You are on page 1of 4

KHỞI NGHĨA BÃI SẬY – NGUYỄN THIỆN THUẬT

Thời gian diễn ra cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy 


Khởi nghĩa Bãi Sậy là một trong các cuộc khởi nghĩa nằm trong phong trào Cần Vương diễn ra
vào cuối thế kỷ XIX của nhân dân Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa này nổ ra nhằm chống lại ách đô
hộ của thực dân Pháp và được diễn ra từ năm 1883 và kéo dài tới năm 1982 mới chính thức kết
thúc. 
Trong thời kỳ đầu diễn ra khởi nghĩa (1883 – 1885), phong trào do Đinh Gia Quế trực tiếp lãnh
đạo. Ở thời điểm này, địa bàn hoạt động chủ yếu của cuộc khởi nghĩa chỉ nằm ở vùng Bãi Sậy
bao gồm địa phận của các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Khoái Châu, Yên Mỹ thuộc tỉnh Hưng
Yên. Tuy nhiên, từ năm 1885 trở đi, vai trò lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đã được thay đổi và thuộc
về Nguyễn Thiện Thuật. Ông nắm giữ vai trò là thủ lĩnh cao nhất của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. 

Địa điểm diễn ra cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy (1883 – 1982)

Trước khi chiếu Cần Vương ra đời 


Sau khi chiếm Nam Kỳ, quân Pháp đã nhanh chóng tiến công ra Bắc và thực hiện chiếm đánh
Bắc Kỳ của nước ta. Trước tình hình đó, nhà Nguyễn đã hạ lệnh cho các cánh quân chống Pháp
hạ vũ khí, Nguyễn Thiện Thuật đã kháng lệnh triều đình và quyết tâm đánh Pháp. Vì vậy, vào
tháng 8/1883, Pháp đã chiếm đóng Hải Dương, Nguyễn Thiện Thuật đã gấp gáp mộ quân, mưu
đánh chiếm tỉnh lỵ nhưng việc không thành nên đã kéo quân lên phối hợp với Hoàng Tá Viêm
chống Pháp ở Tây Sơn. 
Đến cuối năm 1883, sau khi Hiệp ước Harmand được Ký, nhà Nguyễn đã ra lệnh bãi binh đợi chỉ
dụ. Dù vậy, Nguyễn Thiện Thuật đã không nghe theo mà mang lại mang quân lên Tuyên Quang
cùng với Nguyễn Quang Bích giữ thành. Tuy nhiên không lâu sau đó, khi các thành Hưng Hóa và
Lạng Sơn thất thủ, Nguyễn Thiện Thuật đã tháo chạy sang Long Châu (Trung Quốc) để tiếp tục
chuẩn bị lực lượng chiến đấu. 

Hưởng ứng chiếu Cần Vương


Sau khi cuộc tấn công ở kinh thành Huế thất bại, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi chạy
trốn ra Tân Sở (Quảng Trị). Đến tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi đã hạ chiếu Cần Vương.
Đúng lúc này, Nguyễn Thiện Thuật trở về nước và tiến hành thành lập căn cứ địa Bãi Sậy do
Đổng Quế trực tiếp trao lại. Cũng vào thời điểm này, vua Hàm Nghi đã phong cho ông làm Bắc
Kỳ hiệp thống quân vụ đại thần, gia trấn Trung tướng quân. 
Vào tháng 9/1885 nghĩa quân đã vượt sông Hồng sang đánh phá địa phận các huyện Thanh Trì,
Thường Tín, Phú Xuyên và Ứng hòa. Cho đến đêm 28 rạng ngày 29/9, quân Bãi Sậy đã tiến hành
tấn công thành Hải Dương buộc quân Pháp phải điều hai pháo hạm tiễu trên sông Thái Bình
nhằm bảo vệ căn cứ của mình. 
Ngoài hoạt động chống càn quét, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy còn thường xuyên tổ chức các
trận tập kích hiệu quả. Đến ngày 26/6/1886, nghĩa quân đã tấn công một đồn Pháp ở Cầu Đuống.
Sau đó không lâu, tháng 9/1885, Nguyễn Thiện Thuật đã trực tiếp chỉ huy nghĩa quân tiến công
để chiếm lại thành Hải Dương và tiến ra đóng giữ địa phận các làng xung quanh. Tuy nhiên, do
lực lượng không đủ mạnh nên sau đó nghĩa quân đã nhanh chóng phải rút lui. 
Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy vẫn được tiếp tục diễn ra cho đến tháng 6 năm 1889, thống sứ Bắc Kỳ
đã ra lệnh thành lập đạo quân Tuần cảnh do Hoàng Cao Khải đang đương nhiệm chức Khâm sai
Bắc Kỳ làm Tư lệnh trường, Muselier làm Cảnh sát sứ. Ở trận Đông Nhu, quân Bãi Sậy đã giết
viên quản khố xanh Leglee và sau đó ngày 24/7 đã giết chết tên viên quản khố xanh Escot. Sau
nhiều lần chống lại quân ta không thành công, quân Pháp phải tặng cho Nguyễn Thiện Thuật
danh hiệu đó là “Vua Bãi Sậy”. 

Tại sao Bãi Sậy được chọn làm căn cứ chiến đấu ?
 Bãi Sậy đã từng là căn cứ của Triệu Quang Phục chống quân Lương. Đây là vùng
đất hoang hóa, do bị vỡ đê liên năm, nhân dân không cày cấy được, biến thành
vùng lau sậy um tùm. Ngoài ra căn cứ Bãi Sậy nằm giữa các đồng bằng có các
tuyến giao thông thủy bộ đi qua. Với địa bàn như vậy nghĩa quân có thể cơ động
đánh địch, triệt để áp dụng chiến thuật du kích.
 Bãi Sậy là vùng lau sậy rậm rạp thuộc các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Khoái
Châu, Yên Mĩ của tỉnh Hưng Yên. Bãi Sậy là căn cứ chính. Trong những năm
1883-1885, tại đây có phong trào đánh Pháp do Gia Đình Quế lãnh đạo.

Nguyên nhân của khởi nghĩa Bãi Sậy là gì? 


 Năm 1885, khi quan quân triều đình nổi dậy tấn công Pháp ở kinh đô Huế nhưng
thất bại. Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phải chạỵ ra Tân Sở thuộc tỉnh
Quảng Trị. Tại đây, Tôn Thất Thuyết mượn danh nghĩa vua Hàm Nghi phát chiếu
Cần Vương để kêu gọi người Việt nổi dậy đánh Pháp giúp vua. 
 Hưởng ứng lời kêu gọi này, nhiều cuộc nổi dậy đã nổ ra, tiêu biểu là khởi nghĩa
Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy. 

Diễn biến của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy


 Địa bàn hoạt động của khởi nghĩa Bãi Sậy thuộc các huyện Văn Lâm, Văn Giang,
Khoái Châu (tỉnh Hưng Yên) và Kinh Môn (thuộc Hải Dương). Sau đó, cuộc khởi
nghĩa đã phát triển ra các tỉnh xung quanh như Bắc Ninh. Thái Bình, Nam Định…
 Nghĩa quân còn xây dựng căn cứ Hai Sông ở Kinh Môn (Hải Dương) do Đốc Tít
(Nguyễn Đức Hiệu) phụ trách.
 Nghĩa quân Bãi Sậy không tổ chức thành những đội quân lớn mà phiên chế thành
những phân đội nhỏ khoảng từ 20 – 25 người, tự trang bị vũ khí và trà trộn vào
dân để hoạt động.
 Trong những năm 1885 – 1887, nghĩa quân tập trung tổ chức lực lượng, bẻ gãy
nhiều trận càn của địch vào căn cứ Bãi Sậy và các làng thuộc hai huyện Khoái
Châu và Văn Giang, còn tại căn cứ Hai Sông, tháng 11 – 1885, nghĩa quân liên
tiếp đẩy lùi các cuộc tấn công của thực dân Pháp.
 Nhiều trận đánh ác liệt diễn ra trên địa bàn các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc
Ninh, Thái Bình, Quảng Yên. Có trận, quân ta tiêu diệt tới 40 tên địch, bắt sống
chỉ huy.
 Năm 1888, quân Pháp tập trung lực lượng, quyết tâm diệt bằng được cuộc khởi
nghĩa. Cũng từ đây nghĩa quân bước vào giai đoạn chiến đấu quyết liệt.
 Thực dân Pháp tăng cường binh lực, xây dựng hệ thống đồn bốt dày đặc và thực
hiện chính sách “dùng người Việt trị người Việt” để cô lập nghĩa quân ở căn cứ
Bãi Sậy. Nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm, nhưng lực lượng ngày càng giảm
sút và rơi dần vào thế bị bao vây, cô lập. Cuối cùng, Nguyễn Thiện Thuật phải
lánh sang Trung Quốc (7 – 1889) và mất tại đó vào năm 1926.
 Cuối tháng 7 – 1889, căn cứ Hai Sông cũng bị Pháp bao vây. Đốc Tít chỉ huy
nghĩa quân chống trả quyết liệt, nhưng bị đánh bật khỏi đại bản doanh Trại Sơn.
Trong thế cùng ông phải ra hàng giặc (12 – 8 – 1889), sau bị chúng đày sang
Algeria.
 Những tướng lĩnh còn lại cố duy trì cuộc khởi nghĩa thêm một thời gian. Đến năm
1892, họ về với nghĩa quân Đề Thám ở Yên Thế.
Tổ chức chiến đấu của nghĩa quân Bãi Sậy khác với nghĩa quân Ba Đình ở chỗ:
Hoạt động trên một địa bàn rộng, sử dụng lối đánh du kích, nghĩa quân không cố thủ một nơi,
chia thành nhiều nhóm nhỏ, cơ dộng linh hoạt, bên cạnh hoạt động du kích còn có hoạt động
binh vận, chống càn, đánh phá các tuyến đường giao thông, đánh đồn.

Kết quả của khởi nghĩa Bãi Sậy là gì?


Đến 1889, sau những trận giao chiến quyết liệt, mặc dù lực lượng nghĩa quân bị tổn thương
nhưng vẫn giành được những thắng lợi lớn, làm tiêu hao sinh lực địch, vận động được nhiều lính
ngụy trở về với nhân dân. Do tình thế ngày một khó khăn, 7 – 1889 Nguyễn Thiện Thuật phải tìm
đường lánh sang Trung Quốc. Phong trào tiếp tục một thời gian và đến năm 1892 thì tan rã hẳn.

Ý nghĩa của khởi nghĩa Bãi Sậy là gì?


 Cuộc khởi nghĩa này đã kế tục truyền thống yêu nước, bất khuất của ông cha, cổ
vũ nhân dân ta tiếp tục đấu tranh.
 Bên cạnh đó, khởi nghĩa Bãi Sậy cũng đã để lại nhiều lại bài học bổ ích, nhất là
phương thức hoạt động và hình thức tác chiến du kích ở một đồng bằng đất hẹp
người đông.

Tính chất cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy là gì?


 Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy là cuộc khởi nghĩa dưới ngọn cờ phong kiến
 Khởi nghĩa Bãi Sậy áp dụng chiến thuật du kích, dựa vào sự ủng hộ của dân
chúng, lúc ẩn lúc hiện, đánh úp đồn trại Pháp trên đường Hà Nội – Hưng Yên –
Hải Dương, hay dựa vào địa thế sình lầy, lau sậy um tùm dễ tiến thoái của căn cứ
để chống Pháp…
Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883 – 1892) được xem là một trong những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu
nhất của nhân dân đồng bằng Bắc Kỳ ở cuối thế kỷ XIX. Mặc dù không giành được thắng lợi
nhưng cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm đặc biệt là về phương
thức hoạt động, hình thức tác chiến cho cách mạng của nhân dân ta trong giai đoạn sau.

You might also like