với Việt Bắc,
Tố Hữu đã chắp bút viết nên thi phẩm này. “Việt Bắc” như một khúc hùng ca và
cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.
Là nhà cách mạng, nhưng Tố Hữu lại hiện lên trong mắt bạn đọc giống như
một nhà thơ “kể chuyện”, một nghệ sĩ chuyên viết “tình ca”. Tình cảm gắn bó với
đồng bào Việt Bắc trong những năm tháng sinh hoạt và chiến đấu tại đây đã trở thành
niềm trăn trở trong Tố Hữu. Có lẽ cũng bởi vậy mà giây phút chia ly giữa người đi
kẻ ở đã được tái hiện vô cùng chân thực và sinh động:
Mở đầu bài thơ là lời của người ở lại – đồng bào Việt Bắc. Trước khoảnh khắc chia
tay đầy lưu luyến với cán bộ Cách mạng, đồng bào đã không thể kìm nổi lòng mình
mà cất thành tiếng tỏ bày. Câu hỏi được đặt ra một cách trực tiếp về tình cảm của
cán bộ cách mạng: “Khi về đến thủ đô Hà Nội rồi, liệu có còn nhớ đến chúng tôi hay
không?”. Chữ “về” nghe sao mà tha thiết, bâng khuâng đến thế. Điểm rơi thấp nhất
của câu thơ khiến người đọc dễ dàng nhìn ra một khoảng hụt hẫng trong tâm hồn
giữa buổi chia tay đầy bịn rịn. Đọc một bài thơ viết về tháng năm cách mạng, vậy
mà cách xưng hô nhà thơ này sử dụng lại là “mình – ta” – cách xưng hô thắm thiết
yêu thương gợi nhớ những khúc hát tình nghĩa trong ca dao dân ca. Nhắc đến “mình
- ta” là nhớ tới:
Vẫn là câu hỏi tu từ nhắc nhớ người đi về tình cảm của người ở lại. Lời ướm hỏi
nhắc người đi về nỗi nhớ thiên nhiên và con người nơi đây. Về với Hà Nội của đèn
đường, phố thị, những cảnh sắc thiên nhiên của Việt Bắc nơi đây có khiến người
quên đi hay không. Từ “nhìn” được điệp lại hai lần mang theo lời nhắn nhủ thiết tha,
“nhìn cây” – “nhớ núi” – nhớ về thiên nhiên Việt Bắc đẹp tươi, “nhìn sông – nhớ
nguồn”- nhớ về cội nguồn của tình nghĩa, cội nguồn Cách mạng. Giống với Tố Hữu,
nhà thơ Chế Lan Viên cũng đã từng gửi gắm tình cảm của mình, nói hộ biết bao trái
tim về những cung bậc trước khi chia xa:
Việt Bắc bây giờ đã trở thành một phần ký ức không thể nào quên với cán bộ cách
mạng. Càng nhìn lại càng thấy nhớ, thấy thương. Điều này còn được thể hiện rõ hơn
qua lời tâm sự của Tố Hữu: “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi,
máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi.”
Nếu như bốn câu thơ đầu cho ta thấy tình cảm thiết tha, trìu mến của người ở
lại dành cho người ra đi thì ở bốn câu thơ tiếp theo chính là lời đáp trả của người ra
đi. Đối với người ra đi, cảm xúc chủ đạo bây giờ là xuyến xao, bồi hồi, bâng khuâng
khó tả:
“Tiếng ai”, là tiếng của ai thiết tha khiến cho lòng ai bâng khuâng, bồn chồn không
nỡ cất bước ra đi? Những vần thơ bịn rịn khiến người đọc cũng thấy xao xuyến theo.
Mặc dù tác giả đã bỏ ngỏ phần chủ ngữ nhưng đọc câu thơ, ta vẫn hiểu được ai là
người rối bời bao cảm xúc trong tâm trí. Có lẽ trong giây phút ấy, kẻ ở người đi chỉ
có thể “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”. Dấu ba chấm bị bỏ lửng thay cho bao
điều muốn nói. Xúc động và nghẹn ngào, hẳn là trong giây phút này có không ít
người đang rưng rưng nước mắt. Lúc gian khó ở bên nhau, giờ hòa bình độc lập lại
phải xa nhau. Tình nghĩa sắt son, mặn nồng nhưng cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến lúc
phải chia ly. Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” chính là những người dân miền núi, Tố
Hữu đã khéo léo tận dụng hình ảnh hoán dụ này càng thể hiện sự gần gũi, giản dị
giữa quân và dân miền núi. Họ không cùng một quê hương, nhưng chung một đất
nước, có thể lý tưởng sống của mỗi người cũng khác nhau nhưng một khi đã gặp
nhau trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng, trong lòng họ không ai bảo ai đều chung
một niềm tin chiến đấu, chiến đấu đến cùng đập tan quân giặc.
Màu chàm sắc áo là màu của bền bỉ, của tình nghĩa, sự nồng hậu, thủy chung
từ con người Việt Bắc. Tác giả sử dụng hình ảnh hoán dụ "áo chàm" để chỉ người
dân Việt Bắc và bởi vậy nói "áo chàm đưa buổi phân li" là nói về cuộc chia tay đầy
lưu luyến giữa người Việt Bắc với người cách mạng. Mượn hình ảnh "áo chàm"
dường như tác giả muốn nói đến tình cảm thủy chung sắt son khó phai mờ của người
dân Việt Bắc với người chiến sĩ cách mạng. Và ấn tượng đậm nét nhất với người ra
đi chính là hành động "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...". Trước tiên là hành động
"cầm tay nhau" là hành động quen thuộc và rất đẹp của những ai khi chia li, nó thể
hiện tình cảm gắn bó thân thiết và đồng thời thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ ở người
đi. Họ cầm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào, vì thế không nói lên lời. Trong
giây phút chia ly đầy lưu luyến, người đi người ở bao nhiêu mối vương bận tơ lòng
chưa thể ngỏ cùng nhau, chỉ một ánh mắt trao đi là đủ. Dấu ba chấm xuất hiện cuối
dòng thơ như nốt lặng không lời, nhưng chính nó lại quý giá hơn rất nhiều những lời
nói thường ngày bởi cái cầm tay đã nói lên tất cả những lưu luyến, bịn rịn. Câu thơ
kết lại đoạn thơ có nhịp thơ thay đổi khác thường. Sự thay đổi của nhịp thơ không
chỉ tạo nên sự ngập ngừng cho giọng điệu của câu thơ mà còn tạo nên cái ngập ngừng
của tình cảm. Và đồng thời sự khác lạ trong nhịp thơ ấy đã diễn tả sự khác lạ trong
diễn biến tình cảm của kẻ ở người đi.
“Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”, đó là những
gì Xuân Diệu nhận xét về thơ ca của người chiến sĩ, thi sĩ này. Và qua tám dòng thơ
đầu của “Việt Bắc”, ta đã thấy được sự hài hòa giữa chất chính trị và chất trữ tình
ấy. Đoạn thơ đã đề cập đến một sự kiện lịch sử có ý nghĩa lớn với cả dân tộc: Trung
ương Đảng và chính phủ rời căn cứ địa Việt Bắc để trở về Hà Nội sau chiến thắng
Điện Biên Phủ năm 1954. Cuộc chia tay giữa “mình” và “ta” trong đoạn thơ thực
chất là cuộc chia tay giữa đồng bào Việt Bắc với người cán bộ kháng chiến, góp
phần thể hiện mối quan hệ gắn bó sâu sắc giữa cách mạng với quần chúng nhân dân.
Đây là một tình cảm lớn lao, mang tính chính trị, nó khác với những tình cảm riêng
tư, cá nhân. Cảm hứng chủ yếu của đoạn thơ là cảm hứng ân tình cách mạng, niềm
biết ơn sâu sắc với Đảng, Bác Hồ, với căn cứ địa Việt Bắc. Không chỉ vậy, kỉ niệm
được nhắc đến là kỉ niệm về một thời cách mạng, một vùng cách mạng mà “mình”
và “ta” đã cùng nhau trải qua “mười lăm năm ấy”... Tất cả đó đem đến chất chính trị
rất đỗi cao cả cho đoạn thơ. Nhưng bên cạnh đó, cái hay của Tố Hữu là ở chỗ hòa
quyện được chất chính trị với chất trữ tình, dù chỉ trong tám dòng thơ ngắn ngủi.
Đoạn thơ được viết với kết cấu đối đáp giữa “mình” và “ta” trong một cuộc chia tay
quyến luyến bịn rịn. Đó là cách xưng hô thân mật thường thấy trong ca dao, dân ca,
là lời xưng hô trong tình yêu đôi lứa, nghe sao mà tha thiết, bâng khuâng. Tiếng nói
trữ tình tha thiết của người đi - kẻ ở đã gieo vào lòng người đọc sắc thái của một
cuộc chia tay lớn mang ý nghĩa lịch sử trọng đại nhưng lại ùa về trong dáng dấp của
cuộc biệt li giữa đôi lứa yêu nhau. Như vậy, bằng hình ảnh ẩn dụ giản dị mà sâu sắc,
thể thơ lục bát thiết tha bồi hồi, lời thơ duyên dáng, ngọt ngào, Tố Hữu đã mở ra
trước mắt người đọc cuộc chia li giữa người đi kẻ ở, giữa đồng bào Việt Bắc và cán
bộ Cách mạng, biết bao lưu luyến, ân tình nhưng cũng là biết bao tự hào về trang sử
vẻ vang của dân tộc. Chất chính trị và chất trữ tình đã cùng hòa quyện, hài hòa và
thống nhất trong một hồn thơ - Tố Hữu.
Tiếng lòng của người ra đi và người ở lại vẫn còn âm vang đâu đây, gieo vào
lòng người bao xúc cảm nhớ nhung và yêu mến trước nghĩa tình sâu nặng, tha thiết
ấy. Lời hỏi cũng đồng thời là lời đáp, lời khẳng định, lời nhắn gửi ân tình giữa cán
bộ chiến sĩ về xuôi với người dân Việt Bắc. Chia tay là khoảnh khắc, ra đi là tất yếu
nhưng khoảng thời gian “mười lăm năm ấy”, sự hòa quyện độc đáo giữa chất chính
trị và chất trữ tình ấy sẽ mãi luôn thường trực trong tiềm thức, ấp ủ trong trái tim
mỗi người, để dù khoảng cách về thời gian, không gian có xa đến đâu thì “Việt Bắc”
vẫn luôn sống mãi trong lòng người dân, người chiến sĩ cách mạng và trong lòng
bạn đọc mọi thế hệ về sau. Cũng giống như lời hứa sắt son năm ấy mà người đi kẻ ở
vẫn hoài mong và nhắc nhớ:
Bài làm
Ai đó đã từng nói rằng: “Nếu mỗi người không thuộc về một đất nước, một
quê hương thì giống như con chim không có tổ, cái cây không có rễ...” Và ai đó cũng
đã từng tự hỏi lòng: “Có mối tình nào nặng sâu hơn là mối tình Tổ quốc?” Đi tìm
câu trả lời cho câu hỏi ấy đã có biết bao hồn thơ cất cánh. Với Nguyễn Đình Thi là
hình ảnh của một đất nước đau thương, căm hờn, quật khởi, vùng lên chiến đấu và
chiến thắng huy hoàng. Với Lê Anh Xuân là dáng đứng Tổ quốc bay lên bát ngát
mùa xuân. Với Xuân Diệu là vẻ đẹp của đất nước “Tổ quốc tôi như một con tàu, mũi
tàu rẽ sóng Cà Mau”. Đặc biệt vào cuối năm 1971, từ chiến trường Bình Trị Thiên
khói lửa, Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một tiếng thơ hay về đề tài Đất nước qua
trích đoạn: “Đất nước” - Trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đoạn trích này ghi dấu
ấn trong lòng bạn đọc với một tư tưởng mới mẻ về đất nước: “Đất nước của Nhân
dân” được thể hiện qua chín câu thơ đầu:
Nguyễn Khoa Điềm được coi là một trong những đại diện tiêu biểu của thế hệ
nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông xuất thân
trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước, sớm tham gia cách mạng và
từng bị địch bắt giam. Thơ ông có sức hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng
nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước. Kết tinh cho hồn thơ ấy phải
kể đến “Đất Nước” - một trích đoạn thuộc chương V của trường ca “Mặt đường khát
vọng”, viết năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn ác
liệt. Bấy giờ, phong trào đấu tranh chống Mỹ của nhân dân các đô thị miền Nam
ngày càng trở nên mạnh mẽ, sôi nổi tiêu biểu là phong trào xuống đường đấu tranh
của học sinh, sinh viên. Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Nguyễn Khoa
Điềm đã sáng tác trường ca “Mặt đường khát vọng” để góp thêm tiếng thơ hay về
đất nước, để lay động và thức tỉnh ý thức trách nhiệm của mỗi người đặc biệt là của
tuổi trẻ đối với quê hương, dân tộc.
Nguyễn Khoa Điềm đã mở đầu trích đoạn thơ của mình bằng lời hồi đáp cho
câu hỏi: “Đất nước có tự bao giờ?”:
Hai chữ “Đất Nước” vang lên trong trang thơ đầy thiết tha, trìu mến. Độc giả sẽ phát
hiện một điều khác lạ đó là xuyên suốt trong cả đoạn thơ này từ “Đất Nước” đều
được viết hoa. Chia sẻ về lý do tại sao lại trình bày như vậy, Nguyễn Khoa Điềm lý
giải với ông đất nước không đơn thuần là vùng đất vô tri, đất nước là nhân vật, là
sinh thể có tâm hồn và với cách viết này cũng đồng thời bài tỏ sự trân trọng của tác
giả những tình cảm thành kính, thiêng liêng, trân trọng dành cho đất nước. Điệp từ
“Đất Nước” vang vọng suốt cả trường ca như một khúc nhạc thiết tha gợi cảm xúc,
đưa ta về một miền không gian nối dài từ quá khứ, hiện tại đến tương lai. Hai từ
thiêng liêng ấy không chỉ xuất hiện trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm mà còn “làm
bạn” với rất nhiều thi sĩ khác:
hay
Và đất nước cứ như thế trở thành một danh từ thiêng liêng trong trái tim của bất cứ
ai, chỉ cần trái tim còn đập trong lồng ngực nhỏ. Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm bàn
về vấn đề chính luận, thời sự, nhưng lại sử dụng đại từ xưng hô “ta” thể hiện nét tâm
tình trò chuyện thân mật giữa người con trai với người con gái, giữa “anh” và “em”
về đất nước. Người con trai ở đây – “ta” như đang muốn cắt nghĩa, lý giải về cội
nguồn, sự lớn lên của đất nước cho người con gái anh yêu. Tuy nhiên nếu mở rộng
ý thơ, “ta” ở đây cũng có thể coi là tất cả mọi người, là một cách nói bao hàm đại
diện cho dân tộc Việt Nam. Cách xưng hô khiến vấn đề trừu tượng, lớn lao như đất
nước nay trở nên gần gũi, rõ ràng, cụ thể. Điều này thể hiện rất rõ phong cách thơ
trữ tình – chính luận của tác giả. Nhà thơ khẳng định sự hình thành của đất nước qua
ba chữ: “đã có rồi” khiến cho hình ảnh đất nước bỗng sừng sững, hiện hữu trong
lòng người đọc. Theo cách lý giải của Nguyễn Khoa Điềm thì “đất nước là một giá
trị lâu bền, vĩnh hằng, đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được
truyền từ đời này sang đời khác. Cho nên “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!”. Lời
khẳng định này thể hiện sự tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy
ngàn năm lịch sử. Đất nước cũng như trời và đất, khi ta sinh ra đã có đất và trời cũng
như vậy, ta không biết được đất nước hình thành từ bao giờ, chỉ thấy hiện diện xung
quan ta với những gì thân thương nhất.
Những câu thơ tiếp theo tác giả triển khai và làm sáng rõ vấn đề được nên ra
ở câu thơ đầu: “Đất nước đã có từ rất lâu đời”. Ngược về quá khứ xa xôi, tuổi thơ
của mỗi người lớn lên trong những lời ru, những câu chuyện cổ tích của bà, của mẹ:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể”
Tác giả đã mượn chất liệu dân gian để diễn tả về sự ra đời của đất nước. Bốn chữ
“ngày xửa ngày xưa” đưa chúng ta về một miền thăm thẳm, xa xôi. Nơi đó có hình
ảnh của cô Tấm dịu hiền, Thạch Sanh lương thiện, bà tiên ông bụt với những phép
màu diệu kỳ giúp đỡ cho những người ở hiền gặp nạn,.. Là người Việt, ai mà không
biết tới những câu chuyện gắn liền với tuổi thơ êm đềm đó. Và đất nước có trong
những điều xa xưa ấy, tức là đất nước đã xuất hiện trước khi những câu chuyện này
có mặt trong kho tàng dân gian đầy sắc màu. Khi những câu chuyện cổ có mặt trong
đời sống tinh thần phong phú của nhân dân ta, ta lại thấy hình hài đất nước trong đó.
Là đất nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện, cổ tích,
truyền thuyết. Chính những câu chuyện và lời ru thân quen thủa nào là nguồn sữa
ngọt lành nuôi dưỡng tâm hồn ta hướng về những điều tốt đẹp. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ
Dạ đã từng rất xúc động khi viết về ý nghĩa của kho tàng truyện cổ:
Không chỉ có trong cái “ngày xửa, ngày xưa” Nguyễn Khoa Điềm còn xác định buổi
ban đầu ấy qua một nét sống giản dị trở thành phong tục tập quán tốt đẹp của nhân
dân ta đó là phong tục ăn trầu:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Hình ảnh đất nước lớn lao kì vĩ, đối lập với hình ảnh miếng trầu bé nhỏ. Hình thức
câu thơ có vẻ phi lí nhưng lại cực kỳ hợp lý xuất phát từ chân lý: “Những điều lớn
lao đều được bắt đầu từ những điều nhỏ bé”. Câu thơ gợi nhắc về truyện cổ tích: “Sự
tích trầu cau” được xem là câu chuyện xưa nhất trong các câu chuyện cổ. Tục ăn trầu
của người Việt cũng bắt nguồn từ chính câu chuyện này. Điều này cho thấy miếng
trầu nhỏ bé được nhắc tới chứa đựng trong đó là cả 4000 năm lịch sử, 4000 năm
phong tục cùng truyền thống hiếu khách: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Trải qua
thời gian đằng đẵng, miếng trầu trở thành hình ảnh thiêng liêng trong đời sống tinh
thần của người Việt: miếng trầu giao duyên, miếng trầu cưới hỏi,… Và từ đó, hình
ảnh này trở nên quen thuộc trong thơ ca:
(Hoàng Cầm)
Bên cạnh những phong tục tập quán tốt đẹp trở thành khởi nguyên cho đất nước,
Nguyễn Khoa Điềm còn nhấn mạnh vào quá trình lớn lên của đất nước song hành
cùng truyền thống đánh giặc giữ nước trong suốt 4000 năm của dân tộc ta:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hai chữ “lớn lên” để chỉ sự trưởng thành của đất nước. Câu thơ gợi nhắc bạn đọc tới
2 hình ảnh: cây tre và truyền thuyết “Thánh Gióng”. Bao đời nay, tre không còn là
hình ảnh xa lạ đối với đời sống của người dân Việt Nam. Nó đã đi vào trong những
tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa với những đặc điểm tượng trưng cho phẩm cách của con
người Việt Nam như:
“Tre xanh
(Nguyễn Duy)
Người Việt Nam giống như những cây tre thẳng tắp, mạnh mẽ, kiên cường. Cây tre
ấy cũng gắn liền với hình ảnh Thánh Gióng – cậu bé vụt lớn trở thành tráng sĩ, nhổ
tre bên đường diệt giặc n khỏi bờ cõi Việt:
(Tố Hữu)
Cũng từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam
kiên cường, bất khuất. Truyền thống vẻ vang ấy đã đi theo suốt chặng đường lịch sử
dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã có biết bao nhiêu người con gái
con trai sẵn sàng lên đường ra mặt trận. Họ ra đi mang trong mình lời thề “Quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh”. Những tháng năm ấy và cả những năm tháng sau này,
truyền thống yêu nước vẫn luôn là cội nguồn, là dòng huyết chảy trong lịch sử hào
hùng của dân tộc ta.
Cùng với đó, đất nước đã có từ rất lâu đời gắn liền với những thuần phong mĩ
tục tốt đẹp. Nhà thơ đã đề cập đến tập tục bới tóc của người phụ nữ Việt Nam qua
câu thơ:
Do công việc trồng lúa nước, phải lội xuống ruộng nên người phụ nữ phải bới tóc
cho gọn gàng. Lâu dần điều đó trở thành nét đẹp mang đậm tính truyền thống của
người phụ nữ Việt Nam. Tóc cuộn búi cao sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp
nữ tính, thuần hậu rất riêng. Nét đẹp ấy khiến người đọc chúng ta gợi nhớ tới câu ca
dao:
(Ca dao)
Không chỉ thế, Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận về đất nước thông qua lối sống,
tình cảm gắn bó giữa người với người, quan hệ đối xử giữa vợ và chồng, tình yêu
chung thủy của vợ chồng: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Trong
kho tàng ca dao, tục ngữ đã có câu:
Muối và gừng vốn là những gia vị quen thuộc trong bữa ăn của người Việt Nam.
Nguyễn Khoa Điềm mượn câu ca dao, mượn vị mặn của muối, vị cay nồng của gừng
để nói về tình yêu dài lâu, nồng thắm, tình cảm thủy chung, sự gắn bó keo sơn của
vợ và chồng để làm nên một gia đình chan chứa hạnh phúc, yêu thương. Đó cũng là
một truyền thống rất quý báu của nhân dân ta.
Không chỉ vậy, Đất nước đã có từ rất lâu trong tiến trình phát triển của cuộc
sống đời thường. Cội nguồn của đất nước cũng được tác giả cảm nhận từ cách đặt
tên giản dị: “Cái kèo, cái cột thành tên”. Ngôn ngữ Việt Nam có từ lâu đời, bắt nguồn
từ việc đặt tên cho những vật dụng quen thuộc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày,
lấy tên của chính những vật dụng ấy để gọi tên cho con cái. Bởi xa xưa, người Việt
đã quan niệm đặt tên cho con càng xấu thì càng dễ nuôi. Hơn thế, là cảm nhận của
Nguyễn Khoa Điềm về truyền thống của con người Việt Nam cần cù, chịu khó, gắn
với một nền văn minh nông nghiệp. Để đất nước có được như ngày hôm nay, không
thể không kể đến công sức lao động của thế hệ ông cha, hay nói cách khác là quá
trình dựng nước. Nhà thơ chọn ra một nghề đặc trưng nhất của ngành nông nghiệp-
nghề trồng lúa nước: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.” Bằng
thành ngữ “một nắng hai sương” kết hợp với một loạt động từ “xay, giã, giần, sàng”
đã diễn tả rất cụ thể công việc của nhà nông, kèm theo đó là nỗi vất vả, cực nhọc.
Lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm như phảng phất lời ca dao, cũng là lời khu yên răn:
Thành ngữ “một nắng hai sương” gợi ra sự cần cù, chịu thương chịu khó, chăm chỉ
lao động của ông cha ta. Để làm ra hạt gạo ăn mỗi ngày đó là một quá trình đầy vất
vả. Thấm vào trong hạt gạo nhỏ bé ấy là mồ hôi mặn, là những nhọc nhằn của những
người nông dân tần tảo sớm hôm. Đất nước của chúng ta trưởng thành từ những vất
vả, lam lũ, một nắng hai sương như thế.
Và sau tất cả những diễn giải ấy, tác giả một lần nữa khẳng định cội nguồn
của đất nước với niềm tự hào mãnh liệt nhất:
“Ngày đó” là một từ mang tính chất phiếm định về thời gian. Ngày đó không biết
chính xác là ngày nào chỉ biết rất rõ một điều: Đất nước của chúng ta đã tồn tại từ
rất lâu đời. Từ khi có những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, thời điểm bắt đầu của
những thuần phong mỹ tục, truyền thống đánh giặc giữ nước và cả nền văn minh lúa
nước được lưu giữ ngàn đời. Những nét văn hóa đẹp đẽ nhất được Nguyễn Khoa
Điềm đưa vào thơ mình một cách tự nhiên, chân thật để cho mỗi người đọc hiểu rằng
văn hóa chính là đất nước và chúng ta cần phải có trách nhiệm hiểu biết, gìn giữ
những giá trị cốt lõi này.
Chín dòng thơ không những thuyết phục bởi tư tưởng chính luận mà còn đi
vào lòng người bởi vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo. Trong đoạn thơ, cấu trúc câu “Đất
Nước đã có”, “Đất Nước bắt đầu”, “Đất Nước lớn lên”, “Đất Nước có từ” cho phép
hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian
trường kì. Kết hợp với đó là điệp từ “có” đã nối kết những hình ảnh tưởng chẳng liên
quan gì với nhau thành một khối không thể tách rời, khẳng định sự hiện hữu vừa có
tính truyền thống vừa đầy ân tình sâu nặng của đất nước như một nét riêng không
thể hòa lẫn. Nhà thơ cũng đã thật khéo léo khi sử dụng cách nói giản dị, tự nhiên,
đậm đà màu sắc dân gian quen thuộc nhưng trong một thể loại hết sức mới mẻ - thể
loại trường ca.
Nhìn lại bao quát đoạn thơ, ta thấy Nguyễn Khoa Điềm sử dụng cấu trúc tổng-
phân - hợp rất chặt chẽ. Đoạn thơ có sự hài hòa giữa chất trữ tình – chính luận, vừa
được viết bằng chiều sâu trí tuệ, văn hóa, vừa được viết bằng những rung động của
cảm xúc, nên rất dễ đi vào lòng người. Trả lời cho câu hỏi “Đất Nước có từ khi
nào?”, Nguyễn Khoa Điềm đã chiêm nghiệm là lựa chọn những chi tiết, hình ảnh hết
sức thân thuộc, trong đời sống gia đình, đời sống lao động cần lao hàng ngày, trong
câu chuyện cổ và tình cảm giữa những người thân yêu nhất. Lịch sử đất nước ta
không được cắt nghĩa bằng những vương triều nối tiếp, những sự kiện lịch sử trọng
đại mà bằng đời sống văn hóa tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn truyền
lại.
Như vậy, từ cội nguồn sâu thẳm của quá trình sinh ra, lớn lên và phát triển,
đất nước đã gắn liền với nhân dân. Do đó, tư tưởng mà chín dòng thơ thể hiện là tư
tưởng “Đất nước của Nhân Dân”- tư tưởng chủ đạo của đoạn trích, đã thấm nhuần
từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của tác phẩm. Tư
tưởng này không phải đến Nguyễn Khoa Điềm mới có mà đã có một quá trình dài
được khẳng định trong lịch sử văn học dân tộc. Lật giở từng trang trong lịch sử dân
tộc có thể nhận thấy tư tưởng Đất nước –nhân dân có nhiều biến chuyển trong mỗi
thời kỳ. Trong thời trung đại khái niệm Đất nước gắn liền với kỷ niệm quân vương:
“Nam quốc sơn hà”, gắn liền với các triều đại: “Bình Ngô đại cáo” –Nguyễn Trãi.
Nhưng một số tướng lĩnh, quan lại như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đã nhận thấy
vai trò to lớn của nhân dân đối với Đất nước.Trần Hưng Đạo đã từng dâng kế sách
cho vua: “muốn đánh thắng giặc phải biết khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”.
Nguyễn Trãi đã từng khẳng định: “Lật thuyền mới biết dân như nước”, Nguyễn Bỉnh
Khiêm cũng từng nói: “Cổ lai quốc dĩ dân vi bảo”. Thời cận đại một số chí sĩ yêu
nước như Phân Bội Châu, Phan Châu Trinh cũng đã nhìn ra sức mạnh và vai trò to
lớn của nhân dân. Phan Châu Trinh đã có lần nhấn mạnh: “Dân là nước, nước là
dân”, đến thời đại của Hồ Chí Minh, Bác cũng luôn nhắc nhở “Đảng ta phải biết lấy
dân làm gốc” Dù ở thời đại nào, các nhà tư tưởng lớn vẫn nhìn thấy vai trò và sức
mạnh của nhân dân đối với Đất nước. Nhân dân gánh trên đôi vai của mình Đất nước
đi suốt cuộc trường chinh cũng như những cuộc khai khẩn đất đai, miền rộng, bờ
cõi. Điều này, các nhà thơ nhà văn hiện đại đã có ý thức một cách rõ rệt, sâu sắc.
Tuy nhiên, để tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên
thấm mọi biểu hiện tinh tế nhất của hình tượng Đất Nước, lại được cảm nhận một
cách toàn diện sâu sắc trên nhiều bình diện, thì đóng góp đặc sắc của Nguyễn Khoa
Điềm thực sự là một viên ngọc sáng.
Thành công khi thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân là Nguyễn Khoa
Điềm đã lựa chọn cho mình chất liệu văn hóa rất phù hợp đó là chất liệu văn hóa dân
gian. Vẫn biết rằng chất liệu thuộc hình thức nghệ thuật của một bài thơ mà nghệ
thuật chỉ làm nên câu thơ còn trái tim là nghệ sĩ. Tuy nhiên việc thể hiện tiếng nói
của trái tim là rất quan trọng. Văn hóa dân gian trong tác phẩm nói chung và trong
đoạn trích nói riêng là những câu tục ngữ ca dao, những làn điệu dân ca, những câu
hò sông nước, những câu chuyện cổ tích, những phong tục tập quán mà Nguyễn
Khoa Điềm đã chiêm nghiệm và chọn lọc dựa trên vốn hiểu biết am tường và sâu
rộng.
Chín câu thơ đầu trong trích đoạn “Đất Nước” của trường ca “Mặt đường khát
vọng" là sự khẳng định về một tư tưởng mới mẻ “Đất nước là của Nhân dân”, là lý
giải hoàn hảo cho những thắc mắc của đọc giả về câu hỏi: “Đất nước có từ bao giờ
và đất nước là của ai?” Một cách cắt nghĩa, giải thích đầy mới mẻ. Chẳng phải nơi
chúng ta đang sống, mọi thứ quanh mình, đều là những gì thuộc về đất nước hay
sao? Và những câu hỏi thắc mắc về quê hương, đất nước mình vẫn còn là những điều
sẽ còn được nhắc hoài, nhắc mãi, để bạn đọc không ngừng tìm kiếm những điều mới
lạ ấy, sự thú vị ấy trong thơ văn:
“Quê hương là gì hở mẹ
Quê hương là gì hở mẹ
Đề bài: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của những đoạn thơ sau: (5 khổ thơ
đầu) (Trích “Sóng” - Xuân Quỳnh)
Bài làm
Tôi vẫn còn nhớ như in có một bận, Xuân Diệu đã từng thủ thỉ trong tác phẩm
của mình:
Con người ta vẫn thường vì tình yêu mà si mê nhiều như thế! Người thường đã vậy,
thi sĩ hẳn sẽ nhạy cảm hơn, đó cũng là lí do vì sao giữa muôn nẻo của thơ ca Việt
Nam, những bài thơ viết về tình yêu, những nhà thơ viết về tình yêu vẫn thường
được bạn đọc chú ý bằng cái nhìn đầy trìu mến. Và bài thơ “Sóng” của nữ sĩ Xuân
Quỳnh cũng là một tác phẩm như thế. Đọc thi phẩm“Sóng” điều đọng lại trong lòng
mỗi độc giả không chỉ là tình yêu thủy chung, khát vọng hóa thân của hình tượng
“sóng” hay cũng chính là hình tượng “em” mà còn gây ấn tượng về những thông
điệp mới mẻ trong tình yêu mà Xuân Quỳnh đem lại. Điều đó được thể hiện rất rõ
trong năm khổ thơ đầu bài.
Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ
thời kháng chiến chống Mỹ. Những dòng thơ của tác giả thể hiện trái tim phụ nữ đôn
hậu, chân thành, giàu đức hy sinh và lòng vị tha cùng khát vọng sống, khát vọng yêu
chân thành, mãnh liệt luôn gắn liền với những dự cảm, lo âu. Tiến sĩ Chu Văn Sơn
từng nhận định: “Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ
nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời ...” Và quả thực, những vần thơ
của Xuân Quỳnh là vậy. Với chị, mỗi dòng thơ hệt như những dòng nhật kí bỏ ngỏ
xuất phát từ trái tim về những khát khao, những cảm xúc, những suy nghĩ lo âu của
người phụ nữ khi đứng trước bao lo toan, hạnh phúc đời thường. Để rồi cứ thế,
“Sóng” của Xuân Quỳnh lặng lẽ đi vào lòng người như một “ nốt nhạc xanh giữa
thời kì lửa cháy” với bao khát vọng về tình yêu và tuổi trẻ. Tác phẩm là một bài thơ
đặc sắc viết về tình yêu, tiêu biểu cho phong cách thơ của nữ sĩ, được sáng tác năm
1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình). Bài thơ được in
trong tập ''Hoa dọc chiến hào''. Qua hình tượng sóng và trên cơ sở khám phá sự tương
đồng, hoà hợp giữa ''sóng'' và ''em'', bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết
tha, nồng nàn, chung thuỷ, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của
đời người. Từ đó, bạn đọc cảm nhận được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một
hạnh phúc lớn lao của con người.
Viết về đề tài tình yêu, đặc biệt khi lựa chọn hình tượng sóng làm hình tượng
chính cho tác phẩm của mình, Xuân Quỳnh không phải là người nghệ sĩ đầu tiên
nhưng lại là người nghệ sĩ vô cùng tinh tế, viết về sóng để gửi gắm tình yêu của trái
tim người phụ nữ. Điều này được thể hiện rõ qua những vần thơ:
Ồn ào và lặng lẽ
Tôi đã nhìn thấy những con sóng ngoài đại dương rồi! Tôi cũng đã từng tìm về biển
với những mong mỏi được trải lòng và tôi cũng hiểu tại sao, khi đứng trước đại
dương bao la, trước muôn trùng con sóng vỗ bạc đầu, người nghệ sĩ lại có trong
mình nhiều rung cảm đến vậy, để cho tới tận bây giờ, biển vẫn hát khúc ca của đại
dương, và chúng tôi, độc giả của những năm tháng này, vẫn ru hoài giấc mơ qua
những thi phẩm khởi nguồn từ con sóng. Trong khổ thơ này, nghệ thuật đối đã được
sử dụng một cách rất tinh tế. Các cặp từ đối lập: “Dữ dội – dịu êm”, “Ồn ào – lặng
lẽ” là biểu hiện rõ ràng nhất cho những trạng thái đối cực của con sóng ngoài đại
dương. Khi đại dương hiền hòa, những con sóng thật nhẹ nhàng, êm dịu, khi có bão
đi ngang biển động sóng mạnh mang theo bao bão tố, phong ba. Những trạng thái
đối cực của sóng cũng chính là những trạng thái đối cực của tình yêu, có những khi
rất bình yên, nhưng cũng có những ngày bão tố. Ta cũng có thể hiểu hai câu thơ này
theo một trường nghĩa khác, với trạng thái đối cực của trái tim người phụ nữ khi yêu,
một người phụ nữ khao khát tình yêu. Khi vui, khi buồn, khi giận hờn, khi trách móc,
khi hạnh phúc, khi tổn thương,… những cung bậc cảm xúc của tình yêu quả thật rất
diệu kỳ bởi một lẽ:
Ý thơ chưa dừng lại ở đó, bởi nội tâm của người phụ nữ vốn dĩ sâu sắc hơn những
gì ta tưởng tượng. Hai câu thơ này còn diễn tả sự yếu đuối tất yếu bên trong của
người phụ nữ khi có những mạnh mẽ che phủ bên ngoài. Suy cho cùng, sau tất cả
những hỉ, nộ, ái, ố của cuộc đời, những trái tim ấy vẫn thuộc về trọn vẹn tâm hồn
phái yếu.
Chuyển đến hai câu thơ tiếp theo, ta nhìn thấy sự mới lạ trong tứ thơ của Xuân
Quỳnh:
Những hình ảnh xuất hiện liên tiếp, hình ảnh của dòng sông, của con sóng và của
“bể”, ở đây có thể hiểu là biển, là đại dương. Trăm suối đổ về một sông, trăm sông
đổ về biển lớn, sóng không chấp nhận giới hạn nhỏ bé tầm thường, sóng chuyển
mình ra biển lớn, tìm về đại dương, tìm đến nơi thuộc về. Ở hai câu thơ này, mạch
sóng như bứt phá ra khỏi một không gian chật hẹp để tìm đến những điều lớn lao.
Cũng giống như trái tim tình yêu của những người phụ nữ, vượt qua những giới hạn
nhỏ bé tầm thường, để tìm đến với tình yêu đích thực của cuộc đời mình. Có thể thấy
rằng, đây cũng chính là một trong những nét hiện đại trong thơ Xuân Quỳnh, cũng
là góc nhìn, một quan niệm mới mẻ về người phụ nữ hiện đại, dám đấu tranh vì tình
yêu, vượt qua những thứ lễ giáo phong kiến để đến với hạnh phúc đích thực của cuộc
đời mình. Nếu như trong bài “Hương thầm” nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn từng viết:
Để rồi họ chia tay mà chẳng dám nói với nhau điều gì. Xuân Quỳnh thì không như
vậy, chị luôn quan niệm không chỉ riêng con trai có thể chủ động trong tình yêu, mà
người phụ nữ cũng vậy, phải chủ động tìm đến tình yêu để sống được là chính mình.
Đây chính là thông điệp mới mẻ mà Xuân Quỳnh muốn gửi gắm đến bạn đọc qua
khổ thơ này.
Hơn cả những gì anh nghĩ, dẫu đó thực chất là trái tim mềm yếu của em thì
em vẫn muốn dùng sự mạnh mẽ của chính mình để hướng tới, để theo đuổi tình yêu
duy nhất trong cuộc đời của mình. Những điều em muốn nói cùng anh là những điều
không thể nào ngăn cách, bao mong mỏi, bao buồn vui đau khổ cuộc đời cũng không
thể ngăn nổi trái tim mềm yếu hướng tới tình yêu. Bởi duy nhất chỉ có phương anh
mới khiến trái tim em thổn thức. Thế nên Xuân Quỳnh mới viết:
Xuân Quỳnh viết “Sóng”, chị đang hát những khúc hát về tình yêu để đến bây
giờ, biết bao nhiêu thập kỷ trôi qua rồi, những độc giả vẫn dành biết bao nhiêu tình
yêu của mình cho một mảnh “tình thơ” đã cũ. Và tình yêu trong “Sóng” – mãi mãi
là khát vọng của tuổi trẻ, của lứa đôi:
Thán từ “ôi” được sử dụng, bộc lộ mạnh mẽ những trạng thái cảm xúc đang trào lên
trong lòng. Cặp từ đối “ngày xưa” – “ngày sau” khiến cho người đọc có biết bao
nhiêu liên tưởng. Đó là thời gian chỉ quá khứ, quá khứ nối dài đến hiện tại, tương lai
để nhắc nhở người trẻ chúng ta về thông điệp ý nghĩa. Trải qua hàng ngàn hàng vạn
năm, từ khi đại dương xuất hiện, những con sóng cũng ra đời. Và dẫu cho thời gian
mãi là một dòng tuyến tính không bao giờ quay trở lại thì sóng vẫn cứ mãi hát khúc
ca của đại dương bất diệt, vẫn cứ là mình, vẫn “dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng lẽ”. Cũng
giống như tình yêu, những khát khao về tình yêu luôn luôn là những hoài bão đang
đập nhanh trong trái tim của những người trẻ. Câu chuyện tình yêu vốn dĩ không
phải câu chuyện của riêng ai mà đó là câu chuyện của tôi, của bạn, của chúng ta, của
quá khứ, hiện tại và muôn đời sau sẽ còn nhắc mãi, nhắc hoài. Còn đại dương là còn
sóng, còn những trái tim đang đập trong lồng ngực là còn khát vọng tình yêu. Điều
này thật giống với ý thơ trong “Bài thơ tuổi nhỏ” của ông hoàng thơ tình Việt Nam
– Xuân Diệu:
Có những khoảnh khắc, bản thân mình rất muốn tìm một nơi nương náu cho
những trầm tư của chính mình. Không phải vì bản thân yếu đuối mà chỉ bởi trái tim
sau những lần cứng cỏi rất muốn có một khoảng dừng chân để suy nghĩ, chiêm
nghiệm về tình yêu mình đã đi qua. Và “em” đã chọn cho mình một khoảng trầm tư
bình yên như thế khi đứng trước đại dương bao la, trước muôn ngàn con sóng vỗ bạc
đầu.
Em nghĩ về anh, em
Đến khổ thơ này, em tách mình khỏi sóng, để hạ lời thì thầm hai tiếng “em – anh”.
Khi đứng trước đại dương bao la, trước muôn ngàn những con sóng đang gối lên
nhau chạy xa tít tắp tới đường chân trời, em nghĩ về anh, nghĩ về bản thân mình, em
nghĩ về tình yêu của chúng ta. Cảm giác nhỏ bé trước khoảng không bao la vốn dĩ là
cảm xúc bình thường có được. Thế nên:
“Đừng ví em là biển
Em đang trên chuyến hành trình truy tìm căn nguyên của tình yêu. Em không thẳng
thẳn nói ngay vào điều đó, mà em muốn thông qua hình ảnh sóng để trải lòng mình.
Theo khoa học, sóng sinh ra từ gió. Thơ Xuân Quỳnh vốn không thường viết về
những điều khô khan như thế, tác giả bẻ ngay “cuống lái” về những nốt nhạc của trái
tim. Vậy thì gió bắt đầu từ đâu? Em suy hoài, nghĩ mãi nhưng cuối cùng lại chẳng
tìm được câu trả lời. Và rồi để bao biện cho sự thất bại trong cuộc truy tìm của mình,
người con gái ấy buông nhẹ một cái lắc đầu đáng yêu: “Em cũng không biết nữa”.
Và gửi lời tới “anh” một câu hỏi rất nhẹ nhàng: “Khi nào ta yêu nhau?”. Trái tim
“em” luôn muốn tìm sự lý giải, cắt nghĩa tình yêu, truy tìm căn nguyên tình yêu của
chính mình: “Chúng ta yêu nhau từ bao giờ, chúng ta yêu nhau vì điều gì...” Tất cả
đều là những câu hỏi rất khó để trả lời, hoặc là sẽ chẳng thể nào tìm ra được một câu
trả lời nào trọn vẹn cả. Xuân Quỳnh đã thất bại trong cuộc truy tìm, cắt nghĩa tình
yêu nhưng lại ghi được ấn tượng sâu đậm trong lòng đọc giải từ cách lý giải đầy nữ
tính. Lý giải về tình yêu vốn dĩ là một hành trình rất thú vị, gây được sự hấp dẫn với
viết bao cây bút tài hoa, nếu như Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình Việt Nam từng lý
giải tình yêu bằng một buổi chiều nắng cắt:
Thì Nguyễn Bính lại khiến lòng người rạo rực khi lý giải chữ yêu bằng cảm xúc
“ghen tuông”:
Nhìn nhận trong cách truy tìm căn nguyên, cắt nghĩa về tình yêu của những người
nghệ sĩ mới thấy được, Xuân Quỳnh đã tự lý giải tình yêu cho bản thân mình một
cách rất riêng, rất nữ tính, rất trực cảm. Em không biết tình yêu có từ đâu cả. Cũng
chính vì sự không rõ ngọn ngành này mà đã biết bao nhiêu thế kỷ trôi qua rồi, con
người vẫn cữ phân vân đi tìm câu trả lời cho tình yêu, say mê trong tình yêu, dành
trái tim của mình để sẵn sàng đập nhanh hơn vì một người. Có một quy luật của tình
yêu đó là chẳng có quy luật nào cả và em vẫn sẽ can đảm bên cạnh anh, yêu anh
bằng tất cả đủ đầy những cảm xúc của riêng mình. Tình yêu vốn dĩ là một ẩn số giữa
hai tâm hồn chứa đầy bí mật:
Và những tâm hồn bí mật ấy vẫn luôn khao khát được giao hòa cùng nhau, khám
phá những điều mà cả cuộc đời cũng chẳng thể nào lý giải nổi. Bởi tình yêu là bài
toán chẳng thể nào đưa ra được một đáp số đúng nhất, cũng chính vì thế mà nó luôn
mới mẻ, luôn hấp dẫn, luôn là khởi nguồn cho rất nhiều những tác phẩm hay.
Tiếp tục với hành trình nghĩ suy và chiêm nghiệm, Xuân Quỳnh, với những
dòng thơ trong “Sóng”, đã không thể nào bỏ qua một cung bậc cảm xúc tất yếu của
tình yêu - nỗi nhớ. “Nỗi nhớ của con người thường gắn liền với một cái cớ nào đó.
Hễ gặp duyên cớ kia là nhớ nhung, cứ thế mà thức dậy, mà da diết.” Cội nguồn của
tình yêu bắt nguồn từ nỗi nhớ, “đặc tính” của tình yêu cũng gắn với nhớ nhung. Lấy
cảm hứng thơ từ điều này nên Xuân Quỳnh viết:
Có một điều đặc biệt trong khổ thơ này đó là đến đây, biên độ của khổ thơ đã
được mở rộng từ bốn câu lên sáu câu, phá vỡ những quy luật về độ dài của một khổ
trong cả bài. Phải chăng, chỉ khi mở rộng biên độ khổ thơ mới có thể diễn tả cho
thỏa, cho đạt sự ngút ngàn của nỗi nhớ. Một nỗi nhớ bao trùm không gian, choán
luôn cả thời gian, khoảng cách. Việc phá vỡ biên độ của khổ thơ thêm một lần nữa
chứng minh cho phong cách nghệ thuật đôi khi “bất tuần theo những quy luật nghề
thơ” của Xuân Quỳnh. Quan trọng nhất trong những vần thơ của chị là được bày tỏ,
được sẻ chia, được thấu hiểu. Bởi “Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ; sáng
tạo và cách tân, tất tật là nhất thể. Cho nên, tìm những miền thi cảm khác lạ cho thơ,
chế tác những hình thức tân kỳ cho thơ không phải thao thức của chị. Cứ hết mình
sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi
ảnh, thi điệu đó là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay
mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ. Thơ Xuân Quỳnh là tính
linh Xuân Quỳnh. Trường hợp Xuân Quỳnh thật điển hình cho qui luật: Thơ là sự
ký thác phận người vào chữ. Có lẽ vì thế mà, dù đời thơ Xuân Quỳnh đã dừng, sóng
thơ Xuân Quỳnh vẫn vỗ khôn nguôi.” (Chu Văn Sơn)
Trong khổ thơ này có sự xuất hiện của cả hai hình tượng “sóng” và “em” đan
xen với nhau, bốn câu thơ trước em ẩn mình trong sóng bộc lộ những cảm xúc trong
lòng mình, hai câu thơ sau em tách mình khỏi sóng, hạ lời thì thầm hai tiếng “em –
anh”. Các cặp từ đối lập được sử dụng rất tinh tế ở đoạn thơ này: “lòng sâu – mặt
nước” – cụm từ diễn tả về không gian; “ngày – đêm” – diễn tả về thời gian, một nỗi
nhớ thường trực, choán hết cả không gian, thời gian tầm sâu bề rộng. Nỗi nhớ ấy
không chỉ xuất hiện trong ý thức, trong tiềm thức mà còn xuất hiện cả trong vô thức,
phá vỡ mọi giới hạn về thời gian và không gian:
Xuân Quỳnh tinh tế lắm khi sử dụng cụm từ “lòng em” – là nơi thẳm sâu nhất trong
tâm hồn người nghệ sĩ. Khi chị nói “lòng em nhớ đến anh” có nghĩa là em đang dốc
cả tâm can của mình để trao gửi nỗi nhớ thương ấy đến anh – tình yêu đích thực
trong cuộc đời mình. Vị ngọt ngào, mê đắm của tình yêu lan tỏa trong một câu thơ
thật lạ: “Cả trong mơ còn thức”. Cái thức trong mơ chính là biểu hiện cao nhất của
nỗi nhớ, nỗi nhớ bây giờ không chỉ xuất hiện trong ý thức, tiềm thức mà còn xuất
hiện cả trong vô thức. Cái thức trong mơ là một trong những nét nghệ thuật độc đáo
ở khổ thơ này, đưa chúng ta đến những góc nhìn mới mẻ hơn về tình yêu, về nỗi
nhớ. Một nỗi nhớ mãnh liệt và sâu sắc, nỗi nhớ ấy cũng đã từng xuất hiện ở một tác
phẩm khác của nữ sĩ Xuân Quỳnh:
Năm khổ thơ đầu khép lại đã thể hiện được nỗi băn khoăn, trăn trở của những
con sóng hay cũng là người con gái khi yêu. Con gái khi yêu luôn có những trăn trở
suy tư cần được giãi bày. Nhờ các biện pháp đảo ngữ, tương phản đối lập, thể thơ
ngũ ngôn với nhịp thơ linh hoạt, giọng điệu chân thành, da diết, sự sáng tạo, phá vỡ
khuôn khổ của khổ thơ truyền thống. Ngôn ngữ thơ bình dị, thủ pháp nhân hoá, ẩn
dụ, các điệp từ; cặp hình tượng sóng đôi "sóng - em" , đoạn thơ đã thể hiện rõ tư
tưởng và suy tư khi yêu của em, cũng như của Xuân Quỳnh. “Sóng” chính là nỗi
lòng của em và em là hiện thân của sóng. Sóng và em đồng hiện tạo nên chiều sâu
nhận thức độc đáo. Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc
kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái
ào ào ra trận “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân
trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn
cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu: “Ôi con
sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được”. Ta càng ngưỡng mộ hơn những con người
phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình
yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong
phú hơn cho nền thơ nước nhà.
Nhận định về bài thơ “Sóng", GS Trần Đình Sử có viết: “Sóng” là một bài thơ
về tình yêu. Có hàng trăm dáng vẻ của thơ tình yêu. Thơ tỏ tình, thơ mong nhớ, thơ
hoài niệm, thơ đau khổ vì thất tình... “Sóng” là bài thơ giãi bày và chiêm nghiệm...”
Quả thực là như vậy. Từ cấu tứ bài thơ, cách gieo vần, nhịp, sử dụng hình ảnh và đôi
khi còn bất tuân theo cả những quy luật của nghề thơ, chỉ với năm khổ thơ đầu nhưng
Xuân Quỳnh đã đưa người đọc từ cung bậc này tới cung bậc khác trong tình yêu, để
người đọc thêm một lần chìm đắm và suy ngẫm về tình yêu của chính mình. “Sóng”
đã tự nhiên, trở thành tiếng hát, tiếng lòng của biết bao nhiêu người trẻ khát sống,
khát yêu, hệt như Xuân Quỳnh.