You are on page 1of 690

284 ANH HÙNG HÀO KIỆT CỦA VIỆT NAM

Tác giả : Vũ Thanh Sơn


Nxb Công an Nhân dân 01/2009
Số trang : 180. Kích thước : 14.5 x 20.5cm
Thực hiện ebook : hoi_ls
(www.thuvien-ebook.com)
LỜI GIỚI THIỆU
NGUYỄN TRI PHƯƠNG
ÔNG ÍCH KHIÊM
PHẠM THẾ HIỂN
NGUYỄN DUY
ĐÀO TRÍ PHÚ
NGUYỄN TƯ GIẢN
VŨ DUY THANH
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
PHẠM VĂN NGHỊ
NGUYỄN VĂN HIỂN
BÙI HỮU NGHĨA
TRƯƠNG ĐỊNH
NGUYỄN ĐỨC ỨNG
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
PHAN VĂN TRỊ
TRẦN TRỌNG KHIÊM
VĂN ĐỨC GIAI
VÕ DUY DƯƠNG
TRƯƠNG QUỐC DỤNG
ĐỖ QUANG
TRẦN XUÂN HÒA
ĐỖ THÚC TĨNH
NGUYỄN NGỌC THĂNG
THÂN VĂN NHIẾP
HỒ HUÂN NGHIỆP
PHAN VĂN ĐẠT
ĐẶNG VĂN TÒNG
PHẠM PHÚ THỨ
VŨ ĐỨC KHUÊ
NGUYỄN TRUNG TRỰC
PHAN TRUNG
TRỊNH VIẾT BÀNG
NGUYỄN HỮU HUÂN
HUỲNH MẪN ĐẠT
PHẠM VĂN CHÍ
TRƯƠNG QUYỀN
LINH MỤC KHÂM
TÁN KẾ
NGUYỄN KHẮC TRẠCH
VŨ PHẠM KHẢI
ĐẶNG HUY TRỨ
TRẦN TẤN
ĐẶNG NHƯ MAI
ĐOÀN HỮU TRƯNG
PHAN TÒNG
TÀI LIỆU BIÊN SOẠN CHÍNH
LỜI GIỚI THIỆU
Bộ sách “284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam” bao gồm 5 tập với
tổng cộng gồm 1000 trang của tác giả Vũ Thanh Sơn viết về chân dung các
nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà văn, nhà báo Vũ Thanh Sơn đã tập trung
khắc họa lại tương đối đầy đủ và toàn diện về chân dung của 284 Anh hùng
hào kiệt của Việt Nam từ cuối Thế kỷ XIX đến đầu Thế kỷ XX. Trong đó
nhiều nhân vật mà các cuốn sách đã xuất bản từ trước đến nay chưa hề
được đề cập đến. Bằng công trình của mình không những tác giả đã đóng
góp phần bổ sung cho những thiếu vắng của lịch sử nước nhà (đặc biệt là
về nhân vật và sự kiện) mà còn góp phần tuyên truyền, giáo dục những tấm
gương tiêu biểu cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc - đó là sự nghiệp đấu
tranh chống ngoại xâm giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc.
Chân dung các nhân vật lịch sử Việt Nam trong thời kỳ lịch sử cận
đại được tác giả Vũ Thanh Sơn tập trung khắc họa ở 3 nhóm chính tương
ứng với ba thời kỳ sôi động của lịch sử Việt Nam, đã có biết bao anh hùng,
nghĩa sĩ hô hào nhân dân vũ trang đánh đuổi giặc Pháp:
Đó là thời kỳ đầu tranh chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ
XIX (từ khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tại bán đảo Sơn Trà,
chính thức mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam 1/9/1858).
Là phong trào Cần Vương với nhiều cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của
văn thân chông Pháp (1885-1896) phát triển rộng khắp từ Nam ra Bắc.
Và còn là phong trào đấu tranh chống Pháp đầu thế kỷ XX với ý thức
của hệ tư tưởng mới với các phong trào chống thuế ở Quảng Nam, phong
trào Duy tân, Đông du dưới sự lãnh đạo của Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh...).
Trong cuộc kháng chiến không cân sức này có biết bao anh hùng, hào
kiệt đã ngã xuống, nhưng ý chí quật cường chống giặc Pháp, cùng những
lời tuyên bô đanh thép trước giây phút bị hành hình vẫn mãi sáng chói,
rạng ngời lên chủ nghĩa anh hùng của dân tộc Việt Nam. Đó là những câu
nói đến nay ta đọc lại vẫn rung động như Tổng đốc Nguyễn Tri Phương
tuyên bố: “Bây giờ nếu ta chỉ miễn cưỡng lay lắt mà sống, sao bằng thung
dung chết vì việc nghĩa”; Bình Tây đại nguyên soái Trương Định tuyên bố:
“Chúng ta thề sẽ đánh mãi và không ngừng, khi ta thiếu tất cả ta sẽ bẻ
nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm vũ khí cho binh lính ta”; hay Nguyễn
Trung Trực trước giờ giặc hành hình vẫn dõng dạc tuyên bố: “Bao giờ
người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”... và còn
rất nhiều, rất nhiều lời tuyên ngôn đanh thép khác.
Nhìn chung, các nhân vật lịch sử tác giả đề cập đến trong bộ sách
đều xứng đáng được tôn vinh. Họ có thể là những quan lại, hay những nhà
chí sĩ có tinh thần yêu nước. Mặc dù, mỗi người ở cương vị khác nhau, vị
thế xã hội và hoàn cảnh xuất thân không giống nhau nhưng tất cả những
con người ấy đều có chung mục đích cao cả nhất là không quản ngại hy
sinh gian khổ, kiên quyết đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược giành
độc lập cho đất nước.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bộ sách “284 Anh hùng hào kiệt
của Việt Nam” với quý vị độc giả.
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
NGUYỄN TRI PHƯƠNG
Nguyễn Tri Phương tên thật là Nguyễn Văn Chương tự là Hàm Trinh,
hiệu Đường Xuyên, sinh năm 1800, quê làng Chi Long, huyện Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên. Do cha mẹ sống bằng nghề làm ruộng, thợ mộc nghèo,
nên ông không được học hành, nhưng ông là người có chí tiến thủ.
Khởi đầu ông làm lại viên ở huyện Phong Điền, sau lên làm lại viên ở
bộ Hộ. Do có tài giải quyết công việc sự vụ nhanh, đúng luật lại mẫn cán,
ông được thăng dần lên tới chức Tham tri bộ Lễ kiêm tuần phủ Nam - Ngãi
dưới triều Minh Mệnh(1820-1840).
Đầu triều Thiệu Trị(1841 - 1847), ông củng cố hệ thống phòng thủ bờ
biển Quảng Nam - Quảng Ngãi, sau thăng Tham tri bộ Công, Tổng đốc An-
Hà (An Giang - Hà Tiên). Ông là viên tướng dũng cảm, mưu lược có công
đánh đuổi quân Chân Lạp và quân Xiêm, được thăng Hiệp biện đại học sĩ
được nhà vua ban danh hiệu “An Tây dũng tướng”.
Dưới triều Tự Đức, ông làm Phụ chính Đại thần. Năm 1850, ông
được vua Tự Đức cho đổi tên là Nguyễn Tri Phương, vì trong chiến trận
ông dũng mãnh và mưu lược.
Năm 1853, ông được thăng chức Đông các Đại học sĩ, sung chức
Tổng thống quân vụ đại thần, kiêm Kinh lược sứ Nam Kỳ.
Dã tâm xâm lược Việt Nam của đế quốc Pháp ngày càng bộc lộ rõ.
Sau khi Pháp ký với triều đình Mãn Thanh. Hiệp ước Thiên Tân ngày
27/6/1858 thì tàu chiến Pháp thường xuyên uy hiếp vùng biển Đà Năng.
Triều đình cử Nguyễn Tri Phương, Ông Ích Khiêm tới Đà Nẵng chuẩn bị
chiến đấu. Bộ thuộc địa Hải quân Pháp điều động Thiếu tướng Hải quân
Rigônđờ Giơniơ (Rigauld de Gerromille) Tổng chỉ huy lực lượng Hải quân
Pháp ở vùng biển Đông làm Phó Thủy sư Đô đốc, giữ chức Tổng chỉ huy
lực lượng viễn chinh Pháp tại Việt Nam. Ngày 30/8/1858, chiến hạm Pháp
đóng ở đảo Hải Nam (Trung Quốc) để hội quân với chiến hạm Tây Ban
Nha. Ngày 31/8/1858, 13 chiến thuyền của Liên quân Pháp - Tây Ban Nha
thả neo ở vịnh Đà Nẵng, ngày 01/9/1858 chúng bắn đại bác vào đồn lũy của
quân triều đình ở bán đảo Sơn Trà, chiếm bán đảo Sơn Trà. Nguyễn Tri
Phương thực hiện kế hoạch "nửa thủ, nửa công" bằng cách dựng chiến lũy
để quân ta ẩn nấp và bao vây quân Pháp. Ông cùng các tướng Phạm Thế
Hiển, Nguyễn Duy, Đào Trí đã chặn đứng các mũi tấn công của quân Pháp
từ bán đảo Sơn Trà vào sâu trong đất liền.
Quân Pháp đưa tàu chiến vào sông Nại Hiên đã bị Nguyễn Tri
Phương đánh bại, phải tháo chạy về bán đảo Sơn Trà. Giơniơ thay đổi chiến
thuật, ngày 22/2/1859, hắn kéo đại quân theo đường biển vào đánh chiếm
Sài Gòn, chỉ để lại đại tá Toay-ông (Toyon) giữ bán đảo Sơn Trà. Trong 2
ngày 6 và 7/211859, Nguyễn Tri Phương sai Nguyễn Duy và Đào Trí tấn
công nhiều lần vào bán đảo Sơn Trà, nhưng không thành.
Từ ngày 10/2/1859 quân Pháp liên tiếp tấn công thành Sài Gòn và các
đồn lũy chung quanh, ngày 17/2/1859, thành Sài Gòn vỡ.
Tháng 8/1960, triều đình cử Nguyễn Tri Phương giữ chức Tổng thống
quân vụ, vào Nam chỉ huy quân thứ chống giặc.
Ngày 23/2/1861, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha mở đợt tấn công quy
mô lớn vào Đại đồn Chí Hòa, Nguyễn Tri Phương chỉ huy quân đội chiến
đấu quyết liệt suốt hai ngày đêm. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha bị tổn thất
nặng nề: 1 quan năm Tây Ban Nha, 4 sĩ quan cao cấp, 121 hạ sĩ quan, 1805
binh lính liên quân chết trận. Song quân ta cũng tổn thất nghiêm trọng: Tán
tương Nguyễn Duy tử trận, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương, ngày
25/2/1861 đại đồn Chí Hòa thất thủ.
Cuối tháng 12/1861, Triều đình cử Thượng thư Bộ binh Nguyễn Tri
Phương làm Đổng suất quân vụ Biên Hòa và Thị lang bộ binh Tôn Thất
Cáp làm phụ tá quân vụ Biên Hòa trực tiếp vào Nam Kỳ tổ chức đánh giặc.
Tháng 9/1862 , tình hình các tỉnh vùng núi Bắc Kỳ biến động, triều
đình điều động tướng lĩnh ra Bắc, trong đó có Nguyễn Tri Phương, giữ chức
Tổng thống quân vụ Tây bắc. Sau khi Nguyễn Tri Phương dẹp yên loạn lạc
ở vùng biên giới Bắc Kỳ, cuối tháng 9/1866, Tự Đức triệu ông về Huế, giữ
chức Thượng thư bộ Binh, kiêm Kinh lý Hải phòng chánh sứ, bổ sung vào
Viện Cơ mật lo việc đánh dẹp giặc dã nổi lên ở khắp nơi.
Các năm 1871, 1872 tại các tỉnh Bắc Kỳ bị giặc Khách, giặc Cờ
Trắng, Cờ Vàng, Cờ Đen quấy nhiễu, Triều đình lại cử ông giữ chức Tuyên
sát Đổng sức đại thần ra sức đánh dẹp. Ông cùng Hoàng Kế Viêm thu phục
được tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc, phá xong các bọn giặc khác.
Giữa năm 1873, Nguyễn Tri Phương về làm Tổng đốc Hà Nội, đối
phó với tên Jean Dupuis ngang ngược. Từ ngày 12/11 đến 19/11/1873
Garnier gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Nguyễn Tri Phương, buộc ông phải hạ
khí giới, giao nộp thành Hà Nội cho chúng. Song ông vẫn quyết tâm chiến
đấu.
Ngày 10/11/1873, Nguyễn Tri Phượng ra lời Hiệu triệu toàn quân,
toàn dân Hà Nội chống Pháp cho niêm yết khắp nơi.
Nhưng lời đe dọa của giặc Pháp không làm Nguyễn Tri Phương khuất
phục, ông cùng con trai là phò mã Nguyễn Lâm ra Hà Nội thăm cha và các
tướng sĩ kêu gọi quân sĩ và nhân dân Hà Nội sẵn sàng đánh giặc Pháp, tăng
cường phòng thủ. Nguyễn Tri Phương cũng liên kết với Tổng đốc Bắc Ninh
Trương Quang Đản, Tổng đốc Sơn Tây Hoàng Kế Viêm sẵn sàng ứng cứu
cho nhau.
Song Nguyễn Tri Phương giữ thành Hà Nội trong điều kiện phe chủ
hòa mà cầm đầu là Tự Đức, Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp... thắng thế.
Tại Hà Nội, trước khi Nguyễn Tri Phương tới nhậm chức thì triều đình đã
điều động các tướng giỏi như Hoàng Kế Viêm đi Sơn Tây, điều Lưu Vĩnh
Phúc chỉ huy quân Cờ Đen lên mạn ngược. Quan lại trong thành Hà Nội có
tư tưởng chống Pháp cũng bị điều đi nơi khác thay thế bằng quan lại thuộc
phe chủ hòa. Triều đình còn ngăn cấm không cho nhân dân vũ trang đánh
Pháp.
Quân phòng thủ Hà Nội quá mỏng, chỉ có 5.000 quân, trang bị quá
kém, từ lâu không được luyện tập, tinh thần chiến đấu xa sút. Khi giặc Pháp
tới đóng ở Trường Thi, Nguyễn Tri Phương chỉ huy động được 2.000 quân,
nhưng tinh thần hoang mang, trang bị quá kém. Trong khi đó quân Pháp có
300 quân thiện chiến, trang bị hiện đại, có tầu chiến, súng đại bác. Bọn
Pháp còn cấu kết với những tên gián điệp đội lốt cha cố Tây Ban Nha, Pháp
đến Hà Nội truyền giáo từ trước tổ chức màng lưới gián điệp do thám các
hoạt động của quân ta; chúng vũ trang cho đám giáo dân quá khích quấy rối
hậu phương ta. Chín nhà buôn Trung Hoa có lực lượng vũ trang cũng cấu
kết với giặc Pháp. Hơn 3.000 quân của dư đảng Tạ Văn Phụng đang nổi
loạn ở Hải Dương, Quảng Yên đem quân đến giúp quân Pháp sẵn sàng đánh
thành.
Mặc dù lực lượng chênh lệch, phải chiến đấu đơn độc, Tổng đốc
Nguyễn Tri Phương vẫn kiên quyết chiến đấu.
Bốn giờ sáng ngày 1 tháng 10 năm Quý Dậu tức ngày 20/11/1873,
quân Pháp do thiếu tá Francis Garnier và tên lái buôn Jean Dupuis đem 180
quân tấn công thành, chúng nã đại bác vào khu Cột Cờ là Tổng hành dinh
của Nguyễn Tri Phương. Nguyễn Tri Phương thân lên mặt thành chỉ huy
quan quân đánh quân Pháp ở cửa Nam. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng
quyết liệt. Quân Pháp tiến tới sát tường thành, đạn đại bác của ta đặt trên
mặt thành rơi vượt quá đầu địch. Quân Pháp chiếm được lợi thế phá vỡ cửa
Nam nơi Nguyễn Tri Phương và con trai là Nguyễn Lâm chỉ huy. Ở các nơi
khác Ngô Triều vẫn hăng hái xông lên mặt thành vung gươm chém những
tên giặc đang dùng thang leo vào. Cả hai người đều hi sinh anh dũng trên
đống xác giặc. Khi thấy nguy cơ thành bị mất, Thự đốc Bùi Thúc Kiên, án
sát Tôn Thất Trác bỏ chạy về cửa Bắc, mặc dù quân sĩ vẫn đang kiên cường
chiến đấu. Khâm phái Phan Đình Bình, Bố Chính Võ Dương, Đề đốc Đặng
Siêu đều sa vào tay giặc.
Quân sĩ khiêng ông vào nằm trong dinh. Quân Pháp băng bó cho ông,
ông dứt ra, chúng đổ thức ăn vào miệng ông nhổ ra, nói: "Bây giờ nếu ta chỉ
miễn cưỡng lắt lay mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa”.
Nguyễn Tri Phương bị trọng thương không chịu để giặc buộc thuốc,
nhịn ăn uống, người Pháp đổ thuốc và cháo ông phun ra cả. Sau một tháng
buồn rầu vì thành mất, vua quan bạc nhược, sợ giặc, buồn cho vận nước,
thương em và con đều hy sinh và đau đớn vì bị thương, ngày 20 tháng 12
năm 1873 (ngày 1 tháng 11 năm Quý Dậu), Nguyễn Tri Phương mất tại
dinh Tổng đốc Hà Nội. Lúc đó ông là Hiệp biện Đại học sĩ, lãnh Lại bộ
Thương thư, sung Khâm mạng tuyên sát Đổng sức Đại thần.
Ông được các sĩ phu và nhân dân Hà Nội an táng trọng thể, rước bài
vị về thờ ở miếu Trung Liệt. Khi ông tuẫn tiết các tướng lĩnh, sĩ phu trong
phe chủ chiến và dân Hà Thành vô cùng thương cảm, gửi rất nhiều đối
trướng, thơ phúng viếng.
Ngay sau khi nhận được tin ông mất, nhân dân Nam Kỳ vô cùng
thương tiếc. Người dân Mỹ Khánh nay thuộc phường Biên Hòa, thành phố
Biên Hòa đã rước bài vị Nguyễn Tri Phương vào thờ ở đình này trước chỉ là
ngôi miếu nhỏ thờ Thành hoàng bản cảnh làng Mỹ Khánh. Từ đó đình
mang tên đền thờ Nguyễn Tri Phương. Di tích nằm trên một khu vực rộng
lớn của sông Đồng Nai. Trong đình có nhiều hiện vật quý bằng gỗ, bằng
đồng, bằng vải và giấy như bát biểu, bộ áo mão tương truyền vua ban khi
ông đi kinh lược Nam Kỳ. Tượng ông tạc bằng gỗ thể hiện sắc diện uy nghi,
lẫm liệt với chiếc ngai khảo tả long vân.
Hàng năm có tổ chức lễ hội ở đình từ 16 đến 17 tháng 10 .
Đình đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng “Di tích lịch sử văn
hóa quốc gia”.
Nhân dân Hà Nội thờ ông cùng Tổng đốc Hoàng Diệu ở đền Trung
Liệt và trên lầu cửa Bắc thành Hà Nội.
Nhiều nhà sử học ca ngợi Nguyễn Tri Phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khi viết “Lịch sử nước Nước ta” đã ca ngợi ông:
“Nước ta nhiều kẻ tôi trung
Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương
Hoàng Diệu và Nguyễn Tri Phương
Cùng thành còn mất, tấm gương muôn đời”.
ÔNG ÍCH KHIÊM
Ông Ích Khiêm tên tự là Mục Chi, sinh năm Tân Mão (1831), thân
phụ là ông Văn Điều người huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam. Lúc nhỏ,
ông là người có trí tuệ theo học người chú là Ông Văn Trị.
Năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), đỗ Tú tài khi mới 15 tuổi. Năm Tự Đức
thứ 4 (1852) ông đỗ Cử nhân, được bổ chức Tri huyện Kim Thành (Hải
Dương). Ông không a dua theo bọn tham quan, ô lại ở địa phương, bị bọn
chúng gièm pha, vu cáo, ông bị mất chức. Chán cảnh làm quan văn, ông xin
chuyển sang ngạch võ, được thu dụng lại.
Năm Tự Đức thứ 15 (1862) dẹp yên các toán phỉ Ước, phỉ Độ ông lập
được công nên được phục lại hàm tri huyện sung Hiệp quản vệ chiến sai.
Lâm trận đốc chiến có công được bạt bổ Tri phủ sung Đốc binh.
Năm Tự Đức thứ 18 (1865), giặc biển phạm các đồn Quỳnh Lâu, Yên
Trì, Ông Ích Khiêm cả phá được bắt và chém được hơn một trăm tên, được
thăng Thị độc sung Tán tương, sau được cất lên chức Hồng lô Tự khanh
biện lý Lễ bộ.
Năm Tự Đức thứ 20 (1807) vua thấy Ích Khiêm trước ở Hải Dương
mộ thủ hạ trên 600 tên lập thành Thành Dũng cơ tiễu phỉ có công cho bạt
bổ Thị lang Binh bộ và ban cho một tấm Hiếu nghĩa tử kim khánh. Gặp lúc
tên phạm trốn bên đất nhà Thanh là Vi Tái Thọ tụ đảng ở Bắc Ninh gây
việc, vua sai Khiêm sung Khâm phái Bắc Ninh tiễu phủ Sứ, ban cho quần
áo, 20 lạng bạc rồi cho đi đánh. Ích Khiêm đến quân thứ, chia phái quan
quân đi bắt được 65 tên phạm. Ít lâu, bọn phỉ ở Thái Nguyên trở nên hung
dữ, quân bộ biên bị thua. Tổng đốc Ninh - Thái Phạm Chi Hương tâu xin
cho Khiêm coi hạt Thái. Ít lâu vì tiến đánh bất lợi, bị thương. Việc tâu lên,
vua cho là quan văn như thế cũng hiếm có, cấp cho 10 lạng bạc chữa thuốc.
Lại dụ rằng chữa mau để đi đánh, để thu lấy cái thành hiệu đã hăng hái đánh
giặc, đừng thấy thua một trận mà chán nản.
Năm thứ 21 (1868), bọn phỉ tiến đánh ở Cao Bằng lại nổi lên. Vua sai
Chi Hương đi Cao Bằng trù tính đánh dẹp, Ích Khiêm thời quyền giữ ấn
Tổng đốc quan phòng. Chưa bao lâu, Khiêm đổi sang Tán lý quân thứ Lạng
Bình, cùng với đề đốc Nguyễn Viết Thành hội họp với phó tướng Tạ Kế
Quý nước Thanh đánh phỉ ở Thất Khê, cả phá được, có trong nửa ngày đốt
luôn được hơn 30 đồn giặc. Khiêm được thưởng các hạng nhẫn vàng khảm
pha lê lóng lánh. Sau bị việc để cho quân bộ biên đi đốt nhà cướp của, khép
vào tội đồ, vẫn cho phép mộ lính dõng theo đi đánh giặc.
Năm thứ 22 (1869) bọn phỉ nước Thanh là Ngô Côn đem đồ đảng
đánh vây tỉnh thành Bắc Ninh, khí thế rất hăng. Bọn khâm sai Nguyễn Văn
Phong, đình thần Bùi Tuấn bám chặt thành cố giữ. Ích Khiêm được tin, từ
huyện Kim Anh ban đêm binh voi gấp đường xông tới đánh. Trong ngoài
giao nhau bắn, Côn bị trúng đạn lạc, bèn giải được vây, được phục hàm bố
chính sung tán lý, và thưởng thêm 1 đồng kim tiền “Vạn thế vĩnh lại” hạng
lớn, 1 tấm bội bài bằng ngọc quý và 50 lạng bạc. Khiêm lại đốc suất đi với
lãnh binh Hà Nội Trương Trường Hợp và quyền đề đốc quân thứ Thái
Nguyên Nguyễn Văn Nhuận đánh phỉ ở xã Thanh Tước bắt và chém được
rất nhiều. Phỉ sợ, rút lui. Ích Khiêm đời quân về quân thứ Sơn Tây. Gặp lúc
bọn phỉ chia nhau đóng giữ Phú Bình, Đại Từ, chẹn lối sau của Thái
Nguyên, Ích Khiêm liền đem quân bản bộ và quân đạo Sơn Tây, hợp tiễu để
giải nguy cấp cho tỉnh Thái.
Năm thứ 23 (1870) Khiêm cùng với tham tán Lê Bá Thận đánh phá
đảng lũ của Hoàng Văn ở trong rừng Lục Ngạn, được cất bổ lên tham tri
Binh bộ và đổi sang tán lý Lạng - Bình, ít lâu thăng lên tham tán. Bấy giờ
bọn phỉ Tô lại chiếm cứ thành Lạng. Ích Khiêm sai bắn đại bác vào cửa
đông thành, bỗng bị phỉ bắn trả lại làm chân trái bị thương, bèn mang lính
tùy tòng trở về Hải Dương. Vua thấy luôn lập chiến công, ban cho sâm quế,
sâm tam thất, bạc cùng đồ vật và gia ơn cho được cách chức lưu dụng, nghỉ
giả hạn rồi lại tới quân thứ. Nhưng thứ thần tâu rằng hôm bị thương, Khiêm
đã chọn lấy 200 lính giỏi ở đồn để hộ vệ mình (trở về), Khiêm lại bị giáng
xuống Quang lộc Tự khanh vẫn sung Tán lý.
Năm thứ 24 (1871) Ích Khiêm đóng quân thứ ở Đông Triều dẹp phỉ
được thắng lợi luôn. Mùa hè năm ấy, bọn phỉ lại cướp Sơn Tây. Khiêm
được thăng thự Thị lang gia hàm Tham tri đổi Tham tán quân thứ Sơn Tây,
chuyển đốc lạo quân Sơn, phàm việc quân cơ được làm tập tâu riêng phát
đệ.
Năm thứ 25 (1872), tháng 2, Khiêm cùng tán tương Nguyễn Dy phá
tan sào huyệt phỉ ở Quán Tư, lấy lại huyện Trấn Yên, được thưởng thêm 1
tấm kim bài. ích Khiêm lại họa địa đồ Sơn Hưng Tuyên dâng vua. Vua xem,
nói rằng: "Nay hãy trù tính Hưng trước, Tuyên sau”. Ít lâu, vì trận đánh ở
Đại Đồng thua, rút lui, bị cách chức lưu dụng.
Năm Tự Đức thứ 26 (1873), Ông Ích Khiêm là bộ tướng của Tôn
Thất Thuyết, bọn phỉ do Lý Dương Tài chỉ huy gây ra nhiều vụ cướp phá ở
biên giới. Đề đốc Phùng Tử Tài có gửi thư cho Tôn Thất Thuyết cùng hội
quân đánh giặc. Hai bên hợp sức đánh, quân giặc lùi về cố thủ ở vùng Ba
Bể (Bắc Cạn), quan quân đánh mấy tháng không phá được, Tôn Thất
Thuyết giao cho ông Ích Khiêm 15 ngày phải phá xong, nếu không bị quân
luật. Ông Ích Khiêm chọn 80 lính khỏe mạnh, biết võ thuật, giỏi côn kiếm,
trang bị gươm, đoản đao, bốn chiếc thanh la. Cuối tháng giêng, ông xuất
phát từ Thái Nguyên lên tới nơi phỉ đóng quân phải mất hơn 10 ngày. Ông
dẫn quân trèo lên ba đỉnh núi mà bọn phỉ đóng ở dưới chân núi. Nửa đêm,
ông cho quân cởi trần, mặc quần đùi cầm đoản đao cùng 4 chiếc thanh la,
buộc dây từ đỉnh núi tụt xuống. Ông lệnh cho 4 chiếc thanh la cùng gõ, rồi
80 quân đột nhập vào doanh trại giặc khi chúng đang ngủ, chém giết trên
1000 quân phỉ kể cả tên tướng giặc Lý Dương Tài. Quân của ông nguyên
vẹn thu chiến lợi phẩm trở về. Trận thắng dũng mãnh này khiến Đề đốc
Phùng Tử Tài cũng phải khâm phục.
Năm thứ 35 (1882) vua nghĩ tình vất vả, giỏi giang, dùng lại làm
Hồng lô Tự khanh biện lý Hộ bộ. Ích Khiêm tâu bày về kế sách nước mạnh
dân giàu, vua đều cho là phải, nhưng việc biên giới chưa rồi nên không quả
quyết lắm. Rồi Khiêm được bổ Thị lang sung tham lược kinh kỳ hải phòng
coi đắp các đồn Thái Dương, Lộ Châu, ý muốn làm mau xong, có vẻ
nghiêm khắc, tàn bạo. Vua hạ dụ khiển trách, giáng xuống Chủ sự, cho đời
đi phòng thủ đồn Hòa Quân.
Chưa bao lâu được phục hàm thị giảng tham biện phòng vụ. Đến khi
đồn cửa Thuận không giữ được, Ích Khiêm thu hơn 700 quân về đến bến
Nam Phổ vẫn chưa thôi tiếng trống hiệu. Việc tâu lên, vua quở, đổi sang
chức biện lý Lễ bộ. Sau đó Nguyễn Văn Tường, Lê Thuyết mưu với nhau
phế lập, giả cách thuận cho phế để nhượng ngôi, lui về phủ cũ, rồi mật báo
Ích Khiêm và Trương Đăng Thê mời vua đến nha Hộ Thành cho uống thuốc
độc giết chết.
Đầu niên hiệu Kiến Phúc (1854) thăng thự Thị lang tấn phong tước
Kiên Trung Nam. Tháng 5 ấy, ông mang 50 lính đi thẳng về quê ở tỉnh
Quảng Nam. Bọn Ngự sử Đào Hữu Ích đàn hặc là tự tiện bắt binh mã giao
thông với phủ đệ, Khiêm lại bị cách chức phát đi an trí ở Bình Thuận rồi
mất ở trong ngục, bấy giờ 55 tuổi. Hồi đầu niên hiệu Hàm Nghi (1885) truy
phục hàm Thị độc.
(Theo Đại Nam chính biên liệt truyện,
quyển 35 từ trang 276-282 Nxb Thuận Hóa.-
T.C Tri Tân (1941-1946).
PHẠM THẾ HIỂN
Phạm Thế Hiển sinh ngày 14 tháng 12 năm Quý Hợi (1803), ông quê
ở làng Luyến Khuyết, xã Thụy Phong, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Từ nhỏ, Phạm Thế Hiển đã nổi tiếng thông minh. Năm Minh Mệnh
thứ 9 (1828), ông đỗ Hương cống, năm sau thi Đình, ông đỗ Đệ tam giáp
tiến sĩ. ông được bổ làm tri phủ.
Từ năm 1831, ông trải qua nhiều chức vụ, đến năm 1851 ông được
triệu về Kinh giữ chức Lễ bộ Hữu tham tri.
Khi ông làm Lễ bộ Hữu Tham tri đang sung chức Khâm sai đi tra xét
Tuần phủ Hưng Yên Lê Chân, án sát Hưng Yên Tôn Thất Loan, Bố chính
Hải Dương Nguyễn Hữu can tội tham nhũng và suy thoái đạo đức. Ông đã
điều tra rõ ràng tội trạng của ba viên quan tham nhũng đó tâu vua trị tội.
Tháng 8 năm Tân Hợi (1851), Phạm Thế Hiển được vua Tự Đức khen
là: "Cảm kích, siêng năng, cẩn thận, cần kíp công việc”, thưởng rất hậu và
thăng Tuần phủ Gia Định. Sau đó lại được thăng Thự Tổng đốc Gia Định -
Biên Hòa, kiêm Tham hiệu kinh lược, cùng Nguyễn Tri Phương lo việc lớn
ở Lục tỉnh Nam Kỳ.
Để chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến, Phạm Thế Hiển cùng
Nguyễn Tri Phương tâu với Tự Đức khai hoang, lập ấp ở Lục tỉnh. Ngay
tháng 9 năm đó ông cùng Nguyễn Tri Phương thực hiện việc khẩn hoang,
hình thành ra hai huyện mới là Kiên Giang, Long Xuyên. Các phủ huyện
cũng khai hoang, lập được 23 ấp mới. (Đại Nam thực lục chính biên. Đệ tứ
kỷ)
Để bảo vệ an ninh khi giặc Pháp xâm lược, ông cùng Nguyễn Tri
Phương, Tổng đốc An Hà là Cao Hữu Sung đắp thành lũy ở sau núi Ngũ Hổ
gần tỉnh lỵ tạm thời Hà Tiên. Các ông cho xây doanh trại lính thủy Hà Tiên,
doanh trại lính thủy Long Tường, xây dựng chiến lũy phòng thủ ở cửa biển
Cần Giờ và cửa biển Tiểu ở Định Tường. Ông cùng Nguyễn Tri Phương
xây dựng đại đồn Chí Hòa, xây dựng phòng tuyến từ chợ Lớn đến xã Bình
Hải dài 12 cây số, xây 6 đồn trên chiến lũy đó.
Ngày 01/9/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công bán đảo Sơn
Trà, Đà Nẵng. Triều đình điều Phạm Thế Hiển ra Quảng Nam với chức vụ
mới: Tham tán binh nhung đại thần Quảng Nam để đánh giặc.
Sau đó, Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển cho đắp đồn Liên Trì
vô cùng kiên cố, phía ngoài có hầm chông, cạm bẫy được ngụy trang kín
đáo.
Tháng 2 năm Kỷ Mùi (1859), quân Pháp tiến đánh Thạch Thán, Phạm
Thế Hiển cùng Nguyễn Tri Phương chỉ huy các tướng đánh trả mãnh liệt,
giặc Pháp thua phải tháo chạy.
Ngày 17/2/1859, liên quân Pháp - Tây Ban Nha mở đợt tấn công lớn
vào thành Gia Định và các pháo đài bảo vệ, Hải quân Pháp - Tây Ban Nha
cũng đánh phá cảng Cần Giờ. Ngày hôm sau, 18/2/1859, liên quân Pháp -
Tây Ban Nha vào đóng ở thành Sài Gòn và cảng Cần Giờ.
Vua Tự Đức triệu Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển hỏi kế sách
nên đánh, nên hòa hay nên giữ. Cả hai ông đều bàn "Đánh là tiện hơn cả”.
Hai ông kiến nghị xây dựng đồn lũy phòng thủ, tăng quân số lên 1 ,5 - 2
vạn người, trang bị nhiều súng lớn đường kính "hai tấc chín phân trở lên
mới đắc lực”. Tự Đức cho là phải, nhưng chưa quyết vì Tự Đức chủ trương
thương lượng với quân Pháp.
Tháng 12/1860, Tham tán quân thứ Quảng Nam kiêm Tổng đốc Định
Tường, Biên Hòa Phạm Thế Hiển được vua Tự Đức cử giữ chức Tham tán
quân thứ Gia Định để cùng với Nguyễn Tri Phương mưu việc chống đánh
giặc Pháp. Vừa vào tới nơi, Tham tán Phạm Thế Hiển được Nguyễn Tri
Phương cử về các phủ huyện tổ chức dân binh, huấn luyện quân sự, trang bị
vũ khí cho họ để họ hỗ trợ, tiếp ứng cho quân Triều đình khi quân Pháp tới
đánh. Phạm Thế Hiển đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Nguyễn Tri Phương
giao cho.
Đại đồn Chí Hòa do Phạm Thế Hiển và Nguyễn Tri Phương xây dựng
từ mấy năm trước, khi hai ông được triều đình điều ra Quảng Nam thì Tôn
Thất Hiệp trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng, củng cố chiến lũy. Quân Pháp đã
mở nhiều đợt tấn công từ tháng 4/1860, song đều bị quân triều đình do Tôn
Thất Hiệp chỉ huy đánh lui. Phạm Thế Hiển vừa đi xây dựng lực lượng dân
binh trở về thì liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã tập trung quân.
Ngày 23/2/1861, Kharne chỉ huy liên quân Pháp - Tây Ban Nha đưa
toàn bộ lực lượng mạnh tấn công đại đồn Chí Hòa. Suốt hai ngày hai đêm,
quân ta chiến đấu dũng cảm, gây nhiều tổn thất cho giặc: quan 5 Tây Ban
Nha Planca, 4 sĩ quan cao cấp, 30 sĩ quan, 121 hạ sĩ quan và 1805 liên quân
xâm lược bị giết tại trận (Việt Nam những sự kiện lịch sử, tập I, trang 32-
33). Song bên ta cũng bị tổn thất nặng nề; Tán lý Nguyễn Duy, Tán tượng
Tôn Thất Trĩ trúng đạn chết, Nguyễn Tri Phương bị thương, Phạm Thế Hiển
phải lo đốc chiến.
Cuộc chiến sáng ngày 24/2/1861, quân ta bị thương vong nặng nề,
được sự đồng ý của Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển lệnh cho Lê Tố,
Lê Hóa ở tiền đồn mở đường rút quân về thôn Tân Tạo, huyện Tân Long,
phủ Tân Bình là tỉnh lỵ lâm thời của tỉnh Gia Định. Quân Pháp đưa 400
lính, xe ngựa chở súng đến đánh phía trái đồn, Phạm Thế Hiển chỉ huy quân
sĩ bắn trả ác liệt, quân Pháp phải rút lui về căn cứ.
Ngày 25/2 quân Pháp tập trung 300 quân đánh vào phía sau và bên
trái đồn. Quân ta chiến đấu vô cùng dũng cảm nhưng hết đạn, hy sinh nhiều.
Phạm Thế Hiển lo cứu chữa cho chủ tướng Nguyễn Tri Phương cùng quân
lính bị thương chuyển về nơi an toàn. Sau đó Phạm Thế Hiển lệnh cho các
quan quân thứ lui về Biên Hòa để củng cố lực lượng, tiếp tục đánh quân
Pháp.
Tự Đức triệu Phạm Thế Hiển về kinh nhưng tới tỉnh Phú Yên ông lâm
bệnh nặng, chữa không khỏi, mất ngày 11 tháng 7 năm Tân Dậu (1861) thọ
58 tuổi.
NGUYỄN DUY
Nguyễn Duy sinh ngày 21 tháng chạp năm Kỷ Tỵ (1809) niên hiệu
Gia Long thứ 8. Ông là em ruột Tổng thống Quân vụ đại thần Nguyễn Tri
Phương. Ông người Chi Long, xã Đường Long, tổng Chánh Lộc, huyện
Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên.
Năm Thiệu Trị nguyên niên (Tân Sửu - 1841) ông đỗ Hai cống. Năm
sau, Thiệu Trị thứ 2 (Nhâm Dần - 1842), ông thi Hội, đỗ Đệ tam giáp đồng
tiến sĩ. Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), ông được sơ bổ làm viện tu soạn Nội
các, rồi năm sau (1844), được thăng Hàn Lâm viện tu soạn. Niên hiệu Thiệu
Trị thứ 5 (1845), ông làm Tri phủ phủ Tây An. Năm Tự Đức thứ 2 (1849),
ông được cải bổ làm Tri phủ Quảng Ninh (Quảng Bình).
Quan Bố chánh tỉnh ấy là Trương Đăng Đệ, phụng chỉ sát hạch các
quan lại tỉnh Quảng Bình, ghi vào lý lịch của ông lời khen “ở với dân thì
khoan hòa, làm việc rất thanh liêm, gìn giữ”. Ông Đệ tâu lên xin đặc cách
thăng ông Duy làm chức Biện lý (án sát). Tự Đức tiếp được tờ tâu ấy, đòi
ông Duy về kinh bệ kiến ban khen và cho thăng lên Thị độc ở Nội các. Đến
năm Tự Đức thứ 5 (1852), ông được thăng Thị giảng học sĩ và cử đi sứ nhà
Thanh. Khi ấy ở ngoài khơi có giặc Tàu Ô, cướp phá thuyền bè dọc bờ biển
Trung Hoa, thành ra thuyền sứ Nguyễn Duy không về được. Mãi đến năm
Tự Đức thứ 8 (1855) ông mới về phục mạng, Vua Tự Đức phán rằng:
“Khanh đi muôn dặm xa xôi, ba năm khó nhọc, trở về bình an đã làm trọn
việc nước”. Rồi nhà vua thưởng trung hạng kim khánh, 50 lạng bạc và ban
cho một bài thơ khen tặng úy lạo. Sau chuyến đi sứ, ông được thăng hàm
Đại lý Tự khanh biện lý bộ Lại.
Các triều đình Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức đã nhượng
bộ cho Pháp nhiều đặc quyền, đặc lợi về kinh tế (nội thương, ngoại thương),
truyền đạo, nhưng dã tâm của chúng ta cướp nước ta, nên năm 1847 tàu
chiến của Pháp nổ súng khiêu khích ở Đà Nẵng. Năm 1856 , tầu chiến của
Pháp lại đến cửa biển Đà Nẵng diễu võ dương oai, vua Tự Đức cử ông và
Đào Trí Phú vào đắp đồn lũy phòng ngự. Làm xong, ông về kinh phụng chỉ.
Chính phủ Pháp sau khi cùng Triều đình Mãn Thanh ký Hiệp ước
Thiên Tân, ngày 27/6/1858 bộ Thuộc địa - Hải quân Pháp điều động Thiếu
tướng Hải quân Rigôn Đờ Giơnuiy (Rigauld De Genouilly), Tổng chỉ huy
lực lượng Hải quân Pháp vùng biển Đông làm Phó Thủy sư Đô đốc giữ
chức Tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp tại Việt Nam. Ngày
30/8/1858, chiến hạm Pháp đến đóng ở đảo Hải Nam để hội quân với chiến
hạm Tây Ban Nha (do đại tá Lan da rết (Lazarois) chỉ huy. Ngày 31/8/1858,
13 chiến thuyền của Liên quân Pháp - Tây Ban Nha đến ngoài biển vịnh Đà
Nẵng thả neo. Về phía triều đình đã cử Nguyễn Tri Phương vào Đà Nẵng.
Nguyễn Duy tình nguyện đi quân thứ Đà Nẵng cùng với Đào Trí Phú lập
đồn Trấn Đông trên núi Sơn Trà.
Ngày 01/9/1858, chiến hạm liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công
bán đảo Sơn Trà. Hai ông đã chặn đánh quyết liệt, không cho chúng tiến sâu
vào đất liền. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công vào các vị trí phòng
thủ của quân ta. Tình thế rất nguy nan, quan quân hoảng loạn bỏ hàng ngũ,
Nguyễn Duy kiên quyết ở lại và tuyên bố: "Đã là yêu nước thì không luận
văn hay võ”.
Trong tháng 9 và tháng 10 , Nguyễn Duy trực tiếp chỉ huy quân dân
Quảng Nam dùng sọt tre, thùng gỗ chứa đất đá lấp dòng sông Vĩnh Điện để
ngăn chặn tầu chiến của giặc Pháp. Dòng sông bị lấp, thế nước sẽ dồn vào
cửa biển Đại Chiêm, do đó mạn hạ lưu sẽ cạn, tàu giặc không thể vào được,
quân ta chỉ lo phòng thủ mặt bộ.
Tháng 11/1858, thuyền chiến Pháp tiến vào Sông Hàn và Sông Nại
Hiên (Quảng Nam) bắn trái phá dữ dội vào các đồn lũy và làng xóm hai bên
bờ sông. ông đã cùng Đào Trí Phú bố trí trận địa đánh tầu chiến và bộ binh
giặc, khiến cho chúng bị thương vong nặng nề, cả 8 chiếc thuyền phải tháo
chạy.
Ngày 2/2/1859, Giơniy, kéo đại quân theo đường biển vào đánh
chiếm Sài Gòn, chỉ để lại Đại tá Toayông (Toyou) giữ bán đảo Sơn Trà.
Ngày 6 và 7 tháng 2 năm 1859 , Nguyễn Duy và Đào Trí Phú tổ chức nhiều
trận tấn công vào bán đảo Sơn Trà, nhằm tiêu diệt lực lượng quân chiếm
đóng Pháp, nhưng việc không thành.
Tháng 8/1860 , Triều đình cử Nguyễn Tri Phương giữ chức Tổng
thống quân vụ vào Nam chỉ huy Quân thứ Gia Định tổ chức đánh Pháp.
Nguyễn Duy được cử giữ chức Quân thứ Tán lý đại thần Gia Định, cùng
Tôn Thất Cáp, Phan Tịnh vào Gia Định ứng cứu cho Nguyễn Tri Phương.
Các ông về giữ Đại đồn, Chí Hòa thay cho Tôn Thất Hiệp. Từ tháng 4/1860
, Tôn Thất Hiệp đã đánh thắng liên quân Pháp - Tây Ban Nha nhiều trận khi
chúng tấn công Chí Hòa. Các ông đã củng cố xây dựng chiến lũy Chí Hòa
vô cùng vững chắc.
Đêm 23/2/1861, quân Pháp mở trận tấn công quy mô vào đồn Chí
Hòa. Nguyễn Duy cùng Nguyễn Tri Phương chỉ huy quân sĩ chiến đấu liên
tục hai ngày, hai đêm, gây nhiều tổn thất cho giặc: quan 5 Tây Ban Nha là
Palancce, 4 sĩ quan cao cấp, 30 sĩ quan, 121 hạ sĩ quan, 1805 lính liên quân
bị giết chết tại trận.
Song ngày 25 tháng 2 năm 1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn
Tri Phương bị trọng thương, Tán lý Nguyễn Duy, Tán tương Trí tử trận.
Riêng Nguyễn Duy bị trúng đạn đại bác, xác ông biến dạng, không nhận ra
hình người nữa. Có người biết được cái đai áo và gấu áo ông thường mặc
liệm xác về chôn ở Cửa Đông thành Biên Hòa sau khi cải táng mới đưa về
quê. Nhưng theo Nguyễn Thông, tác giả bài thơ “Viếng ông Nguyễn Duy,
Tán lý quân vụ Định - Biên” thì đây là mộ giả, chỉ có chiếc áo, gọi là “Hư
trùng”.
Ông được thờ ở miếu “Tam Trung” cùng với anh là Nguyễn Tri
Phương và cháu là Nguyễn Lâm ở quê nhà.
ĐÀO TRÍ PHÚ
Đào Trí Phú quê ở tỉnh Đồng Nai, ông làm quan Thương bạc lo việc
ngoại giao với các nước. (Đại Nam thực lục; Việt Nam những sự kiện lịch
sử (1858 - 1945) tập I của Dương Kinh Quốc, Nxb khoa học xã hội và
nhiều tài liệu, sách báo đều viết là Đào Trí. Chúng tôi căn cứ vào cuốn
"Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm trình thành và phát triển” viết là Đào Trí
Phú).
Năm 1832, Tổng thống Hoa kỳ là Andren Jackson cử Edmund Robert
làm trưởng đoàn phái bộ ngoại giao Hoa Kỳ đem quốc thư đến Vũng Lắm,
vịnh Xuân Đài (nay thuộc tỉnh Phú Yên) tìm cách trình quốc thư lên triều
đình Huế đề nghị thiết lập bang giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, nhưng
Minh Mệnh từ chối (Dưới thời Gia Long (1819) một du khách người Hoa
Kỳ đầu tiên là Jonhn White đặt chân lên Đồng Nai từ thuyền Úc (Vũng
Tầu) để đến Gia Định, Tổng trấn Gia Định Thành là Nguyễn Vãn Nhâm
đón tiếp. Với tính chất một cuộc giao lưu văn hóa cá nhân với người ngoại
quốc). Bốn năm sau, năm ngày 20/4/1836 , phái đoàn do Robert trở lại,
cùng đi còn có thuyền trưởng, sĩ quan Hải quân là E.P. Kennedy, bác sĩ
Ruschen Berger đến xin thương thuyết để ký Hiệp thương. Vua hỏi ý Đào
Trí Phú, Phú trả lời là nên nghênh tiếp, đưa họ về Kinh, để ở Thương Bạc,
tiến mà dò xét. Vua liền cử Đoàn Trí Phú cùng Thị lang bộ Lại Lê Bá Tư
dẫn đầu phái đoàn của triều đình đến Vũng Trà Sơn (thuộc vịnh Đà Nẵng)
gặp phái đoàn Hoa Kỳ. Nhưng đoàn đến nơi thì Robert cáo bệnh không
tiếp. Ngày 21/5/1836 họ ra đi, tới Ma Cao thì E Robert chết vào ngày
12/6/1836. (Theo Đại Nam thực lục chính biên - quyển 168. trang 3).
Đến đời Thiệu Trị, năm 1847, vua ra Sắc lệnh cấm đạo Gia Tô. Pháp
sai trung tá Rigault de Genouilly dùng thư can gián, mặt khác uy hiếp bằng
vũ lực. Vua phái Đô thống Mai Công Ngôn và Tham tri ngành võ bị quân
sự Đào Trí Phú đem theo ba vệ binh Vũ Lâm, Hổ Uy, Hùng Nhuệ vào Cửa
Hàn tăng cường cho lực lượng Hải quân. Ngày hôm sau chiến thuyền của
Pháp rút.
Giữa năm 1856 dưới triều Tự Đức, Pháp đã thực hiện mưu đồ đánh
chiếm Việt Nam, tầu chiến Pháp diễu võ dương oai ở vùng biển Đà Nẵng.
Vua cử Đào Trí Phú và Nguyễn Duy vào Quảng Nam nghiên cứu cách bố
trí phòng chống quân Pháp. Hai ông đã chỉ huy quân lính và nhân dân đắp
đồn lũy phòng ngự.
Ngày 01 tháng 9 năm 1858, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha đưa tầu
chiến đến bắn phá đồn Trà Sơn. Đào Trí Phú tăng cường phòng thủ cho hai
thành An Hải và Điện Hải. Vua Tự Đức phong Đào Trí Phú là đặc phái viên
và Trần Hoàng, Tổng đốc Nam Ngãi chống giữ thành. Khi hai ông tới nơi
thì hai thành đã mất, Triều đình cử Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Thế Hiển
sau lại sai Nguyễn Duy vào lập phòng tuyến chống Pháp. Đào Trí Phú cùng
Nguyễn Duy lập đồn Trấn Đông trên núi Sơn Trà.
Sau Trần Hoàng có lỗi bị cách chức, Đào Trí Phú được cử làm Tổng
đốc Nam Ngãi. Tháng 11 năm 1858, tầu chiến của quân Pháp theo sông
Hàn, sông Nại Hiên tấn công sâu vào đất liền, bị Đào Trí Phú và Nguyễn
Duy đón đánh. Súng thần công của ta nổ rầm trời, bắn gẫy nhiều cột buồm
và nhiều thuyền giặc, chúng phải tháo chạy. Sau trận thất bại này, quân
Pháp chỉ để lại đại tá Toay ông ở lại giữ Sơn Trà còn đem binh thuyền vào
tấn công tỉnh thành Gia Định.
Trong 2 ngày 6 và 7 tháng 2 năm 1859 , Nguyễn Tri Phương sai
Nguyễn Duy, Đào Trí Phú tấn công nhiều lần vào bán đảo Sơn Trà, nhưng
không thành.
Do chính sách bạc nhược của Tự Đức không dám chủ trương chống
Pháp, lại đàn áp nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân, tập trung tiền bạc, quân
lính xây lăng Vạn Niên, Đào Trí Phú bỏ quan, trốn khỏi nhiệm sở cùng gia
đình vào Quảng Nam để xuôi thuyền vào Nam Kỳ. Song Tự Đức đã nghi
ngờ Đào Trí Phú có liên quan đến vụ Hồng Bảo là con vua Thiệu Trị, anh
vua Tự Đức tổ chức cuộc chính biến năm 1864 không thành, nên cho quân
đuổi theo, bắt giết ông lại Diên Khánh, xác hỏa thiêu. (Theo Đại Nam thực
lục chính biên; Biên Hòa - Đồng Nai. 300 năm hình thành và phát triển).
NGUYỄN TƯ GIẢN
Nguyễn Tư Giản trước tên là Nguyễn Văn Phú, tự Tuân Thúc, hiệu
Vân Lộc và Thạch Nông, sinh năm Nhâm Ngọ (1822). Ông người xã Du
Lâm, tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay
Mai Lâm thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
Nguyễn Tư Giản thông minh từ nhỏ. Năm Quý Mão (1843), ông 22
tuổi, đỗ Hương cống, năm Giáp Thìn (1844), ông đỗ Hoàng giáp khi 23
tuổi.
Ban đầu ông giữ chức Tu soạn ở Hàn lâm viện sau bổ làm Tri phủ
Ninh Thuận. Năm Mậu Thân (1848), Tự Đức nguyên niên, ông được bổ
Cấp sự trung, ít lâu sau được bổ làm Thị độc ở viện Tập Hiền rồi sung làm
Kinh diên Khởi cư chú. Ông được thăng Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ
sung vào Nội các. Năm 1857, sau khi làm bản Điều trần trị thủy, ông được
Tự Đức bổ làm Biện lý rồi Hiệp hiệu Đê chính Bắc Kỳ.
Năm 1858 và 1859 quân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà và Gia Định,
triều đình chia làm hai phái chủ hòa và chủ chiến. Ông đứng về phái chủ
chiến.
Ngày 8/5/1859, quân Pháp tấn công các phòng tuyến trên sông
Hương, quân triều đình tan vỡ phải rút vào phòng tuyến thứ 2. Tháng
7/1859, ông đang làm quan Đê chính đã dâng sớ nói không hòa với Tây
dương. Sớ đề là "Sớ Đánh Tây”. Song không được Tự Đức và Viện Cơ mật
chấp nhận.
Năm 1861, Tự Đức thứ 14, nhân ông xin phép về thăm cha mẹ, tế tổ
tiên. Vua dụ ông nhân đó lo xem xét tìm phương cách trị thủy ở riêng Nhị
Hà. Quan Đê Chính Nguyễn Tư Giản sau khi đi khám xét đê ở Bắc Kỳ, chủ
yếu là đê sông Hồng, ông đã làm một số việc như sau: xây cửa cống, đắp
sửa đê... Ông kiến nghị nhiều lần không được. Tháng 2 năm 1862 , Tự Đức
ra lệnh bãi bỏ nha Đê chính, chuyển giao công việc trông nom, sửa đê cho
quan sở tại. Nguyễn Tư Giản được phong Thị lang bộ Lại.
Cũng năm Nhâm Tuất (1862), Tự Đức 15, thổ phỉ hoành hành ở vùng
Đông bắc, ông được giao làm Tham biện, lo việc quân ở Hải - Yên. Có trận
ông đánh bại giặc, nhưng để giặc lan tràn không dẹp yên, ông bị cách chức
rồi cáo bệnh xin về quê.
Năm Ất Sửu (1865), Tự Đức 18, ông được khởi phục Hàn Lâm viện
tu soạn rồi thăng Thị độc tại Tập biên viện, sau đổi qua Hồng lô Tự khanh,
làm việc tại bộ Hộ.
Năm Mậu Thìn (1868), Tự Đức thứ 21 ông được thăng Hồng lô Tự
khanh ở Quang Lộc tự, lại giữ chức Tả thị lang bộ Lại, sung làm việc ở Nội
các. Năm Nhâm Thìn (1872), Tự Đức 25, ông được bổ làm Tham tri, nhưng
lĩnh việc của Thượng thư bộ Lại, sung làm phó Tổng tài quốc sử quán, kiêm
trông coi Quốc tử giám. Năm sau thăng Thượng thư, sung làm đại thần viện
cơ mật.
Mùa đông năm 1872 , đề phòng quân Pháp đánh Bắc Kỳ, ông cùng
Trần Tiễn Thành, Phạm Phú Thứ ngày đêm bàn tính việc cơ mật. Sau đó
ông bị giáng chức, phải đi sơn phòng ở Chương Đức khai khẩn đất hoang.
Năm Mậu Dần (1878), Tự Đức 31 khôi phục chức Hàn lâm viện Thị độc
sung cai quản Hàn lâm viện cho ông.
Hậu quả của việc Tự Đức bãi bỏ chức quan Đê chính trong nhiều
năm, đê không được tu sửa, xây cửa cống, cửa cống, cửa sông không được
nạo vét. Vì vậy, năm 1862 mưa liên tục, nước không tiêu làm hỏng vụ
chiêm. Năm 1865 đê ở các tỉnh Bắc Kỳ, Trung Kỳ nhiều nơi bị vỡ. Năm
1871, vỡ đê Bắc Ninh, Hưng Yên, Sơn Tây, Hà Nội, Nam Định, dân chết
đói nhiều vô kể. Năm 1872, đê Văn Giang vỡ 20 trượng. Các tỉnh thần đề
xuất việc đắp đê, Tự Đức phán: "Hiện nay đương bận việc quân ở vùng
biên giới, nên chưa bàn đến trị thủy". Năm 1873 vỡ đê 5 huyện ở phủ
Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trong các năm 1874, 1875, 1876, 1877 năm
nào đê Phi Liệt (Văn Giang, Bắc Ninh) cũng vỡ. Năm 1878, đê Phi Liệt, đê
Ân Thi (Hưng Yên) vỡ. Trong các năm 1880, 1881, 1882 đê Phi Liệt vỡ.
Năm 1885, các tỉnh đồng bằng Bắc Kỳ hạn hán nặng, các cửa cống lấy
nước đều bị phù sa bồi lấp, không lấy được nước vào đồng. Năm 1889 đê
sông Đuống (Bắc Ninh) vỡ... Nạn vỡ đê ngập lụt hạn hán, dịch bệnh tàn phá
đồng ruộng, xóm làng khiến cư dân vô cùng điêu đứng.
Nguyễn Tư Giản làm quan từ khi còn trẻ, mãi gần 40 năm giữ những
chức vụ trọng yếu. Mỗi khi triều đình cần bàn luận những vấn đề khó khăn
đều cần có ông. Ông chẳng những là một trọng thần của triều Nguyễn, là
nhà chính trị, ngoại giao, nhà trị thủy, nhà sử học, địa lý học, mà còn là nhà
văn, nhà thơ xuất sắc. ông còn có nhiều tác phẩm có giá trị để lại đến nay
là:
- Thạch nông chi văn
- Văn Diễm Du Lâm Nguyễn tộc hợp phả
- Yên Thiều Thi văn tập
- Thạch nông thi văn
- Như Thanh Nhật ký
- Tiểu thuyết sơn phòng tập
- Trung Châu Quỳnh Dao tập
- Tiểu thuyết sơn phòng cổ lục.
Nguyễn Tư Giản mất năm (1 890) hưởng thọ 67 tuổi.
VŨ DUY THANH
Vũ Duy Thanh sinh giờ Tý ngày 9 tháng 8 năm Đinh Mùi, Gia Long
6 (1807). Ông quê ở làng Kim Bồng, tên Nôm gọi là làng Bồng, huyện Yên
Khánh, tỉnh Ninh Bình.
Ông là người thông minh từ nhỏ, sách chỉ đọc một lần là nhớ. Năm 14
tuổi đã thông làu kinh sách, xuất khẩu thành thơ. Nhưng số ông lận đận trên
con đường khoa cử, năm 35 tuổi mới đỗ tú tài Thi Hội mấy lần đều hỏng.
Mãi đến năm Tự Đức thứ 4 (1852), Tự Đức mở chế khoa, ông đỗ đầu,
nhưng triều đình không lấy Trạng nguyên nên ông chỉ đỗ Bảng nhãn. Song
nhân dân yêu mến vẫn gọi là Trạng Bồng.
Ông được bổ nhiệm làm Tế tửu Quốc tử giám.
Vũ Duy Thanh chỉ là quan Tế tửu Quốc tử giám không có trách
nhiệm gì về đê điều, về đời sống của nhân dân, về an ninh của đất nước,
nhưng với lòng yêu nước, thương dân cháy bỏng đứng trước thảm cảnh từ
năm 1851 đến năm 1855 , Thanh Hóa và Bắc Kỳ bị vỡ đê liên tiếp, ông đã
dâng biểu xin vua phát 10.000 hộc thóc trong kho dự trữ để bán, và cho dân
Thanh Hóa, Bắc Kỳ vay.
Vũ Duy Thanh trong công việc thì ngay thẳng, công minh và thanh
liêm. Nhưng đối với đồng sự và mọi người, ông cư xử rất giản dị, vui vẻ.
Tháng 9/1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha tấn công vào bán đảo
Sơn Trà ông cảm khái nói: “Tương lai, sự thể chỉ có tranh (luận) về hòa với
chiến”.
Đồng thời ông dâng sớ đề nghị triều đình tăng cường lực lượng quốc
phòng và cải cách nội trị, cụ thể là tổ chức lại việc học, chỉnh đốn việc
phòng bị hải phận và khuyếch trương nền kinh tế trong nước.
Vũ Duy Thanh còn đề nghị Triều đình phải cử người đi học sản xuất
vũ khí, đóng tầu biển của phương Tây, phải mua vũ khí của phương Tây
trang bị cho quân đội. Ông còn dùng tiền riêng của mình để đóng tầu chiến
kiểu “Thủy chiến hỏa công”. Ông cũng là người đề nghị tổ chức khai thác
than đá ở Đông Triều, Hòn Gai và nhiều cải cách về việc học, về nội
thương, ngoại thương.
Song những kiến nghị của ông bị Tự Đức xếp lại, không thảo luận,
không thực hiện. Trước cảnh nước mất nhà tan, Vũ Duy Thanh đau buồn
lâm bệnh nặng. Trước khi chết ông còn gửi lên vua Tự Đức bảy phương
sách cứu nước. Đến nay bản điều trần này đã bị thất lạc.
Vũ Duy Thanh sáng tác nhiều thơ ca, trong đó có những bài như:
TIỄN NGUYỄN TRI PHƯƠNG
Non nước vì đâu đến nỗi này?
Đủ tài kinh tế dễ ai hay
Bắc Nam phận cả không từ chối,
Sương tuyết lòng xưa chẳng đổi thay,
Một ngọn cờ đào dong thẳng nẻo ,
Chín lần gươm báu đã trao tay
Sóng knh mong mỏi đều im lặng
Tiệc rượu hoàn quân ắt có ngay.
(Theo thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, NXB Văn học).
Khi các sĩ phu Nam Kỳ cùng nhân dân đánh Pháp, Vũ Duy Thanh
làm bài thơ “Gửi sĩ phu Nam Kỳ” để khích lệ, biểu dương các sĩ phu Nam
Kỳ.
GỬI SĨ PHU NAM KỲ
Nam Bắc đâu đâu cũng một trời,
Tấc lòng, tấc đất hỡi ai ơi!
Trăm năm công đức nên ghi dạ,
Một gánh cương thường phải ghé vai,
Sự thế ngán thay cơn gió bụi,
Anh hùng bao quản bước chông gai
Hoài nam khúc cũ ai còn nhớ
Còn nhớ cùng nhau hóa mấy bài.
(Theo Tài liệu của Đào Trình Nhất trong báo
Trung Bắc Chủ nhật số 227 ngày 5/11/1944).
Hiện nay Vũ Duy Thanh còn lại một số tập thơ văn như "Bổng Châu
thi văn tập", "Bổng Châu Vũ tiên sinh thi văn".
Ông mất năm Quý Hợi (1863).
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
Nguyễn Đăng Hành sinh năm Quý Mùi (1823) quê ở xã Phù Khánh,
huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình, nay là thôn Phù Khánh, xã Hương Thủy,
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông thi đỗ Hương cống khoa Quý Mão
(1843). Ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, ân khoa Mậu Thân, niên
hiệu Tự Đức 1 (1848) năm ông 26 tuổi.
Ban đầu ông được bổ chức Biên tu ở Tập hiền viện, thăng Thị độc án
sát tỉnh Quảng Ngãi.
Năm Tự Đức thứ 14 (1861) thăng Hồng lô Tự khanh, lĩnh chức Bố
chính Khánh Hòa. Năm Tự Đức thứ 15 (1862) sung chức Thương biện quân
vụ Nam đạo chuyển sang Bắc đạo.
Từ đầu năm 1862, đất nước cực kì rối ren, tháng giêng, quân Pháp
đánh tỉnh thành Bà Rịa; tháng 3 chúng chiếm tỉnh thành Vĩnh Long. Đến
tháng 5, Bôna sai trung tá Ximông (Simon) đem chiến thuyền ra cửa biển
Thuận An uy hiếp triều đình Huế đòi phải vào Sài Gòn kí Hiệp ước giảng
hòa. Triều đình Huế nhu nhược, tháng 6 năm 1862 sai Phan Thanh Giản,
Lâm Duy Hiệp vào Sài Gòn kí Hòa ước "Hòa bình và hữu nghị”, với Pháp
và Tây Ban Nha và phải bồi thường chiến phí cho Pháp. Trong khi đó thì ở
miền Bắc, Triều đình Huế bãi bỏ nha Đê chính trông coi việc đê điều. Kết
quả là ngay năm đó, nhiều đoạn đê ở Bắc Ninh, Sơn Tây, Hưng Yên vỡ.
Do dân đói khổ và bất mãn với triều đình Huế, nhiều cuộc khởi nghĩa
nông dân bùng nổ. Nạn giặc Tàu Ô, giặc biển, thổ phỉ từ Trung Hoa tràn
sang cướp phá các tỉnh ven biển và châu thổ sông Hồng. Đến tháng 9 thì
hầu hết các tỉnh miền Bắc đều có loạn, triều đình phải cử Nguyễn Tri
Phương, Phan Đình Tuyển bình định miền Tây bắc, Trương Quốc Dụng
bình định miền Hải Yên (Hải Dương - Quảng Yên) Nguyễn Đăng Hành
bình định Bắc Ninh (gồm cả Bắc Giang ngày nay). Vừa nhận lệnh Nguyễn
Đăng Hành lập tức lên đường cùng quan quân ở Bắc Ninh tiễn trừ giặc
cướp. Cả một vùng phía đông giáp Quảng Yên và phía Nam giáp Hải
Dương, Hưng Yên sạch bóng giặc. Khi ông tiến lên tiễu trừ giặc cướp ở
phía Bắc tỉnh, thì ông bị tử trận trong một trận ác chiến.
Triều đình truy tặng ông hàm Bố chính.
(Theo Đại Nam thực lục - Đăng khoa lục)
PHẠM VĂN NGHỊ
Phạm Văn Nghị hiệu là Nghĩa Trai, biệt hiệu là Liễu Động chủ nhân,
sinh năm Ất Sửu (1805). Ông người làng Tam Đăng, tổng An Trung
Thượng, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, nay là thôn Tam
Đình. Ông thông minh, lại miệt mài kinh sử.
Năm Đinh Dậu (1837) khi ông 33 tuổi, đậu Hương cống. Năm Mậu
Tuất (1858) ông 34 tuổi, đậu hoàng giáp. Ngay sau khi thi đỗ, ông được bổ
làm Hàn lâm viện Tu soạn, sau được bổ làm Tri phủ Lý Nhân.
Năm 1852, ông cùng với người anh là Phạm Văn Thạch cùng 14 sĩ
phu các tỉnh Nam Định, Hưng Yên đứng ra chiêu tập dân nghèo lưu tán đến
khai hoang, đắp đê, lấn biển, thau chua rửa mặn lập nên trại Sĩ Lâm. Sau
trại phát triển thành tổng Sĩ Lâm rồi cả miền hạ huyện Nghĩa Hưng với
hàng chục làng xã mới được thành lập.
Ngày 1/9/1858, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công bán đảo Sơn
Trà (Đà Nẵng) sau đó đánh Gia Định. ông tổ chức một đội quân "quân
Nghĩa dũng” vào Đà Nẵng đánh giặc Pháp.
Ngày 21/6/1860, đoàn quân Nam tiến của Phạm Văn Nghị tới kinh đô
Huế. Khi đó quân Pháp đã rút khỏi Đà Nẵng tập trung binh lực đánh phá ba
tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Phạm Văn Nghị xin vua Tự Đức cho vào Nam Kỳ
đánh Pháp. Với tư tưởng đầu hàng giặc, Tự Đức lấy cớ quân sĩ gian lao, bắt
đoàn quân Nam tiến phải quay trở lại Nam Định. Phạm Văn Nghị không thể
chống lại lệnh vua, cùng đoàn quân đem theo nỗi bất bình trở ra Bắc.
Ngày 10/12/1873, giặc Pháp cho tầu Xcoocpiông theo sông Đáy đến
làng đạo Vĩnh Trị để phối hợp với bọn phản động trong đạo Thiên Chúa
giáo đã được cố đạo Puyginiê vũ trang làm nội ứng khi quân Pháp tấn công.
Song Tú tài Phạm Đăng Hài (con trai Phạm Văn Nghị) đã chỉ huy nghĩa
quân tấn công quân đạo trước khi tàu Pháp tới khiến chúng tan rã. Tàu giặc
tới ngã ba sông Đào chảy vào sông Đáy thuộc địa phận huyện Ý Yên thì bị
gần 1000 nghĩa quân do Phạm Văn Nghị chỉ huy đóng ở đồn Độc Bộ và
quân của Lãnh binh Nguyễn Văn Lợi đóng ở đồn Phù Sa chặn đánh. Không
ngờ lãnh binh Nguyễn Văn Lợi khiếp sợ kéo quân tháo chạy chỉ còn một
mình Phạm Văn Nghị chỉ huy quân sĩ chống giữ, mãi đến khi súng hỏng,
đạn hết mới chịu rút lui.
Với tinh thần có trách nhiệm với đất nước, ông cho rằng trận thua ở
Độc Bộ là do mình tài năng kém, làm chưa hết phận sự của người làm
tướng, liền trầm mình dưới sông tự vẫn đến hai lần. Những người đi theo
vớt được đưa về thuốc thang chạy chữa. Đẩy lùi được quân ta ra khỏi đồn
Độc Bộ, quân Pháp tràn vào đồn phá hủy súng thần công các cỡ rồi tiếp tục
cho tầu tiến về tỉnh thành Nam Định, ngày 11/12/1873 thành Nam Định rơi
vào tay giặc Pháp.
Năm 1874, triều đình Huế ươn hèn, sợ giặc đã ký Hòa ước với chúng,
buộc Phạm Văn Nghị phải giải tán Nghĩa quân, cử ông làm Bang biện. Ông
lấy cớ tuổi già xin nghỉ về dưỡng bệnh. Nhưng triều đình Huế sợ giặc Pháp
vì vẫn sử dụng người chống Pháp, nên trước khi ông nộp đơn đã nghị án
rằng trước đây ông đã không giữ được tỉnh thành Nam Định, nên cách hết
chức tước của ông. Ông về ở ẩn tại động Liên Hoa (Gia Viễn - Ninh Bình).
Giặc Pháp ngày càng bành trướng, triều đình thì ký Hiệp ước đầu
hàng giặc Pháp, ngăn cấm nhân dân tuyên truyền, vũ trang chống Pháp.
Phạm Văn Nghị xem chừng không có cơ hội đánh được giặc, ông di cư về
làng Hóa Thiên tổng Bồng Hải, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình mở trường
dạy học, học trò đến học rất đông...
Trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than, ông buồn chán mất ngày 11
tháng 1 năm Canh Thìn (1880) thọ 76 tuổi. Triều đình truy phục hàm Hàn
lâm viện Thị độc học sĩ.
NGUYỄN VĂN HIỂN
Nguyễn Văn Hiển, tự Doãn Trai, người xã Mỹ Chánh, huyện Hải
Lăng, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị nay xã Mỹ Chánh thuộc huyện
Triệu Hải, tỉnh Quảng Trị. Ông sinh năm Đinh Hợi (1827). Năm Bính Ngọ
(1846), ông 20 tuổi, đỗ Hương cống, năm Đinh Mùi (1847) ông 21 tuổi, đỗ
Tiến sĩ.
Thi đỗ Tiến sĩ, ông nhập ngạch Hàn lâm viện Tu soạn. Năm Mậu
Thân (1848), Tự Đức nguyên niên, ông được bổ làm Tri phủ Kiến Tường,
rồi đổi làm Tri phủ Điện Bàn.
Ông là người sáng suốt, làm việc có kế hoạch, hết lòng vì dân. Những
năm đói kém, ông thực hiện việc phát chẩn cho dân có hiệu quả, nhờ vậy ân
trạch của triều đình mới đến được dân nghèo. Tuần phủ Gia Định Phạm Thế
Hiển nhận mật chỉ về xét tình hình Quảng Nam, thấy việc ông làm ở đây
đúng chính thuật trị dân, đem tâu lên. Vua vô cùng ngợi khen, cho thăng
Hàn lâm viện Thị độc, nhưng vẫn giữ chức tại phủ đó để khuyến khích
những người hết lòng vì dân. Sau vì bà nội già yếu, ông xin về phụng
dưỡng bà. Ngoài giờ chăm sóc bà, ông còn mở trường dạy học. Học trò của
ông nhiều người thành đạt. Tổng đốc Bùi Quỹ đề cử ông lên vua, ông được
bổ làm Đốc học.
Khi quân Pháp xâm lược, đánh phá bán đảo Sơn Trà vào năm 1858.
Chúng bị Nguyễn Tri Phương, Ông ích Khiêm, Phạm Thế Hiển cầm chân
tại chỗ, liền rút quân vào Nam Kỳ tiến đánh cửa Cần Giờ, theo sông Sài
Gòn đánh chiếm tỉnh thành Gia Định. Triều đình cử ông coi sóc quân vụ ở
cửa Thi Nại, là cửa biển quan trọng. Ông đã tích cực xây dựng các vị trí
phòng thủ, đặt súng đại bác, huấn luyện quân sĩ sử dụng súng bắn nhanh
mua của người Anh tại Hồng Kông.
Việc yên, ông được thăng Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ, cử làm án
sát tỉnh Quảng Ngãi. Ông là người am hiểu việc binh có cơ mưu, có tài thao
lược, nên được triều đình cử làm Tán tương ở mặt trận Biên Hòa giúp
Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển, Nguyễn Duy xây dựng và giữ Đại
đồn Biên Hòa.
Sau Nguyễn Văn Hiển được Triều đình cử làm Phủ doãn Phủ Thừa
Thiên. Ông chưa kịp đi thì triều đình thay đổi, cử ông làm Tuyên phủ sứ
Phú Yên.
Ông mất khi tại chức mới 39 tuổi, được truy tặng Phú Yên Tuyên phủ
sứ.
BÙI HỮU NGHĨA
Bùi Hữu Nghĩa tên cũ là Bùi Quang Nghĩa, sinh năm 1807 trong một
gia đình làm nghề chài lưới. Ông gốc người Trung Kỳ, nội tổ di cư vào
Nam ở tại Long Tuyền (Bình Thủy), phủ Vĩnh Định, trấn Vĩnh Thanh, nay
thuộc tỉnh Cần Thơ.
Năm Ất Mùi, Minh Mệnh thứ 16 (1835) đỗ Giải nguyên ở trường thi
Hương Gia Định. Ông đỗ thủ khoa, nên còn gọi là Thủ khoa Nghĩa. Thi Hội
hỏng, ông được sơ bổ Tri huyện Phước Long (Biên Hòa), sau ông được
thăng Tri phủ Trà Vinh, tỉnh Long Hồ.
Bùi Hữu Nghĩa tính tình cương trực, thẳng thắn, không sợ cường
quyền, dù là quan trên, nếu có tội, ông vẫn tố cáo. Bấy giờ em vợ Bố chánh
Truyện có thái độ hỗn xược, ông cho đánh đòn. Bố chánh Truyện đem lòng
thù oán. Nhân việc ông xử vụ án tranh chấp thủy lợi giữa người Thổ và
người Tàu. Người Thổ được kiện bèn đập phá đập của người Tàu. Hai bên
đánh nhau. Dân Tàu bị chết 8 người. Nhiều dân Thổ bị Bố chánh bắt, bắt cả
Bùi Hữu Nghĩa giải về Gia Định đệ đơn lên triều kết tội Bùi Hữu Nghĩa lạm
phép giết người.
Vợ ông là Nguyễn Thị Tồn ra Huế kêu với triều đình minh oan cho
chồng. Vua giao cho Tam pháp ty nghị án rồi chính vua trung thẩm bản án
như sau: “Tha tội tử hình cho Bùi Hữu Nghĩa, song phải "quân tiền hiệu
lực lập công chuộc tội”.
Bà Từ Dũ mẹ Tự Đức bèn sai mời bà phu nhân Bùi Hữu Nghĩa ban
cho tấm biểu chạm bốn chữ vàng: "Liệt phụ khả gia". Bùi Hữu Nghĩa xung
vào Tiền quân hiệu lực. Vì có công, ông được phong Phó quản cơ.
Bà Nguyễn Thị Tồn về đến quê hương thì bị ốm rồi qua đời. Vì ở nơi
xa xôi lại được thực hiện lệnh của Tam pháp ty, ông không về lo tang ma
cho vợ được, Bùi Hữu Nghĩa đã khóc vợ rất xúc động.
Năm 1859, quân Pháp xâm lược Nam Kỳ, ông đã già không có điều
kiện trực tiếp đánh giặc như sĩ phu Nam Kỳ nhưng ông vẫn một lòng ủng
hộ kháng chiến đi các nơi vận động nhân dân đánh Pháp, sáng tác thơ văn,
tố cáo tội ác của thực dân Pháp, ca ngợi các gương chiến đấu hi sinh dũng
cảm của nghĩa quân và nhân dân. Nhà ông là nơi các chí sĩ hội tụ bàn bạc
kế sách đánh Pháp.
Năm 1868 ông tham gia tích cực vào cuộc bút chiến, vạch mặt tên
Việt gian Tôn Thọ Tường, tay sai giặc Pháp.
Ít lâu sau chán nản việc đời, ông từ quan về quê mở trường dạy học,
uống rượu với bạn cử nhân là Phan Văn Trị. Ông sáng tác vở tuồng "Kim
Thạch kỳ duyên" được coi là kiệt tác sân khấu miền Nam. Vở này khi diễn ở
Huế đích thân Tự Đức tới xem.
Khi đã từ quan về ở ẩn mở trường dạy học, nhưng tiếng tăm của ông
vẫn lừng lẫy.
Ông mất ngày 21 tháng giêng năm Nhâm Thân (1872) thọ 66 tuổi.
Tác phẩm của ông còn lại có Văn thạch kỳ duyên, Tây du, Mạnh
Tòng. Đương thời ông còn là nhân vật xuất sắc ở Nam Kỳ, nên có câu ca:
"Đồng Nai có bốn rồng vàng
Lộc hoạ, Lễ phú, Sang đờn, Nghĩa thi”.
TRƯƠNG ĐỊNH
Trương Định sinh năm Canh Thìn (1820) là con quan Hữu thủy Vệ úy
Trương Cầm, sinh tại làng Tư Cung Nam, phủ Bình Sơn (nay thuộc xã Tịnh
Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi). Trương Định có hai người vợ, vợ
cả là bà Lê Thị Thưởng là con một nhà giầu quê ở Tân Hòa, Tân An, Long
An, vợ hai là bà Trần Thị Sanh quê ở Gò Công.
Trương Định trạng mạo khôi ngô, thông hiểu binh thư và bắn rất giỏi.
Năm 1838, cha ông thừa lệnh Triều đình Huế vào Nam Kỳ lãnh chức Lãnh
binh Thủy sư Gia Định, trông coi việc khẩn hoang, lập ấp mở rộng và bảo
vệ bờ cõi. Khi đó Trương Định 18 tuổi cũng theo cha vào Gia Định. Năm
1850, hưởng ứng chính sách khai hoang của Nguyễn Tri Phương, khuyến
khích quan lại, gia đình quan lại chiêu dân lập ấp. Trương Định đứng ra
chiêu mộ được 6.000 dân nghèo khai hoang lập đồn điền. Do ông có năng
lực, thương yêu hết lòng giúp đỡ những người đến khai hoang, hết thảy mọi
người đều cố gắng, nên đồn điền của ông sớm tự túc được lương thực, có
dự trữ.
Trương Định vốn là người chuộng võ, nên ông đã huấn luyện quân
sự, trang bị vũ khí cho những người trẻ tuổi, trở thành gia binh, còn gọi là
“lính đồn điền". Gia binh của ông đánh đuổi giặc cướp, những người theo
đạo Thiên chúa gây bạo loạn. Triều đình phong ông chức Phó quản cơ, sau
thăng lên Quản cơ.
Tháng giêng năm Kỷ Mùi, Tự Đức 12 (tháng 2/1859) quân Pháp rút
đại lộ phận chiến hạm từ bán đảo Sơn Trà vào đánh chiếm tỉnh thành Gia
Định. Trương Công Định chiêu mộ quân lập căn cứ tại Gò Công để đánh
Pháp. Nghĩa quân của ông rất đông, được sắp xếp thành 18 cơ, 24 liên đội
(có 4 liên đội mộ trú ở Biên Hòa). Mỗi liên đội khoảng 400 người trang bị
đại bác, súng ống và giáo mác... Ông được đặc cách thăng lên Quản cơ
kiêm Chánh tổng Tân Hòa.
Quân Pháp sau khi đã bắn phá 12 đồn binh dọc 2 bờ sông và 3 cảng
sông trên sông Sài Gòn liền tấn công thành Gia Định. Đến 10 giờ cùng ngày
thành Gia Định vỡ, Trương Định dẫn gia binh đến đóng ở Thuận Kiều, gia
nhập quân đội của triều đình. Trong chiến trận, ông thường đi tiên phong,
lập nhiều chiến công, cổ vũ quân lính hăng hái giết giặc.
Tháng giêng năm Tân Dậu (1861), quân Pháp tấn công Gia Định lần
thứ 2. Trương Định chiến đấu dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương.
Ngày 24/2 năm 1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Trương Định rút quân về
đóng ở Biên Hòa chờ dịp đánh xuống Chợ Lớn Gò Công. Ông bí mật liên
hệ với nhiều sĩ phu ở Biên Hòa như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị đến
bày mưu tính kế. Hồ Huân Nghiệp, Võ Duy Dương, Phan Văn Đạt đến giúp
chỉ huy. Thanh thế, lực lượng của ông rất mạnh, ông cho quân đánh phá các
nơi, làm cho quân Pháp khốn đốn.
Ngày 01/4/1861, giặc Pháp hành quân tiến về tỉnh thành Mỹ Tho,
Nghĩa quân Trương Định cùng các lực lượng nghĩa quân khác chặn đánh
quyết liệt, giết chết nhiều tên giặc, trong đó có tên đại tá chỉ huy trưởng
Bourdeus. Giặc Pháp phải mất 12 ngày mới tới được Mỹ Tho.
Ngày 15/4/1861, quân Pháp đánh chiếm được tỉnh thành Định Tường.
Lãnh phủ Nguyễn Hữu Thành chỉ huy quân triều đình bỏ chạy, chỉ còn các
đơn vị nghĩa quân hoạt động, trong đó nghĩa quân Trương Định là mạnh
hơn cả.
Tháng 9 năm 1861, khi đó Trương Định giữ chức Phó quản cơ Gia
Định, ông đã cùng với Tri huyện Lưu Tuấn Thiện và Bát phẩm thơ lại Lê
Quang Quyền tích trữ lương thực, rèn đúc súng đạn, chiêu mộ hơn 6000
nghĩa quân. Nhân lính Tây không am hiểu đường xá, ông thường đem quân
đi phục kích, thu nhiều thắng lợi nhỏ. Triều đình Huế nghe tin thăng ông lên
Phó lãnh binh tỉnh Gia Định. Tháng 11 năm ấy, quân Pháp hãm thành Biên
Hòa, Triều đình có chỉ nghiêm trách Hiệp tán quân vụ Thân Văn Nhiếp và
Khâm phái quân vụ là Nguyễn Túc Trưng phải tìm đường tới hội ở Tân Hòa
mưu tính thu phục lại thành Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang trước đó đã đi
đường khác tới hợp lực với Trương Định. Lúc ấy Trương Định đã chiếm cứ
Quy Sơn, quân đông quá 5000 người. Ông nghĩ rằng Nguyễn Túc Trưng là
vị quan to của triều đình, nên tôn làm chỉ huy. Thấy thế giặc mạnh Túc
Trưng không dám tiến, chỉ ngồi yên cố thủ ở hạt Tân Hòa mà thôi.
Ngày 16/12/1861 (rằm tháng 11 năm Tân Dậu), Thủ lĩnh nghĩa quân
Tân An - Cần Giuộc (1) là Đốc binh Là (còn gọi là tổng Là) chỉ huy đón
đánh quân Pháp tấn công Cần Giuộc, Thủ lĩnh Gò Công là Trương Định
đem quân tới phối hợp cùng nghĩa quân của Cai tổng Là chủ động tấn công
quân Pháp ở đồn Cần Giuộc trước. Trong trận này nghĩa quân và quân Pháp
đều bị thiệt hại nặng nề.
Ngày 17/2/1861, Trương Định chỉ huy nghĩa quân tiến công đồn Rạch
Tra thắng lợi . Đêm 17 rạng ngày 18/2/1861, nghĩa quân Trương Định có
1200 người chia làm hai mũi tấn công đồn Đồng Môn (Long Thành) gây
thiệt hại nặng nề cho quân Pháp.
Ngày 18/12/1861 Trương Định tấn công đồn Thuận Kiều (Gia Định),
tiêu diệt nhiều sinh lực địch, Bonnard phải xin viện binh từ Thượng Hải để
tấn công Gò Công, căn cứ của Trương Định. Một mặt chúng yêu cầu triều
đình phải giải tán quân đội Trương Định.
Tháng 3/1862, Tự Đức cho Trương Định kiêm chức Tổng chỉ huy
Đầu mục ở Gia Định (tức toàn bộ số quân mộ ở Gia Định). Trương Định
đóng quân ở xứ Gò Công Thượng thuộc huyện Tân Hòa, Nghĩa quân được
phiên chế thành 18 cơ. Từ căn cứ Trương Định điều động quân tấn công các
doanh trại, đồn binh Pháp thu vũ khí. Ông còn lập xưởng đúc súng theo
mẫu súng của Pháp.
Tháng 5/1862, Bonnard sai trung tá Hải quân Simon đem chiến
thuyền tiến vào cửa biển Thuận An hoạt động quân sự, gây sức ép buộc
triều đình Huế giảng hòa. Ít ngày sau Simon trở lại Thuận An mang theo tối
hậu thư của Bonnard buộc triều đình Huế phải phái ngay sứ thần có đầy đủ
thẩm quyền vào Sài Gòn bàn định, lập Hiệp ước.
Tự Đức hoảng sợ, ngày 26/5/1862, Triều đình cử Phan Thanh Giản
làm Chánh sứ, Lâm Duy Hiệp làm phó sứ vào Sài Gòn. Ngày 5/6/1862,
Triều đình Huế ký Hiệp ước "Hòa bình và Hữu nghị" với Pháp và Tây Ban
Nha. Đại diện Pháp là Bô na. Thiếu tướng Hải quân Phó Đô đốc - Tổng chỉ
huy quân Pháp - Tây Ban Nha, Đại tá Guttirie (Guitterez) chỉ huy quân viễn
chinh Tây Ban Nha tại Nam Kỳ. Triều đình Huế nhu nhược đã ký Hòa ước
Nhâm Tuất nhường cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ là Gia Định,
Định Tường, Biên Hòa. Tự Đức cho Phan Thanh Giản vào truyền dụ của
Tự Đức thăng chức Lãnh binh An Giang cho Trương Định, đồng thời ra
lệnh cho ông bãi binh. Trương Định chống lệnh của Triều đình tiếp tục đánh
phá các đồn binh Pháp mạnh mẽ, khiến chúng bị thiệt hại nặng nề. Triều
đình Huế khép ông vào tội phản nghịch, song ông vẫn giữ vững ý chí chiến
đấu.
Tháng 8 năm 1862, triều đình lại một lần nữa hạ lệnh cho nghĩa quân
đình chỉ mọi cuộc tấn công và điều Trương Định về Phú Yên. Bọn Nguyễn
Túc Trưng giải tán nghĩa binh rồi gửi thư bảo ông Trương Định mau theo
đường tắt đi ngay. Trương Định cho vợ con đi trước, một mình ở lại kiểm
điểm quân số sẽ đi sau. Nhưng những người ứng nghĩa ở Gia Định, Định
Tường, Biên Hòa, không muốn giải binh, cố lưu ông Định lại. Họ nói với
nhau rằng: "Bọn Tây bị dân ta nhiều lần đánh lui, nay chúng được triều
đình giảng hòa, chắc chắn chúng sẽ giết hại bọn ta. Vả lại bọn Tây lấy binh
lực uy hiếp, bắt ta hòa, nhưng chúng không thành thực, nay Triều đình
giảng hòa với chúng, bọn ta không nơi nương tựa, sao bằng hợp lực đánh
lại chúng, giữ lấy một mảnh đất để cùng nhau bảo toàn tính mạng”.
Mọi người đều cho là phải, liền cử Trương Định giữ binh quyền. Lúc
ấy có Phạm Tuất Phát ở Tân Long đem thư các nghĩa hào đến tỏ ý muốn cử
Định làm chủ soái để ra sức trừ giặc. Tức thì mọi người xây đàn tôn Trương
Định làm Chủ soái. Ông tự xưng là "Bình Tây Đại nguyên soái" cử Trịnh
Quang Nghị làm Tham tán quân vụ và bố trí các cơ quan viên chức mặt
đông nam ra tới biển, mặt tây lên đến Hoa Cương. Tại các nơi hiểm yếu đều
sai quân lính phòng giữ. Trương Định tự đem đại quân đóng ở Gò Công. Từ
Động Cây Đa đến đập Ông Canh, từng đoạn một, đều đắp lũy để cản quân
Tây đột nhập. Trương Định lại đúc thêm đại bác, kén chọn quân lính các
huyện, bổ sung vào các đồn thuộc Tân Hòa, phòng thủ chắc chắn để làm kế
lâu dài. Sau đó Trương Định truyền Hịch cho nhân dân kêu gọi kháng
chiến, ông viết:
“Tưởng có lời ca rằng:
Nước có nguồn, cây hoa có gốc
Huống chi người sinh ra có da, có tóc
Mà sao không biết chúa, biết cha,
Huống chi người sinh có nóc, có gia
Mà sao không biết trung; biết hiếu...
Hai vai nặng trĩu: gánh chi bằng gánh cương thường!
Tấc dạ trung lương; gồng chi bằng gồng xã tắc
Làm người sao khỏi thác
Thác trung thần thác cũng thơm danh
Làm người ai chẳng ham danh
Lòng địch khái xin cho rõ hết”.
(Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, trang 367).
Các nghĩa hào đều theo mệnh lệnh của ông; các phủ huyện cũng vận
tải tiền gạo đến cung cấp. Trương Định thường mổ trâu bò khao thưởng
tướng sĩ, ai có công khen thưởng biểu dương kịp thời, nên ai cũng đồng
lòng gắng sức. Quân do Trương Định trực tiếp chỉ huy và quân của Phạm
Tuấn Phát đóng ở Hắc Khẩu, quân của Bùi Huy Diện đóng ở Cần Đước,
quân của Tuyên úy phủ sứ Nguyễn Văn Trung đóng ở Tân Thành là khá
nghiêm chỉnh, thanh thế.
Vì hòa ước đã thành, nên Tây soái không động binh và nhiều lần thúc
giục quan tỉnh Vĩnh Long gửi thư cho Trương Định khuyên bãi binh. Thư
qua lại ba lần Trương Định vẫn không nghe. Đình thần hội bàn cho rằng
việc miền Bắc đương còn khó khăn, miền Nam chưa có cơ hội, cử Phan
Thanh Giản vào "hiểu dụ”, Trương Định và nghĩa quân. Trương Định nhất
quyết không chịu về Phú Yên nhận chức mới. Triều đình liền cách chức
hàm Phó lãnh binh của ông.
Tháng 10/1862, Phan Thanh Giản lại xin Tự Đức ra sắc chỉ gọi
Trương Định về và giải tán nghĩa binh của ông. Trương Định cương quyết
chống lệnh triều đình và cùng với dân binh ứng nghĩa của Nam Kỳ Lục tỉnh
tiếp tục kháng chiến chống giặc Pháp.
Khởi nghĩa của Trương Định gây cho quân Pháp rất nhiều khó khăn,
báo chí Pháp khi đó đã phản ánh: "Đâu đâu cũng là trung tâm kháng chiến,
có bao nhiêu người An Nam thì bấy nhiêu trung tâm kháng chiến".
Trương Định càng ý thức được sâu sắc sứ mạng của mình trước nguy
cơ đất nước bị thực dân Pháp xâm lược. Ông được nghĩa quân kính trọng,
nhân dân mến mộ, tin tưởng, nên ông dã tự khẳng định: "Từ ngày lòng dân
đã muốn ta lên làm Nguyên nhung ba tỉnh, trước hết ta cố gắng điều khiển
Tân Hòa chống quân cướp nước, để cuối cùng, sau dứt một tiếng trống, dân
chúng đều thở không khí thong thả". (GS Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu
Phước: Khởi nghĩa Trương Định. NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1989)
Trong lúc ấy Trương Định giả lệnh vua, truyền đi các nơi để cổ động
dân chúng, Bonnard ngờ triều đình có lệnh thật, nên sai quân tấn công Quy
Sơn. Trương Định lập kế dụ quân Pháp vào chỗ lầy, giết chúng rất nhiều.
Tháng 12/1862, quân Pháp tập trung chiến thuyền ở Dung Giang (tức
sông Gò Công) cho lính đổ bộ vây đánh. Nghĩa quân bị thiệt hại nặng nề,
song quân Pháp cũng bị thương vong lớn.
Đô đốc Bonnard viết thư dụ dỗ ông đầu hàng ngay sau trận đánh,
trong thư trả lời, ông tuyên bố: “...Triều đình Huế không công nhận chúng
ta, nhưng chúng ta cứ bảo vệ Tổ quốc của chúng ta”. (Tuyên bố của
Trương Định trả lời thư dụ hàng của Bonard tháng 12/1862).
Quân Pháp huy động toàn bộ binh lực cùng quân triều đình với vũ
khí, phương tiện chiến tranh hiện đại như súng bắn nhanh liên thanh, đại
bác, tầu chiến bao vây, liên tục tấn công nghĩa quân, nên nghĩa quân không
giữ nổi các đồn lũy, nhiều tướng lĩnh hy sinh, một số bỏ chạy. Trương Định
lâm vào cảnh thế cô. Tháng 12/1862 quân Pháp tập trung quân đánh vào
Tân Hòa, chia làm ba đạo. Một đạo do đường biển đánh vào Lảng Lộc, một
đạo đi theo Kỳ Man Giang, dùng tầu chiến chở quân đánh vào đồn Hoa
Cương, còn đạo binh đánh thẳng vào Quy Sơn. Cuộc chiến đấu diễn ra vô
cùng quyết liệt, Trương Định thân chỉ huy quân sĩ đánh liền ba ngày, ba
đêm không nghỉ.
Phan Thanh Giản đã bốn lần làm trung gian đưa thư của Pháp dụ
Trương Định ra hàng, ông đều cự tuyệt và cương quyết chống Pháp. Triều
đình Huế cách chức ông, bọn Pháp tìm cách giết ông, ông vẫn vững vàng
quyết tâm kháng chiến.
Ngày 17/1/1863, Trương Định ban Hịch đánh Tây “Sẵn sàng chiến
đấu ở miền Đông cũng như ở miền Tây”, Tuyên cáo với các quan lại Vĩnh
Long.
Ngày 25/2/1863 (7 tháng Giêng năm Quý Hợi) quân Pháp đánh úp Lý
Nhơn. Thuốc súng hết, Tây binh trèo lũy đánh vào đồn, nghĩa quân tan vỡ,
Trương Định thoát chết bị Tây đuổi theo, phải cùng bộ ba trốn vào một
rừng cây gần bờ biển. Con ông là Trương Quyền thường gọi là "Nhị lang
quân” (Cậu Hai) tiếp tục cùng cha thu thập tàn quân tính việc khởi binh lại.
Quân các nơi tụ hội về. Khi đã có lực lượng, Trương Định đưa quân ra đóng
ở Phước Lộc tính việc khởi binh lại.
Tháng 2/1863, quân pháp tổng công kích vào đại bản doanh của
Trương Định ở Gò Công. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt ba ngày
liền. Ông cùng các tướng chỉ huy quân sĩ đánh trả quyết liệt. Song nghĩa
quân bị tiêu hao lực lượng, Gò Công thất thủ lần thứ hai, ông buộc phải rút
về Rừng Sát gần biển tiếp tục kháng chiến.
Với khí phách anh hùng và lòng yêu nước, thương dân nồng nàn,
trong lúc thất thế ông vẫn được toàn thể nghĩa quân và nhân dân nhiệt liệt
hưởng ứng. Mọi người suy tôn ông là “Bình Tây Đại nguyên soái, Trung
Thiên tướng quân".
Ngay trong tháng 2 năm 1863 khi rút ra Rừng Sát ông đã nhân danh
toàn thể dân chúng Gò Công gửi Tuyên bố cho giặc Pháp, trong đó có đoạn:
“...Chúng ta thề sẽ đánh mãi và không ngừng, khi ta thiếu tất cả, ta sẽ bẻ
nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm vũ khí cho binh lính ta”.
Sau lời Tuyên bố thể hiện quyết tâm kháng chiến đến cùng trên “Bình
Tây Đại nguyên soái, Trung Thiên tướng quân" Trương Định đã gửi “Hịch
đánh Tây” cho các đạo nghĩa quân từ Tân Long, Bình Dương, Bình Long
cho tới Biên Hòa đồng ngày tấn công Mai Sơn, phía tây Thuận Kiều. Lại
truyền các đồn ở Thác Phúc, Tuy Bình, An Long đến đánh để chia sức giặc.
Trong "Hịch đánh Tây” có đoạn:
“Đêm năm canh thương người chính liệt
Ngày sáu khắc nhớ kẻ trunlg thần
Chốn biên thùy lãnh ấn Tổng binh
Cờ đề chữ "Bình Tây Đại tướng”.
Trong 2 năm xây dựng căn cứ ở Rừng Sát, lực lượng nghĩa quân phục
hồi nhanh chóng, liên tiếp đánh quân Pháp ở khắp nơi. Nghĩa quân Trương
Định chiến đấu khắp ba lỉnh miền Đông Nam Bộ rồi đánh sang cả vùng
Đồng Tháp Mười. Nhiều trận đánh như trận tấn công thành Gò Công và Gò
Đen (Tây An), vây đánh đồn binh Thuộc Nhiêu buộc quân Pháp phải bỏ
thành tháo chạy. Quân Pháp ở Nam Kỳ không chống nổi các đòn sấm sét
của nghĩa quân Trương Định, chúng phải cầu viện binh từ Pháp, Trung
Quốc, Philippin tới. Khi có viện binh, quân Pháp mở những trận phản công
lớn, ác liệt vào các cứ điểm của nghĩa quân.
Ngày 26/2/1863 , quân Pháp huy động lực lượng lớn bao vây căn cứ
Gò Công. Cuộc chiến đấu diễn ra gay go quyết liệt, nhiều chiến hữu của
Trương Định hy sinh, trong đó có hai phó tướng là Đặng Kim Chung và
Lưu Hải Đường. Trương Định phải phá vây chạy về lập căn cứ mới ở làng
Lý Nhân, tỉnh Biên Hòa, nay thuộc Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh, âm thầm
củng cố lực lượng, chờ thời cơ phản công.
Đầu tháng 8/1864 , Trương Định một lần nữa gửi "Hịch đánh Tây",
sau này sử sách gọi là "Hịch Trương Định" cho khỏi nhầm lẫn với "Hịch
đánh Tây" của ông tháng 2 năm 1863. Trong Hịch có đoạn: "Lòng dân đã
muốn ta đi lên làm Nguyên nhung ba tỉnh, ta trông vào lòng yêu thương
không phai nhạt của mọi người đối với ta. Thế là xong, bất dung tha cho
giặc cướp...”.
Giặc Pháp không đánh bại được Trương Định trên chiến trường, và
thư dụ hàng. Chúng mua chuộc Huỳnh Công Tấn (Đội Tấn) là một nghĩa
quân thân tín của ông. Năm 1862, Đội Tấn về hàng pháp, theo đạo Thiên
Chúa. Đêm 19 rạng ngày 20/8/1864 , Tự Đức thứ 17 (1864) theo kế hoạch
của Pháp, Đội Tấn khuyên Trương Định trở lại thôn Phước Lộc để đánh úp
Tân Hòa làng Tân Phước. Trương Định tin lời hắn, đưa quân về thôn Phước
lộc. Tên Tấn đã báo trước cho Pháp, nên khi Trương Định đưa quân tới bị
lọt vào ổ phục kích của quân Pháp. Trương Định bị thương nặng, biết khó
thoát, ông liền rút dao găm trong người tự vẫn. Hôm đó là ngày 20 tháng 8
năm 1864, khi ông mới 44 tuổi.
Năm Tự Đức 27, triều đình hiểu công lao của ông đã ban thưởng
ruộng đất, tiền bạc cho vợ con ông để sinh sống.
Ngôi mộ của ông hiện còn ở Gò Công, được xây dựng bằng đá vôi rất
lớn, xung quanh có vòng thành rộng, thấp. Trước bia mộ có khắc dòng chữ
“ĐẠI NAM LÃNH BINH KIÊM BÌNH TÂY ĐẠI TƯƠNG QUÂN
TRƯƠNG CÔNG ĐỊNH CHI MỘ”.
Tại ấp Núi Đất, khu phố 1, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa
nhân dân xây dựng ngôi đình thờ ông từ năm 1966.
Nhân dân Nam Kỳ lập đền thờ ông ở nhiều nơi như Gò Công, Tân
An, Mỹ Tho... Bà Lê Thị Thưởng vợ cả của ông về làng Từ Cung Nam ở
phủ Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi thờ phụng ông ở từ đường dòng họ. Về
phần mộ của ông, ngay sau khi ông hy sinh, bà Trần Thị Sanh, vợ thứ của
ông đã cùng nhân dân làm lễ an táng trọng thể, bà đứng ra xây mộ cho ông.
Trên mộ có bia khắc: “ĐẠI NAM AN HÀ LÃNH BINH KIÊM BÌNH TÂY
ĐẠI TƯỚNG QUÂN TRƯƠNG CÔNG HÚY ĐỊNH CHI MỘ”. Thấy nhân
dân đến lễ bái đông, bọn cầm quyền Pháp ra lệnh đục chữ "Bình Tây Đại
tướng quân" và phạt tiền bà Trần Thị Sanh.
Công lao, sự nghiệp đánh giặc của ông chẳng những được nghĩa quân
và nhân dân ngưỡng mộ, mà vua Tự Đức là người đã khép ông vào tội phản
nghịch khi ông chống lệnh bãi binh của chính nhà vua đã chuẩn cho ban cấp
5 mẫu ruộng và sai lập đền thờ ông. Đại Nam thực lục chính biên tập 34 và
tập 35 đã chép như sau: "Cho ruộng thờ cúng Lãnh binh quan đã chết là
Trương Định. Khi bấy giờ Bố chính xứ Quảng Ngãi là Trà Quý Bình tâu lên
nói một nhà Trương Định cha con trung nghĩa trên đều soi xét đều hết từ
lâu, xin cấp cho công thờ cúng, để xung vào đèn hương. Viện Cơ mật xét lại
và cho rằng người trong Nam mộ nghĩa như Trương Định thì có nhiều, chỉ
thành tích chưa được hoàn toàn, nên đều chưa được xét đến, nghĩ nên đợi
sẽ thi hành sau. Vua không nghe, chuẩn ban cấp ngay cho 5 mẫu ruộng thờ
cúng... nhưng trích ruộng ở nơi cận, tiện chỗ để cấp, lấy người họ ấy là
Văn Hổ làm thừa tự, trông coi cầy cấy để thờ phụng”. (2)
Năm sau vua Tự Đức lại sai làm đền thờ cúng Trương Định: “Vua
thương Trương Định là người trung, năm trước đã cấp 5 mẫu ruộng thờ
cúng, đến nay lại sai làm đền thờ ở xã Tư Cung, tỉnh Quảng Ngãi để thờ"
(sách Đạt Nam thực lục chính biên, tập 35 (1881-1883), NXB Khoa học xã
hội. Hà Nội. 1974. tr 16).
Đền thờ ở làng Tư Cung, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi, nay chỉ còn dấu tích
là cái nền. Tại Gò Công Đông, năm 1964, chính quyền Sài Gòn dựng lại
đền, năm 1972 nhân dân Gò Công Đông xây lại đền thờ. Đền được tôn tạo
từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, được bộ Văn hóa - Thông tin
xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1989.
Ngày 20/8/2004, nhân dân tỉnh Quảng Ngãi - Gò Công (Tiền Giang)
long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 140 năm ngày mất của Trương Định. Tỉnh ủy,
UBND tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định đầu tư kinh phí xây dựng lại đền thờ
Trương Định ngay tại làng Tư Cung, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
(1) Quận Cần Giuộc nay thuộc Chợ Lớn. Sau khi bị quân Pháp chiếm,
ngày 14/12/1861. Thống quân Bùi Quang Diệu chỉ huy đánh trận Cần
Giuộc.
(2) Sách Đại Nam Thực lực chính biên, tập 34.
- Số ruộng trên: bị Nguyễn Thân người quê Mộ Đức khi mới làm Quyền
Tiễu phủ sứ Sơn phòng Nghĩa Định đã chiếm trên 1.000 mẫu ruộng ở
Quảng Ngãi (khi hắn đàn áp phong trào Cần Vương những năm 1885-1887)
trong đó huyện Sơn Tịnh bị chiếm hơn 50 mẫu, thì có 5 mẫu ruộng thờ
cúng Trương Định.
NGUYỄN ĐỨC ỨNG
Ngày 24 tháng 2 năm 1861, tại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Duy tử
trận, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương phải rút về Biên Hòa dựng đồn
lũy chống giặc.
Để ngăn chặn quân Pháp đánh chiếm toàn tỉnh Biên Hòa, Triều đình
Huế cử Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng vào Biên Hòa chỉ huy, xây dựng tuyến
phòng ngự Bá Ký, sông Kỳ Giang, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng đã thu nạp tàn quân sau trận đại đồn Chí Hòa,
chiêu mộ nghĩa quân người địa phương, ngăn chặn bước tiến của quân Pháp
từ Biên Hòa xuống.
Ngày 13 tháng 12 năm 1861, tướng Bonard ký huấn lệnh đánh chiếm
Biên Hòa do đích thân tướng Bonard cùng các đại tá Foucault, đại tá
Domenech Diego, thiếu tá Lecbris chỉ huy với 1000 quân Pháp, Tây Ban
Nha và 2 chiến hạm. Ngày 15 tháng 12 năm 1861, quân Pháp tấn công tỉnh
Biên Hòa. Quân triều đình ở đồn Mỹ Hòa rút chạy. Khi chúng tới phá cản
đá ở sông Đồng Nai, quân triều đình và nghĩa quân chống trả quyết liệt, bắn
trúng 54 phát thần công vào tàu Alarne, nhưng đạn công phá kém, chỉ làm
gẫy cột buồm. Quân Pháp phá được cản. Ngày 18 tháng 12 năm 1861, quân
Pháp chiếm được tỉnh thành Biên Hòa. Quân Pháp đánh chiếm các pháo đài
ven sông một cách dễ dàng.
Khoảng 9 giờ sáng ngày 26 tháng 12 năm 1861, đại tá Domenech
Diego chỉ huy một cánh quân đánh chiếm huyện lỵ Long Thành. Khi chúng
tới gần ngã ba Nha Mát, ấp Bà Ký thì bị Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng chỉ
huy quân triều đình và nghĩa quân đánh trả quyết liệt, quân ta chỉ có súng
trường khai hậu, bắn phát một và giáo mác, song đã chiến đấu kiên cường,
dũng cảm, đánh bật nhiều đợt xung phong của giặc Pháp, giết và làm bị
thương nhiều tên. Cuộc chiến đấu kéo dài đến tận 14 giờ, quân ta bị tổn thất
nhưng vẫn giữ vững trận địa. Quân Pháp đã phải rút về phía sau củng cố đội
hình. Đúng lúc đó thì đại tá Lepperut đã vượt sông Đồng Nai đến tiếp viện
cho đại tá Diégo. Cuộc chiến đấu giữa quân ta và quân Pháp trở nên gay go
quyết liệt. Nguyễn Đức Ứng bị trọng thương và hy sinh vào ngày 26 tháng
12 năm 1861.
Quân sĩ và nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu, cho tới khi quân Pháp
hoàn toàn chiếm được Long Thành.
Mặc dù bị giặc Pháp ngăn cấm, nhân dân vẫn đấu tranh, an táng lãnh
binh Nguyễn Đức Ứng cùng 27 quân triều đình và nghĩa quân trong một
ngôi mộ chung.
Nhớ ơn những người đã dũng cảm hy sinh vì nước, nhân dân từ đời
nọ đến đời kia vẫn chăm sóc, hương khói của ngôi mộ chung của 28 liệt sĩ.
Ngày 15 tháng 10 năm 1994, Nhà nước đã xếp hạng Di tích lịch sử
ngôi mộ Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh huyện Long Thành.
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
Nguyễn Đình Chiểu tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh
ngày 01 tháng 7 năm 1822 trong một gia đình quan lại. Ông là con ông lại
viên Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa
Thiên, làm lại viên Văn hàn ty của Tổng trấn Lê Văn Duyệt, mẹ là Trương
Thị Thiệt, người Gia Định. Năm ông 12 tuổi được gửi cho một người bạn ở
Huế để ăn học. Tám năm sống và ăn học ở Huế đã giúp Nguyễn Đình Chiểu
tiếp thu được nền văn hóa dân tộc hội tụ về Huế, và cũng thấy rõ triều đình
Huế thối nát bạc nhược.
Khoảng năm 1840 ông trở về quê mẹ, và thi đậu tú tài khoa Quý Mão
(1843) ở trường thi Gia Định.
Năm 1846 ông ra Huế chờ thi Hội vào năm Kỷ Dậu (1849) thì được
tin đột ngột mẹ mất, ông bỏ thi quay về Nam chịu tang mẹ. Dọc đường bị
bệnh, ông phải ở lại Quảng Nam vừa chữa bệnh vừa học nghề thuốc. Vì
đường sá xa xôi, hiểm trở, đi lại khó khăn, tốn công sức mà chủ yếu là đi
bộ, đi thuyền, lại thương mẹ, khóc quá nhiều, nên bệnh càng nặng, đôi mắt
bị mù. Năm ấy Nguyễn Đình Chiểu mới có 26 tuổi.
Không thực hiện được ước mơ “phò đời giúp nước”, Nguyễn Đình
Chiểu liền mở trường dạy học, làm thuốc, chữa bệnh và sáng tác thơ văn.
Truyện thơ Lục Vân Tiên là sáng tác đầu tay của ông và ông đã hóa thân vào
tác phẩm Lục Vân Tiên mang tính nhân văn, nặng lòng yêu nước, thương
dân, chính thắng tà.
Mặc dù bị mù, song ông không thể ngồi yên, lòng sôi sục căm thù khi
năm 1858, giặc Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà- Đà Nẵng.
Quân Pháp bị thua ở Đà Nẵng, năm 1859 chúng đổ bộ vào Nam đánh
chiếm thành Gia Định, rồi đánh chiếm Đại đồn Phú Thọ. Nguyễn Đình
Chiểu lui về Bến Tre, vẫn cùng các bạn học như Phan Văn Trị, Hồ Huân
Nghiệp, Bùi Hữu Nghĩa đi lại bàn luận công việc cứu nước.
Nguyễn Đình Chiểu có nhiều đóng góp vào cuộc kháng chiến đo
Trương Định lãnh đạo, Trương Định vẫn thường đến hỏi ý kiến ông, coi
ông là người tham mưu của mình. Sau khi quân Pháp chiếm được Cần
Giuộc, nay thuộc Chợ Lớn, Nguyễn Đình Chiểu liên hệ với Đốc binh Là,
tích cực giúp đỡ nghĩa quân nhiều mặt.
Ngày 14 tháng 12/1861, Thống quân Bùi Quang Diệu kéo quân về
đánh quân Pháp ở Cần Giuộc. Trong trận này nghĩa quân hy sinh 27 người,
trong đó có Đỗ Trình Thoại là bạn của Đồ Chiểu. Tuần phủ Gia Định Đỗ
Quang sai Bùi Quang Diệu làm lễ truy điệu và thay mặt ông đọc "Bài văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc” do Nguyễn Đình Chiểu viết. Đây là Văn tế gây xúc
động lòng người trong đó có đoạn:
Khá thương thay!
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo vòng ở lính diễu binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ
Mười tám ban võ nghệ nào đợi tập rèn,
Chín chục trận binh thư không hề bày bố,
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gỗ
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo lủng lẳng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai
nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào thót tới, coi
giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như
chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní kinh hồn;
Bọn hè trước lũ ó sau, trối kệ tầu thiếc tầu đồng súng nổ.
Và kết thúc bằng đoạn:
Ôi!
Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu một phường con đỏ.
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh,, muôn
kiếp nguyện được trả thù kia,
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm
đủ đền công đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân
Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Trước âm mưu thâm độc của thực dân Pháp kích động những phần tử
quá khích trong đạo Thiên chúa gây ra nhiều vụ cướp bóc, phá đình chùa
của người bên lương, gây nên mối hận thù dân tộc, Nguyễn Đình Chiểu viết
tác phẩm Dương Từ-Hà Mậu, dài 3.448 câu thơ phê phán âm mưu lợi dụng
tôn giáo của địch để phá vỡ khối đoàn kết dân tộc. Tác phẩm cũng lên án
những kẻ thờ ơ, vô trách nhiệm đối với vận mệnh suy vong của đất nước.
Khi ba tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp, ông đưa gia đình về
làng An Đốc, Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Tại đây Nguyễn Đình Chiểu tiếp tục mở trường bốc thuốc trị bệnh cho dân
và giữ mối liên hệ chặt chẽ với các sĩ phu yêu nước như Phan Văn Trị và
các lực lượng kháng chiến Trương Định.
Nguyễn Đình Chiểu là người tích cực hưởng ứng và cổ vũ cho phong
trào "tỵ địa" do Phan Văn Trị và một số sĩ phu đương thời khởi xướng.
Thực dân Pháp biết ông có uy tín lớn trong nhân dân và nghĩa quân Trương
Định và nghĩa quân các cuộc khởi nghĩa khác, tìm mọi cách dụ dỗ, mua
chuộc. Nhưng danh lợi, bổng lộc không làm nhà thơ mù yêu nước thiết tha
xiêu lòng. Giặc Pháp hứa trả lại ruộng đất cho ông. Ông trả lời: "Nước
chung đã mất, đất riêng còn có được sao?”.
Trước cảnh mất nước, thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu mang màu sắc
bi tráng. Văn tế Nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh là một thí dụ. Đoạn kết của bài
Văn tế ông viết:
Ôi!
Trời xuống nàn quỷ trắng mây năm;
Người uống giận suối vàng lắm bực.
Cảnh Nam thổ phôi màu hoa thảo, động tình oan nửa úa nửa tươi;
Cõi Tây thiên treo bức vân hà, kết hơn oán trăng thưa, chăng nhặt.
Ngày gió thổi lao xao tinh dã mã thoạt nhóm, thoạt tan, thoạt lui, thoạt
lới, như tuồng rạng bóng tinh binh
Đêm trăng lờ réo rắt tiếng đề quyên, dường hờn, dường mếu, dường
khóc, dường than, đòi đoạn tỏ tình oan khuất.
Xưa nghe có bên sông Vị Thủy, lấy lễ nhân đầu tế đảng hồn oan;
Nay biết đâu bãi cát Trường Sa, mượn của âm phù độ bè quỷ ức
Đốt lọn nhang trầm trời đất chứng, chút gọi là làm lễ vãn vong
Đọc bài văn tế quỷ thần soi, xin hộ đó theo đường âm chất
(Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX).
Đồng bào ở Ba Tri kể lại, chính Nguyễn Đình Chiểu đứng ra làm chủ
tế những nghĩa sĩ lục tỉnh ngay tại chợ Ba Tri. Khi đọc xong bài điếu, ông
quá xúc động, nước mắt đầm đìa rồi ngã nằm bất tỉnh nhân sự, mọi người
phải đưa đi cứu chữa.
Cuối đời Nguyễn Đình Chiểu vẫn sống ở Ba Tri dạy học và làm
thuốc, nhưng ông vẫn lên án triều đình Huế cắt đất đầu hàng, ngăn cấm
nhân dân chống Pháp, để đến nỗi mất lục tỉnh vào tay giặc Pháp.
Nguyễn Đình Chiểu giãi bày tâm sự trong “Ngư tiều ư thuật vấn
đáp”, đây là tác phẩm cuối cùng của ông với lời văn xót xa trước cảnh đất
nước bị “chia dưa”, “khăn xé” trong đó có đoạn:
“Cây đa đua nhánh đón đường
Như tuồng đón hỏi: Đông hoàng ở đâu ?
...Gió tru hưu hắt theo sau
Như tuồng xúi giục đi may tìm thày.
Dưới non suối chảy kêu ngày
Như tuồng nhắn hỏi: “ Sự này bởi ai?”
Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu bao gồm nhiều thể loại thơ, văn tế, câu
đối, trướng, truyện thơ, văn đều sâu sắc thiết tha căm thù giặc Pháp cướp
nước, yêu chính nghĩa, ghét gian tà, lên án vua quan nhà Nguyễn hèn nhát
đầu hàng giặc Pháp, tiếp lay cho giặc đàn áp các cuộc khởi nghĩa chống
Pháp của nhân dân.
Nguyễn Đình Chiểu mất ngày 3 tháng 7 năm 1888. Đến này đồng bào
còn kể lại rằng ngày đưa đám ông cả cánh đồng An Bình Đông nay là xã
An Đức trắng xóa khăn tang của bạn bè, đồng chí, của học trò của những
người bệnh được ông cứu sống và nhân dân cảm phục một nhà thơ lớn, một
chiến sĩ cách mạng.
PHAN VĂN TRỊ
Phan Văn Trị sinh năm 1830 tại làng Hưng Thành, huyện Bảo An,
tỉnh Vĩnh Long, nay là xã Thành Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến
Tre. Cha là Phan Văn Tấn làm quan Khâm sai chưởng Tiền dinh Đông
Thống chế; vợ là Đinh Thị Thanh.
Ông đỗ Hương cống khoa Kỷ Dậu, Tự Đức thứ 2 (1849) tại trường thi
Gia Định cùng với Nguyễn Thông. Ông không làm quan mà dời về ở làng
Phong Điền, tỉnh Cần Thơ, nay là xã Nhân Ái, huyện Châu Thành, tỉnh Cần
Thơ dạy học, làm thơ, bốc thuốc.
Kể từ khi giặc Pháp xâm lược Việt Nam, Phan Văn Trị đứng hẳn về
phe chủ chiến. Ông cùng với các bạn bè chung chí hướng như Nguyễn
Thông, Bùi Hữu Nghĩa bàn bạc kế sách cứu nước và giúp đỡ phong trào
kháng chiến. Phan Văn Trị làm rất nhiều văn thơ chống Pháp, có thể nói đó
là những bài văn thơ chống Pháp đầu tiên.
Năm 1862, quân Pháp gây hấn ở Gia Định, ông tránh xuống Vĩnh
Long cùng Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt ủng hộ phong trào kháng
chiến. Trong những bài thơ chống Pháp, ông căm thù giặc Pháp đến tột độ
và biểu lộ sự phẫn uất của các dân tộc lên án triều đình Huế hèn nhát đầu
hàng. Trong đó có bài:
GIA ĐỊNH THẤT THỦ PHÚ
Thương thay đất Gia Định, tiếc thay đất Gia Định
Vực hóa nên cồn; Đất bằng dậy sóng
Tàu khói chạy máy tuôn sông mấy khúc, lờ lạt bến Trâu
Dây thép dăng nhấp nhoáng, đất ngàn trùng ngàn thành Phụng
Bờ cõi phân chia khác mặt, trông xa như quáng như mờ, Non sông dời
đổi họa mi, tưởng tới dường si dường tủng.
Lớp cũ tàn, lớp mới mọc, dọc ngang xe ngựa đất gò bằng, Dấu trước
lấp, dấu sau bồi, tan nát chợ nhà trời sấm động.
Inh ỏi súng rền kinh cửa Bắc, hãi hùng trăm họ dứt câu ca,
Tò le kèn thổi tối trời Nam, ngơ ngác năm canh không tiếng trống.
Hào kiệt tìm phương lánh, sa cơ giá hạc lúc hư kinh, Anh hùng kiêm
chốn ẩn thân, sút thế nước cờ cơn lúng túng.
Tới Bến Thành trải qua Chợ Đũi, loài tinh chiên loạn xạ biết bao nhiêu,
Nơi Chợ Lớn sắp đến Cầu Kho, quân mọi rợ lẫy lừng khôn xiết những.
Tầu Bà Nghè cùng nơi Chợ Quán, quỷ hung tàn đắc ý vểnh râu; - Chùa
Cầm Thảo trải tới Cây mai, Phật Bồ tát chịu nghèo ôm bụng.
Nơi nơi nổi xóm mới nhà Tây, Chốn chốn lập đồn cạnh ụ súng.
Ngậm ngùi thay ba bốn làng Gò Vấp, cây cỏ khô thân thế đều khô; Đau
xót lẽ mười tám thôn Vườn Trầu, hoa trái rụng người đời cũng rụng.
Mấy dặm: Gò Đen, Rạch Kiên, ngọn lửa thiêu sự nghiệp sạch không,
Đòi nơi Rạch Lá, Gò Công, trận gió quét cửa nhà trông rỗng.
Tiếng kêu oan, oan này bởi nước, hồn nhân dân biết dựa vào đâu; Thân
liều chết, chết cũng vì vua, xương nghĩa sĩ chất đà nên đống.
Sông núi đào, mồ xiêu mả lạc, thương thay người thác chẳng an hồn;
Đường xá đắp cửa nát nhà tan, cực bấy kẻ cồn không nổi sóng.
Sau trước vầy đoàn xâm lược, dân ta đòi bữa đòi suy, Đêm ngày ỏi
tiếng Lang Sa, thế nó càng ngày càng lộng.
Cờ Thành Thang sao không thấy phát, bỏ liều con đỏ trước chông gai;
Áo Vũ Vương sao chẳng thấy gây, nỡ để dân đen trong bùn vũng
Đầu Trung Nguyên tóc hãy còn dài, ơn này nhờ có Bá, học Xuân Thu
xin chớ biếm Hoàn Công, Tay tả nhẫm áo kia khỏi mặc, việc ấy bởi vì ai,
đọc Luận ngữ cớ sao chê Quản Trọng.
Bóng xế dặm ngàn trông man mác, nước non này ai thấy cũng buồn;
Trời chiều chim chóc nhảy lăng xăng, tình cảnh ấy lòng nào chẳng động.
Ta nay nhân cảm với cuộc đời, Vậy nên tả một bài đề chúng!
Năm 1857, Vĩnh Long rơi vào tay quân Pháp, Phan Văn Trị thốt ra
những lời thơ đau đớn, chua cay vì sự bất lực của triều đình nhà Nguyễn.
ông làm bài thơ:
MẤT VĨNH LONG
Tò le kèn thổi tiếng lăm, ba
Nghe lọt vào tai dạ xót xa
Uốn khúc sông Rồng mù mịt khói
Vàng hoe thành Phụng ủ sầu hoa
Tan nhà căm nỗi câu ly hận
Cắt đất, thương thay cuộc giảng hòa!
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ
Ngậm cười hết nói nỗi quan ta.
(Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX: trang 79).
Phan Văn Trị coi bọn chó săn làm tay sai cho giặc Pháp giết hại đồng
bào, bán rẻ Tổ quốc như loài muỗi hút máu người, ông làm bài thơ:
CON MUỖI
Muỗi hỡi, thân mi sướng mọi điều
Thiếu chi chi nữa lại còn kêu
Gương ngà, chiếu ngọc từng nương dựa
Má phấn môi son cũng ấp yêu
Béo miệng chẳng thương con trẻ dại
Cành hông nào đoái chúng dân nghèo
Ngày sao miễn gặp cây xơ quất
Xử tội nhà người mắt chẳng nheo!
Phan Văn Trị là một trong những sĩ phu đề ra phong trào "tỵ địa"
được đông đảo các sĩ phu và nhân dân ba tỉnh miền Đông bị giặc chiếm đến
ở các tỉnh còn thuộc triều đình quản lý, gây cho giặc Pháp nhiều khó khăn
trong việc quản lý nhân khẩu, ổn định tình hình kinh tế chính trị ở vùng
chúng vừa chiếm đóng.
Phan Văn Trị cũng là người khởi xướng, tiên phong trong cuộc bút
chiến với Tôn Thọ Tường, một tên bồi bút tay sai đắc lực cho bọn xâm lược
Pháp. Tôn Thọ Tường đã múa mép, khua môi, khoe khoang công nghệ
chiến tranh hiện đại của giặc Pháp như súng trường bắn nhanh, đại bác, tàu
chạy bằng hơi nước, khinh khí cầu; và giải thích rằng lực lượng quân sự của
ta lạc hậu, tinh thần dân ta kém cỏi không tài nào địch nổi quân Pháp. Lời
thơ của ông tố cáo tội phản quốc của tên bồi bút Tôn Thọ Tường rất gay
gắt. Ông nhiếc móc Tôn Thọ Tường là “đứa ngu” “kẻ đáy giếng trông trơ
mắt ếch”, “loại tanh nhơ”.
Trong cuộc bút chiến bằng thơ, có thể nói đây là cuộc bút chiến vạch
tội bọn bán nước đầu tiên ở Việt Nam đã thu hút được các nhà thơ yêu nước
ở Nam Kỳ như Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt tham gia, dấy lên một
phong trào chống Pháp trong thơ văn quyết liệt, sôi động ở Nam Kỳ. Đến
nay các nhà nghiên cứu thơ văn yêu nước Việt Nam mới tập hợp được
khoảng trên 50 bài.
Trong trận bút chiến này Phan Văn Trị đã huy động được đông đảo sĩ
phu có tên tuổi như Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, Lê Quang Chiểu tham
gia, nhưng Phan Văn Trị là cây bút xông xáo, tiêu biểu nhất.
Cuộc bút chiến do Phan Văn Trị khởi xướng còn kéo dài tới mấy chục
năm sau, khi Tôn Thọ Tường đã chết, vì còn có nhiều tên "Tôn Thọ Tường"
khác theo giặc.
Giặc Pháp thấy Phan Văn Trị có uy tín lớn trong giới sĩ phu và nhân
dân lục tỉnh tìm cách dụ dỗ, mua chuộc ông ra làm quan và thôi không viết
những bài đả kích người Pháp và những người làm việc cho Pháp. Phan
Văn Trị đã kiên quyết từ chối, sống thanh cao trong cảnh nghèo nàn. Ông
mất năm 1910, thọ 80 tuổi.
TRẦN TRỌNG KHIÊM
Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821) quê làng Xuân Lũng, tên
Nôm là làng Dòng, nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Ông sinh
trưởng trong một gia đình nho học nên thông thạo chữ Hán và chữ Nôm.
Vợ ông ở nhà bị tên chánh tổng giở trò cường bức, bà chống lại, bị nó bóp
cổ đến chết. Nhận được tin, ông về làng đâm chết tên Chánh tổng rồi bỏ
làng đi.
Ông tới Phố Hiến làm thuê cho các tầu buôn nước ngoài. Từ năm
1843, ông là thủy thủ trên các con tàu viễn dương, từ Hồng Kông tới
Malaixia, vượt biển Ấn Độ Dương, tới các nước nam Châu Phi. Sau đó ông
tới Hà Lan học nghề đóng tầu, rồi sang sinh sống ở Pháp, Anh. Trong quá
trình bôn ba ở các nước, ông vốn giỏi chữ Hán, nên học tiếng Quảng Đông,
Quảng Tây rất nhanh, riêng tiếng Anh ông nói giỏi và viết thạo.
Năm 1847 ông đổi tên là Lê Kim (tiếng Anh viết là Lee Kim) trà trộn
vào dòng người Tàu nghèo khổ di cư sang Mỹ. Vốn thông thạo tiếng Anh,
ông Lê Kim làm bỉnh bút ngoại ngạch cho các tờ báo Alisa Caliornia,
Morning Post, Daily Heraid... Sau đó ông vào làm biên tập cho tờ báo Daily
Evering và viết bài có nhiều tờ báo khác.
Khoảng năm 1854, Lê Kim rời bỏ nước Mỹ, xuống tầu vượt Thái
Bình Dương rồi rời Hồng Kông rồi theo tàu buôn về Việt Nam. Vì trước
đây ông đã giết tên Chánh tổng, nên không dám về Bắc Kỳ mà vào Nam Kỳ
với giấy tờ của người Minh hương. Ông xin cư trú ở làng Hòa An, phủ Tân
Thành, tỉnh Định Tường, nay là tỉnh Tiền Giang khai phá đất hoang làm
ruộng. ông lấy vợ người Nam Bộ, sinh được 2 con trai là Lê Xuân Lâm và
Lê Xuân Lương.
Ông tìm được cách liên lạc về quê và nhận được tin nhắn: “Gia đình
bình yên và lúc này người đi xa đừng nên vội về quê cũ”. Trần Văn Khiêm
hiểu rõ cần phải tiếp tục giấu lai lịch của mình để sống ở nơi hoang vu ngút
ngàn lau sậy ven sông Tiền Giang.
Tháng 9/1861, Trương Định giữ chức Phó quản cơ Gia Định chiêu
mộ hơn 5.000 quân đánh Pháp. Võ Duy Dương đã cùng Hồ Huân Nghiệp,
Phan Văn Đạt đến giúp ông chỉ huy nghĩa quân.
Trần Trọng Khiêm tức Lê Kim dã đem một số trai tráng và lương
thực, tiền bạc giúp nghĩa quân Võ Duy Dương. Song ông vẫn không dám để
lộ tung tích, họ tên thật, quê quán, cùng tên khi di cư sang Mỹ và quê
lương, bản quán của mình, mà chỉ giới thiệu chung chung là "Người Minh
Hương". Võ Duy Dương và các tướng cũng tôn trọng, không gặng hỏi rõ
tên tuổi, quê quán, mà cũng chỉ gọi là "Người Minh Hương". Vì vậy một số
tư liệu lịch sử viết về cuộc khởi nghĩa Võ Duy Dương cũng chỉ viết ông -
một bộ tướng xuất sắc của Thiên hộ Dương là “Người Minh Hương”.
Theo gia phả họ Lê Xuân ở Rạch Giá viết về cụ tổ Trần Trọng
Khiêm: “... Ngoài 20 tuổi, cụ cải danh họ Lê (húy Kim) khảng khái rời quê
cha đất tổ, xuống một tầu buôn ngoại nhân, suốt mấy năm lênh đênh từ Á
sang Âu, năm châu, bốn biển không ở đâu không lưu dấu tích. Tới xứ đạo
cụ cũng tìm hiểu văn minh, phong tục, cái hay, cái dở đều nhân định phân
minh, ý hẳn muốn thâu tháo để sau này kinh bang tế thế. Cụ thật có nhãn
quan thiên lý, nhìn suốt cổ kim, có chí kế vãng khai lai, đáng làm gương
cho hậu thế vậy... Coi khắp các kỳ quan, dị cảnh trên hoàn vũ rồi năm Giáp
Dần (triều Tự Đức) cụ về Tổ quốc lập nghiệp ở làng Hòa An, tỉnh Định
Tường. Noi đó còn hoang vu, toàn lau cùng sậy, tràm với lat (cỏ lác), cụ
quy tụ một số người khai phá thành ruộng nương tươi tốt... Cư khai phá
làng lập Hoài An chưa được 10 năm, làng xóm vừa mới phong túc, thì nước
nhà bị nạn ngoại xâm. Năm Giáp Tý (1864), cụ khảng khái bỏ nhà cửa
ruộng đất cùng với cụ Ngũ Linh Thiên bộ (hiệu của cụ Thiên hộ Dương) mộ
được mấy ngàn nghĩa binh, phất cờ khởi nghĩa ở trong Đồng Tháp Mười.
Các có tài bắn súng, bách phát, bách trúng, xây cất đồn lũy (theo mô hình,
kinh nghiệm của tướng Mỹ Jolin A Sutter - chú thích của MTH), cầm đầu
một nhóm lính đào ngũ Pháp (vì thông thạo ngoại ngữ, nên ông Kim đứng
đầu địch vận lính Lê dương - chú thích của MTH) tấn công (các đồn Pháp)
ở Cái Bè, Mỹ Quới, quân Pháp trăm phần điêu linh. Cụ bà cũng dắt con
theo (cụ bà họ Phan), thật đáng mặt cân quốc anh hùng. Năm Bính Dần
quân Pháp dèm quân bao vây ba mặt, tấn công đồn Tiền, cụ tổ chúng ta
chống cự không nổi, tuẫn tiết. Trước khi mất, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch
Giá, gắng sức nuôi con, dạy chúng giữ đạo trung hiếu, làm ruộng mưu sinh,
đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ dưới
chân Giềng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) năm đó cụ chưa được ngũ tuần”.
Trên mộ ông có đôi câu đối của các đồng chí xưa, cũ. Tạm dịch:
Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh.
Chính khí nêu cao tinh thần Hùng Nhị còn truyền hậu thế.
(Bản gia phả do ông Lê Xuân Lăng, cháu nội cụ Lê Xuân Lương viết
bằng chữ quốc ngữ khoảng năm 1930 dựa theo lời trăng trối, dặn dò của các
bậc tiền nhân kể từ cụ Lê Xuân Lâm, con trai cả cụ Lê Kim. Ông Lăng
truyền cuốn gia phả trên cho con trai là Lê Xuân Liêm, truyền cho cháu nội
là Lê Xuân Lưu. Ông Liêm có học chữ Tây, tự tay ghi dòng chữ Bilio
thèque familiale - Lê Xuân Liêm - Vilacfe de Mỹ Quới. Rạch Giá - Mai
Thanh Hải (Theo bài “Từ giữa thế kỷ XIX đã có một người Việt Nam làm
báo ở Mỹ, Văn nghệ Công an số 18 (118 tháng 6/2005).
VĂN ĐỨC GIAI
Văn Đức Giai sinh năm Đinh Mão (1807), người xã Phú Hậu, huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Năm Quý Mão (1843), ông 37 tuổi, thi đỗ Hương cống. Năm Giáp
Thân, niên hiệu Thiệu Trị thứ 4 (1844), ông 38 tuổi thi đỗ Tiến sĩ. Ông sớm
mồ côi cha, thờ mẹ rất có hiếu. Thi đỗ tiến sĩ, nhưng ông vẫn ở nhà nuôi mẹ
đau yếu. Hơn 10 năm sau, mẹ ông mất, ông mới nhận chức Đốc học lần
lượt ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Sau đó ông
được triều đình điều về kinh đô Huế đứng đầu tòa Ngự sử. Ông nổi tiếng là
người cương trực, các quan có chức tước to hơn, nhưng làm việc sai trái,
ông đều dâng sớ đàn hặc.
Tháng 2 năm 1861, triều đình cho ông mộ quân nghĩa dũng tòng chinh
vào Nam chống nhau với quân Pháp ở quân thứ Gia Định. Ông dũng cảm,
có cơ mưu trong chiến trận, đánh thắng nhiều trận lớn. Ông được thăng tới
chức Bố chính Phú Yên. Ông được vua Tự Đức ban khen, cho đổi tên là
Khuê (viên ngọc quý). Từ đó ông có tên mới là Văn Đức Khuê.
Năm Nhâm Tuất (ngày 5/6/1862), triều đình Huế ký hòa ước với
Pháp, ông phải bí mật tìm đường ra Huế. Đầu năm 1863, Triều đình cử ông
ra làm Tán lý quân vụ ở quân thứ Hải - Yên (Hải Dương - Quảng Yên)
cùng với Trương Quốc Dụng đánh dẹp. Hai ông đánh thắng một số trận tiêu
diệt nhiều sinh lực giặc, thu được nhiều súng bắn nhanh do thực dân Pháp
cung cấp cùng kế hoạch bành trướng của đạo Thiên chúa ở Bắc Kỳ.
Trong một trận ác chiến diễn ra vào tháng 6/1884 , hai ông bị giặc Tạ
Văn Phụng bao vây, các ông mở đường máu phá vây, nhưng không thành.
Hai ông hy sinh. Triều đình truy tặng ông chức Tuần phủ.
Nhân dân vùng Quảng Yên lập đền thờ hai ông gọi là "Song Trung
từ". Bài vị hai ông được đưa vào "Hiền lương từ” ở Kinh đô Huế.
VÕ DUY DƯƠNG
Võ Duy Dương quê ở thôn Cù Lâm Nam, nay là thôn Nam Tường, xã
Nhơn Tân, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Năm 1889 , quân Pháp đánh
chiếm tỉnh thành Gia Định, ông hưởng ứng phong trào chống Pháp đã đi
chiêu mộ nghĩa quân. Võ Duy Dương được cử làm Chánh quản đạo, Thủ
khoa Huân được cử làm Phó quản đạo.
Tháng 5 năm ấy, triều đình biệt phái Võ Duy Dương ra dẹp giặc cướp
ở tỉnh Quảng Ngãi. Trong khi đó ở Nam Kỳ giặc Pháp vẫn không ngừng lấn
tới. Tháng 4 năm 1860 phó Đô đốc Charmer nhiều lần tấn công đại đồn Chí
Hòa, đều bị tướng chỉ huy là Tôn Thất Hiệp chỉ huy quân sĩ đánh lui. Tháng
8 năm 1860 , Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Thế Hiển được Triều đình cử
vào thay Tôn Thất Hiệp chỉ huy đại đồn Chí Hòa. Trong khi đó, giặc Pháp
cũng mới nhận được viện binh, tầu chiến, đại bác từ Pháp ráo riết chuẩn bị
tấn công đại đồn Chí Hòa. Hai ông đã củng cố, xây dựng thêm đồn lũy, đào
thêm hầm hào, đặt thêm súng thần công để chống giặc.
Đêm 23 tháng 2 năm 1861, quân Pháp, quân Tây Ban Nha tấn công
ác liệt vao đại đồn Chí Hòa. Mặc dù chúng bị thiệt hại nặng nề: 1 quan 5
Tây Ban Nha, 4 sĩ quan cao cấp và 1 805 lính bị giết. Song đến ngày
25/2/1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ. Tán lý Nguyễn Duy, Tán lý Tôn Thất
Trí tử trận, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Hiển đều bị trọng thương. Quân
triều đình phải rút về Biên Hòa.
Ngày 12/4/1861 tỉnh thành Định Tường (Mỹ Tho) thất thủ, Triều đình
cử Đỗ Thúc Tịnh làm Khâm phái quân vụ vào Nam. Đoàn có nhiều nhân sĩ,
võ tướng đi theo như Nguyễn Văn Nhã, Võ Duy Dương, Phan Trung. Võ
Duy Dương được thăng “Bát phẩm Thiên hộ (quan võ)”.
Ngay từ khi vào Nam Kỳ lần thứ hai, Võ Duy Dương mộ được 1 000
quân, theo quy định ông được trao thêm chức Quản cơ.
Tháng 9 năm 1861, Trương Định giữ chức Phó quản cơ Gia Định
chiêu mộ được hơn 6000 quân đánh Pháp. Võ Duy Dương đã cùng với Hồ
Huân Nghiệp, Phan Văn Đạt đến giúp ông chỉ huy nghĩa quân. Trong các
chiến công của Trương Định có phần công lao của Võ Duy Dương.
Tháng 11 năm 1861, Võ Duy Dương Dương đến Mỹ Quý (nay thuộc
Nhị Quý, Cai Lậy, Tiền Giang) đắp đồn Tân Thành cho Trần Xuân Hòa (tức
Phủ Cậu) trấn giữ. Quân Pháp tấn công liền trong 57 ngày đêm, thành vỡ,
Trần Xuân Hòa chạy thoát nhưng rồi bị bắt và cắn lưỡi tử tiết vào ngày 6
tháng giêng năm 1862.
Ngày 16 tháng 12 năm 1861, quân Pháp mở chiến dịch tấn công vào
tỉnh thành Biên Hòa. Ngày 18 tháng 12 năm 1861, tỉnh thành Biên Hòa thất
thủ.
Triều đình Huế lo sợ cử Phan Thanh Giản vào Gia Định xin giảng hòa
kí kết Hòa ước Nhâm Tuất (1862). Đây là hòa ước nhục nhã đầu tiên triều
đình ký với Pháp. Nhân dân Nam Kỳ phản đối, nhiều cuộc khởi nghĩa vũ
trang nổ rạ như khởi nghĩa Trương Định, khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực,
khởi nghĩa Thủ khoa Huân.
Trương Định hy sinh thì Võ Duy Dương trở thành lãnh tụ chính ở
vùng Tiền Giang với căn cứ là Đồng Tháp Mười (Định Tường).
Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân cũng giúp Võ Duy Dương tổ chức binh
đội, vận động nhân dân tiếp tế lương thực, thực phẩm vào chiến khu.
Võ Duy Dương cho quân lấy ca tra là loại cây có sợi, đập dập bện dây
lòi tói, buộc bè gỗ chăng ngang sông Lòng Tàu để cản tàu giặc. Ông còn có
sức khỏe, có biệt tài bắt và thuần hóa trâu rừng thành trâu chiến. Đó là con
trâu đực đầu đàn của một đàn trâu rừng có cặp sừng nhọn, vô cùng hung dữ.
Khi xung trận, ông cưỡi trâu ngụy trang bằng bèo lục bình nam muống lặng
lẽ bơi dưới ngòi lạch rồi bất ngờ xông thẳng vào trận địa giặc, hai tay ông
sử dụng côn đánh tới tấp vào bọn giặc, trâu thì húc, dày xéo lên lũ giặc. Bọn
giặc khiếp đảm, tháo chạy tán loạn đến khi chúng hoàn hồn, tổ chức phản
công thì ông cưỡi trâu biến mất dưới những con ngòi lạch chằng chịt ở
Đồng Tháp Mười.
Để phòng thủ, Võ Duy Dương đã lợi dụng địa hình các gò nổi để xây
dựng một hệ thống phòng thủ từ ngoài vào trong. Ông lại chia các đồn tiền,
hậu, tả, hữu để ứng cứu lẫn nhau khi có chiến sự. Hoạt động của nghĩa quân
rất táo bạo, các toán nghĩa quân dùng thuyền nhẹ xuất phát từ căn cứ đi
đánh phá các đồn binh, lị sở của quân Pháp và tay sai, đánh giao thông địch,
cướp các đoàn xe, thuyền chở lương của địch.
Trong suốt ba năm (1864 - 1866) , quân Pháp chưa dám hành quân
càn quét, kể cả do thám ở vùng ven Đồng Tháp Mười. Quân Pháp phải mất
nhiều năm chuẩn bị, đến tháng 4/1886, mới điều động một đạo quân lớn tấn
công vào căn cứ của Thiên hộ Dương ở Đồng Tháp Mười. Thiên hộ Dương
và các tướng đã đón đánh địch từ xa. Đạo quân thứ nhất do Bupbê chỉ huy
bị chết khá nhiều quân mới chiếm được đồn Sa Tiền. Đạo quân thứ hai do
Đêrômờ cũng bị giết chết khá nhiều, xác chúng nằm rải trên đường hành
quân mới chiếm được đồn Ấp Lý và bị chặn lại ở đồn Tiền. Đạo thứ ba do
tên Ganly Pátsơbôgiơ còn bị thương vong nặng nề hơn, hai đạo quân trên
mới chiếm được đồn Gò Bắc. Tên chỉ huy phải xin viện binh mới có đủ lực
lượng tấn công đồn Tả. Đồn này được xây dựng kiên cố, có 350 nghĩa quân
trong đó có cả hàng binh người Pháp, người Filippin, đồn được trang bị tới
40 đại bác. Trận đồn Tả diễn ra ngày 16/4/1866 là trận quyết liệt nhất, 2 tiểu
đội địch chết và bị thương. Quân ta rút khi không còn nghĩa quân. Ngày
24/4/1866, quân Pháp tấn công Cái Thia - Mỹ Tho, bắt được nghĩa quân
người Pháp là Lanh ghê (Linquet).
Sau khi rút khỏi căn cứ Đồng Tháp Mười, đem quân phối hợp với con
Trương Định là Trương Tuệ (tức Trương Quyền) và thủ lĩnh nghĩa quân
người Cămpuchia là A Soa tấn công quân Pháp nhiều trận. Trong đó có
những trận điển hình như ngày 7/6/1866, tấn công quân Pháp ở Tây Ninh
tiêu diệt được nhiều địch, trong đó có hai sĩ quan. Quân Pháp phải cố thủ
trong đồn chờ viện binh. Ngày 14/6/1866 nghĩa quân Việt và Campuchia lại
đánh lui nhiều đợt tấn công của quân Pháp tới cứu nguy cho đồn binh Tây
Ninh. Tên quan tư lính thủy đánh bộ Macsetxơ (Marchaisse) bị giết tại trận.
Đến tháng 7/1866, Võ Duy Dương phát triển lực lượng chiêu mộ
quân chống Pháp ở ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Sẵn lòng căm
thù giặc Pháp nhân dân gia nhập nghĩa quân rất đông và đóng góp quân
lương.
Triều đình Huế tuy phải thực hiện "Hiệp ước hòa bình và hữu nghị”
do triều đình ký với Pháp và Tây Ban Nha ngày 5/6/1862, trong điều khoản
9 quy định: "Triều đình Huế nhận trách nhiệm truy lùng, bắt giữ và giao
nộp cho Pháp tất cả những ai có hành động chống đối chính quyền Pháp
mà ẩn náu trong các vùng thuộc triều đình cai trị”. Nhưng thực ra Viện Cơ
mật ở Huế thường có ý định liên lạc và khuyến khích các hoạt động chống
Pháp để tìm cách giành lại mấy tỉnh đã mất. Vì thế người của Triều đình
vẫn bí mật liên hệ với Võ Duy Dương, Trương Quyền, A Soa. Tuy vậy
trước áp lực của Pháp, Tự Đức đã thực hiện yêu cầu của Pháp.
Không rõ vì lý do gì ba tháng sau, triều đình Nguyễn nói với Pháp là
cho Võ Duy Dương, Trương Tuệ trở ra Bình Thuận đi khẩn hoang, rồi lại
dặn quan tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa gặp họ thì cho đổi tên đi và cấp cho
ngựa về kinh, chứ không ở lại đấy.
Sự kiện này Đại Nam thực lục chính biên viết như sau:
Tháng 9 năm Bính Dần (10/1866): “Trước Nguyễn Hữu Cơ đến tỵ sở,
đi qua Gia Định bảo sứ Pháp rằng: bè lũ Võ Duy Dương nên cho ra thú
dồn đi khai khẩn, khi đến Vĩnh Long đem việc ấy nói kín với Phan Thanh
Giản, bèn tư cho các tỉnh Vĩnh Long, Gia Định, An Giang, Hà Tiên và các
tỉnh từ Bình Thuận trở ra Bắc, phàm bè lũ Duy Dương đều cho ra thú đi
khẩn hoang. Lại sắc cho tuần phủ Bình Thuận, Khánh Hòa hễ thấy tên
Dương, tên Tuệ thì đem đổi tên, cấp cho ngựa trạm về Kinh, phái đi nơi
khác, cho hết điều tiếng”...
Phan Thanh Giản hặc tâu việc này với Tự Đức, Nguyễn Hữu Cơ bị
phạt giáng hai cấp. Song việc Võ Duy Dương ra Bình Thuận vẫn được thực
hiện. Trước khi đi Thiên hộ Dương “ủy người về kinh dâng sớ kín”.
Trong tháng 10/1866, triều đình Huế được tỉnh thần Thuận Khánh
báo rằng: "Duy Dương đi thuyền về tỉnh Bình Thuận đầu thú gặp gió bị đắm
ở phần biển Thuần Mẫn, sai tìm xác cho đồ vật đem chôn, cấp cho mẹ hắn
mỗi tháng 5 quan tiền, 1 phúng gạo”.
TRƯƠNG QUỐC DỤNG
Trương Quốc Dụng còn có tên là Khánh, tự Dĩ Hành, người làng
Phong Phú, huyện Thanh Hà, phủ Hà Thanh, trấn Nghệ An, nay thuộc làng
Thạch Kim, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm Đinh Tỵ (1797).
Năm Ất Dậu (1825) 29 tuổi, ông đỗ Hương cống, đến năm Kỷ Sửu
(1829) 33 tuổi, đỗ Tiến sĩ. Sau khi đỗ Tiến sĩ, ông được bổ nhiệm ngạch
Hàn lâm viện Biên tu, rồi thăng đến Lang trung ở bộ Hình. Sau đó vì tính
tình cương trực, thẳng thắn không được lòng vua bị cách chức, rồi cho làm
một chức quan nhỏ ở bộ Lại.
Năm Quý Tỵ, triều Minh Mệnh năm thứ 14 (1833) ông được trở lại
làm Tư vụ theo đạo quân của Triều đình đi chinh phạt Phiên An. Sau đó ông
được bổ nhiệm làm Tham tán đại thần đánh lui quân xâm lược. Khi tình
hình biên giới Tây Nam được ổn định, ông được triệu về Kinh làm Viên
ngoại lang ở bộ Hộ. Sau đó triều đình chuyển ông làm Án sát tỉnh Quảng
Ngãi, sau đó chuyển làm Án sát tỉnh Hưng Yên.
Đến đầu đời Thiệu Trị, Trương Quốc Dụng được thăng Tả Thị lang
bộ Lễ rồi chuyển sang làm việc cùng một lúc ở ba bộ Hình, bộ Lại, bộ
Công. Năm Đinh Mùi, triều Thiệu Trị năm thứ 7 (1847), ông được thăng Tả
Tham tri bộ Công.
Đầu triều Tự Đức, Trương Quốc Dụng được sung làm Giảng quan tại
Kinh diên, lại phụ trách trông coi Khâm thiên giám. Sau thăng đến Thượng
thư bộ Hình, kiêm Tổng tài Quốc Sử quán.
Trương Quốc Dụng còn có tài làm thơ, thơ của ông lời lẽ trau truốt, ý
nghĩa sâu sắc, thiên về tả cảnh.
Thơ của ông in trong "Nhu Trung thi văn tập". Trong đó có những bài
xuất sắc như:
NƯỚC TRỜI MỘT VẺ
Thu thủy công trường thiên nhất sắc,
Vẻ thu thiên rất mực phong quang
Trăng trăng bạc, gió gió vàng
Giục lòng khách tha lương tình khiển hứng
Chén rượu hoàng hoa còn chếch choáng
Câu thơ bạch tuyết lúc ngâm nga
Bạn cùng người tuyết nguyệt phong hoa
Lấy thi tửu, cầm ca làm thích chí
Có lưu lạc mới trải mùi thế vị
Lúc phong lưu càng lắm vẻ xuân tình
Tỉnh ra rồi mới giật mình.
TRUNG THU VỌNG NGUYỆT
Kim dạ nguyệt minh nhân tân vọng
Bất tri thu tú tại thùy gia
Sẵn giang sơn hứng thú cầm ca
Xin chớ để trăng già cười khách tục
Tửu nhất hồ, cầm nhất trương ca nhất khúc
Thú Nam Lâu nào có thua ai
Biết trăng hãy hỏi trăng chơi
Ông còn là người cải cách lịch. Trước kia ta cứ theo lịch Đại Thống
của Trung Hoa mà làm in ra ban cho dân gian, không sửa chữa, thêm bớt.
Khi ông trông coi Khâm Thiên giám mới tham khảo Sách Đại lịch Tương
Khảo đời Khang Hy nhà Thanh, đối chiếu với lịch của phương Tây, từ đó
làm ra lịch của ta rất chính xác. Hồi ấy các giáo sĩ phương Tây so sánh thấy
nguyệt thực nhật thực của ta làm ra chính xác hơn lịch Trung Hoa.
Ông còn có các tác phẩm khác như Công hạ ký văn, Thối thực ký văn,
Văn quý tân thể.
Song, Trương Quốc Dụng còn là một võ tướng can đảm, mưu lược.
Năm Nhâm Tuất (1862), Tự Đức thứ 15, giặc biển ở Hải Yên (Hải Dương -
Quảng Yên) bao vây tỉnh thành Hải Dương, quan lại cao cấp. Vua sai ông
làm Thống đốc quân vụ đại thần cùng với Đào Trí, Phan Tam Tỉnh đi cứu
Hải Dương. Ông dùng kỳ binh giải được vây, đuổi giặc đến Bình Giang,
chém được hơn 450 dầu giặc, bắt sống hơn 100 tên. Thắng trận, ông được
thăng Hiệp biện đại học sĩ.
Năm Giáp Tý, Tự Đức thứ 17 (1864) thực dân Pháp huấn luyện, đào
tạo Tạ Văn Phụng là dân theo đạo Thiên chúa thành một kẻ gây bạo loạn ở
Quảng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh để thăm dò lực lượng quân sự ở Bắc Kỳ,
quấy rối hậu phương, thu thập tin tức tình báo cung cấp cho quân Pháp,
phát động dân theo đạo Thiên chúa ở Bắc Kỳ khi quân Pháp đánh vào thì
nổi dậy đánh chiếm các phủ huyện, làm nhiệm vụ tiếp tế lương thực, đưa
đường cho quân Pháp. Ông đã cùng Tán lý Văn Đức Giai, Tán tương Trần
Huy San dẹp cuộc nổi dậy của Tạ Văn Phụng ở Quảng Yên. Trong trận
đánh ở đồn La Khê, giặc Tạ Văn Phụng dùng bộ binh, thủy lính vây kín bốn
mặt. Ông cùng Văn Đức Giai, Trần Huy San đều tử trận.
Vua sai quan về tế, truy tặng ông hàm Đông Các điện Đại học sĩ. Năm
Canh Ngọ, Tự Đức thứ 23 (1870), ông được đưa vào thờ ở đền Trung
Nghĩa. (Theo Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn, NXB Thuận
Hóa).
ĐỖ QUANG
Đỗ Quang còn gọi là Đỗ Tông Quang, tên chữ là Huy Cát, người làng
Phương Điếm, tổng Hội Xuyên, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, nay
Phương Điếm thuộc xã Phùng Hưng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Ông
sinh năm Giáp Thìn (1808) trong một gia đình nhà nho nghèo. Năm Mậu
Tý (1828), khi ông 21 tuổi đỗ Hương cống khoa thi Hương năm Nhâm
Thìn, niên hiệu Minh Mạng 13 (1832) khi ông 29 tuổi, đỗ Tiến sĩ, đứng
hàng thứ nhất. Khi đỗ Tiến sĩ ông không ngồi kiệu, võng mà đi bộ về làng.
Đỗ Quang lần lượt giữ các chức "Hàn lâm Trực học sĩ biên tu; Tri phủ Diễn
Châu; Phúc khảo quan trường Gia Định, Lang trung bộ Công, Án sát sứ
Quảng Trị. Năm đầu Thiệu Trị (1841) cất làm Thị lang bộ Công, lại đổi
Trực học sĩ Viện Hàn lâm sung sử quán Toản tu. Năm Ất Tỵ Thiệu Trị thứ 5
(1845) chuyển Thị lang bộ Lại. Ông được sung làm Kinh diên giảng quan
và tham gia duyệt quyển thi Đình. Năm 40 tuổi, thăng chức Tham tri bộ Lễ,
Tự Đức năm đầu (Mậu Thân - 1848), được bổ làm thự Tuần phủ Định
Tường.
Đỗ Quang làm quan nổi tiếng thanh liêm, ông thường xuống tận các
thôn xóm tra xét bọn quan lại ức hiếp, chiếm ruộng của dân. Bọn quan lại,
hào lý kinh hãi đem vàng bạc đến biếu, ông không nhận. Sau vì tầu ngoại
quốc trốn thuế ông bị tội miễn quan. Hôm ông đi, dân khóc như mưa. Vua
bảo: "Nghe tin Đỗ Quang ở Định Tường bị khứ chức, dân hạt ấy khóc như
mưa, nếu không phải ngày thường được lòng dân sao có như thế”. Cho
khởi phục làm Hàn lâm viện Trước tác rồi lãnh Án sát Nghệ An, lại chuyển
Hồng lô Tự khanh, sau thăng Bố chính Nghệ An, cho cái án trước ở Định
Tường phải di chuyển, bồi thường. Tổng đốc là Tôn Thất Cáp dâng sớ nói
là người lương chinh xin miễn cho; xuống chế cho miễn, lại lãnh Bố chánh
Nam Định. Năm Tự Đức thứ 9 (1856), đổi Quang tộc tự khanh, sung Biên
lý bộ Lại, sung Kinh diên giảng quan. Vua khen cách giảng luận lời lẽ đơn
giản tỏ rõ cùng với Tô Trân xấp xỉ ngang nhau, tiến Lại bộ Thị lang.
Năm Tự Đức thứ 13 (1860) ông là thự Tuần phủ Gia Định. Mùa xuân
năm 1861, quân Pháp cử binh đổ bộ lên đánh. Quân ta ở các tỉnh và Đại
đồn tạm thua. Lúc ấy Đỗ Quang đóng ở Biên Hòa vì chuyện này mà bị cách
chức, nhưng vẫn được lưu dụng. Đỗ Quang bí mật sai người tới dụ các hào
mục và sĩ dân ở Gia Định khuyên họ đứng ra mộ quân để đợi thời cơ. Mùa
đông năm đó, quân Pháp vây hãm Biên Hòa, ông bèn tới Tân Hòa để cùng
Phó Lãnh binh Trương Định đem quân đến chiếm giữ những chỗ hiểm yếu
để chống cự (Đại Nam chính biên liệt truyện, đệ nhị tập, quyển 31).
Tự Đức năm thứ 15 (1862), triều đình Huế nhu nhược, đầu hàng giặc,
ký Hòa ước và lệnh bãi binh, điều ông về kinh đô Huế thăng chức Tham tri
bộ Hộ, bổ ông giữ chức Tuần phủ Nam Định. Lần này ông khéo léo nhưng
kiên quyết từ chối, đưa ra những lời lẽ yêu nước rất thắm thiết để phản đối
triều đình cắt đất cầu hòa: “Ngày thần ra về, kẻ sĩ và nhân dân đón chật
đường mà nói rằng: “Từ nay cha bỏ con, quan bỏ dân, quan về quan lại
làm quan, còn dân thì không được làm dân của triều đình nữa”. Tiếng khóc
nghẽn đường, thần cũng phải gạt nước mắt ra đi. Trộm nghĩ, thần tầm
thường, kém cỏi, không tài cán, nhưng lần này quanh quẩn với dân vốn
không dám nghĩ đến ngày được sống trở về. Nay thần được gọi về triều
đình, còn nghĩa dân thì không được gọi về triều đình mà góp sức đóng của
nữa, không biết đặt mình vào đâu. Như thế là thần trên phụ triều đình, dưới
phụ trăm họ rõ ràng không thể chối cãi được. Nếu thần lại nhận chức ở
Nam Định thì đối với nhân dân Gia Định biết nói sao đây? Đối với công
luận thiên hạ, biết thế nào? Thần còn chút lòng biết xấu hổ nên cúi xin
(Thượng hoàng) tha cho về vườn ruộng để cho hả cái nỗi phẫn oán của
nhân dân và còn giữ được tiết liêm xỉ của kẻ hạ thần”.
Vua xem xong lời tâu, và cho triệu kiến dụ rằng: “Trẫm đã biết lòng
nhà ngươi là Đỗ Quang, mà ngươi là Đỗ Quang cũng nên biết bụng trẫm,
không nên như thế”. Tờ sớ giao cho bộ Các giữ. Gặp lúc quê mình ở Hải
Dương có quân thổ khấu làm rối loạn, mẹ Quang và gia quyến phải lánh nơi
khác, Tổng đốc Nam Định là Nguyễn Đình Tân dâng sớ kể tình trạng, vua
sai hậu cấp cho rồi cho về thăm mẹ và cho bạc cùng thuốc men. Quang đón
mẹ về làng, rồi liền đó cáo lệnh được chỉ hậu cho.
Mùa đông năm sau tới kinh, được thự Tham tri bộ Hộ, vua nói: "Đỗ
Quang ngày nay đổi khác không như trước, và chí khí người trượng phu có
nhầm lẫn về sáng như thu công về chiều, vậy ngày xây dựng công nghiệp
còn nhiều, người chớ lấy đó mà nhụt chí, nên cố gắng lên”.
Tự Đức năm thứ 17 (1864), Quang làm thự Tuần phủ Bắc Ninh vào
bệ từ. Vua dụ rằng: "Ngươi vốn có khí tiết, hễ gặp việc phần nhiều hay
tranh chấp lý luận, nhưng việc có kinh, có quyền, không nên cố chấp, phải
khả thủ thương lượng, châm chước mới được việc”. Rồi đổi thự Tham tri
bộ Binh, kiêm Hữu phó đô ngự sử ở viện Đô sát, sung Tham tán quân vụ
Hải An quân thứ, lại thự Tuần phủ Lạng Bình, rồi mắc bệnh xin giả hạn.
Rồi có chỉ đổi Hộ Tuần phủ tỉnh Bắc Ninh. Vua bảo Đỗ Quang từ khi Nam
Kỳ trở về đến nay, thường vin là bất tài, vô dụng, không từng làm được một
việc gì, ý thường như bất mãn, muốn nghỉ việc về hưu, trẫm thường răn
bảo, giao bộ theo chỉ, sức cho gấp chữa bệnh, để chóng khỏi tới nhận chức,
rồi theo lời tới tỉnh Bắc làm việc.
Tự Đức năm thứ 19 (1866) việc ngoài biên đã cáo xong, lại dâng sớ
trần tình xin nghỉ, được sắc ủy lạo lưu lại vào bảo: “ý trẫm gấp dùng người,
mà ngươi cứ lấy tình riêng làm rườm tai ta mãi, lòng ngươi có yên không”.
Lại gia cho ban thưởng và nói: “biết ngươi tình cảnh thanh bần nên ban
cho”. Được hơn tháng, bệnh nặng thêm, cho về nghỉ, về đến nhà rồi chết,
thọ 60 tuổi. Tin cáo phó tới tai vua, vua dụ rằng: "Đỗ Quang ra làm quan
30 năm có lẻ, thanh bạch, trung chính, chăm chỉ, cẩn thận, được tiếng trong
ngoài, trước đây ở Nam Kỳ dẫu gặp gian nan vẫn giữ một tiết, kịp tham tán
quân vụ ở Hải An tỏ có công lao. Hàng năm tới nay nhân ngoài biên có báo
động nên đặc cách khởi phục còn trong khi có lệnh để vỗ yên nơi trọng
khẩn, không ngờ lệnh thê ngày thêm, bèn cho nghỉ việc về làng. Ta vẫn nghĩ
tới người, đương lúc cần dùng không may vội chết, thực là đau xót, cho truy
tặng Lễ bộ thượng thư, còn con đợi chỉ sẽ lục dụng, lại ban lộc cho mẹ để
sinh sống và sai hữu tư thình tới hỏi thăm. Em Quang là Vinh cũng đỗ
Hương tiến”. (Đại Nam chính liên liệt truyện).
Triều đình Huế ban chế rằng: "Cố Tuần phủ Đỗ Quang nổi danh khoa
giáp, rạng rỡ hàng quan. Trong triều, ngoài triều, từng trải đã lâu, nổi
tiếng thanh liêm, chính trực, cần mẫn, thận trọng từ Nam ra Bắc mấy bận
bôn ba, vất vả, tận tụy, khổ ải gian nan , người người ca ngợi”.
Ngoài các chức tước đã phong, nhà vua còn phong ông tước "Tự thiện
đại phu”. Dân làng Phương Điếm lập đền thờ ông, sau tôn ông làm Thành
hoàng, thờ cùng Nguyễn Chế Nghĩa (phò mã nhà Trần).
TRẦN XUÂN HÒA
Trần Xuân Hòa người tỉnh Quảng Trị, là con Trần Tuyên, nguyên Bố
chính tỉnh Vĩnh Long. Trần Xuân Hòa đỗ cử nhân năm 1847 được làm Tri
phủ, lại là con quan, nên thường gọi là Phủ Cậu.
Tháng 2/1861, Đại đồn Chí Hòa bị quân Pháp tấn công. Trần Xuân
Hòa hăng hái đứng ra mộ nghĩa dũng đánh giặc Pháp ở Định Tường. Ông
thường dùng chiến thuật phục kích để tiêu diệt sinh lực giặc. Ông chỉ huy
đánh thắng quân Pháp nhiều trận trong đó có 6 trận lớn giết nhiều lính Pháp
và lính mã tà.
Do ông đánh giặc lập được nhiều thành tích ông được triều đình
thưởng hàm Thị độc học sĩ. Trần Xuân Hòa chủ yếu hoạt động ở vùng Cai
Lậy, lập Tổng hành dinh ở vùng Thuộc Nhiêu và Nhị Quy đánh phá các đồn
lính Pháp. Quân của ông hoạt động mạnh mẽ, tiêu diệt nhiều sinh lực Pháp,
tên Đại tá Hải quân Pháp phải thân cầm quân đi đánh. Quân Pháp đem quân
đánh chiếm các xứ Mỹ Trang, Bang Lềnh thuộc tỉnh Định Tường, Trần
Xuân Hòa dàn quân chống đánh quyết liệt. Song thế giặc mạnh quân ta phải
rút lui.
Ngày 6/1/1862, Trần Xuân Hòa chuẩn bị đi đánh đồn Cái Bè, nhưng
bị quân Pháp dưới quyền chỉ huy của đại úy hải quân Rieuner bao vây ở Cái
Bè và Cai Lậy, ông bị bắt rồi bị xử giảo ngày hôm sau (7/1/1862). (1)
Có nhiều thơ văn ca ngợi ông, viếng ông. Sau đây là bài:
MỘ PHỦ CẬU Ở THUỘC NHIÊU
Qua chơi ta nhớ nghiệp tiền triều,
Nghĩa sĩ mộ còn cách Thuộc Nhiêu.
Huỳnh thổ một gò nên thạch trụ (2)
Bạch vân mấy thức lộng hà kiều (3)
Kiếp căn thần tử tuy dày mỏng,
Nần nợ quân vương trả ít nhiều
Giận chẳng ngờ Tây dương nắng mộ (?)
Can thành (4) đầu mất khí nào tiêu.
II
Tiêu tán binh rồi xác thịt chôn,
Ngàn thu chỉ có liệt oanh tồn
Bia danh ái quốc bia còn dựng,
Dấu ngựa Cần vương dấu đã mòn
Bắc khuyết (5) cỏ cây còn lã chã,
Đông lâu ve đố cũng thon von!
Tôi con đâu cũng tôi con vậy,
Kẻ ấm lương đăng kẻ lạnh hồn. (6)
(1) Việt Nam những sự kiện lịch sử, tập 1, viết ngày 6 tháng Giêng năm
1862 Phú Cậu, thủ lĩnh nghĩa quân bị sa vào tay giặc.
(2) Một gò đất vàng nhô lên như cái cột đá giữa dòng nước cháy.
(3) Đám mây trắng lồng bóng xuống nước dưới cầu.
(4) Can thành: Người tướng có tài ngăn giặc giữ nước như cái mộc che
binh khí, cái thành chống giặc.
(5) Cửa khuyết ở phía bắc, chỉ nơi vua ở
(6) Tác giả có ý trách cũng là tôi con nhà vua mà kẻ được hương khói,
người thì mồ mả vắng lạnh.
ĐỖ THÚC TĨNH
Đỗ Thúc Tĩnh tự là Cấn Trai, sinh năm Mậu Dần (1818). Tổ tiên
người Quảng Ngãi. Cha là Như Tùng, nhân theo cha mà nhập tịch ở làng La
Châu, huyện Hòa Vang, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông do chân tú tài
mà làm Tri huyện An Định. Thúc Tĩnh từ nhỏ, mồ côi cha, nhà nghèo mà
chăm học, thờ mẹ và tôn trọng anh, cẩn thận, có tiếng hiếu hữu. Tự Đức
năm đầu (1848) đỗ tiến sĩ được bổ Biên tu, thự Tri phủ Thiệu Hóa, sau đổi
về Diên Khánh. Bấy giờ Diên Khánh đất bỏ hoang, dân hao mòn. Thúc
Tĩnh tìm mọi cách vỗ về, mộ dân phiêu tán đến, cấp cho đất ở, làm nhà cửa,
cấp cho điền khí, kẻ ốm đau thời thuốc thang, kẻ đói rét thời khẩn cấp, được
người ta gọi là Đỗ Phụ (1).
Năm thứ 7 (1854), có Chỉ gọi về làm Giám sát ngự sử, nhưng dân ái
mộ, triều đình giữ lại cho địa phương và thăng hàm thự Thị độc, lưu giữ ở
địa phương để hoàn thành việc lập ấp an dân. Chưa được bao lâu lại xuống
chiếu bổ viên Ngoại lang Binh bộ. Quan tỉnh thấy việc mộ (dân) lập (ấp) đã
sắp xong, xin cho lưu lại làm nốt. Vua dụ rằng: “Thúc Tĩnh là người thanh
liêm cần cán vào hạng nhất trong hàng phủ huyện, cho thực thụ thị độc vẫn
lưu lại đấy làm việc để khuyên khích cho những viên quan tốt". Thế rồi việc
mộ dân lập ấp thành hiệu, được 143 người và 241 mẫu ruộng. Quan tỉnh
đem việc tâu lên, được cất lên Hồng lô Tự khanh. Rồi qua Án sát Khánh
Hòa, chuyển sang Bố chính, sau lại đổi về biện lý Binh bộ.
Năm Tự Đức thứ 14 Tân Dậu (1861), Gia Định, Định Tường nối nhau
thất thủ, Thúc Tĩnh dâng sớ xin đi vào Nam dẹp giặc. Vua khen là người
trung nghĩa khảng khái, cho sung Khâm sai mang dụ chỉ đi. Lại cấp cho 30
lạng bạc, đi ngựa trạm đến 2 tỉnh Long, Hà tuyên thị cho sĩ dân và chiêu mộ
nghĩa dũng, rồi hợp lực cùng Tổng đốc Trương Văn Uyển, Tuần phủ Phan
Khắc Thận thương biện việc quân. Phàm mọi việc được tùy tiện mà làm:
Binh lương cho phép trù định lấy, viên biền, cho phép cắt đặt lấy, lính dõng
cho phép tổ chức huấn luyện lấy, tiền thóc, cho phép quyên phát lấy, đến
như tướng sĩ, ai có công, được khen thưởng, sợ hãi rút lui, được chém đầu
đem rao để thị uy. Đặc biệt ban cho quyền trọng như vậy để mong công
việc có thành hiệu. Sau chuẩn cho lĩnh Tuần phủ Định Tường. Thúc Tĩnh
dâng sớ xin triệu tập binh sĩ, tích trữ lương, chọn chỗ hiểm lập đồn luyện
quân để phòng lúc đánh, lúc giữ. Lại xin thuê những người Tây Dương và
người Thanh hiện ở Gia Định để làm nội ứng mặt thủy, mặt bộ. Vua nghe
lời và dụ rằng: "Thúc Tĩnh tiết tháo xem xét tình hình, trù nghĩ phương
lược, mọi khoản đều hay. Hiện nay triệu tập binh dõng, tích trữ tiền, lương
đều kể có hàng vạn. Tuy còn đương lắng chờ cơ hội, chưa thể vội vã đem
dùng, nhưng vì nước làm việc như vậy tin là có lòng trung thành mưu tính
sâu xa. Thương tình nhà ngươi vất vả, cho thăng thự Lại bộ thị lang vẫn
lĩnh chức cũ”.
Năm thứ 15 (1862) Thúc Tĩnh chết.
Ông là người khảng khái, dũng cảm thao lược, có chí mà chưa đạt, vua
rất lấy làm tiếc, truy tặng Tuần phủ và gia cấp cho gấm lụa bạc tiền. Con là
Hữu Điển được ấm thụ chức Tư vụ, thăng mãi đến Tri phủ Ninh Hòa.
(Quốc sử quán triều Nguyễn -
Đại Nam chính biên liệt truyện, -
Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn).
(1) Đỗ Phụ đời Tấn (Trung Quốc) làm quan ở Tương Dương dẫn nước
sông vào tưới cho hơn vạn khoảnh ruộng. Dân được nhờ ơn, gọi là Đỗ Phụ
(theo Từ Hải).
NGUYỄN NGỌC THĂNG
Nguyễn Ngọc Thăng sinh năm 1798, con cụ Nguyễn Công và cụ Trần
Thị Kiêm, quê tại ấp Giồng Keo, làng Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm, tỉnh
Bến Tre. Ông hiếu học lại thông minh nên trong khi học chữ nho vẫn đến
các lò võ trong vùng để học võ.
Ông đăng lính vào thời vua Thiệu Trị. Nhờ biết võ nghệ, huấn luyện
tốt quân sĩ, củng cố đồn lũy vững chắc, ông được thăng Cai cơ. Đầu năm
Tự Đức nguyên niên (1848), ông được thăng Lãnh binh.
Ngày 17 tháng 2 năm 1859, quân Pháp đánh chiếm các pháo đài bảo
vệ thành Gia Định từ xa. Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng không chờ lệnh
mà đem quân cấp tốc đi ứng cứu. Nhưng trước sức mạnh của đại bác, tàu
chiến, súng bắn nhanh quân Pháp đã chiếm được hết các pháo đài và cửa
biển Cần Giờ. Quân giặc theo đường sông tiến sát tỉnh thành rồi đổ bộ đánh
phá. Đến 10 giờ sáng ngày 17/2/1859 thành Gia Định vỡ.
Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng được lệnh đóng giữ đồn Cây Mai.
Ngay lập tức ông đã điều động quân lính và nhân dân xây dựng hệ thống
phòng thủ, đắp lũy thêm cao, đào hào thêm sâu, bố trí lực lượng phòng thủ
ở những vị trí xung yếu. Đội quân của Nguyễn Ngọc Thăng đã đẩy lùi
nhiều đợt tấn công của quân Pháp. Nhưng do quân Pháp có ưu thế về quân
binh, vũ khí, nên sau một thời gian cầm cự, lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng
phải bỏ đồn rút về Gò Công, khi đó vẫn thuộc phủ Tân An, tỉnh Gia Định.
Khi chủ tướng Trương Định hy sinh trong mặt trận tập kích bất ngờ
do tên phản bội Huỳnh Văn Tấn (Đội Tấn) dẫn quân Pháp vào bao vây,
đánh úp, Nguyễn Ngọc Thăng tiếp tục lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp ở
hữu ngạn sông Soài Rạp cho đến cửa Tiểu, thuộc Gò Công. Trong nhiều
trận đánh ông đã phối hợp với nghĩa quân do Trương Quyền, con của
Trương Định chỉ huy hoạt động ở vùng Tây Ninh và nghĩa quân do Thiên
hộ Dương chỉ huy chiến đấu ở vùng Đồng Tháp Mười.
Ngày 27/6/1866, trong một trận giao chiến với quân Pháp, Nguyễn
Ngọc Thăng trúng đạn hy sinh. Nghĩa quân lợi dụng đêm tối, dùng ghe đưa
về quàn ở tỉnh Mỹ Lồng, bên cạnh mé sông để nhân dân trong vùng đến
điếu phúng. Mộ ông đặt tại một con giồng nhỏ ở Mỹ Lồng thuộc làng Mỹ
Thạnh. Sau khi ông mất, vua Tự Đức phong sắc, áo, mão và một thanh
gươm. Những di vật này đặt tại ngôi miếu thờ ông ở ấp Giồng Keo bị hư
hỏng trong chiến tranh và thất lạc.
Ông còn được thờ ở đình làng Nhơn Hòa, nay thuộc phường Cầu Ông
Lãnh (quận I, thành phố Hồ Chí Minh) và tại đình làng Mỹ Thạnh, huyện
Giồng Trôm. Hàng năm vào dịp lễ Cầu Yên, tại hai nơi này đều tế lễ long
trọng để ghi nhớ công ơn người anh hùng chống Pháp.
THÂN VĂN NHIẾP
Thân Văn Nhiếp sinh năm 1804, người xã Yên Lỗ, huyện Phong
Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ông đỗ Hương cống khoa thi Hương năm Tân Sửu.
Thiệu Trị thứ nhất (1841) tại trường thi Thừa Thiên. Ông được Hậu bổ
Khánh Hòa, thăng Tri huyện Tân Định. Năm 1858 ông đang làm Bố chính
Quảng Nam thì liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, quân ta bị
thiệt hại nặng nề, ông bị cách chức.
Quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, ông sung chức Tham
biện cơ mật, giữ chức Hiệp tán quân vụ Biên Hòa, ông tổ chức lực lượng
nghĩa quân giúp Tổng đốc Biên Hòa đánh Pháp.
Ngày 16/12/1861, quân Pháp tấn công tỉnh thành Biên Hòa, Thân Văn
Nhiếp đã cùng quan tỉnh Biên Hòa chống đánh kịch liệt Song thế giặc mạnh
cả về binh lực và vũ khí, ngày 18/12/1861 tỉnh thành Biên Hòa thất thủ,
quân triều đình rút về rừng núi Phước Tuy.
Ít lâu sau Thân Văn Nhiếp nhận lệnh vua đi xem xét địa thế các châu
thuộc khu vực Quảng Trị để chuẩn bị căn cứ chống Pháp lâu dài. Sau ông
thăng Tham tri bộ Binh, năm sau thăng Tuần phủ, Hộ lý Tổng đốc Bình
Định - Phú Yên. Ông đã làm sớ khuyên vua Tự Đức nên bãi bỏ mọi việc ăn
chơi, làm hao tổn tiền bạc của nước, kiệt quệ sức lực của dân; nên chăm lo
việc dân việc nước.
Ngày 24/12/1865, một nhóm nghĩa quân do các phó tướng là ông
Rồng, ông Được, ông Long tấn công đồn Cai Lậy, thiêu hủy nhiều căn nhà,
chỉ có 25 tên lính tập giữ đồn chống trả mãnh liệt nên nghĩa quân phải rút
lui.
Ngày 01/5/1868 một nhóm nghĩa quân dưới quyền chỉ huy của Thân
Văn Nhiếp đột kích thành phố Mỹ Tho, tấn công kho lương thực, hạ sát
người giữ kho.
Năm 1870, Thân Văn Nhiếp được thăng Tổng đốc Bình Định, Phú
Yên. Ông chăm lo bố phòng, chuẩn bị kháng chiến, lập căn cứ ở nơi có địa
hình hiểm trở, trang bị vũ khí hiện đại để chống đánh giặc có hiệu quả. Năm
1872, ông đang khẩn trương chuẩn bị chống giặc Pháp khi chúng từ Nam
Kỳ đánh ra miền Nam Trung Kỳ, thì bị ốm chết, được truy phục nguyên
hàm Tổng đốc.
HỒ HUÂN NGHIỆP
Hồ Huân Nghiệp tên chữ là Thiệu Tiên, Thiệu Thiên, sinh năm 1828,
người làng An Định, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, nay thuộc thành
phố Hồ Chí Minh.
Trương Định gửi giấy cử Huân Nghiệp giữ chức Tri phủ Tân Bình.
Huân Nghiệp cố từ chối không nhận vì nhà có mẹ già. Nghĩa hào hai huyện
Bình Dương, Tân Bình lại gửi cho Hồ Huân Nghiệp một bức thư trong đó
có đoạn: "Trong khi quốc gia lâm nạn, trượng phu ắt phải vì nước quên
nhà. Vậy ông là người xứng đáng làm tiên hiền cho cả binh dân, lẽ nào chỉ
hiếu mà bỏ trách nhiệm non sông".
Hai bạn thân của ông là cử nhân Lê Xuân Khánh và tú tài Phan Như
Châu đều khuyên ông ra gánh vác việc nước. Hồ Huân Nghiệp tạm nhận để
việc binh, việc dân có kẻ chủ trương. Buổi ấy, hạt Gia Định bị giặc Pháp
chiếm, quan lại phủ, huyện do Trương Định đặt ra đều ẩn náu trong nhà dân
mà làm việc. Huân Nghiệp đã nhận việc điều động binh lính tiếp tế cho
Trương Định. Nhờ có nguồn lương thực dồi dào đó mà nghĩa quân ăn no
đánh thắng. Tân Hòa thất thủ, ông không nao núng, vẫn bí mật làm việc như
cũ.
Ngày 12/3 năm Giáp Tý, niên hiệu Tự Đức 17 (17/4/1864), giặc Pháp
bắt được ông, giải về huyện lỵ cũ Tân Bình. Bọn Tây tra hỏi Huân Nghiệp
tên những người cầm đầu nghĩa quân, nhưng ông không trả lời. Chúng còn
hỏi Hòa ước đã định, sao còn sinh sự hại dân. Ông khảng khái cãi lại. Bọn
Pháp không làm sao cho ông thua lý được. Chúng đem ông ra chém. Tên cố
đạo biết chữ Hán thấy Huân Nghiệp là một người nho học, muốn tìm cách
làm cho ông được tha, hắn đem giá chữ thập ra bảo ông lạy, ông không chịu
khuất, lấy giá chữ thập vứt xuống đất.
Đến lúc sắp phải hành hình, Hồ Huân Nghiệp rửa mặt, sửa khăn áo
rồi ung dung dọc bốn câu thơ:
LÂM HÌNH THỜI TÁC
Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi,
Toàn bằng trung hiếu tác nam nhi
Thử thân sinh tử hà tu luận
Duy luyến cao đường bạch phát thùy
Dịch thơ:
LÀM LÚC SẮP BỊ HÀNH HÌNH
Thấy nghĩa lòng đâu dám hững hờ
Làm trai ngay thảo quyết tôn thờ
Thân này sống chết khôn màng nhắc
Thương bấy mẹ già tóc bạc phơ. (1)
Ông bị giặc Pháp chém, ai thấy cũng xót xa.
Nguyễn Thông trong Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX có viết
rằng:
“Phan Văn Đạt xướng nghĩa đầu tiên, thân chịu chết để giữ trọn điều
nhân. Trương Định bị thua, chạy trốn, thu thập tàn quân, chiếm cứ Tân
Hòa, bỏ mình vì nghĩa. Ví thử khi Gia Định chưa mất được cầm quyền binh
nhờ quốc oai và địa thế thì mưu lược sắp đặt há chỉ có thế mà thôi đâu.
Còn Hồ Huân Nghiệp ở nhà thờ mẹ, gặp thời loạn lạc không thể không đạt
được chí muốn của mình. Nhưng bài thơ ông làm khi ông lâm chung, lời nói
mạnh mẽ. Thật đúng là bậc trượng phu tiết nghĩa.
Từ khi người Tây gây biến ở lục tỉnh, sĩ phu và dân chúng liều mình
đứng lên, khẳng khái chịu chết kể không xiết được, như Đỗ Trình Thoại (2)
ở Tân Hòa, Nguyễn Lịch ở Tân An đều là những tấm gương chói lọi. Còn
như ở chốn làng xa, ngõ hẻm, những trinh phụ, liệt nữ trọng nghĩa không
chịu ô nhục, chống giặc đến chết, chính tôi biết được có hơn chục người.
Tiếc rằng thời thế đổi đời, đường xá cách trở, sự tích không sao biết rõ
được.
Than ôi! Người ta đang cơn loạn lạc, hầu dễ mấy ai chịu quyên sinh
để giữ vững khí tiết. Thế mà những người nêu cao được tiết tháo nhưng việc
làm lại bị che lấp, không ai biết mà truyền lại, cho nên không được triều
đình ban khen. Cũng trong đám người trọng nghĩa mà có người may, người
không may, đáng thương lắm thay!”.
(1) Ca Văn Thỉnh - Bảo Định Giang dịch- (Thơ văn yêu nước Nam Bộ
cuối thế kỷ XIX, NXB Văn Hóa, 1962).
(2) Đỗ Trình Thoại: đậu cử nhân đời Triệu Trị, làm Tri huyện Long
Thành bị cách Về nhà. Quân ta thua ở Gia Định. Tây chiếm Tân Hòa, Thoại
chiêu mộ quân dân đánh đồn giặc, bị tử trân.
PHAN VĂN ĐẠT
Phan Văn Đạt tên chữ là Minh Phủ, sinh năm 1828, cha là Phan Văn
Mỹ, người thôn Bình Thạch, huyện Tân Thạnh, Gia Định, nay thuộc thành
phố Hồ Chí Minh.
Thuở nhỏ Phan Văn Đạt thông minh, học giỏi, thông hiếu kinh sử, sở
trường về thư từ và có phong cách như người lớn. Năm 1848, ông đậu cử
nhân tại trường thi Gia Định (có sách viết ông đậu cử nhân năm Canh Thân
- 1860). Nhà ông nghèo, không có tiền ra kinh đô Huế để bổ nhiệm làm
quan. Bạn bè phải giúp đỡ mới có tiền lệ phí. Ông ở Huế một thời gian thấy
quan lại đều là bọn đục khoét dân, xu nịnh, nên ông bỏ quan về quê làm
thuốc và dạy học.
Tính tình ông ngay thẳng, không quỵ lụy bọn quan lại, nên được mọi
người kính mến. Dân làng có chuyện xích mích đều đến nhờ cậy phân xử.
Vì vậy mọi người dân bảo nhau: "Sợ chênh lệch thì nhờ mặt cân, muốn hết
tranh giành thì nhờ ông Phan”.
Năm 1859 quân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, ông
căm thù chúng, nhưng còn cha già nên đành ở nhà phụng dưỡng, lo tròn
chữ hiếu.
Tháng 3 năm Tự Đức 14 Tân Dậu (1861), thân phụ ông qua
đời, ông bảo các bạn: “Việc riêng của tôi thế là xong. Từ nay về sau tôi
sẽ tùy theo tạo hóa vần xoay”.
Cũng thời gian đó, tỉnh thành Thuận Hóa thất thủ, quan quân triều
đình lui về giữ Biên Hòa. Phan Văn Đạt cùng với người cháu họ bên ngoại
là Trịnh Quang Nghị và hương thân Gia Định là Lê Quang Dũng khởi binh
đánh Pháp. Trai tráng các huyện theo về rất đông, ông chia quân đóng giữ
phía nam Biện Kiều, thôn Bình Thạnh, Gia Định. Tại đây ông ra lời hiệu
triệu kêu gọi nhân dân gia nhập nghĩa quân chống Pháp. Tiếng tăm của ông
vang dội, người các huyện Bình Dương, Tân Lập, Tân Long, Tân An, Tân
Hòa nổi dậy hưởng ứng rồi gia nhập nghĩa quân của ông.
Khi Phan Văn Đạt mới khởi binh, thế lực còn yếu, lại thấy quan quân
của triều đình đóng ở Biên Hòa không tiến đánh, nên bàn với nhau đóng
quân ở nơi hiểm yếu chờ cơ hội. Vì nghĩa quân để mất thế chủ động, nên
ngày 16 tháng 7 năm Tân Dậu (1861), tướng Pháp là Ba Xu đóng đồn ở phủ
Tân An dò biết tình hình liền đem quân về đánh úp Biện Kiều. Phan Văn
Đạt, Lê Cao Dũng cùng 6 nghĩa quân bị bắt, Lê Quang Nghị đóng đồn ở Ô
Khê (Tây Nam Biện Kiều) cũng bị quân Pháp tập kích, ông cố sức đánh phá
vòng vây chạy thoát.
Giặc Pháp dùng cực hình tra tấn Phạm Văn Đạt, Lê Cao Dũng và 6
nghĩa quân. Song các ông không hề run sợ, không khuất phục, ông bảo với
bẩy anh em: "Tôi thì chắc chết, còn các anh thì không can gì. Nhờ các anh
em nói lại với các bạn đồng tâm nên cố sức cho thành công".
Thấy ông can trường như vậy, tên chỉ huy Pháp lấy làm lạ, hỏi tên
thông ngôn. Tên này trỏ vào Phan Văn Đạt nói rằng: “Người này là hiệt kiệt
nhất trong Đảng, nên bắn phứt đi cho rồi!" .
Vì thế Phan Văn Đạt bị hành hình, chúng tàn bạo lấy móc sắt móc
vào cổ họng ông treo lên cột buồm tầu của chúng tại Vũng Gù (Tân An)
suốt ba ngày cho đến chết. Năm đó ông mới 34 tuổi. Nhân dân vô cùng
thương xót: đốt vàng mã, cúng tế ông. Bà chị ông Trần Quang Nghị sai
người tìm được thi hài ông đưa về chôn cất ở phía nam Biện Kiều, nơi ông
khởi nghĩa.
Tháng 9 năm Tân Dậu (10/1861), vua Tự Đức truy tặng ông hàm tri
phủ, trật tòng ngũ phẩm và cho nhân dân lập miếu thờ.
ĐẶNG VĂN TÒNG
Đặng Văn Tòng là con ông Đặng Văn Trước, người tỉnh Bình Định
theo cuộc Nam tiến vào Bến Đồn. Ông có công lập ra làng Gia Lộc, tham
gia chống quân Cao Miên xâm lược, trở thành tiên hiền làng Gia Lộc, được
nhân dân lập miếu thờ.
Đặng Văn Tòng chiêu mộ nghĩa quân đánh Pháp từ khi quân Pháp
đánh chiếm thành Gia Định. Ông được phong là Lãnh binh. Ông liên kết
với Lãnh binh Két khởi nghĩa ở Long Giang, Gò Dầu, nay là quận Hiếu
Thiện đánh nhiều trận lớn.
Khi Thống đốc Nguyễn Tri Phương được triều đình cử về chỉ huy đại
đồn Chí Hòa, đã giao cho ông chỉ huy một trong năm điểm tựa bảo vệ chiến
lũy Biên Hòa.
Khi đó quân Pháp đang đi thăm dò, điều tra sự bố phòng của quân ta
ở chiến lũy Chí Hòa. Nghĩa quân tăng cường tuần tra tiêu diệt các toán thám
báo này.
Ngày 15/10/1860, nghĩa quân bắn bị thương tên đại úy hải quân
Harmand khi hắn đi tuần bằng thuyền trên sông Thị Nghè. Cũng trong
tháng 10/1860, quân ta lại phóng lao giết chết tên đại úy thủy quân lục
chiến Barhe lúc hắn cưỡi ngựa đi tuần ở chùa Hải Tường. Tên Đại tá
D'Arière vô cùng lo lắng vì bị quân ta bao vây khống chế. Song Nguyễn Tri
Phương chỉ thế thủ, nếu khi đó ông tiến công quân Pháp thì cầm chắc thắng
lợi trong tay và cục diện chiến trường Nam Kỳ sẽ đảo ngược.
Ngày 25/10/1860, mặt trận Hoàng Hải (Trung Quốc) kết thúc bằng
một Hiệp ước, từ đó quân Pháp được rảnh tay. Tên Đề đốc Charur được cử
làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp đi cứu quân của Đại tá D'Arière bị vây
khốn ở Gia Định.
Ngày 7/2/1861, một lực lượng lớn quân Pháp từ Trung Quốc kéo về
có 2 hộ tống hạm L'Impératrice Eugénee, Remommer, 4 hộ tống hạm hạng
nhẹ, 16 thông báo hạm, 17 quân vận hạm, 1 tầu bệnh viện và một số thuyền
buồm với 3.000 quân về tới Gia Định.
4 giờ sáng ngày 24/2/1861, quân Pháp bắn đại bác vào 5 vị trí điểm
tựa, trong đó có vị trí do Lãnh binh Đặng Văn Tòng chỉ huy và đồn lũy Chí
Hòa. Quân ta phản pháo song vô hiệu vì tầm bắn không tới tầu chiến đậu
ngoài biển và pháo đặt ở chùa Khải Tường, chùa Kiểng Phước.
Chiến lũy điểm tựa vỡ, Đặng Văn Tòng cho quân rút về chiến lũy Chí
Hòa. Quân ta quần nhau với quân Pháp từ 9 giờ sáng đến 18 giờ, gây cho
quân Pháp nhiều thiệt hại, song quân ta bị tổn thất nặng nề. Ngày hôm, sau
quân Pháp tiếp tục tấn công, hơn 1.000 quân sĩ ta tử trận, xác để lại chiến
trường, chỉ đưa được thương binh đi. Quân Pháp chết 1 quan 5 Tây Ban
Nha, 4 sĩ quan cao cấp, 121 hạ sĩ quan, 1805 binh lính chết trận. Song quân
ta tổn thất nặng nề hơn: Nguyễn Tri Phương bị trọng thương, Nguyễn Duy
tử trận. Đại đồn Chí Hòa thất thủ.
Lãnh binh Đặng Văn Tòng chạy tới Tha La thì bị Việt gian chỉ điểm
cho giặc Pháp bắt. Chúng đầy ông sang đảo Guy Am và ông chết ở đó.
Lãnh binh Đặng Văn Tòng có 10 người con đều tham gia chống Pháp,
trong đó có 4 người tham gia Thiên Địa hội bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo.
Hai người kết bè trốn thoát, hai người bỏ xác ngoài đảo trong đó có anh
Đặng Văn Thoại.
Họ Đặng bị giặc Pháp gán cho tội làm giặc.
PHẠM PHÚ THỨ
Phạm Phú Thứ sinh năm Canh Thìn (1820) trong một gia đình nhà
Nho, thuộc hàng thế gia, đời đời có người đỗ đạt, làm quan. Quê ông ở làng
Đông Bàn, nay thuộc xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Ông có tư chất thông minh từ nhỏ, 5 tuổi đã đi học, chăm học. Năm lên 8
tuổi, mẹ mất, ông được cha nuôi nấng chu đáo, cho học hành đến nơi, đến
chốn. Năm Nhâm Dần (1842), ông 23 tuổi, thi Hương đỗ đầu. Năm Quý
Mão (1843), ông 24 tuổi, thi Hội đỗ Tiến sĩ. Vua Thiệu Trị đổi chữ Thứ là
rộng lượng sang chữ Thứ là đông đảo. Từ đó ông dùng tên là Phạm Phú
Thứ, tự Giáo Chi, hiệu Trúc Đường, biệt hiệu Giá Viên, Trúc Ân.
Ban đầu ông từ ngạch Hàn lâm viện thụ hàm Biên tu được bổ làm Tri
phủ Lạng Giang (Bắc Ninh). Năm năm sau, dưới triều Tự Đức, ông được
thăng Hàn lâm Thị độc. Sau được sung vào chức Kinh diên Khởi cư trú.
Phạm Phú Thứ không ngần ngại phê phán các quan trễ nải việc nước,
tham nhũng. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) bấy giờ nhân mưa rét, thấy nhà vua
nào là bãi triều, nào là nhà Kinh diên cũng ít ra ngự. Phú Thứ dâng sớ can
ngăn, phê phán vua ham chơi, lơi lỏng việc triều chính song ông lại bị cách
chức, kết án khổ sai, đầy đi cắt cỏ ngựa ở trạm Bưu chính Thừa Nông
(Huế). Một năm sau, do bà Từ Dũ khuyên can vua, ông mới được phục hồi
chức Hàn lâm viện rồi đi công cán ở Quảng Đông (Trung Quốc). Tại đây
ông tiếp xúc với sách báo phương Tây, thôi thúc ông phải cải cách kinh tế
lạc hậu, bế quan tỏa cảng của triều đình Huế. Cũng trong dịp ở Quảng
Đông, ông được chứng kiến phố phường ở đây đang đẩy nhanh tốc độ phát
triển công thương nghiệp. Nhìn sang Ma Cao, nhượng địa của Anh quốc đã
nhanh chóng trở thành một trung tâm thương mại quốc tế. Cửa hàng, cửa
hiệu san sát, ống khói các nhà máy vươn cao, nhả khói lên bầu trời. Phố xá
tấp nập, trên bến, dưới thuyền. Các hoạt động kinh tế sôi động biểu thị của
sự ấm no, hạnh phúc trái ngược hẳn với không khí im lìm, lặng lẽ của xứ
Huế.
Nhìn quang cảnh náo nhiệt của xứ người, ông càng thấy Việt Nam
muốn giàu mạnh, muốn tự cường thì phải mạnh dạn xóa bỏ quan điểm thủ
cựu của triều đình Huế, phải giao lưu với thế giới, phải tiếp nhận nền khoa
học kỹ thuật tiên tiến của châu Âu.
Đi sứ về, ông chưa đề đạt những kiến nghị lên vua được, ông được bổ
làm tri phủ Tư Nghĩa. Ở đây dân rất nghèo, ông khuyến khích nhân dân
khai hoang, đắp đập, đào mương. Ông khuyến khích các làng xã lập kho
nghĩa thương để trợ giúp nhau khi đói kém. Sau đó ông được điều về kinh
làm viên ngoại lang bộ Lễ. Gặp lúc quân Man ở Vách đá nổi loạn, vua thấy
ông trước đã làm quan ở Tư Nghĩa, nên phái theo quân đánh dẹp. Việc
thành công, năm 1856, ông được cử làm Án sát Thanh Hóa.
Điều tâm huyết của ông từ khi đi công cán ở Quảng Đông, mãi đến
khi ông làm Án sát Thanh Hóa mới có cơ hội thực hiện. Ông khuyến nghị
với triều đình Tự Đức tổ chức đóng tầu, thuyền vận tải. Ông chỉ đạo đóng
chiếc tầu bọc đồng mang tên Thụy Nhạc, hoàn thành trong một thời gian
ngắn.
Năm 1858, Phạm Phú Thứ được bổ nhiệm làm Án sát tỉnh Hà Nội.
Ông đã dâng sớ lên triều đình đề đạt một "phương án về cải cách kinh tế,
quốc phòng”.
Đầu tháng 9 năm 1858, khi nghe tin giặc Pháp - Tây Ban Nha đổ bộ
lên cửa biển Đà Nẵng (1/9/1858) ông dâng sớ thỉnh nguyện triều đình xin
cho tất cả các quan viên nguyên quán ở Quảng Nam hiện tại kinh đô Huế
được trở về quê hương chiêu tập dũng binh chống Pháp xâm lược. Nhưng
đề xuất của ông bị triều đình bác bỏ.
Năm 1859, Phạm Phú Thứ được thăng Hàn lâm thị độc đại học sĩ, giữ
chức Tham biện nội các. Trên đường đi kinh lý ở miền Trung ông ghé lại
quê nhà ở xã Đông Bàn, tỉnh Quảng Nam, ông càng hiểu rõ nỗi khổ của
nhân dân. Trở về kinh đô, ông dâng sớ lên triều đình đắp đê Cu Nhí, huyện
Điện Bàn, đào kênh Ái Nghĩa ở huyện Đại Lộc, để tưới và tiêu nước và
giao thông đường thủy thuận lợi. Trước nguy cơ giặc Pháp tái chiếm Đà
Nẵng và các phủ huyện, ông đề đạt với các quan tỉnh Quảng Nam khẩn cấp
xây dựng đồn lũy, bố phòng ở các cửa sông, các vị trí sung yếu, bổ sung và
luyện tập cho dân binh có đủ năng lực chiến đấu tại chỗ.
Năm 1860 , ông được thăng Tả tham tri bộ Lại và thăng hàm Quang
lộc Tự khanh.
Năm Quý Hợi (1863), Tự Đức thứ 16, ông được cử vào phái bộ của
triều đình sang Pháp và Tây Ban Nha xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông. Yêu
sách của sứ bộ không đạt kết quả. Phạm Phú Thứ đã không bỏ lỡ cơ hội
hiếm hoi để học hỏi kỹ nghệ, tìm hiểu kỹ nghệ phương Tây về công nghiệp,
nội thương, ngoại thương, giao thông vận tải đưa về nước cách tân. Từ
tháng 9/1863 đến tháng 3/1864, bất cứ đi tới đâu từ La Caire của Ai Cập,
đến Rôma nước Ý đặc biệt khi tới Pháp lừ Toulou đến Marseille sau đến
đến Paris thủ đô nước Pháp, sau đó sang Madrid thủ đô Tây Ban Nha không
một sự kiện mới lạ nào không được ông ghi chép, nhận xét đầy đủ. Riêng
về công nghệ được ông quan tâm hàng đầu, ông đã đến thăm hàng chục cơ
sở công nghiệp nhẹ như xưởng sản xuất giấy, đến công nghiệp nặng chế tạo
máy sản xuất như máy bơm nước, máy tiện, chế tạo ô tô, tầu hỏa, tầu thủy,
sản xuất súng đạn. ông cũng không bỏ qua các xí nghiệp làm phim ảnh, mạ
vàng, đúc chì và cả các hiệu ảnh cùng quy trình chụp ảnh, tráng phim, rửa
ảnh. Đến thăm các nhà máy, ông không coi là người tham quan, mà thực sự
cầu thị, ông đã tìm hiểu kỹ cả quy mô, cấu tạo của từng loại nhà máy, quy
trình sản xuất, vận hành máy móc và hiệu quả của từng nhà máy để khi
nước ta có điều kiện có thể ứng dụng được Thời gian ở Ai Cập không lâu,
nhưng ông đã vẽ kiểu, đo kích thước tổng thể và từng chi tiết xe trâu đưa
nước vào ruộng. Ông đã đưa về Quảng Nam áp dụng, từ đó phải phát triển
ra Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Những ghi chép trên, Phạm Phú Thứ in thành tập tên “Tây hành nhật
ký” dày 330 trang bằng chữ Hán. Cùng với tập sách "công nghệ" này còn
có tập thơ “Tây phù thi thảo” của Phái bộ. Ông đã dâng hai quyển sách đó
lên vua Tự Đức. Cảm kích tấm lòng của ông đối với tương lai của đất nước,
Tự Đức tặng ông hai câu thơ:
Lịch thiệp dĩ thân nam tử chí
Mẫu thời vị tất phó không chương
Có nghĩa là:
Thỏa chí nam nhi khi giao thiệp
Lo đời không chịu để tờ không.
Song các điều trần của ông cũng giống như các điều trần của Đặng
Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch đều bị Tự Đức coi là
những ý nghĩ ngông cuồng không xét đến mà vẫn bo bo giữ đầu óc thủ cựu,
bế quan, tỏa cảng.
Năm Ất Sửu Tự Đức thứ 18 (1865) triều đình thăng ông làm Thự Hộ
bộ thượng thư sung Cơ mật viện đại thần cơ mật. Ông xin đặt 4 tuyên phủ
sứ ở các địa đầu: về Quảng Trị thì ở 9 châu Cam Lộ; về Bình Định thì ở nơi
cùng cực về địa giới phía tây trên tổng An Tây; về Nghệ An thì ở phủ Trấn
Tây; về Hưng Hóa thì ở phủ Điện Biên, xây thành làm tường giao dịch chợ
búa, ngoài sửa thuế thương chính, mà ngụ ý về quân chính. Ông lại xin lập
thổ tù đời đời được tiếp tập mà liệu đánh thuế khiến cha con anh em họ
cùng nhau ngăn giữ. Đình thần cho lời trình bày thư có ý kiến làm mạnh
vững nơi biên phòng, xin mật tư cho các tỉnh dò xét rồi phúc lại, nhưng việc
rút cục không thành.
Năm Tự Đức thứ 26 (1873) vì Hộ bộ giấu lỗi rồi về hóa vật của nhà
nước, phải giáng Thị lang, rồi khôi phục Tham tri vẫn thự Thương thư. Tuy
thất vọng nhưng Phạm Phú Thứ vẫn nén lòng chờ đợi cơ hội thuận lợi để
thực hiện nguyện vọng của mình là cách tân đất nước.
Năm Tự Đức thứ 27 (1874) ở Bắc kỳ mới mở tòa Thương chính, các
nước tới họp đông đúc, qua lại thành thù ứng, sự thể nặng nề. Vua cho Phú
Thứ am hiểu và tài cán lão luyện từng dự vào khu phủ, biết rõ trước sau, đổi
thự Hải Dương Tổng đốc kiêm sung Tổng lý thương chính đại thần.
Nơi ông đến nhận chức đầy rẫy khó khăn, trước đó bị giặc Tạ Văn
Phụng, tay sai của giặc Pháp đánh phá. Tỉnh thành lại bị giặc Pháp đánh
chiếm năm 1873 vẫn tan hoang. Nhưng mối nguy hiểm nhất vẫn là sau
nhiều năm đê Văn Giang (Bắc Ninh), đê sông Đuống, đê sông Thái Bình
vỡ, cả tỉnh Hải Dương mùa mưa năm nào cũng chìm trong nước, hơn
20.000 dân Hải Dương bị đói. Ông tổ chức ngay việc chẩn cấp cho dân đói.
Với cương vị Tổng lý Thương chính đại thần Phạm Phú Thứ ra lệnh cho
quan tỉnh Hưng Yên mở kho xuất 50 vạn phương thóc cho dân đói và
khuyến khích nhà giàu mở lẫm lúa để cứu đói cho dân làng. Để cứu đói lâu
dài, ông tổ chức cho nhân dân khai hoang, trồng cây ngắn ngày; cho mở các
công trình thủy lợi ở Đông Triều, Nam Sách (Hải Dương).
Phạm Phú Thứ có chủ trương và đề ra biện pháp cụ thể khôi phục tỉnh
thành Hải Dương bị giặc Pháp tàn phá nặng nề; ông cho đào rộng thêm một
đoạn sông ở phủ Bình Giang để thuận tiện cho giao thông đường thủy. Ông
thành lập nha Thương chính Ninh Hải để cùng với Lãnh sự Pháp đưa cảng
Hải Phòng vào hoạt động. Để phát triển giáo dục, ông cho mở trường dạy
học, mở lớp dạy tiếng, dạy chữ Pháp ở Hải Phòng. Với ý thức phổ biến
khoa học kỹ thuật tiên tiến của phương Tây, ông cho khôi phục Nhà xuất
bản Hải học đường tại tỉnh lỵ Hải Dương có từ thời Gia Long (1802-1805).
Nhà xuất bản này đã xuất bản bốn cuốn sách của phương Tây đã dịch từ
tiếng Anh ra tiếng Hán là: Bác vật tây liên (Khoa học tự nhiên), Khai môi
yếu pháp (Phương pháp khai mỏ), Hàng hải kim châm (Kỹ thuật đi biển) ,
Vạn quốc công pháp (Công pháp các nước).
Phạm Phú Thứ còn quan tâm một số vấn đề về khoa học công nghệ
như quy trình đúc súng, khai thác than đá, khai thác quặng sắt và luyện
thép, sản xuất đồ dùng bằng thủy tinh theo quy trình công nghệ. Ông cũng
quan tâm đến hóa học như giải thích tính năng, tác dụng của chất Axit
sunfuric trong công nghệ. các sách xuất bản và các buổi diễn thuyết của ông
về khoa học phổ cập được nhiều giới công thương, nhân dân quan tâm và
có liếng vang trong xã hội đương thời.
Ông không những quan tâm về các vấn đề kinh tế công thương
nghiệp, thủy lợi, nông nghiệp, giáo dục mà còn tổ chức lực lượng trang bị
vũ khí hiện đại, phương tiện hoạt động cho lực lượng phòng thủ bờ biển,
hải đảo và biên giới.
Phạm Phú Thứ đi đường qua Thanh Hóa có hỏi hết Phan Đức Trạch,
trước khi làm niết sự ở Thanh (bấy giờ lĩnh Bố chính ở Nam Định) làm việc
phần nhiều không đúng, có tờ mật phong tâu lên. Vua giao tờ ấy xuống viện
duyệt lại. Khi ông tới tỉnh thì tỉnh thành sau khi linh hỏa, dinh thự bị đốt
phá, làng ấp tiêu điều, khi trước có bàn đặt nha thư để khai trương việc tuần
phòng ở biển, đều chưa xây dựng. Phú Thứ hàng ngày cùng phó viện mới là
Nguyễn Tăng, Nguyễn Đa Phương mưu xếp đặt công việc dần dần đã có
manh mối. Gặp lúc đê huyện Văn Giang, tỉnh Bắc vỡ, nước lụt tràn qua bao
phủ Bình Giang, Ninh Giang thuộc Hải Dương, dân đói phiêu lưu tản mát
tới tỉnh đợi chẩn kể có hàng vạn mà kho không còn của để. Phú Thứ xin
phân trích ở kho gạo Hưng Yên 5 vạn phương phát chẩn cho lại cho dân
cầm cố đồ đạc cấp cho nhà có của. Lại phái thuộc hạ đem những người
khỏe mạnh tới huyện Đông Triều cày cấy, khai khẩn sinh sống, chờ khi
nước xuống cho về làng mạc, dân nhờ đó mới sống. Khi nha thự về thương
chính đã xong, hội đồng lãnh sự mở cảng chiêu thương, một dải sông Cấm
thuyền xe tụ họp đông đúc thành nơi lạc thổ.
Năm Bính Tý (1876), Tự Đức thứ 29, Phạm Phú Thứ đánh dẹp giặc
biển ở đảo Cát Bà lưu dân yên nghiệp, đặt chức bang trưởng, đầu mục. Từ
đó lưu dân Khâm Châu tràn sang không dám gây bạo loạn. Ông được phong
chức Tổng đốc.
Năm Tự Đức thứ 31 (1878), ông được thăng thự Hiệp biện đại học sĩ
vẫn lĩnh Tổng đốc. Ông tâu vua phái quân dẹp thổ phỉ nước 'Thanh là Lý
Dương Tài quấy rối hai tỉnh Lạng Sơn, Bắc Ninh mà huyện Đông Triều -
Nam Sách cũng tiếp cận. Vua cho Đề đốc Tôn Thất Hòe đem 500 quân lên
đóng giữ. Ông tâu lính ở lâu chi phí rộng mà nhàn hạ dễ sinh trễ nải. Xét ra
nơi đó ruộng đất bỏ hoang đến 21.800 mẫu có lẻ, xin cho đặt nha phòng
khẩn, vừa phòng thủ, vừa khai khẩn. Vua y lời tâu cho thi hành. Cũng năm
1878, do quân buôn giảo quyệt khởi xướng phao đồn là gạo xuất cho người
Pháp thì nghiêm cấm, xuất cho người Thanh thì buông tha... đều do Phú
Thứ làm cả. Vua chưa tin, cho quan đi tra xét.
Năm Kỷ Mão (1879), Tự Đức thứ 32, gặp lễ thất tuần đại khánh của
Hoàng hậu Từ Dũ, ông về kinh lạy mừng và xin được chuyển. Vua chấp
thuận, cử người thay thế. Bọn con buôn gian xảo phao tin thất thiệt, khiến
ông mật tấu xin ở lại. Đình thần nghị bàn cho rằng ông thiếu sự hòa hợp với
người Pháp, mà nâng đỡ cho con buôn nhà Thanh. Ngoài ra ông còn bị
Khâm sai Ngự sử đàn hặc tội danh, để cho anh em họ ngoại là Lương Văn
Tiến cậy thế làm ăn phi pháp. Trong khi đó ông bị bệnh, phải xin về kinh
chạy chữa và đợi xét án.
Năm Canh Thìn (1880), Tự Đức thứ 33, khi xét án dâng lên, vua
giáng ông xuống hàm Quang lộc Tự khanh, giữ chức Tham tri ở Bộ Binh.
Năm Tự Đức thứ 34 (1881), ông được thăng Thượng thư bộ Hộ, đổi
là Tổng đốc Hải Yên sung Thượng chính đại thần.
Về cuối đời trên cương vị trọng thần, ông chỉ góp phần vào cuộc
"Nghị hòa ", giữa triều đình Huế với thực dân Pháp. Khi nghị hòa lâm vào
bế tắc, ông bị ngự sử đàn hặc và bị triệu về kinh "Hậu cứu”.
Năm 1887, ông 68 tuổi xin về nghỉ, rồi mất.
Ông mất trong tỉnh cảnh bi đát của đời mình và giữa những ngày rối
như tơ vò của triều đình trước họa xâm lược của thực dân Pháp.
Sau khi ông mất, triều đình xét kỹ công lao, truy phục Khâm sai đại
thần hàm nhất phẩm với tước phong “Vinh lộc đại phu trụ quốc hiệp biện
đại học sĩ”.
Vua Tự Đức cũng thương tiếc, dụ rằng: “Phú Thứ kinh lịch nhiều khó
nhọc, đi Đông, sang Tây, dẫu yếu đuối cũng vâng mệnh không dám từ chối.
Về việc tới trông coi thương chính ở Hải Dương, khi tới nơi, công việc đều
có manh mối, sau này nên lấy đó noi theo”. Những lưu dân, gian phỉ chứa
ác ở Quảng Yên, ông tới kinh lý cũng được yên. Rồi mở đồn điền ở Nam
Sách, thực là lo xa chu đáo, đó là công cán hàng ngày rực rỡ đáng nêu. Gia
ơn cho truy phục nguyên hàm Thự Hiệp biện Đại học sĩ và chuẩn cho thực
thụ, cũng sức cho địa phương tới tế một tuần”. (Đại Nam chính biên liệt
truyện, tập IV. NXB Thuận Hóa. Huế. 1993).
Tang lễ ông tổ chức tại quê nhà, triều đình viết lời điếu có đoạn:
“Phạm Phú Thứ kinh lịch nhiều nơi khó nhọc. Từ Đông sang Tây bồng
bềnh chân mây mặt nước (đại hải trine trùng) đến Thương chính đại thần,
dù sức yếu, chẳng từ nan. Mọi việc trước sau cho hoàn tất cả. Thật là đất
Nam Trung hiếm có”. (Đại Nam chính biên liệt truyện, tập IV. NXB Thuận
Hóa. Huế. 1993).
Phạm Phú Thứ còn nổi tiếng về sáng tác văn thơ, dịch thuật, nghiên
cứu, bình luận thơ văn của các tác gia lớn như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý
Vương, Nguyễn Thông, Nguyễn Tư Giản…
Thơ văn Phạm Phú Thứ đề cập đến nhiều vấn đề lớn, nhỏ của đất
nước. Ông quan tâm đến giặc ngoài từ phương Tây đến đang rình rập ở
ngoài biển Đông.
Nhà sử học Trần Văn Giáp đã nói về văn thơ của ông: “Trúc Đường
Phạm Phú Thứ có một số tác phẩm văn và thơ chữ Hán, dưới thời Tự Đức,
vừa là tài liệu tham khảo về sử cận đại, vừa là phản ánh được sự chuyển
biến tư tưởng của phái Nho học thời đó sau khi đã qua châu Âu đã nói lên
sự đóng góp to lớn của ông đối với văn học nước nhà ở nhà sau thế kỷ
XIX”. (Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập II, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1999. trang 117-127)
VŨ ĐỨC KHUÊ
Vũ Đức Khuê sinh năm Quý Sửu (1793 ) người xã Hoa Đường,
huyện Đường An, tỉnh Hải Dương, nay là thôn Lương Ngọc, xã Huỳnh
Thúc Kháng, ở huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Vũ Đức Khuê thi Hương đỗ Hương cống khoa Tân Tỵ (Minh Mệnh
thứ 2 (1821). Ông đỗ đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Ngọ,
niên hiệu Minh Mệnh thứ 3 (1822) khi 30 tuổi. Lúc đầu ông làm Hàn lâm
Thị độc. Ông làm quan đến Hộ bộ Tham tri. Sau ông bị giáng xuống Tư vụ.
Tháng 2 năm 1859, quân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam
Kỳ, triều đình hạ lệnh cho các quan lại ở Nam kỳ được phép tiếp nhận
những người tình nguyện gia nhập đội quân chính quy để đi chống giặc
Pháp. Cho phép nhân dân Nam Kỳ rèn đúc vũ khí và tổ chức các đoàn
hương dũng để tự bảo vệ nhà cửa, làng xã, cho phép sĩ phu Nam Kỳ chiêu
mộ nghĩa quân thành lập đội ngũ để đánh giặc hoặc theo quân thứ của triều
đình để chống giặc.
Vũ Đức Khuê đã hăng hái mộ quân nghĩa dũng đến quân thứ Biên
Hòa để trợ lực với Hiệp tán quân vụ Thân Văn Nhiếp. Quân ta đắp thành
đất ở núi Phúc Thắng (Biên Hòa) để bảo vệ pháo đài trên núi chống quân
Pháp.
Ngày 16 tháng 12 năm 1861, quân Pháp mở chiến dịch tấn công vào
lỉnh thành Biên Hòa. Vũ Đức Khuê cùng các tướng chỉ huy nghĩa quân
chiến đấu quyết liệt gây cho quân Pháp bị thương vong nặng nề. Song quân
Pháp thiện chiến, trang bị vũ khí tối tân, có đại bác yểm trợ, nên ngày 18
tháng 12 năm 1861 tỉnh thành Biên Hòa thất thủ. Tuần phủ Gia Định Đỗ
Quang, Bố chánh Đỗ Thúc Tĩnh, Vũ Đức Khuê bị triều đình bắt đưa đi biệt
xứ.
Vũ Đức Khuê trốn về Gia Định chiêu tập nghĩa binh liếp tục đánh
Pháp. Sau triều đình ký hòa ước với Pháp, ông được phong Hồng lô Tự
khanh, đi làm Tuyên phủ sứ Quảng Yên về Kinh làm Biện lý hình tu sự vụ.
Sau ông được điều về làm Hộ lý Tuần phủ Quảng Yên. Giặc biển tay sai
của thực dân Pháp vào đánh phá, ông kiên cường chỉ huy quân sĩ đánh trả
và đã anh dũng hy sinh. Ông được truy tặng Bố chính Quảng Yên.
(Ông nghè ông cống Triều Nguyễn -
Trạng nguyên, Tiến sĩ, Hương cống Việt Nam -
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội)
NGUYỄN TRUNG TRỰC
Nguyễn Trung Trực khi nhỏ tên là Chơn, khi giặc Pháp xâm lược, ông
gia nhập quân thứ Trương Định mới đổi tên là Nguyễn Văn Lịch, sau đó lại
đổi tên là Nguyễn Trung Trực. Ông sinh năm 1838 trong tầng lớp ngư dân ở
xóm Nghè, xã Bình Đức, phủ Tân An, xưa thuộc tỉnh Định Tường, nay là
tỉnh Long An.
Ngày 25/2/1861, ông tham gia chống quân Pháp ở Đại đồn Kỳ Hòa
dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương. Đồn Kỳ Hòa vỡ, ông cũng thu
thập tàn quân ở Kỳ Hòa, tuyển thêm quân mới đánh quân Pháp hàng chục
trận ở trên bộ và dưới sông tại ba tỉnh miền Đông.
Ngày 10/12/1861, ông chỉ huy quân đốt cháy tàu Hy Vọng do tên
trung úy Bacfe chỉ huy 45 tên lính trên sông Vàm Cỏ Đông thuộc thôn Nhật
Tảo. Nghĩa quân chỉ có 54 người đã tiêu diệt toàn bộ quân lính trên tàu
quân tới cứu viện. Nghĩa quân hy sinh 4 chiến sỹ. Đây là trận đầu tiên quân
ta nhấn chìm được tầu đồng của phương Tây giữa ban ngày khiến cho giặc
Pháp phải kinh hoàng.
Sau trận này tiếng tăm của Nguyễn Văn Lịch nổi lên như một lãnh tụ
nghĩa quân kiệt xuất bên cạnh tướng quân Trương Định. Triều đình Huế
phong sung chức Quản cơ. Ông ra kinh đô Huế nhận chức rồi vào Hà Tiên
làm Thành thủ úy.
Năm 1862, Nguyễn Văn Lịch tấn công tiểu hạm do đại úy Gougeard
chỉ huy tại Vũng Gù. Ông còn tấn công đồn Thủ Thừa và đồn Tân Uyên
nhiều trận dữ dội.
Ngày 16/2/1862, Nguyễn Văn Lịch lại đánh tầu tại bến Lức trên sông
Rạch Tra. Trong trận này nghĩa quân táo bạo đánh giặc với phương thức hết
sức thủ công, là nghĩa quân dùng sợi dây đôi buộc vào tầu rồi đứng trên bờ
đồng thanh hò la kéo cho tàu chạy mắc cạn để phóng hỏa đốt tầu. Quân
Pháp phải dùng súng bắn đá, nạp đạn bằng sắt để bắn trả.
Triều đình Huế dấn sâu vào con đường bán nước, thăng cho Nguyễn
Văn Lịch chức Lãnh binh để điều ông ra miền Trung. Nguyễn Văn Lịch
chống lệnh, trả chức tước của triều đình, đổi tên là Nguyễn Trung Trực, đưa
nghĩa quân về cứ điểm Hòn Chông lập đồn trại, huấn luyện tân binh, xây
dựng lực lượng. Ông còn có tên nữa là Quản Chôm (Chôm là Châu Trực,
Trung Trực). Tại căn cứ Hòn Chông, ông được đồng bào ở Tà Niên, Đông
Yên, Vĩnh Hòa, nhiệt liệt gia nhập nghĩa quân, ủng hộ quân lương, giúp
nghĩa quân xây dựng đồn trại.
Khoảng ngày 10/6/1868, Nguyễn Trung Trực từ Hòn Chông theo
đường biển vào sông Cái Bè rồi vào rạch Trà Niên. Tại đây ông chiêu tập
được 100 nghĩa quân một cách nhanh chóng. Nghĩa quân chỉ được trang bị
giáo, mác là chính để đánh đồn Kiên Giang (nay là thị xã Rạch Giá). Rạng
sáng ngày 16/6/1868, nghĩa quân áp sát một cách bí mật chiếm được đồn.
Cay cú trước thất bại nhục nhã đó, ngày 18/6/1868, tên trung tá hải
quân An Sa (Ansart) từ Vĩnh Long đem theo lực lượng lớn quân Pháp, chia
làm ba cánh quân theo hai đường thủy bộ tiến đánh tỉnh lỵ Rạch Giá. Ngay
trưa 18/6/1868, Nguyễn Trung Trực đã phán đoán quân Pháp sẽ tiến công,
nên đã có kế hoạch tác chiến từ xa. Trước sức tấn công mãnh liệt của giặc
có ưu thế về quân số và vũ khí, Nguyễn Trung Trực lui về đồn Kiên Giang.
Trận này nghĩa quân làm chủ tỉnh lỵ được sáu ngày.
Nghĩa quân phải xuống thuyền trở lại Hòn Chông. Nguyễn Trung
Trực phán đoán, quân Pháp có hạm đội ca nô, phần lớn là lính hải quân
chúng sẽ bao vây chặt Hòn Chông mà tiêu diệt. Vì vậy nghĩa quân lấy 40
chiến thuyền do ông chuẩn bị từ trước vượt biển chạy ra đảo Phú Quốc. Khi
tên Đômănggơ chỉ huy một cánh bộ binh từ Châu Đốc tiến qua Hà Tiên,
men theo ven biển xuống Hòn Chông, thì loàn bộ nghĩa quân đã rút lui an
toàn.
Nguyễn Trung Trực đổ bộ vào An Thái, cực nam đảo Phú Quốc, và
được chánh tổng Nguyễn Văn Điền và Xã Ngợi rất ủng hộ. Sau đó ông dẫn
quân lên đóng ở ven rừng Hàm Ninh, xây dựng trận địa phòng thủ.
Giặc Pháp đưa tên phản bội Huỳnh Văn Tấn, kẻ đã bắt Trương Định
giao cho Pháp, nay được giặc cho làm lãnh binh tới bắt Nguyễn Trung Trực.
Tên này đưa 125 lính tập trung dân làng, buộc mọi người phải chỉ dẫn chỗ ở
của Nguyễn Trung Trực, nhưng không ai chịu nói. Tên phản bội sai lính
treo ngược mọi người lên tra tấn dã man nhưng không ai khai một lời. Tin
này truyền đến tai Nguyễn Trung Trực, ông không muốn vì ông mà nhân
dân bị giặc tàn sát, bèn sai đổ quân lương xuống sông, giải tán nghĩa quân
còn lại, sai người trói ông lại, giả là bắt được, dẫn về Đông Dương. Đến nơi
ông đứng trên cồn bên Hữu Ngạn gọi Tấn đem thuyền ra đón. Giặc bắt
được Nguyễn Trung Trực vào ngày 19/9/1868.
Bọn xâm lược Pháp và lũ tay sai ra sức dụ dỗ ông theo chúng, vẫn
không lay chuyển được tấm lòng trung với nước của ông. Chúng đưa ông
về Rạch Giá, kết án xử tử hình ông.
Ngày 27/10/1868, đưa ông ra xử tử hình công khai ở Rạch Giá. Ông
bình tĩnh, đòi giặc mở trói, mặc lễ phục áo thụng, khăn đen đường bệ. Ông
còn đòi cho nhân dân trong tỉnh đến chứng kiến để có dịp vĩnh biệt nhân
dân.
Đao phủ hôm ấy không phải là người Việt Nam, và không ai muốn tự
tay giết một vị anh hùng. Trước khi giặc hành quyết, ông dõng dạc tuyên
bố: "Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam, thì mới hết người Nam đánh
Tây”.
Khi đầu ông rơi xuống đất trong pháp trường cũng có người tự vẫn để
tỏ lòng thương tiếc ông. Nhân dân xin thi thể ông về mai táng trọng thể. Ở
Long Kiên, Rạch Giá vẫn còn mộ và đền thờ ông.
Tin Nguyễn Trung Trực hy sinh truyền đến triều đình Huế, vua Tự
Đức, một người chủ trương chủ hòa cũng phải làm thơ nhiệt liệt ca ngợi
ông.
Đền thờ Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá hàng ngày có hàng trăm
người đến thắp hương tưởng niệm ông.
PHAN TRUNG
Phan Trung tự là Tử Đan, tên hiệu là Bút Phong trước tên là Cự
Chính. Tổ tiên gốc người Phúc Kiến, Trung Quốc, tổ bốn đời sang nước
Việt cư trú tại Ninh Thuận, tỉnh Khánh Hòa. Ông là người cương nghị có
khí tiết.
Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841) đỗ Cử nhân, làm Tri huyện Tân
Thịnh. Song vì có việc kiện tụng bị cách chức.
Năm Tự Đức thứ 14 (tháng 9/1861) ông đang là tùy phái Gia Định, đã
chiêu mộ được 2000 nghĩa binh, thành lập 2 cơ. Đội quân của ông cùng với
hơn 6000 quân của Trương Định, Phó quản cơ Gia Định, 2000 quân của Tri
phủ Phước Long Nguyễn Thành ý, Tri phủ Phước Tuy, Gia Định hợp binh
đánh Pháp nhiều trận. Ông được khôi phục quan tịch và thăng Thị giảng
Học sĩ.
Cũng như Trương Định, Phan Trung chống lệnh bãi binh của triều
đình. Từ sau tháng 8/1862 , Phan Trung vẫn ra vào vùng núi Gia Định,
Định Tường, Biên Hòa để liêu diệt quân Pháp và bọn lính mã tà (dân đạo
Thiên Chúa đi lính cho Pháp). Giặc Pháp rất hoảng sợ và căm tức, song
không làm gì được ông.
Khi Phan Trung hoạt động ở Phan Rang (Bình Thuận) thực dân Pháp
khiếp sợ, đòi quan tỉnh Bình Thuận phải giải tán nghĩa quân và bắt Phan
Trung giao cho chúng. Triều đình Huế sợ quân Pháp, một mặt lệnh cho
Phan Trung rút quân đi nơi khác, một mặt phái người đi gặp Pháp để dàn
xếp.
Phan Trung chuyển nghĩa quân đến Phan Rang hoạt động Ông mang
hàm Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ và giữ chức Tri huyện.
Phan Trung đưa nghĩa quân đến khai thác đồn điền ở Tính Linh gần
đồn Bảo Chính thuộc tỉnh Bình Thuận, giáp ranh khu vực quân Pháp chiếm
đóng. Phan Trung chỉ mượn cớ mở mang đồn điền để sản xuất tích trữ
lương thực, đồng thời đào hào, đắp lũy thành một cứ điểm quân sự. Hơn
500 người đang khai khẩn đồn điền là nghĩa quân trực chiến dưới quyền chỉ
huy của Phan Trung từ năm 1861.
Giặc Pháp lo sợ nghĩa quân Phan Trung sẽ từ đồn điền uy hiếp chúng.
Tháng 2/1865, nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Phan Trung hoạt động mạnh
ở Phan Rang (Bình Thuận), thực dân Pháp hoảng sợ yêu cầu quan tỉnh Bình
Thuận ra lệnh giải tán nghĩa quân và bắt giao Phan Trung cho chúng xử lý.
Triều đình ra lệnh cho Phan Trung chuyển quân đi nơi khác và cho người
thương lượng với Pháp. Đến tháng 7/1866, chúng đòi triều đình Huế phải
khám xét, xác định rõ ràng địa giới của đồn điền Bảo chính. Triều đình phải
cử Nguyễn Văn Phương - Doanh điền sứ Bình Thuận - Khánh Hòa - Phú
Yên đi làm việc này với ông mới được sung chức bổ Thị độc học sĩ, sung
Khánh Hòa điền nông sứ, cấp cho ấn quan phòng và sai bọn dũng mộ đi
khẩn điền. Bắt đầu đến nhận chức, Trung cùng với Bình Thuận Doanh điền
sứ Nguyễn Văn Phương điều bắt dân phu đào con cừ Đồng Mới dài 1023
trượng, thủy thế làm cho hơn 2000 mẫu ruộng đất có nước cày cấy dân
được tiện lợi.
Tháng 9/1867, quân Pháp lại ép triều đình Huế chuyển Phan Trung
cùng số người đang khai khẩn đồn điền ở Tính Linh đi nơi đi nơi khác để
bảo đảm an toàn cho chúng. Triều đình Huế phải nghe theo, liền cấp ấn
“Khâm phái quan phòng” cho Phan Trung và bắt chuyển số "cựu nghĩa
binh" đó đi khai khẩn đất hoang ở các tỉnh Khánh Hòa, Bình Định, Phú Yên
để được lòng Pháp.
Năm Tự Đức thứ 32 (1879), Phan Trung được sung làm Tả trực kỹ
khâm điểm (Quan ở địa phương được vua chấm về kinh chúc hỗ). Vua cho
vời vào điện riêng. Trung tâu thưa từng khoản tường tận. Vua khen là người
trung nghĩa khảng khái, cho bạt bổ thị lang Hộ bộ, vẫn sung chức Điền
Nông sứ.
Năm Tự Đức thứ 35 (1883), Phan Trung được triệu về kinh. Năm đầu
Phúc Kiến (1884), ông xin về nghỉ rồi mất, thọ 71 tuổi.
TRỊNH VIẾT BÀNG
Trịnh Viết Bàng người thôn Tân Định, nay là xã Định Trung, huyện
Bình Đạo, tỉnh Bến Tre. Năm 1859, giặc Pháp đánh ba tỉnh miền Đông, ông
tham gia phong trào chống Pháp do Trương Định lãnh đạo. Khi chủ tướng
hy sinh (20/8/1864), ông với người con cả là Trịnh Văn Diệm và các ông
Tô, ông Kiểu đưa một nhóm nghĩa quân rút về vùng cù lao An Hóa tại quê
nhà vận động nhân dân gia nhập nghĩa quân, đào hào, đắp lũy, xây dựng căn
cứ chống giặc.
Trịnh Viết Bàng tránh các trận đánh phá lớn của giặc, ông chia nghĩa
quân thành từng nhóm nhỏ đột nhập vào các làng diệt những tên tay sai,
mật vụ và đón đánh những toán quân Pháp nhỏ. Nghĩa quân được nhân dân
che chở, bảo vệ, nên chúng không sao tiêu diệt hết được.
Trong một trận càn quét khu vực quanh làng Vang Quới, giặc không
bắt được người nào đến chiều đành phải rút quân. Không ngờ neo tầu bị kẹt
gốc dừa, bọn lính phải lặn xuống gỡ neo. Con chó của tên chỉ huy thấy trên
bờ có con kỳ đà liền nhẩy lên đuổi bắt. Sợ chó bị lạc, tên chỉ huy dẫn một
toán lính đuổi theo con chó. Con kỳ đà bị đuổi leo lên cây dừa. Con chó
đuổi theo đứng dưới gốc cây dừa sủa ầm ĩ. Tên chỉ huy thấy lạ, đến nơi
nhìn lên thì phát hiện ra trên đó có người đang trốn. Hắn bắn súng dọa để
người trên cây phải tụt xuống, nhưng không kết quả, liền lệnh cho lính bắt
sống người này. Thật là bất ngờ khi chúng phát hiện ra người đó là Trịnh
Viết Bàng, người chúng mất bao công tìm kiếm. Giặc trói ông giải về Mỹ
Tho. Mặc dù tay bị trói, ông vẫn đá lộn cổ hai tên xuống sông, toan nhảy
xuống sông, nhưng bọn chúng đông đã giữ ông lại. Giặc giam ông ở Cồn
Rồng. Chúng tra tấn, dụ dỗ mua chuộc nhưng không khai thác được ở ông
điều gì. Chúng dọa tử hình ông và giết chết con cháu ông, nhưng ông vẫn
thản nhiên, không khuất phục.
Ông biết giặc Pháp sẽ giết mình, ông đã dặn dò vợ và hai thủ hạ thân
tín đã đóng giả vai họ hàng đến thăm là ông Mật và ông Kèo rằng: "Ta chết,
bọn bay về nói lại với thằng Diệm, con của tao và ông Tô, ông Kiểu cùng
với các chiến hữu còn lại không nên đau buồn nhiều, mà hãy cùng nhau
ráng sức gây dựng lại lực lương, làm cho đặng việc lớn. Sau khi ta chết rồi,
hãy đem xác ta chôn ở nơi ngã tư để cho con cháu và mọi người nhớ mà
không theo giặc..”.
Thực hiện di chúc của ông, sau khi giặc xử chém ông ở Cồn Rồng,
con cháu, nghĩa quân đưa thi thể ông về táng ở ngã tư Giồng Tre, cạnh lộ
Đá, nay thuộc xã Định Trung, huyện Bình Đại. Nhân dân thương tiếc người
anh hùng nên bất chấp giặc Pháp đóng đồn ở gần đó và lũ tay sai lảng vảng
ở quanh Giồng Tre đã tổ chức lễ tang ông trọng thể. Bà con trong vùng vô
cùng thương tiếc người anh hùng đánh Pháp kiên cường bất khuất. Cụ Đồ
Chiểu ở Ba Tri xúc động gởi lời chia buồn vì không thể đến viếng được.
Sau đó ít lâu, ông Kiểu bị giặc Pháp bắn chết ở Vang Quới. Lực lượng
nghĩa quân dần dần tan rã. Ông Tô qua ẩn náu bên Ba Tri rồi mất tích.
Cuộc chiến đấu do Trịnh Viết Bàng chỉ huy chấm dứt nhưng nhân dân
vùng huyện Bình Đại ngày nay vẫn không quên công ơn của ông và các
đồng chí, đồng đội của ông đã anh dũng ngã xuống trên vùng đất máu lửa
này./.
NGUYỄN HỮU HUÂN
Nguyễn Hữu Huân sinh năm 1841, người làng Tịnh Hà, huyện Kiến
Hưng, tỉnh Định Tường (nay thuộc tỉnh Kiên Giang). Ông đỗ thủ khoa khoa
thi Hương khi chưa đầy 20 tuổi, nên gọi là Thủ khoa Huân. Ông được cử
làm giáo thụ huyện Kiến Hưng.
Ngày 17/2/1859, chiến thuyền của liên quân Pháp - Tây Ban Nha mở
cuộc tấn công qui mô lớn vào tỉnh thành Sài Gòn, tỉnh thành Gia Định. Gia
Định thất thủ, Nguyễn Hữu Huân đứng hẳn về phe những người chủ chiến.
Năm 1861, Nguyễn Hữu Huân khởi nghĩa chống Pháp, ông được bổ
chức Phó quản đạo. Ông chia quân đi hoạt động khắp tỉnh Định Tường và
đến các miền tỉnh Hà Tiên. Ông liên kết với quân của Âu Dương Lâu và của
Võ Duy Dương. Quân các ông ít súng bắn nhanh, chủ yếu là giáo mác. Vì
vậy ông đã quyên góp được nhiều tiền, giao thiệp với các chủ tàu buôn Hải
Nam đế mua khí giới của Trung Hoa.
Khi quân Pháp tập trung quân càn quét, ông cho nghĩa quân phân tán,
rút lui, lợi dụng địa hình, địa vật đánh theo lối du kích trên địa bàn rộng lớn
từ Tân An đến Mỹ Tho. Sau hết lương thực, ông xuống Hậu Giang chờ khí
giới chuyển sang. Khi thế cùng, lực kiệt, ông phải giải tán bớt nghĩa quân
về ẩn náu ở Chợ Gạo, Định Tường mưu cuộc khởi nghĩa khác.
Năm 1863, khi quân Pháp bao vây, ông vượt vòng vây đến Châu Đốc,
nhưng ông bị bọn quan lại của triều đình Huế bắt giao cho quân Pháp. Giặc
Pháp hết tra tấn lại dụ dỗ ông ra làm quan cho chúng nhưng ông cự tuyệt, bị
thực dân Pháp bắt đi đầy. Sau đó không khai thác được gì, chúng trả tự do
cho ông, chưa kịp nghỉ ngơi, dưỡng sức, sau những năm bị đày ải ở chốn
lao tù, ông lại hô hào nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa. Nhân dân rất tin tướng,
quý mến ông, gia nhập nghĩa quân do ông chỉ huy rất đông. Ông lại trở về
Châu Đốc bổ sung lực lượng nghĩa quân, trang bị vũ khí đánh giặc.
Năm 1864, Achar Xva (Axoa) khởi nghĩa ở Ba Phnom (Cămpuchia),
rồi chuyển sang Châu Đốc, Hà Tiên, dựa vào Việt Nam chiêu mộ người
Việt gốc Khmer để tổ chức lực lượng nghĩa quân về đánh chiếm Campot.
Achar Sva liên lạc được với lực lượng của nghĩa quân thủ khoa Huân, đánh
thắng Pháp nhiều trận lớn.
Năm 1864, ông lại bị giặc Pháp bắt đày đi Côn Đảo. Sau đó đày sang
đảo Reunion.
Năm 1874, triều đình ký hòa ước nhường lục tỉnh cho Pháp, chúng
mới cho ông trở về. Quản thúc ở nhà Tổng đốc Đỗ Hữu Phong ở Chợ Lớn
là tay chân đắc lực của Pháp và là nơi quen biết ông. Phong mở một tiệc lớn
có đại diện bọn cầm quyền Pháp, Nam dự. Sau bữa tiệc nhiều người muốn
xin thơ của ông làm kỷ niệm. Ông tức cảnh làm bài thơ bát cú, nói lên nỗi
lòng tâm sự của mình và phê phán một số người ra làm quan cho giặc đàn
áp dân.
Sau đó ông được trả tự do. Ngay khi được tự do, Nguyễn Hữu Huân
lại cùng các văn thân Nam Kỳ như Âu Dương Lâu chiêu mộ quân đánh
Pháp. Ông đặt đại bản doanh ở Long Trì. Lực lượng nghĩa quân đông tới
3000 người, đánh Pháp trên toàn tỉnh Định Tường nơi hoạt động chủ yếu từ
Tân An đến Mỹ Tho. Cuộc khởi nghĩa lần thứ hai của Nguyễn Hữu Huân
diễn ra trên địa bàn chủ yếu là Định Tường. Nhưng nhân dân Bến Tre đã nô
nức hưởng ứng bằng cách tham gia nghĩa quân, ủng hộ lương thực, tiền bạc,
để mua vũ khí.
Nguyễn Hữu Huân còn thường xuyên làm công tác vận động binh
lính mã tà bỏ hàng ngũ địch về với nhân dân. Nhiều lính mã tà đem vũ khí
về với nghĩa quân hoặc đào ngũ đi nơi khác làm ăn.
Đầu tháng 5 năm Ất Hợi (5/1875) quân Pháp huy động lực lượng lớn
quân đội, cảnh sát chia làm nhiều ngả vây đánh nghĩa quân ở Long Trì.
Nghĩa quân dựa vào địa thế hiểm trở và đặc biệt được nhân dân ủng
hộ về mọi mặt đã kiên cường đánh trả quân Pháp, giữ vững căn cứ trong
nửa tháng. Quân Pháp bị thương vong nặng nề. Với dã tâm đè bẹp nghĩa
quân, bắt hoặc giết cho được thủ lĩnh nghĩa quân Nguyễn Hữu Huân, giặc
Pháp điều động thêm quân lính, súng đại bác đánh mạnh vào căn cứ Long
Trì. Nghĩa quân tan vỡ, Nguyễn Hữu Huân phải rút quân về Chợ Gạo, sau
đó ông trở ra Bình Thuận phát động cuộc khởi nghĩa lần thứ ba.
Giặc Pháp đánh mãi không được lại dùng thủ đoạn mua chuộc những
kẻ thoái hóa trong hàng ngũ, nghĩa quân làm phản chỉ điểm cho giặc bắt
ông. Chúng kết án ông tử hình.
Ngày 15 tháng 5 năm Ất Hợi (18/6/1875) ông bị giặc Pháp bắt đưa ra
chợ Thôn Trong (tức chợ Phú Kiết) hành hình. Ông ung dung đọc bài thơ
Hãn mã bày tỏ khí phách hiên ngang của mình.
HÃN MÃ
Hãn Mã gian quan vị quốc cừu,
Chủ nhân binh bại bù thân hưu
Anh hùng mạc bả dinh dự luận,
Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu
Vô bố dĩ kinh hồ lỗ phách
Bắt hàng can đoạn tướng quân đầu
Dương niên Tho Thủy li ba huyết
Lang đảo thu phong khởi mộ sầu
Dịch thơ:
Ruổi rong vó ngựa báo thù chung
Binh bại cho nên mạng mới cùng.
Tiết nghĩa vẫn lưu cùng vũ trụ,
Hơn thua xá kể với anh hùng
Không hàng đầu tưởng đánh rơi xuống
Quyết thác không hàng rạng núi sông
Tho Thủy ngày rày pha máu đỏ
Đảo Rồng hưu hắt ngọn thu phong.
Phan Bội Châu dịch
Có sách chép bài thơ Tuyệt mệnh của ông như sau:
Hai liên thiên hạ thống hay không?
Một gánh cưng thường, há phải gông!
Oằn oại hai vai quân tử trúc
Long đong một cổ trượng phu tòng;
Sống về đất Bắc danh còn rạng
Thác ở Thành Nam tiếng bỏ không.
Thắng bại danh du ai khiến chịu
“Phản thần” đẻo quả đứa còn ông.
Ngâm xong bài thơ Tuyệt mệnh ông cắn lưỡi tự tử không chịu để giặc
Pháp chém đầu
HUỲNH MẪN ĐẠT
Huỳnh Mẫn Đạt sinh năm Đinh Mão (1807) ở thôn Tân Hội, xã Tân
Hội, huyện Tân Long, tỉnh Gia Định, nay là thành phố Hồ Chí Minh. Thuở
nhỏ ông học giỏi. Ông thi đỗ cử nhân khoa Tân Mão (1831) dưới triều
Minh Mệnh.
Dưới triều Minh Mệnh (1820 - 1840), Thiệu Trị (1841 - 1847),
Huỳnh Mẫn Đạt giữ các chức vụ: Ngự sử đạo Ninh Thái (Bắc Ninh - Thái
Nguyên). Khi ông giữ chức Án sát Định Tường, đã đánh dẹp thổ phỉ quấy
nhiễu trong tỉnh. Khi làm Án sát Hà Tiên, hai lần ông chỉ huy dẹp phỉ, đem
lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Sau đó ông được thăng Bố chính rồi
Tuần phủ Hà Tiên.
Ông làm quan thanh liêm, luôn chăm lo đến việc ích quốc, lợi dân,
nên được nhân dân kính trọng. ông là bạn thơ, bạn tri kỷ với Phan Văn Trị,
Bùi Hữu Nghĩa. ông cùng Bùi Hữu Nghĩa sáng tác kịch bản vở tuồng Kim
Thạch kỳ duyên. Ông nổi tiếng giỏi thơ Nôm ở đất Đồng Nai.
Sau đó vì nhiều viên quan tỉnh liên lụy đến vụ án chứa thuốc phiện, nên
ông bị cách chức Tuần phủ Hà Tiên. Năm 1860 ông được khôi phục, giữ
chức Án sát Định Tường.
Ngày 17/3/1861, quân Pháp cho 4 tàu chiến, 18 khẩu đại bác chiếm
vùng vịnh Cù Úc và hải phận các cửa biển Đại Hải, Tiền Hải thuộc tỉnh
Định Tường. Huỳnh Mẫn Đạt chỉ huy quân sĩ ra sức chống trả, nhưng vũ
khí lạc hậu không chống nổi vũ khí hiện đại của phương Tây, nên thất bại.
Ngày 29/3/1861, quân Pháp tấn công các đồn Tân Hưng, Tĩnh Giang, Cai
Lộc. Mặc dù quân ta chiến đấu dũng cảm cuối cùng cũng phải rút lui trước
hỏa lực mạnh áp đảo của giặc. Ngày 12/4/1861, quân Pháp lại đem 4 tầu
chiến, 18 đại bác tấn công tỉnh thành Định Tường. Cũng như những lần
chiến đấu trước, vũ khí lạc hậu của quân triều đình không chống được tầu
chiến và súng Tây, nên các ông phải bỏ thành rút chạy. Tỉnh thành Định
Tường lọt vào tay quân Pháp. Tự Đức bắt ông về kinh chịu tội. Đến tháng
11 năm Tân Dậu (1861), ông được tha, điều động theo Nguyễn Tri Phương
đang giữ chức Thượng thư bộ Binh làm Đổng suất quân vụ ở Biên Hòa,
trực tiếp vào Nam Kỳ tổ chức đánh Pháp.
Thực ra sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Huỳnh Mẫn Đạt lánh về
Kiên Giang ở ẩn.
Huỳnh Mẫn Đạt mất năm 1888, thọ 77 tuổi. Hiện nay ở Văn Xương
các, tức miếu Văn Thanh, Vĩnh Long có bài vị thờ ông.
PHẠM VĂN CHÍ
Năm Kỷ Mùi, Tự Đức thứ 12 (1859), thành Gia Định thất thủ, Trương
Định rút về đóng ở đồn cũ Tân Hòa rồi cùng Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang,
phát động kháng chiến.
Anh hùng hào kiệt khắp nơi hưởng ứng hịch "đánh Tây - cứu nước
của Trương Định”. Ông Phạm Văn Chí là một thân hào vùng Bình Hòa,
dân quen gọi ông là Trùm Chí là một người yêu nước, căm thù giặc Pháp đã
hưởng ứng chiêu mộ nghĩa quân, trang bị vũ khí đánh Pháp ở vùng Chợ
Lớn, Rạch Cát, Bình Đông nay thuộc vùng quận 5, quận 6, quận 8 thành
phố Hồ Chí Minh.
Tháng 3 năm 1862, ba tỉnh miền Đông mất hoàn toàn vào tay giặc
Pháp. Giặc Pháp liền điều động quân các nơi về bình định vùng Chợ Lớn,
Rạch Cát, Bình Đông. Trong cuộc càn quét lớn, kéo dài nhiều ngày đó,
tháng 3 năm 1862 , Phạm Văn Chí bị giặc Pháp bắt. Chúng tra tấn dã man,
rồi lại dụ dỗ, mơn trớn ông đầu hàng, khai báo các chiến hữu, và kêu gọi
chiến hữu đầu hàng. Phạm Văn Chí hiên ngang bất khuất, không ngớt lời
chửi mắng quân giặc.
Không khuất phục được ông, tháng 2 năm 1863, chúng đưa ông ra
hành quyết tại làng Bình Đông. Ông lớn tiếng chửi mắng bọn giặc Pháp
xâm lược, lũ vua quan bán nước cầu vinh, kêu gọi, nhân dân tiếp tục đánh
Pháp. Giặc Pháp chém ông rồi chặt đầu đem bêu. Dân làng đem thi hài ông
(không có đầu) an tán ở bên kia rạch Tân Hữu. Sau cải táng đưa về đường
Thơ Ký. (Theo truyền thuyết khi giặc bêu đầu ông, một số bà con yêu nước
đã lấy lại đem chôn giấu, thờ ở nơi khác, đến nay chưa tìm lại được).
Ngay sau khi ông mất nhân dân lập miếu bằng tranh tre ngay trên mộ
ông. Việc thờ cúng không dám công khai vì sợ giặc Pháp biết. Đến năm
1938 các bô lão làng Bình Hòa cùng nhân dân lấy cớ xây đình thờ bản thổ
thành hoàng được Thống đốc Nam cho phép xây dựng. Nay đình Bình Hòa
và mộ ông Phạm Văn Chí tọa lạc ở số nhà 703 đường Phạm Văn Chí,
phường 7, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh. Đình còn một tấm bia trong đó
có hai câu:
Khí chất danh lưu dương dương tại,
Khiêm trinh quán nhật mẫu dịu hoàng
Dịch:
Khí chất danh thơm trào cuồn cuộn
Trung trinh ngời sáng chiếu rợp trời.
TRƯƠNG QUYỀN
Trương Quyền còn gọi là Trương Tuệ, Trương Huệ, cậu Hai Quyền.
Ông là con trai của Trương Định, quê gốc ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi. Ông luyện tập võ nghệ từ tuổi thiếu niên nên giỏi võ nghệ, tài trí mưu
lược, xuất quỉ nhập thần.
Ngày 25/8/1864, Trương Định hy sinh nghĩa quân hoang mang vì mất
chủ tướng. Khi đó Trương Quyền mới 18 tuổi đã thay cha chỉ huy nghĩa
quân. ông phối hợp với thủ lĩnh Võ Duy Dương và thủ lĩnh quân Khmer là
Achar Sva (Axoa) tiếp tục đánh Pháp.
Ngày 7/6/1866 , Trương Quyền và Pôkômbô dùng mưu dụ tên quan
ba Laclo (Larclbause) ra cách đồn chừng hơn một cây số lọt vào ổ phục
kích giết chết hắn và bọn lính đi hộ vệ. Tên quan năm Mác xe (Marchausre)
từ Sài Gòn lên cứu viện cũng bị nghĩa quân giết chết.
Cuối tháng 6/1866, quân Pháp ở Sài Gòn điều động quân đi đối phó
với nghĩa quân Thiên hộ Dương ở Mỹ Tho, Cao Lãnh.
Đêm 23/6/1866, Trương Quyền và Pôkômbô xuất quân từ cầu An Hạ
(nằm giữa Tầm Lạc và sông Vàm Cỏ Đông) tiến về Binh Biền (đường chợ
Lớn đi Mỹ Tho) đột nhập vào Chợ Lớn tấn công đồn Thuận Kiều cách Sài
Gòn 10 cây số. Ông đánh giáp lá cà với bọn kỵ binh Spalus. Trận ác chiến
xẩy ra, Trương Quyền chiếm được đồn giết chết tên đội Pháp, nhiều lính
Pháp và lính Nam, làm bị thương một số tên, chỉ còn năm, ba tên sống sót
chạy đi báo cho quân Pháp.
6 giờ sáng, Trương Quyền chỉ huy nghĩa quân đánh quân tiếp viện.
Sau 2 giờ kịch chiến, quân Pháp bị thiệt hại nặng nề, song quân ta cũng
núng thế. Đúng 8 giờ sáng, Trương Quyền cho quân rút khỏi Thuận Kiều về
Bà Hom.
Giặc Pháp ở Sài Gòn hoảng sợ bắn súng lớn rồi báo động nghĩa quân
đang đến sát "ngưỡng cửa của Sài Gòn", hôm sau tên giám đốc Nội An ra
thông cáo để trấn an, rồi 7 giờ tối bọn Pháp dân sự ở Sài Gòn nhận được chỉ
thị mật cho biết “Loạn quân” có thể xuất hiện trong thành phố, nghe tiếng
súng thì phải tập trung ba, bốn người một nhà, dựng chướng ngại vật chặn
cửa, bình tĩnh đối phó vì ngoài đường có lính cưỡi ngựa tuần phòng rồi.
Quân Pháp và quân Đốc phủ Ca tập trung lực lượng phản công.
Trương Quyền phải rút quân về đánh quân Pháp ở Trảng Bàng. Pháp sai
trung úy Eymard đem quân vây đánh. Trương Quyền phải rút quân vào
rừng rồi lên Tây Ninh hợp quân với Pôkômbô mở mặt trận mới. Song trước
khi rút, ông cho quân tập trung súng bắn mãnh liệt vào căn cứ quân sự của
quân Pháp khiến chúng rối loạn, một số tên tháo chạy.
Tin Trương Quyền phối hợp với Pôkômbô tấn công quân Pháp báo về
Sài Gòn. Bọn chỉ huy Pháp sai 200 lính là 50 lính Thượng do thiếu úy
Rémiot Lerbuer chỉ huy đến Tây Ninh tăng viện.
Từ đó nghĩa quân Việt - Khơ me phối hợp với nhau đánh Pháp ngày
càng nhịp nhàng chặt chẽ. 12 giờ trưa ngày 2/7/1867 liên quân Việt - Khơ
me đánh quân Pháp ở Trà Vang (Bắc Tây Ninh). Quân Pháp thiệt hại nặng
nề phải tháo chạy về Tây Ninh. Nghĩa quân phục kích trên đường chúng rút
chạy diệt thêm một số tên nữa. Hôm sau, đêm 3/7/1 866, liên quân Việt -
Khơ me lại táo bạo đột nhập vào thành phố Tây Ninh, đốt phá dinh thự, lị
sở quân Pháp và Nam triều. Ngày 7/7/1866 , Trương Quyền chỉ huy nghĩa
quân tiến đánh Củ Chi, Hóc Môn, Trảng Bàng.
Cuối tháng 7/1866, quân Pháp chia làm bốn mũi có kỵ binh, phiêu
binh và quân bộ tấn công vào Rạch Vui. Liên quân Việt - Khơ me có ít đạn
nên bị chết nhiều. Tổng hành dinh Pôkômbô bị trúng đạn. Các ổ súng đồng
bị đổ vỡ tê liệt. Trước tình thế đó, Pôkômbô rút về Nam Vang, Trương
Quyền rút về Biên Hòa tiếp tục đánh quân Pháp.
Ngay sau đó nghĩa quân Việt - Khơ me lại đánh đồn An Cư ở Tây
Ninh - đây là một trận đánh lớn. Quân Pháp bị tiêu diệt một trung đội và 2
tên đại úy Pháp. Nghĩa quân Trương Quyền cũng bị thiệt hại.
Tháng 11/1867, nghĩa quân Pôkômbô vượt sông Cửu Long đánh
thẳng vào Công Pông Thom phía bắc Biển Hồ. Tại đây Pôkômbô bị thương
rồi bị bắt và bị giết vào ngày 3/12/1867.
Trương Quyền vẫn tiếp tục chiến đấu ở vùng rừng núi Tây Ninh, xây
dựng căn cứ ở Nha Mét. Thời gian này lực lượng nghĩa quân đã yếu, nên
chỉ đánh được những trận nhỏ. Ông cũng hợp tác với lực lượng kháng chiến
của người Khơ me và người Stiêng. Trong nghĩa quân Trương Định có Trần
Tử Ca, người Hanh Thông Tây, sau đầu hàng Pháp theo đạo Thiên Chúa
cùng Trương Công Tấn một nghĩa quân thân tín của Trương Định đầu hàng
Pháp trở lại đàn áp nghĩa quân Trương Định. Bàn tay hắn đẫm máu nghĩa
quân và đồng bào yêu nước. Năm 1862, quân Pháp cho Trần Tử Ca làm Tri
huyện Bình Long (Hóc Môn). Năm 1865, hắn đàn áp nghĩa quân Trương
Quyền, tham gia vào đội quân xâm lược đánh chiếm ba tỉnh miền Tây.
Tháng 5/1870, Trần Tử Ca cho tay chân xâm nhập vào hàng ngũ nghĩa quân
Trương Quyền giết chết ông.
Tội ác của Trần Tử Ca chất cao như núi, mãi đến ngày 27 tháng chạp
năm Giáp Tuất (18 84) Quản Hớn mới đánh vào phủ đệ của hắn, giết chết
hắn
LINH MỤC KHÂM
Linh mục Khâm tên thật là Đặng Đức Tuấn, sinh năm 1805, người
làng Gia Hựu, huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định, trong một gia đình theo
đạo Thiên Chúa. Ông nổi tiếng hay chữ từ bé, nhưng năm 1825 đi thi không
đỗ. Ông được các linh mục Pháp chọn đi học ở chủng viện Pơnay
(Malaisia) trong 7 năm, ông trở thành linh mục lấy tên là Khâm. Ông nổi
tiếng là người học rộng, biết nhiều.
Ngày 1/9/1858, quân Pháp đánh bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, ngày
17/2/1859, quân Pháp đánh thành Gia Định. Ông bị triều đình nghi ngờ có
liên quan với quân Pháp, nên bị triều đình bắt giải về Huế.
Tháng 9/1859, triều đình Huế giao cho bộ Lễ, phụ trách tuyển những
người biết tiếng Pháp sử dụng làm thông ngôn, phiên dịch thì ông được tha.
Cuối tháng 4/1862, linh mục Khâm được bộ Lễ cử làm phiên dịch cho phái
đoàn của triều đình Huế do Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp làm chánh
phó sứ vào Gia Định để ký hiệp ước ngày 9/5/1862 .
Linh mục Khâm đã biết nhiều điều tai nghe, mắt thấy, kể cả việc giáo
dân bị giết hại. Nhưng ông không mù quáng như một số linh mục và giáo
dân đã tiếp tay cho giặc Pháp xâm lược Việt Nam, gây nên mối hận thù
trong giáo dân và dân lương. Ông đã bày tỏ lòng yêu nước, lên án giặc Pháp
cướp nước. Ông là người Thiên Chúa giáo đầu tiên ở Việt Nam vạch rõ giặc
Pháp đã lợi dụng đạo Lành (đạo Thiên Chúa) để đẩy nhanh tốc độ xâm lược
Việt Nam. Trong một bài “Tự tích việc đạo nước Nam văn”, sau khi kể các
hành động tội ác xâm lược ông viết:
...Khéo là tội báo oan gia ,
Tính bề trục lợi khéo pha đạo Lành
Mượn câu giảng đạo làm danh
Làm cho giáo hữu tan tành phen ni
Làm cho nhà nước sinh nghi
Giam cầm đầu mục khinh khi đạo trời.
...
Khi đi học ở Malaisia và đi các nước khác và nghiên cứu các sách
Tân thư viết bằng tiếng Pháp, dịch ra tiếng Hán, ông đã thấy nhiều nước
như Nhật Bản, Malaisia, Hồng Kông, Ma Cao thuộc Anh của Trung Quốc
đã có những cải cách kinh tế lớn theo phương Tây mà trở nên hùng cường.
Năm 1862, ông đã gửi điều trần lên vua Tự Đức đề nghị cải cách kinh tế,
văn hóa, quân sự như Nhật Bản để chống Pháp xâm lược. Những bản điều
trần của Đặng Đức Tuấn sớm hơn các điều trần của Nguyễn Trường Tộ một
năm. (Nguyễn Trường Tộ gửi bản điều trần đầu tiên là vấn đề tôn giáo ngày
29/3/1863).
Sau này Phan Bội Châu đánh giá "Đặng Đức Tuấn là một trong
những người đầu tiên thắp sáng lên những mầm văn minh trên đất nước ta".
TÁN KẾ
Tán Kế tên thật là Lê Quang Quan, chưa rõ năm sinh. Quê gốc ở tỉnh
Bình Định, đến đời ông nội vào lập nghiệp tại làng Mỹ Chánh, huyện Ba
Tri, tỉnh Bến Tre.
Ngày 26/5/1862, Tự Đức cử phái đoàn của triều đình do Phan Thanh
Giản làm chánh sứ, Lâm Duy Hiệp làm phó sứ vào Sài Gòn để cùng Bằng
ký hiệp ước. Ngày 5/6/1862 Phan Thanh Giản ký với Bôna "Hiệp ước hòa
bình và hữu nghị” với Pháp và Tây Ban Nha.
Lê Quang Quan bất mãn bỏ ngũ về Mỹ Chánh tập hợp trai tráng trong
vùng, chia thành đội ngũ, luyện tập võ nghệ cho anh em. Ông chiêu tập thợ
rèn các nơi về chế tạo vũ khí chuẩn bị khởi nghĩa.
Tháng 6 năm 1867, giặc Pháp đánh ba tỉnh miền Tây, trong đó có Bến
Tre (khi đó thuộc Vĩnh Long) Lê Quang Quan yết bảng chiêu mộ quân,
phát động khởi nghĩa chống Pháp tại vùng Ba Châu (Châu Phú, Châu Thới,
Châu Bình). Để có danh nghĩa chỉ huy, ông tự xưng là Tán tương quân vụ,
lấy mật danh là Kế vì vậy nghĩa quân và nhân dân gọi ông là Tán Kế.
Nghĩa quân do Tán Kế lãnh đạo dựa vào địa thế hiểm trở (khi đó phần
lớn đất đai là rừng rậm), thực hiện lối đánh tập kích, phục kích gây cho
quân Pháp tổn thất nặng nề.
Trước tình thế bị giặc bao vây truy quét, đạn dược thiếu, lương thực
cũng rất khó khăn, Tán Kế giải tán lực lượng, chỉ giữ lại số người thân cận,
khỏe mạnh, có tinh thần chiến đấu cao rút vào vùng lau sậy, chà là, tránh
những trận tấn công ồ ạt của giặc chờ cơ hội phát triển lực lượng, tiếp tục
cuộc chiến đấu. Không ngờ một tên phản bội báo cho quân Pháp biết nơi
Tán Kế ẩn náu. Lập tức bọn Pháp điều động hàng trăm quân bao vây, lùng
sục. Tán Kế chỉ huy số nghĩa quân ít ỏi đánh trả bọn Pháp kịch liệt, giết một
số tên. Cuối cùng ông và một số nghĩa quân bị chúng bắt được.
Sau khi tra tấn ông bằng đủ cực hình, không moi ở ông được điều gì,
chúng chém ông ngày 11 tháng giêng năm Kỷ Tỵ (tức ngày 21/2/1869) bêu
đầu ở Tân Thới ba ngày để uy hiếp dân chúng. Trong dân gian ở vùng này
còn lưu truyền giai thoại, đầu ông Tán Kế để trong giỏ tre, hai mắt vẫn mở
trừng trừng. Nhân dân Ba Châu an táng ông tại làng Mỹ Chánh, nhân dân
trong tỉnh nhiều nơi lập miếu thờ ông. Đền chính được xây tại xã Mỹ
Chánh.
NGUYỄN KHẮC TRẠCH
Nguyễn Khắc Trạch tự An Phủ, hiệu Nhuế Xuyên, sinh năm 1797,
người làng Bình Hồ, huyện Đông Yên, trấn Sơn Nam, nay thuộc huyện Ân
Thi, tỉnh Hưng Yên.
Năm Minh Mệnh thứ 6 (1825) ông đậu Hương cống, được bổ làm Tri
huyện huyện Yên Lạc, Sơn Tây nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, sau đó làm Tri
phủ phủ Yên Khánh (Ninh Bình), Tri phủ Tĩnh Gia (Thanh Hóa). Sau một
thời gian ông giữ chức Viên ngoại lang rồi Trung ngoại lang bộ Hình, rồi
lần lượt ông giữ chức Án sát Hải Dương, Án sát Hà Tĩnh. Năm 1849 ông
làm Bố chính (quan đầu tỉnh) Gia Định, khi đó còn có tên là Phiên An. Tôn
Thất Thuyết giữ chức Án sát. Hai ông đều có chung một đức tính tính tình
cương trực, thanh liêm, nên trở thành bạn chí cốt.
Khi tình hình Gia Định ổn định ông được điều về làm Tuần phủ Vĩnh
Long. Năm 1855, Tự Đức thứ 8, ông được triệu về triều giữ chức Hàn lâm
trực học sĩ, sung Biên tu Quốc sử quán.
Trong khi giữ các chức vụ ở địa phương ông luôn luôn chăm lo đến
đời sống của nhân dân, chú trọng khai hoang, làm thủy lợi. Ông còn chủ
trương giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân và rất lưu tâm đến việc học
hành, khuyến khích mở trường học. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện
của triều Nguyễn viết về ông như sau: “Trạch đi đến đâu cũng khuyến khích
các sĩ tử. Các học trò tài vào bậc nào thành đạt vào bậc ấy, học tập thường
đến vài trăm người”.
Trong thời gian ông làm Toản tu ở Quốc sử quán ở triều đình thì năm
1858 giặc Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Nguyễn Tri Phương,
Ông Ích Khiêm đã chặn đứng cuộc xâm lược đó. Không đánh chiếm được
Đà Nẵng làm bàn đạp tấn công kinh thành Huế, ngày 10/2/1859 chiến
thuyền liên quân Pháp - Tây Ban Nha kéo vào Sài Gòn. Ngày 17/2/1859,
quân Pháp mở đợt tấn công quy mô lớn vào thành Sài Gòn và các pháo đài.
Năm 1862, quân Pháp chiếm xong 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Triều đình
Huế vội vàng ký hòa ước và ngăn cấm nhân dân kháng chiến. Kết cục là
đến năm 1864 quân Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Bộ. Trước thảm
họa của đất nước, triều đình Huế vẫn tiếp tục chính sách đầu hàng, khi đó
ông đã mấy lần dâng sớ xin về chí sĩ, mãi đến năm 1864 khi đó ông đã 67
tuổi, Tự Đức mới chấp nhận. Ông về quê sống một cuộc đời dân dã với
nông dân, khuyến khích nông dân mở mang nông nghiệp, trồng dâu, nuôi
tằm, quan tâm đến việc học của lớp trẻ.
Khi Nguyễn Tri Phương mất, Nguyễn Khắc Trạch có bài văn khóc
ông trong đó có câu: (dịch) “Cách đây không lâu, giặc Tây dương gây biến,
cõi Đông (Nam Kỳ) bị chia cắt. (Ông) đảm đương giữ muôn dặm thành dài.
Năm trước, giặc Tây lại đến Hà Nội (ông) là người làm tướng ở xa triều
đình đã lấy lợi ích của xã tắc làm trách nhiệm”. Nguyễn Khắc Trạch đánh
giá rất cao phẩm chất anh hùng của Nguyễn Tri Phương: "Đá núi Nùng
chính là tâm bia truy lệ vậy ".
Nguyễn Khắc Trạch mất vào giờ Thân, ngày 22 tháng 6 năm Giáp
Thân (9/1884) tại quê ở làng Bình Hồ. Tôn Thất Thuyết khi đó là Thượng
thư bộ Binh, phụ chính đại thần gửi câu đối viếng:
“Cố địa vô song, cộng đạo Phiên An di cựu khách
Tiên Sinh hà khứ trùng khan Hàm Tử chính đường niên
Dịch:
Đất cũ không quên, những tưởng cũng đương đến, Phiên An còn lại
khách cũ
Tiên sinh về đâu, xem sao được nữa trận Hàm Tử diễn lại ngay trong
năm nay.
Nguyễn Khắc Trạch còn là một nhà thơ. Ông để lại trên mười tác
phẩm như: Nhuế Xuyên bạch bút thi tập, Nhuế Xuyên văn tập, Nhuế Xuyên
thặng bút thi tập, Nhuế Xuyên trùng tập, Nhuế Xuyên tùy bút tập...
VŨ PHẠM KHẢI
Vũ Phạm Khải tự là Đông Dương, người thôn Phượng Trì, tổng Yên
Mô, tỉnh Ninh Bình. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) ông đỗ Cử nhân được
bổ làm Tri phủ huyện Quỳnh Lưu. Gặp lúc ở Quỳ Châu báo động có giặc,
ông được cử giúp việc quân và được cất làm Lễ khoa cấp sự trung.
Năm Tự Đức thứ nhất (1848) vì lời ông nói thẳng bị quan lại gièm
pha tâu với Tự Đức, ông bị bãi chức, liền trở về quê. Gặp lúc Bắc Kỳ có
giặc, hãm phủ Thiên Quan, ông đưa con em, học trò ra tòng quân, thu lại
tỉnh thành. Việc đến tai vua, vua sai ông làm Bang biện tỉnh Ninh Bình. Ít
lâu sau ông lại được thăng Thị độc học sĩ bổ làm Bố chính Thái Nguyên.
Ông làm quan trải ba triều vua Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức.
Ông là vị quan một lòng thương dân, lo cho dân. Khi ông làm tri
huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An), ở ấp Thạch Đồng vì đói kém, thuế khóa nặng
nề, dân bỏ đi. ông giảm, miễn thuế, trợ cấp cho dân nghèo. Do thực hiện
chính sách cởi mở, những người bỏ quê đã hồi hương. Nhớ ơn ông, khi ông
mất, dân ấp Thạch Đồng lập đền thờ ông.
Vào một năm Hà Nội, Ninh Bình gặp lụt đói kém, Vũ Phạm Khải
thương xót, nhưng ông không có đủ quyền hạn để giải quyết, đã viết thư
cho bạn làm quan ở hai tỉnh đó từ cho quan lại địa phương xem xét kỹ càng
tình hình thiệt hại để có biện pháp cứu giúp.
Có lần vua cử Vũ Phạm Khải về Bắc Kỳ kinh lý. Khi đến huyện Kim
Động (Hưng Yên) gặp lúc địa phương bị tai hại, mà trong huyện thành vẫn
hát xướng, ông đã dâng sớ hặc xin cách chức viên tri huyện Kim Động.
Trong sớ có câu: "Ngoài thành khóc, mà trong thành hát, không có lòng
trắc ẩn không phải là cha mẹ dân". Sau đó viên tri huyện này bị cách chức.
Trong thời gian về nghỉ ở quê (1849-1856) ông đã cùng Nguyễn Công
Trứ khai khẩn vùng đất bồi Kim Sơn - Văn Hải ở gần quê nhà, lập ra ấp
Tuy Định. Khi ông mất nhân dân ấp Tuy Định đã nhờ Phạm Văn Nghị, bạn
thân của ông ở Nam Định làm bài văn tế, nhắc đến công đức của ông, trong
đó có đoạn:
“Có một điều mà cụ xưa thường nói: đất cát là để nuôi sống người.
Phượng Tài ta có một phần bãi bể, đem người làng và con em ra mở mang
lập ấp, một mặt để thêm thuế khóa cho nhà nước, một mặt để làm nơi sinh
sống cho mọi người của ta..., đến nay đã được nhiều năm có kết quả, việc
đó là nhờ có sức cụ mở mang từ nhiều năm mới có được. Nay cụ mất đi,
nhưng việc làm vẫn còn đó. Thế là cụ vẫn sống mãi”.
Vì ông có công lao, cha được tặng Nghi đại phu Hàn lâm viện thị độc,
tên thụy là Đoan Trực, mẹ được tặng Ngũ phẩm nghi nhân.
Năm 1858, giặc Pháp đánh phá bán đảo Sơn Trà, năm 1859 đánh
chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Triều đình Huế hoang mang, sợ hãi. Vũ
Phạm Khải đã kiên cường đứng về phe chủ chiến. Ông cũng viết nhiều văn
kiện chống nghị hòa gửii vua Tự Đức như "Biện hoặc luận”, "Lỗ Trọng
Liên bất đế Tần luận”, "Hòa nhung luận”.
Khi Đại đồn Kỳ Hòa thất thủ, thực dân Pháp ép triều đình Huế hòa
nghị. Vũ Phạm Khải khi đó đang ở Quốc sử quán đã dâng sớ lên Tự Đức
nói cái hại của sự giảng hòa và bàn nên cử chiến tướng ra trận.
Ba tỉnh Miền Đông Nam Kỳ mất, lòng ông đau xót vô cùng. Nhưng
ông biết tai họa cho đất nước không dừng ở đấy âm mưu của giặc thôn tính
nước ta ngày càng lộ rõ. Ông lại dâng sớ lên triều đình bàn kế phòng thủ và
quyết chiến với giặc. Nhưng lúc này triều đình dấn sâu vào con đường đầu
hàng, bỏ ngoài tai bất cứ sớ, tấu, kiến nghị nào nói về đánh giặc.
Quân Pháp nuốt gọn ba tỉnh miền Đông, lại có âm mưu chiếm ba tỉnh
miền Tây, chúng phái tên Vial từ Gia Định ra Huế đòi triều đình nhường nốt
ba tỉnh miền Tây cho chúng. Triều đình đem ra bình nghị. Vũ Phạm Khải
cũng được tham dự. Cuộc bình nghị đa số các quan đều ngả về chủ hòa,
khiến ông bất bình. Các đại thần nhìn ông có ý muốn ông phát biểu trước.
Ông thẳng thắn nói:
“Lòng tham của giặc không bao giờ chán, ta đã chót lầm lỡ một lần,
hay còn lầm thứ hai nữa? Nhất định không thể cho chúng nó được”.
Cuộc bình nghị đa số các quan đều ngả về chủ hòa, không giữ được
bình tĩnh, ông lớn tiếng:
“Chiến sĩ đời xưa không nói hòa, chiến sĩ đời nay chỉ một mực nói
hòa. Quan võ đời xưa không sợ chết, quan võ đời nay chỉ một mực sợ chết,
sao mà đời nay lại khác hẳn đời xưa như vậy!”.
Năm Tự Đức thứ 18 (1865), Vũ Phạm Khải làm Thị độc học sĩ sung
Toản tu sử quán. Khi đó ở Nam Kỳ giặc Pháp ráo riết đánh ba tỉnh miền
Tây. Trong một số lần triều đình họp, Khải được dự, ông đều đứng về phe
chủ chiến là đánh, chỉ có đánh mới giữ được chủ quyền đất nước. Song ông
chỉ là một quan nhỏ, những người trong phe chủ chiến đã bị gạt ra khỏi
triều chính, nên ông rất buồn phiền.
Năm 1868, ông được cử làm thương biện để ngăn giữ vỗ yên công
việc Ninh Bình. Chính trong thời gian này ông đã giúp nhân dân Ninh Bình
chấn hưng nông nghiệp, hoàn chỉnh các công trình dẫn thủy nhập điền ở
vùng đất mới khai hoang.
Năm Tự Đức thứ 23 (1870), Vũ Phạm Khải làm quyền biện Bố chính
sứ ở Thái Nguyên. Tỉnh này đã bị giặc tàn phá nhiều năm, dân tình điêu
đứng. ông tới Thái Nguyên mới được vài tháng, đang ổn định tình hình thì
đột nhiên giặc là Đặng Chí Hùng kéo tới. Tỉnh không có viện binh, tình thế
rất gấp, Vũ Phạm Khải đưa thư dụ Chí Hùng việc họa phúc. Đồng thời ông
cấp báo về kinh, vua nhận được thư liền cho Tham tán Lê Bá Thận hợp với
tuần biên Trần Văn Mỹ đánh dẹp. Vũ Phạm Khải đóng đồn ở châu Bạch
Thông, bị giặc vây hãm và bị bắt. Vua nghe tin kíp sai bày cách cứu về.
Vì thua trận, Vũ Phạm Khải bị giáng ba cấp lưu dùng, bổ làm Tả thị
lang bộ Hình, kiêm sung sử quán Toản tu. Ông tới kinh bị đài thần hặc tâu,
vua sai giao xuống đình luận. Việc chưa xét thì ông bị ốm chết vào ngày 22
tháng chạp năm Tân Mùi. Khi ông mất có nhiều câu đối phúng viếng. Trong
đó có đôi:
Phiên âm: VÃN ĐÔNG DƯƠNG TIÊN SINH
Tâm sự như bạch nhật thanh thiên, lỗi lỗi
Thần khí tại Càn nhai bãng lĩnh thương thương thế thế.
Dịch nghĩa: VIẾNG ĐÔNG DƯƠNG TIÊN SINH
Tâm sự giữa trời xanh, ngày rộng quang minh chính đại
Tinh thần nên núi thẳm cùng mây thương cảm thê lương.
ĐẶNG HUY TRỨ
Đặng Huy Trứ sinh ngày 19 tháng 3 năm Ất Dậu (26/5/1825). Quê
gốc của ông ở thôn Thanh Lương, nay thuộc xã Hương Xuân, huyện Hương
Điền, tỉnh Thừa Thiên.
Đặng Huy Trứ là người thông minh từ nhỏ. Ông thi Hội, thi Đình đỗ
tiến sĩ nhưng vì phạm húy, nên bị tước hết học vị. Ông vừa dạy học để kiếm
ăn, vừa đi học. Năm 1847, ông đi thi lại đỗ cử nhân.
Đặng Huy Trứ vốn là nhà nho yêu nước, nên ngay từ buổi đầu giặc
Pháp xâm lược, ông đã đứng về phe chủ chiến và là người hăng hái tích
cực, sau đó ông được thăng tri phủ Kiến Xương, rồi tri phủ Thiên Trường,
Nam Định. Tự Đức gọi ông về kinh giữ chức Hàn lâm viện trước tác, sau
thăng ngự sử.
Ngày 1 tháng 9 năm 1858, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha do tên
thiếu tướng Rigôn đờ Giôny phó thủy sư đô đốc, tổng chỉ huy lực lượng
viễn chinh Pháp tại Việt Nam tấn công bán đảo Sơn Trà. Ông đang còn là
quan tập sự, nhưng đã thực hiện ý chí quyết chiến của mình, sẵn sàng chống
giặc bảo vệ Tổ quốc.
Đặng Huy Trứ là người thẳng thắn, kiên quyết, không sợ cường
quyền. Khi ông làm quan ngự sử, biết việc viên Tham tri bộ Binh, một chức
quan cao hơn ông có hành vi tham nhũng, ông vẫn thẳng thắn vạch tội. Vì
vậy bọn quyền thần căm ghét ông, hùa nhau hãm hại ông, chỉ trong 9 tháng,
ba lần ông bị giáng chức.
Năm 1854, Đặng Huy Trứ được bổ làm Bố chính tỉnh Quảng Nam.
Đặng Huy Trứ là người chính trực, công bằng, ông đã phát hiện nhiều
nhân tài tiến cử với vua Tự Đức, trong đó có việc tiến cử các ông Nguyễn
Quýnh, Hoàng Diệu, Phan Thanh Nhã...
Hai năm sau ông lại được điều về kinh làm Biện lý bộ Hộ. Một thời
gian sau, ông xin từ chức Biện lý bộ Hộ xin vua Tự Đức cho lập ty Bình
chuẩn. Đặng Huy Trứ được bổ nhiệm giữ chức Bình chuẩn sứ ty. Đặng Huy
Trứ đã mở rộng phạm vi hoạt động của ty Bình chuẩn không chỉ có quản lý
việc buôn bán, mà còn làm cả nhiệm vụ khai mỏ, mở mang thủ công
nghiệp, thương nghiệp, phát triển giao thông vận tải. Khoảng đầu năm
1867, Tự Đức lại phái Đặng Huy Trứ sang Trung Quốc, Áo Môn với nhiệm
vụ chính là mua súng đại bác, súng bắn nhanh của Anh, Pháp, Bỉ, Bồ Đào
Nha bán vào Trung Quốc.
Đặng Huy Trứ vừa đến Quảng Châu thì do không hợp thủy thổ, cuộc
hành trình vất vả ông bị bệnh nặng phải vào nằm nhà thương trong hoàn
cảnh không tiền tiêu, không thân thích bạn bè. Song ông đã dẹp tất cả sự
đau khổ vì bệnh tật, vì túng quẫn không bạn bè để tâm sự và nỗi buồn vì
triều đình bãi bỏ ty Bình chuẩn, mà ông phải mất bao công sức gây dựng
nên, để viết phương lược cứu nước thoát khỏi bọn xâm lược của thực dân
Pháp và xây dựng một quốc gia dân giầu, nước mạnh. Ông đã phải sống
trong nhà thương ở nơi đất khách quê người kéo dài tới 9 tháng. Song thời
gian đối với ông cũng không uổng, ông đã tổng kết kinh nghiệm canh tân
của nhà Thanh, Cao Ly, Ba Tư, Nhật Bản và đề ra quyết sách tự cường cho
nước Việt Nam. Đặng Huy Trứ tổng kết kinh nghiệm canh tân của các
nước, song ông thấy bệnh tình không thuyên giảm, số mình chết sớm, ông
đã viết nhanh cuốn Từ thụ quy với 4 tập, dầy 900 trang để bàn về vấn đề
chống tham nhũng.
Nằm nhà thương, bệnh tình vừa đỡ, ông đã bắt tay vào nhiệm vụ
chính của triều đình giao phó là mua súng. Bằng mối quen biết, tài ngoại
giao, ông đã mua và đưa về nước 239 khẩu pháo sơn quả. Đây là thứ vũ khí
tối cần thiết cho việc phòng thủ đất nước.
Sau chuyến đi sứ này, Đặng Huy Trứ làm sớ đề nghị vua Tự Đức có
những cải cách tình hình như mở mang công nghệ, lập cục cơ khí, xưởng
đúc gang thép, chế tạo máy móc, thiết bị như phương Tây. Để có thợ cơ khí
giỏi, nhà nước mở trường dạy nghề, mời chuyên gia nước ngoài sang dạy
nghề, cử thanh niên sang các nước có công nghệ tiên tiến học nghề. Ông
cũng đề nghị nhiều biện pháp cải tiến về ngoại thương.
Đặng Huy Trứ trở ra Bắc mở hiệu ảnh, nhà in, cho xuất bản binh thư
và minh thư cùng Đại Nam quốc sử diễn ca. Đây là hiệu ảnh, nhà in, nhà
xuất bản đầu tiên do người Việt sáng lập, làm chủ. Đặng Huy Trứ cũng
không ngừng phát triển phố Thanh Hòa là thương điếm lừng lẫy nhất của
ông. Khi ty Bình chuẩn bị giải tán, ông đi Trung Quốc thì các cộng sự của
ông vẫn mở mang phát triển.
Những hoạt động của Đặng Huy Trứ trở nên bí ẩn trong con mắt thủ
cựu của Tự Đức và triều đình Huế, Tự Đức nghi ngại ông "tìm một cách gì
đó ngoài phạm vi của triều đình”.
Để triệu ông về khống chế, năm 1871, triều đình bổ nhiệm ông làm
Bang biện quân vụ Lạng - Bằng - Ninh - Thái. Ông giao thương điếm cho
các cộng sự, chuyển hiệu ảnh từ thành Hà Nội về phố Gia Lâm.
Ông đã cùng với Hoàng Kế Viêm, Hoàng Diệu khi đó với chức trách
Khâm phái quân vụ và các tướng dẹp yên thổ phỉ, xây dựng căn cứ địa, lo
công tác phòng thủ, tích trữ lương thực ở bốn tỉnh trên làm căn cứ kháng
chiến vững chắc, lâu dài.
Ngày 20/11/1873, Francis Garnier đánh chiếm thành phố Hà Nội và
các phố buôn bán, các phủ huyện, khu phố Thanh Hà, Thương điếm của
ông bị bọn tay chân của quân Pháp cướp hết của cải, tàn phá tan hoang.
Quân Pháp đánh lấn ra các tỉnh Bắc kỳ, Đặng Huy Trứ theo Hoàng
Kế Viêm rút quân về căn cứ Đồn Vàng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Hưng Hóa
nay là thị trấn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
Ngày 3 tháng giêng năm 1874 , phái đoàn Hiệp thương Việt - Pháp do
Nguyễn Văn Tường và Phi Lát tới Hà Nội. Hai bên ký Quy ước ngày 5
tháng giêng và ngày 6 tháng 2/1874 nội dung: Pháp trao trả Ninh Bình, Hà
Nội, Nam Định cho triều đình Huế. Cho giải thể 12.000 người, phần lớn là
dân theo đạo Thiên chúa theo chân Francis Garnies đi phá rối ở các nơi.
Triều đình không được đưa thêm quân đến các tỉnh Pháp vừa trao trả. Phải
để cho quân Pháp được ở lại Bắc Kỳ tự do đi lại trên đường sông, đường
bộ. Triều đình phải ra ngay bản tuyên bố ân xá tất cả những người vừa qua
đã cộng tác với Pháp.
Ngày 25 tháng 6 năm Giáp Tuất (7/7/1874) Đặng Huy Trứ lâm bệnh
nặng, ông qua đời ở chợ Bến, Đồn Vàng năm 49 tuổi. Mộ ông táng ở Hòn
Thông, Hiền Sí, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ông mất trong khi
hoài bão chấn hưng kinh tế, phát triển công nghiệp và kháng chiến chống
thực dân Pháp chưa được thực hiện. Sách Đại Nam nhất thống chí có lời
bình: “Đặng Huy Trứ khảng khái, có chí lớn, đương trù tính nhiều việc
chưa làm xong đã mất, ai cũng tiếc”.
Sau này Phan Bội Châu coi ông như: "Trồng mầm khai hóa đầu tiên ở
Việt Nam”.
Đặng Huy Trứ viết rất nhiều sách. Riêng về thơ có Hoàng Trung thi
sao; Văn có Tứ thư văn tuyển; Nhị vị toàn tập; Việt sử thánh huấn diễn nôm
(sử, văn) Nhớ hoàng di cư tập, Bách duyệt tập, sách học vấn tâm (giáo
dục)...
TRẦN TẤN
Trần Tấn quê ở Chi Nê nay là xã Thanh Chi, huyện Thanh Chương, là
một sĩ phu kiên quyết kháng chiến rất bất bình với triều đình Huế cắt đất
giảng hòa và bọn gián điệp Pháp đội lốt giáo sĩ mê hoặc dân đạo chống Tổ
quốc, chống nhân dân. Vì vậy năm 1865, ông đã cùng học trò của mình là
Đặng Như Mai, phó tổng Phan Điểm, Hoàng Đức Đề, Nguyễn Mỹ Nghi,
Nguyễn Văn Vinh đã kịch liệt phản đối bọn gián điệp đội lốt cha cố, huy
động người đốt phá nhà thờ, diệt trừ Việt gian (phần lớn là dân theo đạo).
Linh mục Chu lợi dụng các điều khoản của Hiệp ước Nhâm Tuất tố
cáo với bộ Lễ. Tự Đức sợ uy thế giặc đã ra lệnh thu bằng biện đánh Trần
Tấn 80 trượng, còn 7 người nữa đều bị đánh và phạt giam.
Tháng 8 năm 1868, Linh mục người Pháp tên Việt là Ngô Gia Hậu
buộc Triều đình Huế phải xử lại. Tự Đức sợ Pháp quyết định xử chém
nhưng đợi xét thêm, riêng Trần Tấn có mẹ ốm nên được tha.
Ngày 20/11/1873, Francis Garnier đánh chiếm Hà Nội và các tỉnh ở
Bắc Kỳ, Trần Tấn cùng Đặng Như Mai đòi Tổng đốc Nghệ-Tĩnh là Tôn
Thất Triệt phải họp văn thân trong tỉnh bàn chuyện đánh Tây. Hội nghị đã
cử Trần Tấn, Đặng Như Mai đứng đầu tổ chức kháng chiến. Song ngày
15/3/1874, triều đình lại ký với Pháp “Hiệp ước hòa bình và liên minh”
nhượng bộ Pháp nhiều quyền lợi.
Trần Tấn, Đặng Như Mai cùng các đồng chí đã lãnh đạo cuộc khởi
nghĩa, mọi người tôn Trần Tấn là chủ soái. Trần Tấn từ Huế về, đến xã
Xuân Liễu, huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An, ông lại liên kết với học trò cùng
chung chí hướng là Đặng Như Mai (còn gọi là Tú Mai), Đội Lưu, Lãnh Sỹ
(tức Trần Hưng) cùng với Trần Quang Cán, Nguyễn Huy Điển (Tú Khanh)
ở Hà Tĩnh, Trương Quang Thủ ở Quảng Bình đã đứng lên lãnh đạo cuộc
khởi nghĩa. Mọi người suy tôn Trần Tấn làm chủ soái. Trần Tấn còn sáng
tác bài thơ kêu gọi quần chúng khởi nghĩa:
Trời cao thẳm, đất lâu dài,
Trăm năm nghĩ lại cuộc này mà đau
Tây dương phiến loạn vì đâu
Cho dân trăm họ âu sầu đòi phen
Đất Nam từ thuở Đinh Tiên
Trải Lê, Lý, Trần dõi truyền tới nay
Trăm năm nhân trạch sâu dày
Bể trong suốt đã rộn nơi ba đào
Thuyền Tây ngang nhẹ mái chèo,
Xa xa cửa Nẵng chiều chiều ngàn sông
Quấy tranh lục tỉnh miền trong
Nam, Hà, Ninh, Hải thành vàng súng tan
Sắt này dạ, đá này gan
Thương người trung nghĩa thác oan thế này
Thương ôi mấy vạn quan Triều
Sông trôi giọt máu, non rều đống xương
Ngán thay những kẻ lo lường
Lo lòng hộ tả yên lương cực mình.
Cân đai áo mão triều đình
Hòa Tây tin để bực mình lắm thay
Vì thẳng tả giận thằng Tây,
Tuốt gươm chém sạch, trận này mới nghe
Nghĩa binh nghĩa sĩ ta hè,
Đồng chung áo giáp tứ bề ruổi rong.
Đâu đâu ai cũng một lòng
Cờ bay là nghĩa, súng đùng là nhân
Một miền nhượng địch yên dân
Càn khôn dãi tỏ, quỷ, thần chứng tri,
Tuồng chi những đứa ngu si
Lo lòng nặng túi tưởng chi đạo người
Sao mà nghĩ chẳng tới nơi
Giở giăn rồi lại cân đai được nào.
Cuộc cờ tính nước thấp cao
Xuất xe nổi pháo ào ào tiên lên.
Làm trai có chí thì nên
Khắp trong non biển rõ tên anh hùng.
(Thơ văn nửa sau thế kỷ XIX).
Nghĩa quân lôi kéo được nhiều sĩ phu, quan lại tham gia. Nghĩa quân
đóng đại bản doanh ở xóm Liễu, cắm cờ trên đỉnh rú Anh (một trong năm
ngọn núi chạy qua xã Xuân Liễu) Trần Tấn đánh chiêng trống mộ quân, chỉ
trong 10 ngày đã được trên 15.000 người. Ông chia quân làm 5 đội, mỗi đội
làm 5 cơ. Ông đưa một bộ phận nghĩa quân sang đóng ở Thanh Thủy, huyện
Nam Đàn.
Cuộc khởi nghĩa nổ ra vào tháng 2 năm 1874, lên tới đỉnh cao vào
giữa tháng 5/1874. Khẩu lệnh "Bình Tây sát tả” được gương cao khẩu hiệu
đề ra nhanh chóng đánh đuổi giặc Pháp cùng với Thiên chúa giáo đồng lõa
với Pháp xâm lược Việt Nam, là kẻ nội gián, tiếp tay cho giặc Pháp xâm
lược nước ta. Khẩu hiệu thứ hai cũng được gương cao là: "Đánh cả triều
lẫn Tây”.
Ngày 31/5/1874, quân khởi nghĩa chiêm đóng lị sở Hà Tĩnh. Vài ngày
sau nhiều huyện ở Nghệ An lọt vào tay nghĩa quân. Cuối tháng 5 nghĩa
quân chiêm thành Nghệ An. Một bộ phận quân khởi nghĩa do một thủ lĩnh
vượt đèo Ngang chiếm huyện Bố Chính, một bộ phận nghĩa quân khác trên
đường tiến ra Thanh Hóa. Đồng thời một bộ phận khác đốt phá các làng
Công giáo, trấn áp giáo dân.
Đến cuối tháng 8/1874 quân triều, quân đạo cơ bản dập tắt được cuộc
khởi nghĩa của Trần Tấn, Đặng Như Mai. Chúng đàn áp nghĩa quân một
cách man rợ, 2000 nghĩa quân bị chém đầu. Những người còn lại bị đánh
đập dã man bị chặt 2 ngón tay cái và bị cắt một ngón chân.
Đặng Như Mai và Trần Huy Điểu chiếm Phủ Quỳ lập căn cứ mới tiếp
tục đánh Pháp, sau các ông bị nội phản bắt giao cho quân triều đình, bị xử
tử ngay. Đội Lưu dàn quân ra đánh ác liệt, bị hy sinh.
Cuộc khởi nghĩa do Trần Tấn, Đặng Như Mai lãnh đạo phản đối triều
đình ký Hòa ước công nhận chủ quyền của Pháp ở Nam Kỳ, nhượng bộ
Pháp nhiều quyền lợi lớn của quốc gia, bãi bỏ lệnh cấm đạo, chỉ duy trì
được 8 tháng, nhưng là tấm gương sáng chói hy sinh vì nước của tầng lớp sĩ
phu và nhân dân Nghệ Tĩnh.
ĐẶNG NHƯ MAI
Năm 1865, linh mục Pháp lấy tên Việt là Chu đến truyền đạo ở hai
thôn Bàn Thạch và Mạc Vĩnh thuộc các huyện Thanh Chương và Quỳnh
Lưu (Nghệ An), Đặng Như Mai người Nghệ An đã cùng thày học là tú tài
Trần Tấn cùng phó tổng Phan Điểm, Hoàng Đức Đề, Nguyễn Mỹ Nghị,
Nguyễn Văn Vinh đã nêu khẩu hiệu "Bình Tây sát tả" đốt phá các làng theo
đạo Thiên Chúa và tiêu diệt đám giáo dân quá khích.
Sau ký hòa ước với Pháp, triều đình bỏ lệnh cấm đạo. Linh mục Chu
tố việc Trần Tấn, Đặng Như Mai làm năm 1865. Để lấy lòng bọn Pháp,
triều đình Pháp đánh trượng, thu văn bằng, chức tước của những người
tham gia.
Đến tháng 5/1868, Linh mục Chu chưa thỏa mãn với án xử của triều
đình, tiếp tục khiếu nại lên bộ Lễ. Triều đình sợ mất lòng Pháp xử tử những
người chỉ huy vụ "Bình Tây sát tả". Trần Tấn, Đặng Như Mai làm thơ phản
đối thực dân Pháp và triều đình theo giặc.
Tháng 5/1872, triều đình chuẩn bị ký Hòa ước mới với Pháp cho
Ngụy Khắc Đản ra Nghệ An dàn xếp vụ này. Tháng 2/1874 Trần Tấn, Đặng
Như Mai phát động nhân dân “Quyết đánh cả triều lẫn Tây”.
Cuộc khởi nghĩa nổ ra 2 tháng sau khi triều đình ký Hiệp ước Giáp
Tuất, nên còn mang tên là khởi nghĩa Giáp Tuất. Cuộc khởi nghĩa nổ ra từ
tháng 2 đến tháng 5 thì lên đến đỉnh cao. Khẩu hiệu nêu ra là "Bình Tây sát
tả" (tức là diệt Tây và đạo Thiên chúa). Sở dĩ có khẩu hiệu này vì một số
dân theo đạo Thiên chúa quá khích, được Pháp tập hợp thành lực lượng vũ
trang, trang bị vũ khí dẫn đường cho quân Pháp đánh phá làng xóm, phá
đình chùa, tàn sát dân bên lương.
Lực lượng tham gia khởi nghĩa đông và mạnh. Ngày 31/5/1874, quân
khởi nghĩa chiếm đóng lị sở Hà Tĩnh. Vài ngày sau nhiều huyện ở Nghệ An
lọt vào tay nghĩa quân. Cuối tháng 6, nghĩa quân chiếm thành Nghệ An.
Đầu tháng 7/1874, khởi nghĩa từ Nghệ An lan ra các tỉnh khác. Nghĩa
quân vượt đèo Ngang vào chiếm châu Bố Chính (Quảng Bình), một bộ
phận nghĩa quân tiến ra Thanh Hoá.
Cùng lúc đánh chiếm lỵ sở Hà Tĩnh, Nghệ An một số nghĩa quân còn
đốt phá các làng công giáo, đàn áp giáo dân. Được sự đồng ý và khuyến
khích của giám mục Garthier (tên Việt là Ngô Gia Hậu) nhiều làng công
giáo đã tự vũ trang, thành lập những đội quân tự vệ, chống lại nghĩa quân
rồi kéo về thành Nghệ An hỗ trợ cho quan quân đang bị nghẽn ở đó.
Cuộc khởi nghĩa nổ ra thì triều đình Huế sai Khâm sai Nguyễn Văn
Tường, Tổng thống quân vụ Lê Bá Thận hội quân với quân Pháp vây đánh.
Trần Tấn, Đặng Như Mai liền rút quân lên rừng, liên minh với các lực
lượng nghĩa quân Trần Quang Cán, Nguyễn Vĩnh Khanh, Trương Quang
Thư, Nguyễn Huy Điểm (Tá Khanh) chỉ huy đánh Pháp.
Quân triều đình, quân Pháp đem toàn lực tấn công, Trần Tấn, Đặng
Như Mai lui về huyện Cam Môn, Trần Tấn bị bệnh ốm chết. Con là Trần
Hướng tiếp tục sự nghiệp của cha thì bị bọn tổng lý ở xã Hữu Bình, bắt nộp
cho Pháp. Trần Quang Cán hy sinh trong chiến đấu. Đặng Như Mai đem
quân chiếm Phủ Quỳ châu xây dựng căn cứ, bị nội phản bắt giao cho quân
Pháp. Chúng xử tử ông ngay. Cuộc khởi nghĩa tan rã.
ĐOÀN HỮU TRƯNG
Đoàn Hữu Trưng sinh khoảng năm 1844 , quê ở làng An Truyền,
huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
Ông là con nhà thường dân, nhưng hay chữ, chưa đi thi mà trong
vùng đã cầm chắc là đỗ đại khoa. Chính vì vậy mà Tùng Thiện vương Miên
Thẩm, hoàng thân và là nhà thơ nổi tiếng ở kinh thanh Huế gọi gả con gái là
Thể Cúc cho và cho ở rể. Đó là vào năm 1864, Trưng mới 20 tuổi. Sau ở
trong phủ gò bó, nên Trưng xin ra ngoài ở.
Đoàn Hữu Trưng là tác giả của nhiều thơ ca. Ông đã cùng một số sĩ
phu thành lập “Đông Sơn thi tửu hội” ở kinh thành. Bề ngoài là uống rượu,
làm thơ, nhưng bên trong là bàn quốc sự.
Sau điều ước 1862, triều đình nhà Nguyễn ngày càng mục nát, từ vua
và phần lớn các đại thần đều sợ giặc, đầu hàng giặc. Ông đã thể hiện tâm tư,
tình cảm của mình trong bài thơ dài: "Trung nghĩa ca". Ông tố cáo vua Tự
Đức và quan lại cắt đất đầu hàng.
“Một dây bó chặt chữ hòa,
Của tiền trả mãi , tỉnh ba cắt đành...
...Tiếc thay nghiệp cũ gian nan
Ba thành bằng mất, ai hoàn lại cho
Đua chen Hoa lộn với Hồ
Mùi tanh nhuộm khắp một bầu giang sơn”
Trong khi đó thì giặc Pháp liên tục lấn tới, bắt ép triều đình phải thỏa
mãn lòng tham không đáy của chúng.Vua Tự Đức xây “Vạn niên cơ”
Khiêm Lăng khởi công từ tháng 10/1864. Cũng vào thời gian đó đất nước bị
thiên tai nghiêm trọng. Giặc dã cũng hoành hành dữ dội, chưa kể quân Pháp
đã đánh chiếm xong, ổn định tình hình ba tỉnh phía Đông, đang đánh phá dữ
dội ba tỉnh phía Tây. Ở Bắc Kỳ thì Tạ Văn Phụng, tay sai của Francis
Garnies đánh phá Quảng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh. Ở Quảng Ngãi thì
"Mọi Đá vách” nổi loạn.
Vì vậy Đoàn Hữu Trưng cùng với em trai là Đoàn Tử Trực và một số
người trong hoàng tộc có tư tưởng chống Pháp ở phe chủ chiến như Tôn
Thất Cúc, Hồng Tập và Trương Trọng Hòa, Nguyễn Văn Quý quyết định
khởi nghĩa vào ngày 19/6/1866, tức ngày 8 tháng 8 năm Bính Dần, Tự Đức
thứ 19.
Mục tiêu của cuộc khởi nghĩa là lật đổ Tự Đức đưa Đinh Đạo là con
trai An phong công Hồng Bảo, Hồng Bảo là con trưởng Thiệu Trị, nhưng
Trương Đăng Quế đã âm mưu lập Tự Đức làm vua. Vì vậy Hồng Bảo đã có
âm mưu lật Tự Đức từ năm 1854. Việc không thành, Tự Đức ép Hồng Bảo
uống thuốc độc chết, các con như Đạo, Bảo phải đổi sang họ mẹ là họ Đinh.
Đoàn Hữu Trưng không chủ trương phế truất vua Tự Đức, mà đưa lên làm
Thái thượng hoàng.
Nhưng do vũ khí không được chuẩn bị, lực lượng chủ yếu là 3.000
binh lính làm việc tại công trường xây Khiêm Lăng chỉ có một ít giáo mác
còn phần lớn là chày giã vôi nên không chống lại được với quân đội thiện
chiến, được trang bị vũ khí tốt. Đoàn Hữu Trưng cũng không tính đến việc
không thành thì rút đi đâu, nên khi thất bại đã bị bắt một cách nhanh chóng.
Cuộc khởi nghĩa thất bại, Đoàn Hữu Trưng và Đoàn Tử Trực bị tội
lăng trì (tùng xẻo). Cả gia đình Đinh Đạo gồm tám người bị thắt cổ chết.
Tùng Thiện vương Miên Thẩm cũng bị bắt giữ, nhưng sau không có chứng
cứ nên được tha. Tiểu thư Thể Cúc sau khi chồng bị hại, bị đổi sang họ mẹ,
rồi vào tu ở nhà chung.
PHAN TÒNG
Phan Tòng còn gọi là Phan Ngọc Tòng sinh năm 1818, quê ở làng An
Bình Đông, tổng Bảo An, quận Ba Tri sau đó là xã An Đức, nay thuộc thị
trấn Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Năm 1867, quân Pháp chiếm Bến Tre, phong trào
chống giặc nổi lên khắp trong tỉnh. Vốn là thày đồ ở làng, Phan Tòng đứng
lên tập hợp dân chúng dựng cờ khởi nghĩa. Sau ông gia nhập cuộc khởi
nghĩa của Phan Tôn - Phan Liêm (1). Ông chiến đấu dũng cảm lập được
nhiều công lao được phong làm Đốc binh. Tối ngày 9 tháng 11 năm 1867,
tên De Chapeaux chỉ huy khoảng 40 lính bao vây làng Hương Điểm, nơi
nghĩa quân hoạt động. Chúng đóng quân trong chùa, đợi đến sáng thì đàn
áp. Ngay đêm hôm đó, nhân trời mưa to gió lớn, hơn 100 nghĩa quân tấn
công dữ dội vào chùa, đâm bị thương tên De Champeaux. Bọn giặc hoảng
sợ rút chạy ngay trong đêm, để lại một số xác chết.
Để trả thù, ngày 12/11, chúng bao vây làng Hương Điểm. Nghĩa quân
do Đốc binh Phan Tòng chỉ huy đem quân chặn đánh dọc các kênh rạch,
tiêu hao một số tên, mãi 2 giờ chiều chúng mới tới Hương Điểm. Sáng
13/11, quân Pháp bao vây, lùng sục, cuộc chiến đấu diễn ra hết sức quyết
liệt, quân Pháp đi đến xóm ngõ nào cũng bị đánh. Nghĩa quân chiến đấu
dũng cảm, Trương Tấn Chí, cháu của Trương Tấn Bửu cầm cờ xông lên
trước bị trúng đạn hy sinh. Giặc phải rút ra khỏi làng co cụm lại ở chợ,
không dám tấn công vào làng. Ngày 14/11, giặc Pháp sai Tôn Thọ Tường
đến dụ hàng không được, sáng 15/11, giặc Pháp lại tung quân đi đàn áp,
chúng tìm được một số lượng lớn vũ khí nghĩa quân giấu ở chợ Hương
Điểm. Palin Vial cho tầu chiến chạy dọc bờ sông Hàm Luông để truy kích
nghĩa quân. Đến 4 giờ chiều, quân Pháp đổ bộ vào ấp An Thới làng An Lái.
Chúng sợ không dám vào làng, mà đóng ở cái cồn gọi là Giồng Gạch còn
gọi là Gò Trụi. Nắm vững thời cơ quân Pháp đóng ở ngoài trời, không có
công sự, 2 giờ sáng ngày 15/11, nghĩa quân bao vây rồi tiến đánh cực kỳ ác
liệt. Nghe súng nổ, nghĩa quân ở các nơi kéo đến tiếp ứng càng đông. Trận
đánh giáp lá cà, đẫm máu diễn ra dữ dội. Đốc binh Phan Tòng dũng cảm chỉ
huy trận đánh. Đến nay giai thoại ở vùng Ba Tri còn kể trên đầu ông đội
khăn tang mẹ, chỉ huy nghĩa quân xông thẳng vào quân giặc mà đâm chém.
Nghĩa quân vừa đánh vừa hét "hè" để uy hiếp giặc, vì thế dân gọi là "giặc
hè". Trận này quân Pháp bị thiệt hại nặng nề, nhưng nghĩa quân cũng bị tổn
thất.
Mặc dù bị thua đau, ngày 16/11/1867, quân Pháp vẫn tấn công dữ dội
vào Ba Tri, Bảo Thạnh. Nghĩa quân đốt chợ Bảo Thạnh, rút về Mù U. Giặc
tập trung quân thủy, quân bộ tấn công ác liệt Mù U. Nghĩa quân không
chống cự nổi chạy tan tác.
Sau các trận đánh dữ dội của giặc Pháp trên, nghĩa quân bị thất bại
nặng nề, Phan Liêm, Phan Tôn bỏ ra Huế, ông vẫn ở lại xây dựng lực lượng
nghĩa quân tiếp tục chiến đấu. Ông dấy binh ở Ba Tri năm 1869, đánh thắng
quân Pháp nhiều trận oanh liệt.
Cuối năm 1870, quân Pháp hành quân tấn công Ba Tri. Đêm đến
chúng đóng quân trên một cái gò cát gọi là Giồng Gạch (còn gọi là Gò
Trại). Phan Tòng chủ động chỉ huy nghĩa quân tấn công vào cứ điểm của
giặc, với khẩu lệnh khi xung phong thì hô “Hè” để uy hiếp tinh thần giặc.
Vì vậy nhân dân còn gọi trận đánh này là "trận giặc Hè”. Trong trận đánh
giáp lá cà này, Phan Tòng đã hy sinh cùng một số nghĩa quân.
Nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu xúc động làm 10 bài thơ
viếng:
VIẾNG PHAN TÒNG
(Trích)
Thương ôi, người ngọc ở Bình Đông
Lớn nhỏ trong làng thảy mấn trông
Biết đạo, khác bầy con mắt tục
Dạy dân nắm giữ tấm lòng công
Đặng danh vừa rạng bề nhà cửa
Vì nghĩa riêng đền nợ núi sông
Một trận trải gan trời đất thấy
Lo xưa nào thẹn tiếng anh hùng.
IV
Ba Tri vừa vắng tiếng hơi chàng,
Gió thảm mưa sầu khá xiết than
Vườn luống trông xuân hoa ủ dột
Ruộng riêng buồn chủ lúa khô khan
Bầy ma bất chính duầng làm nghiệt,
Lũ chó vô cô cũng mắc nàn
Người ấy vì ai ra cớ ấy
Chạnh lòng trăm họ khóc quan Phan
(Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX).
Về sau hàng năm cứ vào ngày ông hy sinh, dân làng An Bình Đông
vẫn tổ chức ngày giỗ hội và lễ cầu hồn để tưởng nhớ tới Phan Tòng và các
nghĩa sĩ đã hy sinh.
(1) Phan Tôn, Phan Liêm, con Phan Thanh Giản khởi nghĩa năm 1867-
1868, sau trận thất bại ở Hương Điềm (15/1 l/1868) Phan Tôn, Phan Liêm
bỏ ra Huế. Sau đó theo Nguyễn Tri Phương ra thành Hà Nội. Năm 1873, Hà
Nội thất thủ. Pháp bắt Phan Tôn, Phan Liêm đưa sang Pháp. Sau Phan Liêm
làm khâm sai đại thần đàn áp khởi nghĩa Nguyễn Duy Hiệu ở Quảng Nam,
Phan Tôn làm thượng thư triều Đồng Khánh.
TÀI LIỆU BIÊN SOẠN CHÍNH
Sách lịch sử:
- Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1894
- Việt sử cương mục tiết yếu
- Đại Nam thực lục chính biên, tập 34, 35, NXB Khoa học xã hội, 1974.
- Công văn tấu tập, ký hiệu A545, Thư viện Khoa học xã hội.
- Hà Nội thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trần Quốc
Vượng chủ biên, NXB Quân đội Nhân dân.
- Hội đồng lịch sử Hà Bắc: Lịch sử Hà Bắc tập I.
- Ban nghiên cứu lịch sử Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh, Những mẩu chuyện và
thời niên thiếu của Bác Hồ, NXB Sự thật, 1985.
- Lịch sử 80 năm chống Pháp.
- Hà Nam nhân vật lịch sử và văn hóa
- Trần Văn Giầu: Chống xâm lăng quyển I, II, NXB Xây dựng, Hà Nội
1956
- Tôn Quang Phiệt: Phan Bội Châu và một giai đoạn lịch sử chống Pháp
của nhân dân Việt Nam, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1958.
- Dương Kinh Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử, tập I, NXB Khoa
học xã hội.
- Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu Phước: Khởi nghĩa Trương Định, NXB
Thành phố Hồ Chí Minh, 1989.
- Phan Trần Chúc - Lê Quế: Nguyễn Tri Phương, NXB Quốc Văn, Hà
Nội, 1946.
- Ban liên lạc Cựu chiến binh Việt Nam ở Cămpuchia thời kỳ 1945-
1954: Quân tình nguyện Việt Nam ở Cămpuchia thời kỳ 1945-1954.
- Phan Khoang: Việt Nam Pháp thuộc sử, Sài Gòn 1974.
- Đào Đăng Vỹ: Nguyễn Tri Phương, Bộ Văn hóa - Giáo dục và thanh
niên, Sài Gòn, 1974.
- Phạm Văn Sơn: Quân dân Việt Nam chống Tây xâm, Sài Gòn, 1963.
- Nguyễn Văn Hầu: Cuộc khởi nghĩa Bẩy Thưa, Tân Sinh, Sài Gòn,
1956.
Sách Văn học:
- Phan Bội Châu toàn tập, nxb Thuận Hóa
- Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, NXB Văn học, Hà Nội, 1970.
- Thơ văn yêu nước Nam Bộ.
- Dương Quảng Hàm: Văn học sử yếu, nha Học chính Đông Pháp, Hà
Nội, 1943.
- Đại Nam chính biên liệt truyện, Quốc sử quán triều Nguyễn
- Phan Bội Châu niên biểu
- Truyện Trương Định
- Ông Nghè, ông Cống triều Nguyễn
- Sơn Nam: Bến Nghé xưa, NXB Trẻ 1997.
- Trần Văn Giáp: Lược truyện các tác gia Việt Nam. Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1971.
- Phạm Phú Thứ với tư tưởng Canh tân, NXB Đà Nẵng, 1995.
- Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập II, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1969.
- Nhóm Trà Lĩnh: Đặng Huy Trứ: Con người và tác phẩm, NXB Thành
phố Hồ Chí Minh, 1990.
- Kỳ Xuyên Văn Sao, bản dịch của Lê Thước.
- Văn học yêu nước cách mạng Hà Nam Ninh.
- Phạm Thận Duật toàn tập, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000.
- Danh nhân Thái Bình.
- Các nhà khoa bảng Việt Nam.
- Vè Thái Bình.
- Vũ Ngọc Khánh: Giai thoại ông đồ, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2002.
Địa chí:
- Địa chí Bến Tre
Sách tiếng Pháp:
- André Massen: "Hà Nội, giai đoạn 1873 - 1888".
- Dulleman: Cuộc chiến tranh chống cướp bóc
- Histoire militaire de l'Indochine Francais
- Parlin Histoire de la Cochindume
- Toboulel: Le geste francais en Indochine
- P.Vial: Les premièrè années de la Cochine (Những năm đầu ở Nam
Kỳ).
- Annales de la, prapagagation de la Foi
- L'Amiral Dpéet la conquête du Ton Kin Dideb.
- Histoire militaire de l'Indochinoir
- Những người Pháp ở Bắc Kỳ và việc can thiệp của người Pháp.
- Xứ Bắc Kỳ và sự can thiệp của Pháp (bản dịch thư viện KHXH).
Sách tiếng Nga:
- K.Xtannhin Kêvich: Vòng quanh thế giới trên lầu Coóc xin: Tuyển tập
tác phẩm, 1977.
Sách tiếng Trung Quốc:
- Dương sự thủy mạt: Bản dịch của trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
- Chiến tranh Trung - Pháp, quyển 7.
Báo cáo:
- Báo cáo của công sứ Thái Bình Ô e (Auer), hồ sơ số 71, 844, F6, 686,
Cục lưu trữ Trung ương.
- Simôni: Báo cáo gửi Toàn quyền Đông Dương.
- Thư tín chính trị (Contes pondances pliliquen) (Thư của De Vile gửi
cho Henririvière).
Tạp chí:
- Tạp chí Nghiên cứu lịch sử các số 3/1977; Số 2/1990, số 4/1994, số
6/2000.
- Tạp chí Xưa và nay số 223 tháng 1/2004; số 223/2005.
- Tạp chí Toàn cảnh số 5/1999.
Gia phả:
- Gia phả họ Lê Xuân ở Rạch Giá.
284 ANH HÙNG HÀO KIỆT CỦA VIỆT NAM - TẬP
2

Tác giả : Vũ Thanh Sơn


Nxb Công an Nhân dân 01/2009
Số trang : 180. Kích thước : 14.5 x 20.5cm
Thực hiện ebook : hoi_ls
(www.thuvien-ebook.com)
LỜI GIỚI THIỆU
NGUYỄN THÔNG
LÊ ĐÌNH DIÊN
LÊ CẨN
NGÔ VĂN DẠNG
ĐẶNG XUÂN BẢNG
VŨ CANH
PHẠM TÀI
NGUYỄN ĐẠI
PHÙNG XUẤT NGHĨA
HOÀNG KẾ VIÊM
NGUYỄN MẬU KIẾN
LÊ VĂN TỐN
PHẠM THẬN DUẬT
TẠ HIỆN
PHẠM HUY QUANG
NGUYỄN CAO
NGUYỄN LÂM
HOÀNG VĂN HÒE
BÙI VĂN DỊ
NGUYỄN QUANG
ĐỖ PHÁT
NGUYỄN HỮU CƯƠNG
NGUYỄN HỮU BẢN
HOÀNG VĂN TUẤN
NGUYỄN GIẢN
HOÀNG PHAN THÁI
LÊ VĂN MAI
NGUYỄN THÀNH THÀ
NGUYỄN XUÂN ÔN
LÊ VĂN ĐIẾM
TỔNG ĐỐC HOÀNG DIỆU
CAI TRÍ
NGUYỄN ĐỒNG
DƯƠNG HỮU QUANG
LÃNH CỒ
LÊ VĂN THỨ
HỒ BÁ ÔN
NGUYỄN DOÃN CỬ
NGUYỄN QUANG BÍCH
NGUYỄN VĂN GIÁP
ĐỐC NGỮ
TRẦN VÀNG
TÁN DẬT
VƯƠNG VĂN DOÃN
NGÔ QUANG ĐOAN
ĐỀ KIỀU
HOÀNG HOA THÁM
NGUYỄN KHÁN - NGUYỄN CÁN
CAI HẬU
HÒA THƯỢNG THÍCH THANH ĐIỀU
HÒA THƯỢNG THÍCH THANH QUYẾT
TÀI LIỆU BIÊN SOẠN CHÍNH
LỜI GIỚI THIỆU
Bộ sách “284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam” bao gồm 5 tập với
tổng cộng gồm 1000 trang của tác giả Vũ Thanh Sơn viết về chân dung các
nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà văn, nhà báo Vũ Thanh Sơn đã tập trung
khắc họa lại tương đối đầy đủ và toàn diện về chân dung của 284 Anh hùng
hào kiệt của Việt Nam từ cuối Thế kỷ XIX đến đầu Thế kỷ XX. Trong đó
nhiều nhân vật mà các cuốn sách đã xuất bản từ trước đến nay chưa hề
được đề cập đến. Bằng công trình của mình không những tác giả đã đóng
góp phần bổ sung cho những thiếu vắng của lịch sử nước nhà (đặc biệt là
về nhân vật và sự kiện) mà còn góp phần tuyên truyền, giáo dục những tấm
gương tiêu biểu cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc - đó là sự nghiệp đấu
tranh chống ngoại xâm giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc.
Chân dung các nhân vật lịch sử Việt Nam trong thời kỳ lịch sử cận
đại được tác giả Vũ Thanh Sơn tập trung khắc họa ở 3 nhóm chính tương
ứng với ba thời kỳ sôi động của lịch sử Việt Nam, đã có biết bao anh hùng,
nghĩa sĩ hô hào nhân dân vũ trang đánh đuổi giặc Pháp:
Đó là thời kỳ đầu tranh chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ
XIX (từ khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tại bán đảo Sơn Trà,
chính thức mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam 1/9/1858).
Là phong trào Cần Vương với nhiều cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của
văn thân chông Pháp (1885-1896) phát triển rộng khắp từ Nam ra Bắc.
Và còn là phong trào đấu tranh chống Pháp đầu thế kỷ XX với ý thức
của hệ tư tưởng mới với các phong trào chống thuế ở Quảng Nam, phong
trào Duy tân, Đông du dưới sự lãnh đạo của Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh...).
Trong cuộc kháng chiến không cân sức này có biết bao anh hùng, hào
kiệt đã ngã xuống, nhưng ý chí quật cường chống giặc Pháp, cùng những
lời tuyên bô đanh thép trước giây phút bị hành hình vẫn mãi sáng chói,
rạng ngời lên chủ nghĩa anh hùng của dân tộc Việt Nam. Đó là những câu
nói đến nay ta đọc lại vẫn rung động như Tổng đốc Nguyễn Tri Phương
tuyên bố: “Bây giờ nếu ta chỉ miễn cưỡng lay lắt mà sống, sao bằng thung
dung chết vì việc nghĩa”; Bình Tây đại nguyên soái Trương Định tuyên bố:
“Chúng ta thề sẽ đánh mãi và không ngừng, khi ta thiếu tất cả ta sẽ bẻ
nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm vũ khí cho binh lính ta”; hay Nguyễn
Trung Trực trước giờ giặc hành hình vẫn dõng dạc tuyên bố: “Bao giờ
người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”... và còn
rất nhiều, rất nhiều lời tuyên ngôn đanh thép khác.
Nhìn chung, các nhân vật lịch sử tác giả đề cập đến trong bộ sách
đều xứng đáng được tôn vinh. Họ có thể là những quan lại, hay những nhà
chí sĩ có tinh thần yêu nước. Mặc dù, mỗi người ở cương vị khác nhau, vị
thế xã hội và hoàn cảnh xuất thân không giống nhau nhưng tất cả những
con người ấy đều có chung mục đích cao cả nhất là không quản ngại hy
sinh gian khổ, kiên quyết đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược giành
độc lập cho đất nước.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bộ sách “284 Anh hùng hào kiệt
của Việt Nam” với quý vị độc giả.
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
NGUYỄN THÔNG
Nguyễn Thông sinh năm 1827, quê xã Tân Thạch, huyện Tân
Bình, Gia Định, nay là chợ Kỳ Sơn, huyện Long An. Ông đỗ cử nhân khoa
Kỷ Dậu, Tự Đức thứ 2 (1849) năm 23 tuổi, nhận chức Huấn đạo huyện
Phong Phú, tỉnh An Giang, sau thăng đến Bố chính. Ông có tinh thần yêu
nước mạnh mẽ. Năm 1856, ông được về Huế làm việc trong nội các tham
dự khảo duyệt lộ Cương mục và soạn sách nhân sự kim gián.
Năm 1859, giặc Pháp đánh chiếm thành Gia Định, ông 33 tuổi
đang làm việc ở Huế, đã tình nguyện tòng quân trở lại Nam Kỳ làm việc
dưới quyền Thống đốc Tôn Thất Hiệp. Ông đã cùng Trà Quý Bình lập
Đồng Châu xã chống Pháp.
Năm Tự Đức thứ 14 (1861), Kinh lược sứ Phan Thanh Giản tiến
cử người có văn học, ông được thăng lĩnh Đốc học tỉnh Vĩnh Long. Sau đó
được thăng thị giảng học sĩ lĩnh Án sát Khánh Hòa.
Cũng trong thời gian này Nguyễn Thông liên lạc được với các sĩ
phu, các thủ lĩnh khởi nghĩa, theo dõi, giúp đỡ cuộc kháng chiến của
Trương Định và các cuộc khởi nghĩa của Hồ Huân Nghiệp, Phan Văn Đạt.
Ông không trực tiếp cầm súng đánh Pháp mà sáng tác thơ văn ca ngợi cuộc
kháng chiến chống Pháp của nhân dân lục tỉnh Nam Kỳ.
Thơ văn Nguyễn Thông toát lên tinh thần yêu nước, hy sinh tính
mạng mình cho đất nước. Trong thơ cũng thể hiện rõ tình yêu làng xóm, cây
đa, giếng nước, yêu nhân dân, yêu đồng bào thắm thiết. Trong văn thơ của
ông cũng bộc lộ tâm trạng day dứt, đau xót trước cảnh đất nước bị họa xâm
lăng, lên án bọn xâm lược và bọn Việt gian bán nước, bọn đầu hàng giặc.
Khi viết về Trương Định, ông vô cùng trân trọng tường thuật lại
tài năng quân sự, đức độ của Trương Định. Trong đó có đoạn: "... Nhưng
các người ứng nghĩa không muốn giải binh, cố lưu ông Định ở lại. Họ nói
với nhau rằng: "Bọn Tây bị dân ta nhiều lần đánh lui, nay chúng được triều
đình giảng hòa, chắc chúng sẽ giết hại bọn ta. Vả lại bọn Tây lấy binh lực
ăn hiếp ta bắt hòa, nhưng chúng không thành thực, nay triều đình giảng
hòa với chúng, bọn ta không nơi nương tựa, sao bằng hợp lực đánh lại
chúng, giữ lấy một mảnh đất để cùng nhau bảo toàn sinh mạng". Mọi người
đều cho là phải, liền cử Trương Định giữ binh quyền. Lúc ấy có Phạm Tuất
Phát ở Tân Long đem thư các hào nghĩa đến cử Định làm chủ soái để ra
sức trừ giặc. Tức thì mọi người xây đàn tôn Trương Định làm chủ soái...".
và “…Định bị thương nặng, liệu không thoát khỏi, rút dao mang
sẵn trong mình, tự vẫn chết. Năm ấy ông 44 tuổi”.
Trong "Truyện Phan Văn Đạt”, Nguyễn Thông kể lại việc Phan
Văn Đạt, Đỗ Trình Thoại khởi binh đánh Pháp. Ông viết: “Người Tây bắt
được Văn Đạt, dọa tra tấn cực hình, nhưng Văn Đạt không hề run sợ, tên
chủ giặc lấy làm lạ hỏi tên thông ngôn. Tên thông ngôn trỏ Văn Đạt nói
rằng: "Người này là kiệt hiệt nhất trong đảng" . Vì thế Văn Đạt bị giết, năm
ấy ông mới 34 tuổi. “Ta Hồ Huân Nghiệp" có đoạn: “Đến lúc sắp phải
hành hình, Huân Nghiệp sửa mặt, sửa khăn áo ung dung đọc bốn câu thơ
rồi chịu chém. Ai nâý cũng rơi nước mắt. Ông mất mới 36 tuổi”.
Tại miệt Gò Công, ông hợp tác với Trương Định phát động một
phong trào chống Pháp rộng lớn. Năm 1862 , ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ bị
mất, ông giữ chức Đốc học Vĩnh Long, vẫn liên lạc với các sĩ phu yêu nước
và theo dõi, giúp đỡ cuộc kháng chiến của Trương Định. ông còn tích cực
hưởng ứng phong trào "tỵ địa". Khi quân Pháp chiếm cả ba tỉnh miền Tây,
ông cùng nhiều người yêu nước lỵ địa ra Bình Thuận. Ông xướng lập ra
"Đồng Châu thư xã" nơi hội tụ các nhà văn thân yêu nước bình luận văn
thơ. Đồng Châu thư xã còn in các tác phẩm văn thơ yêu nước. Tại đây đã in
cuốn "Việt sử cương giám khảo lược" của Quốc sử quán triều Nguyễn,
trong đó có sự đóng góp quan trọng của ông. Đồng Châu thư xã không chỉ
đơn thuần là nơi các nhà nho bình luận văn thơ, xuất bản sách, mà Nguyễn
Thông còn tổ chức lực lượng chống Pháp.
Nguyễn Thông tỵ nạn ở Bình Thuận nhưng vẫn da diết nhớ quê
hương. Tâm sự đó được biểu hiện trong thơ. Trong bài thơ "Tiễn vợ là Ngô
Vũ Khanh về Nam thăm quê", đã nói rõ cảnh biệt ly "Vầng trăng ai xẻ làm
đôi".
Nhị thiên sinh nguyệt nhất chu hoan
(Một vầng trăng sáng chia đôi, một chiếc thuyền lênh đênh trở
về).

Bài thơ kết bằng hai câu:


Tạc dạ thuận lo giang thương mộng,
Tiên tỳ hoàn bội đáo gia san.
Dịch nghĩa:
Đêm hôm qua nằm mơ tưởng cái thú canh rau cần chả cá vược
(những thú ở quê) ở trên sông quê hương
Và giấc mơ ấy đã theo vòng xuyến của vợ về quê nhà trước rồi
Nguyễn Thông nhớ quê hương không lúc nào nguôi. Có một
người nông dân biếu ông một đời chim đa đa để ăn thịt. Chợt ông nhớ
người xưa gọi chim đa đa là chim hoài Nam. Ông thả cho chim bay về Nam
và làm bài thơ:
Cành Nam nay thả mày về lại
Bạn cũ gà rừng mặc sức chơi
Bên suối uống ăn nên cẩn thận
Chút thân đừng để lọt tay ai.
Tại Bình Thuận, Nguyễn Thông làm nhiều bài thơ tiễn bạn ra
Bắc, vào Nam. Trong đó có bài thơ "Tiễn Nguyễn Thiện Quan vào Gia
Định". Thiện Quan xưa là bạn chiến đấu với ông. Nay được vua Tự Đức cử
vào Gia Định làm Lãnh sự để giao thiệp với Pháp. Bài thơ thấm đậm nỗi
buồn rầu, lo lắng:
…Không biết gọi nhau lần sau ở chỗ nào,
Vậy nên ngồi buồn rầu rầu tóc bạc đầu thành ông già cả
rồi.
Bây giờ triều đình đang có việc lo về miền Nam
Tôi bực không có thiên Trù hải tặng ông,
Ngoảnh đầu về miền Nam bâng khuâng nhìn mây lồng
càng rợp
Cuối năm 1867, Nguyễn Thông được điều về Khánh Hòa làm
Án sát. Ông đã dâng biểu cho Tự Đức cải cách chính sự, chú trọng chọn
người hiền tài làm quan, trừ bọn tham nhũng, tăng cường võ bị, cải tiến
thuế và thực hiện chính sách khoan hậu với nhân dân. Sau đó ông bị bệnh,
ông xin về nghỉ. Năm 1870 , ông về Huế làm Biện lý bộ Hình. Sau đó ông
được điều về Quảng Ngãi làm Bố Chính.
Trong ba năm làm Bố chánh, ông đã thực hiện chủ trương “Thực
lực binh cường”, đã hô hào, giúp đỡ nhân dân đắp đập, đào kênh, làm thủy
lợi, đắp đường giao thông. ông đã tập trung công sức trong một thời gian
dài khẩn hoang ở vùng La Ngư. Chính thời gian này ông đã dâng sớ cho Tự
Đức về “Biểu về việc doanh điền”. Khu khẩn hoang La Ngư đã kết hợp tài
tình giữa doanh điền với căn cứ kháng chiến. Vì vậy giặc Pháp buộc triều
đình Huế cản trở công việc của ông.
Nguyễn Thông cũng đã xây dựng Phan Thiết thành một khu vực
có sản xuất nông nghiệp có đánh cá, xây dựng thành khu thương mại, có lò
nấu nước mắm, và dự kiến mở mang trường học, khai hóa dân trí. Ý tưởng
của ông không thực hiện được vì chính sách "bế quan tỏa cảng" của triều
Tự Đức.
Bằng hành động của mình ông đã là nhà khuyến nông, nhà bảo
vệ sinh thái. Thể hiện rõ nhất là bài ký: “Đinh gia Yển ký”. Bài Ký này đầu
tiên được các ông Cao Tư Hanh, Đoàn Lê Giang nhắc đến trong tập "Tác
phẩm Nguyễn Thông”, do sở Văn hóa - Thông tin Quảng Ngãi ấn hành năm
1984, nhưng các tác giả chưa có toàn văn bài ký để công bố. Đến năm
1994, nhà giáo Nguyễn Đình Thảng được ông Trần Tê, cháu ngoại cụ
Nguyễn Duy Tư, người sáng tác "Bài phú Đập ông Cá" tặng cho một bản
chép tay nói là chép từ một tấm bia dựng năm 1910. Ông Nguyễn Đình
Thảng đã dịch nghĩa bài ký đó và đăng trên Tạp chí "Cấm Thành" số 1 năm
1984. Ông Nguyễn Đình Thảng viết: "Nghe đâu tấm bia này hiện vẫn còn ở
xã Bình Mỹ huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi)”. Sau đó Bài ký được ông Ca
Văn Thỉnh và ông Bảo Định Giang dịch, đưa vào tập "Nguyễn Thông con
người
và sự nghiệp”.
Bấy giờ hạt Quảng Ngãi đất rất xấu, dân nghèo. Nguyễn Thông
làm tại chức được hơn một năm, đào ngòi cứ, đắp đập, đắp bờ dẹp yên tệ lại
nhũng, trấn áp bọn cường hào, dân được dễ chịu. Nhưng công việc cũng
chưa xong, lại có án mạng, tội nặng đem xử nhẹ, bị phạt ly chức. Dân được
tin liền kêu xin cho ông. Năm Tự Đức 27 (1874) lại được khởi phục làm Tư
vụ lĩnh Lễ bộ chủ sự. Triều đình lại cử lĩnh Quốc tử giám tư nghiệp tham
gia khảo duyệt bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
Năm 1877 triều đình cử ông về Bình Thuận làm Dinh điền sứ, tổ
chức khai hoang ở Tây Nguyên. ông tổ chức khai hoang, thành lập các ấp
trại mới. Các nông trại đều được chính ông khảo sát và đều được bảo vệ
bằng "trong lũy, ngoài hào", trồng tre mây tạo thành hàng rào kiên cố. Ông
cho đắp đường giao thông, đào kênh mương từ trong trại, ấp ra cánh đồng,
từ cánh đồng trại ấp này sang trại ấp khác. Ông còn cho giữ lại những dải
rừng cây rậm rạp ở hai bên đường và mương dẫn nước. Thời bình thì phục
vụ sản xuất nông nghiệp, giao thông, nhưng thời chiến thì trở thành hào,
lũy, phục vụ chiến đấu. ông còn xây dựng lực lượng dân binh, trang bị vũ
khí, và huấn luyện quân sự thường xuyên.
Những việc làm của ông ở Tây Nguyên làm cho bọn cầm quyền
Pháp ở Sài Gòn lo ngại. Chúng vin cớ hòa ước đã ký không được xây dựng
căn cứ quân sự và gửi thư ra triều đình Huế phản đối. Tự Đức và triều thần
vốn sẵn có tư tưởng đầu hàng, nên đã run sợ trước lời buộc tội của thực dân
Pháp, lệnh cho ông đình chỉ những việc ông đang làm. Để ngăn cách ông
với dân cư ở khu mới khai hoang ở Tây Nguyên, triều đình Huế cử ông làm
Phó sứ điền nông kiêm đốc học tỉnh Bình Thuận.
Năm Tự Đức thứ 32 (1879), địa phương gặp có báo động, vì có
người Man nổi dậy, vua sai Nguyễn Thông cùng với Phan Trung điền nông
sứ xử trí. Khi xong việc, Nguyên Thông được thăng Hồng lô Tự khanh sung
Điển nông phó sứ kiêm lĩnh Học chính rồi sau mất năm 1894 thọ 68 tuổi.
Mộ phần ông hiện nay còn ở Bình Thuận.
Nguyễn Thông không những là nhà cải cách chính trị, nhà quân
sự, nhà giáo dục, nhà khuyến nông, nhà thương nghiệp mà ông còn là nhà
thơ, nhà sử học, nhà địa lý. Đến nay tác phẩm còn lại có các tập Ngoạ du
sào thi, văn tập, Kỳ Xuyên thi văn sao, Độn Am văn tập, Kỳ Xuyên công
độc, Việt sử Cương giám khảo lược.
LÊ ĐÌNH DIÊN
Lê Đình Diên sinh năm Giáp Thân, niên hiệu Minh Mệnh thứ 5
(1824), người làng Mọc Cựu, xã Nhân Mục Cựu, nay thuộc phường Nhân
Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội (1). Lê Đình Diên sinh trưởng
trong một gia đình có truyền thống nho học. Ông học giỏi, có tư cách được
cử làm trưởng tràng của cụ nghè Tự Tháp Vũ Tông Phan
Ông thi đậu cử nhân khoa Mậu Thân, Tự Đức thứ 2 (1848). Ông đỗ Đệ
nhất giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Kỷ Dậu dưới triều Tự Đức
(1849). Ông làm bài thơ, dịch như sau:
Người đời đánh cá biển khơi
Ta lại đánh cá ở nơi núi rừng
Nơi núi rừng vốn không có cá
Núi quanh co như thể sướng dồn,
Người đời kiếm củi đầu non,
Ta lại kiếm mãi ở mom biển ngoài
Ngoài biển cả, khảo ai ra củi?
Chỉ nhấp nhô sóng đuổi núi cao
Người đều cày ruộng bằng trâu
Ta lại đem bút thay trâu mà cày
Cây bút vắng tiếng trâu hì hục
Chữ từng hàng gấm vóc nở hoa
Người đều miệng đọc ngâm nga
Ta nay tâm đọc lại là phần hơn,
Tâm đọc sách không vang thành tiếng
Mà Thiên kinh, vạn quyển làu trơn
Thành cầu tâm đắc là hơn...
Lúc đầu ông được bổ chức quan Hàn lâm Biên tu, rồi thăng tri
phủ Tân Yên. Ông vốn tính thẳng thắn, không xu nịnh quan trên, nên quan
phủ, tỉnh không ưa, dâng sớ về triều nói xấu ông. ông bị cách chức, năm
1858 , ông được khai phục chức Biên tu, Hàn lâm viện Kiểm thảo. Năm
1860 thăng hàm Tu soạn, điều bổ làm Đốc học Nghệ An, sau làm Đốc học
Hà Nội. Năm 1870 chán cảnh triều đình Huế ký các Hiệp ước đầu hàng
giặc Pháp, để mất lục tỉnh Nam Kỳ vào tay giặc Pháp nên ông cáo quan về
nghỉ, mở trường dạy học ở số nhà 39 phố Hàng Đậu. Trường của ông khi
mới thành lập chỉ có năm gian nhà tranh, tre, nứa, lá. Sau học trò góp tiền
xây nhà gạch, lớp ngói. Căn nhà vừa là nơi dạy học vừa là nơi thờ gia tiên.
Nhà tiền tế có bức hoành phi: Quân tử thành mệnh do một học trò cũ là Vũ
Nhự, đốc học Hà Nội cung tiến năm 1881. Nay là số nhà 39 phố Hàng Đậu,
Hà Nội.
Tên lái buôn Jean Dupuis ngày càng ngang ngược. Một lần ông
nằm trên võng có hai phu võng khiêng qua Cửa Bắc, nhìn thấy hai tên Pháp
và một tên người Nam, đang tò mò xem xét, có vẻ như ghi chép ở Cửa Bắc.
Ông nằm trong võng thò đầu ra mắng chúng không được nhòm ngó. Ngay
lập tức một thằng Tây xông tới đánh ông ngã quị xuống đất. Hai phu võng
vừa đỡ ông dậy vừa kêu cứu. Nhân dân nghe tiếng liền đem gậy gộc đổ ra
đường đánh đuổi chúng. Ngay chiều hôm đó thân hào, tư văn Hà Nội họp ở
Văn Miếu thành lập đội quân trên 300 người, tôn tiến sĩ Lê Đình Diên làm
thủ lĩnh, cử nhân phường Kim Cổ Ngô Văn Dạng trực tiếp chỉ huy. Ngô văn
Dạng nhận thấy phải tổ chức trừng trị quân Pháp nên đánh hai trận ngày 7
và ngày 9 tháng 11 năm 1873. Song cả hai trận đánh trên không đem lại
hiệu quả lại bị quan tỉnh Hà Nội theo lệnh triều đình Huế bắt giải tán nghĩa
quân. Ngày 20/11/1873 khi Francis Gernier đánh thành Hà Nội thì tiến sĩ Lê
Đình Diên và cử nhân Ngô Văn Dạng đã tập hợp được một số nghĩa quân,
dân binh đánh vào sau lưng quân Pháp, hỗ trợ cho Tổng đốc Nguyễn Tri
Phương đánh giặc ở trong thành.
Thành Hà Nội thất thủ, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương tuẫn tiết
Tự Đức lại cử Nguyễn Trọng Hợp giữ chức Kinh lược sứ Bắc Kỳ ra Hà Nội
đàm phán với Pháp. Nguyễn Tư Giản, Lê Đình Diên cùng đồng môn dựng
bia cho thày Vũ Tông Phan tại ngôi trường Tự Tháp cũ, gạt Nguyễn Trọng
Hợp ra khỏi tổ chức, Hợp không được tham gia dựng bia thày nên cay cú
với Nguyễn Tư Giản, Lê Đình Diên lắm. Giặc Pháp cũng như Nguyễn
Trọng Hợp sợ hãi, hằn học tìm cách đối phó. Chúng cho tay chân rình rập
đánh trọng thương tiến sĩ Lê Đình Diên. Giặc Pháp và triều đình Huế đã sai
Nguyễn Trọng Hợp ra Hà Nội đàn áp dữ dội nho sĩ Hà Nội. Chúng phá nhà
thờ Vũ Tông Phan để xây dinh thự cho tên Phó Toàn quyền Đông Dương
(nay là báo Nhân dân). Nhưng các nho sĩ Hà Nội và nhân dân đã bảo vệ
được tấm bia và chuyển đến nơi an toàn.
Lê Đình Diên mất năm khoảng năm 1885.
(1) Vùng Mọc từ thập kỷ 70 của thế kỷ XIX trở về trước chia làm hai xã
là Nhân Mục Môn và Nhân Mục Cựu. Nhân Mục Môn gồm Quan Nhân,
Giáp Nhất, Chính Kinh (Hoa Kinh) và Cự Lộc. Nhân Mục Cựu gồm hai
thôn Thượng Đình và Hạ Đình. Khoảng đời Tự Đức (1848-1883), Thượng
Đình và Hạ Đình tách thành 2 xã Thượng Đình và Hạ Đình độc lập nhau.
Lê Đình Diên quê ở Hạ Đình, nay thuộc phường Hạ Đình.
LÊ CẨN
Khoảng năm 1872 khởi nghĩa Vũng Liêm (sau gọi là Vĩnh
Long) nổ ra, giặc Pháp gọi là giặc Cầu Vông. Cuộc khởi nghĩa này do hai
ông Lê Cẩn và Nguyễn Giao chỉ huy.
Lê Cẩn cùng Nguyễn Giao vốn là người nghĩa hiệp thường bênh
vực kẻ yếu, cứu giúp người nghèo, được nhân dân quý trọng, nên khi hai
ông dựng cờ xướng nghĩa có rất nhiều người dân theo. Họ tự sắm vũ khí,
đem theo cả lương thực đến đầu quân.
Lê Cẩn và Nguyễn Giao xây dựng đại bản doanh ở ngay quận lỵ
Vũng Liêm. Quân dân đào hào dọc quận lỵ Vũng Liêm ngăn tầu chiến Pháp
từ sông Cổ Chiên đi vào. Hai ông còn đắp thành lũy ở ấp Vạn Điểm là nơi
có địa thế hiểm trở để phòng thủ.
Lê Cẩn và Nguyễn Giao được quân sĩ tôn làm Đốc binh để có
danh nghĩa chỉ huy nghĩa quân, tập hợp quần chúng.
Giúp việc hai đốc binh có nhiều trợ thủ đắc lực như Phó Mai đã
hoạch định kế hoạch đánh chiếm chợ Vũng Liêm, đốt chợ giết tên chủ quận
là Nguyễn Việt một tay sai tàn bạo của thực dân Pháp.
Sau vụ này giặc Pháp đem quân đến đánh phá Vũng Liêm và
vùng chung quanh dữ dội. Giặc Pháp sai Tôn Thọ Tường một tên chó săn
cho Pháp đến làm chủ quận Vũng Liêm thay tên Nguyễn Việt bị nghĩa quân
giết chết.
Cuộc kháng chiến của Lê Cẩn, Nguyễn Giao còn làm cho tên
Tham biện Pháp là Alix Salicetti, người Việt gọi hắn là Bôi Xê là một tên
nham hiểm đang dùng mọi thủ đoạn đàn áp, mua chuộc nghĩa quân phải
khiếp sợ. Các thủ lĩnh nghĩa quân bàn với nhau là phải trừng trị tên này.
Đốc binh Lê Cẩn nói: “Thằng này vốn tính kiêu căng, ngạo mạn tôi đưa thư
trá hàng, dụ có vào ổ phục kích rồi ta đổ ra đánh giết...”.
Mọi người chưa rõ kế hoạch trá hàng như thế nào, Lê Cẩn trình
bày cụ thể, mọi người thấy được liền chấp thuận và bổ sung vào kế hoạch.
Salicetti nhận được thư xin hàng của hai Đốc binh Lê Cẩn và Nguyễn Giao
quyết định đến nơi tổ chức lễ đầu hàng. Tôn Thọ Tường vốn là kẻ đa nghi,
can ngăn, Salicetti vẫn giữ ý kiến của mình chỉ đem vài chục quân hộ vệ tới
Vũng Liêm…
Ngày 15 tháng 2 năm 1872 , Salicetti thấy bốn bề vắng lặng, đã
nghi hoặc. Song hắn vẫn cưỡi ngựa qua Cầu Vông. Quả nhiên tới đầu Cầu
Vông đã thấy vài chục nghĩa quân tụ tập ở đó, nhưng không có vẻ gì là quy
thuận cả. Song hắn chưa kịp ra lệnh cho lính đối phó thì Đốc binh Lê Cẩn
với thế võ nhẩy sào từ trong bụi rậm chống gậy tầm vông nhẩy vọt ra ôm
lấy vật hắn từ mình ngựa xuống mặt cầu. Qua phút hàng hoàng, bọn lính đã
kịp thời lên đạn nhưng không dám bắn. Trong khi đó chiêng trống vang lên,
nghĩa quân từ nơi mai phục ở hai bên đường đổ ra đánh giết quân Pháp. Cả
mấy chục tên đều bị giết không sót một tên. Trong khi đó Lê Cẩn và tên
Salicetti vẫn vật nhau, rồi cả hai rơi xuống sông và cùng chết đuối. Nguyễn
Giao chặt đầu tên giặc Pháp bêu ở phố.
Vài ngày sau tên Đốc phủ sứ Trần Bá Lộc đem quân tới Vũng
Liêm, hắn ra lệnh cho bọn lính: "Vùng này chứa chấp bọn phiến loạn phải
giết hết".
Bọn lính tràn vào ấp giết tất cả già trẻ, lớn bé kể hàng trăm
người, đốt phá trụi Vũng Liêm.
NGÔ VĂN DẠNG
Ngô Văn Dạng sinh năm Ất Mùi - Minh Mệnh 16 (1835) người
làng Lương Ngọc, phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ông sinh trong một gia
đình khoa bảng, ông đỗ cử nhân khoa Giáp Tý, Tự Đức 17 (1864). Ông
không ra làm quan mà dời quê lên ngụ ở phường Kim Cổ, huyện Thọ
Xương, Hà Nội mở trường dạy học (nay là số nhà 12 phố Hàng Bông) nên
cũng gọi là ông Cử Kim Cổ.
Từ khi triều đình Huế cắt Hà Nội thành nhượng địa của thực dân
Pháp thì Văn Miếu Hà Nội giao cho quan tỉnh Cầu Đơ (sau đổi là Hà Đông)
quản lý. Vì vậy trung tâm văn hóa của Hà Nội chuyển về đền Ngọc Sơn
nằm ở giữa hồ Hoàn Kiếm. Đền Ngọc Sơn là trụ sở của hội Phả đền, sau
đổi thành hội Hướng Thiện do ông Nghè Vũ Tông Phan làm Hội trưởng,
tiếp đó là Phương Đình Nguyễn Văn Siêu làm Hội trưởng. Ông cử Ngô Văn
Dạng thường xuyên đến đền Ngọc Sơn, có nhiều đóng góp quan trọng vào
việc in ấn sách để tổ chức lễ kỷ niệm các anh hùng dân tộc.
Ông cử Kim Cổ là một nhà sư phạm mẫu mực, học trò người Hà
Nội và các tỉnh theo học rất đông, khoa thi nào cũng có người đỗ Đại khoa..
Dựa vào thế lực của giặc pháp và sự nhu nhược, đầu hàng của
triều đình Huế, tên lái buôn Jean Dupuis rất ngang ngược, ngang nhiên cho
quân cướp phá phố phường.
Cử nhân Ngô Văn Dạng đã cùng với thày là Hoàng giáp Lê
Đình Diên phát động nhân dân Hà Nội phản đối sự lộng hành của Jean
Dupuis. Ông sử dụng lực lượng đông đảo nhân dân ngăn chặn, đánh đuổi
quân lính của Jean Dupuis, lính Vân Nam, đám tàn quân của Tạ Văn Phụng
cùng dân công giáo quá khích cướp phá các phố.
Một lần Hoàng giáp Lê Đình Diên ngăn cản hai tên Pháp và một
tên người Nam nhòm ngó địa thế Cửa Nam, ông lên tiếng xua đuổi chúng.
Lập tức một tên lính Pháp xông lại đánh ông làm ông ngã từ trên cáng
xuống đất. Ông Huấn đạo huyện Thọ Xương dạy học ở gần đó liền đưa học
sinh ra đánh giặc giải vây cứu thày. Ông cử Ngô Văn Dạng nhận được tin
liền lập tức đến thăm thày đang phục thuốc ở trường phố Hàng Đậu và
thông báo cho các thân sĩ, nho sinh cùng nhân dân Hà thành biết. Ngay
chiều hôm đó, các học trò và cả cựu học trò các trường Kim Cổ của cử nhân
Ngô Văn Dạng, trường Vũ Thạch của ông cử Nguyễn Huy Đức và nhân dân
Hà thành tổ chức cuộc họp ở Văn Miếu bàn việc trừng trị Jean Dupuis và
tên Lý Dương Tài cầm đầu 200 tên thổ phỉ Tàu đánh thuê cho Jean Dupuis.
Cuộc họp đã quyết định thành lập đội nghĩa quân, trong đó 242
người ở trong văn hội Thọ Xương và môn sinh các trường lớn, 150 người là
các văn hữu ở các huyện Thanh Trì, Hoài Đức (Hà Đông), 92 người là
thanh niên các phố phường và nông dân, các Nghĩa hội. Các nhà nho và
quân sĩ tôn Hoàng giáp Lê Đình Diên làm thủ lĩnh, cử nhân Ngô Văn Dạng
làm chỉ huy trưởng. Cử nhân Ngô Văn Dạng chia quân làm nhiều đội theo
đơn vị trường học và khu dân cư, cắt đặt các xuất đội trưởng chỉ huy. Các
lớp huấn luyện võ nghệ tổ chức vào ban đêm để giữ được bí mật. Ban ngày
nghĩa quân chia nhau đi các phố phường và vùng nông thôn quyên góp tiền
bạc để mua vũ khí, ủng hộ lương thực, thực phẩm để nuôi quân. Cử nhân
Ngô Văn Dạng còn xây dựng các cơ sở hậu cứ ở vùng nông thôn ngoại
thành, đề phòng trong thành gặp khó khăn thì rút ra đó củng cố, bổ sung lực
lượng.
Đội nghĩa quân của cử nhân Ngô Văn Dạng đang khẩn trương
luyện tập thì nhận được thông sức của Thái tử Thiếu bảo Nguyễn Tri
Phương Đổng suất Quân vụ Đại thần kiêm Kinh lược Bắc Kỳ cho các tỉnh,
huyện, phủ phải gấp rút chuẩn bị lực lượng, trang bị vũ khí để đánh quân
Pháp xâm lược.
Khi đội quân nghĩa dũng đã được huấn luyện về sử dụng vũ khí,
thế tiến lui, phục kích, công đầu, diệt viện thì ông cử Ngô Văn Dạng quyết
định trừng trị bọn Jean Dupuis. Mục tiêu được chọn là kho đạn 200.000
viên của quân Pháp ở bờ sông Hồng. Ngày 7 tháng 11 năm 1873, Ngô Văn
Dạng làm lễ xuất quân. Trước giờ xuất phát, ông cử đọc hai câu thơ:

Chí tại tiêm cừu thành khổ nhục


Tâm năng cứu quốc khởi cam sinh
Dịch:
"Chí đã quyết định giết kẻ thù mà thành ra bị đánh dấu
Lòng biết dốc, biết cứu nước lẽ nào cam chịu sống
uổng”
Khi màn đêm buông xuống, Ngô Văn Dạng phái một đội cảm tử
quân bí mật đột nhập vào kho đạn rồi dùng kế hỏa công. Kế hoạch trên bị
lộ, bọn giặc bắn trả dữ dội. Nghĩa quân không có súng bắn nhanh để tiêu
diệt bọn lính, nên không tiếp cận được kho đạn, nên trận đánh không thành.
Không chịu bó tay, hai ngày sau ngày 9 tháng 7 năm 1873, Ngô
Văn Dạng tổ chức trận đánh phục kích trên bờ đê lối Jean Dupuis và bọn
lính từ tầu chiến lên đi qua. Trận đánh không diệt được Jean Dupuis nhưng
bắt sống được mấy tên lính Vân Nam và Ngô Văn Dạng đã lệnh tha cho
chúng. Hai trận đánh không thành, nhưng đã làm cho Jean Dupuis và quân
lính của hắn hoảng sợ không dám hống hách, cướp bóc trong phố như trước
nữa. Quan tỉnh Hà Nội là Bùi Thúc Kiên nghe tin phái đoàn Pháp sắp ra dàn
xếp việc Jean Dupuis, nên phải chấp hành dụ của triều đình khiển trách tiến
sĩ Lê Đình Diên và cử nhân Ngô Văn Dạng tha cho mấy tên lính Vân Nam
và bắt giải tán nghĩa quân. Việc này khiến nhân dân Hà Nội bất bình.
Ngày 20/11/1873 khi Francis Garnier đánh thành Hà Nội, Ngô
Văn Dạng lại tập hợp nghĩa quân đánh vào sau lưng quân Pháp. Thành Hà
Nội thất thủ, Nguyễn Tri Phương tuẫn tiết, thành mất nhưng nghĩa quân
Ngô Văn Dạng vẫn không ngừng phục kích, tập kích quân Pháp cho đến khi
quân Pháp rút khỏi Hà Nội và các tỉnh Bắc Kỳ theo Hiệp ước ký với triều
đình, ông mới giải tán nghĩa quân, tiếp tục dạy học. Học trò của ông sau
này có nhiều người tham gia vào các tổ chức chống Pháp. Ông mất năm
1885.
ĐẶNG XUÂN BẢNG
Đặng Xuân Bảng sinh năm Mậu Tý (1828) tại xã Hành Thiện,
huyện Giao Thủy, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Nay thuộc xã Xuân
Hồng, huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Định. Đặng Xuân Bảng có diện mạo
khôi ngô tuấn tú, trán cao, mắt sáng, tiếng nói sang sảng. Từ nhỏ, ông chỉ
theo học cha là Đặng Xuân Hòe.
Năm Canh Tuất (1850) ông 23 tuổi đỗ cử nhân, được giữ chức
Giáo thụ phủ Ninh Giang (Hải Dương). Năm Bính Thìn (1856), khi ông 29
tuổi, đỗ tiến sĩ.
Sau khi thi đỗ Tiến sĩ, Đặng Xuân Bảng đã trải qua các chức
quyền Tri phủ Thọ Xuân ( Thanh Hóa), Giám sát ngự sử ở Nội các, Chưởng
ấn ở Lại khoa, Án sát Quảng Yên, Bố chính Tuyên Quang, Bố chính Thanh
Hóa, Bố chính Hà Nội, Bố chính Sơn Tây. Năm 1870 ông được phong Tuần
phủ Hưng Yên, tháng 6/1872 nhận chức Tuần phủ Hải Dương, quyền Hộ
Tổng đốc.
Khi đó thực dân Pháp đã ổn định xong bộ máy cai trị ở Lục tỉnh
Nam Kỳ, ông phán đoán quân Pháp sẽ đánh chiếm Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Để
bảo vệ đất nước, Đặng Xuân Bảng dâng nhiều tờ sớ biểu lên triều đình tâu
bày về tình hình tài chính thiếu hụt, hiện trạng quân đội yếu kém cùng các
biện pháp khắc phục. Ông cũng kiến nghị với triều đình mở cửa sông Cấm
thành cảng biển để buôn bán với nước ngoài, xuất hàng nông sản, thủ công
nhập máy móc, tàu thuyền hơi nước, vũ khí của châu Âu về. Ông cũng đề
cập đến việc xây dựng lực lượng bảo vệ, phòng thủ bờ biển, hải đảo và biên
giới. Song Tự Đức cùng triều đình bảo thủ không chấp nhận.
Từ cuối năm 1871, quân Pháp nhận được viện trợ và vũ khí từ
Pháp gửi sang, cho tầu chiến xâm phạm hải phận Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Trước
tình hình đó, Tuần phủ Đặng Xuân Bảng thương nghị với các quan. Mọi
người đều xin đánh. Song không thể làm trái lệnh của triều đình mà chỉ phái
người theo dõi các hoạt động của quân Pháp, ngăn cản không cho các giáo
sĩ Pháp, Tây Ban Nha, giáo dân tiếp xúc với bọn Dupuis. Đặng Xuân Bảng
cũng cho tu sửa thành trì, đặt thêm súng thần công trên thành, ra lệnh cấm
trại, không cho lính ra ngoài mà phải sẵn sàng chiến đấu.
Những hành động ngang ngược của Jean Dupuis và Francis
Garnier khiến cho Tuần phủ Đặng Xuân Bảng và Án sát Nguyễn Đại không
khỏi nghi ngờ dã tâm của giặc Pháp đối với Bắc Kỳ, song không dám trái
lệnh của triều đình Huế.
Ngày 15 tháng 10 năm Quý Dậu (4/12/1873), quân Pháp đi tầu
chiến đến đánh thành Hải Dương. Thoạt đầu chúng uy hiếp bằng cách mời
quan tỉnh xuống tầu của chúng để thương thuyết. Tuần phủ Đặng Xuân
Bảng và các quan thừa biết đây là thủ đoạn lừa bịp để bắt sống những người
chỉ huy giữ thành nên Đặng Xuân Bảng trả lời: “Chưa có lệnh của triều
đình nên không hành đồng tùy tiện”. Không lừa được Đặng Xuân Bảng và
đồng sự của ông, quân Pháp bắn đại bác dữ dội vào thành. Đặng Xuân
Bảng, Án sát Nguyễn Đại cùng các quan chống cự kiên quyết, đánh bật
nhiều đợt xung phong của giặc. Song thế lực quân ta yếu dần, nguyên nhân
chính là: "Pháo thần công và súng kíp nhỏ bị trọng pháo đặt trên tầu chiến
đè bẹp”. Biết không giữ nổi thành, Đặng
Xuân Bảng tổ chức phản công quyết liệt rồi rút lui về Mao Điển để bảo
toàn lực lượng. Do triều đình có nhận xét thành Hải Dương "mất trong thế
lấy lại”, nên sau khi mất thành, triều đình triệu ông về Huế để chờ xét xử
trách nhiệm. Song xét Đặng Xuân Bảng có phòng bị không sơ xuất, quyết
chiến đấu giữ thành, rút lui bảo toàn lực lượng, nên ông không bị khiển
trách. Tuy vậy đến năm 1876 , Tự Đức điều ông về Hưng Hóa chiêu mộ
phu thành lập đồn điền để đới công chuộc tội.
Từ năm 1878, ông nhận được lệnh về triều nhận chức Đốc học
và công việc tâm huyết của ông từ khi bước vào chốn quan trường. Cũng
năm đó và 10 năm sau. Năm 1888 triều đình điều ông về kinh giao cho
chức vụ cao hơn, song ông đều tìm được lý do xin ở lại làm đốc học và triều
đình đã chấp nhận.
Năm 1888, thực dân Pháp đã cơ bản đàn áp được phong trào
Cần vương, thực hiện bóc lột kinh tế và chính sách ngu dân về văn hóa, nên
ông xin nghỉ hưu ở tuổi 61.
Đặng Xuân Bảng về hưu, song với kinh nghiệm 2 năm mở đồn
điền, ông đã tổ chức nhân dân khai hoang lập ấp Tả Hành, nay thuộc xã
Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Lịch sử làng Hành Thiện còn ghi
nhận ông đã gián tiếp giúp nhiều hộ dân từ nghèo trở thành giầu có.
Làm quan to, có danh vọng, song ông rất quan tâm đến việc sửa
sang, trùng tu, bảo tiền, tôn lạo các di tích như chùa, đền Văn Xương, Văn
Chỉ. Ông còn xây dựng đường làng bằng đá phiến.
Đặng Xuân Bảng về hưu song ông vẫn kiên trì thực hiện sự
nghiệp giáo dục bằng hành động mở trường dạy học, viết sách. Ông đào lạo
được nhiều cử nhân Hán học có tài, có đức. Tiêu biểu cho lớp người đó là
Vũ Tuân, người Hải Dương, đỗ phó bảng năm 1901. Để chấn hưng việc
học, ông làm Tiên chỉ hội Tư văn làng và hội Tư văn huyện, thường tổ chức
các buổi bình thơ, văn trong đó có thơ văn yêu nước của trường Đông Kinh
nghĩa thục. Chỉ trong 12 năm nghỉ hưu, Đặng Xuân Bảng đã viết tới 20
cuốn sách trong các lĩnh vực lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ học, giáo dục, địa
lý, địa chí, văn hóa ứng xử, tức đạo làm người. Thí dụ về Lịch sử có các
cuốn sử tiêu biểu như Sử học bi khảo, Việt sử cương mạc toát yếu. Đặng
Xuân Bảng có quan hệ mới mẻ khi nhìn nhận đánh giá một số vấn đề lịch
sử. Ông là người đầu tiên đã khẳng định vị trí không thể phủ định được của
triều Tây Sơn trong lịch sử. Ông viết về triều Tây Sơn như sau:
"Bên trong dẹp giặc cướp, bên ngoài đánh đuổi quân Thanh,
khiến cho núi sông Hồng Lạc vẫn vững vàng như cũ. Huống chi lúc ấy, nhà
Lê đã mất, triều Nguyễn ta chưa lên; sự truyền nối các đời Đinh, Lý, Trần,
Lê đối với đất Bắc Kỳ trong 18 năm ấy nếu không thuộc về Tây Sơn thì còn
thuộc về ai nữa". (Việt sử cương mạc toát yếu).
Đặng Xuân Bảng có quan niệm nhìn nhận về công nghiệp, thủ
công nghiệp, nêu cao vai trò của công nghiệp thủ công, buôn bán là điểm
tiến bộ. Ông viết: “Ngày trước, phần công nghệ chỉ có đám hạ lưu làm, còn
như bậc thượng lưu, trung lưu không mấy người nghĩ tới. Vì triều đình chỉ
chú trọng vào khoa cử, khiến cho những người tài trí, thông minh cứ chăm
chú miệt mài vào cuộc thi cử đó, đến nỗi già đời không có ích gì cho quốc
dân; Do đó các nguồn lợi lớn về công nghệ như khai hoang đều rơi vào tay
người Hoa cả”.
Ông là người ham thích đọc sách, đến già cũng không biết mỏi,
đọc cả các sách thiên văn, địa lý, tính mạng (số tướng) y bốc (bói toán), lục
nhâm, thái ất, độn toán thích nhiều về thuyết “lập thân hành kỳ”. Ông thích
bài nói và việc làm của cổ nhân, sự việc thiện ác, báo ứng nhất là sự tích
các danh vật nước ta, và có đọc binh thư, binh pháp cổ. Ông thường nói:
người nước ta chỉ học Bắc sử, không học quốc sử nhiều; cho nên các sự
việc của nước ta về các mặt sơn xuyên (núi sông), phong tục (bờ cõi). quan
danh (tên quan) chế độ v.v... tuy các bậc lão thành học nhiều cũng không
biết hết. Do đó, ông rộng khảo các sách và làm các bộ sách: Nhân sự kim
giám thư, (khoảng năm 1857-1858), Nam phương danh vật bi khảo, Độc sử
bi khảo. Khi làm Tri phủ Yên Bình (1861) có viết bài "Tuyên Quang phú”
là một tài liệu dân tộc học lịch sử rất quý. Tương truyền ông còn có bộ
"Thiệu đình Việt sử” nhưng nay chưa tìm thấy.
Đặng Xuân Bảng là người giầu tính dân tộc, làm nhiều sách về
Việt Nam, nghiên cứu nhiều về Việt Nam như các sách Độc sử bị khảo,
Nam phương danh vật bị khảo v.v….
Về Văn hóa, Đặng Xuân Bảng có Như tuyền thi tập (thơ chữ
Hán), Nam phương danh vật bi khảo, Huấn tục quốc âm ca (những bài ca
Nôm do Đãng Xuân Bảng san bổ, nhuận sắc và in), Thành tổ hạnh thực
diễn âm (thơ Nôm về sự tích Thiền sư Dương Không Lộ, Nhị Độ mai (dịch
ra Nôm từ truyện Nhị độ mai của Trung Quốc và nhiều sách khác.
Đặng Xuân Bảng là người đầu tiên ở Bắc Kỳ thiết lập được một
thư viện tư nhân mang tên thư viện Hy Long với số lượng sách "chứa đầy
sáu gian nhà ngói”. Ông còn tổ chức in sách, bán sách tại nhà. Đây là thư
viện lớn nhất Bắc Kỳ thời đó.
Đặng Xuân Bảng mất năm 1910, thọ 83 tuổi. Trong đám tang
ông, có trên 300 học trò đến chịu tang. Nhân dân ấp Tả Hành chịu ơn ông tổ
chức khai hoang lập ấp đã tôn ông làm Thành hoàng thờ ở đình.
VŨ CANH
Vũ Canh húy là Tề người làng Tập Mỹ, tổng Bồ Xá, huyện Bình
Lục, tỉnh Hà Nam, nay là thôn Tập Mỹ, xã La Sơn, huyện Bình Lục, tỉnh
Hà Nam.
Thuở nhỏ ông đi học rất thông tuệ, nhưng lại có thiên hướng võ
nghiệp, được cha mẹ đón thày về dạy võ, ông miệt mài học và luyện tập nên
trở thành người rất giỏi võ. Ông sung vào lính, trúng tuyển kỳ thi võ, được
thăng làm Giám kho Phủ Lý. Quan Giám kho Vũ Canh ở kho Phủ Lý là
một trong số những người Tổng đốc Nguyễn Tri Phương chọn lựa về tăng
cường cho thành Hà Nội. Ông đã xây dựng, chấn chỉnh hệ thống kho lương,
kho thuốc súng, kho bạc, kho quân trang. Tổng đốc Nguyễn Tri Phương rất
hài lòng về những việc quan giám Vũ Canh làm ở Hà Nội, đã dâng sớ lên
vua Tự Đức phong cho Vũ Canh chức “Vũ Canh tướng công Đô úy tinh
binh Cai đội”.
Trước việc tên lái buôn Jean Dupuis ngang ngược, ngông cuồng,
đòi có "nhượng địa” tại Hà Nội, đòi có muối, than đá chở đi Vân Nam bán.
Hắn đòi thu thuế ở Hà Nội, xé các thông cáo của Hà - Ninh Tổng đốc dán
bố cáo của hắn. Hắn còn cho 150 tên thổ phỉ ở Vân Nam do hắn mộ về bắt
cóc các quan đưa xuống tầu, cướp mấy thuyền gạo của quan quân, cướp phá
các hiệu buôn.
Vũ Canh không thể làm ngơ, ông xin với Tổng đốc cho ông
trừng trị chúng. Vì Tổng đốc phải chấp hành lệnh của vua Tự Đức không
được ngăn cản chúng, mà chỉ để ông tập hợp một số quân lính giỏi võ hành
động như “dân anh chị” trừng trị chúng nhiều phen đích đáng. Vũ Canh còn
phối hợp với Bá hộ Trần Chí Thiện, Hào mục Nguyễn Văn Hổ và hai con
trai là những người có thế lực, có uy tín ở Hà Nội đang chỉ huy những toán
vũ trang tự phát, những dân binh thông thuộc đường phố, trừng trị bọn lính
Pháp đi lẻ, đánh giết bọn thổ phỉ Vân Nam và đám thanh niên công giáo
quá khích, mù quáng được các cố đạo Pháp, Jean Dupuis vũ trang. Các ông
còn hô hào dân các phố phường hễ thấy bọn Tây, bọn phỉ Vân Nam, bọn
giáo dân quá khích lập tức đổ ra đánh giết, gõ chuông, trống, chậu thau,
mâm đồng uy hiếp chúng.
Bọn Jean Duypis rất sợ hãi, mỗi khi ra phố phải kéo đi đông, vũ
trang đầy mình, không dám cướp bóc bừa bãi như trước.
Ngày 21/1/1873 tên Francis Garnier đem tàu chiến từ Sài Gòn ra
Hà Nội với chiêu bài "Giải quyết vụ Dupuis”, Tổng đốc Nguyễn Tri
Phương thấy rõ dã tâm của Gamier ra Hà Nội là để đánh thành, nên ra lệnh
chuẩn bị chiến đấu. Vũ Canh là người kiên quyết chống giặc Lang Sa dã
tích cực thực hiện mệnh lệnh trên.
Ngày 12/11/1873, Garnier gởi “Tối hậu thư” cho Tổng đốc
Nguyễn Tri Phương đòi ông phải nộp thành cho chúng. Nguyễn Tri Phương
không trả lời, tăng cường phòng ngự. Vũ Canh là người tích cực thực hiện
mệnh lệnh của quan Tổng đốc. Ông còn cho phân tán kho tàng, phát trước
lương thực, đạn dược cho quân lính, phân tán kho gần 4 cửa thành để cấp
phát được nhanh chóng. Ngày 19/11/1873, Garnier lại gửi “Tối hậu thư”
một lần nữa, Nguyễn Tri Phương vẫn không trả lời chỉ khẩn trương chuẩn
bị chiến đấu. Một số quan lại hoang mang, lo sợ. Vũ Canh đã trấn an họ và
thề sống chết với thành.
Vũ Canh không yên phận là quan hậu cần mà ông giao việc này
cho người tin cậy, xin chỉ huy một đội quân tham gia giữ cửa Bắc. Tổng đốc
Nguyễn Tri Phương chấp nhận, giao cho ông chỉ huy 100 quân và biểu
dương ông trước toàn quân.
Ngày 20/11/1873 , quân Pháp bắn đại bác dồn dập vào thành mở
đầu cho trận tấn công. Được sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, con trai
ông là Nguyễn Lâm cùng các tướng đại bác, thần công đặt trên mặt thành
bắn trả. Song quân Pháp sử dụng vũ khí tối tân đã sát thương nhiều quân ta.
Quân ta phải lùi dần trước hỏa lực áp đảo của quân Pháp. Chúng phá được
cổng thành, Nguyễn Tri Phương thân ra đốc chiến, Vũ Canh luôn đi bên
cạnh hộ vệ ông. Song thế giặc rất mạnh, ông cùng Tổng đốc Nguyễn Tri
Phương đã hy sinh anh dũng trong trận này.
Dân làng Tập Mỹ làm sớ về triều xin tôn ông làm Thành hoàng
thờ cùng với chín vị thần khác. Vua Tự Đức chuẩn tấu sắc cho làng Tập Mỹ
thờ phụng, lại ban cho bạc và ruộng tế.
Năm Tự Đức thứ 28 (1875) truy tặng Kiến công đô úy tinh binh
cai đội.
Năm Khải Định thứ 2 (1917) gia phong ngài Vũ Canh Tướng
công đô úy chi thần là Dực bảo Trung hưng linh phù chi thần.
Năm Khải Định thứ 9 (1929) gia phong ngài Dực bảo Trung
Hưng linh phù Vũ Canh Tướng công đô úy tôn thần là Đoan túc Tôn thần.
PHẠM TÀI
Sách Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều đình nhà Nguyễn
có ghi tên hai ông Phạm Tài và Nguyễn Cao vào danh mục 500 vị, thờ ở
đền Trung Nghĩa thuộc kinh đô Huế. Song việc đó cũng bị lui vào quá khứ.
Mãi đến năm 1988, ông Phạm Đình Bao ở thị trấn Diêm Điền,
huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình tìm thấy tấm bia mộ bằng đá. Theo lời ông
Bao thì đấy là bia mộ Phạm Tài tổ 5 đời dòng họ Phạm Đình ở Diêm Điền.
Phạm Tài là một vị tướng chiến đấu dưới quyền chỉ huy của
Tổng thống quân vụ Đại thần Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển quê ở
làng Luyến Khuyết, huyện Đông Quan, tỉnh Thái Bình. Thự Tổng đốc hai
tỉnh Gia Định Biên Hòa. Các ông xây dựng nhiều đồn lũy trong đó có đại
đồn Chí Hòa.
Ngày 23/2/1861, liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công đại đồn
Chí Hòa. Ngày 25/2/1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ. Nguyễn Tri Phương bị
trọng thương. Nguyễn Duy em trai Nguyễn Tri Phương tử trận.
Chưa rõ sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ thì Phạm Tài và
Nguyễn Cao (đồng hương với Phạm Tài) chiến đấu ở đâu và trở về Diêm
Điền lập đồn đánh Pháp từ bao giờ vì mãi tới tháng 11/1873, quân Pháp mới
đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất.
Tấm bia mộ của Phạm Tài có kích thước 45x30 gồm 52 chữ như
sau:
“Bản triều khai quốc công thần Tiền quân Khâm sai Cai cơ chỉ
huy sứ Phạm Tài chi hầu chi mộ”.
"Lạc Ngạn Gia Định Phạm Nguyễn đồng quy huân nghiệp bỉnh
thanh sử chi công thủy”. Hách hách. Hoang Nguyễn phục nghĩa hưng xúy
tảo binh nghịch lỗ khai thác hồng cơ”.
Đại ý:
Phạm Tài là một vị tướng triều Nguyễn, giữ chức Tiền quân
khâm cai cơ chỉ huy sứ, tước hầu.
Ông đã chiến đấu bảo vệ thành Gia Định. Sau khi thành Gia
Định thất thủ Phạm Tài về quê ở Diêm Điền lập đồn binh chống Pháp,
được truy phong “Khai quốc công thần”.
Còn cụm từ 4 chữ "Phạm Nguyễn đồng quy”, theo trí nhớ của
ông Phạm Đình Bao, cháu 5 đời của Phạm Tài thì "Nguyễn” ở đây là
Nguyễn Cao, một vị tướng là người đồng hương cửa biển Diêm Điền.
Hai ông lập đồn lũy kháng chiến lâu dài, hiện vật còn đến nay là
hai khẩu thần công.
Cũng thời gian trên còn phát hiện một tấm bia đá ở đền Thuận
Nghĩa trên bờ sông Diêm Hộ thuộc thị trấn Diêm Điền. Bia có kích thước
80 x 60cm, bị gãy đôi, chữ mờ. Bia khắc ở phía trên 5 chữ: "Thuật Nghĩa từ
bi ký”.
Bia có 3 nội dung:
- Lược ghi công tích của Phạm Tài và Nguyễn Cao.
- Ý thức nhân dân sùng bái hai vị
- Tên họ người đứng đầu lập bia là cựu lý trưởng xã Diêm Điền
(và tu tạo đền).
Dòng lạc khoản ghi rõ:
“Bảo Đại Nguyên niên, tứ nguyệt nhị thập, nhị nhật. Diêm Điền
xã tu tạo miếu vũ, cựu lý trưởng Phạm Hữu Biên cẩn chi”.
Cuối năm 1989, tỉnh Thái Bình đã xếp hạng di tích nơi này.
NGUYỄN ĐẠI
Nguyễn Đại người xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm, thành phố Hà
Nội. Ông đỗ Cử nhân khoa thi Hương khoa Mậu Ngọ, năm Tự Đức thứ 11
(1858) tại trường thi Hà Nội. Ông làm quan tới chức Án sát Hải Dương,
giúp việc về quân sự, an ninh cho Tổng đốc Đặng Xuân Bảng.
Sau khi được Chính phủ Pháp phê duyệt kế hoạch đánh chiếm
Bắc Kỳ, đến tháng 10/1872, Dupré lại sai Sơnê thám sát vịnh Hạ Long lần
thứ hai. Tuần phủ Đặng Xuân Bảng, Án sát Nguyễn Đại cùng các quan
quan tâm đến việc tầu chiến Pháp xâm nhập vào địa bàn mình quản lý, song
chưa có lệnh của triều đình, nên chỉ giám sát các hoạt động của chúng.
Tháng giêng năm 1873, bất chấp sự ngăn cấm của triều đình
Huế, tên lái buôn kiêm mật thám Jean Dupuis đưa đoàn thương thuyền vào
Cửa Cấm, tới sông Lục Đầu, tới Bắc Ninh, Hà Nội rồi theo sông Hồng sang
Vân Nam.
Lệnh của vua ban ra Án sát Nguyễn Đại cũng như Tuần phủ
Đặng Xuân Bảng không dám có các hoạt động ngăn trở.
Ngày 20/11/1873, Garnier, Jean Dupuis tấn công thành Hà Nội.
Chiếm xong Hà Nội, quân Pháp tiếp tục đánh chiếm các tỉnh Hưng Yên,
Bắc Ninh, Thái Nguyên. Nhận rõ bộ mặt xâm lược của Garnies, Tuần phủ
Đặng Xuân Bảng, Án sát Nguyễn Đại cùng các quan tăng cường công tác
phòng thủ tỉnh Hải Dương.
Ngày 4/12/1873, Francis Garnier sai trung úy Hải quân Balny
đem tàu chiến tấn công tỉnh thành Hải Dương. Trước khi nổ súng Balny quỉ
quyệt mời các quan tỉnh xuống tàu để thương thuyết (Tên Balny bị quân ta
và quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc giết chết trong trận Cầu Giấy ngày
21/1/1873). Án sát Nguyễn Đại cũng như Tuần phủ Đặng Xuân Bảng biết
rõ đây là thủ đoạn của giặc Pháp lừa bắt nên từ chối, nhưng trả lời với thái
độ mềm mỏng: "Chưa có lệnh của triều đình nên không hành động tùy
tiện”.
Không lừa được các quan tỉnh thành Hải Dương, Balny cho đại
bác trên tầu chiến nã đạn đại bác vào thành. Nguyễn Đại đã cùng Tuần phủ
Đặng Xuân Bảng chỉ huy quân sĩ kiên cường đánh trả quân Pháp. Ông đích
thân lên mặt thành đốc thúc quân sĩ bắn mãnh liệt cản đường quân giặc
đang ồ ạt tấn công thành.
Song do triều đình Huế chủ trương "Hòa với giặc Pháp" nên đề
nghị của Nguyễn Đại tăng quân số, đổi mới trang bị, cho đặt thêm đại bác ở
trên mặt thành, thiết lập các vị trí quân sự bảo vệ thành từ xa không được
Tự Đức chấp nhận. Vì vậy trong thành không có sự chuẩn bị chiến đấu,
quân sĩ trang bị vũ khí lạc hậu, không được huấn luyện, tinh thần chiến đấu
sa sút. Khi quân Pháp tấn công nã đại bác cấp tập vào thành thì từ quan văn,
quan võ đến lính đều khiếp sợ. Nên đến 11 giờ trưa thành vỡ, Nguyễn Đại
phải chỉ huy đội quân cảm tử ở lại đánh chặn quân Pháp để Tổng đốc đưa
quan quân rút về Mao Điền.
Mặc dầu triều đình nghị hòa với Pháp, Nguyễn Đại vẫn khẩn
trương chấn chỉnh lại quân đội bổ sung thêm khí giới tích cực chuẩn bị
phản công, cướp lại thành. Sau ông bị quân Pháp bắt, đày đi Côn Đảo. Bọn
cai ngục hành hạ, đánh đập ông, ông quắc mắt lên quát: "Tao là Nguyễn
Đại, người Hà Nội, cử nhân, Án sát Hải Dương, vì tao đánh quân Pháp nên
bị chúng nó bắt cầm tù, chúng mày không được vô lễ". Từ đó bọn cai ngục
không dám hành hạ ông.
PHÙNG XUẤT NGHĨA
Phùng Xuất Nghĩa quê ở làng Trích Sài vùng Hồ Tây, huyện Từ
Liêm, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Ông là người cương trực, thường
lên án bọn quan lại, cường hào ức hiếp dân, bênh vực người nghèo.
Ngày 1 tháng 10 năm Quý Dậu, Tự Đức thứ 26 (20/11/1873),
quân Pháp do Francis Garnier đánh chiếm thành Hà Nội xong rồi lấn ra phủ
Hoài Đức, huyện từ Liêm, huyện Gia Lâm, huyện Thanh Trì của các tỉnh
Hà Đông, Bắc Ninh… Triều đình Huế đã ra lệnh bãi binh, ngăn cấm nhân
dân nổi dậy chống Pháp. Mặc cho triều đình đầu hàng, nhân dân các huyện
giáp ranh với Hà Nội vẫn tập hợp lực lượng, tự trang bị vũ khí, thành lập
các đội nghĩa binh đánh Pháp ở khắp nơi. Phùng Xuất Nghĩa được cụ đồ
Tịch ở làng Cổ Nhuế giúp đỡ đã đứng ra thành lập Nghĩa hội, tuyên truyền
phát động nhân dân đứng lên đánh Pháp. Ông vốn là người giao du rộng,
được nhiều thân hào, thân sĩ trong vùng kính trọng nên vừa xướng nghĩa đã
có đông đảo người yêu nước gồm các nhà nho, người lao động, dân buôn
bán, thợ thủ công, làm công cho Pháp ở các làng Trích Sài, Quán La, Võng
Thị, Bưởi, Nghi Tàm vùng ven Hồ Tây tham gia. Phùng Xuất Nghĩa tuyển
chọn những người khỏe mạnh hăng hái vào đội nghĩa quân. Nghĩa quân tự
trang bị vũ khí bằng dáo mác, gậy gộc, súng kíp. Những người còn lại
chuyên lo việc điều tra tin tức của địch báo cho quan quân phe chủ chiến,
quyên góp tiền bạc, lương thực ủng hộ nghĩa quân. Phùng Xuất Nghĩa tổ
chức Lê Tế cờ long trọng ở gò Ngũ Nhạc trong làng Trích Sài giáp ranh với
làng Cổ Nhuế, có đông đảo nhân dân vùng Hồ Tây tham dự rồi dẫn quân đi
tìm giặc Pháp để tiêu diệt. (Theo Hà Nội, thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Trần Quốc Vượng chủ biên, Nxb Quân đội nhân dân).
Do lực lượng của ông ít, vũ khí thô sơ, nên đội quân của Phùng
Xuất Nghĩa chủ yếu tập kích các đồn giặc vào ban đêm, phục kích các cánh
quân đi càn, đi tuần tiễu. Ông còn chỉ huy đánh phá các kho vũ khí quân
lương, cướp thuyền chở lương của bọn công giáo phản động chở lương
thực, thực phẩm tiếp tế cho quân Pháp. Những hoạt động quân sự, tình báo
của Phùng Xuất Nghĩa gây cho quân Pháp nhiều tổn thất, nhiều lần tung
quân đi đánh song đều bị ông đánh cho thất bại. Giặc Pháp thuyết phục dụ
dỗ ông theo chúng, ông khảng khái từ chối. Chúng tra tấn ông cực kỳ man
rợ bắt ông khai ra các đồng chí, song ông vẫn kiên trinh.
Phùng Xuất Nghĩa hy sinh khiến nhân dân vùng Hồ Tây vô cùng
thương xót và kính trọng, nhiều gia đình lập bàn thờ thờ ông và lưu truyền
sự tích anh hùng của ông đến mãi ngày nay.
HOÀNG KẾ VIÊM
Hoàng Kế Viêm sinh ngày 21 tháng 7 năm Canh Thìn (1820),
quê ở làng Văn La, tổng Văn Đại, phủ Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình,
nhưng sinh ra ở Bình Hòa, nay là Khánh Hòa. Năm Minh Mệnh thứ 14
(1833), ông kết duyên với Hương La công chúa, con gái thứ 5 vua Minh
Mệnh, nhưng chẳng bao lâu công chúa mất.
Hoàng Kế Viêm theo học trường Quốc tử giám, năm 1843 đỗ cử
nhân, ông ra làm quan sơ bổ Tư vụ, hàm Quang lộc Tự khanh. Năm Thiệu
Trị thứ 6 (1846), lãnh Lang trung bộ Lại. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), vì có
tang mẹ, ông nghỉ 3 năm. Chưa đoạn tang, nhưng đầu năm 1852, miền Bắc
có giặc cướp, vua triệu ông về kinh lĩnh chức Án sát Ninh Bình. Năm Tự
Đức thứ 7 (1854) thăng Bố chính Thanh Hóa. Năm Tự Đức thứ 12 (1859)
thăng chức Bố chính kiêm Tuần vũ Hưng Yên. Năm 1861, các tỉnh Hải
Dương, Bắc Ninh, Quảng Yên bị giặc Tạ Văn Phụng, người công giáo, tay
sai của thực dân Pháp tàn phá, nhưng tỉnh Hưng Yên do ông cai quản vẫn
bình yên.
Năm Tự Đức thứ 16 (1863), Hoàng Kế Viêm lãnh Tổng đốc An
- Tĩnh, ông lo mở mang kinh tế, cho đào sông Thiết Cảng để thuyền bè qua
lại dễ dàng.
Đầu năm Tự Đức thứ 23 (1870) ông được đổi về triều. Ông đã
thẳng thắn can ngăn vua bỏ săn bắn, chơi bời. Vua nghe theo. Triều đình
thăng Hoàng Kế Viêm làm Lạng - Bình - Ninh - Thái Tổng đốc quân vụ đại
thần (Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Ninh (gồm cả Bắc Giang) Thái Nguyên
(gồm cả Bắc Kạn). Hoàng Kế Viêm nhậm chức, đốc thúc quân sĩ chuẩn bị
lực lượng chiếm đồn, đồng thời cho người tin cậy thu thập tình hình, tháng
12/1870, ông viết báo cáo về triều đình tình hình biên giới phía Bắc. Ông đã
cầm quân đánh các toán phỉ trên vùng biên giới phía Bắc, trừng trị bọn quan
lại tham nhũng, khoan hồng đối với những người bị quan lại áp bức mà mộ
quân chống lại. ông cũng thu phục được tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc,
giao cho Phúc cai quân vùng đất Lào Cai ngày nay. Ông đã cùng với Kinh
lược sứ Bắc Kỳ đề nghị với triều đình 9 điều cần phải làm đối với các tỉnh
biên giới phía Bắc vừa bình định xong nạn thổ phỉ.
Tháng 10/1871, theo đề nghị của Hoàng Kế Viêm, triều đình
Huế đã quy định một số biện pháp để quản lý số người Trung Quốc ở Việt
Nam từ Ninh Bình trở ra Bắc. Ngày 20/11/1873, quân Pháp đánh thành Hà
Nội, Nguyễn Tri Phương tuẫn tiết, thành Hà Nội mất, quân Pháp đánh rộng
ra các tỉnh Bắc Kỳ. Ngày 20/12/1873, Hoàng Kế Viêm giữ chức Thống đốc
quân thứ Tam Tuyên.
Tôn Thất thuyết, Tham tán quân thứ Tam Tuyên, tướng Cờ Đen
Lưu Vĩnh Phúc, huy động quân ở một số quân thứ và nghĩa quân về phục
kích ở Cầu Giấy và cho một toán quân vào Hà Nội khiêu khích giặc Pháp.
Francis Ganier đang hội đàm buổi thứ hai với Trần Đình Túc ở trong thành.
Thấy bên ngoài thành có động, Francis Garnier bỏ họp đem quân ra ngoài
thành nghênh chiến rồi bị phục kích chết. Tàn quân của Garnier rút vào
thành cố thủ. Hoàng Kế Viêm định đem quân về đánh thành Hà Nội, nhưng
nghe lời bàn thiệt hơn của Hà Ninh tổng đốc Trần Đình Túc nên không
động binh, đợi triều đìnhký Hòa ước.
Lẽ ra nhân đà chiến thắng đó, Triều đình lệnh cho các quân thứ
ở Bắc Kỳ cùng quân Cờ Đen áp đảo thành Hà Nội và các tỉnh thành Hưng
Yên, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định và các đồn lính khác của quân
Pháp thì triều đình sợ trở ngại cho thương lượng nên mật điều Hoàng Kế
Viêm, Tôn Thất Thuyết, Lưu Vĩnh Phúc về phòng thủ ở quân thứ Tam
Tuyên, không cho hoạt động ở Hà Nội nữa.
Để thưởng công cho các tướng thắng trận Cầu Giấy, đồng thời
cũng để tách các ông ra khỏi Hà Nội, tháng 3/1874 (tháng 2 năm Giáp
Tuất), triều đình phong Hoàng Kế Viêm làm Hiệp biện đại học sĩ, phong
tước Tử; Tôn Thất Thuyết làm Binh bộ Hữu Tham tri, phong cho tước
Nam, Lưu Vĩnh Phúc làm Phó Lãnh binh quân thứ Tam Tuyên.
Năm Tự Đức thứ 29 (1875) Hoàng Kế Viêm khuyến khích việc
khai hoang, đắp đê sông Nhị Hà, mở mang trường học.
Năm Tự Đức thứ 31 (1878) ông được thăng Đông các Đại học
sĩ. Hai năm sau (1880), ông được phong Tĩnh biên sứ kiêm cả đạo Lạng
Giang và Đoan Hùng.
Ngày 25/4/1882, trung tá Hải quân Hăngri Rivierơ (Henri
Rivière) theo lệnh của Thống đốc Nam Kỳ Lơ mía rơ Đơ vi lơ (Le myre se
Vilers) rời Sài Gòn đem theo hai chiến hạm cùng 300 quân ra tăng cường
cho lực lượng viễn chinh Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ. Ngày 4/3/1882, Henri
Rivière đóng quân ở Đồn Thủy nắm ,quyền chỉ huy tối cao toàn lực lượng
viễn chinh Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ. Ngày 25/4/1882, quân Pháp tấn công
thành Hà Nội, đến 11 giờ thành Hà Nội vỡ. Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết.
Triều đình muốn thương thuyết đầu hàng Pháp, bắt Hoàng Kế
Viêm phải đuổi quân Cờ Đen lên Tuyên Quang và Sông Đà, Hoàng Kế
Viêm về đóng ở Thục Luyện (huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ).
Triều đình điều đình với Pháp không xong, ngày 12/3/1883,
quân Pháp đánh chiếm Hòn Gai. Ngày 22/3/1883, Hoàng Kế Viêm kết hợp
với Lưu Vĩnh Phúc đánh Hà Nội, nhưng không kết quả. Ngày 28/3/1883
quân Pháp đánh chiếm Nam Định. Sau khi thành Nam Định mất, Hoàng Kế
Viêm bị triều đình giáng xuống hàm Tổng đốc.
Ngày 19/5/1883, Hoàng Kế Viêm triệu tập tướng Lưu Vĩnh Phúc
và một số tướng lĩnh khác lại kéo quân về Cầu Giấy, Hà Nội đánh một trận
phục kích lớn, giết chết trung tá Hải quân Henri Rivière và những binh lính
Pháp. Đây là trận thắng vô cùng lớn lao. Song triều đình sẵn có tư tưởng
đầu hàng, nên đã ra lệnh rút quân về Kinh, nhưng Hoàng Kế Viêm không
tuân lệnh đã chỉ huy quân dân chiến đấu bảo vệ thành Sơn Tây.
Ngày 14/12/1883 quân Pháp do Đô đốc Cuốc bê chỉ huy tiến
đánh thành Sơn Tây. Thành Sơn Tây thất thủ, Hoàng Kế Viêm về đóng
quân ở Thục Luyện.
Hoàng Kế Viêm về Huế bị giáng xuống Thượng thư bộ Công.
Năm Bính Tuất (1886), dưới triều Đồng Khánh ông xin về hưu không được.
Pháp và Đồng Khánh muốn lợi dụng uy tín của ông trong việc phái ông ra
Quảng Bình phủ dụ dân chúng nhưng chúng đã thất bại. Cuối cùng, cuối
năm 1887, Triều đình phải để cho ông về hưu tại làng Văn La, huyện Quảng
Ninh, tỉnh Quảng Bình.
Tại quê hương, ông xuất tiền bạc khai khẩn đất hoang cho dân
chúng làm ăn. Năm Kỷ Dậu (1909) ông mất tại làng Văn La, thọ 90 tuổi.
Vua Duy Tân thương tiếc vị huân hiền của quốc gia ban cho tên
thụy là Văn Nghi.
Hoàng Kế Viêm sáng tác nhiều thơ văn, nay còn các tác phẩm
“Phê thị trần hoàn”, “Khôn Y lục” (Thân thế, sự nghiệp công chúa Hương
La)…
NGUYỄN MẬU KIẾN
Nguyễn Mậu Kiến, hiệu Kinh Đài, sinh ngày 8 tháng 5 năm Kỷ
Mão (6/1819) trong một gia đình giàu có, có truyền thống văn học ở xã
Động Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Tuy sinh trưởng trong một gia đình giầu có nhưng Nguyễn Mậu
Kiến từ nhỏ đã có lòng yêu nước, thương dân. ông thường xuyên xuất tiền,
thóc để cứu tế cho dân Sơn Nam bị mất mùa trong các năm 1856 - 1857.
Ông hiến một phần ruộng đất làm ruộng "binh điền" để trợ cấp cho các gia
đình có con em đi tiễu phỉ ở biên giới, ven biển. ông còn cúng ruộng "học
điền" để khuyến khích việc học, in sách phát không cho học trò.
Ông có uy tín để dàn xếp những vụ xung đột giữa tín đồ đạo
Thiên chúa gây ra với tín đồ đạo Phật ở tỉnh Nam Định, do bọn gián điệp
đội lốt cha cố gây ra hòng làm rối loạn hậu phương của ta mở đường cho
giặc Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ.
Ông học giỏi, nhưng thi cử lận đận, mãi đến năm 1863, khi ông
đã 44 tuổi mới thi đỗ giám sinh (ngang cử nhân). Hai năm sau, năm 1865,
Nguyễn Mậu Kiến mới thi đỗ khoa Hoành từ là khoa thi đặc biệt thời Tự
Đức lấy ngang với đỗ Hoàng giáp để kén chọn nhân tài. Niên hiệu Tự Đức
thứ 20, ông được cử làm Lang trung bộ Lại kiêm bang biện Nam Định. Sau
làm đến Quang lộc Tự khanh.
Nguyễn Mậu Kiến từ chối không ra làm quan, mà trở về quê huy
động nhân công đào sông tiêu nước phát triển nông nghiệp ở huyện Tiền
Hải, nơi Nguyễn Công Trứ tổ chức khai hoang vào các năm 1824, 1828.
Sau nhiều lần Triều đình triệu, năm 1867, ông nhận chức Lại bộ Lang trung,
sung chức bang hiện hai tỉnh Nam Định và Hải Dương. Năm 1868, giặc Cờ
vàng do Hoàng Sùng Anh từ nhà Thanh tràn sang cướp phá Cao Bằng,
Lạng Sơn, Triều đình cử ông làm Bang biện quân thứ Lạng Sơn cùng với
Đề đốc Phan Bân, Tán tương Mai Quý đi đánh dẹp Trước nguy cơ giặc
Pháp đem quân đánh chiếm Bắc Kỳ, năm 1871, Nguyễn Mậu Kiến đã cùng
với hai con là Nguyễn Hữu Cương và Nguyễn Hữu Bản chiêu mộ quân
đánh Pháp. Đúng như phán đoán của ông, sáng ngày 20/4/1873, quân Pháp
đánh chiếm thành Hà Nội.
Ngày 02 tháng 10 năm Quý Dậu (10/12/1873), tàu chiến Pháp từ
sông Vị Hoàng bắn đại bác vào thành Nam Định. Thành Nam Định thất thủ,
Nguyễn Mậu Kiến cùng hai con lui quân về Thái Bình để bảo toàn lực
lượng rồi bắt tay xây dựng căn cứ kháng chiến tại Kiến Xương. Nghĩa quân
do ông chỉ huy lên tới 2.000 người.
Lo sợ trước lực lượng kháng chiến ở Thái Bình do Nguyễn Mậu
Kiến là người chỉ huy tối cao, Garnier từ Nam Định theo sông Hồng xuống
cửa Vân Môn đánh phá Động Trung. Nghĩa quân chặn đánh chúng dọc
tuyến sông Hồng, khiến cho chúng thiệt hại nặng nề cả về quân số và vũ
khí.
Nhưng với sức mạnh của tàu chiến, vũ khí chúng đã tràn được
vào Động Trung, đốt nhà của Nguyễn Mậu Kiến và nhiều kho lương song
Nguyễn Mậu Kiến đã chỉ huy nghĩa quân chiếm lại đồn Chân Định, xây
dựng lại căn cứ, duy trì cuộc chiến đấu. Nghĩa quân luôn luôn tập kích các
đồn binh Pháp, nên chúng không dám đóng đồn ở Thái Bình.
Nguyễn Mậu Kiến cũng như phần đông các bạn bè của ông
kháng lệnh, vẫn duy trì quân đội, tiếp tục cuộc chiến trừng trị những tên
từng theo giặc để bảo vệ độc lập dân tộc. Tự Đức đã xuống chiếu tước hết
chức tước, phẩm hàm rồi bắt sung vào làm lính ở quân thứ Thái Nguyên -
Tuyên Quang.
Nhưng không may trong lúc Nguyễn Mậu Kiến cùng các đồng
chí của mình tích cực hoạt động trên nhiều phương diện để phòng thủ Bắc
Kỳ thì bệnh sốt rét ác tính tái phát và ông đã hy sinh tại quân doanh Đồn
Vàng, Hưng Hoá ( nay là thị trấn huyện Thanh Sơn, Phú Thọ).
LÊ VĂN TỐN
Lê văn Tốn sinh năm 1852, quê ở thôn Kinh Truật, nay thuộc xã
Liên Sơn huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Ông đỗ tú tài khi mới 18 tuổi.
Noi gương Tam Đăng Phạm Văn Nghị, ông bỏ học văn theo học võ và tìm
đọc các sách binh thư với mong muốn trở thành một chiến sĩ thực thụ trên
mặt trận chống Pháp.
Năm 1873 quân Pháp đánh chiếm tỉnh thành Hà Nội, Nam Định,
Hưng Yên, Ninh Bình, Lê Văn Tốn đã chiêu mộ nghĩa quân xuống An Hoà
tham gia nghĩa quân Phạm Văn Nghị đánh Pháp. Ông chiến đấu dũng cảm,
lập công xuất sắc được phong chức Bang biện. Tháng 2/1874, Triều đình
Huế ký hoà ước với Pháp buộc thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa giải tán nghĩa
quân, ông trở về quê. Ông biết dã tâm của bọn Pháp là thôn tính cả nước
Việt Nam, trước sau chúng sẽ đưa quân ra đánh Bắc Kỳ lần nữa, nên không
ngừng luyện tập võ nghệ và liên kết với hào kiệt trong vùng để khi đất nước
có biến thì chiêu mộ quân đánh Pháp.
Năm 1882 quân pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai rồi đem quân
đi đánh các phủ huyện (nay thuộc tỉnh Hà Nam ) Nam Định, Hưng Yên,
Ninh Bình. Ông cùng các chiến hữu chiêu mộ quân đột kích quân Pháp và
đánh bọn “giáo dũng” làm tay sai cho Pháp đi đánh chiếm các phủ huyện.
Sau trận 19/5/1883 tiêu diệt Henri Riviere ở Cầu Giấy, Đinh
Công Tráng về Hà Nam, Nan Định phát động phong trào khởi nghĩa đánh
Pháp thì Lê Văn Tốn cùng với tiến sĩ Ngự sử Lê Văn Mai lập tức đưa quân
bản bộ đến gia nhập nghĩa quân Đinh Công Tráng.
Ông đã giúp Đinh Công Tráng trong công tác tuyên truyền, vận
động nhân dân quyên góp lương thực nuôi quân Lê Văn Tốn cũng là nhà
quân sự đa mưu, túc kế, đã cùng tiến sĩ, ngự sử Lê Văn Mai, Cai Hành bầy
mưu tính kế cho từng trận đánh, khiến cho nghĩa quân ra quân trận nào là
thắng ròn rã trận đó như các trận ở Trang, Thông, Bưởi.
Trong trận nghĩa quân tiến đánh Kẻ Non là huyện lỵ Thanh
Liêm do lực lượng quân Pháp mạnh lại có bọn "giáo dũng" tiếp sức Lê Văn
Tốn bị quân Pháp bắt đưa về giam giữ ở Hà Nội. Trong thời gian ở tù, Lê
Văn Tốn đã chiến thắng những lời dụ dỗ được ông, giặc Pháp đã dùng mọi
cực hình tra tấn, song ông vẫn hiên ngang bất khuất, trơ như đá, vững như
đồng ở nơi tù ngục ông đã làm bài thơ tỏ rõ ý chí của mình, của nghĩa quân:

Ở TÙ
Biết mấy năm nay tới tỉnh Ninh
Quan quân đón rước thật là vinh
Sớm trưa đủng đỉnh gông trên cổ.
Lính tráng canh giờ giáo cửa dinh
Tiêu tướng ngày xưa không khác tớ
Chu Vương thưở nọ cũng như mình
Rồi ra mới hết thân là quý
Gặp gỡ tao mày thực thánh minh.
(Tức Tiêu Hà, thừa tướng của Hán Cao tổ, bị Cao tổ bắt tù. Văn
Vương nhà Chu bị vua Trụ bắt đi tù).
Ngày 17/12/1886, giặc Pháp xử chém ông ở Hà Nội. Trên đường
ra Pháp trường ông ung dung đọc bài thơ.
ĐỌC LÚC RA PHÁP TRƯỜNG
Ai ơi chớ nghĩ tớ là thường,
Nào đã công thần, đã bá vương.
Lính tráng đón đưa năm bảy lũ,
Tiếng tăm lững lẫy chín mười phương.
Lầu rồng, gác tía xênh xang ở.
Thẻ ngọc, đai vàng đủng đỉnh mang.
Thiên hạ ai ai là chẳng sợ,
Theo xem nô nức thật đầy đường.
PHẠM THẬN DUẬT
Phạm Thận Duật sinh năm 1825 , quê ở làng Yên Mô Thượng,
tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình - nay là xã Yên Mạc, huyện
Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Khoa Canh Tuất, triều Tự Đức (1850), Phạm Thận Duật 26 tuổi
đỗ cử nhân trường Nam Định.
Năm Tân Hợi (1851) Phạm Thận Duật vào kinh thi Hội, chỉ lọt
tam trường, không trúng cách.
Năm Nhâm Tý (1852) ông được cử làm giáo thụ phủ Đoan
Hùng. (Khi đó Đoan Hùng còn thuộc tỉnh Sơn Tây).
Năm Ất Mão (1855), ông nhận chức Tri châu Tuần Giáo tỉnh
Hưng Hóa, được thăng Tòng lục phẩm.
Năm Bính Thìn (1856) ông kiêm nhiệm Tri châu Luân Châu.
Trong thời gian ở Tuần Giáo, ông soạn sách “Hưng Hóa ký lược”. Nhận xét
về cuốn Hưng Hóa ký lược, Phó giáo sư Phan Văn Các, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm trong bài "Hưng Hóa ký lược cuốn địa phương chí đặc sắc của
Phạm Thận Duật” in trong tập "Phạm Thận Duật toàn tập” kết luận như
sau: "Có thể nói với Hưng Hóa ký lược , Phạm Thận Duật đã thể hiện một
tư duy khoa học sắc sảo, vượt ra ngoài khuôn khổ đào tạo kiểu từ chương
khoa cử đương thời, vươn tới chiếm lĩnh những tri thức bách khoa và thực
tiễn để có cống hiên đích thực cho khoa học và cho đất nước”.
Năm Đinh Tỵ (1857) ông được thăng Tri phủ tòng ngũ phẩm,
đảm nhiệm tri huyện Quế Dương và Võ Giàng tỉnh Bắc Ninh.
Năm Mậu Ngọ (1858), ông giữ chức Tri phủ Lạng Giang tỉnh
Bắc Ninh kiêm Tri huyện Quế Dương. Với cương vị Tri phủ Lạng Giang,
ông đã phải đối phó với bọn phỉ quấy rối ở thượng du.
Từ năm 1866, Phạm Thận Duật được điều lên tỉnh làm Bang
biện, kiêm đồn điền sứ. Đến tháng 10 năm 1867, ông đã thành lập ba sở đồn
điền ở Lục Ngạn, Hiệp Hòa, Kim Anh với quy mô khá lớn. Tiếc thay chỉ
một năm sau, Tự Đức ra lệnh bãi bỏ ba đồn điền này. Phạm Thận Duật ban
bố nhiều chính sách phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp ở tỉnh Bắc
Ninh, song từ năm 1867 trở đi giặc cướp liên miên, Phạm Thận Duật được
thăng Án sát. Do có công lao đánh phỉ, năm 1870, ông được thăng Bố chính
Bắc Ninh. Đúng lúc đó Thanh phỉ do Ngô Côn cầm đầu từ Cao Bằng, Lạng
Sơn tràn xuống đánh phá Bắc Ninh. Tiễu phủ Ông Ích Khiêm và Bố chính
Phạm Thận Duật đã sử dụng mưu lược. Ông Ích Khiêm giả núng thế chạy
xuôi, Phạm Thận Duật giữ thành Bắc Ninh bằng một đạo cô quân. Ngô Côn
vây thành quyết chiếm thành, Phạm Thận Duật cố giữ, tiêu hao giặc. Ông
Ích Khiêm được bổ sung lực lượng, bất ngờ đưa viện binh quay lại từ ngoài
đánh vào. Phạm Thận Duật dẫn quân từ trong đánh ra, ép giặc vào giữa.
Ngô Côn bị trúng đạn, chết dưới chân thành.
Năm 1871, tên Tịch, thủ hạ của Ngô Côn tự xưng là Đại nguyên
soái lại nổi lên ở Bắc Ninh, bè lũ tới trên 4000 tên, Phạm Thận Duật hợp
sức với quân triều đình đánh tan. Ông được thưởng quân công một cấp.
Phạm Thận Duật đang làm Bố chính tỉnh Bắc Ninh được triều đình cử làm
Tuần phủ Hà Nội kiêm chánh đốc thông bảo cục (Sở đúc tiền), kiêm tri
phòng khẩu sự vụ (phụ trách những việc khẩn yếu). Công việc của Phạm
Thận Duật là bố trí lại bộ máy cai trị của tỉnh Hà Nội đã bị tan tác sau khi
Pháp đánh chiếm. Trong thời kỳ Pháp chiếm đóng, nhiều lưu manh và giáo
dân ỷ vào giặc Pháp đi cướp bóc của cải, chỉ điểm cho Pháp bắt những
người yêu nước, nên tình hình an ninh không bảo đảm, mâu thuẫn giữa giáo
dân Thiên chúa với những người theo đạo Phật nặng nề. Phạm Thận Duật
phải mất khá nhiều thời gian để giải quyết việc này.
Phạm Thận Duật thuộc phe chủ chiến, nên trừng trị thẳng tay
bọn cộng tác với Pháp hạ thành Hà Nội và đánh phá nhiều nơi khác, bọn
ngụy quyền do Pháp đặt ra, nay bị Pháp bỏ rơi vẫn quấy rối, nhũng nhiễu
dân chúng, gây ra nhiều vụ mất an ninh.
Trong bộ "Châu bản triều Nguyễn” còn lại đến nay còn bản tấu
đứng tên Tuần phủ Hà Nội Phạm Thận Duật về việc: "Sau khi quân Pháp
rút, quan quân Hà Nội phải đánh dẹp một toán phản loạn 500 người, cầm
đầu là bọn đã theo Tây tấn công phủ Lý Nhân (thuộc tỉnh Hà Nội). Những
tên cầm đầu đã bị hành quyết làm răn”. (Bản chính công văn hành chính
của triều Nguyễn, trong đó có lời "châu phê" (phê sau) của nhà vua cho nên
có tên như vậy. Nhóm biên soạn "Phạm Thận Duật toàn tập" căn cứ vào bản
dịch tóm tắt các chân bản thời Tự Đức hiện còn lưu giữ ở Viện Hán - Nôm -
Hà Nội).
Phạm Thận Duật thẳng tay trừng trị bọn Việt gian giáo dân đạo
Thiên chúa đã tiếp tay cho giặc Pháp, phản bội Tổ quốc, mặc dù trong điều
2 Quy ước ký kết giữa Nguyễn Văn Tường với Pháp, đại diện Soái phủ Sài
Gòn về những sự kiện vừa xảy ra ở Bắc Kỳ ký ngày 5 tháng 1 năm 1874,
ghi: “Triều đình Huế phải ra ngay bản Tuyên bố ân xá tất cả những người
vừa qua đã cộng tác với Pháp”.
Phạm Thận Duật bổ nhiệm các quan chức ở tỉnh Hà Nội, ở các
phủ huyện là những người yêu nước, có công chống Pháp, bảo vệ dân trong
thời gian Pháp đánh chiếm Hà Nội, xử tội bọn quan chức do Pháp dựng lên,
cách chức, hạ cấp bậc các quan chức khi quân Pháp đánh, bỏ chạy. Ông
cũng dâng sớ về triều phong thưởng cho những người không kể là quan hay
lính nhưng có tinh thần dũng cảm chiến đấu. Ông còn xuất công quỹ trợ cấp
cho vợ con những binh sĩ hy sinh khi bảo vệ thành Hà Nội và các lị sở khác.
Vì vậy ông đã nhanh chóng ổn định bộ máy cai trị ở tỉnh và các phủ huyện
đã bị tan tác khi Pháp hạ thành Hà Nội và các phủ huyện (gồm Hà Nội và
Hà Nam) và kiên quyết trừng trị những toán phản loạn đã từng theo Pháp
tấn công thành Hà Nội và các phủ huyện.
Phạm Thận Duật không phải chiến đấu trực tiếp với giặc Pháp
như Nguyễn Tri Phương, song từ quan văn, ông đã phải làm võ tướng đánh
dẹp Thanh phỉ và bọn giặc Tạ Văn Phụng, tay sai của giặc Pháp đánh phá
các tỉnh ở Bắc Kỳ, làm do thám cho giặc Pháp, chia rẽ giáo, lương, chuẩn bị
cho giặc Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ hai.
Cuối năm 1875, Phạm Thận Duật được cử làm Hộ lý tổng đốc
Ninh - Thái (Bắc Ninh và Thái Nguyên), giữa năm 1876 ông bị ốm nặng
phải nghỉ điều trị, sau đó về kinh làm Tham tri bộ Lại, kiêm phó Đô ngự sử
Viện đô sát.
Nhận chức vụ ở kinh chưa được 2 tháng, triều đình cử Phạm
Thận Duật trở lại Bắc với chức vụ "Khâm sai kinh lý hà đê sứ” chỉ huy việc
trị thủy vùng tả ngạn sông Hồng.
Quan điểm của ông và của Hoàng Diệu là không bỏ đê mà đắp
ngay đê bao lớn ở những nơi đê đã bị vỡ như ở Văn Giang; đắp đê ngăn
mặn; khơi thông dòng chảy. Ông cũng đề xuất chuyển dần chân mùa sang
chân chiêm theo lối hai bát úp một, lấy lợi phù sa bồi đắp để bù lại.
Với chức vụ khâm sai Hà đê sứ (và cả khi còn giữ chức thự
Tuần phủ Bắc Ninh) ông đã gửi tới vua Tự Đức 19 bản tấu về công tác đê
điều (từ tháng 12 năm 1875 đến tháng 7 năm 1878).
Cuối thu 1878, Phạm Thận Duật trở về kinh được thăng Thượng
thư bộ Hình, sung Phó tổng tài Quốc sử quán, kiêm quản Quốc tử giám.
Năm 1879, ông được cử làm đại thần Viện cơ mật.
Giữa năm 1879, mẹ ông mất, ông về cư tang, vua Tự Đức ban
cho ông 50 quan tiền làm đám. Ngay sau đó, ông có lệnh triệu về Kinh để
cùng triều đình lo toan công việc. Ông dâng sớ xin lưu lại ít lâu thì bị vua
Tự Đức quở, ông đành phải vào Kinh. Trên đường ông thấy dân tình xáo
xác vì vụ mùa vừa mất, lòng thương dân của ông xáo động. Vừa vào đến
kinh, ông đã dâng sớ xin triều đình tư sức cho các quan tỉnh đốc thúc dân
chúng trồng thêm rau, củ, ngũ cốc để cứu đói. Vua Tự Đức chấp nhận và
cho thực thi.
Với cương vị Phó tổng tài quốc sử quán, ông đã kiểm duyệt lại
bộ “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”. Ông đã đầu tư nhiều công
sức cho công trình trên, đến đầu năm 1882 ông đã làm xong, xin cho chép
lại sạch sẽ và đưa khắc in.
Trong thời gian làm Thượng thư bộ Hình ông đã có nhiều kiến
nghị về phòng thủ đất nước.
Năm 1882, Phạm Thận Duật được cử làm Khâm sai chánh sứ,
Nguyễn Thuật làm phó sứ sang Thiên Tân. Song giữa lúc ấy thì Phạm Thận
Duật nhận được tin từ Bắc Kỳ đưa sang là Henri Rivière đánh chiếm tỉnh
thành Nam Định và vua Tự Đức ốm, chết ngày 19 tháng 7 năm 1883. Tình
hình phế lập của triều đình Huế rối ren, quân Pháp tấn công cửa Thuận An.
Triều đình Huế phải ký Hiệp ước Harmand với nội dung là triều đình Huế
chấp nhận Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, Trung Kỳ, Bắc Kỳ là đất bảo hộ
của Pháp.
Phạm Thận Duật đành phải trở về nước trên đường về bị ốm
phải nằm lại điều trị, tính ra kéo dài một năm.
Bất chấp Hiệp ước Hannand, nhiều sĩ phu ở Bắc Kỳ phối hợp
với Lưu Vĩnh Phúc, Đường Cảnh Tùng tiếp tục đánh Pháp.
Vua Hiệp Hòa tỏ ra bạc nhược, thân Pháp nên Viện cơ mật đầu
độc chết, đưa Kiến Phúc lên ngôi (trong 4 ngày có 3 vua).
Phạm Thận Duật chuyển từ Thượng thư bộ Hình sang Thượng
thư bộ Hộ và kiêm nhiệm cả Công bộ Tả tham tri (trong đó có việc xây
dựng thành lũy, đồn binh), ông vẫn có chân trong Viện cơ mật. Vua Kiến
Phúc còn nhỏ tuổi, nên quyền hành đều thuộc về Viện cơ mật, ông là nhân
vật thứ ba sau Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Với cương vị
Thượng thư bộ Hộ, ông đã xử lý nghiêm khắc nhiều vụ tham nhũng tiền và
thóc như ở Thanh Hóa, có hàng chục kẻ bị chém, hàng trăm quan tỉnh, phủ,
huyện bị mất chức, giáng, phạt.
Ngày 25/7/1885, Phạm Thận Duật được thăng Vinh Lộc đại phu,
chánh thất phẩm nhận nhiệm vụ khâm sai đại thần ra Bắc chiêu tập nghĩa sĩ
Cần vương, tổ chức kháng chiến, xây dựng phong trào Cần vương ở Bắc
Kỳ. Hai bà vợ ông được phong hàm tòng nhất phẩm phu nhân. Ngày 26
tháng 7/1885, xa giá vua theo đường núi Nghệ Tĩnh để ra Bắc. Phạm Thận
Duật cùng hai con là Phạm Luyện, Phạm Cầu và đoàn tùy tùng quay ra
Quảng Trị để theo đường biển ra Bắc trước. Ông bị ốm phải ở lại thôn Hà
Trung, huyện Triệu Phong điều trị. Ngày 29 tháng 7 năm 1885, ông trên
đường ra bến đò vừa đến Quán Dốc thuộc thôn Hà Trung thì bị Tri phủ
Triệu Phong là Tôn Thất Thị đưa lính đến bắt cùng hai con là Phạm Luyện,
Phạm Cầu và cả đoàn tùy tùng. Tôn Thất Thi nộp ông cho Pháp. Ngày
31/7/1885, quân Pháp đưa ông và đoàn tùy tùng về giam ở Thương Bạc.
Ngày 1/9 ông bị quân Pháp đưa xuống tầu ra giam ở nhà tù Côn Đảo. Ngày
23/11/1885, Pháp đưa ông cùng một số người nữa đi đày ở quần đảo Tahiti.
Ông đang bị ốm nặng, nên ngày 29/11/1885, ông mất ở trên tầu thuộc vùng
biển Malaixia. Các bạn tù thủy táng ông ở dưới biển.
Mãi đến năm 1995, nhân kỷ niệm 110 năm ngày mất của danh
nhân Phạm Thận Duật, UBND tỉnh Ninh Bình, Viện Sử học Việt Nam, hội
Khoa học lịch sử Việt Nam đã long trọng tổ chức hội thảo về thân thế, sự
nghiệp Phạm Thận Duật, đã dựng nhà bia tưởng niệm ông tại Yên Mô
Thượng. Các báo Nhân dân, Quân đội nhân dân, Hà Nội mới, Đại đoàn kết,
Tin tức buổi chiều, Văn hóa và thể thao, Đài phát thanh Tiếng nói Việt
Nam... đều có bài viết, bài nói về thân thế, sự nghiệp của Phạm Thận Duật;
Đài truyền hình Việt Nam giới thiệu tập phim tài liệu: "Phạm Thận Duật -
cuộc đời và sự nghiệp”. Tháng 11 năm 2000, Trung tâm Unesco thông tin
tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam và Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin đã
xuất bản cuốn "Phạm Thận Duật toàn tập”. Cuốn sách đã nêu rõ thân thế
sự và sự nghiệp trên chính trường, chiến đấu cùng các trước tác của ông.
TẠ HIỆN
Tạ Hiện còn có tên là Tạ Quang Hiện, sinh năm Tân Sửu (1841),
người làng Quang Lang, tổng Hổ Đội, huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình,
nay là xã Quang Lang, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Tạ Hiện từ khi
nhỏ ưa hoạt động, giỏi võ nghệ, bơi lặn giỏi, đỗ tú tài võ. Ông đã giữ chức
Đốc binh quân vụ tỉnh Tuyên Quang.
Tháng 9/1872, Tạ Hiện chỉ huy một số thuyền nhỏ của Nghệ An
đánh tan 30 chiến thuyền lớn của bọn hải tặc Trung Quốc tại Hàm Giang
(Quảng Yên). Sau chiến thắng này, Tạ Hiện được phong Phó quản cơ.
Ngày 31/12/1873, quân Pháp trao trả tỉnh thành Hải Dương,
triều đình cử Tạ Hiện làm Lãnh binh, (Nguyễn Huy Tự làm Hộ đốc,
Nguyễn Hữu Đỗ làm Bố chính).
Tháng 10/1879, thành lập đồn Cối Sơn, tỉnh Quảng Yên, Tạ
Hiện được cử chỉ huy đồn. Ông chỉ huy quân lính đánh dẹp bọn phỉ Tàu,
nên vùng này được yên lành.
Năm 1883, triều đình Huế ký Hòa ước Quý Mùi nước ta phải
chịu sự bảo hộ của Pháp.
Tháng 8/1882, Tạ Hiện được thăng Chưởng vệ, lãnh Đề đốc Bắc
Ninh. Tháng 2/1883, triều đình giao cho Tạ Hiện chỉ huy đội Hùng nhuệ
thay Thống chế Hoàng Văn Thụ bị giáng chức.
Ngày 27/3/1883, thành Nam Định thất thủ, Tạ Hiện xin triều
đình đổi về giữ chức Đề đốc Nam Định để khôi phục lại tỉnh thành.
Tháng 9/1883, triều đình ra lệnh triệt binh, Tạ Hiện không chịu,
kiên quyết ở lại cùng nhân dân kháng chiến. Ông phái người nộp trả ấn Đề
đốc, rồi cùng một số đồng chí, lui về phủ Kiến Xương (Nam Định) phát
lệnh tố cáo giặc Pháp xâm lược, chiêu mộ hương dũng đánh Pháp nhiều
trận kịch liệt. Ông còn mở rộng địa bàn hoạt động xây dựng căn cứ chống
Pháp ở các huyện Hưng Nhân và huyện Thán Khê, Duyên Hà khi đó thuộc
tỉnh Hưng Yên. Ông cũng phối hợp với Đổng quân vụ Đinh Gia Quế thủ
lĩnh cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy đánh quân Pháp nhiều trận lớn trên hai bờ Tả
ngạn và Hữu ngạn sông Luộc.
Cuối năm 1883, Tạ Hiện tập trung tới 4.000-5.000 nghĩa quân,
đánh chiếm lại tỉnh thành. Họ đã làm chủ vùng nông thôn: thu thuế, tuyển
lính, xử án...
Trong những chiến công nghĩa quân do Tạ Hiện chỉ huy trên các
chiến trường ở các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Kiến
An, có những trận đánh lớn vào đồn giặc ở Trà Lý (Thái Bình), đền Trần
(Nam Định) trận đánh úp đồn Quỳnh Côi (Thái Bình) gây cho địch nhiều
thương vong và thu được nhiều vũ khí. Nghĩa quân dựa vào dân thực hiện
chiến tranh du kích, thiên biến vạn hóa, thoắt ẩn, thoắt hiện. giặc Pháp tung
quân đi càn quét lại không thấy nhưng lại thường bị đánh úp, bị phục kích.
Có trận nghĩa quân mặc quần áo lính khố xanh, công khai hành quân ban
ngày.
Lực lượng nghĩa quân Tạ Hiện ngày càng đông, mạnh mẽ, được
huấn luyện tốt, có ý thức căm thù giặc và ý thức kỷ luật cao.
Tạ Hiện đã phối hợp với nhiều thủ lĩnh nghĩa quân như Đinh Gia
Quế ở Bãi Sậy trong các năm 1883, 1884. Bang Tốn và một số tướng lĩnh
của ông đã sát cánh chiến đấu với nghĩa quân Bãi Sậy. Ông cũng phối hợp
với Nguyễn Thiện Thuật, Lã Xuân Oai, Phạm Huy Quang, Cai Kinh, Lưu
Vĩnh Phúc, đánh quân Pháp ở cầu Quan Âm (Bắc Lệ, Lạng Sơn) ngày
24/5/1884.
Đêm mùng 4 rạng ngày mùng 5 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất
Thuyết, Trần Xuân Soạn, Phạm Thận Duật tấn công đồn Mang Cá và tòa
Khâm sứ ở kinh đô Huế. Bị quân Pháp phản công, Tôn Thất Thuyết hộ giá
vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị phát động phong trào Cần vương,
Tạ Hiện đã nhiệt liệt hưởng ứng, ông được vua Hàm Nghi thăng thự Đô
thống. Từ đó nghĩa quân của ông hoạt động càng mạnh, gây cho giặc Pháp
nhiều tổn thất.
Từ tháng 10 năm 1886, nghĩa quân Tạ Hiện hoạt động mạnh trở
lại. Nghĩa quân đánh úp đền Quỳnh Côi. Nghĩa quân do Bang Tốn chỉ huy
và nghĩa quân do sư So ở chùa Thiền Quang chiếm lại được phủ Kiến
Xương, tấn công huyện Trực Định (Kiến Xương). Nghĩa quân còn đánh đồn
Thanh Quan, đồn Vụ Bản và nhiều trận khác. Daufès trong cuốn La Garde
indigène de 1’Indochine de sa création à nos four, tập I, Toukin, Avignou
1933 đã phải thừa nhận: "Đội lính khố xanh đã xung đột nhiều trận với các
đội nghĩa quân của Tán Thuật, Lãnh Giang, Tổng Kinh, Đốc Sung, Đề đốc
Tạ Hiện, Đốc Tít… chỉ huy càn quét, bình định vùng giữa sông Luộc và
sông Trà Lý, đột phá làng mạc, tàn sát nhân dân. Nghĩa quân tránh những
trận đánh lớn, chỉ lẻ tẻ chiến đấu. Nghĩa quân của ông thường đào hố ngụy
trang dụ địch đến là nhẩy ra bắt gọn chúng, nên chúng gọi là "giặc vồ”.
Về cái chết của Tạ Hiện, có nhiều tư liệu khác nhau, nhưng đáng
tin là cuốn “Lịch sử quân sự Đông Dương” thì đầu năm 1887, Tạ Hiện bị
địch bắt và bị giết vào đêm mùng 2 tháng 2 năm 1887 ở Bình Bắc, Phả Lại,
Đông Triều. Các cụ già ở quê Tạ Hiện cũng xác định ông bị giặc Pháp bắt
và giết ở quê vợ tại Đông Triều, hiện ở đó còn đền thờ ông.
Ngoài võ công lừng lẫy, Tạ Hiện còn là nhà thơ, nay còn lại bài
"Cái nợ tang bồng”.
Cái nợ tang bồng tí tẻo teo,
Nay đòi mai hỏi tiếng ong eo.
Nay ta quyết kéo trời Nam tại
Kéo để giang sơn đổ lộn phèo
(Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, trang 214 nhóm Chu Thiên,
Văn học, Hà Nội, 1970)
PHẠM HUY QUANG
Phạm Huy Quang sinh năm 1847 tại làng Phù Lưu, huyện Đông
Quan (nay là xã Đông Sơn, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình).
Ngày 1 tháng 7 năm 1868, Phạm Huy Quang đậu cử nhân đứng
hàng thứ năm. Đầu năm Tự Đức thứ 22 (1869) có dụ ở kinh đô triệu ông
vào nhận chức Hàn lâm Cung phụng, tập sự ở viện Đô sát. Sau đó ít lâu
Phạm Huy Quang xin chuyển về Đông đạo ngự sử Bắc Kỳ với dụng ý ngăn
chặn bớt sự tham nhũng của quan lại. Năm Tự Đức thứ 25 (1872) ông về
Hải Dương thị sát với Tổng đốc Phạm Phú Thứ. Ông kiểm tra các tỉnh
Quảng Yên, Hải Dương, Hưng Yên, một phần Nam Định. Đây là vựa lúa
của đồng bằng sông Hồng. Nhà vua đã ra điều lệnh cho lập xã thương và
nghĩa thương để cứu đói cho dân khi mất mùa. Ông cùng Phạm Phú Thứ
điều tra thì số thóc trên bị quan lại, tổng lý vay chi tiêu vào mục đích khác.
Ông đã tìm đủ mọi chứng cứ, bắt những kẻ tham nhũng phải bồi thường cho
các nhà kho. Ông đem thóc đó phân phát cho dân bị đói. Năm 1874, Phạm
Huy Quang được thăng Hàn lâm Điển bạ kiêm Giám sát Ngự sử Bắc Ninh.
Tới Bắc Ninh, Phạm Huy Quang gặp lại bạn cũ là cử nhân Ngô
Quang Huy, đốc học Bắc Ninh, phó bảng Lã Xuân Oai, người làng Thượng
Đồng, huyện Phong Doanh, tỉnh Nam Định ( nay là xã Yên Tiến, huyện Ý
Yên) khi đó đang ở Bắc Ninh, Phạm Thận Duật, Bố chính tỉnh Bắc Ninh.
Các ông trở thành bạn cùng chí hướng, thấy rõ Tự Đức là một ông vua
mang nặng tư tưởng đầu hàng giặc Pháp, phải tổ chức lực lượng kháng
chiến chống Pháp nên phân công Lã Xuân Oai liên lạc với quân Thanh để
mua súng bắn nhanh do phương Tây sản xuất. Còn ông (Phạm Huy Quang),
cùng với Ngô Quang Huy, Phạm Thận Duật, giúp Nguyễn Cao người làng
Cách Bi huyện Quế Dương thành lập đội nghĩa dũng Bắc Ninh.
Tháng 11/1873, quân Pháp đánh chiếm Hà Nội, Hưng Yên, Hải
Dương, Nam Định, Ninh Bình để ép triều đình Huế nhượng lục tỉnh Nam
Kỳ cho giặc Pháp.
Mặc dù triều đình đầu hàng giặc, phe chủ chiến vẫn quyết tâm
đánh Pháp. Ngày 3/12/1873, quân triều đình dưới sự chỉ huy của Tán tương
Trương Quang Đản cùng nghĩa quân Nguyễn Cao, Phạm Huy Quang tập
kích quân Pháp chiếm lại phủ Thuận Thành.
Chán cảnh Triều đình đầu hàng giặc, mùa xuân năm 1875, Huy
Quang xin từ quan mở trường dạy học. Song với lòng yêu nước thiết tha,
ông lại bỏ hết gia tư, điền sản cho việc mộ quân, thiết lập các đồn mới để
liên kết với các cánh quân khác cùng khởi nghĩa.
Cuối năm 1888, Phạm Huy Quang được tin nghĩa quân chuẩn bị
đánh ra Nam Định đã từ Phủ Gạch về đồn Đọ bàn kế hoạch phối hợp tác
chiến. Song do Khán Quyết đã chỉ điểm, quân Pháp biết rõ hành trình của
Phạm Huy Quang, chúng cho Khán Quyết và hai tên lính tập giả làm phu
khiêng cáng vào làng Đọ chờ sẵn. Khi Phạm Huy Quang bàn việc ở đồn Đọ
xong lên cáng trở về đồn Phủ Gạch để bàn kế hoạch đưa quân đi đánh phối
hợp. Khán Quyết và hai tên phu cáng ra khỏi làng Đọ chúng không đưa ông
về Phủ Gạch mà về đồn Châu Giang. Ông đòi xuống, chúng ra hiệu cho
Bang Văn chỉ huy một toán lính bám theo sau ập đến bắt ông giải về đồn
Châu Giang. Quân Pháp tra tấn ông không moi được tin tức gì, ngay sáng
hôm sau chúng đưa ông ra bãi bắn chết.
Phạm Huy Quang hy sinh song phong trào kháng chiến chống
Pháp còn duy trì tới năm 1892 mới tan rã. (Danh nhân Thái Bình - Việt Nam
những sự kiện lịch sử, tập 1 - Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX. Nxb
văn học, Hà Nội. 1977).
NGUYỄN CAO
Nguyễn Cao, sinh năm 1840 tại làng Cách Bi huyện Quế
Dương, tỉnh Bắc Ninh, nay là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Nguyễn Cao
lúc nhỏ được gửi đến ở nhà ông tú tài Nguyễn Gia Giao ở xã Liễu Ngạn,
phủ Thuận Thành, sau theo học thày Phạm Văn Nghị ở Tam Đăng. Năm
Đinh Mão (1867) Tự Đức thứ 20, ông đỗ Giải nguyên (đỗ đầu Cử nhân).
Ông không ra làm quan ở mà nhà dạy học.
Tháng 11/1873, quân Pháp từ Hà Nội đánh chiếm Gia Lâm, Siêu
Loại, Nguyễn Cao chiêu mộ được hơn 1000 nghĩa dũng cùng Bố chính
Phạm Thận Duật đánh quân Pháp. Ngày 4/12/1873, nghĩa quân của ông tấn
công quân Pháp ở Gia Lâm, Thuận Thành, diệt nhiều giặc Pháp, bắt sống
150 ngụy quân, giải phóng một vùng rộng lớn. Ngày 15/3/1874, Triều đình
Huế ký với Pháp Hiệp ước "Hòa bình và liên minh” có lợi cho Pháp. Sau
khi Hòa ước ký, Nguyễn Cao buộc phải giải tán nghĩa quân.
Ông có công cùng Phạm Thận Duật đánh dẹp giặc nên triều đình
ép ông làm Tri huyện Yên Dũng rồi Tri huyện Lạng Giang. Ông làm quan
thanh liêm, trừng trị bọn trộm cướp, quan lại nhũng nhiễu dân, tổ chức cho
dân khai hoang, phục hóa, cải thiện đời sống. Triều đình thăng ông chức Bố
chính Thái Nguyên rồi đi kinh lý khẩn hoang ở Nhã Nam.
Ngày 25/4/1882, quân Pháp tấn công thành Hà Nội, đến 10 giờ
cùng ngày, thành vỡ, Tổng đốc Hoàng Diệu tự tử. Nguyễn Cao đang làm
Tán lý quân vụ tỉnh Bắc Ninh đã chăm lo, củng cố thành Tỉnh Đạo. Ông lại
đem quân về Hà Nội cùng các cánh quân khác bao vây Hà Nội. Ngày
27/3/1883 Nguyễn Cao đã cùng nhiều quan lại khác chỉ huy 4000 quân Tứ
Tổng đột nhập vào phố Hàng Đậu tấn công Cửa Đông, buộc quân Pháp phải
rút vào trong thành cố thủ.
Đêm 11/3/1883, Nguyễn Cao đóng quân ở Gia Lâm, cho quân
nã đại bác vào đồn Đồn Thủy, vị trí đóng quân của quân Pháp. Ngày
15/5/1883, quân Pháp đổ bộ sang Gia Lâm, Nguyễn Cao dàn quân ra đánh.
Hai bên kịch chiến đến tận ngày hôm sau. Ngày 16/3/1883 Nguyễn Cao bị
thương nặng ở bụng. Sau khi vết thương lành, ông được cử giữ chức Tán lý
quân vụ Bắc Kỳ.
Triều đình Huế nhu nhược liên tiếp nhượng bộ Pháp nhiều
quyền lợi của quốc gia, rút hết quân đội ở các vị trí chiến lược quan trọng,
ngăn cấm nhân dân vũ trang đánh Pháp. Mùa Xuân năm 1884, Bắc Ninh trở
thành chiến trường nóng bỏng. Ngay từ những ngày đầu tiên Nguyễn Cao
đã cùng với Hoàng Văn Hòe đã đối phó với quân Pháp. Các ông phối hợp
với nghĩa quân Ba Báo liên tục tấn công quân Pháp ở Phả Lại và sông Cầu.
Khi thành Bắc Ninh mất, Nguyễn Cao, Hoàng Văn Hòe cùng nhiều quan
lại, sĩ phu rút về thành Tỉnh Đạo. Đầu năm 1884 Nguyễn Cao cùng Ngô
Quang Huy, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Văn Hòe, Dương Khải thành lập
"Đại nghĩa đoàn” hay còn gọi là “Tam tỉnh nghĩa quân” tiếp tục đánh
Pháp. Đại nghĩa đoàn có hơn 5000 quân tuyển mộ từ các tỉnh Bắc Ninh,
Hưng Yên, Hải Dương đánh Pháp. Trong số tướng chỉ huy có Đội Văn tức
Vương Văn Vang người thôn Thuận An xã Chạm Lộ, tổng Tam Á, huyện
Thuận Thành, nay thuộc xã Chạm Lộ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh;
Nguyễn Quang tức Nguyễn Trọng Đạo và tú tài Nguyễn Trọng Huyên là hai
anh em họ Nguyễn quê ở làng Phù Khê, tổng Nghĩa Lập, huyện Đông
Ngàn, phủ Từ Sơn, nay thuộc xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
tham gia.
Nghĩa quân Đại Nghĩa đoàn dựng đại đồn trong cánh rừng Báng
ở làng Đình Bảng, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, chia quân đóng giữ các
vị trí sung yếu uy hiếp quân Pháp ở lưu vực sông Cà Lồ (tỉnh Phúc Yên cũ).
Các ông xây dựng căn cứ ở núi Nham Biền, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc
Ninh, nay thuộc Bắc Giang cùng các đồn binh ở Trúc Ty, Vân Cốc, Trung
Đồng khống chế vùng ngã ba Phượng Nhỡn nơi hợp lưu của các sông Lục
Nam, sông Thương, sông Cầu tạo thành Lục Đầu Giang.
Tháng 7/1884 nghĩa quân Đại nghĩa đoàn tấn công quân Pháp ở
Ngọc Trì (nay thuộc xã Bình Định, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh). Nghĩa
quân còn củng cố các căn cứ ở Đình Bảng, Vân Cốc, Trung Đồng.
Theo Hiệp ước Pháp - Thanh, quân Thanh và quân Cờ đen của
Lưu Vĩnh Phúc rút về nước. Đại nghĩa đoàn tan rã, Nguyễn Cao về làng
Kim Giang, huyện Sơn Lãng, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Ứng Hòa, Hà
Tây) dạy học.
Tháng 7/1885 vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị
hạ chiếu Cần vương, Nguyễn Cao lại đứng ra vận động các sĩ phu Bắc Kỳ
chống Pháp. Đầu năm 1886 vua Hàm Nghi phong cho ông chức Tán lý
quân vụ Bắc Kỳ. Được ít lâu tình hình khó khăn, ông lại lui về Kim Giang
bí mật tập hợp đồng chí.
Tháng 4 năm Đinh Hợi (5/1887), quân Pháp bắt được một tờ sớ
của Hồng lô Tự khanh Tán tương quân vụ Ngô Quang Huy gửi vua Hàm
Nghi có nói tới Nguyễn Cao. Bọn Pháp tung mật thám đi dò xét, ở làng
Kim Giang có tên Việt gian tố cáo ông với giặc Pháp để tiến thân. Hôm đó
ông không có nhà, học trò đến báo cho ông biết và xin ông tránh đi. Ông
nói: "Bọn kia mất ta, tất sẽ tróc nã tìm trong dân chúng. Ta không nỡ vì một
thân này mà để tai họa cho vài trăm người”. Rồi ông ung dung đi về nhà.
Giặc đưa lính về bắt, chúng nhốt ông vào cũi giải về Hà Nội. Ông cắn lưỡi
tự tử, chúng cứu chữa ông để khai thác các sĩ phu chống Pháp ở Bắc Kỳ. Có
tên Việt gian đến dụ dỗ ông, chê bụng ông tối tăm không hiểu thời thế. Ông
đập bát, lấy mảnh bát khoét rốn rút ruột ra cho chúng xem và thét: "Chúng
bay xem, ruột tao trắng như ngó cần!”. Bấy giờ người đứng xem chật ních
đều sợ hãi, bưng mặt mà chạy. Bọn giặc Pháp đưa ông đi cấp cứu. Ông nhịn
ăn, uống, luôn miệng chửi bới quân thù, rồi thiếp đi. Khi tỉnh dậy, ông cắn
lưỡi tự tử. Hôm đó là ngày 24 tháng ba năm Đinh Hợi (14/4/1887).
Cái chết của ông làm kẻ thù khiếp sợ, kích động lòng yêu nước
của nhân dân. Ông đã chết, giặc Pháp vẫn đưa thi hài ông sang Tòa án Nam
xét xử. Chúng xử ông tử hình, đem thi thể ông ra bãi Dừa bên hồ Hoàn
Kiếm nay là bồn nước ga xe điện Bờ Hồ (cũ) thành phố để chém đầu.
NGUYỄN LÂM
Nguyễn Lâm gọi tên đầy đủ là Nguyễn Tri Lâm, sinh ngày 19
tháng 4 năm Giáp Thìn (5/1844). Ông là con trai thứ hai Tổng thống quân
vụ, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương, quê làng Chi Long, huyện Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên. Ông gọi Gia Định Tán lý quân thứ đại thần Nguyễn Duy
là chú ruột.
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống cả văn học lẫn võ
công, Nguyễn Lâm lại có tinh thần ham học, thông tuệ từ nhỏ nên học giỏi
có tiếng. Là con nhà quan nhưng tính tình ông rất hòa nhã, khiêm nhường
không cậy mình là con quan đại thần mà kiêu ngạo. Khi ông bước vào tuổi
thiếu niên (14 tuổi) thì cha và chú phải vào cầm quân đánh Pháp ở bán đảo
Sơn Trà, Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam, nên ông đã luyện tập võ nghệ, đọc
binh thư để nối nghiệp cha, chú đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi bờ cõi.
Năm 1859, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha kéo vào Nam Kỳ hạ
thành Sài Gòn. Vua Tự Đức phong cha ông làm Tổng thống quân vụ đại
thần - giữ chức Gia Định Quân thứ Thống đốc quân vụ đại thần cùng chú
ông là Nguyễn Duy đang giữ chức Gia Định Quân thứ Tán lý đại thần xây
dựng Đại đồn Kỳ Hòa (Chí Hòa) chống liên quân Pháp - Tây Ban Nha.
Ngày 25/10/1861, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha điều động đại
lực lượng binh thuyền tấn công chiến lũy Kỳ Hòa. Nguyễn Tri Phương,
Nguyễn Duy cùng các tướng cố thủ chiến lũy Kỳ Hòa gây tổn thất nặng nề
cho Liên quân Pháp - Tây Ban Nha. Chiến lũy Kỳ Hòa vỡ, Nguyễn Tri
Phương bị thương nặng, Nguyễn Duy tử trận, cả ba tỉnh Đông Nam Kỳ lọt
vào tay giặc Pháp. Từ đó Nguyễn Lâm càng nung nấu chí căm thù giặc
Pháp, chuyển hẳn sang học võ, đọc binh thư để sau này chỉ huy quân đội
Khi ông vừa tròn 18 tuổi, ông đã theo cha giúp việc quân. Năm Nguyễn
Lâm 20 tuổi đã là một thanh niên tuấn tú, lập được nhiều chiến công. Vua
Tự Đức có lòng yêu gả công chúa Đồng Xuân cho, phong làm Phò mã đô
úy.
Năm Tự Đức thứ 24 (1871), Nguyễn Lâm thấy cha đã 72 tuổi,
luôn luôn bận rộn việc quân ở Bắc Kỳ bèn làm sớ xin theo đi Tam Tuyên
quân thứ để đỡ đần cha xông pha nơi trận mạc và tiện phụng dưỡng cha già.
Khi ông ra tới Hà Nội thì triều đình giao cho cha ông làm Tổng đốc Hà -
Ninh để đối phó với âm mưu xâm lược của quân Pháp. Vì vậy khi con trai
ra Bắc, ông liền giữ con ở lại thành Hà Nội giúp việc.
Sáu giờ sáng ngày 20/11/1873, (1 tháng 10 năm Quý Dậu) quân
Pháp nã đại bác cấp tập vào thành. Nguyễn Tri Phương phán đoán từ trước
vì ông súng đạn ít, ông cho nghi binh ở cửa Bắc, cửa Tây, tự mình giữ cửa
Đông Nam, giao cho Nguyễn Lâm giữ cửa Tây Nam. Đúng như phán đoán
của Nguyễn Tri Phương, Francis Garnier cũng nghi binh ở cửa Bắc, cửa
Tây chia làm hai cánh quân đánh cửa Đông và cửa Nam. Nguyễn Tri
Phương cùng các tướng thân lên mặt thành chỉ huy quân sĩ. Quân Pháp bắn
đại bác dữ dội vào thành rồi cho quân tiến sát tường thành. Đại bác của ta
đặt trên mặt thành bắn vọt ra xa không trúng đội hình quân Pháp. Nguyễn
Lâm đứng trên mặt thành chỉ huy quân sĩ lăn đá gỗ, bắn những tên tới gần,
dùng câu liêm đẩy thang của chúng, đẩy lùi nhiều đợt xung phong của giặc.
Đạn đại bác của giặc phá vỡ cửa thành Tây - Nam, quân giặc ồ ạt tràn vào.
Nguyễn Lâm chỉ huy quân đánh giáp lá cà. Ông trúng đạn hy sinh, năm đó
ông mới 29 tuổi. Quan lại làm sớ tâu về kinh, vua Tự Đức thương tiếc ban
dụ: "Làm tôi thì chết theo điều trung với nước, làm con thì chết theo điều
hiếu với cha, thật đáng khen ngợi! Phò mã Nguyễn Trí Lâm không phải
trách nhiệm cầm quân ra trận, nay chết về việc hiếu nghĩa, trên trả được nợ
nước, dưới không phụ tình cha. Thực đáng là bậc tu mi đứng trong hoàn vũ.
Vậy truy tặng hàm Binh bộ Tả thị lang để biểu dương”.
Vua lại cấp cho 300 quan tiền tuất để lo việc tẩm liệm, sắc cho
quan lại Hà Nội cấp binh phu tống tiễn linh cữu về kinh và an táng tại làng.
Năm Tự Đức thứ 28 (1875) vua lại phê lập nhà thờ Trung hiếu tại làng để
thờ cúng Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Duy là cha và chú.
Trong bài văn tế của quan Khâm mệnh triều đình có những câu:
“…Nhĩ tử Nguyễn Lâm, tiên nhĩ dĩ vong oanh oanh liệt liệt hào
tố nhất trường.
Thị huynh, thị đệ, thị phụ, thị tử cổ chi Biên môn đãi bất quả
thử!
Ô hô! Vi thần năng trung ư quốc!
Ô hô! Vi tử nang hiếu ư thân!
Duy trung chữ hiếu, nhất môi hàm tụng...”
Như vậy là cả cha, chú và ông đều hy sinh trong sự nghiệp
chống giặc Pháp xâm lược ở cuối thế kỷ XIX.
HOÀNG VĂN HÒE
Hoàng Văn Hòe sinh năm Mậu Thân (1858). Quê ông ở làng
Phù Lưu, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Tân Hồng, huyện
Đông Anh, thành phố Hà Nội. Khoa thi năm Canh Ngọ, Tự Đức thứ 23
(1870) ông đỗ cử nhân tại trường thi Hà Nội. Năm 1858, quân Pháp đánh
chiếm bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Năm 1859, quân Pháp đánh tỉnh thành
Sài Gòn, thì Nguyễn Tư Giản dâng sớ về kế sách đánh Pháp, Hoàng Văn
Hòe làm bài thơ:
LỜI HÔ HÀO ĐÁNH GIẶC
Vua nước lo hôm sớm
Kinh xưa khói mịt mùng
Quân ta mau tiên phát
Thẳng đến thành Hoàng Long.
Bài thơ có tác dụng thôi thúc mọi người gia nhập đội quân do
nhà yêu nước Phạm Văn Nghị chiêu mộ vào Nam giết giặc.
Ngày 11 tháng 10 năm 1873, Thiếu tá Hải quân Francis Garnier
dời Sài Gòn đem binh thuyền ra đánh Bắc Kỳ. Ngày 20/11/1873, Garnier
tấn công thành Hà Nội. Thành Hà Nội thất thủ, Nguyễn Tri Phương bị trọng
thương, bị giặc bắt đã tuẫn tiết. Cuối tháng 11/1873 , quân Pháp vượt sông
Hồng đánh chiếm huyện Gia Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh
Bắc Ninh. Hoàng Văn Hòe chiêu mộ quân đánh Pháp, khích lệ những người
tham gia đội quân kháng chiến ông làm bài thơ:
KHẨU HIỆU
Sơn mãng do tiềm thử
Giang ba hốt phí kình
Xích mi vị năng phá
Bạch diện bất tu binh
Tân đảm lao thần lự
Yên trần thảng cổ kinh
Nhạc quân đương tảo phát
Thống ẩm Hoàng Long thành.
Dịch nghĩa:
Chuột vẫn còn lẩn ở núi cỏ rậm,
Cá kình bỗng làm sôi sục sóng sông
Giặc lông mày đỏ chưa phá được
Cánh thư sinh mặt trắng thì không biết việc binh
Làm nhọc lòng vua phải nằm gai nếm mật
Kinh đô cũ gió bụi âm thầm
Quân của ông Nhạc nên sớm xuất phát.
Tiến thẳng đến uống say ở thành Hoàng Long.
(Khẩu hiệu tức là lời hô hào đi đánh giặc. Nguyên chú: Quý Dậu
niên (1873) Hà Thành hữu sự, dư thời mộ dũng tòng thứ. (Năm Quý Dậu
(1873) Hà Nội có việc, tôi lúc bấy giờ mộ quân đi theo quân thứ.
Xích mi: tên gọi nhóm giặc bôi lông mày đỏ thời Tây Hán. Ởđây
chỉ giặc Pháp.
Ông Nhạc đây chỉ Tống Nhạc Phi đời Tống chống quân xâm
lược Kim
Khi Nhạc Phi đem quân đánh Kim có hát: "Ta quyết đánh thẳng
vào thành Hoàng Long mà uống say”. Đây ví Hoàng Long với Thăng Long
lúc đó bị quân Pháp đánh chiếm lần thứ nhất. Hoàng Văn Hòe viết bài này
kêu gọi lấy lại thành Thăng Long).
Hoàng Văn Hòe đã đem đội nghĩa quân của mình chiến đấu dưới
sự chỉ huy của Phạm Thận Duật và Trương Quang Đản tiến đánh quân
Pháp, ngày 4 tháng 12/1873 tiêu diệt đồn binh Pháp đóng ở Gia Lâm. Ngày
21/12/1873 giải phóng huyện Siêu Loại Gia Lâm, (Siêu Loại, đều thuộc
trong phủ Thuận Thành). Năm 1874, triều đình Huế ký Hòa ước với Pháp ,
Hoàng Văn Hòe tiếp tục dùi mài kinh sử, ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Canh Thìn, Tự Đức thứ 33 (1880). Sau đó ông lại trúng
tuyển khoa Yếm bác. Ông được bổ làm Tri phủ Kiến Xương, hàm Thị độc.
Sau khi triều đình Huế ký Hiệp ước Hannand (8/1883) Hoàng
Văn Hòe từ quan, gia nhập nghĩa quân Tạ Hiện chiến đấu ở vùng Nam
Định, Thái Bình. Sau đó Hoàng Văn Hòe cùng Nguyễn Cao, Nguyễn Thiện
Thuật, Ngô Quang Huy, Dương Khải thành lập Đại nghĩa đoàn, còn gọi là
Tam tỉnh nghĩa quân. Đại nghĩa đoàn có hơn 5000 quân tuyển từ các tỉnh
Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên.
Nghĩa quân đánh thắng quân Pháp nhiều trận lớn như trận Ngọc
Trì, tên nôm là làng Bến nay thuộc xã Bình Định, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc
Ninh. Sau vài tháng chiến đấu, lực lượng nghĩa quân suy yếu, thiếu súng
đạn, bị quân Pháp truy kích liên tục nghĩa quân tan rã, một số gia nhập các
lực lượng kháng chiến khác. Để tăng cường lực lượng phe chủ chiến ở triều
đình, Tôn Thất Thuyết tiến cử ông với vua Hàm Nghi. Vua triệu ông về
triều giữ chức Sử quán Biên tu kiêm Kinh diên Khởi cư trú.
Đêm mùng 4 rạng mùng 5 tháng 7 năm 1885 , Tôn Thất Thuyết,
Phạm Thận Duật, Trần Xuân Soạn chỉ huy Phấn nghĩa quân tiến đánh Tòa
khâm sứ, đồn Mang Cá. Hoàng Văn Hòe được giao chỉ huy một cánh quân
đánh vào đồn Mang Cá, ông hy sinh anh dũng.
BÙI VĂN DỊ
Bùi Văn Dị tức Bùi Ân Niên sinh ngày 17/5/1833 tức ngày 28
tháng 3 năm Quý Tỵ. Cụ thân sinh là Bùi Văn Hy, đỗ tú tài thời Minh
Mệnh. Ông quê ở làng Châu Cầu, xã Mễ Tràng, huyện Thanh Liêm, nay là
thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Ngay từ thuở nhỏ, Bùi Văn Dị đã có tư chất thông minh, có trí
nhớ tốt. Năm 13 tuổi đã vượt qua kỳ thi khảo hàng xứ để dự thi Hương. Hai
khoa thi Hương năm 1850 và 1 852, ông đều thi đỗ tú tài khi mới 18 tuổi và
20 tuổi. Năm 1855, ông 23 tuổi, thi đỗ cử nhân. Năm Ất Sửu (1865) ông
vào Huế dự khoa thi tiến sĩ, đỗ thứ tư, hạng trúng cách. Song vào thi Đình
lại bị trượt, nên chỉ xếp đỗ Phó bảng cùng với người em họ con ông chú
ruột là Bùi Văn Quế.
Ông lần lượt được bổ làm Tri phủ các huyện Lang Tài, Việt Yên,
Yên Dũng tỉnh Bắc Ninh. Được một thời gian ông về cư tang. Năm 1871,
các đại thần Bùi Tuấn, Nguyễn Tư Giản vốn biết tài ông, tiến cử ông thăng
Án sát Ninh Bình, sau ông vào Nội các.
Năm 1873, quân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ nhất, Tự Đức
cử ông cùng Nguyễn Trọng Hợp, Nguyễn Thượng Phiên ra xử lý các vụ
Pháp chiếm bốn tỉnh thành ở Bắc Kỳ. Ông được triều đình cử làm Án sát
Ninh Bình. Sau ông được về kinh thăng hàm Quang lộc Tự khanh, làm việc
ở Nội các. Ông học vị không cao nhưng nổi tiếng về tài văn chương, nên
vẫn được đề cử làm quan Duyệt quyển.
Năm 1876 ông được cử làm Chánh sứ đi sứ nhà Thanh. Ông dẫn
đầu sứ bộ hoàn thành nhiệm vụ. Các quan lại nhà Thanh đánh giá ông rất
cao.
Cuối năm 1878, ông lại được sung vào Nội các. Cũng năm đó
ông được duyệt quyển thi Hội, thi Đình lần thứ hai. Theo quan chế của triều
đình, dùng quan ở Nội các không đặt quan nhị phẩm, song vì ông có nhiều
công lao, được giao thêm chức quyền Tham tri bộ Lại để chính thức phẩm
trật.
Năm 1881, ông làm Đại thần của quản lý nha Thương bạc, là cơ
quan chuyên trách việc giao thiệp với Pháp và trông nom các thuyền luôn
qua lại.
Tháng 4 năm 1882 , Henri Rivière hạ thành Hà Nội lần thứ hai,
Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết. Giặc Pháp được một số giáo dân phản động
và giáo dân được quân Pháp huấn luyện, trang bị vũ khí như Tạ Văn Phụng,
giúp sức đánh chiếm các tỉnh Bắc Kỳ, Bùi Văn Dị dâng sớ đề nghị triều
đình kiên quyết chống đánh. Ông được triều đình cử giữ chức Khâm sai phó
Kinh lược sứ Bắc Kỳ, ông vẫn dẫn một đội quân nhỏ đi kiểm tra các tỉnh.
ông tổ chức các cuộc tấn công giặc, phòng thủ không cho giặc lấn chiếm
các vùng chung quanh tỉnh thành.
Khi Henri Rivière đem quân di Nam Định, Bùi Vãn Dị Khâm sai
phó kinh lược sứ Bắc Kỳ và Trương Quang Đản Tổng đốc Ninh - Thái
(Trương Quang Đản là con trai Trương Đăng Quế sau về làm Tuần phủ
Quảng Trị cùng với em trai là Trương Văn Để tham tri bộ Binh, người phái
chủ chiến mà Tôn Thất Thuyết tin cậy đã đầu hàng Pháp, hai anh em đưa
Tam cung về Huế và còn dẫn quân đi đón bắt vua Hàm Nghi theo lệnh của
quân Pháp). , kéo quân về Gia Lâm, Văn Giang đối diện với đồn Thủy để
chống đánh quân Pháp. Trong khi đó thì Hoàng Kế Viêm chỉ huy quân thứ
Sơn Tây cùng tướng Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc kéo quân về đóng ở Hoài Đức,
Từ Liêm. Quân Pháp bị hai gọng kìm phía Bắc (Gia Lâm) và phía Tây
(Hoài Đức, Từ Liêm) kẹp lại. Tên Đại tá Béc tơ đờ Vile, kẻ thay Henri
Rivière giữ thành Hà Nội thấy rõ mối nguy hiểm của hai cánh quân Bắc
Ninh và Sơn Tây. Ngày 18/3/1883 hắn cho tầu vượt sông Hồng tấn công
các làng ven sông như Gia Quất, Thượng Cát, Ngọc Lâm ở Gia Lâm. Bùi
Văn Dị trực tiếp chỉ huy quan quân chặn đánh quyết liệt, làm chết và bị
thương hơn 30 tên, số còn lại hốt hoảng chạy xuống tầu về Đồn Thủy. Sau
trận này triều đình cử ông làm Tham tán quân thứ Bắc Ninh, tức là làm
Tham mưu cho đạo quân Bắc Ninh là một trong hai đạo quân mạnh của
triều đình ở Bắc Kỳ (Bắc Ninh và Sơn Tây). Bùi Văn Dị, Trương Quang
Đản phối hợp với Hoàng Kế Viêm mưu đánh chiếm lại thành Hà Nội, song
không giành được thắng lợi.
Đêm 26 rạng ngày 27 tháng 3/1883, quân ta từ Gia Lâm và Hoài
Đức tấn công vào thành, riêng quân của Hoàng Kế Viêm đánh vào kho thóc,
là nơi mấy hôm trước quân Pháp còn đóng nhiều, hiện còn đóng ít. Béc tơ
đờ Vile nghi rằng ý định của quân ta bấy giờ là để đánh úp quân Pháp ở
Đồn Thủy kéo đến cứu viện rồi thừa hư qua sông mà chiếm Đồn Thủy, nơi
trung tâm của địch. Cho nên địch không tiếp viện cho kho thóc, nhưng quân
ta cũng không chiếm được vị trí này.
Ngày 28/3, Béc tơ đờ Vile đem 200 quân qua sông đánh phục
thù. Chúng lục lọi các xóm bờ sông rồi tiến về Gia Quất, dưới sông có tầu
chiến gắn đại bác yểm trợ. Bùi Văn Dị, Trương Quang Đản tự mình đốc
chiến. Quanh làng có lũy đất và lũy tre, rào tre là chiến lũy của quân ta,
quân ta bắn chặn, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của quân Pháp. Tại làng Gia
Quất, hai bên đấu súng rồi đánh giáp lá cà. Trận chiến diễn ra vô cùng ác
liệt. Trong khi quân ta chiến đấu, thì trai tráng, dân binh trong làng không đi
tản cư, trợ chiến bằng giáo mác, gậy gộc, khua chiêng trống, thùng chậu uy
hiếp quân Pháp. Theo lời Vile thuật lại thì: “người An Nam đánh đến cùng,
giật cả súng của lính Pháp”. Như vậy là trận đánh ở Gia Quất rất kịch liệt.
Quân ta ở Gia Quất rút lần về hướng Bắc Ninh và hướng Bát Tràng. Căn cứ
Thượng Cát vẫn tiếp tục chống cự với địch, giữ từng ngõ xóm, từng nhà,
đến khi quân ta rút thì quân Pháp đốt luôn cả làng Thượng Cát cũng như
chúng đã đốt rụi cả làng Gia Quất.
Bùi Văn Dị và Trương Quang Đản tập hợp quân trên sông
Đuống để phản công, toan đi vòng cắt đường rút lui của địch. Quân Pháp
phán đoán được ý đồ của quân ta luôn hối hả chạy ra bờ sông Hồng, trên
đường rút, chúng đốt thêm nhiều làng xóm nữa.
Giặc rút, quân ta trở lại Gia Quất, Thượng Cát chôn cất tử sĩ,
giúp nhân dân, sửa chữa nhà cửa, một mặt củng cố trận địa sẵn sàng đánh
địch.
Đầu tháng 5/1883, quân Pháp ở Hà Nội bị hai cánh quân Bắc
Ninh và Sơn Tây tạo thành thế hai gọng kìm ép chặt. Đêm 815/1883 đại bác
của quân thứ Bắc Ninh do Bùi Văn Dị, Trương Quang Đản đặt ở trên bờ đê
sông Hồng ở Gia Lâm nhả đạn vào Hà Nội, ở Đồn Thủy, ở căn cứ tại nhà
thờ Hàm Long, có đêm bắn tới 80 phút, gây thiệt hại cho quân Pháp, khiến
quân Pháp rất hoang mang. Đêm 15/5/1883, quân ta tập kích vào căn cứ
quân Pháp ở nhà thờ Hàm Long. Henri Rivière hốt hoảng xin viện binh ở
Hải Phòng, của Hạm đội Pháp đóng ở Hạ Long và của Sài Gòn.
Việc vua quan nhà Nguyễn ký hàng ước 25/8/1883 làm cho Bùi
Văn Dị suy sụp tinh thần đến phát bệnh và là cái cớ để không nhận chức
Tổng đốc Ninh - Thái, cùng lúc Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến cũng
từ chối chức Tổng đốc Sơn Tây, ông về ở ẩn tại Thanh Hóa. Đến năm đầu
Kiến Phúc (18 84) ông được triệu về kinh sung vào kinh diên làm "nhật
giảng quan" giảng dạy cho vua Kiến Phúc, Ưng Lịch (sau là vua Hàm
Nghi). Sau đó ông bị ốm, xin về dường bệnh ở Hải Quật, huyện Yên Định,
Thanh Hóa.
Khi vua Hàm Nghi lên ngôi, ông được cử làm Tả Tham tri bộ
Lại. Khi toàn bộ đất nước rơi vào tay quân Pháp, ông chán cảnh quan
trường, chọn đất Hải Quật, Thanh Hóa dựng một nhà tranh, lấy hiệu là Hải
Nông làm nơi ẩn dật.
Mặc dù ông từ chối ra làm quan nhiều lần, song cuối năm 1887,
ông lại phải buộc về triều làm Thượng thư bộ Lại, Phụ chính đại thần.
Trong dịp này ông được xét đặc cách nhận học vị tiến sĩ. Đến triều Thành
Thái (1890) ông lại đi thi, đậu tiến sĩ. Ông được thăng Phó đô ngự sử,
Thượng thư bộ Lại, bộ Lễ, Phụ chính đại thần và Quốc sử quán tổng tài.
Sau đó ông xin từ chức, chỉ giữ chức phụ đạo đại thần kiêm Phó tổng tài
Quốc sử quán.
Ông mất năm 1895 ngay tại Quốc sử quán, thọ 63 tuổi. Ông có
nhiều tác phẩm như "Dư Hiên tùng bút", "Du Hiên thi thảo” (văn), “Vạn lý
hành ngâm” (văn), “Tồn am thi tập”, “Thời chính Tạp biên”, "Trĩ Chu thù
xướng” (văn).
(Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919) - Lịch sử 80 năm
chống Pháp - Chống xâm lăng của Trần Văn Giầu - Khoa cử và các nhà
khoa bảng triều Nguyễn. NXB Thuận Hóa).
NGUYỄN QUANG
Ngày 25/4/1882, quân Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ 2. Nguyễn
Cao, Nguyễn Huy Quang, Nguyễn Thiện Thuật đã thành lập "Đại nghĩa
đoàn", còn gọi là "Tam tỉnh nghĩa quân" để đánh Pháp.
Đông đảo sĩ phu, hào kiệt ba tỉnh hưởng ứng, trong đó có
Nguyễn Quang. Tên thực của ông là Nguyễn Trọng Đạo, quê ở làng Phù
Khê, nay thuộc xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông giữ chức
Án sát tỉnh Bắc Ninh, đã cùng em họ là tú tài Nguyễn Trọng Huyên chiêu
mộ quân rồi gia nhập Tam tỉnh nghĩa quân.
Bộ Tư lệnh Đại nghĩa đoàn giao cho Nguyễn Quang nhiệm vụ
chọn vị trí đóng đồn trại, phòng thủ. Nguyễn Quang là một trong những
người đề xuất đóng đồn binh ở xã Đình Bảng, nay thuộc huyện Từ Sơn. Từ
Đại đồn Đình Bảng, Nguyễn Quang còn thiết lập các đồn nhỏ khống chế
lưu vực sông Cà Lồ ở các huyện Kim Anh, Đa Phúc của Bắc Ninh, Sơn
Tây; các huyện Phổ Yên, Phú Bình của Thái Nguyên và dãy núi Thằn Lằn
trong đó có đỉnh Sóc Sơn, đền thờ Thánh Gióng. Với tầm nhìn chiến lược
của mình, Nguyễn Quang đã ủng hộ chủ trương của các thủ lĩnh Đại nghĩa
đoàn xây dựng căn cứ ở vùng núi Nham Biền nay thuộc huyện Yên Dũng
nằm trên bờ Hữu ngạn sông Thương. Nguyễn Quang cùng với Nguyễn
Trọng Huyên có mối giao lưu rộng rãi với các nho sĩ, tổng lý vùng Từ Sơn,
Yên Phong, Đông Anh, Tiên Du, đã đảm nhận việc phát triển lực lượng và
tiếp nhận lương thực, thực phẩm của đồng bào ủng hộ. Các ông còn tham
gia các trận đánh bảo vệ căn cứ, chặn đánh quân Pháp khi chúng đánh phá
các căn cứ của Đại nghĩa đoàn. Song thế giặc quá mạnh, lực lượng nghĩa
quân lại mỏng, thiếu vũ khí và lương thực, Nguyễn Quang phải trở về Phù
Khê. Biết không khôi phục được lực lượng, tết năm 1885, ông đến lễ ở nhà
thờ họ rồi tới xã Văn Môn, tổng Mẫn Xá, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh
tuẫn tiết. Nhân dân Văn Môn đã lập miếu thờ người hào kiệt chống Pháp
kiên cường.
ĐỖ PHÁT
Đỗ Phát tự là Tử Tuấn, sinh năm Quý Dậu (1813) tại thôn Quần
Anh, xã Hải Anh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Năm Canh Tý (1840) ông 28 tuổi, đỗ cử nhân. Khoa thi Hội năm
Quí Mão (1843) ông 31 tuổi, đỗ tiến sĩ.
Năm Mậu Thân (1848), Tự Đức nguyên niên, ông được bổ làm
Tri phủ ở Ứng Hòa rồi thăng Đốc học Nghệ An. Sau thăng Tư nghiệp Quốc
Tử giám. Không bao lâu, ông mắc bệnh, phải xin về quê nghỉ.
Vào khoảng năm 1862, ông được cử làm Tham biện, chiêu mộ
quân ra dẹp giặc dã ở Quảng Yên, bảo vệ vùng bờ biển và các đảo ở vùng
Đông Bắc. Sang năm Giáp Tý, Tự Đức thứ 17 (1864), ông được thăng hàm
Quang lộc Tự khanh, sung làm Toản tu ở Quốc sử quán. Sau ông xin vê quê
ở Nam Định chiêu mộ dân khai hoang vùng ven biển và thành lập các đồn
binh "hải phòng" bảo vệ bờ biển. Do ông làm tốt việc chiêu dân khai hoang
lập trại ấp mới, quy hoạch đồng ruộng, kênh mương để dân ổn định cuộc
sống, nên được thăng làm Hồng lô Tự khanh giữ chức Doanh điền phó sứ ở
Nam Định kiêm Thương biện lo phòng thủ mặt biển.
Khi các vùng dân cư mới được ổn định, các đồn "hải phòng"
được thiết lập giữ việc đảm bảo an ninh, tuần tra vùng biển được thiết lập,
ông được điều về kinh làm Tế tửu Quốc tử giám. Nhưng do sự ráo riết
chuẩn bị xâm lược Bắc Kỳ của thực dân Pháp, chúng trang bị vũ khí cho
nhiều toán thanh niên ở xứ đạo để hậu thuẫn cho chúng khi chúng đánh ra
Bắc Kỳ, ông lại được điều ra Nam Định làm Doanh điền Phó sứ kiêm tuần
phòng mặt biển. Ngày 21 tháng 10 năm Quý Dậu (10/12/1873), tầu chiến
Pháp từ sông Vị Hoàng bắn đại bác vào cửa Đông thành Nam Định, do việc
chuẩn bị phòng thủ không tốt, súng đại bác của giặc có sức công phá lớn,
nên cửa thành Đông bị vỡ, quân Pháp tràn vào thành. Thành mất, vua Tự
Đức đổ tội để mất thành cho các quan tỉnh Nam Định, các quan đều bị giải
về kinh, riêng ông xin ở lại để ổn định tình hình, thu thập tàn quân, hợp lực
với nghĩa quân chống Pháp, vua chuẩn cho.
Ông đã cùng các quan trong phe chủ chiến và các thủ lĩnh nghĩa
quân lập nhiều căn cứ chống Pháp trong tỉnh, đánh thắng quân Pháp nhiều
trận. Ông đang cùng với các tướng lo đối phó với giặc Pháp thì triều đình
Huế lại đưa vụ án để mất thành Nam Định ra nghị bàn. ông phải chịu phạt
trượng và đi đầy. Con ông là Bình Thành xin chịu tội thay cha, vì thế ông
chỉ bị cách chức, cho lập công chuộc tội. Ông một lòng vì nước, vì dân nên
vẫn cùng các tướng phe chủ chiến và thủ lĩnh nghĩa quân, củng cố đồn lũy
đánh giặc Pháp. Một thời gian sau, ông được khôi phục hàm Biên tu, lĩnh
chức Dinh điền sứ.
Năm Nhâm Ngọ, Tự Đức thứ 35 (1882) ông qua tuổi 70 xin về
hưu được thăng chức Thị lang. Ông mất năm Quý Tỵ (1893), thọ 81 tuổi.
Nhân dân ở những nơi ông chiêu dân lập ấp khai hoang ở Giao
Thủy, Hải Hậu nhớ công ơn, lập đền miếu thờ ông.
(Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn - Lược truyện các
tác gia Việt Nam do Trần Văn Giáp chủ biên).
NGUYỄN HỮU CƯƠNG
Nguyễn Hữu Cương sinh năm 1855. Ông là con thứ hai nhà văn
thân nổi tiếng Nguyễn Mậu Kiến. Ông quê ở làng Động Trung, nay là xã
Vũ Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Nguyễn Mậu Kiến là một
nhà nho yêu nước, lại là một nhà hoạt động quân sự, nên đã rèn dạy các
con, chẳng những giỏi văn thơ mà còn thành thạo các môn bắn súng, cưỡi
ngựa, luyện chữ viết, học vẽ, cầm ca...
Quân Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (1873), triều đình Huế ký
Hòa ước với Pháp. Cha ông - Nguyễn Mậu Kiến phản kháng lệnh bãi binh
của Tự Đức, bị tước hết quan tước sung vào lính ở quân thứ Tuyên Quang,
Thái Nguyên. Sau Nguyễn Mậu Kiến về sơn phòng Hưng Hóa, cùng Hoàng
Kế Viêm và các văn thân phe chủ chiến chuẩn bị đánh Pháp. Nguyễn Hữu
Cương, Nguyễn Hữu Bản được cha cho lên quân thứ tập dượt việc chinh
chiến.
Năm 1883, Nguyễn Mậu Kiến mất do bị sốt rét ác tính, hai anh
em ông trở về Nam Định lại chiêu mộ nghĩa quân chuẩn bị đánh Pháp. Sau
ngày 25/4/1882, Henri Rivière hạ thành Hà Nội, Nguyễn Hữu Cương cùng
với anh trai là Nguyễn Hữu Bản sang Nam Định cùng Đề đốc Lê Văn
Điếm, Án sát Hồ Bá Ôn giữ thành Nam Định. Nguyễn Hữu Bản cùng các
tướng chỉ huy quân sĩ giết được tên trung tá Carô (Carreau), Nguyễn Hữu
Bản hy sinh anh dũng tại cửa Đông ngày 27/4/1883, Nguyễn Hữu Cương
lui về quê cùng với em ruột là Nguyễn Hữu Phu, cháu ruột là Nguyễn Công
Úc - Bang Úc, Nguyễn Năng Thố (con cô con cậu ruột)... xây dựng nhiều
cứ điểm chống Pháp ở vùng Kiến Xương.
Năm 1884, triều đình bổ nhiệm Tạ Hiện là Chưởng vệ doanh
Hùng Nhuệ ở Huế ra thay Đề đốc Lê Văn Điếm tử trận trong trận quân
Pháp đánh thành Nam Định, chỉ huy việc đánh Pháp. Nguyễn Hữu Cương
và em là Nguyễn Hữu Phu đã đón Tạ Hiện về căn cứ chống Pháp ở Động
Trung để bàn bạc kế hoạch hợp đồng tác chiến giữa quân triều đình và
nghĩa quân, đồng thời cổ vũ tinh thần cho nghĩa quân.
Khi Ưng Lịch lên ngôi, đặt niên hiệu là Hàm Nghi, Bố chính
Đồng Sĩ Vịnh đã giới thiệu Nguyễn Hữu Cương về kinh đô Huế dâng tờ tấu
lên, được vua Hàm Nghi tiếp nghe ông trình bày kế hoạch chống Pháp. Ông
ở lại kinh đô gần 3 tháng gặp gỡ Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường.
Song chỉ có Tôn Thất Thuyết là thiết tha chống Pháp.
Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết giao cho Nguyễn Hữu
Cương trở ra Bắc chiêu lập quân sĩ mạnh giỏi, huấn luyện, đưa vào Huế bảo
vệ kinh thành. Ông phụng mệnh ra Bắc, tới Quảng Bình thì được tin kinh
thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần vương.
Tới Bắc Kỳ, Nguyễn Hữu Cương đi Hưng Hóa là trung tâm
kháng chiến thời đó. ông đã được gặp Nguyễn Quang Bích, Tống Duy Tân,
Vũ Hữu Lợi, Phan Đình phùng, Đề đốc Đinh Trạch, Đốc Ngữ, Đề Kiều...
Các ông đã họp cuộc họp quan trọng tại làng Cố Đô, huyện Quảng Oai, tỉnh
Sơn Tây nhất trí hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi và chia
nhau về các địa phương chiêu mộ quân đánh Pháp.
Ít lâu sau Nguyễn Thiện Thuật về nước được vua Hàm Nghi
phong là Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần gia chấn trung tướng quân.
Nguyễn Hữu Cương chiến đấu trực tiếp dưới quyền Đô thống Tạ Hiện, và
được cử giữ chức Tán tương quân vụ mặt trận Thái Bình. Nguyễn Hữu
Cương đã chỉ huy nghĩa quân đánh nhiều trận lớn gây cho địch nhiều thiệt
hại nặng nề. Quân Pháp kéo về Động Trung đánh phá căn cứ kháng chiến,
triệt phá nhà ông. Quân Pháp truy lùng ông không được, cho quật mả tổ tiên
ông, song dân làng bảo vệ, nên việc này không thành. Toàn quyền Pôn Bê
(Paul Bert) mời ông ra làm Án sát tỉnh Hưng Yên ông không nhận, công sứ
Nam Định mời ông làm Tri phủ Kiến Xương, ông đều từ chối.
Ông mở trường dạy học, làm thơ, nay còn tập Mai Hồ thi thảo…
Ông bị mật thám Pháp theo dõi, song vẫn có nhiều cuộc tiếp xúc
với các nhà chí sĩ yêu nước như Trần Xuân Sắc, Phan Bội Châu, phó bảng
Ngô Đình Chí (Thanh Hóa), tú tài Chu Lê Hành (Hưng Yên), Đặng Đoàn
Bằng (Hành Thiện Nam Định). Năm 1904, giáo sư Nhật Bản Thạnh Xuyên
Thị Sỹ Nguyên từng du học ở Mỹ cũng tới nhà ông trao đổi về công việc
chấn hưng của Nhật Bản. Những cuộc thăm hỏi, bàn luận thời cuộc của các
nhà chí sĩ đã tạo điều kiện cho Nguyễn Hữu Cương tiếp xúc được với các
tác phẩm của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu (Trung Quốc) và bản dịch
về triết học, văn học của JJ Rousseau, Montesquieu, Tônstôi, Banzắc theo
các bản dịch ra tiếng Trung Hoa. Nguyễn Hữu Cương còn thông gia với các
sĩ phu như Lương Văn Can ở số 4 Hàng Đào, Hà Nội; với Tam nguyên Trần
Bích San (Vị Xuyên, thành phố Nam Định); cử nhân Ngô Sách Đôn (Từ
Sơn, Bắc Ninh), phó bảng Vũ Nhuận Phủ (Hải Dương) là các nhà hoạt động
trong Đông Kinh nghĩa thục, Đông Du. Khi Phan Bội Châu phát động
phong trào Đông Du, Nguyễn Hữu Cương đã cho nhiều con cháu xuất
dương và giúp tiền bạc thậm chí còn vay nợ một khoản tiền lớn giúp thanh
niên du học, không trả được, Tòa án Pháp tịch biên gia sản của ông.
Nguyễn Hữu Cương có mối liên hệ chặt chẽ với trường Đông
Kinh nghĩa thục ở Hà Nội vào tháng 3/1907. Ông đã tập hợp được nhiều
nhân sĩ tiến bộ ở Thái Bình vận động thành lập Đông Kinh nghĩa thục ở
Thái Bình và mở các hiệu buôn Đông Động (Đống Năm, Đông Quan), cửa
hàng chợ Mới, cửa hàng Đồng Sâm, cửa hàng Cổ Rồng... Các cửa hàng trên
đều góp tiền vào quỹ Đông Du.
Năm 1908, Nguyễn Hữu Cương cùng Lê Đại, Vũ Hoàng, tức
Bẩy Quang, Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí có xu hướng bạo động, các
ông liên lạc với nhóm sĩ quan yêu nước trong Đảng Nghĩa Hưng do Hoàng
Hoa Thám phái người về thành lập ở Hà Nội, sau việc không thành. Giặc
Pháp đàn áp khốc liệt vụ "Hà Thành đầu độc”. Giặc Pháp không đủ chứng
cứ nên không bắt được ông.
Cũng trong năm 1908, ở Nam Trung Kỳ có phong trào chống
thuế rộng lớn, thì tại Thái Bình Nguyễn Hữu Cương cũng đi vận động, diễn
thuyết ở những nơi công cộng trong tỉnh kêu gọi mọi người chống thuế.
Nguyễn Hữu Cương ở trong nước vẫn liên lạc với Nguyên Thiện
Thuật và Phan Bội Châu để bàn kế sách cứu nước, cứu dân. Nhà cầm quyền
Pháp đã bắt Nguyễn Hữu Cương đem xuống Hải Phòng đưa xuống tàu, đày
biệt xứ vào Cần Thơ. Ngày 12 tháng 5 năm 1912, Nguyễn Hữu Cương mất
ở Cần Thơ.
NGUYỄN HỮU BẢN
Nguyễn Hữu Bản tự là Vụ Đức, hiệu là Động Nguyên, sinh năm
1841. Ông là con trai Án sát Nguyễn Mậu Kiến, quê ở làng Động Trung,
phủ Kiến Xương, nay là xã Vũ Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Khi còn ở tuổi thiếu niên, ông học thông minh, thi Hương đỗ
nhất trường. Năm ông 20 tuổi, cha là Án sát Lạng Sơn lo dẹp phỉ Cờ vàng
Hoàng Sùng Anh, không có điều kiện lo việc nhà, ông phải thay cha quán
xuyến công việc gia đình. ông cùng em trai là Nguyễn Hữu Khai đi khai
khẩn vùng biển Tiền Hải, chiêu dân lập ra làng Đức Cơ.
Tuy không theo học, nhưng tuân theo lời dạy của cha, ông mở
rộng nhà học, mời thày giỏi về dạy cho con em hàng tổng hàng xã học tập.
ông còn củng cố, phát triển nhà in Chiêm Bái đường khắc in các tác phẩm
văn học, lịch sử, binh pháp, thiên văn. (Thư viện Khoa học xã hội còn lưu
giữ một số sách của nhà in Chiêm Bái đường như "Độc thư lạc thú” (thơ
văn), "Đăng đàn bái tướng" (Binh pháp).
Ông chẳng những tổ chức khai hoang, đắp đường bắc cầu xây
cống, tiêu nước cho vùng trũng trong huyện. Ngày nay làng Đức Cơ, huyện
Tiền Hải còn có văn bia ghi lại công lao của Nguyễn Hữu Bản, Nguyễn
Hữu Khai: "Dân làng nhiều phen bị bão lụt, thủy triều, nhiều người chiêu
mộ trước bỏ đi… có một giáp Vũ Đức đem nhượng lại cho quan Hàn Lâm
tu soạn tên là Bản để cùng hợp sức với ông nguyên mộ trước, tiếp túc mộ
dân, sửa sang điền tễ, khẩn trị hoang vụ, làng ấp lại được trù mật, dân
chúng tưởng nhớ công ơn suy tôn hai vị làm thành hoàng”.
Ở huyện Tiền Hải, còn truyền tụng bài ca:
Hai vị ấy gia công điều động,
Đem sức tài mà chống lại nhà siêu,
Khai hoang phế, đắp đê điều
Dân từ đấy, không xiêu liêu nữa,
Nhờ công đức các ngài sửa chữa,
Dân ngày nay nhà cửa vui đông
Rõ ràng nhân thắng đứng long
Mừng được chữ khả phong tị ốc.
Ông có uy tín với dân nên đã chiêu mộ dân binh đánh phỉ và
giặc biển khi chúng tàn phá, cướp bóc quê hương.
Năm 1871, sau khi quân Pháp ổn định bộ máy cai trị ở Nam Kỳ,
nhòm ngó ra Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nguyễn Mậu Kiến đã cùng hai con trai là
Nguyễn Hữu Cương, Nguyễn Hữu Bản chiêu mộ quân chuẩn bị đánh Pháp.
Ngày 12/12/1873, quân Pháp đánh chiếm tỉnh thành Nam Định.
Nguyễn Mậu Kiến và Nguyễn Hữu Cương đưa quân lên Nam Định bảo vệ
thành. Thành mất, cha con ông về xây dựng căn cứ kháng chiến tại huyện
Kiến Xương. Lực lượng nghĩa quân đông tới 2000 người. Nghĩa quân do
cha con ông chỉ huy dũng cảm, giầu lòng yêu nước, đánh nhiều trận lớn,
gây thương vong nặng nề cho quân Pháp. Giặc Pháp phải thừa nhận là sợ
cha con ông. Sự kiện trên được Giáo sư Trần Văn Giầu viết: "Địch sợ nhất
cha con Nguyễn Mậu Kiên, người dân thường giầu có và nghĩa hiệp.
Gácniê (F. Garnier) đã hứa trọng thưởng những ai cắt được đầu nhà thân
hào ấy. Ông và hai con là Nguyễn Bản, Nguyễn Cương tụ họp ở Trực Định
(Kiến Xương ngày nay) hàng nghìn nghĩa quân mà bản thân ông cung cấp
lúa gạo, tiền bạc, quần áo và vũ khí. Hácmăng (Harmand) đem quân đến
đánh nhưng không được”. (Trần Văn Giầu: Bắc Kỳ kháng Pháp. Nxb Xây
dựng, Hà Nội, 1957. trang 67-68).
Phán đoán thế nào giặc Pháp cũng trở lại đánh chiếm Nam Định,
Nguyễn Hữu Bản cùng con trai là Bang Úc và các lực lượng nghĩa quân
khác, tiếp tục chiêu mộ quân, xây dựng căn cứ sẵn sàng đánh Pháp.
Ngày 25/4/1882 Henri Rivière đánh thành Hà Nội lần thứ hai,
Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, thành Hà Nội mất.Trước tình hình nguy cấp
đó, Nguyễn Hữu Bản, Nguyễn Doãn Cử khẩn trương chiêu mộ quân, mua
khí giới, xây dựng chiến lũy, sẵn sàng đánh giặc Pháp. Các ông lấy bốn
huyện Thư Trì, Vũ Tiên, Chân Định, Tiền Hải của phủ Kiến Xương làm khu
đề kháng trực tiếp; ba phủ Tiên Hưng, Kiến Xương, Thái Ninh làm hậu cứ
chủ yếu. Các ông còn thành lập các đồn binh ở tuyến phòng thủ trên sông
Hồng, sông Trà Lý và các đồn ở tuyến giữa. Trung tâm chỉ huy là Phủ Bo
(thị xã Thái Bình ngày nay).
Trong một cuộc giặc Pháp tấn công thành Nam Định, ông đã
cùng nghĩa quân chiến đấu rất kiên cường. Song hiềm thế giặc quá mạnh,
thành bị thất thủ, Nguyễn Hữu Bản hy sinh nhưng con ông là Bang Úc vẫn
cùng Nguyễn Doãn Cử và các tướng khác tiếp tục cuộc chiến đấu. Ông mất
đi để lại một tổn thất vô cùng to lớn đối với cuộc kháng chiến của nhân dân
ta.
HOÀNG VĂN TUẤN
Hoàng Văn Tuấn tên thực là Hoàng Văn Liêm, sinh năm 1825
tại làng Phú Khê, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, nay thuộc xã Yên Thành,
huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Ông học giỏi, sớm có lòng yêu nước. Năm
Mậu Ngọ (1858), ông cũng tham gia đoàn quân học trò ở các huyện thuộc
Nam Định và ở các huyện Thanh Liêm, Bình Lục thuộc Hà Nội do Phạm
Văn Nghị tổ chức Nam tiến.
Năm 1873, quân Pháp đánh chiếm tỉnh thành Hà Nội, Phủ Lý,
Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương... ông đã cùng các văn thân huyện Ý
Yên chiêu mộ tráng đinh đánh Pháp và một số dân công giáo quá khích theo
Pháp. Đội quân của ông đã giúp Phạm Văn Nghị giữ Phong Doanh, Ý Yên,
đánh đuổi bọn phản động theo Pháp ra khỏi các huyện Thanh Liêm, Phủ
Lý. Sau khi triều đình Huế và Pháp ký hòa ước, đội quân của ông truy quét
bọn phản động theo Pháp không cho chúng tới cứu nguy cho bọn phản động
đã chiếm huyện lỵ Lý Nhân đang bị Tuần phủ Hà Nội Phạm Thận Duật bao
vây tiêu diệt. Sau Hòa ước triều đình xét thưởng những người có công thì
Tự Đức tự tay viết tám chữ son tặng huyện Ý Yên: “Ý Yên tứ tú: Lý, Nghĩa,
Tuấn, Phương”. (Ý Yên có bốn người giỏi (hay ông tú) Lý, Nghĩa, Tuấn,
Phương). (Tú tài Phạm Lý ở xã Yên Hòa sau làm bang biện, Cần vương gia
nhập khởi nghĩa Bãi Sậy; Tú tài Trần Vãn Nghĩa ở xã Văn Xá; Tú tài
Hoàng Văn Tuấn ở xã Phú Khê; Tú tài Lê Văn Phương ở thôn An Hộ, xã
Phú Khê).
Phạm Văn Tuấn đỗ tú tài ba khóa liền, năm Bính Tý (1876), Tự
Đức thứ 29, tại trường thi Thanh Hóa ông đỗ thủ khoa, năm 41 tuổi, được
bổ làm Tri huyện Nam Xang, khi đó thuộc tỉnh Hà Nội. Ông thấy triều đình
Huế liên tục ký những hiệp ước đầu hàng Pháp, dung túng bọn phản động
đội lốt Thiên chúa giáo thả sức hoành hành, kéo nhau đi cướp bóc, tàn phá
đình chùa, liền cáo quan, triều đình triệu nhiều lần cũng không ra.
Năm 1882 quân Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai. Năm 1883
chúng tung quân đi đánh Nam Định và các tỉnh, Hoàng Văn Tuấn chiêu mộ
quân khởi nghĩa, vận động nhân dân trang bị vũ khí, tiếp tế lương thực cho
nghĩa quân. ông giữ chức bang biện, đã phân chia nghĩa quân thành cơ, ngũ,
cử cai đội, suất đội cai quản, tổ chức huấn luyện kỹ thuật chiến đấu. Năm
1885 ông đã đem quân đánh chiếm lại được thành Phủ Lý. Cũng năm đó
ông tổ chức đánh úp một đoàn thuyền giặc trên sông Đáy, chặn đánh bộ
binh Pháp ở Bình Lương (Ý Yên). Ông đưa quân đi đánh tiếp ứng cho Bang
biện Phạm Lý ở Yên Hòa (Ý Yên). Năm 1888 vua Hàm Nghi bị bắt, phong
trào Cần vương ở các nơi tan rã dần. Quân Pháp cắt đặt quan lại đóng đồn
binh ở Cổ Đan cùng tổng với xã Phú Khê, đem quân về đóng giữ đình Quán
Chàm ở làng ông. Chúng cho quân đi càn quét nhiều nơi và bắt được ông,
giam ở nhà lao Ninh Bình.
Sau đó giặc Pháp kết án ông 10 năm phát vãng, chúng chuyển
lên Hà Nội nhốt ông ở quán Thánh Trấn Võ, đợi ngày đưa đi Côn Đảo.
Một người học trò cũ của ông là Cả Tương quê ở làng Nham
Kênh trên bờ sông Đáy cứu được vợ chồng tên quan 5 người Pháp ở Sở
Kiện. Hắn tỏ ý muốn đền ơn, Cả Tương bảo hắn: "Tôi với anh là kẻ thù, tôi
có thể giết anh. Nhưng tôi cứu anh là để anh xin tha cho thày học của tôi là
cụ Thủ khoa Hoàng Văn Tuấn”. Tên quan 5 nhận lời, đưa ông lên Hà Nội
vận động mấy tháng ông mới được tha, nhưng bị chúng quản thúc. Khi bị
quản thúc ông vẫn tỏ rõ khí phách căm thù giặc Pháp, một lần, tên hào mục
ở nhà thờ Sở Kiện khoe Cố Phước (Puginier), cố Đông (Gendreau) ở Sở
Kiện tài giỏi và cứng cổ. Ông ngắt lời bảo hắn: “Cổ cố đạo có cứng bằng
gươm không?”. Tên kia chột dạ không dám đến nữa.
Ông về làng được một năm thì mất, thọ 69 tuổi.
NGUYỄN GIẢN
Nguyễn Giản còn gọi là Nguyễn Văn Giản, sinh năm 1822,
người xã Phùng Thiện, nay là thôn 5, xã Khánh Thiện, huyện Yên Khánh
tỉnh Ninh Bình.
Năm 1873, ông cùng ba con trai là Nguyễn Đường, Nguyễn Thị,
Nguyễn Bích tham gia cuộc khởi nghĩa do Tam Đăng Phạm Văn Nghị chỉ
huy. Ông đã chuẩn bị tham gia trận đánh ngăn chặn quân Pháp từ Ninh Bình
đánh ra Nam Định theo đường sông Đáy vào sông Đào để xuống phá thành.
Tam Đăng Phạm Văn Nghị chỉ huy cắm kè ở ngã ba Độc Bộ - nơi gặp nhau
giữa sông Đào và sông Đáy. Thiên hộ Giản đắp đồn Trong và đồn Ngoài.
Hai đồn nối với nhau bằng con đường đất, có thể chi viện cho nhau, tiến lui
một cách dễ dàng.
Trong trận Độc Bộ, ngày 10/12/1873, tầu chiến Pháp đến ngã ba
Độc Bộ, Tam Đăng Phạm Văn Nghị lệnh cho cho súng thần công phát hoả.
Đạn trúng tầu chiến Pháp, song sức công phá kém chỉ làm gẫy cột tầu, giết
chết 3 tên Pháp và làm bị thương một số tên. Tháng 3 năm 1883, giặc Pháp
lại kéo tới đánh chiếm Ninh Bình, quan quân thấy tình thế nguy hiểm, mở
cửa thành đón giặc vào, không dám bắn một phát súng nào. Nguyễn Giản
đã kêu gọi nhân dân khởi nghĩa. Ông đem hết tiền bạc trong nhà để mua
sắm vũ khí đạn dược, mang hết thóc lúa trâu bò làm quân lương. Việc
chuẩn bị khởi nghĩa của cha con ông và bộ tham mưu tiến hành bí mật.
Ngôi nhà của Thiên hộ cũng là nơi bộ tham mưu làm việc. Đây cũng là nơi
có hầm đặt lò rèn sản xuất vũ khí súng trường bắn nhanh theo mẫu súng
1874 của Pháp, có hầm bí mật giấu vũ khí, có kho chứa lương thực.
Ngày 23 tháng chạp năm Kỷ Sửu (13/1/1890) quân Pháp bố
phòng xung quanh tỉnh thành, chặn các ngả đường rồi bí mật kéo quân về
đánh úp làng Phùng Thiện. Nghĩa quân chưa kịp đối phó thì quân Pháp đã
ập vào lùng bắt. Cả bốn cha con Thiên hộ Giản và một số nghĩa quân bị bắt.
Quân Pháp còn lấy được tại nhà Thiên hộ 30 lò rèn, 100 cối xay. Ngày hôm
sau, 24 tháng chạp năm Kỷ Sửu (14/1/1890) giặc Pháp bắn chết Nguyễn
Đường, Nguyễn Thị, Nguyễn Bích ở chân núi Cánh Diều. Nguyễn Giản bị
giặc Pháp bắt giam trong ngục, hơn 2 năm sau, ngày 21 tháng 6 năm Nhâm
Thìn (13/8/1892) ông mất tại nhà tù.
(Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3 (174) ngày 5/6/1977, chú thích
Thiên hộ Giản là một hào trưởng ở cùng Nho Quan, có lẽ là dân tộc Mường
(chúng tôi chưa điều tra rõ lý lịch) đã giúp nhiều công của vào việc cứu dân
và đánh Pháp nên được phong Thiên hộ. Tương truyền khi giặc Pháp vậy
nhà ông còn bắt được hơn 30 lò rèn và 100 cối xay. Ông bị Pháp bắt và bị
xử tử hình khoảng năm 1888. Hôm hành hình, trời có mưa to và sấm sét).
HOÀNG PHAN THÁI
Hoàng Phan Thái quê ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, ông thi
đỗ đầu xứ, nên các nhà nho suy tôn ông là "Đầu xứ Thái”.
Ngày 15 tháng 3 năm 1874 , triều đình Huế ký với thực dân
Pháp bản Hiệp ước mang tên "Hiệp ước hoà bình và liên minh” tại Sài Gòn
(Trong sử sách còn gọi là Hiệp ước Giáp Tuất). Hiệp ước có 22 điều khoản.
Trong đó điều khoản 5 ghi: "Triều đình Huế thừa nhận chủ quyền của Pháp
trên phần đất Việt Nam kể từ địa giới phía Nam tỉnh Bình Thuận trở vào”.
Lập tức các sĩ phu, nhân dân khắp nước, đặc biệt là ở Trung Kỳ,
Bắc Kỳ dấy lên phong trào phản đối triều đình Huế bán nước và thực dân
Pháp cướp nước. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra với khẩu hiệu "Đánh cả triều
lẫn Tây”. Hội Văn thân Nghệ Tĩnh phát "Hịch bình Tây" trong đó có câu:
'Triều đình dẫu hoà với Tây mặc lòng, sĩ phu nước Nam quyết không chịu.
Vậy... xin đánh đuổi Tây cho hết để giữ lấy nền văn hiến của ta đã có hơn
ngàn năm nay”.
Hưởng ứng "Hịch Bình Tây”, Phan Thái xưng hiệu là “Đông
Hải đại tướng quân” chiêu mộ nghĩa binh chống lại sự bạc nhược của triều
đình Huế đầu hàng giặc Pháp. Triều đình Huế đưa quân đến Nghi Lộc quê
hương ông vây bắt. Ông bị bắt đưa ra xử chém.
Hoàng Phan Thái hy sinh khi chưa thực hiện được hoài bão giết
giặc, trừ gian của mình nhưng nó như một ngòi nổ kích động nhiều cuộc
khởi nghĩa khác. Riêng ở Nghệ Tĩnh đã có các cuộc khởi nghĩa của Vương
Thúc Mậu (1886-1887) ; Lê Ninh, Tống Duy Tân...
Hành động của cụ Đầu xứ Hoàng Phan Thái được Phan Bội
Châu hết sức ca ngợi. Năm 1907, Phan Bội Châu viết: Tập tiểu truyện Đầu
xứ Thái, một nhà nho sống thời Tự Đức và đã bị bọn phong kiến triều
Nguyễn xử tử vì có tư tưởng chống đối triều đình nhà Nguyễn. Trong Phan
Bội Châu niên biểu, tác giả cho rằng: cuốn trên này đánh dấu một chuyển
biến lớn trong tư tưởng của mình. Truyện đề cao một "loạn thần" lên địa vị
"ông tổ" mở đường cho cuộc vận động chống quân quyền ở Việt Nam đồng
thời tố cáo tội ác của Tự Đức.
LÊ VĂN MAI
Lê Văn Mai sinh năm 1843, người làng Vĩ Khánh nay thuộc xã
Liêm Túc, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Ông là người thông tuệ từ
nhỏ, thi đỗ tiến sĩ khoa Mậu Thìn, năm Tự Đức thứ 21 (1868) khi mới 25
tuổi, được bổ làm quan Ngự sử, nên dân gian gọi là Ngự Mai.
Năm 1873 giặc Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất, các phủ, huyện
của Hà Nam khi đó thuộc Hà Nội đều bị quân Pháp đánh. Quân triều đình
chưa đánh đã bỏ chạy. Triều đình Huế sợ giặc không dám động binh, vội
vàng ký "Quy ước" giữa Nguyễn Văn Tường và Philát nhượng bộ Pháp
nhiều quyền lợi về kinh tế, chính trị, quân sự.
Lê Văn Mai đứng về phe chủ chiến, khuyên can vua không được
liền từ quan về quê. Ông đã liên kết với những người cùng chí hướng như
tú tài Lê Văn Tốn, chiêu mộ quân rèn đúc, vũ khí theo Đinh Công Tráng
khởi binh đánh Pháp.
Khi hai ông khởi binh rồi gia nhập cuộc khởi nghĩa Đinh Công
Tráng thì thế lực nghĩa quân càng mạnh. Lê Văn Mai trở thành mưu sĩ hàng
đầu, là tướng tâm phúc của Đinh Công Tráng. Ông cũng chủ trương vạch ra
kế hoạch tác chiến, bày binh bố trận dụ địch vào nơi đất hiểm, và ông cũng
là người cầm quân đánh những trận đó. Nghĩa quân Đinh Công Tráng chiến
thắng nhiều trận lẫy lừng ở Tràng Bưởi, Sở Kiện, rồi ào ào tiến sang Nam
Định giải phóng phủ Bỏ (Ý Yên), chợ Dầu (VụBản) thị xã Phủ Lý.
Ngày 15/3/1874, Triều đình Huế ký với Pháp "Hiệp ước Hoà
bình và liên minh” thực tế là đầu hàng giặc Pháp, ra lệnh triệt binh của
triều đình, giải tán nghĩa quân. Đinh Công Tráng trả chức tước cho triều
đình, ông cử Lê Văn Mai ở lại mở trường dạy học để tuyên truyền lòng yêu
nước, chí căm thù giặc Pháp cho thanh niên, huấn luyện quân sự, dạy binh
thư cho anh em rồi lên Sơn Tây - Hưng Hoá gia nhập quân của Hoàng Kế
Viêm được phong Lãnh binh, ông thường xuyên có mối quan hệ với Lê Văn
Mai.
Ngày 25/4/1882 (mùng 8 tháng ba năm Nhâm Ngọ) Henri
Rivière tấn công thành Hà Nội lần thứ hai, Tổng đốc Hoàng Diệu tuần tiết
theo thành.
Đầu năm 1883 quân Pháp đánh chiếm Phủ Lý và các phủ huyện
nay thuộc tỉnh Hà Nam. Ngày 27/3 thành Nam Định thất thủ...
Do có 10 năm chuẩn bị, nên ngay khi quân Pháp đánh chiếm
Phủ Lý, Lê Văn Mai đã triệu tập nghĩa quân đánh Pháp và bọn giáo dũng
khiến chúng không dám đánh rộng ra các phủ huyện. Ông còn phối hợp với
nghĩa quân của Lê Văn Tốn tập kích vào các trại quân Pháp.
Đinh Công Tráng sau khi dự trận đánh ở Cầu Giấy ngày
19/5/1883, ông trở về Hà Nam, Nam Định gây dựng phong trào đánh Pháp
thống nhất các lực lượng kháng chiến ở Hà Nam. Vốn mến mộ tài năng và
đức độ của ông, chỉ trong mười ngày, ông đã có một đội nghĩa quân đông
tới 5000 người. Ngự Sử Lê Văn Mai và tú tài Lê Văn Tốn cũng đem quân
tới phối hợp.
Hốt hoảng trước lực lượng nghĩa quân Đinh Công Tráng, giặc
Pháp tập trung quân càn quét vùng sông Đáy. Lê Văn Mai đã sát cánh cùng
chủ tướng Đinh Công Tráng chiến đấu dũng cảm đánh thắng nhiều trận ở
Thong, Bưởi, xây dựng căn cứ rừng Tràng huyện Thanh Liêm. Từ căn cứ
này, nghĩa quân liên tục đột nhập vào Phủ Lý, huyện lỵ Thanh Liêm. Giặc
Pháp tập trung quân, đại bác bắn vào căn cứ rừng Tràng.
Không giữ được căn cứ, Lê Văn Mai cùng chủ tướng Đinh Công
Tráng rút quân về xây dựng căn cứ kháng chiến mới ở Thư Điền, tỉnh Ninh
Bình. Sau Đinh Công Tráng nhận thấy Thư Điền dễ bị cô lập khi quân Pháp
bao vây, tấn công nên Đinh Công Tráng đã cùng các ông Phạm Bành,
Hoàng Bật Đạt, Hà Văn Mao xây dựng căn cứ ở các xã Kim Âu và Thạch
Bằng thuộc huyện Quảng Hoá, Thanh Hoá.
Theo gợi ý của Thượng thư bộ Binh Tôn Thất Thuyết khi đó đã
đưa vua Hàm Nghi ra Sơn phòng Quảng Trị, hạ chiếu Cần vương, Đinh
Công Tráng và Lê Văn Mai đã chuyển xuống đồng bằng xây dựng các căn
cứ Ba Đình, thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Ngự Sử Lê Văn Mai đã
sát cánh cùng thủ lĩnh Đinh Công Tráng và các thủ lĩnh khác xây dựng và
chiến đấu bảo vệ căn cứ này.
Ngày 18 tháng 12 năm 1886, nghĩa quân Ba Đình đánh bại cuộc
tấn công qui mô đầu tiên của quân Pháp vào căn cứ từ hai hướng: hướng
Tây Nam do tên trung tá Melzinzen chỉ huy, hướng đông bắc do tên trung tá
Dodds chỉ huy. Nhưng chúng đã bị nghĩa quân đánh bại. Lê Văn Mai dũng
cảm chỉ huy nghĩa quân đánh lùi những đợt xung phong của quân Pháp, ông
anh dũng hy sinh. Nghĩa quân đưa thi hài ông về quê ông ở làng Vĩ Khánh,
xã Liêm Túc an táng. Bia mộ của ông nay vẫn còn ở đình Hát xã Liêm Túc.
Khi còn sống làng Tập Mỹ, huyện Bình Lục xây đình đã mời ông đến cất
nóc. Khi ông hy sinh dân làng tôn ông làm Thành hoàng thờ ở đình. Ông
được nhân dân vùng Liêm Sơn tôn trọng, xưa kia vẫn kiêng tên huý của ông
không nhắc đến.
NGUYỄN THÀNH THÀ
Nguyễn Thành Thà quê ở thôn Phan Bổng, xã Đô Mỹ, huyện
Thần Khê (nay là xã Bình Lăng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Nguyễn
Thành Thà học võ rất nhanh và thi đậu cử nhân võ hạng ưu khi tuổi còn rất
trẻ.
Thành Thà được bổ chức quản suất ở Lạng Sơn, một chức quan
võ nhỏ ở một tỉnh miền núi. Tuy chỉ là quản suất, nhưng bằng tài năng của
mình ông đã lập được nhiều chiến công được thăng chức Chánh quản ở tỉnh
Hưng Yên, chuyên lo xây dựng lực lượng quân sự để đối phó với giặc Pháp
đang có âm mưu đánh chiếm Bắc Kỳ. Thời gian này ông có công huấn
luyện cho một số nghĩa dũng trong dân quân Nam tiến 365 người do Đốc
học Phạm Văn Nghị tổ chức tình nguyện vào Đà Nẵng đánh giặc ngày
29/2/1860. Cuối tháng 11 và 12/1873, quân pháp đánh chiếm thành Hà Nội,
phủ Hoài Đức, nhiều phủ huyện của tỉnh Hà Nam (khi đó thuộc Hà Nội)
phủ Thuận Thành (Bắc Ninh), thành Hải Dương, thành Ninh Bình, Hạ xong
các thành trên, quân Pháp tiến đánh thành Nam Định, ngày 10/12/1873
quân Pháp do Francis Garnies cho tầu chiến vượt qua đồn Độc Bộ, do
Hoàng giáp Phạm Văn Nghị chỉ huy nghĩa quân chống giữ. Nguyễn Thành
Thà giữ chức Chánh quản ở Hưng Yên phán đoán trước đường tiến quân
của quân Pháp nên trước đó ít ngày, ông đã đưa một bộ phận nghĩa quân
tinh nhuệ từ Hưng Yên sang đồn Độc Bộ cùng nghĩa quân Phạm Văn Nghị
giữ đồn. Khi chiến hạm của quân Pháp lọt vào trận địa, nghĩa quân đã đánh
một trận quyết chiến quyết liệt, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.
Sau Hiệp định 1874 triều đình Huế phải nhượng bộ Pháp nhiều
điểm, để đổi lại Pháp rút quân khỏi Bắc Kỳ, chỉ để lại một bộ phận đóng ở
Hà Nội và Ninh Hải (Hải Phòng). Nguyễn Thành Thà ở lại Nam Định.
Ngày 25/3/1883, trung tá Hải quân Hăngri Rivierơ chỉ huy quân Pháp từ Hà
Nội vào chiếm sông Vị Hoàng, gửi tối hậu thư buộc Tổng đốc Nam Định
nộp thành. Sáng sớm ngày 26/3/1883, quân Pháp tấn công thành, Đề đốc Lê
Văn Điếm, Án sát Hồ Bá Ôn đã chỉ huy nghĩa quân đánh giặc giữ thành.
Hai cánh nghĩa quân do Nguyễn Thành Thà và Nguyễn Hữu Bản được giao
giữ Cửa Đông. Cửa Đông là mũi tấn công chính của giặc Pháp, nên cuộc
chiến diễn ra hết sức quyết liệt Nguyễn Thành Thà bị đạn pháo bắn bị
thương vẫn không rời vị trí chỉ huy. Song thế giặc mạnh, nghĩa quân bị
thương và hy sinh nhiều, Đề đốc Lê Văn Điếm đã tử trận, Nguyễn Thành
Thà gom số quân còn lại lui về lập đồn cố thủ ở Vị Xuyên.
Nghe tin Thành Thà về xây dựng đồn Vị Xuyên, các bạn chiến
đấu, học trò của ông về tụ nghĩa rất đông. Triều đình cử Tạ Hiện người làng
Quang Lang, huyện Thụy Anh về làm Đề đốc Nam Định. Tạ Hiện đã cử
Nguyễn Thành Thà về cùng Đinh Gia Quế xây dựng căn cứ Bãi Sậy và các
căn cứ ở vùng Thần Khê, Duyên Hà. Với tư cách là phái viên của quan Đề
đốc, Nguyễn Thành Thà đã đóng góp nhiều công sức trong việc xây dựng
lực lượng, thu góp quân lương tại các căn cứ trên. Nguyễn Thành Thà còn
xây dựng thôn Phan Bổng - quê hương ông thành một căn cứ kiên cố, đồng
thời là nơi chứa quân lương lớn nhất trong vùng.
Vua Hàm Nghi thăng Nguyễn Thành Thà là Lãnh binh ở Hưng
Yên, ông là trung tâm tổ chức hiệp đồng chiến đấu của các thủ lĩnh nghĩa
quân Phạm Huy Quang, Đốc Đen, Đốc Nhưỡng, Lãnh Hoan…
Những năm cuối đời, tuổi cao, sức yếu, Lãnh binh Nguyễn
Thành Thà vẫn xông pha trận mạc. Ông còn cầm quân tiêu diệt bọn giặc bể
Tàu Ô từ biển tràn vào cướp phá huyện Thái Ninh, Thụy Anh. Đầu năm
1895 giặc Pháp tấn công căn cứ Phan Bổng, căn cứ bị vỡ. Nguyễn Thành
Thà bị thương. Nghĩa quân đưa ông về căn cứ ở Mỹ Hào (Hưng Yên) điều
trị vết thương. Khi ông sắp qua đời, nghĩa quân đưa ông về căn cứ Phan
Bổng. Ông mất vào một ngày cuối năm 1895. Nhân dân học trò, nghĩa quân
tới phúng viếng rất đông.
NGUYỄN XUÂN ÔN
Nguyễn Xuân Ôn sinh ngày 22 tháng 3 năm Ất Dậu, người làng
Quần Phương, xã Lương Điền, tổng Thái Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn
Châu, nay là xã Diễn Thái huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Ông là người
thông tuệ, đọc sách nhớ lâu, người đời gọi đùa là "tủ sách bụng”. Năm
1844 ông đỗ tú tài khi mới 18 tuổi, năm 1847 đỗ tú tài lần thứ hai. Lận đận
mãi đến khoa thi Đinh Mão, Tự Đức 20 (1867) ông mới đỗ cử nhân. Khoa
thi Hội Tân Mùi, Tự Đức 24 (1871), khi đã 42 tuổi ông mới đỗ Đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân, được bổ nhiệm tri phủ Quảng Ninh (Quảng Bình),
rồi lại được bổ làm Án sát Bình Thuận.
Nguyễn Xuân Ôn là người cương trực, khẳng khái chỉ trích quan
lại tham nhũng. Ông là người đứng hẳn về phe chủ chiến. Năm 1874 ông đã
báo cáo với triều đình âm mưu của giặc Pháp nhưng vua Tự Đức và các
quan lờ đi, ông liên tiếp gửi sớ về trình bày kế hoạch đánh giữ. Ông còn xin
về Nghệ An để cùng quan lại địa phương tổ chức lực lượng kháng chiến.
Ông cực lực phản đối chủ trương của triều đình cầu hòa với Pháp. Vua Tự
Đức chủ trương cầu hòa, nên không ưa ông, đã phê vào sớ của ông dòng
chữ: "Kiến sự phóng sinh" (Thấy việc nói tràn). Triều đình mượn cớ cầu
hòa, nhưng thực tế là đầu hàng, ký nhiều Hiệp ước bán rẻ chủ quyền cho
thực dân Pháp. Nguyễn Xuân Ôn vẫn kiên trì trình bày tường tận ý kiến,
phương lược chống Pháp của mình. Ông cũng tuyên bố rõ ràng: "Nếu triều
đình không nghe thì từ chức”. Vì thế mỗi khi triều đình tiếp được sớ của
Nguyễn Xuân Ôn đề cập đến việc giặc Pháp thì tỏ thái độ rất khó chịu. "Có
lần Thượng thư bộ Lại lúc đó là Nguyễn Chánh đã lên tiếng chỉ trích kịch
liệt, thậm chí cả Tự Đức cũng xuống chiếu trách phạt”.
Triều đình Huế không muốn để Nguyễn Xuân Ôn là người có tư
tưởng chống Pháp ở Bình Thuận, giáp với Lục tỉnh Nam Kỳ, mà triều đình
Huế đã bán đứt cho Pháp thì xảy ra một sự việc: Khoảng cuối năm 1881,
đầu năm 1882, một tên cố đạo Pháp ngang nhiên xúc phạm nghi lễ của dân
tộc đã bị ông điều lên cho hỏi tội. Vì việc này, thực dân Pháp trách cứ triều
đình Huế vi phạm Điều 9 "Hiệp ước Hòa bình và Liên minh" đối với đạo
Thiên Chúa là; chấm dứt việc mạt sát đạo Thiên chúa, cho phép các giáo sĩ
được đi lại khắp nơi để truyền giáo”. Vì thế triều đình Huế điều ông ra làm
Án sát tỉnh Quảng Bình điều tra một số vụ án không quan trọng.
Ông ra Quảng Bình chưa được bao lâu thì ngày 25 tháng 4 năm
1882, quân Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai. Ngày 12/3/1883, quân Pháp
đánh Hòn Gai, ngày 27/3/1883, giặc Pháp hạ thành Nam Định…
Trước họa xâm lăng một số tướng lãnh ở Bắc Kỳ như Hoàng Kế
Viêm, Bùi Văn Dị, Nguyễn Chánh, Trương Quang Đản đều mật tâu về kinh
xin đánh. Nhưng Tự Đức chỉ phái người ra Hà Nội thương thuyết xin Pháp
trao trả lại thành, lệnh cho quân chính quy và quân Cờ Đen lên mạn ngược,
nới lỏng vòng vây cho quân Pháp, bắt các sĩ phu giải tán nghĩa quân, cho
người đi cầu cứu nhà Thanh.
Sau khi Nguyễn Xuân Ôn gửi nhiều bản sớ tấu về triều không
được Tự Đức chấp nhận, ông xin từ quê về Nghệ An để phát động cuộc
kháng chiến chống Pháp. Song ông vẫn dâng sớ xin kinh lý miền thượng du
để có cơ sở kháng chiến lâu dài. Tiếp nữa ông lại dâng sớ điều trần các việc
nên làm, kịch liệt phản đối chủ trương hòa hảo với giặc Pháp của triều đình.
Chán cảnh triều đình đầu hàng giặc Pháp, ông cáo quan về quê nhà ở xã
Diễn Thái huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An rồi tự mình đứng ra lo việc
chống Pháp. Ông "chăm việc vỡ hoang đồn điền, tập hợp những người dân
lưu tán, xếp vào đội ngũ, chờ lúc cần mà dùng”. Từ khi về nhà tới đầu
tháng 8/1884 là thời gian ông bàn bạc với các đồng chí tin cậy, chuẩn bị
mọi mặt từ tuyển quân, huấn luyện, trang bị vũ khí, tích trữ quân lương, xây
dựng căn cứ.
Tháng 8 năm 1884 vua Hàm Nghi lên ngôi cho người ra Nghệ
An phong cho Nguyễn Xuân Ôn làm "An - Tĩnh Hiệp đốc quân vụ đại thần
thông lĩnh lực lượng nghĩa quân hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh”. Ông lập tức
tuyển quân, chỉ trong nửa tháng số quân lên gần 2.000 người. Ông có nhiều
trợ thủ đắc lực như Đề Kiều, Lãnh Mậu, Lãnh Phương, Đốc Nhan, Đề
Vĩnh, Lãnh Bảng, Đề Thắng lo việc huấn luyện, trang bị vũ khí, tịch trữ
quân lương, xây đồn lũy.
Tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật, Trần
Xuân Soạn chỉ huy Phấn Nghĩa quân tấn công đồn Mang Cá, khu Nhượng
địa. Việc không thành. Các ông rước vua Hàm Nghi ra sơn phòng Tân Sở
(Quảng Trị).
Ngày 13/7/1885 từ Tân Sở, chiếu Cần vương được phát đi trong
cả nước kịch liệt tố cáo âm mưu cướp nước của thực dân Pháp, hô hào toàn
dân đứng lên chống Pháp cứu nước. Tiếp được chiếu, Nguyễn Xuân Ôn lập
tức hưởng ứng. phong trào tòng quân diễn ra rầm rộ ở hai tỉnh Nghệ An, Hà
Tĩnh.
Thực dân Pháp nghe tin Nguyễn Xuân Ôn khởi binh ở Nghệ An
vội vàng kéo vào chiếm đất, đóng đồn khống chế các hoạt động của nghĩa
quân. Giữa tháng 11/1885, nghĩa quân của Nghè Ôn và quân Pháp đánh
nhau dữ dội ở xã Đoài, ưu thế nghiêng về phía nghĩa quân. Sau trận thắng
này thanh thế của nghĩa quân Nghè Ôn càng lớn mạnh. Ông lui quân về Tây
bắc xã Đoài tiến hành các hoạt động quân sự mạnh mẽ hơn.
Trong năm 1886 nghĩa quân Nguyễn Xuân Ôn đánh thắng nhiều
trận lớn như trận Thưa Sủng, Đồng Mờm, Đồng Nhơm trên con đường từ
Diễn Châu đi Yên Thành. Tháng 6/1885 vua bù nhìn Đồng Khánh ra dụ nếu
thủ lĩnh Nguyễn Xuân Ôn (và 17 người nữa) nếu ra đầu thú sẽ được giữ
nguyên hàm và được bổ làm quan từ Quảng Bình, Quảng Trị đổ vào. Song
Nguyễn Xuân Ôn không thèm đếm xỉa đến những lời gạ gẫm của Đồng
Khánh, vẫn tiếp tục cuộc chiến. Cuối năm 1886 nghĩa quân còn táo bạo
thọc sâu xuống đồng bằng, ven biển, tấn công đồn Pháp ở chợ Sy (cạnh
đường số 1, thuộc huyện Diễn Châu).
Năm 1887 nghĩa quân Nguyễn Xuân ôn đánh thắng nhiều trận
lớn như trận vùng Sừng, Mị, Xóm Hố thuộc vùng tây bắc huyện Yên
Thành.
Trong các trận đánh, Nguyễn Xuân Ôn luôn luôn đi hàng đầu,
nêu cao gương dũng cảm, làm cho khí thế nghĩa quân phấn chấn. Ông bị
thương nhiều lần. Trong một trận đánh vào tháng 6/1887 ở xóm Hồ, ông bị
thương vào bả vai phải về làng Đồng Nhân, nay là thôn Đồng Đức, xã Mã
Thành, huyện Yên Thành điều trị. Ngà.y 12 tháng 4 năm Đinh Hợi
(25/7/1887), tên quan một Bunlơ (Bouloux) chỉ huy một toán lính cải trang
làm nông dân do tên Tới dẫn đường xâm nhập vào nơi ông ở. Khi phát hiện
ra quân Pháp, 20 cận vệ xông ra cản giặc. Một cuộc kịch chiến xảy ra. Quân
Pháp đông và mạnh, phần lớn vệ sĩ hy sinh. Nguyễn Xuân Ôn rút kiếm tự
tử, song bị quân Pháp ngăn lại, bắt ông. Lúc đầu chúng giam ông ở đồn Yên
Mã (Mã Thành, huyện Yên Thành). Sau đó chúng đưa ông về giam ở Diễn
Châu. Đến ngày 13/8/1887 chúng giải ông về nhà lao Vinh. Tại đây giặc
dùng mọi cách mua chuộc, lung lạc ông, song ông vẫn kiên cường không
khuất phục. Chúng buộc ông bảo thuộc hạ ra hàng. Ông suy nghĩ nhận thấy
quân Pháp đang mạnh, quân ta ở thế yếu, lại không có chủ tướng, nếu tiếp
tục chiến đấu sẽ gây tổn thất lớn, cần phải bảo toàn lực lượng để quyết
chiến với giặc khi có cơ hội. Vì vậy ông viết thư khuyên tướng sĩ giải tán về
nhà làm ăn. Về sự kiện này sau này ông viết trong Lời trình về Bộ năm Mậu
Tý (1888) - "Tôi đem lòng báo nước, lòng và sức đều kiệt, việc đã không ra
gì, nếu cứ để lại những người bộ thuộc , sợ không thể trì chí, nên tôi viết
thư bảo họ giải tán đi”.
Giặc Pháp thấy nghĩa quân đã giải tán, ông tuổi cũng đã cao, đã
bị thương lại hay đau yếu, không có lý gì để xử tử ông, Song chúng vẫn
không dám đưa ông về Nghệ An mà bắt ông ở Huế. Nhưng ra tù được mấy
tháng, ông lâm bệnh nặng rồi mất vào cuối năm 1889. Nguyễn Xuân Ôn để
lại tập thơ "Ngọc Đường thi tập" gồm 311 bài, "Nguyễn Đường văn tập” 22
bài, một số câu đối, thơ Nôm. Thơ văn của ông nêu cao tinh thần quyết tâm
kháng chiến bất chấp quân Pháp có vũ khí hiện đại. Các bài thơ cũng lên án
mạnh mẽ giặc Pháp và vua quan nhà Nguyễn đầu hàng giặc.
LÊ VĂN ĐIẾM
Đề đốc Lê Văn Điếm quê ở xã Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc,
tỉnh Thanh Hóa, ông tham gia giữ thành Nam Định.
Đề đốc Lê Văn Điếm và các quan tỉnh phe chủ chiến, các thủ
lĩnh nghĩa quân chăm chú theo dõi các hoạt động khiêu khích của quân
Pháp và dân theo đạo Thiên chúa. Bất chấp lệnh bãi binh của triều đình, Lê
Văn Điếm vẫn lệnh cho các đồn binh củng cố công sự, sẵn sàng chiến đấu.
Trong chừng mực có thể, ông còn giúp vũ khí cho nghĩa quân, cử các Hiệp
quản, suất đội có kinh nghiệm giúp các thủ lĩnh nghĩa quân huấn luyện quân
sự cho tân binh.
Trước thái độ tích cực chống Pháp của quan quân, nhân dân
nhiệt liệt đồng tình và ủng hộ. Tầu Carabin đậu ở sông Nam Định cứ đêm
đến bị ném đá. Khi quân Pháp cho tầu chiếm ngã ba Độc Bộ cửa ngõ của
tỉnh thành Nam Định, Lê Văn Điếm phán đoán quân Pháp sắp đánh chiếm
Nam Định. Đến ngày 24/2/1883 H.Rivière tiếp nhận được binh lính và tầu
chiến, hắn cho tầu chiến vào chiếm Sông Đào khống chế thành Nam Định.
Quân dân Nam Định càng khẩn trương chuẩn bị đánh giặc.
Người già, đàn bà, trẻ con được lệnh rời khỏi tỉnh thành. Ngày 10/3/1883,
Henri Rivière gửi thư cho Thomson, Thống đốc mới ở Nam Kỳ xin cho
đánh Nam Định. Ngày 23/3/1883, Henri Rivière chỉ huy quân lính đi trên
các tàu chiến Carabin, La Hat sơ, Yatagăng, Tông Canh (Tonkin Kiang
Nam và Oăm Poa) (Wampois) và một số thuyền theo sông Hồng về đánh
Nam Định. Chúng tới Phủ Lý không bị cản trở, ở qua đêm tại đó rồi hành
quân qua sông Đáy, Ninh Bình, không bị quân triều đình ngăn cản. Tới
Vĩnh Trụ, thì tàu Pluvier đợi sẵn nhập bọn. Ngày 24/3 chúng tới ngã ba Độc
Bộ có tầu Surprise đợi sẵn. Sáng ngày 25/3/1883, Henri Riviere gửi tối hậu
thư cho Tổng đốc Vũ Trọng Bình đòi nộp thành. Vũ Trọng Bình kiên quyết
không giao, chúng liền bắn pháo giữ dội vào thành. Đề đốc Lê Văn Điếm
cùng các tướng chỉ huy quan quân đánh bật nhiều đợt tấn công của giặc
khiến chúng phải rút chạy về tàu.
Sáng sớm ngày 27/3, tàu chiến Pháp bắn dữ dội vào cửa Đông,
cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt đến trưa. Đề đốc Lê Văn Điếm chỉ huy vòng
ngoài giữa vòng vây của giặc, xông pha lửa đạn chỉ huy quân lính đánh bật
nhiều đợt xung phong của giặc. Xác chúng ngổn ngang trên đường. ông bị
trúng đạn vào bụng, ruột lòi ra ngoài, ông lấy tay ấn vào, lấy khăn chít đầu
quấn chặt lại, tiếp tục chỉ huy quan quân đánh giặc. Quân sĩ thấy chủ tướng
bị trọng thương vẫn không rời trận địa, tất thảy đều hăng hái xông lên giết
giặc. Đề đốc Lê Văn Điếm chiến đấu đến khi ngất xỉu, quân sĩ đưa lên ngựa
chạy về cửa Tây tới Biên Dương thì chết. Quan quân đưa thi hài ông về
Bồng Trung an táng.
TỔNG ĐỐC HOÀNG DIỆU
Hoàng Diệu nguyên tên là Hoàng Kim Tích, sinh ngày 10 tháng
2 năm Kỷ Sửu (5/3/1829), người xã Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh
Quảng Nam (nay là xã Điện Quang, vùng Gò Nổi, huyện Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam). Khoa thi Hương tại Thừa Thiên năm 1848, Hoàng Diệu đỗ cử
nhân. Năm năm sau, năm 1853, Hoàng Diệu thì Đình, đỗ Phó bảng. Khởi
đầu ông làm Tri huyện huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Do nha lại lầm
lẫn án từ, ông bị giáng chức làm Tri huyện Hương Trà, Thừa Thiên. Sau
theo bản sớ tấu của Đặng Huy Trứ tiến cử người hiền tài, ông được phục
chức làm Tri phủ Lạng Giang, rồi thăng Án sát Nam Định, Bố chánh Bắc
Ninh. Năm 1873 ông về Huế làm Tham tri bộ Hình, sau làm Tham tri bộ
Lại, kiêm Đô sát viện, sung cơ mật đại thần. Năm 1878, ông được bổ chức
Khâm sai đại thần. Cùng năm đó, Hoàng Diệu được nhận chức Tổng đốc
An Tĩnh (Nghệ An - Hà Tĩnh). Năm sau ông được điều về kinh giữ chức
Phó sứ thương thuyết với Tây Ban Nha, sau đó ông giữ chức Thượng thư
bộ Binh. Tháng giêng năm 1880, ông được thăng chức thự Tổng đốc, năm
1881 thăng Tổng đốc Hà - Ninh (Hà Nội - Ninh Bình).
Hoàng Diệu làm quan lớn, cha mẹ, vợ chính thức được phong
tước hiệu, nhưng gia đình ông vẫn sống ở làng quê một cuộc sống dân dã.
Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép: "Hoàng Diệu tính tình cương
trực, lâm sự quyết đoán, có phong độ bậc đại thần”.
Ngày 4/4/1882, Henri Rivière vào thành yết kiến Tổng đốc
Hoàng Diệu. Chuyến vào thành không nhằm mục đích ngoại giao mà đích
thân dò xét mọi mặt. Hoàng Diệu phán đoán hắn ra chuyến này là để hạ
thành Hà Nội, nhưng chưa có lệnh của Triều đình Huế, ông không dám
đánh ngay. Ông gấp rút điều động lực lượng phòng thủ trong thành bố trí ở
những địa điểm xung yếu. ông cho tôn cao mặt thành lên từ 1,5 mét đến 1,9
mét, tường thành được tu bổ dầy thêm từ 0,60 mét đến 0,8 mét. Cổng thành
được làm lại bằng gỗ lim dầy, vững chắc bên trong chất nhiều bao đất đá,
gỗ. Riêng của Nam và cửa Đông - nơi Garnier đột nhập vào 10 năm trước,
có thêm các dẫy tường chéo bao bọc lấy khu trung tâm, có kho thuốc súng,
quân dụng và hành cung. Như vậy là hai cửa Tây và cửa Bắc không vững
như hai cửa trên. Súng đại bác cũng được tăng cường, đặt trên mặt thành.
Ông còn phái một bộ phận quân đội ra ngoài thành để cùng lực lượng dân
binh đánh tập hậu quân địch.
Sáng 25/4/1882, Rivière gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu với lời
lẽ xấc xược. Bức thư láo xược của giặc Pháp, làm cho Tổng đốc Hoàng
Diệu vô cùng căm tức. Ông lập tức triệu tập các quan văn võ họp ở lầu trên
Cửa Đông, xếp ở đó mấy hòm thuốc súng, rót rượu nói với các quan, tướng
rằng: “Tôi xin các ông cạn chén, thề tận trung báo quốc. Nếu vạn nhất
thành mất thì tất cả chúng ta đến đây, đốt các hòm đạn này”. Các quan thà
chịu chết chứ không chịu đầu hàng.
Tổng đốc còn cho người ra ngoài thành, lệnh cho cử nhân
Nguyễn Đồng, phường Bích Câu đưa dân binh đánh vào sau lưng quân
Pháp, làm rối loạn đội hình của chúng. Quân ta đóng chặt cửa Đông và cửa
Bắc, tổ chức chiến đấu ở cửa Tây và cửa Nam. Quân Pháp nghi binh ở cửa
Đông, cửa Nam, nhưng lại đánh phá cửa Bắc và cửa Tây. Tổng đốc Hoàng
Diệu đang ốm vẫn mặc triều phục, mang gươm cùng Tuần phủ Hoàng Hữu
Xứng thân lên mặt thành đốc chiến. Ông cũng không khoan nhượng với bọn
quan lại có tư tưởng hòa hoãn, đầu hàng, ngăn chặn những vụ phá hoại,
gieo rắc hoang mang trong quân lính của chúng. Trong trận chiến, Nguyễn
Đình Trọng, còn gọi là Cử Tốn, giữ chức suất đội thuộc Tả trấn, hữu dinh ở
trong thành, ông là vệ sĩ của Tổng đốc, luôn luôn theo sát bảo vệ Tổng đốc.
Hai ông suất đội là Trần Lộc, người làng Nghè, Bếp Bốn người làng An
Phú đều thuộc huyện Từ Liêm chiến đấu trực tiếp dưới quyền chỉ huy của
Tổng đốc Hoàng Diệu, tả xung hữu đột và đều hy sinh anh dũng. Song thế
giặc mạnh, ùa vào bên trong. Quân ta tan rã. Tổng đốc Hoàng Diệu, Phó
lãnh binh Hồ Văn Phong không sao cản nổi giặc, vì chúng kéo vào quá
đông. Thấy thành đã vỡ, khó lòng chống cự nổi, Hoàng Diệu quay mặt về
phía Nam, chảy nước mắt nói: “Thần đã sức cùng, lực tận rồi, xin tạ tội”.
Đoạn ông cưỡi voi đến Võ miếu, viết một bài biểu gởi vua Tự Đức, rồi ông
lấy khăn quấn đầu bằng nhiễu đỏ thắt cổ tự tử để khỏi bị quân xâm lăng hạ
nhục. Khí tiết hy sinh vì nước lẫm liệt của ông được Nguyễn Văn Giai ca
tụng trong bài "Hà thành chính khí ca”.
“…Một cơn gió thảm mưa sầu
Nấu nung gan sắt dãi dầu lòng son
Chữ trung còn chút cỏn con
Quyết đem gửi cái tàn hồn gốc cây
Trời cao hiểu rộng đất dầy
Núi Nùng sông Nhị chốn này làm ghi”.
CAI TRÍ
Cai Trí, tức suất đội Đỗ Đăng Lâm được Tổng đốc Hoàng Diệu
tin cậy giao cho việc vận chuyển, bảo vệ các hòm giấy tờ, chiếu chỉ, bằng
sắc công văn từ trong thành về huyện đường. Vì quá cẩn thận, ông Cai Trí
cho hẳn một đội lính đi bảo vệ các hòm công văn trên. Điều đó khiến cho
bọn mật vụ của Lãnh sự Pháp ở Đồn Thủy và những giáo dân Thiên chúa
giáo quá khích được Pháp vũ trang nghi ngờ đó là các hòm vàng bạc, nên
chúng báo ngay cho Lãnh sự Pháp. Vì vậy Lãnh sự Pháp coi huyện đường
Thọ Xương cũng là một mục tiêu cho quân Pháp tấn công. Trước thế mạnh
và sự hung hăng của giặc Pháp cùng bọn tay sai, tri huyện, lục sự, thông
phán, nha lại cùng một số lính sợ hãi bỏ nhiệm sở chạy thoát thân. Mặc dù
giặc cướp đông, trong huyện thành chỉ còn lại hơn 20 lính cơ, Cai Trí cùng
anh em vẫn quyết tử giữ thành. Tên thông ngôn gọi loa uy hiếp Cai Trí và
anh em lính cơ nếu đầu hàng nộp hết các hòm từ trong thành chuyển ra sẽ
được tha mạng. Cai Trí biết rõ những hòm đó chứa đựng giấy tờ quan trọng
nên dù chết cũng bảo vệ tới cùng. Bọn giặc không khuất phục được ông liền
nổ súng rồi cho bọn trộm cướp phá cổng. Cai Trí chỉ huy anh em ngoan
cường đánh trả giặc. Chỉ trong giờ đầu, hơn một chục anh em đã hy sinh, đè
lên xác giặc. Cai Trí cùng số anh em còn lại lùi vào công đường giữ từng
gian nhà. Hết đạn, ông cùng anh em dùng đoản dao, dao găm đánh giáp lá
cà và đã hy sinh đến người cuối cùng.
Giặc rút, nhân dân huyện Thọ Xương vô cùng thương tiếc ông
và anh em quân sĩ, làm lễ an táng trọng thể. Nhân dân huyện Thọ Xương
nhớ ơn ông đã hy sinh cả thân mình chỉ huy quân lính đánh giặc, nên lập
ngôi miếu nhỏ thờ ông.
Tự Đức có chỉ dụ truy tặng suất đội Đỗ Đăng Lâm (ông Cai Trí)
chức Phó quản cơ vì đã chống cự quyết liệt cánh quân Pháp đánh chiếm
thành huyện Thọ Xương, cùng lúc Henri Rivière hạ thành Hà Nội và hy
sinh anh dũng.
Giặc Pháp sợ uy danh của ông, sợ nơi đây trở thành một lễ đài
ghi công tích những người hy sinh đánh Pháp, nên chúng cho bọn lưu manh
đập phá miếu. Miếu bị phá, nhưng dân vẫn thắp hương trên nền ngôi miếu
cũ vì nhân dân Hà Nội vẫn hướng về ông như hướng về quan Tổng đốc
Nguyễn Tri Phương, quan Tổng đốc Hoàng Diệu, ông Chưởng Cơ giữ cửa ô
Thanh Hà (nay là ô Quan Chưởng) và biết bao liệt sĩ khác đã hy sinh bảo vệ
thành Hà Nội.
NGUYỄN ĐỒNG
Nguyễn Đồng, đỗ cử nhân võ, người ở phường Bích Câu, là
người bộc trực nghĩa khí. Nguyễn Đồng khi đó tuổi đã ngoài 50, từ xưa tới
nay vẫn nổi tiếng là bậc: "Anh hùng tiếng đã gọi rằng, Ra đường thấy việc
bất bình mà tha!”, đã khẳng khái nhận lời ủy thác của nhân dân đứng ra tổ
chức nghĩa binh. Vốn là con nhà võ từng chỉ huy quân lính đánh trận, ông
hiểu rõ, đánh thắng giặc chỉ có lòng dũng khí không chưa đủ mà còn phải là
người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, phải có vũ khí, phải biết tiến lui. Vì vậy ông
chọn trong số những người tình nguyện trẻ tuổi, có vũ khí mở lớp huấn
luyện cấp tốc dạy thế tiến, lui, cách lợi dụng vật cản che khuất và vật cản
tránh đạn.
Cũng vào thời gian đó Henri Rivière ráo riết chuẩn bị đánh
thành. Cử nhân Nguyễn Đồng tập hợp quân ở đình Quảng Văn (Nay khu
vực đình Quảng Văn thuộc phường Cửa Nam, Hà Nội) rồi kéo quân đến
cửa Nam thành Hà Nội xin Tổng đốc Hoàng Diệu điều động lực lượng
nghĩa binh đi đánh giặc.
Khi đó Tổng đốc Hoàng Diệu đã cho bịt kín các cửa thành, việc
đi lại giữa trong và ngoài thành đều dùng thang dây. Tổng đốc thân lên mặt
thành khen ngợi tinh thần chiến đấu xả thân vì nước của đạo dân binh đông
tới nghìn người do cử nhân Nguyễn Đồng chỉ huy. Tổng đốc yêu cầu
Nguyễn Đồng về chấn chỉnh đội ngũ, trang bị thêm vũ khí để khi quân Pháp
tấn công thành thì đem quân đánh tập hậu, gây rối loạn đội hình giặc, đồng
thời ngả cây, dựng chướng ngại vật cản đường quân giặc.
Tổng đốc cũng tặng đội dân binh một số súng để tăng thêm nhuệ
khí cho dân binh. Nguyễn Đồng nhận lệnh của Tổng đốc đưa quân về các
phố phường, chia quân đóng giữ những nơi hiểm yếu. Nhân dân Hà thành
đem gạo, thịt ủng hộ đội dân binh. Các cụ già cũng đến các đình, chùa, đền
miếu mượn chiêng, trống, mõ phân phát trong dân để khi giặc tấn công thì
đánh lên để hư trương thanh thế.
Cử Đồng cũng không quên chia quân chủ động tấn công vào số
giáo dân quá khích nghe lời xúi giục của một số gián điệp đội lốt cố đạo tập
hợp thành các toán vũ trang đi cướp bóc, đốt phá các phủ huyện, các khu
phố sầm uất, cướp đoạt của cải của nhân dân.
Ngày 20/4/1882, quân Pháp tấn công thành Hà Nội thì ông chỉ
huy gần 1000 dân binh đánh vào sau lưng quân Pháp, tiêu diệt bọn giáo dân
tay sai của giặc. Nhân dân gõ chiêng trống, mõ, thổi tù và trợ chiến cho
quan quân trong thành. Nhân dân Hà Nội bên ngoài ô cửa Nam, cửa Bắc
còn tự tay đốt các dẫy phố của mình tạo thành bức rào lửa ngăn cản giặc.
Sự hỗ trợ của dân binh đã gây phấn khích cho quan quân trong
thành và làm cho quân Pháp khiếp đảm. Vì chúng đi tới đâu cũng nghe thấy
tiếng reo hò, tiếng chiêng trống, tiếng mõ, tiếng thanh la, Henri Rivière phải
cho một đội quân quay trở lại bắn như đổ đạn vào lực lượng dân binh chỉ có
giáo, mác, gậy gộc trong tay. Song Nguyễn Đồng vẫn lợi dụng được sự
thông thạo địa hình và sự dũng cảm của dân binh áp sát chân thành để trợ
chiến.
Cuộc chiến của quân và dân trong và ngoài thành đang diễn ra
quyết liệt thì kho thuốc súng trong thành bốc cháy. Quan quân hoảng sợ,
một số vượt tường thành chạy ra ngoài. Dân binh do Nguyễn Đồng chỉ huy
cũng nhanh chóng tan vỡ.
Thành Hà Nội mất, Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết. Nguyễn
Đồng và nhiều dân binh tham gia vào các lực lượng chống Pháp khác đang
diễn ra trên địa bàn Hà Nội, Sơn Tây.
DƯƠNG HỮU QUANG
Trong trận quân Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai, ngày 22 háng
4 năm 1882 , Dương Hữu Quang người làng Sơn Lộ (tên tục là làng So),
tổng Đông Cứu, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc xã Tân Hòa,
huyện Quốc Oai, Hà Nội làm Tri huyện Thọ Xương, rồi Thương vụ quân sự
Hà Nội. Khi quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, dưới sự chỉ huy
của Tổng đốc Nguyễn Tri Phương, ông chiến đấu tới khi thành bị vỡ mới
thoát ra ngoài. Giữa năm 1883, Dương Hữu Quang được cử giữ chức Phòng
binh tỉnh Sơn Tây, dưới quyền chỉ huy của Thống tướng Hoàng Kế Viêm
(còn gọi là Hoàng Tá Viêm).
Ngày 01/9/1883, tướng Bouet chỉ huy lực lượng quân viễn chinh
Pháp ở Bắc Kỳ đích thân chỉ huy quân Pháp đánh thành Sơn Tây. Hoàng Kế
Viêm kết hợp với quân Cờ Đen do tướng Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy đón đánh
quân Pháp ở Cầu Phùng. Dương Hữu Quang được giao nhiệm vụ chỉ huy
một cánh quân đánh tạt sườn phía sông Hồng. Trận đánh diễn ra ác liệt từ
ngày 1 đến ngày 3 tháng 9 năm 1883, quân Pháp đại bại phải tháo chạy.
Tướng Bouet bị triệu hồi và bị cách chức.
Sau chiến thắng ở Phùng, Dương Hữu Quang được lệnh của
Thống tướng Hoàng Kế Viêm cùng các tướng tăng cường phòng thủ tỉnh
Sơn Tây.
Trận đánh diễn ra mười ngày, quân Pháp bị thiệt hại nặng nề, sau
đó đại quân rút về Hưng Hóa. Dương Hữu Quang ở lại thu thập tàn quân,
ông về ẩn náu ở chùa làng So, ông mượn áo tu hành để chiêu mộ quân đánh
Pháp, vì thế nhân dân gọi ông là Tự So. Tại đây, Dương Hữu Quang thành
lập hội Tín Nghĩa tập hợp những người yêu nước chống Pháp. Chỉ trong
một thời gian ngắn, ông thu thập được hơn 40 sĩ tốt là những người chiến
đấu gan dạ ở thành Hà Nội, Cầu Phùng và thành Sơn Tây. Song quân ít, vũ
khí chỉ mới có hơn một chục khẩu súng bắn nhanh, còn lại là gươm, giáo
nên chưa xuất trận lần nào.
Người gia nhập Hội Tín Nghĩa càng đông, chẳng bao lâu, đội
nghĩa binh lên đến vài trăm. Dương Hữu Quang trút bỏ áo nhà chùa mặc lại
quần áo nhà binh, huấn luyện quân sĩ.
Đội quân của Dương Hữu Quang hoạt động mạnh ở nội thành
Hà Nội và các huyện Từ Liêm, Quốc Oai, Đan Phượng, Tùng Thiện. Đội
quân của ông trang bị kém xa quân Pháp, nhưng nhờ tinh thần quyết chiến,
quyết thắng, lại được nhân dân hết lòng ủng hộ, tiếp tế quân lương, thông
tin các hoạt động của quân Pháp, tố cáo bọn Việt gian nên trận nào nghĩa
quân cũng thắng.
Vào một ngày giữa tháng 12 năm 1883, nghĩa quân được tin báo
tên tuần phủ Ninh Bình gửi biếu tên công sứ Pháp ở Hà Nội một con voi.
Dương Hữu Quang cho trinh sát đi nắm tình hình được biết bọn lính hộ
tống voi sẽ đi qua trạm Hà Mai, xã Thanh Liệt, ông liền đặt quân mai phục
đánh tan tác bọn hộ tống voi bắt được con voi.
Năm 1885, nghĩa quân đột nhập vào nội thành đánh bọn lính
Pháp đua thuyền trên hồ Hoàn Kiếm do giặc Pháp và tay sai tổ chức kỷ
niệm 1 năm ký Hiệp ước 1884.
Dương Hữu Quang chuyển địa bàn lên hoạt động ở tỉnh Sơn
Tây. Thanh thế nghĩa quân ngày càng mạnh, thắng lợi tiêu biểu là trận Ngãi
Cầu.
Không đánh thắng được nghĩa quân Dương Hữu Quang trên
chiến trường, giặc Pháp hèn hạ cho tên Quận Vùng vốn là bạn với Dương
Hữu Quang, đã ra đầu hàng nhân làm tay sai cho giặc Pháp nhưng chưa lộ
mặt. Hắn mời Dương Hữu Quang sang nhà hắn chơi rồi đặt quân mai phục
ám hại. Dương Hữu Quang nhận được lời mời, ông định đi thì các tướng
khuyên nên cảnh giác đem quân đi hộ tống. Dương Hữu Quang nói Quận
Vùng là bạn bè đâu nỡ theo giặc hãm hại mình, nhưng vẫn nể các tướng
đem theo 15 quân hộ vệ.
Dương Hữu Quang đến nhà Quận Vùng, hôm đó là ngày 22
tháng 5 năm Quý Mùi (cuối tháng 6-1884), Quận Vùng hô phục binh đổ ra
đánh. Mặc dù lực lượng ít, quân sĩ không đem vũ khí chỉ có đoản đao và
dao găm lại bị bất ngờ, bị bao vây tứ phía, nhưng Dương Hữu Quang và các
nghĩa binh đi hộ vệ đã kiên cường đánh trả bọn giặc, giết chết hơn ba mươi
tên, nhưng nghĩa quân cũng hy sinh mất tám người. Dương Hữu Quang và
các nghĩa quân còn lại cũng đều bị trọng thương. Tuy vậy anh em vẫn vừa
đánh vừa phá vòng vây. Trên đường rút quân Quận Vùng cho quân đuổi
theo, mặc dù thương tích đầy mình, anh em vẫn đánh trả, giết hơn một chục
tên lính nữa. Khi họ đưa được chủ tướng về đại bản doanh thì ông đã mê
man bất tỉnh.
Tang lễ Thủ lĩnh nghĩa quân Dương Hữu Quang được tổ chức
rất trọng thể.
LÃNH CỒ
Lãnh Cồ còn gọi là Quận Cồ, tên chính là Phùng Văn Minh,
người thôn Thanh Chiểu, xã Sen Chiểu, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây, nay
thuộc tỉnh Hà Tây.
Căm thù giặc Pháp và vua quan triều đình Huế, phong trào khởi
nghĩa nổ ra ở khắp nơi. Phùng Văn Minh cũng giương cao cờ nghĩa chống
Pháp. Vì nhà nghèo, lại không phải là người xuất thân khoa bảng, nên ông
khởi nghĩa với hai bàn tay trắng. Nhưng do lòng yêu nước thiết tha và chí
căm thù giặc sâu sắc, kiên quyết chiến đấu, nên dân nghèo gia nhập rất
đông.
Phùng Văn Minh lập căn cứ chống Pháp ở vùng rừng núi huyện
Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Để thu hút đông
đảo nhân dân tham gia kháng chiến ông đã thành lập các đội tuyên truyền đi
khắp nơi dịch loa tố cáo tội ác của giặc Pháp xâm lược nước ta và triều đình
nhà Nguyễn đầu hàng giặc.
Nghĩa quân và nhân dân phong ông là Lãnh Cồ, còn giặc lại gọi
ông là Quận Cồ. Lãnh Cồ đã phát Hịch chống Pháp, thường gọi là Hịch
Lãnh Cồ. Nhân dân theo lời phát động của ông đã hăng hái tham gia rất
đông.
Sau đây chúng tôi đăng nguyên văn:
HỊCH LÃNH CỒ
Tỉnh thành thất thủ, lệnh rút lui thực đã đắng cay;
Quân thứ triệt phòng, chiếu ban xuống càng thêm chua
chát.
Như tằm ăn lá, gớm mưu quân Phú Lãng Sa
Là giòi trong xương, mạt kiếp thằng Lương Văn Đạt
Nên nỗi:
Tình thế gian nguy;
Cơ đồ tan nát,
Cũng vì triều đình nhu nhược, tham sinh nên đã đầu
hàng;
Để cho quân giặc tung hoành, thừa thế ra tay tàn sát!
Nhưng chúng ta
Ở nước phải lo giữ nước, không nên giương mắt ngồi
nhìn.
Có thân thì quyết hiến thân, đâu nỡ co vòi chịu nhát.
Có người có ta,
Còn nước còn tát,
Đọc chiếu Bình Ngô
Noi gương Sát Thát
Góp gió làm bão, đấu gạo, đồng tiền
Chụm cây lên rừng, gậy tầy giáo vạt,
Chí đã quyết sống còn với địch, chớ lo châu châu đá voi,
Việc phải tin thành bại ở người, há sợ dã tràng xe cát.
Nhớ những trận Cổ Đằng, Vân Mộng, chị ngã em nâng
Ôn những lời Tòng Lệnh, Đông Viên con khen mẹ hát,
Giữ dân làm gốc, chớ mong đục nước béo cò.
Nuôi sức đợi thời, đừng có tham miếng bỏ bát,
Những kẻ hại nòi, hại nước, xác xẻ thây vằm,
Cùng ai đồng chí, đồng cừu, vai kề cánh sát.
Vết xe cũ lìa đàn bên bị diệt, Đốc Khoát, Đề Công
Tấm gương soi hợp lực dễ thành công, rừng Thông, Cầu
Giáp
Mấy lòng thiết tha
Tỏ lòng khao khát.
(Tập san Văn Sử Địa số 35 tháng 12 năm 1957)
(- Phú Lãng Sa: Phiên âm Hán - Việt tiếng Francaice ( Pháp )
- Lương Văn Đạt : Tên Việt gian đã lẻn vào thành Sơn Tây cắm cờ tam
tài trên cột cờ
- Cổ Đằng, Vân Mộng : Những địa điểm chiến đấu của nghĩa quân hồi
đó.
- Tòng Lệnh, Đông Viên : Địa bàn hoạt động của nghĩa quân nay thuộc
huyện
Ba Vì, Hà Tây.
- Đốc Khoát , Đề Công: Các thủ lĩnh nghĩa quân hồi ấy đã bị thất bại.
- rừng Thông, Cầu Giáp : Địa điểm chiến đầu của nghĩa quân).
Nghĩa quân Lãnh Cồ lập được nhiều chiến công oanh liệt. Ông
bị giặc Pháp bắt ba lần, cả ba lần ông đều vượt ngục trở về chiến đấu. Ông
duy trì cuộc chiến đấu gần bẩy năm. Giặc Pháp gài tên Bình, tay sai của
chúng vào hàng ngũ nghĩa quân. Trong trận chiến đấu ở làng Vật Lại ngày
13/6/1889, tên Bình bắn trộm vào sau lưng ông. Ông hy sinh ngay hôm đó.
Nhưng trong truyền thuyết dân gian kể: "Trong một trận chiến đấu đẫm
máu ở vùng thuộc xã Tiền Phong, tỉnh Sơn Tây, ông bị quân giặc chém gần
đứt cổ. Ông giữ cổ cưỡi ngựa chạy đến một quán nước hỏi bà già: "Đầu tôi
như thế này liệu sống hay chết?”. Bà hàng nước lắc đầu: "Đầu ông thế này
thì chết!”. Thế là đầu Lãnh Cồ tự nhiên rơi xuống đất và ông hoá tại đó.
Nhân dân vô cùng thương tiếc người anh hùng, chôn cất tử tế, lập miếu thờ
cúng.
LÊ VĂN THỨ
Lê Văn Thứ còn có tên là Lê Văn Cúc, quê quán xã Tân An,
tổng An Lưu Hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nay là
phường Mân Thái, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
Ông vốn là một võ tướng thủy quân từ đời vua Thiệu Trị, Quản
bát đội suất vệ. Đến đời Tự Đức ông từng chỉ huy thủy quân đánh dẹp giặc
biển ở vùng biển Đông bắc.
Từ năm 1858 đến 1873, đất Bắc Hà thường bị quân của Thái
bình thiên quốc, Thiên địa hội của miền Hoa Nam chạy sang quấy nhiễu.
Ông tham gia nhiều trận đánh dẹp, lập được nhiều chiến công, được phong
lần lượt các chức Phó quản cơ rồi Quản cơ hàm Tứ phẩm.
Trước nguy cơ quân Pháp đánh Bắc Hà lần thứ 2, vua Tự Đức
cử Thượng thư bộ binh Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà - Ninh để phòng thủ
Hà Nội. Hoàng Diệu biết rõ tài cầm quân của Lê Văn Thứ liền xin vua Tự
Đức cho về thành Hà Nội trợ giúp. Ông được triều đình thăng Quyền kinh
Hà Nội thủy sư, thăng thự Cấm binh trấn thành Hà Nội.
Ông đã cùng binh lính chiến đấu rất hăng hái và lập được nhiều
chiến công song do thế giặc quá mạnh, quân giặc ào ạt tràn vào từ cửa Nam,
đánh vào sau lưng nên quân ta bị núng thế. Ông hy sinh ngay trên mặt thành
Cửa Bắc, tay vẫn nắm chắc thanh gươm đẫm máu giặc.
Tin Hoàng Diệu tuẫn tiết, Lê Văn Thứ hy sinh báo về kinh đô,
vua Tự Đức vô cùng thương tiếc cấp tiền bạc lo tang lễ. Ông được vua Tự
Đức ân sủng sai quân lính đưa quan tài về quê an táng. Tự Đức còn ban
tặng một chiếc ngai vàng chạm rồng để thờ ông. Mộ ông hiện ở khối Tân
An, phường Mân Thái, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Thành phố Đà
Nẵng hiện còn có phố mang tên ông.
HỒ BÁ ÔN
Hồ Bá Ôn tự là Công Thúc, hiệu Tùng Viên, sinh năm Giáp Dần
(1854) quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, ông là
người thông minh, khảng khái.
Ông thi Hương khoa Canh Ngọ, Tự Đức thứ 23 (1870), tại Nghệ
An, đỗ cử nhân năm 27 tuổi. Ông đỗ Ất khoa kỳ thi Hội năm Tự Đức thứ
28 (1875) ở tuổi 22. Ông làm đến chức Hàn lâm viện Kiểm thảo, sung Biên
tu Nội các rồi Tri huyện Hương Thủy. Năm 1877 thăng hàm trước tác, lĩnh
chức Thừa chỉ Nội các rồi chuyển làm Thị độc. Năm Tự Đức thứ 34 (1881),
lĩnh chức Án sát Nam Định.
Ngày 25 tháng 4 năm 1882 quân Pháp hạ thành Hà Nội, các
quan tỉnh Nam Định đã hội nghị nhận định sớm muộn quân Pháp cũng đánh
chiếm tỉnh thành Nam Định và các tỉnh thành khác ở Bắc Kỳ, và lần này
chúng sẽ chiếm đóng vĩnh viễn chứ không trao trả như lần trước. Vì vậy các
quan tỉnh mà hăng hái nhất là Án sát Hò Bá Ôn, Đề đốc Lê Văn Điếm đã
tích cực chuẩn bị mọi mặt để đối phó với giặc Pháp. Các quan tỉnh đã bất
chấp lệnh của triều đình Huế lệnh cho các quân thứ Bắc - Trung Kỳ phải bãi
bỏ các hoạt động chống Pháp. Án sát Hồ Bá Ôn cùng các quan tỉnh điều
động quân ở các đồn về phòng thủ thành Nam Định.
Ngày 24/2/1883, giặc Pháp đánh chiếm thành Nam Định. Trước
hành động xâm lược của giặc, quan quân trong thành và nhân dân các phố
phường khẩn trương chuẩn bị tiếp chiến.
Sáng ngày 25/3/1883, Henri Rivière gửi tối hậu thư cho Tổng
đốc Vũ Trọng Bình bắt phải nộp thành ngay sau khi nhận được tối hậu thư
của giặc, Vũ Trọng Bình đã triệu tập các quan họp đột xuất. Cũng giống
như ở triều đình Huế, quan lại chia làm hai phe chủ hòa và chủ chiến. Giữa
lúc căng thẳng đó thì các quan nhận được tin Nguyễn Hữu Bản, con trai Án
sát Nguyễn Mậu Kiến và Nguyễn Thành Thà đều đưa lực lượng nghĩa quân
đến xin hợp tác cùng quan quân giữ thành. Tổng đốc Vũ Trọng Bình còn do
dự thì Án sát Hồ Bá Ôn đã ra lệnh mở cửa thành đón hai đoàn nghĩa quân
vào. Nguyễn Hữu Bản và Nguyễn Thành Thà vào thành đã làm cho lực
lượng phía chủ chiến thắng thế. Hội nghị quyết định bác bỏ tối hậu thư của
Henri Rivière. Tuy vậy khi Vũ Trọng Bình trả lời Henri Rivière vẫn giữ ý
tứ mềm mỏng: "Thành do vua ủy thác, không thể giao nộp được!”.
Sáng ngày 25/3/1883, quân Pháp định tấn công thành, nhưng
sương mù, không nhìn rõ mọi vật, nên không tấn công được. Chúng cho
lính đi trinh sát và tổ chức phá hủy 3 khẩu đại bác ở cổng thành phía Nam,
rồi cho quân đổ bộ tấn công. Cửa Đông là nơi quân Pháp tập trung xung lực
và hỏa lực tấn công ác liệt nhất. Biết rõ cổng thành phía Đông là mục tiêu
đánh phá chủ yếu của giặc, Tổng đốc Vũ Trọng Bình thương ủy cho Án sát
Hồ Bá Ôn cùng Đề đốc Lê Văn Điếm trấn giữ. Cùng giữ cổng này với hai
ông còn có Nguyễn Hữu Bản chỉ huy dân binh. Các ông chiến đấu dũng
cảm, đánh bật nhiều đợt xung phong của giặc, giết chết nhiều tên. Đến
chiều tối chúng phải tháo chạy xuống tầu chiến.
Ngay sau khi giặc tháo chạy, Hồ Bá Ôn cùng các tướng chỉ huy
quân và dân củng cố thành, bịt hẳn ba cổng bằng các bao đất đá chỉ để lại
cửa Tây.
Bảy giờ sáng ngày 27/3/1883, quân Pháp bắn đại bác gắn dưới
tầu cấp tập vào thành, mục tiêu đánh phá chính của chúng vẫn là Cửa Đông
- Song dưới sự chỉ huy của án sát Hồ Bá Ôn và Đề đốc Lê Văn Điếm lệnh
cho hàng trăm khẩu pháo nã đạn vào tầu giặc... Giữa lúc cuộc chiến đấu
diễn ra gay go quyết liệt thì Tổng đốc Vũ Trọng Bình, Án sát Đồng Sỹ Vịnh
bỏ thành chạy, Hồ Bá Ôn cùng cha con Nguyễn Thành Thà vẫn dũng cảm
chỉ huy quân sĩ. Hồ Bá Ôn trúng đạn bị thương, ông vội buộc vết thương,
tiếp tục chỉ huy quân sĩ đánh giặc. Ông lại bị trúng đạn lần thứ hai, ngã lăn
ra đất. Khi quân sĩ đưa Nguyễn Thành Thà cũng bị thương ra khỏi thành,
Hồ Bá Ôn không khỏi đau xót vì khó mà giữ được thành. Ông bị ngất lịm,
quân sĩ khiêng ra ngoài. Khi tỉnh dậy ông biết là thành đã bị lọt vào tay
quân Pháp, khí uất xung lên, bệnh càng trầm trọng. Quân sĩ đưa ông xuống
thuyền, theo đường biển về quê ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An phục
thuốc. Việc tâu lên, vua ban cho 30 lạng bạc để chữa thuốc. Song vì vết
thương quá nặng mới được một tháng thì mất. Năm ấy ông mới 41 tuổi.
Vua được tin nói: "Không tránh cái chết mà mất theo thành hơn kẻ tránh
cái chết xa lắm”. Rồi chuẩn cho đặc cách truy tặng Quang lộc Tự khanh và
chiếu theo hàm mới mà cấp tiền tuất để khuyến khích những người khi lâm
sự hết lòng tiết tháo.
NGUYỄN DOÃN CỬ
Nguyễn Doãn Cử, hiệu Bằng Phi sinh ngày 9 tháng 7 năm Tân
Tỵ (1821), quê ở thôn Dũng Nghĩa, gần chùa Keo, nay thuộc xã Duy Nhất,
huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Nguyễn Doãn Cử là người phóng khoáng không chịu gò mình
trong khuôn phép sách vở, nên đi thi mấy năm liền không đỗ. Mãi đến khoa
thi năm Giáp Tý (1864) khi ông đã 43 tuổi mới đỗ cử nhân. Triều đình bổ
ông làm Huấn đạo huyện Thanh Ba, tỉnh Hưng Hóa. Ba năm sau thăng tri
huyện Lập Thạch, Tri huyện Hải Lăng. Năm 1874, Nguyễn Doãn Cử được
triều đình bổ nhiệm làm Tuần phủ Sơn - Hưng - Tuyên cùng các quan văn
võ triều đình cử lên lo việc phòng thủ. Nguyễn Doãn Cử đã cùng các tướng
tiễu phỉ, củng cố thành lũy, trang bị vũ khí mới, khai khẩn đồn điền, ổn định
đời sống nhân dân và duy trì phép nước nghiêm minh.
Tháng giêng năm Tự Đức thứ 32 (1879), ông được triệu về triều
làm giảng quan phủ Tôn nhân, thăng Hàn lâm viện Thị giảng, sung chức
Biên tu Quốc sử quán. Bất chấp trước việc triều đình đầu hàng giặc Pháp,
năm Tân Tỵ (1881), ông 60 tuổi, mượn cớ sức khỏe kém xin hưu trí.
Đầu năm Quý Mùi (1883), Tổng đốc Vũ Trọng Bình làm sớ tâu
với Tự Đức để Nguyễn Doãn Cử và Nguyễn Hữu Bản đưa hương binh vào
giữ thành Nam Định. Sáng ngày 27/3/1883, quân Pháp từ tầu chiến bắn đại
bác dồn dập vào thành. Quân ta kiên cường chiến đấu. Đề đốc Lê Văn Điếm
hy sinh, Án sát Hồ Bá Ôn bị trọng thương đưa về quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ
An 2 tháng thì chết. Nguyễn Doãn Cử, Nguyễn Hữu Bản giữ cửa Đông là
cửa quân Pháp tấn công ác liệt nhất. Quân Pháp bắn đạn đại bác sập cổng
thành, đè lên người Nguyễn Hữu Bản, ông hy sinh. Nguyễn Doãn Cử động
viên quân sĩ quyết tâm tiêu diệt thật nhiều quân Pháp trả thù cho chủ tướng.
Tổng đốc Vũ Trọng Bình bỏ thành chạy, nhưng trước đó còn cho người tới
Cửa Đông gọi ông về dinh để tránh nguy hiểm cho ông. Nguyễn Doãn Cử
khảng khái trả lời: "Người về thưa với quan Tổng đốc rằng ta không thể rời
bỏ nơi này và các nghĩa sĩ của ta. Xin đa tạ”.
Đến trưa ngày 27/3/1883 thành vỡ, Nguyễn Doãn Cử cùng quân
triều đình rút qua cửa Tây, giao quyền chỉ huy cho Bang Úc. Bang Úc phá
vây rút về Thái Bình giữ phòng tuyến sông Hồng. Nguyễn Doãn Cử bị ốm
phải nghỉ dưỡng bệnh, cử con trai là Nguyễn Doãn Chí cùng Bang Úc giữ
tuyến phòng thủ sông Hồng.
Sau khi thành Nam Định, Ninh Bình, Hưng Yên, Phủ Lý thất
thủ, vua Tự Đức chết, Nguyễn Doãn Cử sống trong tâm trạng đau buồn.
Năm 1885, Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật, Trần Xuân Soạn
tấn công tòa Khâm sứ Pháp, đồn binh Pháp ở Mang Cá thất bại, liền hộ giá
vua Hàm Nghi ra Sơn phòng Quảng Trị, hạ chiếu Cần vương. Nguyễn Doãn
Cử khi đó đã 64 tuổi, bị ốm yếu, nhận được tin trên, ông phấn khởi, bật
khỏi giường, lệnh gọi con trai cả là Nguyễn Doãn Chí đến bảo: "Mệnh thày
chưa hết, thày sẽ khỏe để cùng mọi người cứu dân, cứu nước theo chiếu
Cần vương. Thày rất mừng vì học trò của thày là Ưng Lịch - Vua Hàm Nghi
đã thoát khỏi sự khống chế của phái chủ hòa, giương cao ngọn cờ cứu
nước”.
Nguyễn Doãn Cử qua đời ngày 12 tháng 2 năm Canh Dần
(1890). Nguyễn Doãn Cử được phụ tế vào bậc tiền hiền trong văn chỉ hàng
xã, văn từ hàng huyện và được nhiều gia đình ở Giao Thủy, Thư Trì, Vũ
Tiên thờ phụng. Có người đã nói: "Ông sống nghiệp văn, chết được đưa
tiễn bằng văn và lưu danh sử sách”.
NGUYỄN QUANG BÍCH
Nguyễn Quang Bích nguyên họ Ngô, tự Hàm Huy, hiệu Ngư
Phong, sinh giờ Thìn ngày 8 tháng 4 năm Nhâm Thìn (7/5/1832). Ông
người làng Trình Phố, huyện Chân Định, sau đổi là Trực Định, phủ Kiến
Xương, nay là huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông thông minh, học
giỏi, nhưng mãi đến năm 27 tuổi mới thi đỗ tú tài. Năm Tân Dậu (1861), đỗ
cử nhân, được bổ làm giáo thụ phủ Trường Khánh (Ninh Bình). Được hơn
một năm, cha mất, ông ở nhà cư tang, dạy học. Khoa thi Mậu Thân (1868)
ông thi Hội hỏng. Khoa thi Hội năm Kỷ Tỵ Tự Đức 22 (1869) nhân có khoa
ân thi, ông thi đỗ Nhị giáp tiến sĩ Đình nguyên, lúc đó ông 38 tuổi. Ông
được triều đình bổ nhiệm làm Tri phủ Diên Khánh (Khánh Hòa), sau thăng
Tri phủ Lâm Thao (Phú Thọ). Vùng này trước đây mất an ninh, từ ngày ông
về nhận chức thực hiện nhiều cải cách, thưởng người có công, trị kẻ có tội
nghiêm minh, nên toàn huyện yên ổn, không có trộm cướp. Vì có tài trị an,
ông được thăng Án sát Sơn Tây. Ông làm quan thanh liêm, thường trị quan
lại nhũng nhiễu dân, được dân cư mến mộ. Giặc Pháp xâm lược, ông liên
lạc với Lưu Vĩnh Phúc, tiến cử Lưu với triều đình làm "Bảo hưng phòng
ngự sứ”. Lưu Vĩnh Phúc kính trọng ông vào bậc thầy.
Sau đó ông được gọi về triều làm Tế tửu Quốc tử giám. Năm
1873, vua Tự Đức giao cho ông duyệt bộ Việt sử thông giám cương mục.
Sau đó ông được bổ làm án sát Bình Định. Khi triều đình lập ban Doanh
điền ở Hưng Hóa, Tự Đức cử ông làm Chánh sứ Sơn phòng Hưng Hóa.
Năm Bính Tý (1876), ông được hàm Tuần phủ Hưng Hóa. Ông luôn luôn
chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Nhân dân gọi ông là
Hoạt Phật (Phật sống). Trong thời gian ông giữ chức Tuần phủ Hưng Hóa,
giặc Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ 2 (25/4/1882), Nguyễn Quang Bích đã
báo cáo ngay về triều đình dư luận Bắc Kỳ lo ngại vì quân Thanh kéo sang
ngày càng đông. Nhưng Tự Đức không
nghe mà còn trách ông: "Đem lòng tiểu nhân để đo bụng người quân tử,
lẽ nào người Thanh lại làm các cử động vô nghĩa ấy”.
Từ ngày 1 đến ngày 3/9/1883, quân Pháp tiến đánh Sơn Tây,
thành Sơn Tây thất thủ, Hoàng Kế Viêm rút về thành Hưng Hóa, có cả quân
Lưu Vĩnh Phúc, quân Thanh ở Vân Nam, Quý Châu đóng giữ. Nguyễn
Quang Bích khi đó là Tuần phủ kiêm trấn thủ Hưng Hóa đưa quân của Bố
chánh Nguyễn Văn Giáp từ Lâm Thao sang hợp lực.
Đến tháng 3/1884 hầu hết các tỉnh Bắc Kỳ đều lọt vào tay quân
Pháp chỉ còn thành Hưng Hóa. Thành Hưng Hóa trở thành tỉnh lỵ của Tam
Tuyên (Sơn Tây - Hưng Hóa - Tuyên Quang) án ngữ đường thủy sông
Thao, đường bộ đi Hòa Bình, Nghĩa Lộ. Trong thành có quân triều đình do
Thống tướng Hoàng Kế Viêm chỉ huy; quân Tam Tuyên do Nguyễn Quang
Bích chỉ huy, quân Thanh do Sầu Dục Anh, chỉ huy quân Cờ đen Lưu Vĩnh
Phúc chỉ huy đóng.
Ngày 12/4/1884, thiếu tướng Négrier chỉ huy vượt sông Đà ở
quãng Hạ Bì - La Thượng (nay thuộc xã Xuân Lộc, huyện Thanh Thủy, tỉnh
Phú Thọ. Lúc đó lực lượng quân đội triều đình có quân chủ lực của triều
đình do Hoàng Kế Viêm chỉ huy; quân đội địa phương do Nguyễn Quang
Bích chỉ huy; hai đạo quân của nhà Thanh do Sầm Dục Anh, Lưu Vĩnh
Phúc chỉ huy. Song do triều đình nhà Nguyễn đầu hàng nên Hoàng Kế Viêm
rút quân vào Thanh Sơn, quân nhà Thanh rút khỏi Hưng Hóa, trong thành
chỉ còn lực lượng do Nguyễn Quang Bích chỉ huy. Quân Pháp tấn công,
thành Hưng Hóa thất thủ, Nguyễn Quang Bích rút quân về Tiên Động xây
dựng căn cứ kháng chiến. Tiên Động là vùng hiểm trở có thể rút vào Yên
Lập, triển khai xuống Cẩm Khê, lên Hạ Hòa, sang Thanh Ba được. Ông
được vua Hàm Nghi phong Lễ bộ Thượng thư, sung Hiệp thống Bắc Kỳ
quân vụ đại thần, tước Thuần Trung hầu. Cho phép ông được quyền lựa
chọn, cất nhắc quan văn từ Tham tán, quan võ từ Đề đốc trở xuống được
quyền tùy nghi tuyển dụng. Nghĩa quân Nguyễn Quang Bích ở căn cứ Tiên
Động phải chống chọi với nhiều cuộc tấn công của quân Pháp, có tháng
nghĩa quân phải đánh trả tới 15 cuộc tấn công.
Giặc Pháp và tay sai không đánh thắng ông được trên mặt trận
quân sự đã cho ngụy bố chính Hưng Hóa là Bùi Quang Thích và ngụy tri
phủ Lâm Thao là Nguyễn Khắc Hợp lần lượt đến dụ hàng, nếu chịu giải
quân ra làm quan, trở về làng sẽ được cấp hậu bổng. Sau đó thực dân Pháp
lại cho bọn tay sai đầu sỏ viết thư dụ dỗ ông ra hàng sẽ được hưởng vinh
hoa phú quý. Ông viết thư trả lời với giọng đanh thép: "... Nếu mà thắng mà
sống thì là nghĩa sĩ của triều đình, nhưng chẳng may mà thua, mà chết thì
cũng là quỷ thiêng giết giặc”.
Giặc Pháp bắt mẹ ông bỏ tù, ông vẫn kiên quyết ở lại kháng
chiến.Không đánh được Nguyễn Quang Bích bằng vũ lực, giặc Pháp cho
tên bố chính Hưng Hóa Bùi Quang Tín, tri phủ Lâm Thao Nguyễn Khắc
Hợp đến dụ dỗ bị Nguyễn Quang Bích cự tuyệt
Tháng 11/1887, quân Pháp bất ngờ ập đến đánh, ông và Nguyễn
Văn Giáp phải đi lánh mỗi người một nơi. Tháng 3 năm Mậu Tý (4/1888)
quân Pháp huy động lực lượng lớn, dùng chiến thuật giương đông, kích tây.
Một mặt chúng cho 40-50 quân kéo đến đánh đồn bên Tả để thu hút lực
lượng nghĩa quân. Mặt khác quân Pháp bắt người địa phương dẫn đường
cho toàn bộ quân Pháp xuyên qua đèo Lao Khê, Nha Sơn tấn công vào phía
sau đồn Đèo Ách - nơi Nguyễn Quang Bích và bộ tham mưu đóng và chiếm
được đồn Đèo Ách.
Trước sự tấn công ác liệt của địch, Nguyễn Quang Bích và các
tướng phải tránh vào các động Mèo rồi rút quân về thủ hiểm ở châu Phù Sa
(tức huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ). Khi giặc rút, Nguyễn Quang Bích trở
về căn cứ.
Quân thứ nghĩa quân phải di chuyển luôn tháng 5/1888 (tháng 4
năm Mậu Tý) ông phải rút về Sơn Động. Để tránh các cuộc càn quét của
quân Pháp, tháng 8/1888 phải dời đến châu Yên Lập. Tại đây Nguyễn
Quang Bích đánh nhiều trận lớn, Đề Thành, Đề Mạc là những viên tướng
đánh nhiều trận tập kích xuất sắc Trong hơn 1 năm, nghĩa quân đánh thắng
quân Pháp nhiều trận, song sức khỏe của Nguyễn Quang Bích ngày càng sa
sút.
Tháng 9/1889 ông thấy bệnh tình của mình ngày càng trầm
trọng, khó lòng qua khỏi, ông dặn con cháu đi theo phục dịch việc quân:
“Ta đã đem thân hứa quốc, không cần người đi lại thăm nom vô ích; sau
này, nếu có nhớ đến ta, cứ lấy ngày thành Hưng Hóa thắt hãm làm ngày giỗ
ta”.
Nguyễn Quang Bích đòi Pháp trả lại thành, đặt lại vua Hàm
Nghi thì mới có hòa hảo được.
Trong những năm kháng chiến, ông đã cùng nghĩa quân làm thất
điên bát đảo quân giặc. Do tuổi cao, hành quân, chiến đấu liên tục, ăn uống
kham khổ, sống trong vùng nước độc, sơn lam chướng khí, nên ông bị đau
yếu liên miên. Tuy vậy ông vẫn gắng gượng cùng các tướng chỉ huy nghĩa
quân chống các cuộc tấn công của giặc bảo vệ căn cứ. Tháng 11/1889, ông
truyền lệnh cho các tướng lĩnh và các quân thứ phải chuẩn bị đầy đủ vũ khí,
lương thực cho cuộc tấn công lớn vào năm sau. Không ngờ ngày 15 tháng
chạp năm Canh Dần (1/1890), ông đột nhiên chuyển bệnh nặng rồi mất tại
đại bản doanh nghĩa quân ở núi Tôn Sơn, khi mới 54 tuổi.
NGUYỄN VĂN GIÁP
Nguyễn Văn Giáp người làng Tả Thanh Oai nay thuộc huyện
Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Ông đỗ cử nhân được cử giữ chức Bố chính Sơn
Tây nên gọi là Bố Giáp. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ thành Sơn Tây có sự
chỉ huy dũng cảm, mưu trí của Bố chính Sơn Tây Nguyễn Văn Giáp.
Tháng 8/1885 Nguyễn Quang Bích thừa lệnh vua Hàm Nghi đi
sứ Trung Quốc cầu viện thì Nguyễn Văn Giáp trực tiếp nắm quyền chỉ huy
tối cao phong trào chống Pháp ở các tỉnh trung du Bắc Kỳ. Nguyễn Văn
Giáp xây dựng căn cứ ở Thanh Mai từ đó hoạt động mạnh ở lưu vực sông
Lô, sông Thao trên đường từ Việt Trì đi Thanh Ba lên tận Nghĩa Lộ. Một
vinh dự cho Bố chính Nguyễn Văn Giáp cũng như lực lượng kháng chiến
vùng sông Thao, sông Lô là ngày 10 tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi
thăng Bố chính Nguyễn Văn Giáp chức Tuần phủ Sơn Tây, sung Tham tán
Hiệp đốc Bắc Kỳ quân vụ.
Giặc Pháp đã mở nhiều cuộc càn quét lớn để diệt nghĩa quân
song không thực hiện được. Vì vậy, trong các căn cứ quân sự của các thủ
lĩnh nghĩa quân ở hai tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên giặc Pháp coi cứ điểm quân
sự Thanh Mai của Nguyễn Văn Giáp là nguy hiểm số 1. Nhằm tiêu diệt cứ
điểm quan trọng này bộ chỉ huy quân sự Pháp ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ điều
động trên 6000 quân, có đại bác, tầu chiến, công binh yểm trợ tới mức tối
đa do tên tướng Giame chỉ huy tiến đánh Thanh Mai. Quân Pháp chia làm
ba mũi tiến quân.
Nghĩa quân Nguyễn Văn Giáp chặn đánh giặc từ xa. Đạo quân
thứ ba của quân Pháp khi đến Thạch Sơn, đã bị đội quân tiền tiêu do Tán
Dật chỉ huy đánh trả dữ dội. Đạo quân thứ nhất và thứ hai cũng bị nghĩa
quân chặn đánh ghìm chúng tại chỗ. Vì thế mà chúng tiến quân từ sáng
23/10/1885 nhưng mãi đến ngày 25/10/1885 chúng mới vào được Thanh
Mai. Đến đâu chúng cũng bị đánh, nhiều tên bỏ mạng tại vùng phụ cận
Thanh Mai, trong đó có tên quan ba pháo binh Piétri Camille, chúng không
đem xác đi được phải chôn tại chỗ.
Khi quân Pháp lọt được vào Thanh Mai, thì nghĩa quân lợi dụng
đêm tối dùng thuyền nhẹ bơi qua đồng nước rút khỏi các vị trí chiến đấu.
Những nghĩa quân hy sinh được chôn cất, người bị thương được đem đi
theo cùng toàn bộ vũ khí.
Rút khỏi Thanh Mai, nghĩa quân phân tán làm hai lực lượng:
Nguyễn Văn Giáp sang Tiên Động hợp lực với Nguyễn Quang Bích; Tán
Dật ngược sông Hồng lên xây dựng căn cứ mới ở Lang Sơn, Phi Đình,
huyện Hạ Hòa.
Sau khi tới căn cứ Tiên Động, Nguyễn Văn Giáp nhiều lần đưa
quân đi đánh Cẩm Khê, đánh các đồn lẻ của quân Pháp dọc sông Hồng.
Nguyễn Văn Giáp cùng các tướng bảo vệ vững chắc căn cứ Tiên Động. Tên
đại úy Lơ Bicô (Le Bico) nhiều lần đem quân tấn công Tiên Động đều bị
nghĩa quân đánh cho đại bại.
Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Văn Giáp nhận định Tiên Động có
địa hình hiểm trở, thuận tiện cho công tác phòng thủ, nhưng quá chật hẹp,
khó phát triển và liên hệ với các nơi, nên hai ông chủ động rút về xây dựng
căn cứ mới ở Nghĩa Lộ để tác chiến lâu dài. Biết rõ thế nào quân Pháp cũng
đuổi theo, ông cử Nguyễn Văn Giáp đi sau chặn giặc. Song quân Pháp được
tăng viện, truy kích, Nguyễn Văn Giáp phải đưa quân rút lên Sa Pa, rồi
chuyển sang hoạt động ở Lai Châu.
Tháng 7/1887, Nguyễn Văn Giáp vào tận Nghệ An phát động
đồng bào các dân tộc ở miền Tây nổi dậy chống Pháp.
Tháng 10/1887 ông trở lại Nghĩa Lộ hoạt động quân sự ở Nghĩa
Lộ, Yên Bái, lưu vực sông Đà. Hàm Nghi năm thứ 3, tháng 10 (11/1887)
Nguyễn Văn Giáp hy sinh tại căn cứ.
ĐỐC NGỮ
Đốc Ngữ tên thật là Nguyễn Đình Ngữ, sinh năm 1850, quê ở
làng Xuân Vân, tổng Xuân Trù, nay thuộc xã Xuân Phú, huyện Phúc Thọ,
tỉnh Hà Tây. Ông đi lính, sau giữ chức cai đội trong quân đội của Thống
tướng Hoàng Kế Viêm đóng ở thành Sơn Tây. Ông tiễu phỉ lập được nhiều
công lao, được phong là Đốc binh. Từ năm 1880, Đốc Ngữ chỉ huy một đội
quân đóng ở thành Sơn Tây. Ông tham gia đánh trận Cầu Giấy lần thứ 2,
ngày 19/5/1883 giết chết Henri Rivière.
Sau Hiệp ước Harmand, Hoàng Kế Viêm theo lệnh triều đình rút
quân về Huế, Đốc Ngữ ở lại cùng Bố chính Nguyễn Văn Giáp giữ thành
Sơn Tây. Khi quân Pháp bại trận ở Phùng, Bố Giáp giao cho ông bảo vệ
chiến lũy Phù Sa, tiền đồn của thành Sơn Tây. Sau khi chiếm Hà Nội, Nam
Định, Bắc Ninh... thì một mục tiêu quan trọng cần phải đánh chiếm của
quân Pháp là đánh chiếm thành Sơn Tây. So sánh lực lượng lúc đó thì quân
Việt trong thành Sơn Tây có 25.000 người (kể cả quân Cờ Đen). Quân Pháp
ở Bắc Kỳ khi đó có 8.000 quân, không kể thủy binh trên một số pháo hạm
do Thiếu tướng Hải luân Cuốcbê (Courbet) chỉ huy.
Phán đoán quân Pháp tiến đánh Sơn Tây (cách sông Hồng 1000
mét). Quân Việt bố trí phòng thủ ở Phù Sa (thuộc huyện Phú Lộc, phủ
Quảng Oai, Sơn Tây). Chỉ huy đồn Phù Sa là Đốc Ngữ.
Bẩy giờ sáng ngày 14 tháng 12 năm 1883, pháo binh Pháp bắn
dữ dội vào thành Phù Sa, rồi tấn công Phù Sa bằng hai mũi. 11 giờ quân
Pháp chiếm được xóm Chiêu thuộc Phù Sa, 13 giờ chúng đến cách chân
thành Phù Sa 500 mét, chúng bắn pháo dữ dội vào khu vực đặt thần công
của quân Việt. 14 giờ Hoàng Kế Viêm phái một cánh quân từ thành Sơn
Tây đánh tạt sườn quân Pháp, nhưng không đẩy lùi được chúng. 16 giờ
quân Pháp nổi kèn xung phong, Đốc Ngữ thân chỉ huy quân thành Phù Sa
kháng cự mãnh liệt đẩy lùi nhiều đợt xung phong của giặc. Chỉ trong ngày
14 quân đồn Phù Sa đánh thương vong 250 quân Pháp, trong đó có 13 sĩ
quan. Đêm 14 rạng ngày 15 Đốc Ngữ nhiều lần tấn công vào các vị trí đóng
quân của quân Pháp, song không đẩy lùi được chúng. Sáng ngày 15 thấy
không thể đánh lui được quân Pháp, Đốc Ngữ được lệnh rút về thành Sơn
Tây.
Rạng sáng ngày 15/12, Cuốcbê cho quân nghi binh ở cửa Bắc
rồi tấn công cửa Tây. Chúng còn cách cửa Tây khoảng 300 mét thì bị quân
trong thành bắn ra dữ dội, quân Pháp bị thiệt hại nặng nề. Nhưng đến 17 giờ
45 phút quân Pháp phá được cổng thành cửa Tây, tràn vào thành. Cuộc
chiến đấu giáp lá cà diễn ra suốt đêm.
Tảng sáng ngày 17/2, quân Việt đốt hết kho lương thực, súng
đạn rồi rút về phía Bắc thành Sơn Tây. Kết thúc chiến dịch, quân Pháp chết
và bị thương khoảng 350 tên, trong đó có 22 sĩ quan, phía quân Việt chết
khoảng 2.000.
Thành Sơn Tây bị quân Pháp chiếm. Năm 1887, thủ lĩnh
Nguyễn Văn Giáp hy sinh, Nguyễn Đình Ngữ tập hợp quân sĩ; chiêu mộ
thanh niên dân tộc Việt, dân tộc Mường ở các huyện Thanh Sơn, Thanh
Thủy và vùng bên kia sông Đà tiếp tục đánh Pháp. Nghĩa quân của ông hoạt
động mạnh ở Hòa Bình, Sơn Tây, làm chủ vùng Chợ Bờ, Yên Lãng. Với
cương vị là phó tướng đạo Hà Ninh (Hà Nội - Ninh Bình), ông nhiều lần
đưa quân đột nhập vào Hà Nội, Hà Nam ngày nay tập kích các đồn binh
Pháp, tiễu trừ bọn việt gian thân Pháp. ông phát động nhân dân chống quân
Pháp bắt lính, bắt phu.
Đốc Ngữ là một viên tướng xuất sắc, các tướng tá Pháp mặc dù
không muốn, chúng cũng phải ca ngợi; trung tướng Pennequin viết trong
báo cáo của hắn: “Trong cuộc khởi nghĩa của người An Nam, các thủ lĩnh
của họ đã chỉ huy quân đội như là những sĩ quan cừ khôi. Họ biết lựa chọn
và sử dụng địa hình, sắp xếp quân lính. Bản thân tôi đã trông thấy Đốc Ngữ
điều binh. Ông đã biết chọn vị trí bảo vệ mạng sườn cho quân mình, nhìn ra
điểm yếu trong đội hình tấn công của quân ta. Phải chăng đến ngày nay
(năm 1911) chúng ta vẫn còn thấy Đề Thám bất khuất trong cuộc chiến đấu,
không bao giờ nản chí. Đây là một người anh hùng đáng được chúng ta hết
lòng khâm phục cũng như tất cả người An Nam khâm phục ông ta”.
Một sĩ quan Pháp khác từng đem quân đánh nhau với Đốc Ngữ
cũng phải viết về ông với những lời lẽ khâm phục:
"Những ai theo dõi, từ năm 1889, lịch sử của những trận nội
chiến (những cuộc hành quân càn quét của giặc Pháp) của chúng ta đều
nhớ lại rằng: hơn hẳn, mọi người khác, Đốc Ngữ là người quyết liệt nhất và
may mắn nhất trong số những kẻ thù của chúng ta (người Pháp). Đốc Ngữ
chiếm được ở người An Nam một uy tín và một ảnh hưởng mà không một
người Pháp hay người bản xứ nào có thể sánh bằng. Rất khôn khéo, chỉ tấn
công khi nắm chắc thắng lợi, không bao giờ chịu lùi bước trước những lực
tượng to lớn của quân đội Pháp. Đốc Ngữ bao giờ cũng lừa đánh chúng ta
một đòn đẫm máu... Một lần vào tháng 3 năm 1891, ông ta phải lùi bước
lực lượng của chúng ta, nhưng sau 7 giờ chiều đấu liền và không hề rơi vào
tay chúng ta một người bị thương hay một khẩu súng. Chúng ta phải đương
đầu với một kẻ thù ghê gớm, biết chỉ huy và chiến đấu giỏi”.
Với chính sách chia rẽ người Việt (Kinh) với đồng bào các dân
tộc thiểu số, quân Pháp dùng tiền, gái, thuốc phiện, chức tước mua chuộc
các tên Đinh Văn Lan, Đinh Văn Thiệu làm phản. Tháng 8/1892, bọn chúng
lại lẻn vào bản bộ ám sát Đốc Ngữ và 9 tướng tâm phúc.
Đồng bào các dân tộc Việt - Mường - Dao vô cùng thương tiếc
vị thủ lĩnh đánh Pháp xuất sắc và rất mực thương dân. Cái chết của ông và
của các tướng tâm phúc khiến cho lực lượng nghĩa quân tan rã.
Nhớ ơn Đốc Ngữ, đồng bào dân tộc Mường và Dao đã lập đền
thờ ông ở Suối Trùng, xã Tân Lập. Làng Xuân Vân cũ, xã Xuân Phú, huyện
Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây bị lở xuống sông Hồng, nhân dân chuyển đến nơi ở
mới cũng lập đền thờ ông - người con ưu tú của quê hương.
TRẦN VÀNG
Trần Vàng sinh ngày 28 tháng 4 năm Kỷ Sửu (1829) tại làng
Kiều Mộc, tổng Kiên Mộc, huyện Tiên Phong, phủ Quốc Oai, nay là xã Cổ
Đô, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Ông được cha cho học võ ở một lò võ nổi
tiếng ở xứ Đoài. Chẳng bao lâu ông thông thạo thập bát ban võ nghệ và giỏi
cả môn vật.
Năm Tự Đức thứ 10 (Mậu Ngọ - 1858), Trần Vàng thi đậu cử
nhân võ. Trải qua ba lần tấn phong, đến năm Tự Đức thứ 25 (1873) ông
được triều đình phong chức Tam Tuyên đề đốc quân vụ đứng đầu hàng
quan võ ba tỉnh Sơn - Hưng - Tuyên.
Năm 1882, thành Hà Nội thất thủ lần thứ 2, giặc Pháp đánh lên
Sơn Tây. Trần Vàng theo lệnh của Thống tướng Hoàng Kế Viêm đưa quân
về Đại Phùng cùng các tướng chặn đánh quân Pháp. Quân Pháp thua, phải
rút chạy đem theo hàng trăm xác chết, trong đó có 10 tên từ quan tư trở
xuống.
Bẩy giờ sáng ngày 14/12/1883, tên thiếu tướng hải quân Courbet
sai tên đại tá Bisô và tên trung tá Bơlanh chỉ huy tấn công thành Phù Sa
bằng hai mũi. Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt, quân Pháp bị thương vong
tới 250 tên, trong đó có 13 sĩ quan mới chiếm được thành Phù Sa. Song
quân ta cũng bị tổn thất, nên ngày 15/12/1883 phải rút vào thành Sơn Tây.
Từ chiều 15/12, quân Pháp tập trung hỏa lực và công binh phá thành Sơn
Tây. Quân ta dũng cảm chiến đấu, tiêu hao nhiều sinh lực địch. Nhưng tới
ngày 17/12/1883 thành Sơn Tây thất thủ.
Thành Sơn Tây thất thủ, Trần Vàng kéo quân về đóng ở vùng
đồi núi, sông nước Tiên Phong tỉnh Sơn Tây. Nghĩa quân của ông hoạt động
mạnh mẽ ở Lâm Thao, Thanh Sơn, (Phú Thọ). Sau đó ông đóng đại đồn ở
Đồn Vàng, nay là huyện lỵ Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ củng cố, phát triển lực
lượng đánh Pháp.
Giặc Pháp mua chuộc được một tên phản bội trong nghĩa quân
chỉ điểm, dẫn đường cho quân Pháp vào bắt ông ở làng Mai Đình. Chúng
giải ông xuống thuyền ở ngã ba Bạch Hạc. Trần Vàng giậm chân cho đắm
thuyền để tự tử nhưng không thoát. Chúng canh gác cẩn mật, ông không tự
tử được. Đến bến Sơn Tây, chúng áp giải ông vào thành Sơn Tây, nhưng
ông đã cắn lưỡi tự vẫn, quyết không để kẻ thù làm nhục. Thi hài ông được
nhân dân Sơn Tây mai táng tại đồng Mát, Sen Chiểu, huyện Phúc Thọ. Sau
con cháu cải táng đưa về an táng ở đồng đất quê hương Cố Đô. Nhân dân
Cố Đô lập miếu thờ người con anh hùng của quê hương. Đến nay, vùng Sơn
Tây, Hưng Hóa vẫn còn truyền tụng câu ca:
Quân ai như quân Trần Vàng
Khiến cho giặc Pháp kinh hoàng nhiều phen
TÁN DẬT
Tán Dật tên thật là Lê Đình Dật, là một trong số thủ lĩnh quân sự
ở thành Sơn Tây. Khi thành Sơn Tây thất thủ, Tán Dật cùng với Bố chính
Nguyễn Văn Giáp, Lãnh Mai (Nguyễn Bá Như) rút về Lâm Thao xây dựng
căn cứ kháng chiến ở vùng Thanh Mai, Thạch Sơn. Tán Dật đã đem quân từ
Thanh Mai đi đánh phá các đồn binh Pháp ở Lâm Thao.
Tháng 7/1885, vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị,
hạ chiếu Cần vương đã sai sứ giả tới Tiên Động phong cho Nguyễn Quang
Bích là Lễ bộ Thượng thư sung Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần chủ
trương phong trào Cần vương ở Bắc Kỳ. Khi ấy thủ lĩnh các cuộc khởi
nghĩa ở các nơi về hội kiến, trong đó có Tán Dật.
Ngày 22/10/1885, quân Pháp chia làm ba đường tấn công căn cứ
Thanh Mai. Sau ba ngày kịch chiến với giặc, nghĩa quân rút khỏi Thanh
Mai. Nguyễn Văn Giáp sang Tiên Động hợp sức với Nguyễn Quang Bích;
Tán Dật ngược sông Hồng xây dựng căn cứ mới ở Lang Sơn - Phú Đình
thuộc Hạ Hòa.
Tán Dật đã chủ động liên hệ hợp tác với các thủ lĩnh các cuộc
khởi nghĩa khác ở Hạ Hòa như Đề Thân ở Ấm Thượng, Đề Ngàn, Đề Mạc,
Lãnh Hặc ở Mai Tùng; Lãnh Khanh ở Xuân Áng, Lãnh Tháp ở Bảo Toàn…
Từ cuối năm 1885 đến năm 1890, nghĩa quân Tán Dật đã cùng
các lực lượng nghĩa quân khác ở Vĩnh Phúc, Phú Thọ ngày nay liên tục tiến
đánh quân Pháp và chống càn thắng lợi.
Sang năm 1892, Tán Dật nhiều lần đem quân đánh vào cứ điểm
Ngòi Lao của quân Pháp do tên đại úy Bécna Môngty chỉ huy.
Sau khi Đốc Ngữ hy sinh, nhiều thủ lĩnh nghĩa quân bị sa vào
tay giặc Pháp như Lãnh Mai bị tay chân làm phản, bắt nộp cho Pháp, chúng
xử chém ông ở Sơn Tây. Lãnh Hặc (Hồ Văn Hặc - Mai Tùng) bị giặc Pháp
bắt được giết ngay ở đình làng. Giết xong, chúng cắt đầu ông treo ở cửa
đình để uy hiếp nhân dân. Lãnh Đa bị quân Pháp bắn chết khi ông vượt
sông Hồng. Tán Dật bị bức đến cùng, ngày 25/3/1893, Tán Dật phải ra hàng
ở đồn Ngòi Lao để cứu các con và những thân nhân bị bắt. Khi các con
được trả tự do, ông nói: “Ta hàng vì triều đình đã hàng, chứ nhất định ta
không chịu nhìn mặt thằng Tây” . Nói rồi ông uống thuốc độc tự tử.
VƯƠNG VĂN DOÃN
Nguyễn Quang Bích khởi nghĩa đánh Pháp, có hai tướng trợ
giúp đắc lực là Đốc Ngữ, Đề Kiều và nhiều Lãnh binh, đề đốc khác. Trong
số tướng lĩnh đó thì Lãnh binh Vương Văn Doãn là người dũng cảm, mưu
trí, có tài cầm quân, lấy ít địch nhiều, xuất quỷ nhập thần. (Sách Lịch sử
tỉnh Vĩnh Phú gọi ông là Đề Vương). Tháng 10 năm 1878, Bố chính
Nguyễn Văn Giáp hy sinh ở căn cứ Nghĩa Lộ, đây là tổn thất lớn cho nghĩa
quân. Để bảo toàn lực lượng, đầu năm 1888, Nguyễn Quang Bích phải
chuyển quân về xây dựng căn cứ mới ở Mộ Xuân, Yên Lập, cũng ở tỉnh
Hưng Hóa.
Lãnh binh Vương Văn Doãn cho quân đi thám thính thấy giặc
Pháp đóng ở đồn Hưng Hóa có nhiều sơ hở. Nếu xuất kỳ, bất ý tiến đánh thì
cầm chắc thắng lợi, giết được địch, cướp được vũ khí trang bị cho nghĩa
quân. Với quyết tâm đột kích đồn Hưng Hóa, Lãnh Doãn trình báo với Hiệp
thống Nguyễn Quang Bích là ở dọc huyện Cẩm Khê có nhiều giặc cướp xin
đi tuần phòng để ngăn trừ. Nguyễn Quang Bích tin là thật mới điều động
cho 30 nghĩa quân và cấp giấy cho đi, lại cho cả Đốc binh Lê Duy Tiên đi
cùng. Vương Văn Doãn dẫn 30 nghĩa quân đến Tăng Xá, bàn mưu với Đốc
binh Lê Duy Tiên, để cho Tiên nửa số quân đi tuần, còn mình dẫn 15 nghĩa
quân trang bị chỉ có 4 khẩu súng và 12 quả thủ pháo xuôi theo sông Hồng.
Vương Văn Doãn dẫn quân vào cổng trại giặc hạ thủ tên lính gác. Tên này
cố kêu to báo động. Bọn Pháp đóng trong đồn biết có động, bật đèn điện
sáng trưng. Vương Văn Doãn cùng nghĩa quân ở ngoài cổng, trời tối nhìn
vào đồn rất rõ, không cho địch kịp trở tay, Lãnh Doãn ném thủ pháo và bắn
xả vào quân Pháp. Tên quan ba giám binh và mấy chục tên Pháp bị giết
chết. Bọn sống sót bỏ chạy tán loạn tháo thân. Doãn hô xung phong, anh em
tràn vào đồn, không ham truy kích bọn đang chạy trốn mà tước được 40
khẩu súng, 2 hòm đạn rồi rút nhanh xuống thuyền. Doãn không cho thuyền
đi dưới sông mà cho thuyền khảm sang bên Lâm Thao, rồi chuyển chiến lợi
phẩm lên bộ đi đường rừng tránh địch truy tìm. Để giữ bí mật, ban ngày
Doãn cho anh em nghỉ ở trong rừng, không tiếp xúc với bên ngoài, ban đêm
mới đi. Phải hết 5 ngày đêm mới về đến căn cứ Mộ Xuân.
Lãnh binh Vương Văn Doãn trình báo với chủ tướng Nguyễn
Quang Bích, nộp chiến lợi phẩm và xin chịu kỷ luật. Hiệp thống Nguyễn
Quang Bích thấy thắng lợi quá lớn, quân ta diệt được mấy chục tên Pháp cả
tên quan ba giám binh, thu được tới 40 khẩu súng và hai hòm đạn là một
thắng lợi rất lớn, rất quan trọng, nên Hiệp thống chỉ trách Lãnh Doãn khinh
xuất. Quan Hiệp thống xét tài năng và ý chí đánh giặc của Lãnh Doãn
phong cho ông làm Hành dinh phó Đề đốc.
NGÔ QUANG ĐOAN
Ngô Quang Đoan là con cả quan Thượng thư Nguyễn Quang
Bích. Quê ở làng Trình Phố, phủ Trực Định, nay thuộc xã An Ninh, huyện
Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Từ nhỏ, Ngô Quang Đoan đã thông minh giỏi cả
cầm, kỳ, thi, họa. ông tự chế ra cây đàn nguyệt và cây đàn này gắn bó với
ông suốt đời. Ngô Quang Đoan là người tinh thông võ nghệ, sử dụng được
các loại vũ khí cổ truyền và cả súng bắn nhanh của phương Tây. Ông còn
tài cưỡi ngựa, sai khiến được tất cả những con ngựa bất kham.
Năm 1882, giặc Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ hai; năm 1883
quân Pháp đánh chiếm các tỉnh Nam Định, Hải Dương, Ninh Bình... Tiến sĩ
Vũ Hữu Lợi, Đốc học Nam Định đã bí mật tổ chức lực lượng nghĩa quân
phần lớn là học trò của mình, trong đó có Đốc Nhưỡng, Lãnh Hoan, Ngô
Quang Đoan. Nghĩa quân chủ trương đánh úp thành Nam Định. Vũ Văn
Báo quê ở làng Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam cũng là học trò Vũ
Hữu Lợi dò biết đã mật báo váo Pháp, để bắt sống cụ Nghè Vũ Hữu Lợi và
chém cụ đúng vào chiều 30 tết. Vũ Văn Báo do mật báo với Pháp bắt được
cụ Nghè được Pháp thăng Tổng đốc Nam Định. Nghĩa quân vô cùng căm
giận, tìm cách giết Báo trả thù cho thày, lập mưu đóng giả làm lính Tây đi
tuần đột nhập vào nhà Báo ở xã Nghĩa Trụ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam
bắt hắn đưa về căn cứ lập đàn tế thày.
Cuối năm 1889, đầu năm 1890, các thủ lĩnh nghĩa quân phủ Thái
Bình như Đốc Nhưỡng, Lãnh Hoan... lần lượt hy sinh. Ngô Quang Đoan
còn quá trẻ. địch không thể ngờ ông là một chỉ huy nghĩa quân, nên chưa bị
lộ. Ông đến học phó bảng Trần Xuân Sắc. Đầu năm 1890, khi ông 18 tuổi,
ông nhận được tin cha là Nguyễn Quang Bích mất ở chiến khu. Ngô Quang
Đoan phải bỏ học đi bộ lên núi Tôn Sơn, xã Mậu Xuân, châu Yên Lập, nay
thuộc huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ chịu tang. Đề Kiều, Đốc Ngữ, Đốc
Đen, Lãnh Gáo biết tài chỉ huy quân sự của Ngô Quang Đoan ngỏ ý mời
ông ở lại căn cứ tiếp tục sự nghiệp của cha lãnh đạo phong trào kháng
chiến. Song ông cảm thấy mình còn ít tuổi, nên chỉ xin đứng vào đội ngũ
kháng chiến. Ông dự nhiều trận đánh quân Pháp ở vùng sông Thao, sông
Đà. Ông phát hiện ra một vấn đề nghiêm trọng là giữa các tướng Đề Kiều ở
Khả Cứu, Đốc Ngữ, Lãnh Vân ở Hòa Bình, Đốc Đen, Lãnh Gáo ở Nam
Định không phục nhau, không ai chịu nghe ai. Ngô Quang Đoan thấy nhiệm
vụ cấp thiết là phải đoàn kết các tướng vào một mối. Ông đã lần lượt tới
chiến đấu với các tướng chỉ huy các cánh quân để thuyết phục.
Quân Pháp cho mật vụ đi dò xét biết được trong nghĩa quân Đốc
Ngữ - Đề Kiều có Ngô Quang Đoan là một thủ lĩnh đa mưu túc kế, lệnh cho
quân đồn trú ở Hưng Hóa - Sơn Tây tìm mọi cách bắt hoặc giết được Ngô
Quang Đoan. Nhưng tất cả các cuộc hành quân dù ào ạt hay chia thành toán
nhỏ lén lút vào căn cứ đều bị nghĩa quân tiêu diệt. Giặc Pháp hèn hạ cho
lính về làng Trình Phố bắt Lý trưởng và mẹ ông giam vào ngục, cướp hết
thóc lúa, của cải, phá phách tài sản để lung lạc ông. Song tất cả những hành
động dã man, điên cuồng ấy càng làm cho ông căm thù, quyết tâm tiêu diệt
giặc Pháp.
Hoạt động của nghĩa quân Hưng Hóa do Đốc Ngữ, Đề Kiều,
Ngô Quang Đoan chỉ huy đã gây tổn thất nặng nề cho quân Pháp ở lưu vực
sông Thao, sông Đà. Đốc Ngữ hy sinh ngày 25/11/1892, bị quân Pháp tấn
công dữ dội Đề Kiều, Ngô Quang Đoan vượt sông Hồng sang Tam Đảo hợp
tác với các thủ lĩnh nghĩa quân Tuấn Đạt, Tuấn Bôn, Đốc Khoát, sau đó Đề
Kiều quay trở về căn cứ. Ông bị giặc Pháp bắt song không ra làm cho chúng
mà mở đồn điền.
Ngô Quang Đoan vào Hà Tĩnh gặp thủ lĩnh Phan Đình Phùng
bàn mưu kế sang Trung Quốc bắt liên lạc với Tôn Thất Thuyết, song việc
không thành. ông lại cùng với một ông Tú tài tiếp tục cuộc kháng chiến ở
Hưng Hóa. Vào đầu năm 1893, Ngô Quang Đoan và ông Tú bị giặc Pháp
bắt ở Hưng Hóa. Sau một thời gian bị giam giữ, mua chuộc hai ông không
được, giặc Pháp đem ông Tú ra chém để uy hiếp ông, nhưng ông vẫn kiên
quyết không chịu đầu hàng. Quân Pháp quyết định đưa ông ra xử tử. Song
ông được Đề Kiều đứng ra bảo lãnh giảm án tử hình, nhưng bị quản thúc.
Trong thời gian bị quản thúc ở quê hương Trình Phố, Ngô Quang Đoan vẫn
bí mật liên lạc với các chí sĩ yêu nước.
Năm 1905 Ngô Quang Đoan ra Hà Nội gặp cử nhân Lương Văn
Can, bàn việc tổ chức Đông Kinh Nghĩa Thục. Sau đó Ngô Quang Đoan lại
sang Nhật. Năm 1907, Hội Duy tân phân công Ngô Quang Đoan về nước
vận động tài chính cho hội và liên lạc với các tướng lĩnh cũ ở vùng sông
Thao, sông Đà để chống Pháp. Trong khi vận động tài chính, ông cũng có
giúp đỡ phong trào Duy tân ở tỉnh Thái Bình. Năm 1909 hoạt động vận
động tài chính của Ngô Quang Đoan đang có kết quả thì Chính phủ Nhật đã
đồng lõa với nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương trục xuất Phan Bội Châu
và các lưu học sinh Việt Nam ra khỏi Nhật. Ngô Quang Đoan trở về nước.
Ngô Quang Đoan qua đời ngày 29 tháng 5 năm Ất Dậu, tức
ngày 8 tháng 7 năm 1945 tại làng Trình Phố chỉ trước khi Cách mạng tháng
Tám thành công có 41 ngày.
ĐỀ KIỀU
Đề Kiều tên thật là Hoàng Văn Thúy, quê ở xã Lộc Cương, tỉnh
Phú Thọ. Ông cùng Đốc Ngữ, Bố Giáp giúp Nguyễn Quang Bích phát triển
lực lượng nghĩa quân ở vùng sông Đà, thượng nguồn sông Thao, sông
Chảy, từ Sơn Tây, Hưng Hóa lên biên giới Tây Bắc. Do chiến đấu giỏi, mưu
trí, thắng nhiều trận lớn, ông được phong tới chức Chánh Đề đốc.
Tháng 1 năm 1885, Đề Kiều chỉ huy một cánh quân, góp phần
quan trọng vào chiến công đánh bật quân Pháp càn quét vào khu rừng Già.
Ngày 2/2/1885 ông chỉ huy nghĩa quân đánh chặn quân Pháp từ Hưng Hóa
tràn vào cướp phá Sơn Vi (Thanh Thủy).
Giặc Pháp thấy rõ nguy cơ bị nghĩa quân Nguyễn Quang Bích
chặn đứng âm mưu xâm lược các tỉnh vùng Tây bắc Bắc Kỳ, nên mở hàng
chục cuộc càn quét vào căn cứ Tiên Động. Đề Kiều cùng với các tướng
khác đóng quân ở giữa sông Hồng, sông Lô chặn địch từ xa căn cứ Tiên
Động. Sau khi Đề Kiều đánh thắng trận càn quét lớn vào Sơn Vi, ông cùng
Nguyễn Văn Giáp mở rộng địa bàn hoạt động ở tận các huyện Văn Bàn,
Than Uyên.
Trong các năm 1888, 1889, Đề Kiều cùng với Đề Mạc, Quyền
Hạo chiếm cứ vùng sông Đà, nghĩa quân phát triển lực lượng, xây dựng
nhiều đồn lũy khắp các tỉnh Sơn Tây, Vĩnh Yên, Hưng Hóa. Dưới quyền Đề
Kiều có nhiều tướng giỏi như Đề Mạc chỉ có 40 quân thường trực, nhưng
khi động thì có hàng nghìn nông dân ở Sơn Tây bỏ cày cuốc cầm vũ khí
chiến đấu. Tháng 1/1889 Tri phủ Lâm Thao, một tên chó săn cho giặc Pháp
chỉ huy 350 quân đi tuần tiễu vào vùng nghĩa quân kiểm soát, bị nghĩa quân
Đề Kiều đánh cho tan tác.
Từ năm 1889, nghĩa quân Đề Kiều kiểm soát vùng sông Đà, hạ
lưu sông Thao. Trong 2 năm 1889 và 1890, nghĩa quân Đề Kiều đánh nhiều
trận lớn, gây cho quân Pháp tổn thất nặng nề. Sách Histoire Militaire của
Pháp ghi lại một số trận đánh do Đề Kiều chỉ huy như sau:
- Tháng 8/1889, nghĩa quân đánh tổng Yên Lãng (Sơn Tây) giết
chánh tổng phản động Lý Đức Điền.
- Tháng 9/1889, Đề Kiều chỉ huy liền hai trận đánh ở Ngòi Lao
và Bắc Khê.
- Ngày 10 tháng 10/1889, chủ tướng Nguyễn Quang Bích triệu
tập các tướng lĩnh về họp tại đại bàn doanh ở Quế Sơn. Quân Pháp dò biết
đến đánh úp. Nguyễn Quang Bích biết được mưu đồ của giặc Pháp, ông
tương kế, tựu kế phái Đề Kiều, Đề Thanh đem quân mai phục cách căn cứ
5-6 dặm. Quân Pháp không ngờ, lọt vào ổ phục kích, bị tiêu diệt phần lớn,
số còn lại tháo chạy bỏ lại nhiều xác chết và súng đạn.
Tháng 10/1889, lực lượng nghĩa quân hùng mạnh, ông tổ chức
các trận đánh phòng ngự ở Mộ Xuân, Tiên Động, Quế Sơn. Trận nào nghĩa
quân cũng thắng, làm thất bại các trận càn quét của quân Pháp. Để phô
trương thanh thế, uy hiếp giặc ông còn chủ động tấn công đồn Văn Bàn.
Trận đánh táo bạo này gây khiếp đảm cho quân Pháp, gây phấn chấn cho
đồng bào các dân tộc, đồng bào đem thóc gạo, trâu bò ra úy lạo nghĩa quân.
Tháng 11/1889, nghĩa quân đánh trận Đào Xá cách Hưng Hóa 6
dặm (3 cây số). Trận này tuy nghĩa quân thắng, nhưng Đốc Sỹ tử trận.
Cũng trong tháng 11, ông còn tổ chức các trận đánh và trực tiếp
chỉ huy các trận đánh đồn Thanh Ba, trận đánh đồn Ngòi Lao, đánh huyện
lỵ Cẩm Khê.
Tháng 12/1889, Đề Kiều chỉ huy đánh trận Tý Mã. Trận này
Đốc Hội tử trận. Cũng trong tháng 12/1889 ông chỉ huy đánh trận Trí Chủ.
Ngày 15 tháng chạp âm lịch (khoảng 20 tháng 1/1890), Nguyễn
Quang Bích lâm bệnh nặng mất tại đại bản doanh ở núi Tôn Sơn.
Trước tổn thất lớn lao mất chủ tướng. Đề Kiều cùng các tướng
vẫn duy trì, phát triển lực lượng quân sự, liên tục tấn công quân Pháp.
Tháng 1/1890 , nghĩa quân đánh đồn Văn Bàn lần thứ 2. Cũng trong tháng 1
ông còn chỉ huy đánh trận làng Bản Nguyên, trước mặt Hưng Hóa, giết chết
chánh tổng tổng Văn Phú và giết chết chánh tổng tổng Cẩm Khê.
Tháng 5/1890 , Đề Kiều thống nhất các toán nghĩa quân tại vùng
Hưng Hóa. Ông trực tiếp chỉ huy 300 tay súng giỏi lập căn cứ tại phía Nam
huyện Cẩm Khê (Phú Thọ), bên Hữu ngạn sông Hồng. Ông phối hợp chặt
chẽ với Đốc Ngữ đánh nhiều trận lớn. Đề Kiều đã liên hệ với các lực lượng
nghĩa quân khác ở thượng lưu sông Hồng, sông Đà, Bắc Ninh, triền sông
Lục Nam, Thanh Hóa, Nghệ An. Ông còn cử người sang Trung Quốc liên
lạc với Tôn Thất Thuyết để nhận súng đạn. Ông chịu ảnh hưởng lớn chí
hướng hành động của Tôn Thất Thuyết.
Ngày 25/11/1892, Đề Kiều vượt sông Hồng sang Tam Đảo bàn
việc hợp tác với nghĩa quân do Tuấn Đạt, Tuấn Bôn, Đốc Khoát, Đội Giang,
Đốc Đông chỉ huy. Ngày 27/11/1892 ông về tới căn cứ, song quân Pháp
dùng chính sách chia rẽ dân tộc, mua chuộc một số nghĩa quân người dân
tộc, những người này chỉ điểm cho quân Pháp biết nơi ông đóng quân. Giặc
đem quân bao vây chặt trong nhiều ngày, tấn công liên tục, nghĩa quân bị
tiêu hao, lương thực không còn, đạn hết. Giặc bắt, dụ dỗ ông làm quan cho
chúng, ông cự tuyệt, chúng giam lỏng ở quê, ông mở đồn điền vẫn ngầm
giúp đỡ nghĩa quân, sống cuộc đời dân thường cho đến khi mất.
HOÀNG HOA THÁM
Hoàng Hoa Thám vốn họ Trương tên Nghĩa, quê gốc ở xã Dị
Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Sau gia đình di cư lên vùng Yên Thế,
ông đổi tên là Hoàng Hoa Thám. Năm ông 20 tuổi, ông đã gia nhập đội
quân chiến đấu dưới hiệu lệnh của Trần Quang Loan, lãnh binh tỉnh Bắc
Ninh. Năm 1870 Giáp Văn Trận còn gọi là Đại Trận, quê ở làng Lý, xã
Ngọc Lý, tổng Ngọc Cục, huyện Yên Thế, nay là xã Ngọc Lý, huyện Tân
Yên, tỉnh Bắc Giang, cùng con trai là Giáp Văn Cương (Đề Cương) khởi
nghĩa chống triều đình Huế. Cuộc khởi nghĩa này mang tên là khởi nghĩa
Đại Trận. Song lại bị quân của Tôn Thất Thuyết đàn áp, cuộc khởi nghĩa
thất bại, Hoàng Hoa Thám phải trốn tránh một thời gian rồi cùng cha nuôi
là Bá Phức tới Lạng Sơn tham gia cuộc khởi nghĩa do Hoàng Đình Kinh
lãnh đạo. Hoàng Hoa Thám đã được rèn luyện về tài cầm quân xông pha
nơi trận mạc trong 5 năm tham gia cuộc khởi nghĩa Đại Trận, từng lập công
lớn trong các trận đánh thành Bắc Ninh, Tam Đảo, nên khi tham gia cuộc
khởi nghĩa Cai Kinh đã lập nhiều chiến công, được Cai Kinh phong là Đốc
binh. Tháng 12/1885 Đề Thám cùng Bá Phức rời cuộc khởi nghĩa Cai Kinh
gia nhập cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Đề Nắm lãnh đạo, quân Pháp đã vấp
phải sức chiến đấu ngoan cường và kiên quyết của nghĩa quân. Đề Thám
còn tham gia một số trận đánh và đều lập công, được Đề Nắm phong tới Đề
đốc. Từ khi Hoàng Hoa Thám và Bá Phức rời khỏi cuộc khởi nghĩa Cai
Kinh trở về tham gia cuộc khởi nghĩa Yên Thế thì từ đó giữa hai cuộc khởi
nghĩa có sự hỗ trợ lẫn nhau và vai trò của Đề Thám trong cuộc khởi nghĩa
Yên Thế ngày càng nổi lên rõ rệt.
Đề Thám đã cùng với Đề Nắm rút kinh nghiệm xây dựng đồn
Na Lương để xây dựng hệ thống phòng thủ mới ở Hố Chuối. Sau một số
hoạt động quân sự nhỏ, hiệu quả chiến đấu không cao, ngày 22/8/1888 các
thủ lĩnh nghĩa quân họp ở đình Dĩnh Thép đã cử ra một bộ chỉ huy quân sự
mới do Bá Phức làm Chánh tướng, Đề Nắm làm Phó tướng, Đề Thám phụ
trách quân sự. Bộ chỉ huy mới đã lãnh đạo cuộc chiến đấu một cách toàn
diện, đi vào nền nếp. Tiêu biểu là trận đánh thắng ở làng Dương Sặt. Bọn
giặc đã bị 250 nghĩa quân đánh trả quyết liệt. Sau một ngày chiến đấu tiêu
hao sinh lực địch, quân rút khỏi căn cứ. Giặc Pháp tràn vào làng thiêu hủy
làng Sặt và làng Thế Lộc.
Đề Thám lập căn cứ trên núi Yên Ngựa gần làng Cao Thượng,
chỉ huy nghĩa quân đánh bại mọi cuộc tiến công của quân Pháp. Sau chiến
thắng, Đề Thám rút quân, quân Pháp vào Cao Thượng chỉ còn trận địa
không. Chúng đốt làng Cao Thượng cùng đình, chùa.
Cuối tháng 10/1891, bọn cầm quyền Pháp sai tên Voay rông chỉ
huy Lữ đoàn 1 tấn công vào Yên Thế. Ngày 30/3 quân Pháp chiếm được
đồn Bá Phức, ngày 31/3 căn cứ Yên Thế thất thủ. Trong những thời điểm
khó khăn đó, Bá Phức đem lực lượng lên vùng Tam Đảo, Đề Thám tạm
lánh ở Bằng Cục. Tháng 11/1892, Thống Luận, Thống Ngò cùng Bá Phức
trở lại Yên Thế, Đề Thám quyết định hoạt động trở lại. Từ tháng 2/1893,
Đề Thám bắt đầu trực tiếp nắm quyền lãnh đạo tối cao ở căn cứ Yên Thế.
Để lấy danh nghĩa và khôi phục lại uy thế sáng 19/12/1892
(tháng 11 Nhâm Thìn), Đề Thám tập hợp một lực lượng 400 quân tại đình
làng Đông, xã Quỳnh Đông, sau đổi là Bích Động, nay thuộc Bích Sơn,
Việt Yên) tổ chức lễ Tế cờ, chính thức nhận chức chỉ huy cuộc khởi nghĩa
Yên Thế. Một bộ chỉ huy quân sự được thành lập gồm Đề Thám, Đặng Thị
Nhu, Cả Trọng, Cả Dinh, Cả Huỳnh, Điển Ân. Nghĩa quân hoạt động mạnh
ở khu vực Nhã Nam, bí mật củng cố căn cứ Yên Thế.
Tháng 10/1893, Lê Hoan mang một lực lượng 200 lính khố
xanh, 690 lính cơ phối hợp với quân của các đồn binh Na Lương, Mỏ
Trạng, Bố Hạ, Nhã Nam, Thái Nguyên càn quét Yên Thế suốt 2 tháng liền.
Tháng 01/1894, thực dân Pháp buộc phải thương lượng đình
chiến với Đề Thám. Công sứ Bắc Ninh phái tổng đốc Lê Hoan đến thương
lượng. Đề Thám ra điều kiện quân Pháp phải nhổ hết đồn bốt quanh Yên
Thế, Nhã Nam và ông hẹn ngày 7/2/1894 ông sẽ đến gặp công sứ. Đề Thám
lợi dụng thời gian thỏa thuận đình chiến kéo dài 3 tháng (tháng 1 đến tháng
4/1894) để bổ sung lực lượng, tu sửa đồn trại, tích trữ lương thực. Công sứ
Bắc Ninh phải chấp nhận những điều kiện do Đề Thám đề ra. Bá Phức lo
sợ, ngày 15/2/1894 vội vã đem 76 thủ hạ, 54 súng ra hàng Lê Hoan, nhận
chức bang tá. Đề Thám không nao núng, vẫn điềm nhiên đến dự họp ở Luộc
Hạ. Mọi âm mưu đầu độc ông ở đây bị thất bại. Cuối tháng 4/1894 cuộc
thương lượng tan vỡ.
Tháng 5/1894 công sứ Bắc Ninh Muydơliơ (Muselier) quyết
định chấm dứt thương lượng với Đề Thám, chuẩn bị tấn công căn cứ Yên
Thế. Muslier cho Tổng đốc Lê Hoan sai Bá Phức vốn là bố nuôi Đề Thám
với danh nghĩa đến “thuyết khách” để đặt mìn giết Đề Thám. Ông tương
kế, tựu kế giả chết để đánh lừa quân Pháp. Quân Pháp tin Đề Thám đã chết,
đem quân đến đánh, Đề Thám phản công, quân Pháp bị thất bại nặng nề.
Ngày 9/4/1896, Đề Thám rút quân về vùng núi Tam Đảo lập căn
cứ mới. Từ căn cứ này nghĩa quân tỏa đi, hoạt động ở Bắc Ninh, Sơn Tây,
Thái Nguyên, Bắc Giang.
Những hoạt động quân sự tích cực của Đề Thám khiến cho nhà
cầm quyền Pháp lo ngại.
Ngày 17/4/1901 Hòa ước được ký kết tại đình làng Nẻo. Tuy bị
ràng buộc về hòa ước, nhưng Đề Thám và các tướng lĩnh vẫn không ngừng
bổ sung lực lượng, làm tốt công tác huấn luyện. Đề Thám cũng mở rộng
mối quan hệ với các nho sĩ, các nhà văn thân, các thủ lĩnh phong trào yêu
nước khác. Chỉ trong một thời gian ngắn, nhiều cơ sở của nghĩa quân được
xây dựng ở Từ Sơn, Thuận Thành (Bắc Ninh) Văn Lâm (Hưng Yên), Sơn
Tây. Một hành lang cơ sở vững chắc kéo dài từ Yên Thế sang Hiệp Hòa,
vượt sông Cầu tới hai tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên.
Sau cuộc hội đàm với nhà cách mạng Phan Bội Châu, Hoàng
Hoa Thám đã có tầm nhìn toàn cục là phải phát động cả nước đồng thời nổi
lên chống Pháp. Để thực hiện được nhiệm vụ lớn lao trên, Đề Thám đã cử
những người tin cẩn về các địa phương trên tuyên truyền, tổ chức lực
lượng. Đề Thám cũng giao nhiệm vụ cho các vị chỉ huy, nghĩa quân có uy
tín đang ở căn cứ. Trong các trận đánh ở Tam Đảo (Tam Dương) và ở các
làng Lập Trí, Xuân Lai, Hiền Lương, Ninh Bạch. Bình Dã (Kim Anh) Thúy
Yên, Thái Lai (Yên Lãng), nghĩa quân đều gây thiệt hại nặng nề cho quân
Pháp.
Cuối tháng 1/1909, Toàn quyền Đông Dương ra lệnh tấn công
quy mô lớn vào các căn cứ của Đề Thám. Cuối tháng 3/1909, quân Pháp
bao vây thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám ở Rừng Phe. Ngày 25/3/1909 Đề Thám
quyết định phá vây để rút lên Tam Đảo, Cả Trọng hy sinh, Cả Huỳnh bị
thương nặng, Cai Tề bị giặc bắt. Ngày 4/6/1909 toàn bộ các toán nghĩa
quân Yên Thế đóng ở Vĩnh Yên, Phúc Yên tập trung về Vệ Linh để đón thủ
lĩnh Đề Thám. Ngày 14/6/1909, Đề Thám vượt sông Cầu, qua Thủ Lâm để
tới Vệ Linh để cùng 50 thủ lĩnh và nghĩa quân còn lại rút về căn cứ Núi
Sáng ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Yên.
Từ đầu tháng 11/1909, Đề Thám trở lại Yên Thế, có mặt ở Mỏ
Trạng, Dĩnh Thép, Cầu Gồ. Đề Thám chỉ còn lại vài thủ hạ và một số quân
song vẫn quật cường chiến đấu. Sau vụ giết Phó đội Liên và Đồng Cứu
tháng 3/1912, giặc Pháp tung quân truy lùng gắt gao các thủ hạ thân tín lần
lượt bị hi sinh, bên mình ông chỉ còn hai thủ hạ trung thành. Cuối tháng
12/1912, nhờ Lương Tam Kỳ làm trung gian, bọn Trần Đắc Kỷ (Tsan-tác-
ky) nhận tiền của Pháp giết Đề Thám, tìm cách liên hệ được với Đề Thám ở
vùng núi vùng Yên Thế, ngày 10 tháng 2 năm 1913 (mùng 5 tết Quý Sửu)
chúng ám hại ông tại khu rừng cách chợ Gồ 2km, chúng chặt đầu ông bêu ở
chợ Nhã Nam.
(có sách viết ông bị ám hại ngày 18/3/1913 (tức ngày 10 tháng 2
năm Quý Sửu).Về cái chết của Đề Thám còn nhiều nghi vấn có sách viết cái
xác Pháp nói là Đề Thám thực ra là Sư ông chùa Lèo).
NGUYỄN KHÁN - NGUYỄN CÁN
Cuối năm 1886, Nguyễn Khán cùng em là Nguyễn Cán quê ở xã
Phù Khê nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh lên Yên Thế gia nhập
nghĩa quân. Trên đường tới Yên Thế, hai ông đã giết hai tên lính gác cầu
cướp súng và ra mắt nghĩa quân. Hai ông lập công xuất sắc trong các trận
đánh đồn Hố Chuối và Phồn Xương.
Hoàng Hoa Thám giao cho hai anh em ông Nguyễn Khán (tức
Hai Cao) và Nguyễn Cán (tức Hai Cán) chỉ huy căn cứ này. Hai ông trở
thành bộ tướng tin cậy của thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám.
Mở đầu cho các hoạt động quân sự của Nguyễn Khán, Nguyễn
Cán là tập kích đồn binh Pháp ở phà Đuống để mở thông đường Từ Sơn
sang các huyện Thuận Thành, Gia Lâm nơi hoạt động của Nguyễn Thiện
Kế, Đội Văn, Đề Vinh của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Trận đánh diễn ra vào
tháng 6/1888 tiêu diệt toàn bộ quân Pháp, đốt cháy đồn. Trận này tuy không
lớn nhưng đã gây nỗi kinh hoàng cho quân Pháp và tên đại Việt gian Hoàng
Cao Khải, tổng đốc ba tỉnh Bắc Ninh - Hưng Yên - Hải Dương vì nghĩa
quân đánh vào hậu phương của chúng rồi rút lui an toàn. Nguyễn Khán
cùng em là Nguyễn Cán còn làm nhiệm vụ tiễu trừ Việt gian, phản động,
triệt phá đường dây mật vụ, chỉ điểm của giặc Pháp. Các hoạt động quân sự
của nghĩa quân Nguyễn Khán, Nguyễn Cán đều diễn ra ở xa căn cứ, nên
vẫn giữ được bí mật cho căn cứ Phù Khê. Hai ông xây dựng được nhiều cơ
sở tin cậy trong làng như nhà cụ Đồ Thuyết, nhà ông Nguyễn Trọng Châu
(Cả Châu).
Tháng 8/1911, thủ lĩnh Đề Thám phái ông Nguyễn Khán và
Nguyễn Cán dẫn một đội quân trên 30 người bí mật về đóng ở nhà cụ Đồ
Thuyết để thi hành bản án trừ khử tên Lê Văn Trung tay sai Pháp cài vào
hàng ngũ nghĩa quân. Khi nghĩa quân phát hiện thì hắn trốn khỏi Yên Thế,
Pháp cho làm tri phủ Từ Sơn. Tên này rất nguy hiểm vì nó biết mặt nhiều
tướng lĩnh, biết một số cơ sở bí mật ở đồng bằng, trong đó có Phù Khê.
Song các ông chưa kịp ra tay thì Lê Văn Trung biết, hắn đem hơn 100 quân
về Phù Khê để tiêu diệt nghĩa quân. Nghĩa quân được nhân dân giúp đỡ đã
đắp công sự ở lũy nhà cụ Đồ Thuyết sau đình.
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt suốt một ngày, hai đêm. Quân của
Trung đông gấp ba nghĩa quân, đều trang bị súng trường kiểu 1874, có rất
nhiều đạn nhưng không dám xông sang nhà cụ Đồ Thuyết. Vì nghĩa quân
bố trí ở lũy tre cao, kín đáo, tuy có ít súng, ít đạn nhưng lại có tài thiện xạ,
bắn phát nào trúng phát đó. Nghĩa quân lực lượng mỏng cũng không vượt
qua được lưới lửa của quân giặc tấn công sang đình được. Sau một ngày hai
đêm quần nhau với giặc, lợi dụng đêm tối, hai ông rút quân về căn cứ Nhạn
Tái.
CAI HẬU
Cai Hậu tên thật Nguyễn Văn Hậu, quê ở làng Dương Lâm, tổng
Nhã Nam, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã An Dương huyện
Tân Yên, Bắc Giang.
Ông Nguyễn Văn Hậu tham gia nghĩa quân nhưng không công
khai mà giữ chân thủ từ ở đình để che mắt giặc. Ông đào một đường hầm từ
hậu cung ra bờ ao vào cánh đồng đề phòng các thủ lĩnh đang hội họp, nghỉ
ngơi bị giặc bao vây, tập kích bất ngờ thì thoát ra ngoài một cách dễ dàng.
Trong mấy trận quân Pháp tấn công nghĩa quân đóng trong làng
Dương Lâm, chúng đã bắn pháo phá sập ngôi đình. Mãi đến thời kỳ "Hòa
hoãn với bọn cầm quyền Pháp lần thứ hai" (1897- 1909), Thủ lĩnh Hoàng
Hoa Thám đã giúp dân Dương Lâm dựng lại ngôi đình mới. Đình mới nằm
ở giữa làng, cạnh con đường liên xã đi Ngàn Ván, quay mặt ra hướng Nam,
nhìn vào núi Quế. Ngôi đình này tuy nhỏ hơn đình cũ nhưng nằm trên địa
thế cao, mặt nhìn ra cánh đồng rộng, kế đó là núi Quế bốn mùa xanh tươi.
Đình lại ở giữa làng, bên cạnh đường đi, thuận tiện.
Đình dựng xong, chính tay Đề Thám đã cùng ông Cai Hậu trồng
cây Dạ hương trước cửa đình làm kỷ niệm. Ông Cai Hậu lại được dân làng
giao cho làm thủ từ. Ông là một chỉ huy nghĩa quân xông xáo, gan dạ và
mưu trí.
Sau vụ "Hà Thành đầu độc” năm 1908 bọn cầm quyền Pháp biết
do nghĩa quân Yên Thế chủ mưu, nên cuối tháng 12 năm 1908, tháng giêng
năm 1909, quân Pháp mở cuộc tấn công lớn vào Phồn Xương, Hố Chuối và
hầu hết các căn cứ của nghĩa quân. Không tiêu diệt được nghĩa quân giặc
Pháp đốt phá làng Dương Lâm và các làng có nghĩa quân hoạt động. Chúng
biết rõ mối quan hệ giữa làng Dương Lâm với nghĩa quân Yên Thế, giữa
ông Cai Hậu với thủ lĩnh Đề Thám, nên đã bắt ông tra tấn cực kỳ dã man để
mong tìm ra nơi Đề Thám và các tướng lĩnh cư trú và những bí mật khác
của nghĩa quân. Nhưng ông Cai Hậu vẫn kiên trinh, bất khuất không khai
báo với giặc nửa lời. Chúng đã hèn hạ giết chết ông.
Cho đến nay, trên 110 năm đã trôi qua, tướng quân Đề Thám,
ông Cai Hậu đã hy sinh, nhưng chiến công lừng lẫy của cuộc khởi nghĩa
Yên Thế vẫn còn đó. Đình Dương Lâm cùng cây Dạ hương là nhân chứng
lịch sử đã chứng kiến cuộc khởi nghĩa anh hùng Yên Thế vẫn còn đó,
trường tồn với đất nước đã sạch bóng quân thù.
Bộ Văn hóa - Thông tin đã ra Quyết định số 154-QĐ ngày
25/1/1991 công nhân đình Dương Lâm là di tích lịch sử văn hóa.
HÒA THƯỢNG THÍCH THANH ĐIỀU
Tin giặc Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai (2514/1882) truyền
đến vùng rừng núi châu Thoát Lãng, tỉnh Lạng Sơn, gây nỗi kinh hoàng và
căm phẫn trong dân chúng. Lập tức Hoàng Đình Kinh, quê ở làng Thuốc
Sơn, châu Thoát Lãng, nay là xã Cai Kinh, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
là người giỏi võ, tính tình hào hiệp, nhà giầu, thu nạp được nhiều người nổi
tiếng trong giới giang hồ, hùng cứ cả một vùng Dương Yên, Giàng Thượng,
châu Thoát Lãng triệu tập anh em họp gấp, kêu gọi kháng chiến.
Trong số thủ hạ của Hoàng Đình Kinh có Hoàng Đình Điều
người cùng xã được dự họp ngay từ đầu. Hoàng Đình Điều giỏi võ nghệ,
bắn súng được xếp vào hàng thiện xạ, được Cai Kinh giao cho chỉ huy một
đội quân. Đội quân này chiến đấu dũng mãnh, thường đi tiên phong trong
các trận đánh. Hoàng Đình Điều đã sát cánh với chủ tướng Cai Kinh trong
các trận đánh quân Pháp ở Kép, Phủ Lạng Thương, tiêu diệt đồn Than Muội
(5/1885), tiêu diệt đồn Mai Sao (4/1886). Đầu năm 1888 Hoàng Đình Kinh
bị giặc Pháp phục kích bắt được khi ông đang trên đường tới biên giới Việt
- Trung. Ngày 6/7/1888 giặc Pháp xử tử Cai Kinh, Hoàng Đình Điều cùng
phần lớn các tướng và nghĩa quân gia nhập cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
Đến Yên Thế, Hoàng Đình Điều trực tiếp chiến đấu dưới quyền
chỉ huy của Đề Thám. Ông tham gia các trận đánh ở làng Dương Sặt (nay
thuộc xã Liên Sơn), Thế Lộc (nay thuộc xã Tân Trung đều thuộc huyện Tân
Yên, tỉnh Bắc Giang). Trong suốt thời gian từ năm 1891 đến năm 1892 ,
Hoàng Đình Điều luôn luôn chiến đấu cạnh Đề Thám. Sau đó Hoàng Đình
Điều được Đề Thám giao cho xây dựng căn cứ mới ở núi Tam Đảo.
Hoàng Đình Điều chỉ huy toán nghĩa quân ở Tam Đảo cho tới
tận năm 1920, quân số bị tổn thất trong các trận đánh, ông mới quy y cửa
Phật lấy pháp danh là Thích Thanh Điều về tu ở chùa Vua.
Chùa Vua ở phố Thịnh Yên, nay thuộc phường phố Huế, quận
Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Chùa Vua là tên gọi chung của chùa
Hưng Khánh, điện Thiên Đế và Điện Mẫu. Chùa được xây dựng từ thời Lê.
Đây là một bộ phận của cung Thừa Lương, nơi vua và các đại thần nghỉ
ngơi trước khi ra tế Nam Giao (nay là địa điểm nhà máy cơ khí Trần Hưng
Đạo).
Thích Thanh Điều khoác áo tu hành nhưng vẫn canh cánh bên
lòng chí nguyện đánh giặc cứu nước, nên ông đã mở lò dạy võ để kén chọn
nhân tài phòng khi dùng đến.
Trong những ngày Toàn quốc kháng chiến, tháng 12/1946, chùa
Vua là nơi đóng quân, chứa vũ khí của Vệ Quốc đoàn và tự vệ Thành Hà
Nội. Ngày 10/4/1956 Hồ Chủ tịch đến thăm chùa.
Ngày 21/8/2001, Chính phủ truy tặng nhà sư Hoàng Đình Điều
bằng khen của Chính phủ về thành tích chống giặc ngoại xâm. Chùa được
Bộ Văn hóa - Thông tin cấp bằng Di tích lịch sử văn hóa ngày 21/01/1992.
HÒA THƯỢNG THÍCH THANH QUYẾT
Tháng 9/1889, Đề Yêm, một tướng lĩnh xuất sắc của nghĩa quân
Bãi Sậy rời căn cứ kháng chiến ở vùng núi đá huyện Kim Bảng ( Hà Nam),
Mỹ Đức, Hà Tây về núi Tuyết Sơn, nay thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ
Đức, tỉnh Hà Đông. Tại đây Đề Yêm nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của
tăng ni, phật tử, trong đó có Hòa thượng Thích Thanh Quyết, hiệu Đôn
Mẫn, Động chủ Hương Sơn đời thứ tám (tổ thứ tám) chùa Hương Tích. Hòa
thượng Thích Thanh Quyết là một tham mưu tài giỏi cho Đề Yêm.
Sau trận đánh ngày 14/10/1891, nghĩa quân Đề Yêm tan tác vì
không còn căn cứ, đạn dược, kho lương bị quân Pháp đốt cháy. Đề Yêm cho
giải tán nghĩa quân rồi cùng viên tướng tâm phúc quê ở Bắc Ninh một chiến
sĩ thiện xạ lên Yên Thế tham gia cuộc khởi nghĩa do Hoàng Hoa Thám lãnh
đạo. Hòa thượng Thích Thanh Quyết giao cho Tỳ khiêu Thích Thanh Tích
quản lý chùa Hương tích rồi theo Đề Yêm lên Yên Thế chiến đấu dưới cờ
Hoàng Hoa Thám.
Đề Thám biết tiếng hòa thượng Thích Thanh Quyết liền mời về
trụ trì ở chùa Phồn Xương nằm ngay cạnh đại đồn Phồn Xương và làm
tham mưu cho mình.
Ngày 11/4/1892, Đề Sặt đầu độc Đề Nắm rồi đem đồng đảng
cùng vũ khí ra hàng Pháp. Đề Thám phải đảm đương việc chỉ huy nghĩa
quân. Trong những ngày tháng gian khổ đó, Hòa thượng Thích Thanh
Quyết luôn luôn ở bên cạnh Đề Thám cùng bộ tham mưu bàn bạc kế hoạch
tác chiến phá vỡ vòng vây của quân Pháp đang ngày càng thắt chặt.
Quân Pháp sau trận thất bại ở Hố Chuối tháng 4/1894 phải điều
đình ký Hòa ước với Đề Thám. Đề Thám cho xây dựng lại hệ thống đồn
lũy. Hòa thượng Thích Thanh Quyết đề nghị với thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám
sửa chữa, xây dựng lại chùa Hả, trùng tu chùa Phố, thường gọi là chùa Nhã
Nam. Chùa này bị đại bác Pháp bắn sập vào năm 1885, nghĩa quân đã dựng
lại vào năm 1886.
Trong thời gian hòa hoãn lần thứ hai với giặc Pháp, Thủ lĩnh
Hoàng Hoa Thám cấp tiền bạc và giao cho hòa thượng Thích Thanh Quyết
tiếp tục xây dựng lại, sửa chữa các chùa Phồn Xương, Chùa Lèo, chùa
Thông... Các chùa này đều nằm trong vùng kiểm soát của nghĩa quân Yên
Thế và đều án ngữ trên các con đường chiến lược, hoặc xây dựng trên các
cao điểm, hoặc ở nơi giáp ranh với vùng kiểm soát của địch. Vì thế hòa
thượng đều cho xây tường, đắp lũy, trồng tre bao quanh. Nếu chiến sự xảy
ra thì mỗi ngôi chùa đều trở thành pháo đài đánh Pháp.
Nhằm phát triển thế lực về các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, năm
1907 , Đề Thám cử các phái viên của mình về Hà Nội thành lập đảng Nghĩa
Hưng, phối hợp với binh lính yêu nước trong thành Hà Nội tiến hành vụ
"Hà Thành đầu độc” ngày 27/6/1908. Vụ đầu độc không thành. Thực dân
Pháp biết Đề Thám là người chủ mưu vụ này, nên từ ngày 28/1/1909 (mùng
7 tết Kỷ Dậu), quân Pháp tập trung 15.000 quân liên tục mở các cuộc tấn
công vào hầu hết các căn cứ của Đề Thám. Đề Thám và bộ Tham mưu đã
anh dũng chống trả cho tới ngày 10/2/1913 (mùng 5 tết Quý Sửu) Đề Thám
bị tay chân của Lương Tam Kỳ ám hại, cuộc kháng chiến kết thúc.
Hòa thượng Thích Thanh Quyết thấy mình không thể ở lại Yên
Thế được, nên quyết định trở lại chùa Hương Sơn. Hòa thượng đang chuẩn
bị lên đường thì Hoàng Đình Điều tìm đến. Ông cho Hòa thượng biết mình
đang chỉ huy một toán nghĩa quân hoạt động ở Tam Đảo, Vĩnh Phúc nhận
được tin thủ lĩnh bị ám sát nên về nghe ngóng tình hình. Hòa thượng Thích
Thanh Quyết cho biết sau khi thủ lĩnh bị ám hại giặc Pháp và lũ tay sai ráo
riết truy lùng lùng những người đã tham gia nghĩa quân, ủng hộ nghĩa quân
để giết hại và đưa đi tù đày, hòa thượng cũng chuẩn bị về Hương Sơn. Bọn
quan lại tay sai thực dân Pháp đánh hơi được một nhà sư từng theo Đề
Yêm, đã biến cả chùa thành đồn lũy đánh Pháp rồi lại lên Yên Thế theo
"giặc Đề Thám" nay trở về chùa liền mật báo với tri phủ Mỹ Đức. Tri phủ
cho lính về chùa Hương Sơn bắt hòa thượng về phủ tra khảo. Song đòn
đánh, kìm kẹp không làm cho vị hòa thượng yêu nước sờn lòng. Thực ra
bọn thực dân Pháp chẳng cần gì phải khai thác bí mật về cuộc khởi nghĩa
Yên Thế, vì thủ lĩnh Đề Thám đã bị chúng sát hại, khởi nghĩa Yên Thế đã
tan rã. Hành động tàn bạo của tri phủ Mỹ Đức chỉ nhằm moi tiền hối lộ. Và
tên tri phủ tay sai của thực dân Pháp đã không giấu giếm điều đó khi ghé
vào tai hòa thượng gạ gẫm: "Có tiền lễ thì tao tha cho!”. Hòa thượng Thích
Thanh Quyết trả lời một cách mỉa mai: "Nếu quan lớn muôn ăn đút thì để
tôi về chùa bán mấy ông Phật đi lấy tiền đút cho quan lớn!”.
Câu trả lời của nhà tu hành khác nào cái tát vào mặt hắn, song
cái mặt dầy của hắn vẫn chai lỳ. Suốt mấy tháng trời đánh đập, tra khảo nhà
sư không được lợi lộc gì lại bị Phật tử và nhân dân phản đối, tên tri phủ
buộc phải trả tự do cho hòa thượng trở về Hương Tích.
Bị bọn tay sai giặc Pháp tra tấn, từ đó hòa thượng mang bệnh
nặng, nhưng lòng yêu nước vẫn không nguôi. Bọn quan lại ở Hà Đông từ
đó phải gọi Hòa thượng là "Tăng trung hào kiệt”.
TÀI LIỆU BIÊN SOẠN CHÍNH
Sách lịch sử:
- Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1894
- Việt sử cương mục tiết yếu
- Đại Nam thực lục chính biên, tập 34, 35, NXB Khoa học xã hội, 1974.
- Công văn tấu tập, ký hiệu A545, Thư viện Khoa học xã hội.
- Hà Nội thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trần Quốc
Vượng chủ biên, NXB Quân đội Nhân dân.
- Hội đồng lịch sử Hà Bắc: Lịch sử Hà Bắc tập I.
- Ban nghiên cứu lịch sử Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh, Những mẩu chuyện và
thời niên thiếu của Bác Hồ, NXB Sự thật, 1985.
- Lịch sử 80 năm chống Pháp.
- Hà Nam nhân vật lịch sử và văn hóa
- Trần Văn Giầu: Chống xâm lăng quyển I, II, NXB Xây dựng, Hà Nội
1956
- Tôn Quang Phiệt: Phan Bội Châu và một giai đoạn lịch sử chống Pháp
của nhân dân Việt Nam, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1958.
- Dương Kinh Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử, tập I, NXB Khoa
học xã hội.
- Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu Phước: Khởi nghĩa Trương Định, NXB
Thành phố Hồ Chí Minh, 1989.
- Phan Trần Chúc - Lê Quế: Nguyễn Tri Phương, NXB Quốc Văn, Hà
Nội, 1946.
- Ban liên lạc Cựu chiến binh Việt Nam ở Cămpuchia thời kỳ 1945-
1954: Quân tình nguyện Việt Nam ở Cămpuchia thời kỳ 1945-1954.
- Phan Khoang: Việt Nam Pháp thuộc sử, Sài Gòn 1974.
- Đào Đăng Vỹ: Nguyễn Tri Phương, Bộ Văn hóa - Giáo dục và thanh
niên, Sài Gòn, 1974.
- Phạm Văn Sơn: Quân dân Việt Nam chống Tây xâm, Sài Gòn, 1963.
- Nguyễn Văn Hầu: Cuộc khởi nghĩa Bẩy Thưa, Tân Sinh, Sài Gòn,
1956.
Sách Văn học:
- Phan Bội Châu toàn tập, nxb Thuận Hóa
- Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, NXB Văn học, Hà Nội, 1970.
- Thơ văn yêu nước Nam Bộ.
- Dương Quảng Hàm: Văn học sử yếu, nha Học chính Đông Pháp, Hà
Nội, 1943.
- Đại Nam chính biên liệt truyện, Quốc sử quán triều Nguyễn
- Phan Bội Châu niên biểu
- Truyện Trương Định
- Ông Nghè, ông Cống triều Nguyễn
- Sơn Nam: Bến Nghé xưa, NXB Trẻ 1997.
- Trần Văn Giáp: Lược truyện các tác gia Việt Nam. Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1971.
- Phạm Phú Thứ với tư tưởng Canh tân, NXB Đà Nẵng, 1995.
- Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập II, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1969.
- Nhóm Trà Lĩnh: Đặng Huy Trứ: Con người và tác phẩm, NXB Thành
phố Hồ Chí Minh, 1990.
- Kỳ Xuyên Văn Sao, bản dịch của Lê Thước.
- Văn học yêu nước cách mạng Hà Nam Ninh.
- Phạm Thận Duật toàn tập, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000.
- Danh nhân Thái Bình.
- Các nhà khoa bảng Việt Nam.
- Vè Thái Bình.
- Vũ Ngọc Khánh: Giai thoại ông đồ, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2002.
Địa chí:
- Địa chí Bến Tre
Sách tiếng Pháp:
- André Massen: "Hà Nội, giai đoạn 1873 - 1888".
- Dulleman: Cuộc chiến tranh chống cướp bóc
- Histoire militaire de l'Indochine Francais
- Parlin Histoire de la Cochindume
- Toboulel: Le geste francais en Indochine
- P.Vial: Les premièrè années de la Cochine (Những năm đầu ở Nam
Kỳ).
- Annales de la, prapagagation de la Foi
- L'Amiral Dpéet la conquête du Ton Kin Dideb.
- Histoire militaire de l'Indochinoir
- Những người Pháp ở Bắc Kỳ và việc can thiệp của người Pháp.
- Xứ Bắc Kỳ và sự can thiệp của Pháp (bản dịch thư viện KHXH).
Sách tiếng Nga:
- K.Xtannhin Kêvich: Vòng quanh thế giới trên lầu Coóc xin: Tuyển tập
tác phẩm, 1977.
Sách tiếng Trung Quốc:
- Dương sự thủy mạt: Bản dịch của trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
- Chiến tranh Trung - Pháp, quyển 7.
Báo cáo:
- Báo cáo của công sứ Thái Bình Ô e (Auer), hồ sơ số 71, 844, F6, 686,
Cục lưu trữ Trung ương.
- Simôni: Báo cáo gửi Toàn quyền Đông Dương.
- Thư tín chính trị (Contes pondances pliliquen) (Thư của De Vile gửi
cho Henririvière).
Tạp chí:
- Tạp chí Nghiên cứu lịch sử các số 3/1977; Số 2/1990, số 4/1994, số
6/2000.
- Tạp chí Xưa và nay số 223 tháng 1/2004; số 223/2005.
- Tạp chí Toàn cảnh số 5/1999.
Gia phả:
- Gia phả họ Lê Xuân ở Rạch Giá.
284 ANH HÙNG HÀO KIỆT CỦA VIỆT NAM - TẬP
3

Tác giả : Vũ Thanh Sơn


Nxb Công an Nhân dân 01/2009
Số trang : 183. Kích thước : 14.5 x 20.5cm
Thực hiện ebook : hoi_ls
(www.e-thuvien.com)
LỜI GIỚI THIỆU
TÔN THẤT THUYẾT
VUA HÀM NGHI
TÔN THẤT ĐÀM
CÔN PÚA
NGUYỄN PHẠM TUÂN
LÊ TRỰC
BẠCH XỈ
HOÀNG THỊ TÁM
PHAN ĐÌNH PHÙNG
CAO THẮNG
LÊ NINH
PHAN ĐÌNH THÔNG
ĐỘI QUYÊN
NGUYỄN HUY THUẬN
VƯƠNG THỨC
NGUYỄN THỨC TỰ
TRẦN QUANG DIỆM
TRẦN XUÂN SOẠN
TỐNG DUY TÂN
CẦM BÁ THƯỚC
HÀ VĂN MAO
ĐINH CÔNG TRÁNG
NGUYỄN PHƯƠNG
HOÀNG BẬT ĐẠT
PHẠM BÀNH
NGUYỄN ĐÔN TIẾT
NGUYỄN HỮU HẠNH
LÊ VĂN THỨC
LÊ NGỌC TOẢN
ĐỘI TÁM
NGUYỄN TRỌNG TÂY
LÊ CHÍNH
NGUYỄN TỬ TƯƠNG
ĐINH VĂN PHÚ - ĐINH HỮU KHANG
ĐỐC ĐEN
ĐỐC NHƯỠNG
LÃNH HOAN
BA BÁO
SƯ THUYỀN QUAN
SƯ NĂM THƯỢNG
NGUYỄN THIỆN THUẬT
NGUYỄN THIỆN KẾ
NGUYỄN THIỆN DƯƠNG (LÃNH GIANG)
ĐINH GIA QUẾ
NGÔ QUANG HUY
NGÔ QUANG CHƯỚC
LÊ VĂN HANH
PHẠM VĂN ĐỨC
CẢ SEN
ĐỐC ĐOÁN
LÃNH DUỆ
ĐỐC ĐỒNG
BANG ẤM
LÃNH THẢO
ĐỐC MUỖI
LÃNH LƯỜNG
ĐỐC NHÔNG
NGUYỄN VĂN LONG
QUẢN CẦU
PHẠM TRUNG THỨ
TÀI LIỆU BIÊN SOẠN CHÍNH
LỜI GIỚI THIỆU
Bộ sách “284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam” bao gồm 5 tập với
tổng cộng gồm 1000 trang của tác giả Vũ Thanh Sơn viết về chân dung các
nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà văn, nhà báo Vũ Thanh Sơn đã tập trung
khắc họa lại tương đối đầy đủ và toàn diện về chân dung của 284 Anh hùng
hào kiệt của Việt Nam từ cuối Thế kỷ XIX đến đầu Thế kỷ XX. Trong đó
nhiều nhân vật mà các cuốn sách đã xuất bản từ trước đến nay chưa hề
được đề cập đến. Bằng công trình của mình không những tác giả đã đóng
góp phần bổ sung cho những thiếu vắng của lịch sử nước nhà (đặc biệt là
về nhân vật và sự kiện) mà còn góp phần tuyên truyền, giáo dục những tấm
gương tiêu biểu cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc - đó là sự nghiệp đấu
tranh chống ngoại xâm giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc.
Chân dung các nhân vật lịch sử Việt Nam trong thời kỳ lịch sử cận
đại được tác giả Vũ Thanh Sơn tập trung khắc họa ở 3 nhóm chính tương
ứng với ba thời kỳ sôi động của lịch sử Việt Nam, đã có biết bao anh hùng,
nghĩa sĩ hô hào nhân dân vũ trang đánh đuổi giặc Pháp:
Đó là thời kỳ đầu tranh chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ
XIX (từ khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tại bán đảo Sơn Trà,
chính thức mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam 1/9/1858).
Là phong trào Cần Vương với nhiều cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của
văn thân chông Pháp (1885-1896) phát triển rộng khắp từ Nam ra Bắc.
Và còn là phong trào đấu tranh chống Pháp đầu thế kỷ XX với ý thức
của hệ tư tưởng mới với các phong trào chống thuế ở Quảng Nam, phong
trào Duy tân, Đông du dưới sự lãnh đạo của Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh...).
Trong cuộc kháng chiến không cân sức này có biết bao anh hùng, hào
kiệt đã ngã xuống, nhưng ý chí quật cường chống giặc Pháp, cùng những
lời tuyên bô đanh thép trước giây phút bị hành hình vẫn mãi sáng chói,
rạng ngời lên chủ nghĩa anh hùng của dân tộc Việt Nam. Đó là những câu
nói đến nay ta đọc lại vẫn rung động như Tổng đốc Nguyễn Tri Phương
tuyên bố: “Bây giờ nếu ta chỉ miễn cưỡng lay lắt mà sống, sao bằng thung
dung chết vì việc nghĩa”; Bình Tây đại nguyên soái Trương Định tuyên bố:
“Chúng ta thề sẽ đánh mãi và không ngừng, khi ta thiếu tất cả ta sẽ bẻ
nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm vũ khí cho binh lính ta”; hay Nguyễn
Trung Trực trước giờ giặc hành hình vẫn dõng dạc tuyên bố: “Bao giờ
người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”... và còn
rất nhiều, rất nhiều lời tuyên ngôn đanh thép khác.
Nhìn chung, các nhân vật lịch sử tác giả đề cập đến trong bộ sách
đều xứng đáng được tôn vinh. Họ có thể là những quan lại, hay những nhà
chí sĩ có tinh thần yêu nước. Mặc dù, mỗi người ở cương vị khác nhau, vị
thế xã hội và hoàn cảnh xuất thân không giống nhau nhưng tất cả những
con người ấy đều có chung mục đích cao cả nhất là không quản ngại hy
sinh gian khổ, kiên quyết đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược giành
độc lập cho đất nước.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bộ sách “284 Anh hùng hào kiệt
của Việt Nam” với quý vị độc giả.
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
TÔN THẤT THUYẾT
Tôn Thất Thuyết sinh năm 1835, quê ở thôn Phú Mộng, xã Xuân
Long, tỉnh Thừa Thiên. Tôn Thất Thuyết xuất thân từ võ tướng học vấn
không cao. Tự Đức đã có lần nhận xét về Tôn Thất Thuyết: “Học vấn còn
ít", "song có trí dũng, giỏi về việc binh”.
Năm 1869, ông được bổ nhiệm làm Án sát Hải Dương. Sau đó
làm tham tán cho Thống tướng Hoàng Kế Viêm. Ngày 21/12/1873, thực
dân Pháp mở rộng cuộc xâm lược, đánh chiếm ra Bắc Kỳ, ông cùng Hoàng
Kế Viêm tích cực chuẩn bị đối phó với giặc Pháp.
Để thực hiện Hoà ước, triều đình mật điều Hoàng Kế Viêm, Tôn
Thất Thuyết về phòng thủ ở quân thứ Tam Tuyên, không cho hoạt động ở
Hà Nội nữa. Để yên lòng các tướng, tháng 3 năm Giáp Tuất (3/1874), Triều
đình phong Hoàng Kế Viêm làm Hiệp biện đại học sĩ, tước Tử. Tôn Thất
Thuyết được phong làm Binh bộ hữu Tham tri, phong tước Nam, Lưu Vĩnh
Phúc làm Phó lãnh binh Tam Tuyên. Năm 1881, Tôn Thất Thuyết được
phong chức “Thự thượng thư bộ binh”.
Trong bài Dụ của Tự Đức nhân việc Tự Đức phong chức viết:
“Dụ rằng, Nguyên thự Tổng đốc sung Hiệp đốc Tôn Thất Thuyết bị bệnh đã
lâu, trước đã chuẩn cho giải chức về điều trị, nhiều lần cấp thuốc thang và
cho thăm hỏi, nay lại được khoẻ, lại biết gắng lại xin lai kinh sung chức để
báo đáp ơn sâu. Trẫm khen là người có lỗi mà biết sửa đổi... Vậy nên điều
bổ cho chức Thự Binh bộ thượng thư, để cho xứng chức”.
Tháng 6 năm 1883, Tôn Thất Thuyết được sung vào viện Cơ
mật.
Dưới triều Kiến Phúc, Tôn Thất Thuyết trên cương vị phụ chính
đại thần, Thượng thư bộ Binh nắm trọn binh quyền đã có nhiều biện pháp
mạnh, thực hiện mưu đồ chống Pháp. Đứng đầu phe chủ chiến: ông đã soạn
thảo kế hoạch đánh Pháp lâu dài. ông lập công binh xưởng, dựa vào mẫu
súng của Pháp cho chế tạo súng trường, súng máy. Ông cũng đôn đốc, đầu
tư nhiều tiền bạc, xây dựng Tân Sở thành kinh đô dự bị, khi có biến sẽ rước
vua tới đó. Các sơn phòng ở Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng được bổ sung
quân và vũ khí. Ông vẫn bí mật liên lạc với các quan văn võ kháng chiến
ngoài Bắc vừa chuẩn bị thực lực ở miền Trung. Từ Ninh Bình đến Nghệ
An, Quảng Trị ông đều củng cố tổ chức sơn phòng. Tại Nghệ An, ông giao
cho Lê Doãn Nhạ khai hoang được 2070 mẫu đất trong núi sâu Nghệ An. Ở
Quảng Trị, tại Cam Lộ, sơn phòng to lớn hơn cả tục gọi là Tân Sở. Phủ nha
Quảng Trị được đưa vào đấy là nơi hiểm yếu, rộng rãi ở Cam Lộ. Tại đây
Tôn Thất Thuyết đã đem châu báu, vàng bạc, lương thực, xây dựng căn cứ
địa, khai hoang đất rừng thành ruộng, phòng khi cần vua sẽ lên đó.
Đầu tháng giêng năm 1884 , Tôn Thất Thuyết lập "Phấn nghĩa
quân” giao cho Trần Xuân Soạn tổ chức, huấn luyện. Khi thành lập Phấn
nghĩa quân, Tôn Thất Thuyết giữ chức phụ chính đại thần, Hiệp biện đại
học sĩ. Lãnh thượng thư bộ Lại và có chân trong viện Cơ mật và kiêm giữ
chức Chưởng binh bộ sự vụ, kiêm quản văn ban, phò mã. Vệ uý lãnh kinh
thành phó Đề đốc Trần Xuân Soạn trong dịp này được thăng lên Chưởng
vệ.
Tôn Thất Thuyết một mặt tích cực chuẩn bị kháng chiến, một
mặt chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của tướng lĩnh, quân lính tại
ngũ.
Năm 1886, Tôn Thất Thuyết nhận thấy phong trào kháng chiến
có nhiều khó khăn, ông giao nhiệm vụ phò vua, đánh giặc cho các đình
thần, hai con là Tôn Thất Đàm 19 tuổi, Tôn Thất Tiệp 15 tuổi, Đề đốc Lê
Trực, Nguyễn Phạm Tuân cùng các quan bảo vệ vua Hàm Nghi rồi cùng
Trần Xuân Soạn sang Trung Quốc cầu viện. Trên đường sang Trung Quốc,
Tôn Thất Thuyết có ghé lại nhiều nơi có căn cứ kháng chiến như Hương
Sơn, Hà Tĩnh của Phan Đình Phùng, Nguyễn Quang Bích ở Tiên Động,
Vĩnh Phúc, Cai Kinh ở Lạng Sơn...
Tôn Thất Thuyết đề nghị triều đình nhà Thanh giúp Việt Nam
đánh Pháp. Khi đó Lý Hồng Chương đang giữ chức Toàn quyền Đại thần
Trung Quốc, kẻ đã ký Hiệp ước thân thiện với Pháp đã tâu với Tây Thái hậu
đày an trí Tôn Thất Thuyết tại La Đình, sau đưa về đày ở huyện Thiện
Quan. Tôn Thất Thuyết hối hận vì mình đã quá tin tưởng vào nhà Thanh
đến nỗi cơ nghiệp đổ vỡ thân bị cầm tù. Song ông được nhân dân Trung
Quốc quý mến che chở nên vẫn liên hệ được với các đồng chí.
Phẫn uất vì mình quá tin vào nhà Thanh sang cầu viện, nay về
nước cũng không được vì thực dân Pháp đã đàn áp hầu hết các cuộc khởi
nghĩa ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ, đặt xong ách thống trị ở hầu hết các tỉnh Bắc
Kỳ và Trung Kỳ. Ông về Long Châu dựng một cái lều nhỏ dưới chân đồi
sống cô đơn, phẫn uất phát điên, hết khóc lóc lại réo bọn Pháp và Việt gian
mà chửi rủa. Ông điên nhưng không phá phách gì của dân, nên dân thương
ông thường đem thức ăn cho ông ăn, áo cho ông mặc. Con rể ông là
Nguyễn Thượng Hiền cũng cùng hoạt động ở Trung Quốc trong tổ chức
Việt Nam Quang Phục hội của Phan Bội Châu cũng bị mật thám Pháp thuê
bọn lưu manh Trung Quốc giám sát không dễ dàng gì đến thăm nhạc phụ
được. Nguyễn Thiện Thuật cũng chỉ thỉnh thoảng mới đến thăm ông được
vì đối với nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương ông vẫn là một quốc sự
phạm không thể tự do đi lại. Tôn Thất Thuyết mất vào tháng 3 năm 1913 tại
Long Châu, thọ 79 tuổi, trong cảnh cô đơn.
VUA HÀM NGHI
Ưng Lịch sinh ngày 16 tháng 6 năm Tân Mùi (3/8/1871) là con
thứ 5 Hồng Cai, là em Ưng Đăng. Ngày 2/8/1884, triều đình tổ chức lễ đăng
quang cho Ưng Lịch lên ngôi vua, hiệu là Hàm Nghi.
Ngày 1/7/1885, De Courcy từ Hải Phòng vào Huế gây hấn.
Trước tình thế không thể nhân nhượng được nữa, đêm 4/7/1885 Tôn Thất
Thuyết cùng các tướng phe chủ chiến tấn công đồn Mang Cá, khu nhượng
địa, toà Khâm sứ của thực dân Pháp. Sáng ngày 5/7/1885, quân Pháp phản
công, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật cùng các
quan hộ giá nhà vua và Tam cung rút ra khỏi kinh thành.
Sáng ngày 9 tháng 7, nhà vua rời thành Quảng Trị để đi Tân Sở.
Ở Tân Sở, vua Hàm Nghi có ý định muốn về Huế, Tôn Thất Thuyết giải
thích. Hai ngày sau, Tôn Thất Thuyết xin nhà vua phê chuẩn vào chiếu kể
tội giặc Pháp, kêu gọi nhân dân nổi dậy Cần vương. Vua Hàm Nghi đọc kỹ
tới hai lần rồi nói: "Bây giờ trẫm hiểu vì sao khanh không muốn trẫm về
Huế còn bị giặc Pháp chiếm đóng”.
Ngày 26/7/1885, vua Hàm Nghi phong Phạm Thận Duật làm
Bắc Kỳ Khâm sai đại thần ra Bắc Kỳ trước, tổ chức phong trào Cần vương
để đón vua.
Tháng 10/1885 vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết về đóng ở
nha sơn phòng Hà Tĩnh.
Tại Huế, ngày 11 tháng 8 năm Ất Dậu (19/9/1885), thực dân
Pháp đưa Ưng Đường (sau đổi là Ưng Kỷ) là con trưởng của Hồng Cai lên
làm vua gọi là Đồng Khánh. Đồng Khánh là tên vua bù nhìn tôi tớ cho thực
dân Pháp, vừa lên ngôi, hắn đã viết thư cho Tổng thống Pháp: “…Cái ân
giúp cho ấy, không biết lấy gì báo đáp, nước tôi xin nhận quý quốc là
thượng quốc và xin tuyên bố quý Đô thống đại thần Đơ suy (De Courcy)
làm Bảo hộ vương, Khâm sứ Săm pô đại thần làm Bảo hộ công…”
Tháng 9 năm Ất Dậu (1885), Đồng Khánh ra lệnh tịch thu gia
sản của Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn. Nếu bắt
được Thuyết và Soạn thì xử chém ngay. Đối với vua Hàm Nghi, Đồng
Khánh cũng ra đạo dụ và cáo thị ca ngợi công lao của thực dân Pháp; lên án
Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết.
Trong khi Đồng Khánh "bắt” vua Hàm Nghi, đại thần Tôn Thất
Thuyết và triều đình Hàm Nghi bằng các đạo dụ, cáo thị thì ngày
22/11/1885 quân Pháp điều một lực lượng lớn quân lính, đặt dưới quyền chỉ
huy của trung tá Minhô (Mignot) xuất phát từ Ninh Bình tiến vào phía
Nam. Song chúng cũng bị lực lượng nghĩa quân trừng trị thích đáng.
Mùa xuân năm 1887, quân Pháp hành quân gặp khó khăn, vua
Hàm Nghi, Tôn Thất Tiệp quyết định chia quân nhỏ tiến về đồng bằng giải
phóng những vùng đã mất. Nhưng lực lượng yếu, không giữ được.
Trước những khó khăn đó lẽ ra vua Hàm Nghi ra vùng Thanh -
Nghệ nơi có phong trào mạnh thì được an toàn.
10 giờ đêm ngày 30 tháng 10 rạng sáng ngày 11/1/1888, kẻ địch
dò biết đích xác vua Hàm Nghi ở trong cái lều tranh trên bờ khe Tá Bào,
các tên Trương Quang Ngọc, Nguyễn Đình Tình dẫn đường cho khoảng
200 tên Pháp đi xuyên rừng tới nơi vua ở. Chúng bắt vua đưa xuống thuyền
về Thuận Bài. Bọn giặc Pháp đi lùng sục chém chết hết các quan, nghĩa
quân, người phu dịch tại chỗ.
Được tin vua Hàm Nghi tới Thuận Bài, các quan ở địa phương
đến bái hạ, nhà vua giả làm như không nhận ai cả. Khi có ông Nguyễn
Thuận là thày cũ của mình, vua Hàm Nghi vái chào ngay một cách tự phát.
Từ đó giặc Pháp biết đích xác là nhà vua. Chúng đưa vua Hàm Nghi về Cửa
Thuận.
Tuy vua Hàm Nghi bị giặc Pháp bắt, nhưng lực lượng kháng
chiến vẫn sử dụng niên hiệu, danh nghĩa của vua Hàm Nghi trong các công
văn, cáo thị, phong thưởng tướng sĩ. Vì vậy tháng 11/1888, Đồng Khánh ra
dụ cấm từ nay không được dùng hai chữ Hàm Nghi, khi cần chỉ cần gọi là
Quận công Lịch; cấm không được ai lợi dụng danh nghĩa của vua Hàm
Nghi để mưu việc chống lại triều đình. Các tỉnh phải sao dụ này để yết thị
khắp nơi, kèm theo chân dung của vua Hàm Nghi.
Từ cửa Thuận An thực dân Pháp đưa vua Hàm Nghi đi đầy tại
một ngôi nhà trên ngọn đồi ở làng ElBiar, cách thủ đô Alger 12 km, nước
Angêri.
Ngày 24 tháng 12/1943, nhà vua qua đời.
TÔN THẤT ĐÀM
Nguyễn Đàm (Tôn Thất Đàm) là con trưởng quan điện tiền
tướng quân Thượng thư bộ Binh Tôn Thất Thuyết. Năm Hàm Nghi, Ất Dậu
(1885), kinh thành Huế thất thủ, Nguyễn Đàm theo cha phò vua ra Quảng
Bình, lấy chỗ sơn trại của thổ quan là Trương Quang Ngọc làm nơi vua ở.
Ông giữ chức Khâm sai Tán lý quân vụ. Năm 1886, Tôn Thất Thuyết sang
Trung Quốc cầu viện, Tôn Thất Đàm được phong Tham tri bộ Binh, sung
khâm sai đại thần coi cả việc quân hai tỉnh Hoan (Nghệ An), Ái (Thanh
Hóa).
Tôn Thất Đàm lưu người em là Tiệp ở lại hầu vua, tự mình ra Hà
Tĩnh đóng quân ở ngàn Hà Tĩnh, chỗ hai hạt Kỳ Anh và Cẩm Xuyên, tiếp
ứng với nghĩa quân Phan Đình Phùng chống Pháp. Tôn Thất Đàm còn giữ
đầu mối liên lạc giữa vua Hàm Nghi với thủ lĩnh Cần vương các nơi.
Tôn Thất Đàm nhận được tin vua Hàm Nghi bị giặc Pháp bắt,
em trai hy sinh, ông viết hai bức thư, bức thư thứ nhất gửi vua Hàm Nghi:
Niên hiệu Hàm Nghi thứ 4 , tháng 11 ngày mùng 8
Thần Tôn Thất Đàm, Khâm sai chưởng lý Quân vụ cúi dâng ngự
lãm.
Không được gần gũi Hoàng thượng để hộ giá.
Khi có phản thần làm việc ám muội, thần mang tội rất lớn song
đây là mệnh trời xui nên nước ta gặp bước gian nguy và các công thần
không được gần Vua để cứu giá.
Các quan văn võ sẽ mang hận ấy suốt đời, vậy xin Hoàng
thượng tha thứ cho và thề sẽ hết lòng trung cho đến thác”.
Bức thư thứ hai gửi cho Thiếu tá Dabat, sĩ quan Pháp, chỉ huy
đồn Thuận Bài.
Niên hiệu Hàm Nghi thứ 4, tháng 11 ngày mùng 8.
Khâm sai đại thần Tôn Thất Đàm thư kính sĩ quan Pháp, quản
đồn Thuận Bài.
Những việc khốn nạn vừa xảy ra ở nước tôi bắt buộc tôi phải
viết thư cho ngài.
Cha tôi vì việc nước phải xuất dương chưa về, tôi phải kế cái
nghiiệp lớn lao mà vua tôi chẳng quản tôi tuổi trẻ, tài hèn đã phó thác cho
tôi.
Tôi không hiểu sao trời lại xui khiến cho vua phó thác cho tôi
cái trách nhiệm quan trọng ấy, và tôi rất tiếc rằng không được ở cạnh vua
để cứu giá và giết chết bọn phản thần hoặc cùng chết với em tôi khi quân
phản nghịch bắt vua mà nộp cho quân địch.
Nếu bọn giáo dân không xen vào giữa người Pháp và người
Nam thì không bao giờ có chiến tranh. Về phía chúng tôi thì tự nhiên chúng
tôi không bao giờ khiêu chiến với người Pháp. Nên chúng tôi có chống với
người Pháp chẳng qua chỉ là vì phận sự phải che chở cho bờ cõi và hết
lòng trung theo vua khi Ngài rời bỏ Kinh thành.
Nay chúng tôi bị thua, cái then của chiến bại đã bước đến cùng.
Vậy xin ngài cho các tướng sĩ được về quê hương an trí làm ăn và không
phải ra thờ triều đình mới.
Tôn Thất Đàm triệu văn võ thuộc hạ đến, nói:
Đàm này tài trí kém cỏi, phòng bị không cẩn để nhà vua mắc
nạn là bất trung; cha giao cho việc lớn, mà nay để đến thế là bất hiếu, còn
mặt mũi nào đứng trong trời đất. Xin các ông cứ theo chí mình mà làm,
nhưng chớ có nhận chức quyền của triều đình mới.
Ông cũng dặn mọi người rằng: "Nếu Pháp có hỏi gì về ta, hãy
bảo chúng vào rừng sâu, núi thẳm mà tìm, chúng sẽ thấy nấm mồ của ta”.
Sau đó ông tuẫn tiết.
Về cái chết của Tôn Thất Đàm có nhiều ý kiến khác nhau. Theo
Nguyễn Thượng Hiền trong “Giọt lệ bể dâu” thì Tôn Thất Đàm đến chùa
Vàng Liệu tại vùng núi Hà Tĩnh tự sát, lúc ấy ông mới 22 tuổi. Các quan
đem táng vào trong núi, sau người miền đó cảm Nguyễn Đàm là bậc trung
liệt lập đền thờ hàng năm tế lễ. Theo Việt Nam danh nhân tự điển viết: “...
Còn phần tôi , nếu người Pháp có hỏi, các ông cứ bảo họ vào trong rừng
này mà tìm mả”. Dứt lời Tôn Thất Đàm trật chiếc khăn đang đội trên đầu
thắt cổ tự tử . Theo Gosselin trong sách Le Laos et le Protectorat Rauzais
thì Tôn Thất Đàm thắt cổ mà chết; còn Baille, tác giả sách Souvenirs
d'Annam thì Tôn Thất Đàm uống thuốc độc.
CÔN PÚA
Côn Púa, chưa rõ năm sinh, nhưng khi vua Hàm Nghi xuất bôn
(7/1885) thì Côn Púa đến tuổi cưa răng (15 tuổi) đã theo cha là Ariay (già
làng) đưa đường, bảo vệ, khuân vác vận chuyển đồ đạc cho đoàn xa giá từ
Tân Sở, Cam Lộ ngược lên Mai Lĩnh.
Khi ông phát động cuộc khởi nghĩa chống Pháp thì cả đồng bào
Tà Ôi và Vân Kiều đều tham gia tích cực và đều coi ông là thủ lĩnh, là
người của dân tộc mình.
Giặc Pháp biến cái đồn nhỏ ở biên giới Việt Lào của triều đình
mở rộng thành nhà tù Lao Bảo đày đọa những người chống Pháp chúng gọi
là “quốc sự phạm”. Già làng Côn Púa đã cùng đồng bào các dân tộc Tà Ôi,
Vân Kiều giúp đỡ anh em lương thực, quần áo chăm sóc người ốm. Bà con
còn đưa đường cho anh em tù "quốc sự phạm” sang tỉnh Savanakhét, nước
Lào.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), thực dân
Pháp tăng cường khai thác thuộc địa Việt Nam. Côn Púa đã chỉ huy đội vũ
trang sử dụng cung nỏ với những mũi tên tẩm thuốc độc tấn công giết sạch
một toán lính Pháp. Côn Púa biết bọn Pháp sẽ đến đánh báo thù, ông liền
huy động dân làng làm hầm chông, bẫy đá để diệt địch. Quân Pháp điều
quân từ Đông Hà, Quảng Trị tấn công vào các làng Tà Ôi, Vân Kiều. Giặc
đánh ráo riết. Côn Púa đưa dân làng vào rừng sâu dựng lũy cao, hào sâu làm
hầm chông, cạm bẫy đánh Pháp. Côn Púa cũng cho đồng bào phát nương
trên núi cao để sản xuất. Ông tập hợp các trai tráng thành đội vũ trang đánh
giặc. Côn Púa phát động đồng bào Tà Ôi, Vân Kiều đứng lên đánh Pháp
trên một vùng rộng lớn.
Cuộc kháng chiến chống Pháp của người Tà Ôi, Vân Kiều do
Côn Púa phát động từ Hướng Hóa lan nhanh tới A Lưới, đồng bào các dân
tộc ở dọc đường số 9, đến các xã miền núi huyện Bến Hải ngày nay. Đồng
bào người Việt ở Cam Lộ, Cùa cũng ủng hộ nghĩa quân Côn Púa.
Mãi đến ngày 9 tháng 3 năm 1945, khi già làng Côn Púa đã già
yếu nhưng vẫn là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa của đồng bào dân tộc Tà Ôi, thì
có những toán quân Pháp chạy vào rừng. Côn Púa lập tức đưa đội vũ trang
đến tiêu diệt toàn bộ toán quân Pháp thu vũ khí cùng quân trang.
Tháng 8 năm 1945, đúng vào ngày 24 tháng 8 khi Việt Minh
huyện Hướng Hóa lãnh đạo nhân dân tổng khởi nghĩa cướp chính quyền
huyện, thì già làng Côn Púa dẫn đầu đội vũ trang của đồng bào Tà Ôi được
trang bị cung, nỏ và súng cướp được của Pháp vượt rừng núi về tham gia
cướp chính quyền.
Cách mạng tháng Tám thành công, Côn Púa được bầu là Chủ
tịch Mặt trận Việt Minh huyện. Ông vận động nhân dân Tà Ôi, Vân Kiều,
Êđê trong huyện xây dựng cuộc sống mới, thành lập chính quyền cách
mạng lâm thời ở các xã. Toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946,
Hướng Hóa thành lập Đội biệt động đường 9. Côn Púa tuy đã già nhưng
vẫn cùng các chiến sĩ trong đội võ trang năm xưa truyền lại kinh nghiệm
xây dựng đơn vị, lập làng chiến đấu, chế tạo và sử dụng các loại chông, các
loại bẫy đá... để diệt giặc Pháp.
Năm 1947, Côn Púa quá già yếu (khoảng 78, 79 tuổi) đã mất.
Chính quyền cách mạng, Mặt trận Việt Minh huyện, lực lượng vũ trang và
nhân dân huyện Hướng Hóa vô cùng thương tiếc vị lão chỉ huy du kích
trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, cách biệt với thế giới bên ngoài vẫn cống
hiến cả cuộc đời dài 60 năm (1885 - 1947) cho cuộc kháng chiến chống
Pháp, cho độc lập của dân tộc.
(Theo Danh nhân Bình Trị Thiên - NXB Thuận Hóa).
NGUYỄN PHẠM TUÂN
Nguyễn Phạm Tuân sinh năm 1842 , người xã Tráng Tiệp, nay
thuộc xã Bắc Cử, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông thi Hương khoa
Quý Dậu, Tự Đức thứ 25 (1873). Ông được bổ làm Huấn đạo huyện Bố
Trạch, sau thăng tri huyện Tuyên Hóa, sau lại thăng Tri phủ Đức Thọ, tỉnh
Hà Tĩnh.
Ông là người nặng lòng yêu nước, đau buồn vì triều đình đầu
hàng, để mất lục tỉnh Nam Kỳ về tay Pháp. Tháng 8 năm 1883, triều đình
Huế lại ký Hiệp ước Hác Măng (Harmand), thực tế là văn tự bán nước.
Nguyễn Phạm Tuân treo ấn từ quan, buồn rầu về nhà tự tử.
Người nhà biết đã kịp thời cứu chữa được. Tháng 7 năm 1885 phe chủ
chiến đứng đầu là Binh bộ Thượng thư Tôn Thất Thuyết tấn công phủ
Khâm sứ và đồn Mang Cá. Song việc không thành, các ông đưa vua Hàm
Nghi ra sơn phòng Quảng Trị, nhà vua hạ chiếu Cần vương, Nguyễn Phạm
Tuân nhiệt liệt hưởng ứng mộ quân chống Pháp.
Tháng 10 năm 1885 vua Hàm Nghi phong cho ông chức Tán
tương quân vụ quân thứ Quảng Bình. Tháng 11 năm 1885, Nguyễn Phạm
Tuân hoạt động quân sự ở Quảng Bình, mạnh nhất là ở các huyện Quảng
Trạch, Tuyên Hóa, Bố Trạch.
Ông vốn là tâm đắc với Tôn Thất Thuyết, do đó Tôn Thất
Thuyết đã ủy thác cho ông nuôi Tôn Thất Trọng khi đó mới lên bảy tuổi,
nên Tôn Thất Trọng mang tên là Nguyễn Phạm Trọng. Vì vậy khi Tôn Thất
Thuyết phò vua ra sơn phòng Quảng Trị là ông hưởng ứng, mộ quân chống
Pháp. Tháng 10 năm 1885 vua Hàm Nghi phong cho ông chức Tán tương
quân vụ quân thứ Quảng Bình. Nguyễn Phạm Tuân cùng với Lê Trực là
người chỉ huy chiến đấu. Tháng 11 năm 1885, Nguyễn Phạm Tuân hoạt
động quân sự ở Quảng Bình, mạnh nhất là ở các huyện Quảng Trạch, Tuyên
Hóa, Bố Trạch.
Năm 1886, Tôn Thất Thuyết sang Trung Quốc cầu viện, đã ủy
thác cho ông nuôi giúp Tôn Thất Trọng là con nhỏ của mình khi đó mới 7
tuổi, bởi vậy Tôn Thất Trọng mới mang tên là Phạm Trọng. Ông giữ chức
Thượng tướng cùng Đề đốc Lê Trực và Tôn Thất Tiệp, Tôn Thất Đàm phò
vua đánh Pháp. Nguyễn Phạm Tuân lập căn cứ ở vùng rừng núi Tuyên Hóa.
Nghĩa quân của ông chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công oanh liệt. Có
trận ông chỉ huy nghĩa quân đột nhập vào thành Quảng Bình giết Bố chính
Nguyễn Đình Dương.
Ngày 8 tháng 4 năm 1887, lợi dụng tết Nguyên đán, quân ta mất
cảnh giác, tên Đại úy Mu tô (Mouteauz) chỉ huy đồn Minh Cầm (Tuyên
Hóa) đem lính đến vây làng Cổ Liễu nơi ông đóng quân (Văn thơ yêu nước
nửa sau thế kỉ XIX, NXB Văn học viết ông bị bắt ở làng Yên Ninh). Sáng
ngày 9 tháng 4 năm 1887, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, nghĩa quân dũng
cảm, tiêu diệt nhiều tên. Nhưng Nguyễn Phạm Tuân bị trọng thương và bị
sa vào tay giặc cùng với con nuôi là Nguyễn Phạm Trọng. Giặc lục soát thu
được cả ấn của vua Hàm Nghi ở nơi ông, chúng đưa ông về đồn Minh Cầm.
Giặc tìm mọi cách mua chuộc ông để hỏi chỗ ở của vua Hàm
Nghi, nhưng trước sau ông không chịu khai, chỉ chửi mắng giặc Pháp và lũ
người Việt làm tay sai cho giặc. Ông không chịu ăn uống, phun nhổ thuốc
vào mặt chúng. Ông làm câu đối tỏ rõ ý chí của mình:
BỊ ĐÃI THỜI TÁC
Sổ thế quân ân thù nhất tử,
Thập niên hoạn nghiệp túc tam sinh.
(Bài ngoại hịch truyện)
Dịch:
CÂU ĐỐI LÀM KHI BỊ BẮT
Ơn nước mấy đời, đền một chết.
Nghềquan mười tuổi, vạn ba sinh.
Đến nửa đêm 9 tháng 4 ông chết vì vết thương quá nặng. Giặc
Pháp vừa hèn hạ vừa tàn bạo ném xác ông xuống song. Một nghĩa quân đã
tìm xác vớt ông lên và đem chôn ở trên núi Yên Phong.
Còn Đồng Khánh, tên vua bán nước hèn hạ đã thưởng cho tên
giặc Pháp Mu tô một chiếc khánh vàng, còn lính Pháp, lính ngụy đi theo
đều được thưởng tiền.
Nguyễn Phạm Tuân không chỉ là một nhà giáo dục, nhà quân sự
mà còn là một nhà thơ, chúng tôi trích đăng bài: Đề miếu Nguyễn Biểu:
ĐỀ NGHĨA VƯƠNG MIẾU
Đông A nhật mộ khởi hoàng phân,
Mã sâu hoa nguyên thuộc gián thần.
Năng đạm nhân đầu năng đạm Phụ.
Thượng tồn ngô thiệt thượng tồn Trần.
Nhất thanh mạ tặc hưởng thiện địa.
Bát tư đề điều khấp quỷ thần .
Thê thảng Bình-Hồ thiên cổ miếu,
Y y chính khí dẫn thanh phân.
Hàm Nghi Ất Dậu xuân
(Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập IV. NXB Văn
hóa 1963)
Dịch thơ:
ĐỀ MIẾU NGUYỄN BIỂU
Đông A ngày tối đám mây vần,
Ngựa vượt đồng hoa cậy gián thần.
Hễ nuốt đầu người thì nuốt Phụ.
Hãy còn tấc lưỡi vẫn còn Trần.
Một câu chửi giặc vang trời đất,
Tám chủ đề cầu khóc quỷ thần.
Miếu cổ Bình-Hồ còn phảng phất,
Mùi thơm chính khí tỏa lâng lâng.
(Khương Hữu Dụng dịch)
(Nghĩa vương tức Nguyễn Biểu, người làng Bình-Hồ, huyện
Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh đời Trần Trùng Quang làm chức ngự sử được cử đi
sang gặp tướng nhà Minh là Trương Phụ đóng ở núi Thành (Nghệ An). Phụ
dọn cỗ đầu người. Ông lấy đũa khoét lấy con mắt ăn xong ra về. Phụ cho
lính đuổi theo, ông biết chắc sẽ bị giết, liền cầm bút viết 8 chữ: “Thất
nguyệt sơ nhất nhật Nguyễn Biểu tử - Ngày mồng một tháng bảy Nguyễn
Biểu chết" vào cột cầu, rồi trở lại mắng Trương Phụ trước khi bị giết.
Đông A tức nhà Trần do chữ Trần gồm một bên là bộ phụ của
chữ A và một bên là chữ đông.
Ngựa vượt đồng hoa: Ý nói đi sứ).
LÊ TRỰC
Lê Trực còn gọi là Lê Văn Trực, sinh năm Tân Sửu (1841), quê
làng Thanh Thủy, tổng Tuần Lễ, huyện Minh Chính, phủ Quảng Trạch, tỉnh
Quảng Bình. nay thuộc huyện Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình.
Năm Mậu Thìn, Tự Đức thứ 11 (1858), ông 28 tuổi, thi đỗ cử
nhân võ được sung vào Võ học đường học tập chờ khoa thi Hội. Năm Kỷ
Tỵ (1869). Tự Đức thứ 22, qua sát hạch ở Võ học đường ông được tham gia
Hội thí, đỗ thứ nhì, hạng thứ trúng cách, song vào thi Đình lại đỗ thứ ba,
được ban chức Đệ Tam giáp Tiến sĩ võ xuất thân. Trước năm 1882 từng giữ
chức Đề đốc Hộ thành Hà Nội.
Ngày 3 tháng 4 năm 1882 giặc Pháp do Henri Rivière chỉ huy đổ
bộ ra Hà Nội. Theo lệnh của Tổng đốc Hoàng Diệu. Lê Trực cùng các
tướng củng cố thành trì, cổng thành được thay bằng cánh mới bằng gỗ lim
dầy, tường thành được đắp cao từ 0,5 đến 2 mét.
Sau khi gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Hoàng Diệu không được
trả lời, 10 giờ ngày 25 tháng 4 năm 1882, Henri Rivière cho bắn đại bác
dồn dập vào thành rồi cho quân tấn công. Thành vỡ. Lê Trực lui về quê ở tại
Quảng Bình. Tại quê hương, ông vẫn nung nấu ý chí chống Pháp, bí mật
liên kết với những người yêu nước chuẩn bị vũ khí. lương thực đợi thời cơ
khởi nghĩa đánh Pháp.
Tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn chỉ huy
Phấn nghĩa quân tấn công đồn Mang Cá, Tòa Lãnh sự Pháp, khu nhượng
địa Pháp, nhưng việc không thành. Các tướng phải phò giá vua ra Quảng
Trị, nhà vua hạ chiếu Cần vương. Lập tức Lê Trực cùng các đồng chí hưởng
ứng, chiêu mộ quân dựng cờ khởi nghĩa kéo quân lên thượng nguồn sông
Gianh xây dựng căn cứ.
Lê Trực được vua Hàm Nghi phong là Đề đốc, cho dự việc quân
cơ với các đại thần. Ông vốn là người Quảng Bình, là Lãnh binh lại thông
thuộc địa hình vùng núi Quảng Bình nên được các đại thần giao cho việc
chỉ huy xây dựng các đồn trại.
Tháng 12/1885, sau khi quân Pháp chiếm được Vinh liền cho
quân ngược sông Ngàn Sâu tiến vào trung tâm kháng chiến của vua Hàm
Nghi. Lê Trực xin đem nghĩa quân đi đánh trận đầu với quyết tâm thắng lợi
để tăng sĩ khí cho quân ta và gây nỗi khiếp đảm cho quân Pháp.
Tháng 3/1886, Tôn Thất Thuyết sang Trung Quốc cầu viện, bên
cạnh vua Hàm Nghi chỉ còn Tôn Thất Đàm, Tôn Thất Tiệp, Lê Trực,
Nguyễn Phạm Tuân. Tình hình ở Quảng Bình hết sức khó khăn vì quân
Pháp đóng nhiều đồn bốt vây quanh căn cứ của vua Hàm Nghi. May sao khi
đó ở Bắc Kỳ, quân ta đánh mạnh, quân Pháp phải rút bớt lực lượng ở Trung
Kỳ ra Bắc. Nhân đó Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân đem quân vây hãm
Quảng Khê, Chợ Đồn, Đồng Hới. Song quân Pháp tuy lực lượng ít, nhưng
được trang bị vũ khí hiện đại, chống trả quyết liệt, nên nghĩa quân không
tiêu diệt được mục tiêu. Đến tháng 11/1886 nghĩa quân do Lê Trực, Nguyễn
Phạm Tuân chỉ huy đã đánh bật hai cuộc hành quân của quân Pháp vào
Nam Lưu.
Vua bù nhìn Đồng Khánh, tay sai đắc lực của thực dân Pháp sai
Hoàng Kế Viêm ra Quảng Bình dụ vua Hàm Nghi và các quan đầu hàng, bị
thất bại, tên đại úy Mutê chỉ huy đồn Minh Cầm viết thư dụ hàng Lê Trực
tới ba lần, đều bị Lê Trực vạch mặt là quân Pháp chia rẽ lương giáo.
Trong bức thư cuối cùng Mutê buộc Lê Trực đầu hàng không
điều kiện, nếu không sẽ bị bắn chết, Lê Trực khảng khái trả lời: "Tôi vì vua
vì nước sống chết một lòng chứ không dám vì tham sống mà quên nghĩa”.
Ngày 19/6/1887, Mu tê đánh úp căn cứ của Lê Trực ở vùng núi
Thanh Thủy vào ban đêm. Hầu hết các bộ tướng nghĩa quân như Phạm
Tường, thủ hạ số 1 của Lê Trực, cả vợ con Lê Trực cũng bị bắt. Lê Trực
chạy thoát vào ẩn náu trong rừng một thời gian.
Đối với những người bị bắt giặc đưa Phạm Tường về làng Thọ
Ngoã quê ông để hành hình, còn tất cả mọi người không kể lớn bé, già trẻ
đều bị giết ở Minh Cầm.
Lê Trực tập hợp được một số nghĩa quân tiếp tục chiến đấu, ông
không ở nơi nào cố định, xuất quỷ nhập thần đánh giết quân Pháp khiến cho
quân Pháp hoảng loạn..
Cuối năm 1887, đầu năm 1888, Tôn Thất Tiệp, Tôn Thất Đàm,
Lê Trực phá thế bao vây của giặc Pháp, đẩy mạnh các hoạt động quân sự ở
Hà Tĩnh, Quảng Bình. Cuối hè năm 1888 tình hình nghĩa quân Quảng Bình
được cải thiện. Nhưng ngày 1 tháng 11 năm 1888, tên Trương Quang Ngọc
và tên Nguyễn Đình Tình ở trong đội bảo vệ nhà vua làm phản đưa quân
Pháp vào bắt vua. Tôn Thất Tiệp cầm kiếm xông ra bị một tên giặc đâm lén
chết. Tôn Thất Đàm nhận được tin, họp các quan căn dặn các quan không
nên theo giặc rồi vào rừng thắt cổ tự tử.
Vua bị bắt, các đại thần bị giết hại, sự nghiệp không còn gì,
trong khi đó giặc vẫn giết hại nhân dân để truy bức ông. Cuối tháng 12 ông
tự ý ra cho giặc bắt để chúng khỏi giết hại nhân dân. Đồng Khánh và bọn
quan Nam triều muốn giết ông, nhưng thực dân Pháp muốn mua chuộc ông
nên giam giữ ông một thời gian rồi đưa về quê quản thúc.
BẠCH XỈ
Bạch Xỉ tên thực là Đoàn Chí Tuân, còn có tên là Đoàn Đức
Mậu, Bạch Xỉ chỉ là hiệu. Ông sinh năm 1855, người làng Hà Minh, huyện
Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh trưởng trong một gia đình trung
lưu, dòng dõi nho học, có truyền thống yêu nước.
Ông học giỏi nhưng không đi thi. Năm ông 17 tuổi (1873), giặc
Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất. Ông đã đi khắp các tỉnh, giao kết với bạn
bè đồng chí hễ có thời cơ là nổi dậy đánh đuổi giặc Pháp.
Năm 1885, ông 30 tuổi, khi vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn
phòng, hạ chiếu Cần vương, ông đến sơn phòng Hà Tĩnh đón xa giá vua để
phò vua giúp nước. Tôn Thất Thuyết không trọng dụng, ông liền về quê ở
Hòa Ninh mộ quân đánh Pháp. Chỉ trong vòng 2 tháng, ông mộ được 490
người. Điều đặc biệt là ông không như các sĩ phu khác nêu khẩu hiệu “Bình
Tây, sát tả”, coi đạo Thiên chúa cũng là kẻ thù, mà ông thực hiện đoàn kết
lương giáo. Trong đội quân của ông có 25 người theo đạo Thiên chúa. Ông
quyên tiền mua được 21 khẩu súng bắn nhanh, sản xuất 40 cung nỏ cùng
hàng trăm đao, kiếm, giáo mác, 22 ngựa chiến. Dân chúng ủng hộ lương
thực đủ nuôi quân trong 2 năm. Song địa thế ở Hòa Ninh trống trải lại bị tên
cố đạo cản trở, Bạch Xỉ phải chia quân làm ba bộ phận hợp tác với các thủ
lĩnh khác để chiến đấu. Trong 4 năm (1885-1888), nghĩa quân do ông tổ
chức. huấn luyện, trang bị vũ khí, cung cấp một phần quân lương ở cả ba
chiến trường đều chiến đấu dũng cảm gây cho quân Pháp và quân triều đình
Đồng Khánh bị tổn thất nặng nề. Do nghĩa quân Bạch Xỉ, Hoàng Phúc hoạt
động mạnh, gây cản trở làm cho cuộc Bắc du các tỉnh Bắc Huế của Đồng
Khánh khởi hành ở Huế ngày 17/6/1886 diễn ra một cách tẻ nhạt.
Hoàng Phúc hy sinh, Bạch Xỉ chỉ huy nghĩa quân cùng với nghĩa
quân do Nguyễn Hưng Vinh phối hợp với nghĩa quân Cao Thượng Chí và
nghĩa quân do Đinh Hiển chỉ huy phối hợp với nghĩa quân Mai Lượng chỉ
huy liên tiếp trong 2 năm 1887, 1888 đánh thắng quân Pháp nhiều trận.
Chỉ có Bạch Xỉ và nghĩa quân Hòa Ninh vẫn tiếp tục chiến đấu.
Ông thu thập số nghĩa quân Cao Thượng Chí và Mai Lượng, tuyển thêm
quân, được đồng bào ủng hộ trên 60 thúng lúa, ngô. Bạch Xỉ đem quân gia
nhập nghĩa quân Hương Sơn do Phan Đình Phùng chỉ huy. Nghĩa quân sáp
nhập vào nghĩa quân Hương Khê. Bạch Xỉ trở thành một bộ tướng bên cạnh
Cao Thắng, Nguyễn Chánh tại đại bản doanh.
Trong 2 năm (1888-1889) nghĩa quân Bạch Xỉ trong cuộc khởi
nghĩa Hương Khê đã đóng góp tích cực vào các trận chiến thắng của nghĩa
quân Hương Khê.
Bạch Xỉ nhiều lần đề nghị với Phan Đình Phùng lập vua mới để
kế tiếp vua Hàm Nghi. Phan Đình Phùng và các tướng cực lực phản đối.
Song ông vẫn kiên trì đề nghị trên và còn đề nghị liên kết lương giáo chống
Pháp. Phan Đình Phùng và các tướng nghi ngờ ông về lòng trung thành với
Tổ quốc. Bạch Xỉ bí mật rút hết quân sĩ về Đại Hàn, cố tìm người trong
Hoàng tộc để Tôn quân diệt địch, nhưng không tìm được. Ông lợi dụng sấm
Trạng Trình có câu: "Bạch Xỉ sinh, thiên hạ bình” và câu thơ truyền
miệng trong dân gian: Một lũ thày tăng (thằng Tây) ra trị nước, có ông
Bạch Xỉ mới nên đời, liền lên ngôi, hiệu là Long Đức hoàng đế; cắt đặt 28
thủ hạ vào các chức vụ của triều đình, gọi là nhị thập bát tú. Ông truyền
hịch kêu gọi nhân dân lương cũng như giáo mau mau đứng lên kháng chiến
cứu quốc.
Ông được một số người cả lương và giáo ở các huyện Hương
Khê, Hương Sơn, Kỳ Anh hưởng ứng, đưa số quân khi rút khỏi Hương Khê
có 450 người lên trên 600 người và ủng hộ lương thực. Bạch Xỉ đánh quân
Pháp ngay trên chiến trường do Phan Đình Phùng chỉ huy. Nghĩa quân Bạch
Xỉ đã đánh thắng quân Pháp nhiều trận, tiêu biểu như:
- Giữa tháng 5/1892 nghĩa quân phục kích đoàn vận tải từ Minh
Cầm lên đồn Tri Bản và Hương Khê ở tả ngạn sông Ngàn Xâu. Đội quân
cung nỏ bắn chặn bọn lính khố xanh đi đầu và đi cuối. Đội nghĩa quân ở
trên cao nổ súng uy hiếp để đội quân ở giữa dùng đoản đao, mã tấu chém
giết bọn lính vận tải. Bạch Xỉ còn bố trí một đội quân chặn viện từ đồn Tri
Bản lên. Kết quả bọn địch bị chết và bị thương gần hết, nghĩa quân thu 9
súng, 15 hòm đạn, 12 gánh quân lương.
- Tháng 1/1893 nghĩa quân phục kích toán lính khố xanh đi chợ
Phiên Un, diệt gọn, thu 7 súng, nhiều gánh hàng.
- Tháng 6/1894, giữa mùa nắng, gió Tây Nam thổi mạnh. Đang
đêm nghĩa quân đem quân đốt hàng rào, gió thổi vào đồn cháy nhà cửa và
bắn súng vào. Bọn giặc bị chết bỏng và trúng đạn rất nhiều.
Ngày 18/12/1895, Phan Đình Phùng mất sau khi bị thương trong
một trận đánh, giặc Pháp tổ chức các trận đánh lớn vào căn cứ Hương Khê
để bắt các tướng lĩnh và nghĩa quân, Bạch Xỉ tổ chức một số trận đánh, thu
hút hỏa lực về phía mình. Tháng 3/1895, Bạch Xỉ chỉ huy quân tấn công
đồn Tri Bản, đặt hầm chông, quân giặc đuổi theo, sa xuống hầm chông bị
chết và bị thương một số.
Tháng 5/1896 , giặc Pháp cơ bản đàn áp xong cuộc khởi nghĩa
Hương Sơn, tập trung toàn bộ quân lực đánh Bạch Xỉ. Chúng bắt trói Bạch
Xỉ khiêng về nhà lao Vinh dụ dỗ không được chúng tra tấn ông đến chết ở
nhà lao Vinh vào cuối năm 1897.
Bạch Xỉ anh dũng hy sinh năm 42 tuổi, đã cống hiến cả cuộc đời
cho Tổ quốc.
Ngoài ra, Bạch Xỉ còn là một nhà thơ. Thơ của ông được giới
thiệu cùng tiểu sử trong tập "Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX” và
sách “Hợp tuyển thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX”, trong tập “Thi văn
các nhà chí sĩ Việt Nam” của Phi Bằng, NXB Tâm Thanh Huế (1934).
HOÀNG THỊ TÁM
Hoàng Thị Tám là con gái ông Hoàng Văn Phúc một thủ lĩnh
nghĩa quân chống Pháp ở Nam Quảng Bình. Tuy ít tuổi nhưng nhờ giỏi võ,
mưu lược, cô trở thành một tham mưu tài giỏi của cha. Khi ra trận cô luôn
đi hàng đầu, làm gương cho quân sĩ. Ông Hoàng Phúc hy sinh, nghĩa quân
tan rã. Hoàng Thị Tám càng nung nấu chí căm thù giặc Pháp quyết trả thù
cho cha và nghĩa quân đã hy sinh. Tới Hà Tĩnh cô thuê một căn nhà mở cửa
hàng bán than tìm cách liên lạc với nghĩa quân Phan Đình Phùng.
Trong khi chưa tìm được chủ soái, cô nghĩ mình xa lạ, lại là
phận gái không thể đứng ra chiêu tập nghĩa quân được, song cô có cách
đánh riêng đó là làm binh vận. Cô gặp gỡ lính tập, trò chuyện, còn đãi đằng
rượu thịt chúng, cô khơi gợi tình nghĩa vợ con, làng xóm đang phải sống
lầm than, đất nước thì chìm đắm trong vòng nô lệ. Vậy ai gây nên cảnh đó,
chính là giặc Pháp và vua quan bán nước. Cô khuyên họ bỏ súng về nhà,
nếu có điều kiện thì đem súng lên rừng tham gia kháng chiến chống Pháp.
Thấy cô qua lại trò chuyện, lại đãi đằng cả rượu thịt cho lính tập, dân phố tỏ
ý khinh cô ra mặt. Song Tám vẫn bền lòng cam chịu chờ đến thời cơ. Lòng
kiên trì của Tám đã đem lại kết quả là một số lính bỏ về quê quán, số khác
đem súng lên rừng theo nghĩa quân. Số còn lại không chịu đi tập, đi hành
quân đánh nghĩa quân. Giặc đổi số lính tập đó đi nơi khác, cho mật thám
theo dõi Tám. Cô liền thuê thuyền tới Hương Sơn nơi có căn cứ của cụ
Phan Đình Phùng. Phan Đình Phùng đã biết đến cô gái cắp gươm theo hầu
cha từ năm trước khi ông vào gặp tướng Hoàng Phúc. Nhưng vốn là người
thận trọng, cụ Phan cho rằng nếu chỉ có lòng căm thù giặc thì chưa thể đánh
thắng giặc được, mà phải có tài cầm quân, có mưu lược, nên lưu cô lại đại
bản doanh chờ thử thách.
Dăm ngày sau, người chỉ huy đội tuần tra về bẩm báo với Phan
Đình Phùng là có khoảng 30 lính tập, vũ trang đầy đủ do một viên quản chỉ
huy đến đóng ở ngôi miếu cách căn cứ khoảng 30 dặm. Hoàng Thị Tám
tình nguyện xin đi bắt sống bọn lính đó, không tốn một viên đạn, chỉ xin
đến ngày thứ ba ông Phan cho 20 nghĩa quân đem thừng đến miếu trói giặc.
Tám rời căn cứ, đến cái chợ cách miếu khoảng mươi dặm, cô vào chợ mua
quang gánh, nồi niêu, bát đĩa, rượu thịt. Ngay sau đó cô gánh hàng đến gốc
đa gần ngôi miếu nơi bọn lính trú quân. Cô bán rẻ, lại nói cười có duyên
nên chúng hả lòng, hả dạ. Hôm sau bọn chúng kéo đến đông hơn và đích
thân tên quản bảo sáng mai cô đem nhiều rượu thịt vào hẳn trong miếu bán
cho chúng. Đúng hẹn, Tám gánh hàng đến, nhưng chúng không thể ngờ
rượu đã được bỏ thuốc mê. Cô vừa tới bọn lính đã xúm xít đứa dắt tay đứa
kéo cô vào trong miếu. Cô Tám rót rượu cho tất cả mọi đứa, không bỏ sót
một ai. Nhưng chỉ đến chén thứ ba, có đứa chưa hết chén thứ hai đã ngấm
thuốc, đứa nằm, đứa ngồi gục đầu xuống gối ngủ mê mệt. Chính lúc đó 20
nghĩa quân xuất hiện trói chúng thu súng, dội nước lã cho chúng tỉnh rồi áp
giải về căn cứ. Phan Đình Phùng đã khen ngợi cô và giao cho cô chỉ huy
đội nữ trinh sát địch vận.
Khi đó Cao Thắng chế tạo được rất nhiều súng bắn nhanh theo
kiểu 1874, Reminton của quân Pháp, song thuốc đạn thì hiếm. Hoàng Thị
Tám lãnh trách nhiệm sang Xiêm La mua thuốc súng. Cô cùng đội nữ trinh
sát, địch vận chuyển nhiệm vụ gánh muối, cá khô, quế thanh sang Xiêm
bán, và nhờ những người Việt yêu nước ở Xiêm La mua thuốc súng để đội
của cô chuyển về. Trong mấy năm đội của Tám đã chuyển về nước tới năm,
bẩy ngàn cân thuốc súng cùng hàng ngàn hạt nổ.
Sau khi Cao Thắng hy sinh được ít lâu thì Phan Đình Phùng bị
thương rồi mất, từ đó không ai biết cô Hoàng Thị Tám ở đâu, có người nói
cô phẫn uất, lâm bệnh chết trong rừng, có người nói cô ở lại Xiêm. Nay thị
xã Đồng Hới có một đường phố mang tên cô Tám.
PHAN ĐÌNH PHÙNG
Phan Đình Phùng tự là Nhân Trai, hiệu Châu Phong sinh năm
Giáp Thìn (1844). Ông người làng Đông Thái, tổng Việt Yên, huyện La
Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, nay là xã Đức Phong, huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng, nhiều
người đỗ đạt cao. Ông là người hiếu học, thông minh, đậu cử nhân khoa
Bính Tý (1876), đậu Đình nguyên Tiến sĩ khoa Đinh Sửu (1877). Sơ bổ làm
Tri huyện huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Năm Tự Đức thứ 31 (1878)
ông về Kinh đô Huế sung chức Ngự sử Đô sát viện.
Tính tình ông thẳng thắn, nhưng yêu nước thiết tha, nên từ chức
Ngự sử Hình khoa chưởng ấn trong triều, ông về Hà Tĩnh chỉ giữ chức
Tham biện sơn phòng dưới quyền chánh quản sơn phòng Nguyễn Chính,
phó quản sơn phòng Phan Trọng Mưu, nhưng vẫn dốc lòng làm hết phận sự.
Được sự tham mưu của Phụ chính Đại thần Tôn Thất Thuyết
tháng 11/1884 , vua Hàm Nghi đã ban dụ cho củng cố sơn phòng Hà Tĩnh,
ông được phục chức rồi bổ làm Tham biện sơn phòng Hà Tĩnh. Phan Đình
Phùng còn chiêu mộ dân địa phương chế tạo cung nỏ, tên tẩm thuốc độc,
còn cùng Chánh, phó sơn phòng sứ đặt thêm chức Nha sơn phòng sứ ở
Đông Chi thuộc huyện Hương Sơn.
Phan Đình Phùng một lòng vì nước, vì dân đặt lợi ích của Tổ
quốc lên trên hết. Khi vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị, ông
đến bái yết, được phong làm Tán lý quân vụ coi các nghĩa quân chống Pháp
ở Nghệ An - Hà Tĩnh. Ông theo lời Tôn Thất Thuyết đứng lên mộ quân
chống Pháp và lãnh trọng trách thống nhất các lực lượng nghĩa quân. Ông
dựa vào địa hình rừng núi suối ngòi ở xã Đông Thái, Hương Sơn (Vụ
Quang) một vùng rừng núi quanh co, hiểm trở lập căn cứ chống Pháp lâu
dài.
Phan Đình Phùng tổ chức nghĩa quân làm 15 quân thứ, mỗi quân
thứ có từ 100 đến 600 nghĩa quân. Đại đồn Vụ Quang, nơi đóng đại bản
doanh của nghĩa quân, nơi làm việc của Tán lý Phan Đình Phùng thường
xuyên có 500 quân trở lên.
Phan Đình Phùng không dựa vào đồn luỹ để cố thủ mà dựa vào
sự hiểm trở của núi rừng sông suối, xây dựng trận địa. Nghĩa quân phối hợp
việc đánh địch tại căn cứ với việc tập kích, phục kích giặc, phát động phong
trào toàn dân đánh giặc.
Ngay từ buổi đầu kháng chiến, ông đã nhận thức muốn chống
Pháp thuận lợi phải có sức mạnh toàn dân. Vì vậy sau khi đưa tổ chức nghĩa
quân của Nghệ - Tĩnh vào nề nếp, ông giao cho Cao Thắng - một viên
tướng trẻ nhưng có năng lực tiếp tục củng cố lực lượng kháng chiến, tổ
chức các cuộc chiến đấu ở Nghệ Tĩnh, còn ông ra Bắc vận động các lực
lượng chống Pháp thống nhất hành động.
Năm 1888, Phan Đình Phùng ở Bắc về trực tiếp lãnh đạo phong
trào. Thanh thế của nghĩa quân Phan Đình Phùng ngày càng lớn mạnh.
Năm 1889, Phan Đình Phùng bắt tên phản bội Trương Quang
Ngọc kẻ đưa đường cho giặc Pháp bắt vua Hàm Nghi, về trị tội.
Tháng 10/1894, với kế " Sa nang úng thủy", nghĩa quân đã làm
cho 3 sỹ quan Pháp và nhiều binh lính Pháp, lính Nam bị nước cuốn trôi
mất xác. Không tiêu diệt được bằng quân sự. tháng 5/1894, Toàn quyền La
nét xăng (Lanessen) sai Hoàng Cao Khải viết thư cho người đem đến dụ
ông hang, song không được, chúng lại bắt thân nhân quật mả tổ tiên của
ông, ông vẫn không nản. Giặc cho tên Tiễu phủ sứ Lê Kinh Hạp đến để bắn
giết người anh ruột của ông là Phan Đình Thông. Ông khẳng khái nói: Nay
tôi chỉ có một ngôi mộ to nên giữ là nước Việt Nam, tôi chỉ có một ông anh
rất to đang bị lâm nguy là mấy triệu đồng bào. Nếu về mà sửa sang lại
phần mộ của tổ tiên riêng mình thì ngôi mộ của cả nước kia ai giữ? Về để
cứu sống ông anh của riêng mình, thì còn bao nhiêu anh em trong nước ai
cứu?
Phan Đình Phùng vẫn quyết tâm kháng chiến một lòng, một dạ
vì dân, vì nước. Đến cuối năm 1895, ông bị thương trong một trận giao
chiến đẫm máu với quân Pháp, lại mắc bệnh lị nặng. Biết mình không qua
khỏi, ông làm bài thơ tuyệt mệnh:
LÂM CHUNG THỜI TÁC
Nhung trường phung mệnh tập canh đông
Vũ lược y nhiên vị tấn công
Cùng lộ ngao thiên nan trạch nhạn.
Phỉ đồ biến địa thượng dồn phong,
Cửu trùng xa giá quan sơn ngoại,
Tứ hải nhân dân thuỷ hoả trung,
Trách vọng dũ long ưu dũ đại
Tướng môn thâm tự quý anh hùng.
Dịch thơ:
Nhung trường vâng mệnh đã mười đông
Vũ lược còn chưa lập được công.
Dân đói kêu trời xao xác nhạn
Quân gian chật đất rộn ràng ong.
Chín lần xa giá non sông cách,
Bốn bể nhân dân nước lửa nồng,
Trách nhiệm càng cao, càng nặng gánh
Tướng môn riêng thẹn mặt anh hùng.
(Trần Huy Liệu dịch)
Phan Đình Phùng mất ngày 28 tháng 12 năm 1895 khi mới 49
tuổi.
CAO THẮNG
Cao Thắng sinh năm 1864 người thôn Yên Đức, xã Tuần Lễ
(nay thuộc xã Sơn Lễ, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh). Giặc Pháp xâm
lược, ban đầu vào năm 1874 ông tham gia cuộc khởi nghĩa do Trần Quang
Cán lãnh đạo, sau sáp nhập vào lực lượng của Trần Tấn, Đặng Như Mai.
Năm 1885 Phan Đình Phùng hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm
Nghi khởi nghĩa, thì Cao Thắng cùng với em trai là Cao Nữu, bạn là
Nguyễn Kiểu chiêu mộ quân về theo. Ba người chiến đấu xuất sắc, lập được
nhiều chiến công, đều được phong là Quản cơ. Khi Phan Đình Phùng ra
Bắc liên minh với các thủ lĩnh ở Bắc Kỳ đã giao cho Cao Thắng phát triển
lực lượng ở Nghệ - Tĩnh. ông đã cùng Cao Nữu, Nguyễn Niên, Nguyễn
Kiểu về ẩn phục trong rừng thuộc làng Lê Đông, huyện Hương Sơn. Từ đây
các ông toả đi các huyện chiêu nạp quân sĩ đưa về rừng Lê Đông huấn
luyện quân sự. Cao Thắng còn cướp súng giặc làm mẫu để chế tạo ra hàng
loạt súng kiểu 1874 của Pháp. Bấy giờ quân Pháp mới đóng đồn ở Hạ Trại,
đồn còn đóng tạm, chưa có hào. Cao Thắng, Cao Đạt bàn kế hoạch đánh
chụp (đánh úp) để cướp súng. Hai ông đem 40 nghĩa quân, trang bị đoản
đao, lợi dụng trời tối đột nhập vào đồn, giết và làm bị thương hơn 20 tên,
cướp được 24 khẩu súng và mấy ngàn bạc. Nhưng muốn đánh thắng giặc
thì phải có nhiều súng vì thế phải chế tạo lấy súng đạn. Cao Thắng cho
người về làng rèn Trung Lương, huyện Can Lộc đưa 16 thợ rèn giỏi về căn
cứ tìm cách chế tạo ra súng đạn. Mặc dù súng do các ông chế tạo không
hoàn hảo song cũng có thể dùng được. Thâu ngày thâu đêm các ông làm
gấp được 500 khẩu sung (Theo báo cáo của Lenormaud: "Có đến 1200-
1500 khẩu súng do Cao Thắng sản xuất đã được nghĩa quân Phan Đình
Phùng sử dụng năm 1895. Nếu kể cả súng bị huỷ hoại do các xưởng chế tạo
của Cao Thắng bị quân Pháp tiến đánh thì có thể đã có nhiều ngàn súng
kiểu Tây được sản xuất như vậy rồi").
Từ khi chế được một ít súng, thanh thế của nghĩa quân Cần
vương ở Nghệ Tĩnh ngày một mạnh.
Cao Thắng bố trí quân chặn đánh quân Pháp và quân triều đình
ở Tĩnh Di. Đến bốn giờ chiều Cao Thắng thấy quân Pháp và quân triều đình
đã mệt mỏi và có ý khinh thường, dàn quân ra mai phục ở giữa rãnh đồng
khoai. Ông lấy đội quân tính nhuệ ra khỏi tầm đạn của địch. đi vòng ra phía
cạnh sườn phải của quân địch. Đội quân của chính phủ đương khi bất ý,
nghe thấy tiếng súng liên thanh đổ vào cạnh sườn mình, nghe thấy tiếng nổ
hình như ở bên lỗ tai. Đột nhiên tiếng người kêu cứu, tiếng người rên thở
rầm rĩ cả lên. Quân chính phủ bị chết và bị thương lên đến hơn 50 người.
Quân sĩ lộn xộn, tinh thần chiến đấu không còn, thấy vậy mấy viên mẫu
binh (sĩ quan Pháp) cho thổi kèn, quân sĩ vội vàng tháo lui chẳng theo hàng
lớp gì.
“Thấy quân địch lộn xộn rút lui nên quân ở trận tuyến chính
cũng nhẩy lên tấn công. Đạn ở mặt trước bắn sang, đạn ở mặt sườn bắn lại,
hai bên đều giáp công, quân chính phủ rút lui rất vất vả.
Nhờ có trận đánh đó lòng sốt sắng của nhân dân lại hưởng ứng
lên nhiều và danh tiếng ông Cao Tất Thắng cũng thêm lừng lẫy” (Nguyễn
Phan Quang, bài Cao Thắng chế tạo súng kiểu Tây. Nghiên cứu lịch sử số
291 (3, 4/1997). Nguyễn Phan Quang chỉ viết trận này xảy ra vào năm Kỷ
Sửu (1889), không viết rõ ngày tháng).
Năm 1892, Cao Thắng dùng mưu bắt sống Tuần vũ Đinh Nho
Quang làm chấn động dư luận Nghệ Tĩnh.
Ngày 14 tháng 10 năm Quý Tỵ, tức ngày 21 tháng 11 năm 1893
, Cao Thắng tình nguyện dẫn đội quân cảm tử tấn công xuống Nghệ An, đốt
phá nơi đóng quân, kho tàng của địch để gây thanh thế cho nghĩa quân. Sau
khi chiếm được mấy đồn, đến đồn Nu, nay thuộc xã Thanh Xuân huyện
Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, ông hăng hái dẫn đầu đoàn nghĩa quân xông
lên bị tên Phiến bắn ông bị trọng thương rồi hi sinh năm ông mới 29 tuổi.
Tại làng Khê Thượng, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh nhân dân lập đền thờ
Cao Thắng.
LÊ NINH

Lê Ninh, vì là con quan nên còn gọi là Ấm Ninh, hiệu Mạnh


Khang sinh năm 1857. Ông là con quan Bố chính Lê Kiêm, người xã Trung
Lễ, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, nay là xã Đức Trọng, huyện Đức Thọ tỉnh
Hà Tĩnh.
Lê Ninh lớn lên trong lúc giặc Pháp đưa quân ra đánh chiếm
Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Với chí khí đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi,
khôi phục chủ quyền đất nước. Lê Ninh không học lối khoa cử thi đỗ làm
quan mà ông chỉ ham tập võ nghệ, đọc binh thư để sau này cứu nước. Ngay
từ khi giặc Pháp chưa đánh Bắc Kỳ lần thứ hai (1882). Lê Ninh đã lặng lẽ
chuẩn bị kháng chiến, đem của cải trong nhà ra chiêu mộ hào kiệt các nơi,
sắm sửa vũ khí, mua ngựa chiến, luyện quân, biến nhà mình thành đại bản
doanh của nghĩa quân, lập căn cứ ở làng Trung Nghĩa, xã Cổ Ngư.
Khoảng tháng 9 năm 1885, sau hơn một tháng kể từ ngày Tôn
Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn tấn công Toà Khâm sứ Pháp, đồn Mang Cá,
Khu nhượng địa Pháp ở Kinh thành Huế (đêm 4 rạng ngày 5/7/1885) không
thành. Tôn Thất Thuyết rước vua ra sơn phòng Quảng Trị, hạ chiếu Cần
vương. Lê Ninh đem quân xuống đánh tỉnh thành Hà Tĩnh, giết Bố chính Lê
Đại là kẻ theo Pháp (Lê Đại người xã Phan Xá, huyện Phong Doanh, nay là
huyện Lệ Ninh, tỉnh Quảng Bình, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Kỷ Tỵ, Tự Đức 22 (1869) làm Bố chánh Hà Tĩnhh. Khi vua Hàm
Nghi hạ chiếu Cần vương, Đại cùng quan văn, quan võ tỉnh Hà Tĩnh đều
theo nghĩa quân. Nhưng sau phản lại theo quân Pháp và vua Đồng Khánh
phản công nghĩa quân. Lê Đại bị Lê Ninh giết trong trận đánh thành Hà
Tĩnh).
Đánh xong ông thu chiến lợi phẩm rồi lên sơn phòng Hà Tĩnh
yết kiến vua Hàm Nghi. Vua phong ông làm Bang biện quân vụ phối hợp
với Phan Đình Phùng xây dựng căn cứ chống Pháp ở Trung Lễ. Quân Pháp
cùng tên tay sai Nguyễn Thân đem quân đến triệt hạ làng Trung Lễ, tàn sát
người già. trẻ em (Nguyễn Thân tay sai đắc lực của thực dân Pháp người
huyện Mộ Đức tỉnh Quảng Ngãi). Lê Ninh lên vùng Bạch Sơn phối hợp với
nghĩa quân Phan Đình Phùng giết giặc. Lê Ninh chiến đấu kiên cường dũng
cảm. Ở căn cứ ông còn làm nhiều thơ phú ca ngợi cảnh đẹp của đất nước và
chiến công tố cáo tội ác của giặc Pháp. Sau đây là bài Tự vịnh.
TỰ VỊNH
Hồi ức tiền niên nhập Tĩnh thành
Bồi hồi ngũ dạ quý hư danh.
Tâm phao vạn tuyến cương thường trọng
Thân lịch thiên trùng chương vụ khinh
Đãi đán hữu hoài phù địa trục,
Chẩm qua khả tất yết thiên kinh.
Thuỷ chung hoà tự hoàn ngu tống.
Lam thuỷ, Hồng Sơn thệ thử sinh.
(Tuyển tập thơ văn Việt Nam tập IV, NXB
Văn hoá. 1953)
Dịch thơ.
Nhớ lại năm qua lấy Tĩnh thành.
Suốt đêm khắc khoải thẹn hư danh
Lòng vò trăm mối cang thường trọng
Thân trải muôn trùng chướng khí khanh
Trục đất ước xang chờ sáng gấp,
Đạo trời muốn tỏ gối gươm linh
Chứ hoà ngu cả tôi vua Tống
Thề với Hồng Lam trọn kiếp mình.
(Khương Hữu Dụng dịch)
Năm 1887, Lê Ninh ốm mất tại căn cứ. Nghĩa quân sợ quân giặc
trả thù đào mả, đem thi hài ông chôn giấu ở bãi dâu quê vợ ông ở làng Phục
Hậu, huyện Hưng Nguyên. Em trai và các con ông là Lê Khai, Lê Phác,. Lê
Trực thay ông chỉ huy nghĩa quân trong cuộc khởi nghĩa của Phan Đình
Phùng.
PHAN ĐÌNH THÔNG
Phan Đình Thông là con ông Phan Đình Tuyển, ông Tuyển có
hai bà, bà cả sinh ra Phan Thị Đạt, Phan Đình Thông, Phan Đình Thuật,
Phan Đình Tuấn, Phan Đình Phùng, Phan Đình Vận. Phan Đình Thông đỗ
tú tài. Quê ở làng Đông Thái nay là xã Đức Phong, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà
Tĩnh.(Phan Đình Thông đã dỗ cử nhân, Phan Đình Tuấn mất sớm, Phan
Đình Phùng đỗ Đình nguyên tiến sĩ. Phan Đình Vận đỗ phó bảng).
Ông là người nuôi Cao Thắng làm con nuôi, dạy cho Cao Thắng
võ nghệ và lòng yêu nước. Trong thời gian làm con nuôi Phan Đình Thông,
Cao Thắng đi học nghề rèn, nhờ đức tính cần cù và sáng dạ, Cao Thắng trở
thành một thợ cả tài giỏi, nổi tiếng trong vùng.
Năm 1885, khi Phan Đình Phùng hưởng ứng chiếu Cần vương
của vua Hàm Nghi chiêu tập nghĩa quân đánh Pháp thì Phan Đình Thông và
con nuôi đều tham gia. Phan Đình Phùng xây dựng Đông Thái thành một
đại đồn. Quân Pháp và Hoàng Cao Khải đưa đại quân đến đánh. Phan Đình
Thông cùng em vượt vòng vây. Phan Đình Phùng về căn cứ Hương Sơn,
huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, Phan Đình Thông đem quân đóng ở huyện
Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Cuối năm 1886, ông đóng quân ở đồn binh
tại huyện Thanh Chương thì bị một tên thủ hạ làm phản nửa đêm thừa lúc
ông đang ngủ dẫn đường cho quân Pháp bao vây căn cứ. Phan Đình Thông
chỉ huy quân sĩ đánh trả, song quân Pháp bao vây chặt căn cứ, nghĩa quân
chống trả một cách yếu ớt rồi chạy toán loạn, Phan Đình Thông bị giặc bắt.
Theo lệnh tên đại Việt gian Hoàng Cao Khải, Tổng đốc Nguyễn
Chính cùng Tiễu phủ sứ Lê Kính Hạp định dùng ông làm con tin để chiêu
dụ Phan Đình Phùng ra hàng. Trong một bức thư gửi Phan Đình Phùng,
Tiễu phủ sứ Lê Kính Hạp dùng lời doạ dẫm: “…Ngày nay trong họ hàng
làng xóm được an hay nguy chỉ can hệ ở nơi bác, tính mạng ông anh bác
mất hay còn, cũng chỉ can hệ ở nơi bác...”.
Phan Đình Phùng hy sinh tình cảm riêng của gia đình, đặt lợi ích
của Tổ quốc lên trên hết đã khẳng khái bảo: "Nay ta chỉ có một ông anh rất
to đang bị nguy vong là cả mấy triệu đồng bào... Ta bây giờ thì chỉ có một
cái chết mà thôi”. Ông nhắn với người đưa thư về nói lại với Lê Kính Hạp:
"Nếu ai có làm thịt anh ta, nhớ gửi cho ta bát nước canh!”.
Bọn Nguyễn Chính, Lê Kính Hạp đã theo lệnh giặc Pháp và tên
đại Việt gian Hoàng Cao Khải giết hại Phan Đình Thông. (Đào Trinh Nhất:
Phan Đình Phùng. Tân Việt, Sài Gòn 1950 - Nhìn lại lịch sử của Phan Duy
Kha).
ĐỘI QUYÊN
Đội Quyên tên thật là Lê Quyên, còn gọi là Lê Văn Quyên hiệu
Đại Đẩu sinh năm 1859 tại làng Nội Yên nay thuộc xã Đa Phúc, huyện Đức
Thọ, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình làm ruộng và thợ rèn. Ông cũng là
một thợ rèn giỏi đã chế tạo được súng kíp.
Năm 1885, Lê Quyên tham gia cuộc khởi nghĩa do Lê Ninh,
người La Sơn, Hà Tĩnh lãnh đạo. Năm 1887, Lê Ninh mắc bệnh qua đời ở
ngay căn cứ Cổ Ngư, Lê Quyên cùng với Lê Phất người làng Trung Lễ còn
gọi là Kiểm Phất cùng các em Lê Ninh là Lê Khai, Lê Phác, Lê Trực gia
nhập nghĩa quân Phan Đình Phùng.
Tướng quân Phan Đình Phùng biết hai ông Lê Quyên, Lê Phất là
thợ rèn giỏi liền phân công về xưởng sản xuất vũ khí do Cao Thắng phụ
trách. Lê Quyên đã cùng với Cao Thắng nâng cao chất lượng súng trường
bắn nhanh theo mẫu súng 1874 của Pháp mà Cao Thắng đã sản xuất từ
trước. Lê Quyên đã cùng Cao Thắng phải tôi thép qua nhiều công đoạn.
Nòng súng được chế tạo bằng hai cách là dùng thép cây dựng ngược dùng
sức nước khoan theo phương pháp cổ truyền. Phương pháp thứ hai được các
ông sáng tạo là dát thép mỏng thành thép tấm nung đỏ quấn lại rồi rèn. Tuy
vậy nòng súng các ông chế vẫn không làm được rãnh xoắn như của Pháp.
Với phương pháp sản xuất thủ công và trí tuệ, những người thợ
rèn của nghĩa quân Phan Đình Phùng đã chế tạo ra hàng trăm khẩu súng
trường kiểu 1874. Lê Quyên được phong chức đội.
Ngày 21/11/1893, Cao Thắng bị trọng thương rồi hy sinh trong
trận đánh đồn Nu (nay thuộc xã Xuân Thành, huyện Thanh Chương, tỉnh
Nghệ An), thì Đội Quyên là người quản đốc sản xuất vũ khí, Lê Phất là trợ
thủ của ông. Trong trận đánh đồn Quả Cảm năm 1895, Lê Phất hy sinh, một
mình Đội Quyên phải gánh vác công việc sản xuất, sửa chữa vũ khí cung
cấp cho nghĩa quân. Ông còn phải tổ chức một đội quân mạnh để bảo vệ
xưởng sản xuất vũ khí.
Ngày 28/12/1895, thủ lĩnh Phan Đình Phùng mất vì bị bệnh
nặng ở căn cứ. Quân Pháp thừa cơ đánh phá căn cứ. Đội Quyên cho chôn
giấu các bán thành phẩm vũ khí, đốt xưởng rồi dẫn quân ra Đông Thành
(Nghệ An) cùng Lãnh Ngợi tập hợp nghĩa quân tập kích các đồn binh Pháp,
trừng trị bọn tay sai, bán nước.
Khi Lãnh Ngợi hy sinh. Đội Quyên đã về Hà Tĩnh theo Lãnh
binh Ngô Quảng nhưng không gặp. Ông ra Nam Đàn, Nghệ An tìm Phan
Bội Châu. Ông Phan thấy ông là người có tài năng về quân sự, phân công
ông gây dựng cơ sở chống Pháp ở Nam Đàn. Tại đây ông được sự giúp đỡ
nhiệt tình của tú tài Hoàng Xuân Hành, cử nhân Vương Thúc Quý, đặc biệt
là của cô Nguyễn Thị Thanh. Khi giặc Pháp truy lùng hai ông gắt gao nhất,
cô Thanh đã đưa hai ông về nhà mình ở Kim Liên ẩn náu. Cô còn tìm nơi
an toàn, bố trí người canh gác để ông mở lớp dạy võ cho thanh niên.
Trong chuyến Đội Quyên về huyện Quỳnh Lưu vận động cách
mạng thì bị giặc Pháp bắt. Bọn Pháp chưa biết ông là Đội Quyên - một
người gây cho quân Pháp bao nỗi kinh hoàng nên chỉ giam tạm ở đồn Can
Lộc. Ông đã thuyết phục viên quyền trưởng đồn cho mình trốn thoát.
Năm 1904, Lê Quyên có mặt trong ngày thành lập hội Duy tân ở
Quảng Nam do Phan Bội Châu, Nguyễn Thành chủ trương. Dự Hội nghị
xong ông được phân công trở về Nghệ An làm công tác vận động tài chính
cho hội, để đưa thanh niên đi Đông du.
Năm 1905, Đội Quyên cùng Tú Ngô, Giám Hành tức Hoàng
Xuân Hành, người làng Hoàng Trù, huyện Nam Đàn, cử nhân Vương Thúc
Quý người làng Kim Liên, cô Nguyễn Thị Thanh phát động phong trào Cần
vương trong huyện. Lê Võ thực hiện chủ trương của Phan Bội Châu đã ra
Bắc, lên Yên Thế thoả thuận với thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám lập "đồn điền
Tú Nghệ" ở Phồn Xương, đồng thời phát động phong trào chống Pháp ở
Nghệ An, Hà Tĩnh để phối hợp với Yên Thế chống Pháp. Làm xong nhiệm
vụ này, Đội Quyên về Nghệ An xây dựng căn cứ Bố Lư ở huyện Thanh
Chương, chuẩn bị sẵn sàng lương thực, vũ khí để khi khởi sự đã có sẵn thực
lực.
Năm 1912, do thắng lợi của Cánh mạng Tân Hợi (Trung Quốc),
Phan Bội Châu giải tán Duy Tân hội thành lập Việt Nan Quang phục hội thì
Đội Quyên và Nguyễn Thị Thanh lại chuyển sang hoạt động cho tổ chức
Việt Nam Quang phục hội. Bằng kinh nghiệm chế tạo súng bắn nhanh khi
cùng Cao Thắng tham gia cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng, ông đã thành
lập xưởng chế tạo súng bắn nhanh trang bị cho Quang Phục quân.
Tại hội nghị các thủ lĩnh tổ chức Việt Nam Quang Phục hội ở
Nghệ An - Hà Tĩnh đã giao cho Đội Quyên làm Tổng chỉ huy Việt Nam
Quang Phục quân Nghệ - Tĩnh. Ông gấp rút xây dựng căn cứ kháng chiến ở
Bố Lư, tích cực luyện tập các động tác chiến đấu, cách sử dụng vũ khí, đặc
biệt là súng bắn nhanh cho thanh niên. Ông còn cho mở một con đường từ
căn cứ Bố Lư tới biên giới Lào để khi gặp nguy hiểm có thể qua Lào thoát
sang Xiêm La mà ông đã chuẩn bị. Trong một đợt đi công tác Đội Quyên
bị ốm phải nằm lại nhà bạn là Đặng Nguyên Cẩn ở Lương Điền thì bị bọn
tay sai của giặc Pháp dò biết báo cho giặc Pháp đến bắt. Mặc dù bị ốm ông
vẫn chống cự kịch liệt, giết chết vài tên bằng khẩu súng lục và giành một
viên cho mình để tự sát vào đêm 20 tháng 8 năm 1917, hưởng thọ 57 tuổi.
NGUYỄN HUY THUẬN
Tháng 7/1885 vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị hạ chiếu
Cần vương. Tại Hà Tĩnh có rất nhiều người hưởng ứng như Lê Ninh khởi
nghĩa ở La Sơn, Nguyễn Thoại khởi nghĩa ở Hương Khê, Ngô Quảng khởi
nghĩa ở Nghi Xuân, Nguyễn Trạch, Nguyễn Khương khởi nghĩa ở Can Lộc,
Nguyễn Huy Thuận khởi nghĩa ở Thạch Hà, Hà Tĩnh.
Nguyễn Huy Thuận còn gọi là Nguyễn Thuận, thường gọi là Bá
hộ Thuận. Ông xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo, quê ở xã Thạch
Xuân, huyện Thạch Hà. Ông không đỗ đạt, dành tiền mua được chức Bá hộ,
nên thường gọi là Bá hộ Thuận. Ông hưởng ứng chiếu Cần vương lập căn
cứ chống Pháp ở Truông Xai, huyện Thạch Hà, phủ Hà Thanh, tỉnh Hà
Tĩnh. Ông hoạt động chủ yếu ở vùng Thạch Hà. Năm 1888 khi Phan Đình
Phùng thống nhất các lực lượng khởi nghĩa ở Nghệ An, Hà Tĩnh ông được
Phan Đình Phùng cử giữ chức Quân thứ Thạch Hà (tức Thạch thứ). Ông
hoạt động liên tục trong nhiều năm, đêm 23/8/1893 ông đã chỉ huy nghĩa
quân tấn công tỉnh lỵ Hà Tĩnh, phá trại giam, thả tù nhân, đốt một số sổ
sách giấy tờ rồi rút lui an toàn.
Khi quân Pháp dốc toàn bộ binh lực đánh vào Trại Chè là một
căn cứ quan trọng của nghĩa quân Hương Khê do Nguyễn Thoại chỉ huy. Để
cứu nguy cho Nguyễn Thoại, Phan Đình Phùng đã lệnh cho Bá hộ Thuận là
người chỉ huy quân thứ Thạch Hà đem quân tiến đánh thành Hà Tĩnh khiến
cho quân địch phải bỏ dở cuộc càn quét kéo quân về tiếp ứng và giải vây
cho tỉnh thành.
Sự kiện trên đã được đánh giá trong sách "Phan Đình Phùng"
như sau: “Trong khi giặc đang lúng túng, mất công tìm kiếm trong rừng
(lúc này địch tập trung càn quét vùng Ngàn Xâu, sông Cả, Trường Xim) thì
nghĩa quân đánh sát vào tỉnh ỵy Hà Tĩnh. Đồng thời các quân thứ ở các nơi
khác nhau như Kỳ Anh, Nam Huân, Voi... địch bị tập kích mạnh, chúng phải
vất vả tiếp ứng cho nhau, mới giữ được các vị trí”.
Sự phối hợp của các quân thứ nghĩa quân Cần vương ở Hà Tĩnh
cũng được Trần Văn Giàu đánh giá trong "Chống xâm lăng" như sau: "Việc
phối hợp tác chiến giữa các quân thứ trên các địa bàn rộng lớn gồm 4 tỉnh
từ Thanh Hoá đến Quảng Bình đã làm phân tán lực lượng của quân Pháp
và hỗ trợ hiệu quả cho nhau để chống càn và tiêu diệt giặc”.
VƯƠNG THỨC
Vương Thức sinh năm 1830 người làng Trung Lương, huyện
Đông Thành, nay là làng Xuân Đào, xã Hồng Thành, huyện Yên Thành,
tỉnh Nghệ An.
Năm 1879 , dân làng bầu Vương Thức làm lý trưởng. Ông nhận
lời đứng ra gánh vác công việc của dân làng. Dân hàng tổng cử ông làm
tuần kiểm lo việc canh phòng, trị an. Ông hăng hái nhận chức vụ trên vì với
chức vụ này ông có thể công khai thành lập các đội tuần đinh, trang bị vũ
khí, rào làng dưới danh nghĩa chống trộm cướp. Ông đem toàn bộ số tiền,
thóc dân hàng tổng nộp thuế để mua vũ khí, rào làng, chi tiêu vào việc
quân. Vương Thức tổ chức lễ Tế cờ ra mắt nghĩa quân rất trang trọng.
Nguyễn Xuân Ôn tới dự cử, ông Vương Thức làm Đội trưởng Xuân nghĩa
đội. Đội quân hơn 300 người do Vương Thức chỉ huy được biên chế vào
đội quân Đông Bắc do Đề đốc Phan Bá Niên chỉ huy và đổi tên làng Trung
Lương thành Xuân Đào.
Trận đọ súng đầu tiên giữa nghĩa quân do Vương Thức chỉ huy
là trận tập kích đồn Cồn Đông. Đồn có hơn 100 lính nguỵ do một tên Pháp
chỉ huy. Mặc dù không có kết quả chỉ tiêu diệt được 1 tên lính và làm bị
thương vài tên, song trận đánh đã có tiếng vang lớn, đã thu hút nhiều người
gia nhập nghĩa quân và ủng hộ tiền bạc, lương thực cho nghĩa quân. Rút
kinh nghiệm trận đánh trên, Vương Thức đã kịp thời bổ sung cho trận phối
hợp với cánh quân do Đề đốc Phan Bá Niên chỉ huy đội quân do Chiêu
Hoạt con trai cụ Nghè chỉ huy đánh địch tại Thừa Sũng - Đồng Mờm ở
vùng giáp ranh hai huyện Yên Thành và Diễn Châu. Trận này nghĩa quân
tiêu diệt hàng trăm tên địch. Trong một trận khác, Vương Thức dùng kế dụ
địch ra khỏi đồn Cồn Đông sa vào ở phục kích để diệt địch. Trận này do
một nghĩa quân sơ xuất để lộ trận địa, nên nghĩa quân chỉ bắn chết được hai
tên.
Cuối năm 1886 , nghĩa quân Nguyễn Xuân Ôn đánh nhiều trận
lớn gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Tháng 6/1887, trong trận đánh ở
xóm Hồ, chủ tướng Nguyễn Xuân Ôn dẫn đầu đoàn quân xông lên đánh
giáp lá cà với quân Pháp. Quân Pháp phải rút, sau được viện binh phản
công, ông Vương Thức luôn luôn đi sát bên chủ tướng cùng chủ tướng ở lại
chặn giặc cho đại bộ phận nghĩa quân rút lui. Vương Thức chỉ huy 20 cận
vệ chiến đấu quyết liệt để bảo vệ chủ tướng. Phần lớn anh em hy sinh,
Vương Thức cũng bị bắt. Nguyễn Xuân Ôn rút kiếm tự tử nhưng bị quân
Pháp ngăn lại. Quân Pháp giải cụ Nghè Ôn về giam ở nhà lao Huế. Vương
Thức bị quân Pháp bắt giam ở nhà lao Diễn Châu và Vinh, đến năm 1889
mới được tha thì sức lực kiệt quệ không đi nổi.
Vương Thức mất ngày 1 tháng 7 năm Canh Dần (1890) thọ 60
tuổi. Ông còn được lịch sử Đảng Cộng sản tỉnh Nghệ An biểu dương một
cách trân trọng, được ghi trong Từ điển nhân vật Lịch sử Việt Nam. Ngôi
nhà thờ ông được ngành Văn hoá - Thông tin đưa vào danh mục xếp hạng
di tích lịch sử.
NGUYỄN THỨC TỰ
Nguyễn Thức Tự, hiệu Đông Khê, sinh năm Tân Sửu (1841),
quê làng Đông Chữ, nay thuộc xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ
An. Nguyễn Thức Tự thông minh, hiếu học từ nhỏ, ông thi đỗ Đầu xứ vào
năm 27 tuổi, khoa thi năm Mậu Thân (1868) đỗ cử nhân. Ông đi thi Hội
nhiều lần nhưng không đỗ.
Năm 1873, Nguyễn Thức Tự làm Hậu bổ ở Hà Tĩnh, lần lượt
làm tri huyện Hương Khê, Thạch Hà, tri phủ Đức Thọ. Năm 1880 giữ chức
Chánh Sơn phòng sứ tỉnh Hà Tĩnh vìvậy nhân dân gọi ông là Sơn. Năm
1884 ông xin về mở trường dạy học, gọi là trường Đông Khê.
Năm 1885 khi vua Hàm Nghi xuất bôn hạ chiếu Cần vương,
Nguyễn Thức Tự xếp bút nghiên hưởng ứng, ông bỏ tiền của nhà đi khắp
nơi xây dựng đồn luỹ phòng thủ, chiêu mộ nghĩa quân các tỉnh Thanh Hoá,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị Thừa Thiên. Nguyễn Thức Tự
luôn luôn cùng chủ tướng Phan Đình Phùng, tướng Cao Đạt bàn bạc các thế
trận, ông là người thầy kiệt xuất về chiến tranh du kích, đánh mai phục, nổi
tiếng là trận Nhà Làng.
Sau khi cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng bị quân Pháp dập tắt.
Nguyễn Thức Tự từ quan về quê trở lại nghề dạy học. Nguyễn Thức Tự
không chỉ đơn thuần dạy chữ lệ thuộc vào kinh sách sẵn có mà nội dung bài
giảng dạy của ông là đào tạo học trò trở thành ngươi yêu nước. thương dân.
Trong 30 năm dạy học, Nguyễn Thức Tự đã đào tạo được nhiều nhân tài
cho đất nước.
Nguyễn Thức Tự rất nâng niu tài năng của học trò, ông đã tập
hợp trên 100 bài phú hay nhất của học trò, trong đó có nhiều bài của Phan
Bội Châu như "Công biểu chu du ngu hồ, Đào viên kết nghĩa. Xuân thu hoá
công..” trong tập Đông Khê hiên luật phú để các thế hệ học sinh nghiên cứu
học tập.
Ông đã soạn tập Gia huấn ca để dạy dỗ con cháu. Thơ của ông
cũng được in trong tập Đông Khê thi tập, Đông Khê thư tập, Đông Khê lịch
sử, sự trạng...
Nguyễn Thức Tự còn có tấm lòng hào hiệp giúp đỡ tiền bạc cho
học sinh nghèo có chí như Phan Bội Châu. Năm Đinh Mùi (1907) ông thấy
nhiều người trong làng Đông Chữ nghèo khó không đủ tiền nộp thuế phải bị
tù tội đã hiến cho làng 5 sào ruộng tốt để lấy hoa lợi trợ sưu cho người
nghèo.
Đức độ của Nguyễn Thức Tự, sự nghiệp chiến đấu và giáo dục
của ông được giới trí thức và nhân dân Nghệ An ghi nhận bằng đôi câu đối
treo ở sinh từ của ông:
Lục thuỷ thanh sơn, vũ trụ thường lưu xuân sắc
Tả đồ, hữu sử, gia đình vĩnh đại thủ hương.
Hoàng Anh Tài dịch:
Đây nước biếc, đó non xanh, xuân sắc lâu dài trong vũ
trụ.
Tả bản đồ, hữu sử sách, gia đình bền vững nếp thi
hương.
Trở về già, ông vẫn một lòng đau đáu nghĩ đến đất nước bị giặc
Pháp thống trị, đến nhân dân bị lầm than, được ông thổ lộ một phần khi ông
đi chơi thành phố Vinh năm 1898 về:
Vừa mới đi thăm tỉnh Nghệ về.
Nhìn xem phong cảnh nghĩ mà ghê.
Trên trời dây thép giăng chằng chịt,
Dưới đất kèn đồng thổi tò le.
Phố xá nghênh ngang bồi cưỡi ngựa.
Lâu đài nghi ngút đĩ ngồi xe,
Ai lên nhắn với ông Tinh Bạch
“Sao để trời Nam mãi thế hề?”.
Ngày 25 tháng 4 năm Quý Hợi (10/06/1923), Nguyễn Thức tự
mất tại làng Đông Chữ. (Tác giả Hán Nôm Nghệ Tĩnh, trang 93 viết ông
mất năm 1917).
Phần mộ và nhà thờ Nguyễn Thức Tự ở Nghi Lộc đã được Bộ
Văn hoá - Thông tin xếp hạng là Di tích Lịch sử.
TRẦN QUANG DIỆM
Trần Quang Diệm, sinh năm 1848 , người làng Bút Trận, nay là
xã Diễn Thái huyện Diễn Châu. tỉnh Nghệ An. Cha mẹ ông mất sớm, nhà
nghèo, việc học gián đoạn, mãi đến khoa thi Đinh Mão (1867), khi ông đã
28 tuổi mới đậu cử nhân. Ông được bổ làm huấn đạo huyện Thanh Chương,
sau đó thăng tri huyện Tùng Thiện (Sơn Tây).
Sau ông chán ghét triều đình Tự Đức thực hiện chính sách đầu
hàng giặc Pháp nên cáo quan về làng sống ẩn dật.
Năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn ra Sơn phòng Quảng Trị, hạ
chiếu Cần vương. Trần Quang Diệm đã cùng Nguyễn Xuân Ôn hưởng ứng
dựng cờ khởi nghĩa. Ông được phong chức Tán lý quân vụ quân thứ An -
Tĩnh (Nghệ An - Hà Tĩnh).
Để phát động nhân dân tham gia nghĩa quân Cần vương. Trần
Quang Diệm đã công bố bản:
BỐ CÁO VIỆC PHỤNG CHỈ CẦN VƯƠNG
…Nước Việt ta từ đời Hồng Bàng đến nay, trời gây đất mở,
mênh mông non cao, nước trong; tổ dựng tông bồi, rực rỡ thói thuần, tục
tốt. Vua Đinh Tiên Hoàng dùng gậy lau dấy quân lên, dẹp các sứ quân mà
mở đầu nền chính thống; vua Lê Thái Tổ từ núi Lam Sơn khởi nghĩa, đuổi
giặc Minh còn truyền bài cáo Bình Ngô. Non sông nước Nam, sách trời đã
định lẽ nào để cho người ngoài ngủ ngáy ngay trên giường mình nằm được
ư?
Thế mà giặc Pháp gây hấn, tanh hôi khác loài, cướp kinh thành
ta, làm cho chúa thượng phải chạy, rong xe ra phía bắc, tới sở sơn phòng
Hà Tĩnh, đặt thành nơi hành tại, xuống chiếu Cần vương, tỏ lời cáo cấp.
Những người nghe được tin đều rơi nước mắt. Đương khi nước nhà có việc,
không phải là lúc thần tử yên vui. Bảo rằng: "Vua lo thì tôi phải nhục, vua
nhục thì tôi phải chết”, chính là việc lúc này đây. Nếu không hăng hái đẩy
sức mạnh như hùm gấu thì lấy gì để đẩy trừ được dã tâm của giặc như sói
lang. Tất cả nhân dân ta ai là không làm, không phải là người dũng cảm.
Cho nên ai nấy, người có của giúp của, kẻ có công giúp sức cùng một lòng,
một đức, cùng nhau vượt bước khó khăn lúc này. Chớ có bảo tay không mà
cam ngồi chịu trói.
Nếu như ai cũng chỉ lo riêng lấy thân mình, cứ điềm nhiên ngồi
ngó, thì rồi người không biết nghĩ xa, tất sẽ bị nỗi lo gần. Lúc đầu, chúng
mới giở cái mưu, rồi sau dần dần chúng giở cái thói tàn ngược như hùm sói
nuốt chửng. Nước mất nhà tan hối sao kịp nữa!
Tôi lại nghe rằng: triều đình nuôi kẻ sĩ 300 năm, mà không ai có
một nghề gì giúp việc Cần vương. Minh Hoàng nhà Đường luống những
thở than, nhà nước nuôi binh lính hơn 30 năm, mà không lấy một người hy
sinh cho việc Cần vương, Văn công đời Tống lấy làm xấu hổ.
Mọi công việc trong vũ trụ đều là bổn phận chúng ta. Bốn
phương trời còn có nhiều đồn luỹ, há không trải là cái nhục của sĩ phu đó
ư?
Tôi đây chỉ là một người học trò, lạm nhận chức nhỏ, gắng
gượng làm việc, mong báo nước mảy may, ví không để được tiếng thơm lại
muôn thuở thì cũng khỏi bị lên tiếng xấu lại trăm năm. Còn trung thần
nghĩa sĩ như người xưa đã bảo thì dù tôi không làm được như thế nhưng
trong lòng vẫn ham chuộng.
Than ôi! Dân nước ta hãy ngẫm nghĩ, cố gắng lên, chớ cho lời
nói là viễn vông mà coi thường. Đó là điều tôi rất mong mỏi.
Nay đặc biệt bố cáo.
(Chu Thiên dịch theo nguyên văn
chữ Hán)
Nhân dân Nghệ Tĩnh đã nhiệt liệt hưởng ứng lời Bố cáo của ông,
trai tráng và cả những người đứng tuổi, người đã từng trải việc binh cũng
hăng hái gia nhập nghĩa quân. Nhân dân nô nức đem thóc gạo, trâu lợn ủng
hộ nghĩa quân làm quân lương.
Trần Quang Diệm chia quân làm cơ đội, cắt đặt người huấn
luyện các thao tác chiến đấu, cách sử dụng vũ khí. Ông thương yêu quân sĩ
nhưng cũng giữ nghiêm kỷ luật chiến trường và không được nhũng nhiễu
phiền hà dân.
Để chuẩn bị chiến đấu, Trần Quang Diệm xây dựng căn cứ
chống Pháp tại núi Thàng ở Xanh Gám, xã Tăng Thành, huyện Yên Thành,
tỉnh Nghệ An.
Trần Quang Diệm hết lòng giúp Hiệp đốc quân vụ An - Tĩnh
dành nhiều trận lớn gây cho quân Pháp và quân triều đình nhiều thiệt hại
nặng nề. Khi Nguyễn Xuân Ôn đang điều trị bệnh, bị quân Pháp ập vào bắt
rồi đưa về giam ở Huế, Trần Quang Diệm vẫn cùng các tướng lĩnh tiếp tục
chiến đấu.
Năm 1891, Trần Quang Diệm bị bắt giam ở Huế. Ông bị giam
mấy năm mới được thả, về nhà thì mất vào năm 1907.
Trần Quang Diệm còn là một nhà thơ đến nay còn các tập Ngọc
Đường thi tập lời bình của Nguyễn Xuân Ôn. Ngắm trăng, Phụng chỉ Cần
vương bố cáo văn.
TRẦN XUÂN SOẠN
Trần Xuân Soạn sinh năm 1849, người làng Thọ Hạc, huyện
Đông Sơn. tỉnh Thanh Hoá. Ông xuất thân trong một gia đình nông dân
nghèo. Ông là người văn hay võ giỏi, mới ít tuổi đã am hiểu binh thư chiến
lược. Gặp khi triều đình tuyển lính, Trần Xuân Soạn ứng mộ song không
hợp cách nên bị loại. Ông vào làm bếp cho Nhuệ Vũ quân Phó quản Bắc
Ninh.
Quân Thái Bình Thiên quốc bị nhà Thanh đánh chạy sang ta
“thổ phỉ hóa". Tôn Thất Thuyết đem quân tiễu phỉ dẹp mãi không yên. Trần
Xuân Soạn một mình xông pha tên đạn, làm cho quân giặc vô cùng khiếp
đảm. Kết quả cả toán quân bị phá vỡ. Trận đương thua hoá ra thắng. Trần
Xuân Soạn thắng trận trở về với nhiều chiến lợi phẩm. Tôn Thất Thuyết
khen ngợi và thăng cho một lúc ba trật: suất đội- phó quản- chánh quản.
Trong một ngày thăng lên bị cấp thật là trường hợp hiếm hoi, người xưa nói
"Nhất nhật thăng tam cấp".
Tự Đức năm thứ 30 (1877). Trần Xuân Soạn được thăng Chánh
Lãnh binh Bắc Ninh. Năm sau thăng Phó Đề đốc năm sau nữa vì có công
đánh tan giặc Khách trên sông Sỏi (Yên Thế) được đặc cách thăng Chánh
Đề đốc.
Năm Tự Đức thứ 35 (1882) Trần Xuân Soạn được cử vào kinh
thành làm Ngự môn Đề đốc. Tháng giêng năm 1884, Tôn Thất Thuyết
thành lập “Phấn nghĩa quân" ở các tỉnh Trung Kỳ và Bắc Kỳ, đã giao cho
Trần Xuân Soạn rèn luyện và chỉ huy. Khi kinh thành Huế thất thủ, Trần
Xuân Soạn cùng Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật... phò vua Hàm Nghi
ra sơn phòng Hà Tĩnh rồi chỉ đạo phong trào chống Pháp ở Thanh Hoá.Từ
khi vua Hàm Nghi xuất bôn, ban chiếu Cần vương thì phong trào chống
Pháp ở Thanh Hoá ngày càng mạnh mẽ. Ông đã cùng với các sĩ phu như
Đinh Công Tráng, Phạm Bành chỉ trương xây dựng cứ điểm Ba Đình để giữ
cửa ngõ miền Trung. Sau đó tuy không trực tiếp chỉ huy cứ điểm, nhưng
ông có nhiệm vụ đóng quân ở phủ Quảng Hoá để hỗ trợ cho Ba Đình và giữ
mối liên hệ giữa Ba Đình với Mã Cao.
Tháng 9 năm 1885, Đồng Khánh - tay sai đắc lực của thực dân
Pháp xuống dụ tước hết quan tước tịch thu gia sản của Tôn Thất Thuyết,
Nguyễn Văn Tường và Trần Xuân Soạn. Đồng Khánh xuống chiếu cho bọn
quan lại địa phương nếu bắt dược Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn cho xử
chém ngay. Song mặc cho tính mạng bị nguy hiểm, gia sản bị tịch biên, vợ
con thân nhân phải sống trong cảnh bơ vơ, màn trời chiếu đất, ông vẫn
quyết tâm kháng chiến. (Do Nguyễn Hữu Độ nguyên tả thị lang, Hộ lý Hà
Ninh tổng đốc được tin vua Hàm Nghi dời kinh đô đã trở về Huế được Pháp
đưa lên làm thành viên của viện Cơ mật và biệt phái làm Kinh lược sứ Bắc
Kỳ. Độ cùng Phan Đình Bình nguyên Tuần phủ lãnh An - Định tổng đốc
được Pháp cho làm thượng thư bộ Hộ, có chân trong viện cơ mật. Độ và
Bình tính cực cùng Pháp đưa Ưng Chân, con nuôi Tự Đức lên vua lấy hiệu
là Đồng Khánh, ngày 19/9/1885. Năm đầu vẫn dùng niên hiệu Hàm Nghi.
Đến ngày 4/2/1886 mới dùng niên hiệu Đồng Khánh nguyên niên. Thực
dân Pháp cấp cho Đồng Khánh 40.000 lạng bạc, 40.000 quan tiền còn kho
tang, thuế khóa quân Pháp nắm hết. Vừa lên ngôi vua bù nhìn Đồng Khánh
đã viết thư cảm ơn tổng thống Pháp. Tôn Đờ cuốc xy làm "Bảo hộ quân
vương". tôn Khâm sứ Sam pô làm bảo hộ công. Ngày 28/1/1889. Đồng
Khánh chết. ở ngôi 3 năm).
Tháng 2 năm 1887 căn cứ Ba Đình và Ma Cao thất thủ. Trần
Xuân Soạn cùng Hà Văn Mao rút về Điền Lư (nay là xã Điền Lư, huyện Bá
Thước) dự định dựa vào rừng núi hiểm trở để xây dựng lại phong trào. Tại
đây ông đã cùng Hà Văn Mao tổ chức phòng thủ chống quân Pháp càn quét
nhiều lần. Sau đó Trần Xuân Soạn vào Nghệ An để liên minh với Thủ lĩnh
phong trào chống Pháp ở Nghệ An là Nguyễn Xuân Ôn.
Ngày 25 tháng 5 năm 1887, Nguyễn Xuân Ôn bị quân Pháp bắt
giải về giam ở Vinh, Trần Xuân Soạn lại trở ra Niên Kỷ (ở Bá Thước) với
Hà Văn Mao tiếp tục phong trào chống Pháp ở miền tây Thanh Hóa. Các
ông đã tổ chức nhiều trận đánh gây cho quân Pháp những tổn thất nặng nề.
Giặc Pháp và bọn tay sai không bắt, giết được ông, không gọi ông về đầu
hàng đã trả thù ông một cách man rợ là đào mộ cha ông, lấy xương xếp ở
giữa đường để thiêu huỷ, hòng buộc ông đầu thú, nhưng ông vẫn không
chịu khuất phục.
Khi vua Hàm Nghi bị bắt phong trào kháng chiến chống Pháp ở
các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh suy yếu dần. Khi Phan Đình Phùng
ốm mất ở căn cứ, quân Pháp tấn công vào núi Vụ Quang chiếm căn cứ này.
Tại Nghệ An các tướng lĩnh của Nguyễn Xuân Ôn cũng dần dần bị tiêu diệt.
Ở Thanh Hoá, căn cứ Ba Đình, Mã Cao thất thủ. Ông sang Long Châu để
tập hợp lực lượng mưu đồ phục quốc. Ông cùng Tôn Thất Thuyết vận động
nhà Thanh giúp nhưng triều đình Mãn Thanh và Chính phủ Pháp đã ký hiệp
ước thân thiện nên nguồn tiếp viện bị ngăn chặn. Ông cùng với Tôn Thất
Thuyết vận động một số nhân sĩ ở Hoa Nam có cảm tình với cách mạng
Việt Nam giúp đỡ tổ chức được một toán quân, nhiều lần kéo về biên giới
Việt - Trung hoạt động. Nhưng quân Pháp chiếm được Lạng Sơn, Cao Bằng
ngăn chặn đường về của ông, ông đành sống tha hương ở Trung Quốc.
Trong thời gian ở Trung Quốc, mẹ, vợ và hai con trai nhỏ của
ông bị địch khủng bố dữ dội, tịch thu gia sản, phải thay tên đổi họ trốn tránh
suốt 15 năm trời, nhưng không làm ông sờn lòng, nản chí. Trần Xuân Soạn
mất tại thị trấn Thiều Châu, Trung Quốc ngày 17 tháng 12 năm 1923, thọ
74 tuổi .
TỐNG DUY TÂN
Tống Duy Tân sinh năm Mậu Tuất (1838) tại thôn Bồng Trung,
huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Ông sinh trưởng trong một gia đình nhà
nghèo nhưng có chí, chăm học và học rất giỏi.
Năm Tự Đức thứ 11 (1858) ông đỗ cử nhân. Năm Giáp Tý
(1864) ông được bổ làm Huấn đạo Quảng Xương, sau thăng Đốc học Phú
Yên.
Tuy làm quan cho triều đình nhưng ông chán ghét cảnh đất nước
bị giặc Pháp xâm lược, lục tỉnh Nam Kỳ đã lọt vào tay giặc Pháp. Ngày
20/11/1873, quân Pháp hạ thành Hà Nội và đánh chiếm các tỉnh thành Ninh
Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định. Ngày 5 tháng giêng năm 1874,
triều đình ký Quy ước cam kết với Pháp như triều đình không tăng quân ở
các tỉnh Bắc Kỳ; quân Pháp tự do đi lại trên đường bộ, đường sông ở Bắc
Kỳ... Tiếp đó triều đình lại ký Hiệp ước Hoà bình và liên minh có 22 điều
khoản thì đều nhượng bộ Pháp. Khoa thi Hội năm Ất Hợi, niên biểu Tự
Đức thứ 28 (1875) ông đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân. Ông được bổ
làm Tri phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay.
Tống Duy Tân bất bình với triều đình nên từ quan lấy cớ phải
nuôi mẹ già, về làng dạy học. Về sau Tôn Thất Thuyết nhiều lần mời ông ra
làm quan để tăng cường lực lượng cho phe chủ chiến, ông mới nhận chức
Đốc học Thanh Hoá. Tiếp đó ông lại được cử làm Thương biện Tỉnh vụ rồi
Chánh sứ Sơn phòng.
Năm 1885, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn chỉ huy “Phấn
nghĩa quân" đánh úp quân pháp ở Mang Cá. Tòa Khâm sứ, khu nhượng địa
của Pháp ở Kinh thành Huế không thành, hộ tống vua ra Quảng Trị phát
lệnh Cần vương. Tống Duy Tân đã nhiệt liệt hưởng ứng. Ông cùng các ông
Cao Điển trước là Suất đội Vũ Lâm bỏ về, Nguyễn Sự Chí dựng cờ khởi
nghĩa. Nhân dân địa phương theo ông chống Pháp rất đông, vũ khí do nghĩa
quân tự đem đến, nếu thiếu thì xưởng rèn mới cung cấp. Tống Duy Tân còn
gửi một đạo quân đến chiến đấu ở căn cứ Ba Đình, dưới sự chỉ huy của
Đinh Công Tráng, Phạm Bành.
Nghĩa quân Tống Duy Tân còn mang tên Nghĩa quân Hùng
Lĩnh. Quân Pháp đem quân đến đánh nhiều lần, nhưng Tống Duy Tân dựa
vào địa hình hiểm trở đặt trận địa mai phục, tập kích đánh bại tất cả cuộc
hành quân của quân Pháp.
Ngày 10/9/1886, công sứ Pháp tỉnh Thanh Hoá gửi thư cho
Tống Duy Tân vừa dụ hàng. vừa đe doạ ông. Cũng trong tháng 9/1886,
Tống Duy Tân viết thư trả lời. Toàn văn bức thư như sau:
THƯ TRẢ LỜI CÔNG SỨ PHÁP TỈNH THANH HOÁ
Nguyên sơn phòng chánh sứ Tống... đáp thư.
Ngày mồng 10 tháng này kinh tiếp được thư gửi đến, trong có
câu “chỉ mong đức hoàng đế được yên ổn giàu có sang tôn vinh, dân gian
các tỉnh đều được an cư lạc nghiệp”, chúng tôi bất giác rơi nước mắt, lấy
làm đa tạ tấm lòng của quý sứ.
Bản tâm chúng tôi không phải không muốn như thế, nhưng vì
đại nghĩa bắt buộc, muốn thôi mà không được, phương chi hiện nay các
toán lính ở Thiệu Hoá, Thọ Xuân tràn qua vơ vét, các toán ở Hoằng Hoá,
Hậu Lộc luôn luôn đến đòi hỏi lôi thôi, chúng tôi dù có ngồi nhìn, người ta
cũng chẳng dung nào, nên mới có hành động như thế, lúc đầu cũng là để
phòng bị chống bọn giặc khác mà thôi. Còn về phần quý quan, quân mạnh
thế lợi khác mà thôi, chúng tôi vốn biết rõ, có dám nói là chống lại đậu, mà
không biết tại sao, mồng 6 tháng 6, quân Pháp tự đến bắn súng vào, ngày
17 tháng 8 lính tập đốt phá làng xóm làm cho anh em thủ hạ của chúng tôi
nhất thời phấn khích, nhiều người rất bất bình, việc đó đã qua, bất tất kể lại
dài dòng nữa.
Chúng tôi nghĩ quý sứ đã có lòng muốn yên dân, thế mà ở miền
dưới thì quan phủ Hà Trung dẫn quân đi đốt phá, phía trên thì bang tá
Quảng Hoá thả lính ra cướp bóc. Tức như xã Bản Thuỷ đã ra thú, nộp bạc
mà ngày mồng 7 tháng này vẫn còn bị cướp bóc của cải và đồ thờ tế. Lại
như các xã Đa Bút, Ngọc Bôi bị quân Pháp và dân giáo đến cướp phá giữa
ban ngày. Những hành động như thế đều là dựa vào uy danh người Pháp để
mưu tính lợi riêng mà thôi, thế mà lại bắt chúng tôi khuyên dân ra đầu thú
thì sao có thể khuyên được.
Chúng tôi đây, nước mất thì nhà tan, không còn có hệ lụy gì thực
như là thế cưỡi hổ, tiến thoái đều khó. Chúng tôi cùng với thủ hạ dựa vào
rừng sâu mà giữ, quân Pháp đến thì đi, quân Pháp đi thì về, may ra mà ông
Bá Di không chết thì núi Thú Dương vị tất đã là đất nhà Chu, thầy Đào tử
vẫn còn thi lịch Giáp Tí vẫn còn là của nhà Tấn. Vạn nhất trời không giúp
họ Lưu thế không thể nào được nữa, thì chúng tôi sẽ uống rượu say một
phen, yết đức tiên đế ở dưới đất, tìm ông Điền Hoàng ở ngoài hải đảo mà
thôi.
…Nếu quý sứ có lòng tốt bảo hộ, thì xin tạm đặt hạt chúng tôi ở
ngoài vòng, đợi sau khi mọi việc yên ổn, sẽ xử trí sau, thì may lắm, may
lắm. Vậy xin phúc đáp.
Hàm Nghi năm thứ 2 (1886) ngày tháng 9 .
(Chu Thiên dịch theo tài liệu sưu tầm của nhóm nghiên cứu lịch
sử địa phương )

(Bá Di con vua Cô Trúc đời Thương. Chu diệt Thương. Bá Di


cùng em là Thúc Tề không chịu thần phục nhà Chu bỏ lên núi Thú Dương,
hái rau vi ăn, chết đói ở đó.
Đào tử: Đào Tiềm người đời Tấn.Tấn mất ngôi, ông không chịu
theo niên hiệu triều đại mới mà vẫn ghi niên hiệu Nghĩa Hy nhà Tấn, hoặc
chỉ dùng can chi mà ghi năm tháng.
Lưu: họ vua Hán).
Tháng 10 năm 1886, Đồng Khánh ra dụ kêu gọi nghĩa quân đầu
thú. Đối với vua Hàm Nghi, nếu quay về, Đồng Khánh phong cho tước
công, hoặc cho làm Tổng trấn Bắc Kỳ, hoặc làm Tổng trấn ba tỉnh Thanh
Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh và dụ hàng 18 thủ lĩnh nghĩa quân trong đó có
Tống Duy Tân. Tống Duy Tân phản đối, tiếp tục kháng chiến.
Quân Pháp huy động lực lượng lớn tấn công Ba Đình, Mã Cao,
các căn cứ trên lần lượt bị thất thủ. Phong trào chống Pháp ở Thanh Hoá
trải qua những ngày tháng rất gay go, gian khổ. Tống Duy Tân phải tạm
lánh ra huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây).
Năm 1889, Tống Duy Tân trở về Thanh Hoá tìm gặp những
đồng chí cũ để phục hồi phong trào chống Pháp, ông trở thành thủ lĩnh
chính của phong trào chống Pháp ở tỉnh Thanh Hoá. Tống Duy Tân đã nối
liền được phong trào chống Pháp từ Nghệ Tĩnh - Thanh Hoá với sông Đà.
Nghĩa quân Tống Duy Tân và nghĩa quân của các thủ lĩnh khác dưới sự chỉ
đạo của ông ngày càng lớn mạnh và đã ghi được nhiều chiến công oanh liệt.
Tháng 9/1892 , Tống Duy Tân rút về Niên Kỷ được một thời
gian thì bị tên Cao Ngọc Lễ, học trò của ông đánh hơi thấy, báo cho quân
Pháp đến vây bắt. Bọn xâm lược nhốt ông vào cũi giải từ Niên Kỷ về huyện
Quảng Hoá (Vĩnh Lộc ngày nay), Công sứ Thanh Hoá Bouleche chờ sẵn
ông ở phủ, sai mở cũi cho ông ra.
Giặc Pháp biết không khuất phục được ông, giao cho Nguyễn
Thuật, Tổng đốc Thanh Hoá xử ông. Nguyễn Thuật là bạn nên đối đãi với
ông rất hậu, song biết ông không đầu hàng, nên khép ông vào tội tử hình.
Chúng chém ông ở bãi đất gần nhà Đoan Thanh Hoá.
Tống Duy Tân không chỉ là nhà quân sự, ông còn là nhà thơ.
Tống Duy Tân nổi tiếng là người yêu nước đã kiên cường chống giặc Pháp
được Nguyễn Ái Quốc khi hoạt động ở nước ngoài nhắc đến nhiều lần.
CẦM BÁ THƯỚC
Cầm Bá Thước người dân tộc Thái, sinh năm 1857 tại chòm
Lùm Lưa, xã Điền Lư, tổng Trịnh Vạn huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh
Hoá. Dòng họ Cầm Bá Thước từng giữ chức cai tổng, tính tình hào hiệp,
thương yêu dân.
Năm 1883 ông được cử giữ chức Bang biện hai châu Thường
Xuân và Lang Chánh. Khi Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn thành lập
"Phấn nghĩa quân" ông nắm trong tay nguồn tài sản quý là quế Thanh, ông
đã bán lấy tiền giúp Phấn nghĩa quân mua vũ khí, lương thực.
Tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Tân
Sở, Quảng Trị, hạ chiếu Cần vương, Cầm Bá Thước khi đó là một tù trưởng
trẻ, mới 27 tuổi, đã lập tức hưởng ứng. Ông đã lấy ngay xã Điền Lư quê
mình làm nơi tụ nghĩa mà trung tâm là Mường Kho. Điền Lư trở thành căn
cứ quân sự, trung tâm kháng chiến chống Pháp ở miền núi, trung du Thanh
Hoá. Cầm Bá Thước rất có uy tín trong đồng bào Thái, Mường, Việt ở miền
Tây -Thanh Hoá. Vì vậy ông vừa xướng nghĩa, trai tráng trong vùng đã đem
vũ khí gia nhập rất đông. Nhân dân các dân tộc miền Tây Thanh Hoá tự
nguyện đóng góp lương thực, thực phẩm, tiền bạc làm quân lương. Nghĩa
quân Cầm Bá Thước phát triển nhanh chóng địa bàn hoạt động không chỉ ở
Thường Xuân, Lang Chánh mà còn lan sang Ngọc Lặc, Như Xuân (Thanh
Hoá). Ông phối hợp với nghĩa quân Lang Văn Thiết, Lang Văn Hạnh ở phủ
Quỳ Châu (Nghệ An) đánh Pháp.
Tháng 10/1885 quân Pháp kéo đến đánh, ông chỉ huy nghĩa quân
đánh bại các cuộc tấn công của giặc Pháp. Tháng 11/1885, Cầm Bá Thước
chủ động đem quân tấn công quân Pháp ở đồn Bái Thượng. Sau các trận
đánh thắng trên, thanh thế nghĩa quân Cầm Bá Thước ngày càng vang dội.
Ngày 12/3/1886, nghĩa quân Cầm Bá Thước phối hợp với nghĩa quân Đinh
Công Tráng, nghĩa quân Tống Duy Tân nghĩa quân Trần Xuân Soạn, nghĩa
quân Lê Khắc Tháo đánh tỉnh thành Thanh Hoá, chiếm Toà công sứ, đánh
bị thương tên phó sứ và tên quan hai. Sáng hôm sau quân Pháp và quân
triều đình hợp lực phản công, nghĩa quân đánh trả tiêu hao thêm một số
quân địch rồi rút khỏi thành phố. Trên đường rút, nghĩa quân tiến công
huyện lỵ Đông Sơn, tịch thu ấn triện, đốt sổ sách rồi thả tù phạm, tước vũ
khí của quan quân rồi rút lui an toàn.
Giữa năm 1886, Cầm Bá Thước tham gia hội nghị Bồng Trung.
Các thủ lĩnh nghĩa quân trong tỉnh giao trách nhiệm cho ông xây dựng
Trịnh Vạn thành một căn cứ vững chắc. Hội nghị cũng đã thống nhất chỉ
huy và phối hợp tác chiến giữa các căn cứ với nhau, chi viện cho nhau khi
bị quân Pháp tấn công, tạo thành thế trận liên hoàn, khép kín. Ở hội nghị
Bồng Trung trở về, Cầm Bá Thước khẩn trương xây dựng căn cứ Trịnh
Vạn.
Do bị quân Pháp vây ép, Cầm Bá Thước phải chủ động bỏ Trịnh
Vạn rút về cứ điểm Cọc Chẻ để bảo toàn lực lượng. Ông xây dựng thêm
nhiều hào luỹ, đồn trại, giành lại thế chủ động, đem quân tấn công các đồn
lẻ của địch. Nhưng thời gian này giặc Pháp tập trung đông quân để tiêu diệt
nghĩa quân của ông; Tình thế không cho phép ông kéo dài cuộc chiến đấu,
ông phải rút vào rừng núi giáp với Nghệ An, xây đồn trại, lập căn cứ mới ở
Hòn Bòng, xã Xuân Lệ, huyện Thường Xuân. Lực lượng nghĩa quân phục
hồi nhanh chóng, từ tháng 2/1895 nghĩa quân liên tục phục kích, tập kích
táo bạo vào các cánh quân Pháp đi càn quét. Giặc Pháp tung quân truy kích
ráo riết, ngày 13/5/1895, Cầm Bá Thước sa vào tay giặc Pháp ở bản Cà.
chúng tìm mọi cách mua chuộc để ông làm tay sai cho chúng, khống chế
nhân dân. Ông vẫn kiên cường không khuất phục. Chúng xử tử ông khi ông
mới 37 tuổi.
Cách mạng tháng 8/1945 thành công, tên ông được đặt cho một
huyện ở Thanh Hoá là huyện Bá Thước và nhiều đường phố khác.
HÀ VĂN MAO
Hà Văn Mao người dân tộc Mường, thuộc dòng dõi quan Lang
Châu Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Vì ông làm Cai tổng nên nhân dân gọi
ông là Cai Mao.
Đời vua Kiến Phúc (1884), Cai Mao chống lệnh triều đình Huế
đánh giết số người theo đạo Thiên chúa làm tay sai cho giặc Pháp. Triều
đình sợ Pháp trách cứ, đem quân đàn áp. Hà Văn Mao phát động dân tộc
Mường, dân tộc Việt ở miền Tây Thanh Hoá chống cả triều đình lẫn Tây.
Ngày 6 tháng 6 năm 1884, triều đình Huế ký Hiệp ước Patơnốt,
bán rẻ chủ quyền đất nước cho giặc Pháp, Hà Văn Mao lập tức kêu gọi nhân
dân đánh Pháp. Vốn có sẵn uy tín trong dân tộc Mường, ông đã nhanh
chóng xây dựng được một đạo quân hơn 1000 người, lập căn cứ ở Điền Lư
(Mường Khô) và lập đại đồn ở xã Hỗn Bản, huyện Cẩm Thuỷ.
Để ngăn chặn các cuộc tấn công của nghĩa quân Hà Văn Mao, từ
ngày 25/3/1886, thiếu tá Terillion đưa quân từ Nam Định vào tăng cường
cho quân Pháp ở Thanh Hoá. Hội nghị các thủ lĩnh nghĩa quân ở Bồng
Trung đã giao cho Tả quân Đô thống Trần Xuân Soạn và Hà Văn Mao xây
dựng căn cứ dự phòng Mã Cao. Ngay sau khi dự Hội nghị Bồng Trung về,
Tả quân Đô thống Trần Xuân Soạn lo tổ chức lực lượng kháng chiến trong
toàn tỉnh, nên Hà Văn Mao là người chịu trách nhiệm chính xây dựng căn
cứ mới Mã Cao.
Ngày 3/2/1887, quân Pháp tập trung binh lực lớn chia làm nhiều
đường tấn công căn cứ Mã Cao. Nghĩa quân cầm cự được vài ngày thì Mã
Cao thất thủ, Hà Văn Mao rút quân về Điền Lư tiếp tục kháng chiến. Đến
tháng 1/1887, qua các trận chiến đấu liên tục, nghĩa quân bị tổn thất nặng
nề, cứ điểm Điền Lư bị quân Pháp chiếm rồi phá huỷ.
Tháng 4/1887, Hà Văn Mao lại trở về căn cứ Điền Lư và ông đã
phối hợp chặt chẽ với lực lượng kháng chiến của Cầm Bá Thước trong việc
xây dựng phong trào kháng chiến ở miền núi, tỉnh Thanh Hoá. Tới cuối
tháng 11, thêm một số tướng lĩnh và nghĩa quân hy sinh, Đề đốc Trần Xuân
Soạn lại đi Trung Quốc cầu viện, lực lượng nghĩa quân còn ít, nhưng Hà
Văn Mao vẫn hành quân lưu động ở các huyện miền núi Thanh Hoá và liên
tục tập kích, phục kích quân Pháp.
Về sự hy sinh của Hà Văn Mao có nhiều ý kiến, sách Đại Nam
thực lực chính biên của Quốc sử quán triều Nguyễn (tập 37, trang 258) thì
trong một trận tấn công vào Điền Lư, ông đã bị chúng bắt. rồi đưa về chém
ở tỉnh lỵ Thanh Hoá. Sách Bài ngoại
mậu kiến liệt truyện của Phan Trọng Mưu thì ông bị bắt và đã tự tử để
bảo toàn lanh dự. Truyền thuyết ở quê ông truyền lại sau khi thất bại ông trở
về Điền Lư tự sát. Theo các cố lão thì căn nhà nơi ông tự sát năm 1974 vẫn
còn. Sách "Kỷ niên về Trung Kỳ và Bắc Kỳ” của Masson, Paris 1903 thì ông
thoát khỏi sự truy lùng của người Pháp ở Niên Kỷ và đoán chừng là chết vì
bị thương. Tác giả Pierre Grossin viết trong cuốn “Tỉnh Hoà Bình” thì cho
rằng ông đã chạy thoát rồi hợp tác với một thủ lĩnh Mường ở Hoà Bình là
Đốc Tâm, sau khi đã giả chết bằng cách lấy quần áo mình mặc cho một xác
người để đánh lạc hướng điều tra của Pháp.
Song ý kiến cho rằng ông bị Pháp bắt trong trận chiến đấu tháng
11/1887 và tự sát để bảo toàn danh tiết được nhiều người chấp nhận.
Đã có nhiều sách viết về phong trào chống thực dân Pháp của
nhân dân ta hồi cuối thế kỷ XIX, về phong trào Cần vương ở Thanh Hoá
của các tác giả người Pháp, Mỹ, Nhật, Úc có viết về Hà Văn Mao. Đáng
chú ý là cuốn “Ý nghĩa của sự bình định: Thanh Hoá dưới sự thống trị của
người Pháp (1885 -1908)” của Niana Shapio Adams do trường Đại học
Yale xuất bản ở Mỹ năm 1978 nhận xét về Hà Văn Mao như sau: “Ông là
người chiến sĩ thật sự đã liên kết với một số nhà thủ lĩnh khác của địa
phương để chống lại người Pháp dưới vùng đồng bằng cũng hiệu quả như
vùng rừng núi trên quê hương ông”.
ĐINH CÔNG TRÁNG
Đinh Công Tráng sinh ngày 14 tháng 1 năm Nhâm Dần (1842)
là con cụ lang y nổi tiếng Đinh Văn Thành. Quê ông làng Nham Tràng, tên
Nôm là làng Tràng xã Nham Kênh, huyện Thanh Liêm nay thuộc xã Thanh
Tân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Trước việc nhà Nguyễn phải nhượng Lục tỉnh Nam Kỳ cho Pháp
và chúng cho tàu chiến thám thính ở vùng biển Bắc Kỳ, ông phán đoán thế
nào giặc cũng đánh ra Bắc. Ông thành lập đội phu tuần của tổng đông đảo,
trang bị súng kíp, cả súng trường bắn nhanh mua ở biên giới Đông Bắc.
Ông huấn luyện kỹ thuật chiến đấu, võ thuật cho họ nên đội tuần phu của
ông nổi tiếng thiện chiến.
Sẵn đội tuần phu làm nòng cốt, ba ngày sau khi quân Pháp đánh
phủ Lý Nhân, Đinh Công Tráng gửi hịch đi các nơi kêu gọi nhân dân gia
nhập nghĩa quân. Ông biến nhà mình thành đồn luỹ, lấy thóc trong kho ra
nuôi quân. Chỉ vài ngày quân số lên tới 400 người, chia làm bốn đạo đóng
quanh làng Tràng. Ông còn phối hợp với dân binh của Hoàng giáp Phạm
Văn Nghị xây dựng căn cứ Nham Tràng (Theo Địa chí Hà Nam).
Đạo quân của ông phục kích, tập kích địch trên đường quan lộ
dọc huyện Thanh Liêm - Phủ Lý, Ninh Bình. Ngày 14/12/1873, Đinh Công
Tráng tấn công trại Cần nay thuộc xã Thanh Tân, Thanh Liêm là kho lương
của cha cố Pháp và giáo dân tàng trữ để tiếp tế cho Pháp. Nghĩa quân Đinh
Công Tráng gây khiếp sợ cho quân Pháp. Chiến công của ông lừng lẫy, Tự
Đức phong cho ông chức Hiệp quản.
Trước sự đầu hàng giặc Pháp một cách nhục nhã của triều đình
nhà Nguyễn, Đinh Công Tráng trả chức tước cho triều đình, đi các nơi tìm
các người cùng chí hướng đánh Pháp. Ông lên Sơn Tây là thủ phủ của ba
tỉnh Sơn - Hưng - Tuyên, trung tâm kháng chiến của phe chủ chiến trong
triều đình và của các thủ lĩnh nghĩa quân. Thống tướng Hoàng Kế Viêm đã
biết tài cầm quân và ý chí kiên cường chống Pháp của ông, phong ông là
Lãnh binh. Đinh Công Tráng đã chiến đấu chống Pháp ở lưu vực sông
Thao, sông Đà thuộc tỉnh Phú Thọ, Sơn Tây dưới sự chỉ huy của Nguyễn
Quang Bích và Bố Giáp, sau đó ông về tham gia giữ thành Sơn Tây, đánh
quân Pháp ở Hà Đông, ngoại thành Hà Nội.
Đinh Công Tráng về gây dựng lại phong trào chống Pháp ở Hà
Nam, Nam Định. Khi ông vừa ra lời kêu gọi đồng bào đã tích cực gia nhập
lực lượng nghĩa quân đánh Pháp, chỉ trong một thời gian ngắn nghĩa quân
của ông đã lên tới 5000 người.
Khiếp sợ trước lực lượng nghĩa quân đông đảo lại đo một lãnh
binh tài trí chỉ huy, bọn xâm lược Pháp ở Bắc Kỳ điều động quân lính ở Hà
Nội, Hải Dương, Nam Định... mở cuộc càn quét lớn vào vùng sông Đáy,
hòng đè bẹp nghĩa quân Đinh Công Tráng. Cuộc chiến đấu đã diễn rạ vô
cùng quyết liệt, quân cả hai bên đều bị thiệt hại nặng nề. Nhưng giặc Pháp
tăng quân đưa tàu chiến gắn đại bác vào khống chế vùng sông Đáy, đã đẩy
nghĩa quân bật khỏi đất Hà Nam.
Không cam chịu thất bại, Đinh Công Tráng vào Thư Điền ở tỉnh
Ninh Bình tiếp lục xây dựng lực lượng chiến đấu. Tại đây ông được Tôn
Thất Thuyết thay mặt vua Hàm Nghi phong ông là Bình Tây Đại tướng
quân.
Tiếp đó Đinh Công Tráng vào Thanh Hoá cùng các ông Phạm
Bành, Hà Văn Mao, Hoàng Bật Đạt, Trần Xuân Soạn xây dựng căn cứ
kháng chiến tại vùng rừng núi thuộc các xã Kim Ân và Thanh Bằng thuộc
huyện Quảng Hoá, tỉnh Thanh Hóa.
Sau đó các ông nhận thấy căn cứ dễ bị quân Pháp bao vây, tiêu
diệt, mà cần phải xây dựng một căn cứ mới ở vùng hiểm trở vừa có thế
công, thế thủ, nhưng phải nằm trên đường thiên lý Bắc Nam (đường số 1
ngày nay). Sau nhiều chuyến đi khảo sát địa hình, cuối cùng các ông đã
chọn ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ Khê thuộc huyện Nga Sơn.
Phía Đông, phía Tây và phía Nam giáp huyện Tống Sơn (nay là hai huyện
Hà Trung và Hậu Lộc), phía Bắc giáp tỉnh Ninh Bình.
Các thủ lĩnh tín nhiệm cử Đinh Công Tráng và Phạm Bành là
những người từng xây dựng nhiều chiến luỹ ở Hà Nam, Nam Định, Ninh
Bình, Thanh Hoá phụ trách việc xây dựng và sau đó chỉ huy căn cứ mới
này.
Từ căn cứ Ba Đình, Đinh Công Tráng, Phạm Bành khống chế
đạo đường thiên lý Bắc - Nam, đánh chặn các đoàn xe vận tải của địch thu
chiến lợi phẩm. Nghĩa quân còn tập kích các đồn lính Pháp đóng ở Nga
Sơn, Tống Sơn và cả ở vùng núi Tam Điệp tỉnh Ninh Bình.
Đinh Công Tráng rút một bộ phận nghĩa quân lên Cự Bảo, Hồ
Sen. Quân Pháp truy kích, Đinh Công Tráng phải rút sang Thượng Lào, rồi
bất ngờ về hoạt động ở vùng Nông Cống. Trong khi đó căn cứ Mã Cao của
các thủ lĩnh nghĩa quân Ba Đình khác bị thất thủ. Không nản chí, Đinh
Công Tráng vào Nghệ An gây dựng phong trào kháng chiến.
Đinh Công Tráng là viên dũng tướng lại mưu lược, nếu bày trận
ra đánh thì quân Pháp không hại được ông. Vì chúng đánh úp khi ông đang
ngủ, lại mất cảnh giác không tổ chức canh gác nên mới bị giết.
NGUYỄN PHƯƠNG
Nguyễn Phương người làng Hương La, huyện Ngọc Sơn nay là
huyện Tĩnh Gia, đỗ tú tài, giữ chức Tham biện phủ Tĩnh Gia.
Nguyễn Phương và bộ tham mưu đã xây dựng Ổn Lâm - Kỳ
Thượng thành căn cứ quân sự, trải dài theo vành đai Đông Bắc - Tây Nam,
từ Ngã ba Chuồng đến tận vùng rừng núi bao gồm Ổn Lâm, Kỳ Thượng
đến giáp xã Yên Thái huyện Như Thanh ngày nay, với chiều dài 20 cây số,
rộng 8 cây số.
Lực lượng nghĩa quân có trên 1000 người, Nguyễn Phương chọn
ra 300 người trẻ khoẻ, dũng cảm, được huấn luyện võ nghệ thành lập Đoàn
nghĩa dũng cảm tử quân. Đây là đội quân chủ lực cơ động của cuộc khởi
nghĩa.
Nhờ có sự chỉ đạo. thống nhất đã đưa phong trào Cần vương
trong tỉnh Thanh Hoá phát triển ở hầu khắp các phủ huyện. Nghĩa quân phủ
Tĩnh Gia do Nguyễn Phương chỉ huy cũng phát triển nhanh chóng.
Quân Pháp mở nhiều trận càn quét vào căn cứ nghĩa quân.
Nguyễn Phương giao cho các tướng chặn đánh các toán quân từ các đồn
Mưng, đồn Thị Long đi càn quét vào vùng nghĩa quân hoạt động.
Cuối tháng 4/1886 Nguyễn Phương lại chỉ huy nghĩa quân cùng
nghĩa quân của Đề Sơn tiến đánh huyện lỵ Nông Cống, đốt phá huyện
đường tiêu diệt tri huyện, lãnh binh, bang tá. Cũng đêm đó nghĩa quân còn
đánh phá huyện lỵ Quảng Xương, đồn Thị Long và đồn Eo Sơn. Tại phủ lỵ
Tĩnh Gia, Lãnh Bòng tấn công đồn, quân Pháp hoảng loạn vút súng bỏ
chạy, nghĩa quân thụ toàn bộ vũ khí.
Trước những hoạt động mạnh mẽ, có hiệu quả của nghĩa quân
phủ Tĩnh Gia, quân Pháp tăng cường 1 đại đội Âu - Phi, một đơn vị của lính
pháo thủ Bắc Kỳ, 300 lính khố xanh về Tĩnh Gia. Chúng cho quân càn quét,
đốt phá các làng Cốc Hạ, Côn Phương, Hữu Cốc.
Nguyễn Phương và bộ tham mưu phán đoán quân Pháp sẽ đánh
vào khu trung tâm, Nguyễn Phương bố trí trận địa mai phục từ xa, đánh phủ
đầu trên đường hành quân của chúng. Tháng 3/1886, ông đánh một trận
phục kích xuất sắc ở Cấp Ké, tiêu diệt nhiều tên, số còn lại tháo chạy.
Để đánh vào đầu não của quân Pháp, Trần Xuân Soạn, Tống
Duy Tân quyết định đánh thành Thanh Hoá, nghĩa quân phủ Tĩnh Gia là lực
lượng chủ công. Nguyễn Phương cho Đề Sơn dẫn một đơn vị nghĩa quân
cải trang làm người đi chợ lọt vào thành trước, vũ khí giấu trong hàng hoá.
Nguyễn Phương chỉ huy 300 quân đi đường sông, vũ khí giấu dưới đáy
thuyền có nhiệm vụ tấn công trại lính Âu - Phi. Tôn Thất Hàm chỉ huy 200
nghĩa quân đánh các đồn lính khố xanh ở ngoài thành.
Nửa đêm ngày 10/3/1886, quân ta tấn công mãnh liệt, trung uý
Frank và Chánh văn phòng Toà sứ bị thương nặng, Quân Pháp bị bất ngờ
nhưng có vũ khí mạnh, có công sự phản công mãnh liệt, nên sau khi gây
thương vong lớn cho quân Pháp, gieo vào lòng chúng nỗi kinh hoàng rồi rút
khỏi tỉnh lỵ.
Sau trận nghĩa quân đánh thành Thanh Hoá, quân Pháp cay cú
mở nhiều trận càn quét vào ba huyện của phủ Tĩnh Gia. Song nghĩa quân
được nhân dân ủng hộ và nghĩa quân toàn tỉnh phối hợp đánh chúng ở khắp
nơi, khiến chúng bị động đối phó. Nhờ đó nghĩa quân Nguyễn Phương vẫn
giữ vững căn cứ Ổn Lâm - Kỳ Thượng từ tháng 4/1886 đến năm 1887 .
Khi căn cứ Ba Đình và Mã Cao thất thủ (1887), quân Pháp tập
trung quân tấn công Ổn Lâm - Kỳ Thượng. Chúng bao vây, đánh phá liên
tục cả ngày lẫn đêm. Quân Pháp tấn công vào khắp các đồn trại, tàn sát
nhân dân, đốt phá các làng trong vùng nghĩa quân hoạt động. Biết không
thoát khỏi tay giặc, Nguyễn Phương cắn lưỡi tự tử khi ông ở tuổi 55, quyết
không để giặc bắt. Lãnh Quýnh, Lãnh Bòng bị quân Pháp chém ở cầu Hạc.
(Tạp chí Nghiên cứu lịch sử quân sự số 4/2004 - phong trào chống Pháp ở
Nông Cống cuối thế kỷ XIX, huyện uỷ, UBND huyện Nông Cống xuất
bản).
HOÀNG BẬT ĐẠT
Hoàng Bật Đạt quê ở xã Bộ Đầu, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh
Hoá, ông là bạn thân và là anh em cọc chèo với Phạm Bành, quê ở làng
Trương Xá cùng huyện.
Tháng 7/1885, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn phò vua Hàm
Nghi ra Tân Sở, Quảng Trị, hạ chiếu Cần vương, ông đã cùng với Phạm
Bành chiêu mộ quân đánh Pháp ở huyện Hậu Lộc. Hai ông làm lễ Tế cờ ở
nghè Lục Trúc, xã Phúc Lộc vào ngày 16 tháng 1 năm Bính Tuất (1886),
Sau đó các ông liên kết với các ông Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân tổ
chức đánh Pháp trên toàn tỉnh Thanh Hoá.
Ông cùng các thủ lĩnh nghĩa quân Cần vương Thanh Hoá tấn
công tỉnh thành Thanh Hoá, huyện Đông Sơn vào đêm mùng 7 rạng ngày
mùng 8 tháng 2 năm Bính Tuất. Giữa năm 1886 các thủ lĩnh phong trào Cần
vương ở Thanh Hoá, họp Hội nghị Bồng Trung (Vĩnh Lộc) là quê hương
của ông nghè Tống Duy Tân đã quyết định xây dựng căn cứ ở Ba Đình,
huyện Nga Sơn. Ông được phân công cùng Đinh Công Tráng, Phạm Bành
chỉ huy căn cứ quan trọng này. Ông đã cùng các vị chỉ huy căn cứ đánh cho
quân Pháp đại bại trong trận đánh ngày 18/12/1886 và trận đánh ngày 6
tháng 1 năm 1887 rồi chủ động rút lui để bảo toàn lực lượng.
Ba Đình, sau đó là căn cứ Ma Cao thất thủ, ông tạm lánh về quê
tìm đường sang Trung Quốc để mua vũ khí về tổ chức nghĩa quân tiếp tục
đánh Pháp. Song một thủ hạ phản bội báo cho giặc Pháp nơi trú chân của
ông tại Chi Nê, tỉnh Hoà Bình. Ông bị giặc Pháp bắt đưa về giam ở nhà lao
Thanh Hoá và chịu mọi cực hình tra tấn. Ông hiên ngang, bất khuất chửi
bọn giặc Pháp cướp nước và bọn tay sai theo giặc không khai một lời.
Giặc Pháp giết ông cắm đầu ông vào ngọn sào đưa về quê ông
để uy hiếp nhân dân. Trước khi bị giặc hành hình ông đã làm đôi câu đối tỏ
rõ ý chí của mình trao cho các bạn tù:
Cố ý cứu sinh ư phục Việt,
Cam tâm thề tử bất thần Tây.
Dịch:
Chí cứu muôn dân nên phục Việt
Lòng thề một chết, chẳng hàng Tây.
Con trai ông là Hoàng Xuân Viễn nối chí cha tham gia phong
trào Đông du do Phan Bội Châu khởi xướng.
PHẠM BÀNH
Phạm Bành sinh năm 1825, người làng Trương Xá, nay thuộc xã
Hoà Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Ông đậu cử nhân khoa Giáp Tý
(1864) làm quan đến chức án sát rồi đốc học Nghệ An. Ông là vị quan
thanh liêm, rất quan tâm đến cuộc sống của binh sĩ và nhân dân. Anh ông là
Phạm Thanh đỗ Thám hoa, làm quan cũng nổi tiếng thanh liêm.
Năm 1885 khi vua Hàm Nghi xuất bôn, phát hịch Cần vương,
ông đã 60 tuổi, sức yếu nhưng ông vẫn bỏ quan về quê cùng Hoàng Bật Đạt
chiêu mộ quân khởi nghĩa đánh Pháp. Với uy tín sẵn có của mình, ông
nhanh chóng thống nhất lực lượng kháng chiến ở Hậu Lộc tạo thành một
khối thống nhất. Ông tổ chức Tế cờ khởi nghĩa ở nghè Lục Trúc, xã Phú
Cốc. Sau đó mở rộng phạm vi hoạt động liên kết với các lực lượng kháng
chiến của Hà Văn Mao, Nguyễn Khế, Lê Toại. Các ông lập căn cứ ở vùng
rừng núi thuộc xã Kim Âu và Thạch Bằng ở huyện Quảng Hoá, Thanh Hoá.
Ngày 7 tháng 2 năm Bính Tuất (1886) Phạm Bành đã phối hợp
với các lực lượng nghĩa quân khác ở Thanh Hoá tấn công tỉnh thành Thanh
Hoá và huyện lỵ Đông Sơn.
Sau trận đánh thành Thanh Hoá không thành, giữa năm 1886,
các thủ lĩnh phong trào Cần vương ở Thanh Hoá, họp Hội nghị ở Bồng
Trung, huyện Vĩnh Lộc thống nhất lực lượng, hành động chống Pháp. Các
thủ lĩnh cũng quyết định xây dựng một căn cứ chống Pháp có hiệu quả. Hội
nghị đã quyết định một việc quan trọng là xây dựng căn cứ Ba Đình ở
huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá và giao cho Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt,
Đinh Công Tráng cùng một số tướng thực hiện.
Phạm Bành cùng các đồng chí về xây dựng căn cứ ở đồng bằng.
Địa điểm xây dựng là ba thôn Mỹ Khê, Thượng Thọ, Mậu Thịnh, nay thuộc
huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Tháng 5/1886 , Phạm Bành, Đinh Công
Tráng kéo quân về núi Yến, vận động nhân dân dời đi nơi khác để nghĩa
quân xây đồn luỹ chống giặc.
Trong chiến đấu, Phạm Bành khi đó đã 60 tuổi, sức yếu vẫn
cùng các chỉ huy khác có mặt ở những nơi nguy hiểm nhất động viên, khích
lệ chiến sĩ chiến đấu. Ngày 18 tháng 12 năm 1886, Phạm Bành, Đinh Công
Tráng cùng các chỉ huy căn cứ Ba Đình đánh bại cuộc tấn công qui mô lớn
của hai tên trung tá Medingiơ và Đốt chỉ huy.
Ngày 6 tháng giêng năm 1887, Bộ tư lệnh quân đội Viễn chinh
Pháp phái tên đại tá Britxô (Brissaud) trực tiếp chỉ huy chiến dịch công phá
Ba Đình. Để bảo tồn lực lượng và trên thực tế một số đã hi sinh, một số bị
thương và cũng không sao chịu nổi mùi hôi thối của xác giặc chung quanh
căn cứ từ trận ngày 18 tháng 12/1886 , Phạm Bành, Đinh Công Tráng và
các tướng họp đột xuất bàn kế hoạch rút quân khỏi Ba Đình vào đêm 20
tháng 1/1887 (27 tết). (Theo tài liệu của Pháp thì con số tổn thất về người
của địch ít nhất cũng trên 200 tên chết và bị thương trong trận tấn công Ba
Đình về phía nghĩa quân theo tài liệu của Pháp khoảng 150 người).
Để nghi binh tiếng trống chèo, tiếng hát tiếng loa địch vẫn vang
lên không dứt. Các tay súng bắn tỉa phục trên bờ thành bắn rất trúng đích
các điểm loé sáng từ phía quân Pháp. Nghĩa quân chôn bốn khẩu súng thần
công và những vũ khí không đem theo được Bộ chỉ huy quyết định chia làm
2 hướng, 1 hướng do Đinh Công Tráng chỉ huy, một cánh do Phạm Bành,
Hoàng Bật Đạt, Nguyễn Viết Toại rút về hướng Nam. Cánh quân vừa ra
khỏi căn cứ thì giặc Pháp phát hiện, phải chiến đấu quyết liệt để mở đường
máu, thêm một số chiến sĩ hi sinh.
Cuộc rút lui đã hoàn thành đúng kế hoạch, làm thất bại âm mưu
tiêu diệt nghĩa quân ở căn cứ Ba Đình.
Sau khi rút khỏi căn cứ Ba Đình, Phạm Bành cùng một số tướng
lui về củng cố căn cứ Mã Cao. Song lực lượng quân Cần vương Thanh Hoá
đã bị tổn thất, quân Pháp tập trung đánh phá Mã Cao. Thành Ma Cao vỡ,
Phạm Bành lánh về quê để liên lạc với các đồng chí tập hợp lực lượng khôi
phục phong trào. Bọn Pháp và lũ tay sai dụ dỗ ông đầu hàng không được đã
hèn hạ bắt mẹ già và con ông là Phạm Tiên, hẹn trong 10 ngày nếu ông
không ra thú chúng sẽ hành hình mẹ ông và con trai ông ở nhà lao Thanh
Hoá. Vì thương mẹ và con, ông đã tự ra cho giặc bắt, nhưng trong mình
giấu sẵn một liều độc dược. Sau khi đã biết chắc mẹ và con trai thoát khỏi
tay giặc về quê an toàn, ông uống thuốc độc tự tử, hôm đó là ngày 18 tháng
3 năm Đinh Hợi (11/4/1897). Ông mất đi trong sự thương tiếc của đồng
bào.
NGUYỄN ĐÔN TIẾT
Nguyễn Đôn Tiết sinh năm 1836 người làng Thọ Vực nay thuộc
xã Hoàng Đức, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá. ông đậu Phó bảng năm
Kỷ Mão (1879), được bổ nhiệm làm tri phủ. Song ông chán cảnh triều đình
Huế đầu hàng Pháp, ông cáo quan về quê nhà mở trường dạy học, tuyên
truyền trong nhân dân lòng yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, căm thù bọn cướp
nước và bán nước.
Tháng 8 năm 1885, ông hưởng ứng Chiếu Cần vương của Vua
Hàm Nghi, dựng cờ khởi nghĩa, chiêu mộ quân đánh Pháp, xây dựng làng
Thọ Vực làm căn cứ chống Pháp. Đông đảo nhân dân tham gia nghĩa quân,
trong đó có con trai ông là Nguyễn Hữu Tư và đã trở thành một bộ tướng
xuất sắc. Khi các thủ lĩnh nghĩa quân Thanh Hoá quyết định xây dựng căn
cứ Ba Đình ở huyện Nga Sơn, ông đã cho con là Nguyễn Hữu Tư đến chiến
đấu dưới sự chỉ huy của Đinh Công Tráng.
Đêm 12 rạng ngày 13 tháng 3 năm 1886, ông và các lực lượng
nghĩa quân khác ở tỉnh Thanh Hoá tấn công tỉnh thành Thanh Hoá, huyện lỵ
Hoằng Hoá, huyện lỵ Đông Sơn. Việc không thành, ông cùng nhiều thủ lĩnh
nghĩa quân khác bị giặc Pháp bắt. Nằm trong nhà tù Thanh Hoá, bọn thực
dân Pháp và quan lại Nam triều tra tấn ông cực kỳ man rợ để khai thác bí
mật của nghĩa quân. song ông kiên cường bất khuất, dũng cảm chịu đựng
Nằm trong nhà tù, nhận được tin Phạm Bành tuẫn tiết, ông làm câu đối
khóc:
Quân tử trọn đời lòng tỏ trắng;
Tướng quân dẫu chết, mặt còn hồng.
Giặc tra tấn ông chết đi, sống lại nhiều lần, vẫn không khai thác
được gì ở ông. Chúng đầy ông đi nhà tù Lao Bảo là nhà tù ở nơi rừng thiêng
nước độc, bọn cai tù cực kỳ tàn ác ở tỉnh Quảng Trị. Do tuổi cao, bị tra tấn
tàn bạo, ông lâm bệnh, chết ở nhà tù Lao Bảo.
Con trai cả của ông là Nguyễn Hữu Tư chiến đấu ở chiến luỹ Ba
Đình. Ông chỉ huy một cách quân phá vây ngày 20 tháng 1 năm 1887 đã
anh dũng hy sinh.
Con trai thứ hai của ông là Nguyễn Đôn Dự hoạt động trong
phong trào Đông du bị thực dân Pháp bắt, đầy ra Côn Đảo và hy sinh ở đó.
NGUYỄN HỮU HẠNH
Nguyễn Hữu Hạnh người làng Kim Bôi, nay thuộc xã Đông
Thanh, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá, ông đậu cử nhân võ. Ông là phụ
tá của Trần Xuân Soạn ở kinh đô Huế. Do lập được nhiều chiến công trong
chiến đấu và có tài tổ chức, xây dựng quân đội, Nguyễn Hữu Hạnh được
Tôn Thất Thuyết tin cậy giao cho cùng Trần Xuân Soạn tổ chức Phấn Nghĩa
quân. Đây là đội quân nòng cốt tấn công vào khu nhượng địa của Pháp ở
Huế và ở đồn Mang Cá đêm mùng 4 rạng mùng 5 tháng 7 năm 1885.
Khi quân Pháp phản công, cuộc tập kích có nguy cơ thất bại thì
Tôn Thất Thuyết giao cho Nguyễn Hữu Hạnh chỉ huy một bộ phận nghĩa
quân chặn giặc Pháp ở cửa Đông Ba để Tôn Thất Thuyết Phạm Thận Duật,
Trần Xuân Soạn hộ giá vua Hàm Nghi rút khỏi kinh thành Huế. Hoàn thành
nhiệm vụ chặn giặc, Nguyễn Hữu Hạnh rút lui theo kịp hộ tống vua Hàm
Nghi ra Tân Sở.
Đến sơn phòng Quảng Trị, Ba cung (hai mẹ vua Tự Đức và mẹ
vua Hàm Nghi) không chịu đi. Tôn Thất Thuyết giao cho ông hộ tống Ba
cung trở về Huế giao cho Nguyễn Văn Tường. Thực hiện xong nhiệm vụ,
ông quay lại Tân Sở thì vua đã đi vào rừng Quảng Trị, ông tìm không được,
liền về quê ở làng Kim Bôi chiêu mộ quân đánh Pháp. Trong đội ngũ nghĩa
quân của ông La Văn Hạnh người cùng làng Kim Bôi, sát nhà ông, là trợ
thủ đắc lực, trong việc huấn luyện, chỉ huy nghĩa quân chiến đấu chống
quân Pháp. Ông Thiều Gia, người làng Phúc Triều, ông đỗ tới tam khoa tú
tài, không sao đỗ nổi bằng cử nhân. Thiều Gia là người giỏi thơ văn giữ
việc thảo hịch, thư từ liên lạc với các thủ lĩnh nghĩa quân khác và làm thơ tố
cáo tội ác của giặc Pháp cướp nước.
Trong trận các lực lượng nghĩa quân tỉnh Thanh Hoá phối hợp
tập kích tỉnh thành Thanh Hoá và huyện lị Đông Sơn thảng 2 năm Bính
Tuất (3/1886). Trận này về quân số thì nghĩa quân áp đảo giặc Pháp và Nam
triều, nhưng vì có mật vụ báo trước, nên giặc Pháp cho quân chặn các ngả
đường tiến vào thành phố. Đội quân của ông chưa tiếp cận được mục tiêu
đã bị quân mai phục của Pháp nổ súng đánh chặn. ông La Văn Hạnh vác cờ
đi đầu bị trúng đạn hy sinh. Nghĩa quân chống cự một cách yếu ớt rồi tan
tác.
Sau trận đánh thành Thanh Hoá không thành, nghĩa quân do
Nguyễn Hữu Hạnh chỉ huy tan rã. Ông lẩn quất ở cánh rừng gần làng, với ý
định về làng khôi phục lực lượng. Nhưng làng Kim Bôi bị quân Pháp bao
vây, lùng sục dữ dội, nhiều người bị bắt, làng xóm bị đốt phá. Nguyễn Hữu
Hạnh đợi đêm tới vượt sông Mã tới căn cứ Vân Đồn ở phía bắc núi Nưa do
chánh sứ sơn phòng Tống Duy Tân thiết lập. Tống Duy Tân biết ông là
người có tài tổ chức lực lượng nghĩa quân và chỉ huy chiến đấu giỏi, bổ
sung ông vào ban chỉ huy đồn Vân Đồn hoạt động ở vùng tây Nam huyện
Hoằng Hoá. Ông đã tích cực xây dựng đồn luỹ Vân Đồn, huấn luyện quân
sĩ trở thành thiện chiến. ông cũng chỉ huy nghĩa quân đánh nhiều trận.
Việc ông Nguyễn Hữu Hạnh tham gia chiến đấu ở căn cứ Vân
Đồn được giữ bí mật, vì để lộ giặc Pháp sẽ tàn sát con cháu ông, triệt phá
làng Kim Bôi. Khoảng năm 1890, căn cứ Vân Đồn vỡ, ông trở về nhà sống
cuộc đời dân dã được vài năm thì mất. Có người ở Vân Đồn bí mật tới
viếng kể chuyện, đến lúc đó con cháu mới biết suốt từ năm đánh thành
Thanh Hoá thất bại đến năm 1890 ông chiến đấu ở Vân Đồn.
LÊ VĂN THỨC
Lê văn Thức là người làng Nhuận Thạch, nay thuộc xã Đông
Tiến, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Ông là cai tổng, thường gọi là Cai
Hoà. Ông làm tổng lý, nhưng không a dua theo Pháp như nhiều kẻ khác mà
luôn luôn đứng về phía nhân dân phản đối sưu cao, thuế nặng, bắt phu, bắt
lính của bọn quan phủ, quan huyện tay sai giặc Pháp.
Năm 1885 vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị hạ
chiếu Cần vương, sai Trần Xuân Soạn về Thanh Hoá phát động phong trào
khởi nghĩa. Cai Hoà hưởng ứng bằng cách vận động con em, gia nhập nghĩa
quân. Ông thường bàn với lý trưởng Chới ở làng Triều Xá tìm cơ hội đánh
giết giặc Pháp. Dịp may đã đến, vào đầu tháng 3 năm Bính Tuất (7/4/1886)
một toán lính Pháp đi tuần tra, đến làng Triều Xá, chúng vào nghỉ ở nhà Lý
trưởng Chới.
Cai Hoà được Lý trưởng Chới thông báo, liền quyết định đánh.
Một kế hoạch cướp súng và tấn công quân Pháp được vạch ra. Trong lúc
lính Pháp ở trong nhà đã ăn uống xong, đang đùa với nhau, súng vẫn chụm
ở ngoài sân. Bỗng một đoàn người già trẻ, trai gái, đem lễ vật là chuối tiêu
và trứng gà luộc hợp khẩu vị của lính Pháp bước vào. Một cụ già đại diện
nói: “Nghe tin các quan Pháp về, dân xã chúng tôi đến chào mừng và có
chút lễ mọn đem kính biếu”. Bọn Pháp khen ngợi. Dân đến mỗi lúc một
đông, trong đó có nhiều trai tráng, bất thình lình một số người xông vào
cướp súng, rồi gậy gộc phang vào đầu giặc Pháp, gạch đá ném túi bụi vào
chúng. Ta cướp được súng nhưng không có đạn. Bọn lính Pháp sau phút
hoảng loạn, chúng bình tĩnh trở lại, giành lại được vài ba khẩu súng, chĩa
súng vào đám đông bóp cò. Bên ta một số người bị thương, bọn lính Pháp
chết 2 tên và rất nhiều tên bị thương. Bọn lính Pháp chạy ra bãi Mả Mồ,
chấn chỉnh đội hình bắn trả.
Sau khi quân Pháp rút. Lê Văn Thức và Lý Chới biết thế nào
giặc Pháp cũng quay lại đàn áp trả thù liền cho người già, trẻ con ở ba làng
Triều Xá, Triều Tiến, Nhuận Thạch bồng bế con cái gồng gánh đồ đạc, dắt
trâu, khiêng lợn lánh sang các làng khác. Lê Văn Thức tổ chức trai tráng
thành đội ngũ, anh em tự trang bị vũ khí chủ yếu là giáo mác, dao phát bờ,
gậy gộc, rào làng chuẩn bị chiến đấu.
Quả nhiên mấy ngày sau, quân Pháp điều động một lực lượng
lính Pháp, lính khố xanh. khố đỏ bao vây, tiến đánh ba làng trên. Chúng
cũng đề phòng quân của Lê Khắc Tháo, Trần Xuân Huấn, Nguyễn Hữu
Lâm tới chi viện đã cho quân đóng chặn các ngả đường vào ba làng trên.
Quân Pháp bắn như đổ đạn vào các làng rồi cho quân tiến vào
làng. Nghĩa quân chỉ có vài khẩu súng cướp được của giặc nhưng không có
đạn nên không đánh được từ xa. Khi quân giặc đột phá vào làng Triều Xá,
ông Lê Văn Thức đích thân chỉ huy nghĩa quân đánh giáp lá cà với giặc.
Nhưng thế giặc mạnh, ông phải cho quân rút khỏi làng. Bọn Pháp truy kích
ráo nết. cuối cùng chúng bắt được Lê Văn Thức và một số nghĩa quân, đã
dùng một cực hình tra tấn buộc ông phải khai ra những người đồng mưu với
mình, song chúng không moi được gì. Ngày 4 tháng 3 năm Bính Tuất
(714/1886) Lê Văn Thức bị giặc Pháp chém rồi treo đầu ở cửa Tả thành
Thanh Hoá. Ba ngày sau mới cho người nhà đem xác về chôn. Khi con cháu
thay áo thấy trong vạt áo của ông có câu đối viết bằng máu:
Nhất phiên đan tâm ưng bất tử
Bách niên cơ sự phó lai sinh.
Dịch.
Một tấm lòng son ưng chẳng chết.
Trăm năm cơ sự để người sau.
LÊ NGỌC TOẢN
Lê Ngọc Toản người xã Cổ Định (nay là xã Tân Ninh, huyện
Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá, trong một gia đình có thế lực trong vùng. Ông
đỗ cử nhân được bổ nhiệm làm tri phủ Đoan Hùng (Phú Thọ).
Năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị hạ
chiếu Cần vương, Lê Ngọc Toản hưởng ứng, bỏ quan về quê dấy nghĩa. Lúc
đầu khi mới dựng cờ khởi nghĩa, ông xây dựng căn cứ ngay tại làng Cổ
Định. Về sau ông xét thấy địa hình Cổ Định không có lợi thế về quân sự
nên đã chọn Ngàn Nưa - nơi địa thế hiểm trở, xưa đã từng là căn cứ địa của
Triệu Quốc Đạt, Triệu Thị Trinh xây dựng căn cứ.
Lực lượng nghĩa quân Lê Ngọc Toản có khoảng 200 người, đa
số là tráng đinh các tổng Cổ Định, Lai Triều, Hữu Định, Đô Xá tham gia.
Nghĩa quân huấn luyện tại triền núi Nưa hiểm trở, xa khu dân cư. Ông xây
dựng đồn binh ở Ba Động và Sả Hèo nằm cách nhau 1 km. Bộ chỉ huy cũng
đóng tại đây. Hai đồn này nằm trên trục đường nối liền hai tổng Cổ Định -
Lai Triều, lại có đường thông tới các huyện Thọ Xuân, Như Xuân. Đồn tiền
tiêu đóng ở làng Tương Định nay thuộc xã Tân Thọ án ngữ đường Cầu
Quan - Quán Giắt.
Bộ chỉ huy nghĩa quân đóng ở đồn Ba Động. Lê Ngọc Toản cử
Lê Duy Tán làm quản binh, đảm trách nhiệm vụ huấn luyện, chỉ huy tác
chiến. Lê Ngọc Toản rất coi trọng lương thực, ông cử Lê Xuân Trường là
người quen biết rộng, có uy tín trong vùng làm Đốc vận quân lương.
Hoạt động của nghĩa quân chủ yếu ở vùng Tây Bắc huyện Triệu
Sơn (xưa thuộc Nông Cống) chủ yếu là đoạn đường từ Cổ Định đi Quán
Giắt ra Cầu Thiều. Nghĩa quân thường xuyên quấy rối địch ở đồn Hoàng
Lộc gần Quán Giắt, chặn đánh các toán quân do thám, tuần tiễu của giặc
Pháp gây nhiều khó khăn cho việc lùng sục, càn quét của chúng.
Cuộc khởi nghĩa của Lê Ngọc Toản chịu sự chỉ huy chung của
bộ chỉ huy chung của tỉnh Thanh Hoá do Tả quân Đô thống Trần Xuân
Soạn và Chánh sứ sơn phòng Tống Duy Tân chỉ huy.
ĐỘI TÁM
Đội Tám tên thật là Lê Xuân Tuyển, sinh năm 1831 trong một
gia đình ngư dân ở làng Đông Thành, xã Hà Lộ, tổng Ngọc Chuế, huyện
Hoằng Hoá, nay thuộc xã Hoằng Tiến, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
Lê Xuân Tuyển là một ngư dân quen nghề sông nước, nên năm Tân Hợi
(1851) ông được tuyển làm lính thuỷ. Nhiệm vụ của ông là vận chuyển
lương thực dùng vào việc quân từ các tỉnh Bắc Kỳ vào Kinh đô Huế. Do
ông mẫn cán hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nên được bổ nhiệm làm Đội
trưởng. Từ đó ông có tên là Đội Tám.
Năm 1864, Đội Tám được chỉ định chỉ huy chiến thuyền đánh
bọn hải phỉ ở vùng đảo Vân Đồn thuộc tỉnh Quảng Yên. Với tài dụng binh,
ông không bày trận đánh bọn hải phỉ vốn thạo thuỷ chiến, mà tổ chức một
trận đánh úp diệt được nhiều chiến thuyền, bắt sống được tên cầm đầu hải
phỉ. Vùng biển Quảng Yên được giữ yên. Tháng 10 năm Bính Dần (1866)
vua Tự Đức tin cậy giao cho Đội Tám áp tải quân lương, trông coi việc
đóng chiến thuyền bọc đồng cho triều đình. Năm Kỷ Tỵ (1870) ông chỉ huy
việc thao diễn binh lính hoàn hảo, được triều đình thưởng tiền. Đến năm
Nhâm Thân (1872) ông được thăng chức Chánh đội trưởng suất đội. Cuối
năm 1883 vua Hàm Nghi lên ngôi, Binh bộ thượng thư Tôn Thất Thuyết
xây dựng Tân Sở ở Quảng Trị thành căn cứ quân sự để khi cần thiết thì
chuyển triều đình về đó chỉ đạo kháng chiến. Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân
Soạn tin tưởng giao cho ông nhiệm vụ quan trọng xây căn cứ này. Sau đó
ông lại được giao chở vàng bạc, vũ khí ở Kinh đô ra, chuyển lương thực ở
các tỉnh Bắc Kỳ vào dự trữ ở Tân Sở.
Hoàn thành nhiệm vụ xây dựng cơ sở ở sơn phòng Tân Sở, ông
được cử ra đóng ở sơn phòng Hà Tĩnh. Tháng 7/1885 Tôn Thất Thuyết tấn
công quân Pháp ở Kinh thành Huế, việc không thành, các ông rước vua ra
Tân Sở, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương. Đội Tám đã hưởng ứng chiếu
Cần vương bằng hành động phát động thân hào, thân sĩ, nhân dân ở ba tỉnh
Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá thành lập các đội nghĩa binh đánh Pháp. Khi
quân Pháp chiếm được tỉnh thành Thanh Hoá một cách dễ dàng vì quan
quân sợ giặc mở cửa thành đầu hàng, Đội Tám bỏ về quê ở Hoằng Hoá. Lúc
này phong trào Cần vương ở Thanh Hoá phát triển rầm rộ, các thủ lĩnh
nghĩa quân ở Thanh Hoá cử ông làm Tán lý Lãnh binh. Ông tổ chức nghĩa
quân ở vùng biển Hoằng Hoá rồi liên lạc với các thủ lĩnh Phạm Bành,
Nguyễn Đôn Tiết. Các thủ lĩnh Cần vương Thanh Hoá quyết định xây dựng
chiến luỹ Ba Đình với kiến trúc đặc biệt chưa từng có trong lịch sử chiến
tranh là xếp các sọt bùn tạo nên tường thành. Nhiệm vụ này được giao cho
Đội Tám người có đóng góp quan trọng trong việc xây.dựng căn cứ Tân Sở
ở Quảng Trị thực hiện. Tháng 9 năm 1886, chiến luỹ xây xong, Đội Tám
cho chuyển lương thực, thực phẩm dự trữ chứa trong các kho nửa chìm, nửa
nổi. Số lương thực này đủ cho đội quân phòng thủ sử dụng trong 6 tháng.
Các thủ lĩnh phong trào Cần vương Thanh Hoá rất hài lòng với cấu trúc của
chiến luỹ này. Khi trên 300 nghĩa quân được lựa chọn ở các cánh quân
trong tỉnh tới, Đội Tám được phong chức Chánh Đề đốc phụ trách việc
huấn luyện chiến thuật phòng ngự, tấn công cho anh em. Sau trận này quân
Pháp tập trung quân Pháp, lính Nam triều, giáo dũng trở phá các căn cứ của
phong trào Cần vương toàn tỉnh. Nhiều thủ lĩnh hy sinh, bị bắt, bị hành
hình. Đội Tám về quê trú ẩn, giặc phát hiện được, bắt ông đi tù vài năm rồi
thả về. Ông sống cuộc đời bình dị ở quê, mất năm Kỷ Dậu (1909) ở tuổi 79.
NGUYỄN TRỌNG TÂY
Nguyễn Trọng Tây người làng Phù Lưu, Nguyễn Thế Sanh và
Thiều Kim Nê người làng Viện Giang, đều ở huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh
Hóa, nay cả hai làng đều thuộc xã Đông Tân, huyện Đông Sơn. Cả ba ông
Nguyễn Trọng Tây, Nguyễn Thế Sanh, Thiều Kim Nê đều đỗ cử nhân võ.
Tháng 7 năm 1885, sau trận tấn công quân Pháp ở Kinh thành
Huế đêm 4 rạng ngày 5 không thành, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn
rước vua Hàm Nghi ra Tân Sở, hạ chiếu Cần vương. Thanh Hóa là một
trong những tỉnh có đông đảo sĩ phu hưởng ứng, ba ông cử nhân võ cũng
chiêu mộ quân đánh Pháp. Công việc mới khởi đầu thì có kẻ đi mật báo cho
giặc Pháp biết. Quân Pháp kéo về vây hai làng Phù Lưu và Viện Giang.
Nguyễn Thế Sanh và Thiều Kim Nê đem quân ra chống cự, bị giặc Pháp
bắt, chém ngay tại chỗ. Nguyễn Trọng Tây phá vòng vây chạy thoát cùng
một số nghĩa quân gia nhập cuộc khởi nghĩa do Lê Khắc Tháo ở Bái Giao
lãnh đạo. Khi các thủ lĩnh phong trào Cần vương ở Thanh Hóa họp hội nghị
ở Bồng Trung quyết định xây dựng căn cứ Ba Đình ở huyện Nga Sơn, giao
cho Đinh Công Tráng, Phạm Bành và một số tướng lĩnh chỉ huy, Nguyễn
Trọng Tây được Lê Khắc Tháo cử về tham gia xây dựng căn cứ Ba Đình và
tham gia chỉ huy chiến đấu ở đó.
Nguyễn Trọng Tây được Đinh Công Tráng, Phạm Bành cử chỉ
huy một trong ba đồn. Ông còn được lệnh đem quân đi tập kích các đồn
binh Pháp và Nam triều đóng ở Nga Sơn, Tống Sơn (Thanh Hóa), Tam
Điệp (Ninh Bình) và chặn đánh các đoàn xe vận tải của giặc Pháp trên
đường thiên lý.
Nguyễn Trọng Tây chỉ huy quân sĩ đánh bại trận càn quy mô lớn
vào ngày 18 tháng 2 năm 1886 ở hướng Tây Nam do tên trung tá
Meldinggiơ chỉ huy. Ông còn tham gia trận đánh ngày 6 tháng giêng năm
1887 do tên trung tá Đốt chỉ huy. Nguyễn Trọng Tây hy sinh trong trận
nghĩa quân chủ động rút khỏi căn cứ vì không chịu nổi mùi hôi thối của xác
giặc chết ở chung quanh căn cứ.
LÊ CHÍNH
Lê Chính còn gọi là Bang Hiền là con cụ Lê Đức có theo học
chữ nho, nhưng không đi thi, ở nhà dạy học. Mặc dù theo học nghiệp văn,
song ông chuộng cả văn lẫn võ. Do gia cảnh nghèo, nên mãi đến năm 1850
ông mới đỗ cử nhân khoa thi Hương ở Nam Định.
Năm Kỷ Mão (1879) Lê Chính vào Huế thi Hội, thi Đình và đỗ
Phó bảng.
Lê Chính vốn nặng lòng yêu nước, trong thời gian ở Huế đã
dâng biểu lên vua Tự Đức về chiến lược phòng thủ đất nước, về các chính
sách kinh tế, phát triển công nghiệp, tu bổ đê đập, khơi sông ngòi, dẫn thuỷ
nhập điền. Những bản tường trình của ông về các vấn đề trên được Tự Đức
đưa ra viện cơ mật thảo luận, song không được thi hành.
Cũng trong thời gian lưu lại kinh đô, ông đã được tiếp xúc với
Tôn Thất Thuyết là một trong những người đứng đầu phe chủ chiến trao đổi
về tình hình đất nước, đặc biệt về việc xây dựng một quân đội hùng mạnh ở
các địa phương. Tôn Thất Thuyết rất ủng hộ ý kiến của ông. Lê Chính quyết
tâm đi theo con đường vũ trang đánh Pháp.
Khi Tự Đức mất, Ưng Lịch nối ngôi, lấy hiệu là Hàm Nghi, Tôn
Thất Thuyết đã cử ông về Thanh Hoá tham gia lực lượng kháng chiến do
Trần Xuân Soạn tổ chức. Ông được cử giữ chức Bang biện quân vụ tổng
Văn Trinh, huyện Quảng Xưởng. Ông đã thống nhất lực lượng vũ trang của
các xã thành một lực lượng nghĩa quân thống nhất tổng Văn Trinh.
Với nhãn quan của người đã từng nghiên cứu binh thư, ông đã
chọn "Cồn Cá Gáy" rộng tới 18 mẫu có cây um tùm, chung quanh là ruộng
chiêm trũng, nước ngập sâu để xây dựng cứ điểm.
Căn cứ vào quân số có sẵn ở các xã trong tổng và địa hình, ông
chia quân làm bốn đơn vị do thủ lĩnh nghĩa quân các xã chỉ huy đóng ở các
chốt quan trọng như núi Văn Trinh, núi Hoà Trung, núi Đá Chẹt...
Khi giặc Pháp từ Nghệ An đánh ra tỉnh Thanh Hoá, chúng bị
nghĩa quân tổng Văn Trinh chặn lại tiêu diệt ở các cứ điểm trên. trong đó
phải kể đến trận đánh ở núi Hoà Trường do Cử Lưỡng chỉ huy. Lê Chính bố
trí quân trong đám cây cỏ rậm rạp ở bến sông Hoằng. Bọn giặc vừa từ ca nô
lốc nhốc kéo lên bãi, nghĩa quân đồng loạt bắn tên tẩm thuốc độc giết chết
nhiều tên. Trong khi bọn giặc hoảng loạn thì nghĩa quân nhất tề xông ra
dùng mã tấu, đoản đao, kiếm đánh giáp lá cà giết chết gần hết bọn chúng.
Bọn còn lại trên ca nô tháo chạy mặc những tên chết, những tên bị thương
gào khóc.
Trận này nghĩa quân thắng lớn, thu được nhiều vũ khí, quân
trang. Giặc bị chết gần hết, xác phơi trên bãi, nổi lềnh bềnh trên sông
Hoằng.
Quân Pháp muốn tấn công tỉnh thành Thanh Hoá từ phía Nam
nhất thiết phải san phẳng được các cứ điểm tổng Văn Trinh. Ngày 24 tết
năm Bính Tuất (1886) quân Pháp huy động hàng trăm canô chở đầy lính
theo sông Hoà Trường tiến vào. Lê Chính lệnh cho dân cư ở cồn Cá Gáy và
các làng lân cận tản cư vào huyện Nông Cống, chỉ còn nghĩa quân ở lại.
Ông bố trí trận địa mai phục và khôn khéo cải trang dẫn chúng tới trận địa
phục kích rồi biến mất trong những bụi cây. Cũng lúc đó tên, đạn của nghĩa
quân phục ở hai bên bắn ra cấp lập. Bọn giặc hốt hoảng tháo chạy.
Sau trận này, quân Pháp càn quét liên tục vào tổng Văn Trinh,
nhưng Lê Chính vẫn chỉ huy nghĩa quân hoạt động liên tục trong 10 năm,
đến năm 1895 mới tan rã. Các đồng chí của ông như Đỗ Đức Mậu, Đốc
Nhất, Cử Lưỡng hy sinh, ông rút lên miền núi cùng chiến đấu với Cầm Bá
Thước. Khi ông Thước hy sinh, ông cải trang ra dạy học ở Hà Nam, mất
năm 1922 thọ 98 tuổi. (Theo bài Đội nghĩa quân Văn Trinh trong phong
trào Cần vương tỉnh Thanh Hoá cuối thế kỷ XIX của giáo sư Đinh Xuân
Lâm, TCLSQS).
NGUYỄN TỬ TƯƠNG
Nguyễn Tử Tương sinh ngày 14 tháng 4 năm Giáp Thìn (5 tháng
6 năm 1844) ở thôn Thư Điền, xã Ninh Nhất, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh
Bình.
Nguyễn Tử Tương bản tính thông minh, học giỏi, văn chương
phóng túng không chịu gò bó trong "khuôn vàng, thước ngọc” của nho học.
Ông muốn nối chí cha đang giữ chức án sát tỉnh Quảng Yên nên còn học
thêm võ nghệ. Ông không ngừng cùng bạn bè luyện tập, được giới võ lâm
trong vùng kính nể. Vì văn chương phóng túng, chuộng võ hơn văn chương,
nên ông đi thi mấy lần đều bị quan giám khảo đánh trượt, lận đận mãi đến
năm 24 tuổi mới thi đỗ tú tài, năm sau đó thi cũng chỉ đỗ tú tài. Chán con
đường khoa cử, ông xuống Quảng Yên giúp cha cầm quân đánh dẹp giặc
Tầu Ô, hải phỉ lập được nhiều chiến công.
Chiến công của ông đánh dẹp quân Tàu Ô, hải phỉ được triều
đình biết tới. Mặc dầu ông mới đỗ tú tài vẫn được bổ nhiệm chức Bang biện
sơn phòng tỉnh Thuận Hoá. Từ đó ông có tên gọi là "Bang Tương". Do ông
có công lao xây dựng lực lượng biên phòng và bảo vệ biên giới phía Tây
tỉnh Thuận Hoá, dẹp yên nạn trộm cướp, lưu manh ở miền Tây Thuận Hoá
nên ông được thăng Thương biện tỉnh vụ.
Ngày 25/4/1882, quân Pháp do Henri Riviere hạ thành Hà Nội.
Triều đình Huế đã không chống cự, còn ra lệnh bãi binh chiêu hồi các tướng
đang đánh Pháp về Kinh đợi chỉ, ngăn cấm nhận dân không được tổ chức
lực lượng vũ trang đánh Pháp. Nguyễn Tử Tương liền từ quan về quê ở
Ninh Bình. Tại đây ông đã liên lạc với nhiều sĩ phu yêu nước như Đinh Văn
Tâm ở xã Hàng Sơn, Ba Chu ở xã Quán Vinh, Nguyễn Thể Kháng ở xã Áng
Ngữ, Đinh Văn Phú và Đinh Hữu Khang ở xã Tri Hối đều thuộc tỉnh Ninh
Bình, chuẩn bị lực lượng để khi có thời cơ thì nổi dậy đánh Pháp xâm lược
và vua quan nhà Nguyễn đầu hàng giặc.
Khi vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương, nghĩa sĩ khắp nơi
hưởng ứng. Thời cơ đã tới, Nguyễn Tử Tương liền cùng các ông Đinh Văn
Tâm, Nguyễn Thế Khánh, Phạm Văn Chu, Đinh Văn Phú, Đinh Hữu Khang
dựng cờ nổi trống phát động nhân dân hưởng ứng. Nguyễn Tử Tương còn
liên hệ với Trần Xuân Soạn quê ở Thanh Hoá. Ong cũng tới Tiên Động ở
huyện Cẩm Khê, tỉnh Vĩnh Phúc liên hệ với Nguyễn Quang Bích, được
Nguyễn Quang Bích thừa lệnh vua Hàm Nghi phong là Tán tương quân vụ
phụ trách nghĩa quân Ninh Bình, Hà Nam, Nam Định. Khi đã có lực lượng
được trang bị vũ khí, Tán tương quân vụ Nguyễn Tử Tương bàn với ông Tú
Đập đánh tỉnh thành Ninh Bình vào đêm 20 tháng 4 năm Bính Tuất
(23/5/1886). Nhưng do chuẩn bị chưa tốt việc liên lạc với các cánh quân
chưa chặt chẽ, đặc biệt là thiếu đội quân mạnh ở Hoà Bình do Đề Đập chỉ
huy. Quân của ông đã đột nhập vào tỉnh lỵ Ninh Bình, nhưng xét thấy
không đủ lực lượng công thành, nên ông cho đốt cổng Đông, chợ Phủ rồi
rút lui.
Bị quân Pháp truy kích, Nguyễn Tử Tương rút quân lên miền núi
tiếp tục huấn luyện, chiêu mộ thêm quân. ông đã phối hợp với nghĩa quân
Nam Định, nghĩa quân Hà Nam đánh các trận ở Nho Quan, Ý Yên, Phủ Lý
gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Năm 1887, thực dân Pháp phát động
lệnh các xã phải truy bắt ông nộp cho chúng, song nhân dân vẫn bảo vệ
ông.
Nguyễn Tử Tương ở rừng núi lâu ngày bị mắc bệnh sốt rét, bụng
bang. Năm 1898 ông về nhà chữa bệnh, bị tên Cựu Bưởng phản bội báo cho
giám binh Ninh Bình đến bắt. Thực dân Pháp và tay sai dụ dỗ ông ra làm
quan, chúng sẽ chữa khỏi bệnh và cho ông hưởng vinh hoa phú quý, nhưng
ông nhất định phản kháng. Đêm 16 tháng 10 năm Mậu Tuất (29/11/1898)
Nguyễn Tử Tương dùng dao găm tự vẫn để tỏ thái độ bất hợp tác đối với
giặc.
ĐINH VĂN PHÚ - ĐINH HỮU KHANG
Vào thời Tự Đức, chi họ Tri Hối ở làng Sào Long, xã Tri Hối có
anh em ông Đinh Văn Phú và Đinh Hữu Khang, cả hai ông đều đỗ tú tài
đến khoá thứ tư.
Năm 1885 khi Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn tấn công quân
Pháp ở đồn Mang Cá, Lãnh sự Pháp ở kinh thành Huế thì quân Pháp phản
công. Hai ông cùng một số quan văn võ trong phe chủ chiến đã rước vua
Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị.
Vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương. Các sĩ phu, nhân dân Trung
Kỳ, Bắc Kỳ đều nhiệt liệt hưởng ứng trong đó có Đinh Văn Phú và Đinh
Hữu Khang ở Thái Bình. Ông Đinh Văn Phú và ông Đinh Hữu Khang chiến
đấu dũng cảm, mưu trí tiêu diệt nhiêu quân địch- ông Phú được vua Hàm
Nghi ban cho Ngân tiền có ghi chữ "Thưởng công”.
Khi hai ông Đinh Văn Phú, Đinh Hữu Khang mất xã Thiên Hối
và ấp Tân An gần làng Sào Long tôn làm thành hoàng thờ hai ông.
Đời sau có thơ vịnh hai ông:
VỊNH CỤ NỀN ANH ĐINH VĂN PHÚ
Xếp hề thư kiếm, dấy dao cung
Việc nước cùng em gánh vác chung
Tàn bạo, không dung ma quỷ trắng
Quật cường quyết cứu nước non Hồng
Sắc phong sán lạn lòi bao đức
Tiền tặng huy hoàng chữ thưởng công
Huyết thực ngàn thu thần mấy xã
Đời sau nên mối chí anh hung.
VỊNH CỤ NỀN EM ĐINH HỮU KHANG
Tú tài mới đỗ bốn khoa liền,
Vì nước cùng anh xếp bút nghiên,
Sát tả sục sôi lòng cách mạng
Bình Tây bỗng nhẹ gót chinh yên
Vào sinh ra tử từng bao trận
Lội suối trèo non trải chục niên
Thành bại lẽ thường chi xá kể,
Anh hùng tâm sự đối Hoàng thiên.
ĐỐC ĐEN
Đốc Đen tên thật là Bùi Văn Quảng, người đen khoẻ mạnh, rất
giỏi bơi lội, tính khí ngang tàng. Vì vậy mọi người gọi ông là Đen, ít người
nhắc đến tên cúng cơm của ông. Ông người làng Yên Lữ, huyện Đông
Quan, nay thuộc xã Đông Quan, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Năm
1882, Đen làm phụ tá cho Nguyễn Thân. Tổng đốc Định - An Vũ Trọng
Bình gọi Thân vào thành giúp việc quân. Thân đem theo cả Đốc Đen. Ở
trong quân ngũ Đốc Đen tiếp xúc, kết thân với Lãnh Khuyển, Đề Gạo, Ba
Gang đều là những thủ lĩnh giỏi của nghĩa quân Nam Định, Hưng Yên.
Đốc Đen đánh úp các toán quân của triều đình do phe chủ hoà
chỉ huy, lấy vũ khí. Ông còn tập kích vào các huyện lỵ Quỳnh Côi, Đông
Quan, Phụ Dực, Kiến Xương. Đốc Đen liên hợp với các thủ lĩnh nghĩa quân
như Đốc Nhưỡng ở Đô Kỳ, Lãnh Hoan ở Thọ Vực.
Phong trào kháng chiến chống Pháp ở Thái Bình lên mạnh và
quyết liệt từ tháng 7/1885 sau khi vua Hàm Nghi xuất bôn; hạ chiếu Cần
vương. Tri phủ Hoàng Văn Hoè từ quan theo Tạ Hiện cùng Đốc Đen chiêu
mộ quân đánh Pháp. Từ năm 1885 đến năm 1888, Đốc Đen hoạt động mạnh
ở Thanh Quan, Đông Quan (Thụy Anh), lan sang cả Thần Khê.
Ngày 25/8/1888, Đốc Đen tập kích đồn Bình Cách (Đông Xá,
Đông Hưng), Pháp phải đưa lính ở Thuỵ Anh tới cứu viện.
Đêm 23/11/1888, trong khi nghĩa quân Nam Định tiến công đồn
Vụ Bản thì Đốc Đen chỉ huy 300 quân đánh vào đồn Thanh Quan, hai tên
thiếu uý Đây véc giơ (Duvergé) và I luyếc xi (Illiercy) phải liều chết đốc
thúc quân lính dưới quyền chống cự mới giữ được đồn.
Đêm 21/9/1889, quân Pháp cho tên Khải người cùng làng Đốc
Đen chà trộn vào hàng ngũ nghĩa quân chỉ điểm. Đốc Đen phát hiện ra liền
tương kế, tựu kế, cố tình để lộ việc mời các thủ lĩnh về nhà mình ăn uống,
bàn cách đánh kho gạo Kiến Xương. Tên Khải thám thính được vội vàng
báo cho Bùi Phụng, Tuần phủ Thái Bình và tên thiếu uý Rivière chỉ huy đồn
Phụ Dực biết. Hai tên này vội vàng đưa lính đến làng Yên Lũ, Bùi Phụng
thúc lính vây kín chung quanh làng, Đốc Đen cho số quân ít ỏi phục ngoài
vườn còn mình và các tướng vẫn ngồi trên sập uống rượu. Rivière vừa vào
tới sân thì nghĩa quân phục ở ngoài vườn nổ súng. Đốc Đen cầm mã tấu
xông ra sân, chém cụt đầu tên thiếu uý Pháp. Tên Khải đi sau vội kêu lên:
"Ối quan phủ ơi nó giết mất quan một rồi”. Hắn chưa dứt lời thì cũng bị
nghĩa quân xông vào chém đứt đầu hắn như tên đồn trưởng Pháp rồi xách
đầu hắn chạy. Bùi Phụng phải vượt qua lưới đạn của nghĩa quân để khênh
cái xác không đầu của Rivière ra khỏi làng.
Trận đánh phá vây nổi tiếng uy danh Đốc Đen càng lừng lẫy,
đích thân tên công sứ Nam Định Lamothe de Ranier lệnh cho phó sứ bố
chánh Nam Định, từ phủ Thái Bình đem quân đi càn quét để bắt Đốc Đen.
Từ cuối năm 1889 , phong trào chống Pháp ở Thái Bình khó
khăn, Tạ Hiện, Phạm Huy Quang, Bang Tốn hi sinh. Căn cứ Đô Kỳ của
Đốc Nhưỡng, căn cứ Thọ Vực của Lãnh Hoan bị quân Pháp càn đi, quét lại
nhiều lần. Quân Pháp sau khi phá vỡ các cuộc càn quét khác đã tập trung
binh lực, bao vây, truy quét Đốc Đen. Tuy vậy ông vẫn khôn khéo tránh các
mũi nhọn của địch, đánh nhiều trận tập kích, phục kích xuất sắc. Tiêu biểu
như các trận cuối năm 1889, Đốc Đen chỉ huy nghĩa quân đánh một trận ác
chiến với quân lính của tên quan phủ Kiến Xương. Tháng 1/1890, Đốc Đen
chỉ huy nghĩa quân đánh một trận lớn ở phía bắc phủ Kiến Xương, ở chùa
Tương An, Đốc Đen còn tấn công huyện đường Thư Trì.
Tháng 3/1890, Đốc Đen nhận được tin tên công sứ chở gạo từ
Gia Định về để bán với giá cắt cổ cho dân bị mất mùa, ông phối hợp với
quân của Lãnh Hoan, Đốc Nhưỡng đánh trận Bình Cách để cướp gạo.
Các hoạt động của Đốc Đen vang dội, Tạ Quang Hổ - con trai
Tạ Hiện, Cả Tiến, con rể Phạm Huy Quang cùng về liên hệ, bàn kế hoạch
tác chiến.
Để đối phó với quân Pháp tập trung quân mở các cuộc càn quét
lớn vào các khu vực hoạt động của nghĩa quân, Đốc Đen chia quân thành
những toán nhỏ, mặc quần áo của lính khố xanh, khố đỏ, hành quân giữa
ban ngày tiến đánh các đồn bốt giặc, các lỵ sở của bọn quan phủ huyện làm
tay sai cho giặc Pháp.
Tháng 11/1889, Đốc Đen phối hợp với các thủ lĩnh các cuộc
khởi nghĩa ở Nam Định. Hưng Yên đánh phủ lỵ Kiến Xương và phủ lỵ Thư
Trì. Các ông tập trung ở căn cứ của Lãnh Bí, tên chánh đội Phạm Biểu làm
phản báo cho tri phủ Kiến Xương là Trần Thuỳ, tên này báo cho quân Pháp
rồi đưa lính đến bao vây. Hai bên đánh nhau ác liệt từ chiều đến đêm, cả hai
bên điều bị thiệt hại rồi cùng rút lui.
Tháng 12/1889, Đốc Đen chỉ huy nghĩa quân đánh thẳng vào
huyện lỵ Thư Trì. Song quân triều đình đã được tăng viện lính và vũ khí
chống trả dữ dội nên trận đánh không hiệu quả.
Năm 1890 , tỉnh Thái Bình mất mùa, Đốc Đen đánh úp các đoàn
tải lương của quân Pháp. Ông cùng với Đốc Nhưỡng, Lãnh Hoan hợp quân
đánh thẳng vào Bình Cách, phủ lỵ Thái Bình, các huyện lỵ Đông Quan,
Thanh Quan, Kiến Xương. Nhưng kế hoạch bị lộ, tri phủ Bùi Bổng phi báo
cho Pháp đưa quân đến bao vây. Cuộc chiến diễn ra ác liệt từ 9 giờ sáng đến
hơn 4 giờ chiều. Lực lượng quân Pháp đông gấp nhiều nghĩa quân, Đốc
Đen phải mở đường máu rút lui về chùa Trực Nội. Tên chánh tổng báo cho
tri huyện thư Trì là Vũ Văn Trinh. Tên này báo cho quân Pháp bao vây
chùa, Vũ Văn Trinh xông vào chùa bị Đốc Đen bắn liền chạy ra. Đốc Đen
cùng mấy nghĩa quân bắn mạnh, mở đường máu xông ra ngoài, thì bị quân
Pháp bắt được. Chúng giải ông ra Hà Nội cho tên Thống sứ Bắc Kỳ biết
mặt rồi đưa ông về làng Yên Lũ chặt đầu để uy hiếp nhân dân. (Theo Thái
Bình thông chí của Phạm Văn Thụ thì sau trận Bình Cách, Đốc Đen chạy về
Trực Nội, huyện Thanh Quan và bị bắt ở một ngôi chùa do một nhà sư phản
bội).
ĐỐC NHƯỠNG
Đốc Nhưỡng tên thật là Đinh Khắc Nhưỡng, ông còn có tên là
Đinh Quang Nghĩa, con thứ ba ông Đinh Quang Khánh. Ông người thôn
Phú Lãng Đông, xã Đô Kỳ, huyện Thần Khê, phủ Tiên Hưng, nay là xã
Đông Đô, huyện Hưng Hà, Thái Bình.
Ngày 27/3/1883 thành Nam Định thất thủ các tướng phân tán về
quê quán chiêu mộ nghĩa quân, xây dựng căn cứ đánh Pháp. Đốc Nhưỡng
tuy còn trẻ tuổi, nhưng có kiến thức quân sự, lại có nhiệt tình yêu nước,
căm thù giặc Pháp cũng noi gương các bậc đàn anh về quê hương ở xã Đô
Kỳ chiêu tập những người yêu nước, sắp xếp vào đội ngũ, sắm sửa vũ khí,
thuyền bè, tích trữ quân lương, đào hào đắp luỹ biến xã Đô Kỳ thành căn cứ
chuẩn bị khởi nghĩa.
Đầu năm Hàm Nghi thứ nhất (1885), Đốc Nhưỡng cùng Bang
Tốn khởi nghĩa. Nghĩa quân của hai ông thoắt ẩn, thoắt hiện gây cho quân
Pháp và quân triều đình nhiều phen thất bại.
Tháng 6 năm Ất Dậu (7/1885), sau vụ khởi nghĩa ở Kinh thành
Huế không thành, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn hộ giá vua Hàm Nghi
xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị hạ chiếu Cần vương. Lập tức các thủ lĩnh
nghĩa quân ở Thái Bình (khi đó Thái Bình còn nằm trong tỉnh Nam Định và
Hưng Yên, mãi đến năm 1890 tỉnh Thái Bình mới được thành lập) đã nổi
dậy chống Pháp từ tháng 3 năm 1883 khi thành Nam Định thất thủ như Vũ
Văn Hoan (tức Đề Hoan), Đinh Khắc Nhưỡng (Đề Nhưỡng) người xã Đô
Kỳ, Lãnh Nhàn (Nguyễn Nhàn) người xã An Dực (Phụ Dực)... được thêm
sức mạnh với lời kêu gọi trong Chiến Cần vương của vua Hàm Nghi đã lập
tức chiêu mộ thêm quân sĩ mở nhiều trận đánh vào các đồn binh Pháp, các
phủ đường huyện đường có quan lại người Nam theo Pháp.
Đốc Nhưỡng cùng các nghĩa quân chiến đấu chống quân Pháp
và lũ tay sai đánh thắng nhiều trận lẫy lừng ở Thái Bình, Nam Định, Hưng
Yên.
Đốc Nhưỡng còn cùng Lãnh Hoan bắt Vũ Văn Báo vốn là học
trò của Vũ Hữu Lợi, tên Báo đã báo cho Pháp lừa bắt thày xử chém vào
chiều 30 Tết năm Giáp Thân (1885), hai ông đã đưa tên Báo về căn cứ đốt
sống làm cây đuốc tế thày.
Ngày 17 tháng 6 năm Thành Thái thứ 3 (1891), Đốc Nhưỡng tập
hợp 100 nghĩa quân mặc quần áo lính tây, có vũ khí đầy đủ trên đường về
tiến công thị xã Thái Bình, thì bị quân Pháp chặn đường đánh. Cuộc xung
đột diễn ra quyết liệt, tiền quân Khái bị thương tiến về Thư Trì thì bị tên tri
huyện Nguyễn Duy Tiên bắt nộp cho công sứ Thái Bình, Đốc Nhưỡng chạy
lên Sơn Tây, sau cùng bị giặc Pháp phát hiện bắt giải về Hà Nội.
LÃNH HOAN
Lãnh Hoan tên thực là Vũ Văn Hoan, người làng Thọ Vực,
huyện Thần Khê, nay thuộc xã Đông Thọ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái
Bình.
Học chữ nho được vài năm thì Vũ Văn Hoan theo học lớp võ do
Nguyễn Thành Thà tổ chức. Học xong trở về làng, Vũ Văn Hoan giữ chức
phó tổng, sau đó theo việc binh, được phong là Lãnh binh.
Ngày 25 tháng 3 năm 1883, quân Pháp do trung tá Hải quân
Henri Rivière chỉ huy từ Hà Nội, đánh thành Nam Định lần thứ hai. Trưa
ngày 27 tháng 3 năm 1883, thành Nam Định lọt vào tay quân Pháp. Lãnh
Hoan từ quan về quê ở làng Thọ Vực lập căn cứ chiêu mộ quân sĩ đánh
Pháp. Tiến sĩ Vũ Hữu Lợi, Đốc học Nam Định cũng từ quan cùng Nguyễn
Đức Huy... mộ quân chống Pháp được phong chức Đề đốc trong khi đó Vũ
Văn Báo làm Tổng đốc Nam Định.
Nghĩa quân Lãnh Hoan cùng nghĩa quân của năm cha con
Nguyễn Thành Thà, nghĩa quân Đinh Khắc Nhưỡng đánh quân Pháp và lũ
tay sai của chúng nhiều trận.
Năm 1885 Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi ra sơn phòng
Quảng Trị hạ chiếu Cần vương. Lãnh Hoan lại hợp quân với anh em Bang
Tốn, Đốc Đen, Đốc Nhưỡng đánh Pháp quyết liệt tại Thọ Vực. Quân Pháp
thua phải tháo chạy bỏ lại nhiều xác chết và vũ khí. Lãnh Hoan còn phối
hợp nghĩa quân của các thủ lĩnh khác đánh thắng quân Pháp ở làng Tống
Vũ, nay thuộc xã Chính Lãm, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình và Cầu Kim,
Chợ Đác nay thuộc xã Vũ Lạc, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Nghĩa
quân gây cho giặc nhiều thiệt hại nặng nề.
Năm 1886, Lãnh Hoan chỉ huy nghĩa quân đánh Pháp ở làng
Trường Yên. tiêu diệt 40 lính Pháp và lính tập.
Đầu năm 1892, Lãnh Hoan hy sinh trong tư thế hiên ngang, lẫm
liệt, đã được nhân dân ghi lại trong bài:
VÈ LÃNH HOAN
Thọ Vực ông Lãnh đánh Tây
Hình dáng thợ cày, mã tấu bên hông.
Toàn thân ông nhuộm mầu hồng,
Ông đã rửa hận non sông phen này
Nguyễn Thành Thà làm bài thơ viếng học trò của mình, có câu:
Thọ Vực tuy tàn căn cứ địa,
Thần Khê vưu tráng nghĩa quân doanh
Dịch:
Thọ Vực dẫu tàn căn cứ địa
Thần Khê càng mạnh nghĩa quân doanh.
BA BÁO
Tạ Hiện có ba con trai là Tạ Quang Hùng, Tạ Quang Hổ, Tạ
Quang Báo cũng theo cha cầm quân đánh giặc. Trong ba người con của Tạ
Hiện thì Tạ Quang Báo (còn gọi là Ba Báo) là hiệt kiệt nhất.
Khi giặc Pháp đánh phá căn cứ Kiến Xương. Tạ Hiện nhận thấy
ở đây đồng bằng trống trải khó phòng thủ, liền đưa quân về hoạt động ở
Đông Triều. Quảng Yên. Tại đây Ba Báo có một đội quân chuyên hoạt động
trên sông nước. Ông vùng vẫy ở ngã ba sông Kinh Thày - sông Kinh Môn -
sông Thái Bình và còn hoạt động lên cả Lục Đầu, Phả Lại. Có khi ông còn
đưa quân hoạt động cả ở vùng sông Luộc trên địa bàn huyện Ninh Giang...
Tạ Quang Báo thường xuyên tổ chức những trận đánh tầu thuyền vận tải
quân lính, lương thực vũ khí của quân Pháp tại ngã ba sông này. Ba Báo có
thể kiểm soát được cả đồng bằng và vùng núi. Nếu quân Pháp đánh đồng
bằng thì nghĩa quân rút lên miền núi, nếu quân Pháp đánh miền núi thì quân
của ông lại tản ra ở với dân làng ở đồng bằng. Có trận Ba Báo tấn công
pháo hạm Mitrailleuse, suýt bắn đắm nó trên sông Kinh Thày.
Ngày 12 tháng 3 năm 1884, quân Pháp huy động 16.300 quân,
55 đại bác, nhiều pháo thuyền do tên thiếu tướng Nêgơriê (Negrier) phái từ
Hải Dương đánh chiếm Phả Lại làm nơi đứng chân để đánh chiếm tỉnh
thành Bắc Ninh. Nguyễn Thiện Thuật đã cùng Hoàng Văn Hoè, Tạ Quang
Báo hợp quân lợi dụng đêm tối tiến sát Phả Lại rồi nổ súng mãnh liệt, xung
phong đánh giáp lá cà. Cuộc chiến đấu diễn ra suốt từ 17 giờ ngày 12/3 đến
2 giờ sáng ngày 13/3 thì nghĩa quân chiếm được thành. Sáng hôm sau quân
Pháp bắn đại bác dữ dội vào thành rồi cho quân xung phong, nghĩa quân
phải rút.
Trong các ngày 25 tháng 2, 28 tháng 2 và ngày 3 tháng 4 năm
1884, nghĩa quân Ba Báo cùng với nghĩa quân Hoàng Văn Hoè liên tục tấn
công quân Pháp trên đường hành quân từ Phả Lại tấn công thành Bắc Ninh,
cả trên đường bộ và đường thuỷ. Tháng 1/1886 quân Pháp phát hiện: “ …
thấy cùng với Khoát, Ba Báo, Lang, Quý và Tiền Đức xuất hiện ở Hiệp Sơn,
Chí Linh” .
Tháng 6/1886 tên cai tổng địa phương báo cho giặc biết chỗ ở
Ba Báo. Tên đại tá Bơritxô (Brissaud) liền phái một đạo quân do một thiếu
tá chỉ huy 150 lính khố đỏ, luôn đêm đi thuyền, định tảng sáng thì đến nơi.
Nhưng trong khi đi thuyền mấy người lái đò cố ý chần chừ và mấy lần lạc
đường phải trở lại. Kết quả quân Pháp đến không đúng hẹn. Sau khi vây
làng, tên cai tổng dẫn giặc vào nhà Ba Báo ở thì Ba Báo đã đi từ một giờ
trước đó, vì ông được nhân dân báo cho biết quân Pháp đến từ nửa đêm. Ba
ngày sau tên cai tổng phản động bị nghĩa quân giết chết.
Giặc Pháp không giết, không bắt được Ba Báo, chúng điên
cuồng khủng bố, tàn sát nhân dân ở những vùng Ba Báo hoạt động. Chúng
phỉnh phờ lừa gạt nhân dân bằng luận điệu nếu còn che giấu, giúp đỡ Ba
Báo thì giết hết người triệt hạ làng. Nếu người nào bắt hoặc giết được Ba
Báo hoặc chỉ điểm chỗ Ba Báo đóng quân thì đều được thưởng. Một số tên
lưu manh, có người nhà làm tay sai cho Pháp bị nghĩa quân Ba Báo trừng trị
muốn nhân dịp này trả thù. Song ông được nghĩa quân và nhân dân bảo vệ,
nên bọn chúng chưa thực hiện được mưu đồ.
Sang năm 1887, quân Pháp lại kêu: “Từ tháng giêng năm 1887,
Lãnh Giang lại trở về trong tỉnh liên kết với Khoát, Ba Báo, Văn và Quý.
Kết quả của việc này chẳng bao lâu đã thấy rõ. Vụ nọ tiếp vụ kia, ba tầu
buôn nhỏ bị tấn công khi qua sông Luộc”.
Chiến dịch khủng bố đi đôi với mua chuộc của thực dân Pháp đã
đạt được. Ngày 14/4/1887, trung tá Et vi Eschin chewiller coi đồn Bình
Bạch đã bắt được Ba Báo và giết hại ông.
SƯ THUYỀN QUAN
Tháng 7 năm 1885, Thượng thư bộ binh Tôn Thất Thuyết, Trần
Xuân Soạn chỉ huy Phấn nghĩa quân tấn công quân Pháp đóng ở đồn Mang
Cá; Toà Khâm sứ, khu nhượng địa. Cuộc tấn công không thành. tảng sáng
quân Pháp phản công. Tôn Thất Thuyết và các tướng hộ giá vua Hàm Nghi
ra sơn phòng Quảng Trị. nhà vua hạ chiếu Cần vương. Sĩ phu, nhân dân các
tỉnh Trung Kỳ nhiệt liệt hưởng ứng. Tại Thái Bình các ông Tạ Hiện,
Nguyễn Hữu Cương, Nguyễn Hữu Thu, Bang Tốn, Phạm Huy Quang..
hưởng ứng. Nhiều nhà sư ở Thái Bình cởi áo cà sa, khoác chiến bào gia
nhập nghĩa quân giết giặc. Trong số đó có sư Sở tu ở chùa Thuyền Quan,
nay thuộc xã Thái Hà, huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình đã dựng cờ khởi
nghĩa, dùng chùa làm đại bản doanh. Nhà sư đem thóc gạo của chùa ra nuôi
quân, dân trong vùng quen gọi là sư Thuyền Quan. Trai tráng các huyện
Thuỵ Anh, Thái Ninh... gia nhập nghĩa quân rất đông, họ tự sắm vũ khí.
Nhân dân nô nức đem thóc gạo, lợn gà, tiền bạc đến khao quân.
Sư Thuyền Quan vốn là người giỏi võ nghệ từng trải việc binh,
nên công tác huấn luyện quân sĩ rất có bài bản. Nghĩa quân của sư Thuyền
Quan trang bị chủ yếu là vũ khí thô sơ như gươm, giáo, kiếm, đoản đao, mã
tấu, nhưng có tinh thần chiến đấu rất cao và có tinh thần kỷ luật. Thanh thế
của nghĩa quân sư Thuyền Quan rất lớn, bọn quan lại làm tay sai cho Pháp
không dám đem lính đến đàn áp.
Cuối năm 1885, quân Pháp từ hai phía Nam Định và Hưng Yên
có tàu chiến, pháo hạm tiến đánh Thái Bình. Các ông Nguyễn Hữu Cương ở
Động Trung. Giám Thố ở Cổ Ninh, Lãnh Hoan ở Thọ Vực tiến về Kiến
Xương, Tiên Hưng phối hợp với lực lượng của sư Thuyền Quan ở Thuỵ
Anh đưa quân tới tấn công quân Pháp quyết liệt ở làng Tống Vũ (nay là xã
Chính Lâm, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình), ở Cầu Kìm, Chợ Đác (nay là
xã Vũ Lạc, huyện Kiến Xương). Nghĩa quân đã gây cho giặc tổn thất nặng
nề. Được tin thất bại, quân Pháp ở Hà Nội phải vội vàng điều động một đạo
quân do 1 tên trung tá chỉ huy xuống tiếp viện.
Đội quân do sư Thuyền Quan chỉ huy còn độc lập tác chiến hoặc
phối hợp với các lực lượng nghĩa quân khác đánh nhiều trận lớn. Sư Năm
Thượng ở chùa làng Lộ Vi (tức Lộ Xá nay thuộc Thăng Long, huyện Đông
Hưng, tỉnh Thái Bình) đánh quân Pháp khi chúng tấn công vào chùa Lộ Vi.
Ở tỉnh Thái Bình nay còn lưu truyền bài:
VÈ SƯ THUYỀN QUAN
Nam vô đại tướng Thuyền Quan
Mũ ni, tích trượng, phướn, phan thay cờ
Bình Tây kiến lập vệ cơ
Nghĩa quân khắp chốn đi về sớm hôm
Chùa làm kho súng bên đồn
Lãng Sa bạt vía kinh hồn Thuyền Quan
Nam vô đại thế Át Nan
Hộ trì đại tướng Thuyền Quan công thành.
(Năm 1885, tỉnh Thái Bình còn là đất của hai tỉnh Nam Định và Hưng
Yên. Ngày 21/3/1890, tỉnh Thái Bình mới thành lập theo Nghị định của
Toàn quyền Đông Dương gồm phủ Thái Bình, phủ Kiến Xương của Nam
Định, huyện Thần Khê của tỉnh Hưng Yên. Năm 1894 cắt hai huyện Hưng
Nhân và Duyên Hà thuộc tỉnh Hưng Yên vào tỉnh Thái Bình lấy sông Luộc
làm ranh giới giữa hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên).
SƯ NĂM THƯỢNG
Sư Năm Thượng chưa rõ tên thực, quê quán, chỉ biết ông tu ở
chùa làng Lộ Vi (tức Lộ Xá, nay thuộc xã Thăng Long. huyện Đông Hưng,
tỉnh Thái Bình). Từ năm 1882, khi giặc Pháp đánh Hà Nội lần thứ hai rồi
mở rộng chiến tranh xâm lược ra các tỉnh Nam Định. Hưng Yên, Hà Nam.
Ninh Bình thì nhà sư đã tới các chùa Nam Định và Hưng Yên (Khi đó chưa
thành lập tỉnh Thái Bình) vận động tăng ni, phật tử chống Pháp.
Sư Năm Thượng hiểu rõ nghĩa quân muốn đánh thắng giặc thì
ngoài vũ khí phải có lương thực. Vì vậy từ vụ mùa năm 1882, nhà sư đã vận
động phật tử khai hoang mở rộng diện tích canh tác vốn có của chùa. Làng
Lộ Vi nhỏ, nên số người giúp nhà chùa mở rộng diện tích không nhiều. Sư
Năm Thượng đem vốn liếng của mình thuê người làm. Vì vậy mỗi năm
diện tích cấy lúa một tăng, thóc thu được nhiều hơn những năm trước. Đến
vụ gặt nhà sư chỉ dành một ít thóc giúp những người cơ nhỡ, còn đóng vào
các bịch, lẫm.
Năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn ra Quảng Trị ban chiếu Cần
vương. Ông cùng sư chùa Thuyền Quan (huyện Thuỵ Anh), sư Neo ở
huyện Thanh Miện (Hải Dương) chiêu mộ nghĩa quân theo Tạ Hiện đánh
Pháp. Nhà sư đã đem ba chồng bịch thóc, trên 1000 phương thóc bí mật ủng
hộ nghĩa quân. Nhưng nhà sư nguỵ trang những cót thóc trong chùa vẫn
nguyên vẹn. (Phương là một cái thùng to hình vuông, đổ thóc vào gạt mặt,
phương to 12 kg, phương nhỏ 10kg).
Năm 1889, nghĩa quân Thái Bình tiến đánh phủ Bo (nay là thị xã
Thái Bình), sư Năm Thượng tiếp tục ủng hộ lương thực và chỉ huy một
cánh quân tấn công phủ Bo.
Sau trận đánh, sư Năm Thượng bỏ chùa đi theo nghĩa quân. Dân
làng ra chùa kiểm soát thấy ba cót thóc vẫn đầy không vơi. Vào một ngày
nắng, dân đổ thóc ra phơi thì chỉ có lớp thóc bên trên, bên dưới toàn là trấu.
Dân không oán trách gì sư, vì sư đem thóc đó cho nghĩa quân đánh Tây.
Nay nở Thái Bình còn lưu truyền bài:
VÈ SƯ NĂM THƯỢNG MANG THÓC
ỦNG HỘ NGHĨA QUÂN CHỐNG PHÁP
Kể từ Ất Dậu mới rồi (1885)
Nhà sư Năm Thượng là người đảm đang
Xin tu chùa của hai làng
Rèm và Lộ Xá bên đường cái quan
Ruộng chùa chăm bón giỏi giang
Ba chồng cót thóc một ngàn phương to
Cụ đem ngầm giúp Phủ Bo
Bỏ chùa rồi cụ đi xa không về
Dân lên kiểm soát mọi bề
Ba cây thóc đẫy, chẳng hề có vơi.
Nhân khi nắng ráo đẹp trời,
Dân làng đem thóc ra phơi kịp liền
Vừa vào xúc hết lượt trên,
Ở dưới toàn trấu vít liền ba cây
Thế là thóc đã lên mây.
Thóc đem ăn để đánh Tây mất rồi.
Biết vậy dân chúng đều thôi,
Lạy Phật, lạy giời phù hộ nghĩa quân.
NGUYỄN THIỆN THUẬT
Nguyễn Thiện Thuật tên thật là Nguyễn Thuật, ông thi Hương
đậu tú tài năm Canh Ngọ (1870). Thấy ông là người thông minh, lanh lợi,
quan tỉnh Hải Dương đưa về giúp việc quân. Do có công dẹp giặc Tiên
Viên, tay sai của Francis Garnier, Nguyễn Thuật được triều đình thưởng
Quân công bội tinh và được cử làm Bang biện phủ Kinh Môn.
Nguyễn Thuật vừa làm việc quan vừa tự học. Khoa thi Bính Tý
(1876), ông thi Hương ở Nam Định đỗ thủ khoa. Năm 1877, ông được bổ
làm tri phủ Từ Sơn. Vì có người cùng thời làm quan cũng tên là Nguyễn
Thuật, ông làm sớ xin nhà vua cho đệm chữ Thiện, nhà vua ưng thuận, các
anh em ông cũng đệm chữ Thiện. Tháng 6 năm Kỷ Mão (8/1 879), Nguyễn
Thiện Thuật được thăng Tán tương quân thứ, hai năm sau ông được thăng
Sơn phòng chánh sứ, kiêm Tán tương quân thứ Sơn Tây. Ông cùng Thống
đốc Hoàng Tá Viêm thu phục mười sáu châu từ Bắc Giang đến Sơn La,
bình định Ba Bể, lập nhiều công to.
Ngày 10 tháng 7 năm Quý Mùi (9/8/1883) đại uý Briolval hạ
thành Hải Dương. Triều đình cử ông về làm Tổng đốc Hải - Yên (Hải
Dương-Quảng Yên, bao gồm cả Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh ngày
nay), đồng thời làm Phó nguyên suý Đạo binh Đông bắc dưới quyền Thống
đốc Hoàng Tá Viêm. Ông thành lập đạo quân gồm người Nam và người
Khách ở huyện Đông Triều định thu phục Ninh Hải (Hải Phòng), nhưng
việc không thành. Ngày 20/8/1883, Triều đình ký với Pháp Hiệp ước
Harmand ra lệnh cho các quân thứ Bắc Kỳ: “Phải lập tức triệt binh dũng
lui để tỏ điều tin đối với nước Đại Pháp”, đòi “quan lại đang đánh Pháp ở
Bắc Kỳ về Kinh đợi chỉ”.
Nguyễn Thiện Thuật kháng chỉ bỏ chức Tổng đốc Hải - Yên về
Đông Triều mộ quân đánh Pháp. Hưởng ứng lời kêu gọi của Nguyễn Thiện
Thuật, nhiều bậc chí sĩ, quan lại, tổng lý, nông dân, dân nghèo, binh sĩ yêu
nước đã nhiệt liệt tham gia và nổi dậy ở nhiều nơi. Ông thành lập đội quân
lấy Đông Triều làm căn cứ. Hoạt động của nghĩa quân Nguyễn Thiện Thuật
làm cho quân Pháp chịu nhiều tổn thất nặng nề.
Nguyễn Thiện Thuật cũng quan hệ chặt chẽ với Đinh Gia Quế
thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, ông về căn cứ Thọ Bình dự lễ tế Cờ khởi
nghĩa của Đổng Quân vụ Đinh Gia Quế.
Chiều ngày 12/11/1883, Nguyễn Thiện Thuật giao cho Lãnh
Giang ở lại giữ Đông Triều còn ông cùng Nguyễn Thiện Kế, Đề Vinh dẫn
quân về đánh thành Hải Dương. Tám giờ tối, nghĩa quân bí mật bao vây,
sắp tới giờ nổ súng thì cánh quân bên ngoài do Hai Kế chỉ huy chạm trán
với toán quân Pháp đi tuần về nên buộc lòng phải nổ súng.
Mặc dù mất yếu tố bất ngờ, Nguyễn Thiện Thuật vẫn quyết tâm
đánh thành. Trước sức tấn công mãnh liệt của nghĩa quân, thành Hải Dương
lâm vào thế nguy ngập, trời gần sáng, thành sắp bị hạ thì ông Thuật hạ lệnh
ngừng công phá thành, bắn thưa thớt rồi lui quân. Ông Thuật vừa rút khỏi
thành phố thì quân Pháp ở Bắc Ninh tới tiếp viện, nhưng quân ông Thuật đi
đã xa.
Sau trận hạ thành Hải Dương không thành, Nguyễn Thiện Thuật
phối hợp với các lực lượng nghĩa quân khác và quân triều đình do phe chủ
chiến chỉ huy hoạt động ở vùng sông Thái Bình, sông Kinh Thày, Phả Lại,
Lục Đầu Giang, các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Hoá, Phủ Lạng Thương, Tuyên
Quang.
Ngày 26/10/1884 , Nguyễn Thiện Thuật cùng Lã Xuân Oai Tuần
phủ Cao Bằng - Lạng Sơn, Đề đốc Tạ Hiện, Ngự sử Phạm Huy Quang cùng
mười tám thân hào tỉnh Hải Dương phối hợp với quân Thanh do các tướng
Đường Cảnh Tùng, Hoàng Quế Lan chỉ huy phục kích quân Pháp ở cầu
Quan Âm (Bắc Lệ, Lạng Sơn) giết chết 21 tên Pháp.
Ngày 28/3/1885, nghĩa quân Nguyễn Thiện Thuật tham gia chặn
đánh quân Pháp khi chúng đánh thành Lạng Sơn. Quân Pháp đại bại bị chết
trên 100 tên, tướng Negrier bị thương nặng ở ngực tại Kỳ Lừa, quân Pháp
phải rút chạy về Chũ.
Cuối tháng 3/1885 Pháp và nhà Thanh ký "Hiệp ước Hòa bình"
buộc Lưu Vĩnh Phúc đem quân về nước, Nguyễn Thiện Thuật và các cánh
quân khác yếu thế phải rút vào rừng. Bị quân Pháp truy lùng gắt gao, ông
phải tạm lánh sang Long Châu (Trung Quốc).
Tháng 7 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật nhận được tin vua Hàm
Nghi xuất bôn ra Quảng Trị hạ chiếu Cần vương, liền về căn cứ Tiên Động
(thuộc thượng huyện Cẩm Khê, nay thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ)
gặp Lễ bộ thượng thư sung Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần Nguyễn
Quang Bích nhận chiếu Cần vương. Nguyễn Quang Bích tâu với vua Hàm
Nghi phong ông là Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần gia chấn trung
tướng quân trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.
Tháng 9/1885, Nguyễn Thiện Thuật tổ chức lễ Tế cờ khởi nghĩa
và hội nghị tướng sĩ ở Văn chỉ xã Bình Dân, tổng Bình Dân, huyện Đông
Yên, phủ Khoái Châu. Sau lễ tế cờ Nguyễn Thiện Thuật đã cho quân vượt
sông Hồng đánh sang các huyện Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng
Hoà.
Đêm 28 rạng ngày 29 tháng 9/1885 , quân Bãi Sậy tấn công
thành Hải Dương, bọn chỉ huy Pháp ở Hải Dương phải đưa quân ra ngoài
thành chặn đường nghĩa quân.
Nguyễn Thiện Thuật lệnh cho các tướng bí mật đồng loạt tấn
công vào các đồn bốt địch, chặn đường hành quân của chúng, mặt khác tăng
cường phòng thủ căn cứ Bãi Sậy nhiều vòng. Nguyễn Thiện Thuật còn phái
các đội vũ trang tuyên truyền đi dán các bản Tuyên cáo ở khắp các thôn
xóm, kêu gọi lính An Nam đào ngũ, bắn vào đầu bọn chỉ huy Pháp, bọn
quan chức Việt Nam theo Pháp lập công trở về với hàng ngũ kháng chiến.
Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thiện Thuật và bộ tham mưu nghĩa
quân vẫn đánh thắng nhiều trận lẫy lừng như các trận do Đốc Tít, Lưu Kỳ,
Hai Kế, Lãnh Giang, Đội Văn, Đốc Cọp, Đốc Sung chỉ huy.
Tháng 10/1890, Nguyễn Thiện Thuật thấy tình thế nhiều khó
khăn, ông trao binh quyền cho em là Nguyễn Thiện Kế rồi sang Trung
Quốc mưu tính một cuộc vận động mới. Song tình thế đã khác trước, việc
không thành, ông đành ở lại nhà tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc.
Nguyễn Thiện Thuật mất ngày 26/5/1926 (15 tháng 4 âm lịch).
Mộ táng tại núi Vạn Hoa Cương, thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây,
Trung Quốc.
Được sự ủy nhiệm của ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên, Sở Văn
hóa thông tin tỉnh Hưng Yên cùng dòng họ ngày 30/1/2005 đã đưa hài cốt
của ông về táng ở khu tưởng niệm Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần
Nguyễn Thiện Thuật tại quê nhà xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng
Yên.
NGUYỄN THIỆN KẾ
Nguyễn Thiện Kế là em thứ hai Nguyễn Thiện Thuật, quê làng
Xuân Đào, xã Xuân Dục, tổng Bạch Sam, tỉnh Hải Dương nay là thôn Xuân
Dục, xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Nguyễn Thiện Kế sinh
ngày 28 tháng 6 năm Kỷ Dậu (1849) tự là Trung Khả, hiệu là Đường Dân
tiên sinh.
Nguyễn Thiện Kế theo anh làm việc quân từ năm Bính Tý
(1876). Khi Nguyễn Thiện Thuật được thăng Hưng Hoá Sơn phòng chánh
sứ kiêm Tán tương quân thứ Sơn Tây. Nguyễn Thiện Kế trực tiếp phụ trách
Nam Bắc Ninh, Bắc Hưng Yên, Tây bắc Hải Dương. Với tài thao lược của
mình, ông lập được nhiều chiến công, có uy tín rất lớn với các tướng lĩnh,
nghĩa quân và nhân dân.
Khoảng cuối năm 1885, đầu năm 1886, vua Hàm Nghi phong
ông chức Hồng lô Tự khanh, sung Bắc Kỳ tán lý quân vụ, ông dâng sớ cố
từ, nhận lấy chữ Đường Dân làm hiệu.
Khi Tổng Khấu ở xã Ngọc Cục làm phản nghĩa quân, Nguyễn
Thiện Kế lệnh cho Đốc Khuy giết chết. Tháng 1/1890, căn cứ Bãi Sậy bị
bao vây, Nguyễn Thiện Kế, Đề Ban, Đốc Sung tấn công đồn Kẻ Sặt. Ngày
21/2/1890 Nguyễn Thiện Kế ở lại cùng Đốc Sung, Lãnh Mỹ tấn công đồn
điền Iakmon (Hải Dương).
Từ tháng 10/1890, Nguyễn Thiện Thuật sang Trung Quốc, giao
binh quyền cho Nguyễn Thiện Kế. Ông cùng các tướng vẫn lấy Bãi Sậy làm
căn cứ chính nhưng hoạt động quân sự chủ yếu ở các huyện Từ Sơn, Tiên
Du, Thuận Thành, Quế Võ, Lang Tài (Nam Bắc Ninh), Cẩm Giàng, Thanh
Miện, Bình Giang (Bắc Hải Dương), Ân Thi, Mỹ Hào (Hưng Yên).
Để dễ vận động, Nguyễn Thiện Kế chia quân thành các toán nhỏ
20- 25 người hoạt động lưu động từ làng này qua làng khác. Chính các toán
quân nhỏ này đã liên tục tập kích vào các đồn địch ở Khoái Châu, Hà Tiên
(một thôn ở huyện Ân Thi giáp ranh với huyện Thanh Miện tỉnh Hải
Dương, Phú Trạch (tổng Mễ Sở, Khoái Châu) gây cho quân Pháp nhiều
thiệt hại.
Sang năm 1891, giặc Pháp tập trung quân điên cuồng khủng bố
phong trào Bãi Sậy, nhưng nghĩa quân do Nguyễn Thiện Kế lãnh đạo vẫn
hoạt động mạnh mẽ.
Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thiện Kế, nghĩa quân Lưu Kỳ,
Tiền Đức đã tấn công các lầu thuyền của quân Pháp trên sông Thái Bình và
sông Văn Úc, Lãnh Quý cũng trở lại chiến trường cũ là Thanh Hà, Tứ Kỳ,
Kim Thành tổ chức lại đội ngũ liên tục đánh quân Pháp. Tại huyện Thanh
Lâm (nay là huyện Nam Sách- Hải Dương) lại xuất hiện các đạo quân khác
liên tục sẵn sàng chiến đấu.
Để đối phó với nghĩa quân do Nguyễn Thiện Kế chỉ huy, Toà sứ
Hải Dương thành lập đạo quân này gọi là "lính cơ". Lại cho quan phủ,
huyện được tuyển lính, trang bị vũ khí sẵn sàng đánh phá nghĩa quân, đàn
áp các làng ủng hộ nghĩa quân. Quân Pháp tập trung lực lượng quân sự
mạnh đàn áp dữ dội hòng dập tắt cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, nhưng phong
trào chỉ tạm thời lắng xuống. Hai Kế, Đề Ban, Đề Vinh vẫn duy trì phục hồi
phong trào, phát triển lực lượng nghĩa quân ở một số vùng, bẻ gẫy nhiều
cuộc càn quét của chúng.
Ngày 24/3/1891, Nguyễn Thiện Kế đã đánh nhau quyết liệt với
thanh tra Lamber với sự hỗ trợ của các đồn Mỹ Hào, Đỗ Mỹ, Phong Cốc,
nghĩa quân đi trên một cái thuyền.
Đầu tháng 7/1891, Nguyễn Thiện Kế, Đề Vinh, Đốc Mỹ, Đề
Quý kéo đi rất đông tấn công các đồn binh Pháp.
Đầu tháng 7/1891, Nguyễn Thiện Kế phái Ba Giang phối hợp
với Đề Hiệu, tướng cũ của Tạ Hiện và Đốc Nhưỡng, Đề Gạo mặc quần áo
lính khố xanh tiến đánh tỉnh lị Thái Bình. Nghĩa quân đóng quân ở đình
Thần Khê (huyện Duyên Hà) thì bị Việt gian báo cho quân Pháp chặn đánh.
Đốc Nhưỡng, Đề Gạo bị thương, Đốc Nhưỡng rút quân lên Sơn Tây thì bị
quân Pháp bắt xử tử, Ba Giang trở lại Hưng Yên hoạt động.
Đầu năm 1892, nhiều tướng như Đốc Cọp, Đề Tính, Đốc Sung,
Lãnh Điển hy sinh, Lưu Kỳ bị đánh bật ra khỏi Đông Triều, Lục Ngạn,
Nguyễn Thiện Kế và các tướng phải luôn luôn di chuyển từ làng này qua
làng khác, tỉnh Hưng Yên đến Bắc Ninh, sang Hải Dương rất vất vả. Lực
lượng và vũ khí ngày càng hao hụt, có những trận nghĩa quân phải rút lui.
Tuy bị địch truy bức liên tục nhưng chỉ trong tuần lễ đầu tháng
4/1892, nghĩa quân của Nguyễn Thiện Kế, Đề Vinh đã hạ liền 5 đồn lính
Khố xanh và uy hiếp nhiều đồn binh khác. Hoàng Cao Khải và thanh tra
Blanchart được tin báo vô cùng hốt hoảng vội vàng điều 600 dân binh, 800
lính lệ đi chặn đánh nghĩa quân.
Sang năm 1892, Nguyễn Thiện Kế gặp nhiều khó khăn buộc
lòng phải giải tán nghĩa quân, Nguyễn Thiện Kế phải cải trang trốn tránh.
Từ đó Nguyễn Thiện Kế cải trang làm người bán thuốc bôn tẩu khắp nơi,
thường qua lại Trung Quốc thăm anh, đưa đường cho nhiều người trong
nước xuất dương Đông du.
Ngày 14/3/1913 và ngày 26/4/1913 xảy ra hai vụ ném lựu đạn
giết chết tuần phủ Thái Bình Nguyễn Duy Hàn và làm bị thương một số sĩ
quan Pháp khác ở Hà Nội. Hội đồng Đề hình họp ngày 5/9/1913 nghi ông
tham gia vào vụ này và đã kết án chung thân vắng mặt. Năm 1914, khi ông
đã ở tuổi 65, nhà cầm quyền Pháp bắt được ông ở chợ Sơn, Từ Sơn, Bắc
Ninh. Ông tự tử nhưng có người cứu nên không chết, Pháp đầy ông đi Côn
Đảo, khi ông ngoài 70 tuổi chúng mới đưa ông về an trí ở quê nhà. Trước
khi đưa ông về quản thúc ở quê nhà, bọn quan cai trị Pháp và Nam triều dụ
dỗ ông ra làm quan với chúng song ông không chịu. Khi ở Côn Đảo về, nhà
cửa bị tàn phá, tài sản bị cướp hết, ông lại bị quản thúc, cứ bảy ngày phải
lên đồn Bần Yên Nhân trình diện một lần, ông phải sống trong cảnh bần
hàn, nhưng ông vẫn thường nói với con cháu: "Nếu ta còn sức khoẻ ta sẽ
tiếp tục đánh Tây đến cùng”.
Nguyễn Thiện Kế mất ngày 22 tháng 9 năm Đinh Sửu
(25/10/1937) hưởng thọ 88 tuổi tại làng Xuân Đào, xã Xuân Dục trong lòng
thương tiếc của nhân dân địa phương và những người Việt Nam yêu nước.
NGUYỄN THIỆN DƯƠNG (LÃNH GIANG)
Lãnh Giang tên thật là Nguyễn Thiện Dương, em thứ tư của
Nguyễn Thiện Thuật. Lãnh Giang là người có đức độ, võ nghệ siêu quần.
Trong thời gian Nguyễn Thiện Thuật làm Tổng đốc Hải - Yên ông cũng
theo giúp việc quân. Khi Nguyễn Thiện Thuật phải lánh sang Long Châu
(Trung Quốc), Nguyễn Thiện Dương ở lại trong nước cùng Nguyễn Thiện
Kế hô hào nhân dân các phủ, huyện ở tỉnh Hải Dương bất cộng tác với
Pháp, lên án bọn vua quan Tự Đức đầu hàng giặc.
Tháng 9-1885, Lãnh Giang đã có mặt trong lễ Tế cờ khởi nghĩa
ở Văn chỉ Bình Dân, ông được phong chức Lãnh binh và được Nguyễn
Thiện Thuật giao cho phụ trách vùng Đáp Cầu thị xã Bắc Ninh, phía thượng
lưu, hạ lưu sông Cầu và vùng phụ cận. Ngoài nhiệm vụ xây dựng lực lượng
và tổ chức tác chiến, ông còn lãnh trách nhiệm bảo vệ con đường bí mật
chuyên chở vũ khí từ vùng biên giới Đông Bắc do Lưu Kỳ mua và vận
chuyển về căn cứ Đáp Cầu. Trong năm 1887 Lãnh Giang hoạt động mạnh
mẽ ở vùng Bắc và Tây Hải Dương, Nam Bắc Ninh, Bắc Hưng Yên gây cho
quân Pháp nhiều tổn thất, quân lính hoang mang không dám càn quét. Pháp
phải thú nhận như sau: "Năm 1887 trong thời gian chờ đợi công cuộc bình
định chỉ được tiến những bước yếu ớt. Từ tháng giêng năm 1887 Lãnh
Giang lại trở về trong tỉnh và liên kết với Khoát, Ba Báo, Văn, Quý. Kết quả
của việc này chẳng bao lâu đã thấy rõ. Vụ nọ tiếp vụ kia, ba tầu buôn nhỏ
bị tấn công trên sông Luộc. Một tầu bị bỏ lại và bị cướp. Trong những cuộc
truy lùng địch, các đội lính Khố đỏ và Khố xanh của chúng ta luôn luôn
xung đột với các đám giặc đương đầu với họ, có một bốt suýt nữa bị họ
chiếm”. (Trận này Piglowski viết trong "Lịch sử lính Khố xanh An Nam ở
Bắc Kỳ” như sau: Nhiều tên cướp đã vãi đạn vào chiếc tầu. Một thuỷ thủ bị
giết chết. Chiếc xà lúc Antoinette chở thư đường sông Hà Nội - Hải Phòng
đã bắt gặp chiếc Madalay sau khi Madalay bị tấn công. Chiếc xà lúc
Antoinette đã được đồn binh đó yểm hộ và cập bến Hải Phòng vô sự (29-6).
Pháp và Hoàng Cao Khải nhiều lần đem quân đánh Lãnh Giang,
nhưng không có kết quả mà còn bị tiêu hao lực lượng, vì thế năm 1887
quân Pháp tăng cường lính Khố xanh, riêng ở Hải Dương đưa lên 800 tên
đóng ở các đồn bốt và hợp thành "đội Bảo an dân sự bản xứ" rải ra các bốt
cố định và bốt lưu động, Công sứ Hải Dương còn rút lính chính qui ở các
đồn về lập các đội quân, khủng bố các làng ủng hộ nghĩa quân, giúp quan
huyện thu thuế. Để chống lại lực lượng quân sự mới của quân Pháp,
Nguyễn Thiện Thuật, Lãnh Giang kết hợp với các toán khác hợp thành sức
mạnh diệt nhiều đồn bốt Pháp.
Về tài thao lược của Lãnh Giang, kẻ thù cũng phải thừa nhận:
"Tán Thuật có hai tướng giúp việc là anh em của ông ta là Lãnh Giang và
Hai Kế. Hai người này thực sự là những chỉ huy có tài đã khiến cho cuộc
nổi dậy này phải khó khăn và lâu dài mới đàn áp nổi".
Lãnh Giang chỉ huy quân sỹ nhiều lần đánh bật quân Pháp ra xa
ngôi chùa, nhưng bọn chúng đông, nhiều súng đạn vẫn không ngừng tấn
công, không may Lãnh Giang bị trúng đạn hy sinh. Nghĩa quân mở đường
máu đưa xác ông vào trong làng, được nhân dân giấu trong đống rơm quân
Pháp không tìm ra. Khi quân Pháp rút, nghĩa quân đưa xác ông về Bãi Sậy.
ĐINH GIA QUẾ
Ngày 28/3/1883, quân Pháp chiếm thành Hưng Yên không mất
một viên đạn. Đinh Gia Quế đang giữ chức Chánh tuần huyện Đông Yên
phẫn nộ bỏ quan về quê ở xã Thọ Bình nay thuộc xã Tân Dân, huyện Khoái
Châu chiêu mộ quân đánh Pháp. Để có danh nghĩa, ông tự xưng là Đổng
quân vụ, gương cao cờ "Nam đạo Cần vương, Bình Tây phạt tội”.
Cờ khởi nghĩa phất lên, nhân dân trong vùng mến mộ ông từ khi
ông ngồi dạy học, rồi làm chánh tổng, chánh tuần huyện, luôn luôn đứng về
phía dân nghèo, bảo vệ quyền lợi cho họ nên theo về rất đông. Đinh Gia
Quế lấy Bãi Sậy làm căn cứ. Giặc Pháp phải thú nhận: “Tất cả những người
nông dân ở Bãi Sậy đều theo Đinh Gia Quế chống người Pháp”. Đinh Gia
Quế xây dựng ở ấp Thọ Bình một tòa thành bằng gạch rộng năm mẫu, bên
dưới là địa đạo thông tới đền Dạ Trạch, ra sông Hồng và bãi sậy xung
quanh. Ông không tập trung quân ở các thành lũy như một số cuộc khởi
nghĩa khác mà bố trí quân ở xã nào về xã đó, với phương châm: "Bất biến
vi dân, biến vi binh".
Ngày 6/3 năm Quý Mùi( 8/4/1883) Đinh Gia Quế làm lễ tế cờ
khởi nghĩa ở Văn chỉ Bình Dân. Rất đông các tướng lĩnh ở khắp mọi nơi
kéo về tụ họp dưới lá cờ khởi nghĩa mà ông dựng nên, Đinh Gia Quế cùng
nghĩa quân đánh nhiều trận lớn ở Hưng Yên, Hải Dương, Thanh Trì,
Thường Tín, Phú Xuyên. Bộ tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Trung Bắc kỳ
thành lập một binh đoàn mạnh từ Hải Phòng lên để đánh bật quân của Đinh
Gia Quế ra sông Hồng cho tàu chiến tiêu diệt. Song âm mưu của chúng
không khuất phục được nghĩa quân, chúng đã bị đánh bật ra khỏi căn cứ Bãi
Sậy.
Trước thất bại đó, quân Pháp giao cho Hoàng Cao Khải, Án sát
Hưng Yên đem quân đánh song chúng lại bị thất bại. Từ năm 1884 và 7
tháng đầu năm 1885, thế lực của nghĩa quân ngày càng lớn mạnh, đã đánh
thắng quân Pháp nhiều trận lừng lẫy.
Song giặc Pháp vẫn quyết tâm tiêu diệt cuộc khởi nghĩa, chúng
liên tiếp đưa quân đàn áp, Đinh Gia Quế, Lãnh Sậy đem quân vượt sông
Hồng đuổi theo quân giặc đến tận làng Thanh Trì( gần cảng Phà Đen). Khi
quay trở về đến bến đò Vạn Phúc thì bị quân Pháp phục kích. Lãnh Sậy hy
sinh, Đinh Gia Quế phải chạy lên Thuận Thành, Bắc Ninh. Khoảng hơn một
tháng sau, ông trở về khi đó ông đã 60 tuổi, sức yếu, bị ốm nặng, phải nằm
dưỡng bệnh ở ấp Dương Trạch, giao binh quyền cho Chánh đề đốc Nguyễn
Đình Tính chỉ huy.
Đinh Gia Quế mất ngày 21/11 năm Ất Dậu (khoảng cuối tháng
12 năm 1885).
NGÔ QUANG HUY
Ngô Quang Huy biệt hiệu là Quang Hiên, sinh năm 1835 ở xã
An Lạc, tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là thôn An
Lạc, xã Trưng Trắc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Ngô Quang Huy là người thông minh, nổi tiếng hay chữ một
vùng, đương thời có câu: “Thần Siêu, Thánh Quát, trẻ Quang Huy”. Năm
17 tuổi ông đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852) tại trường thi
Hà Nội, được bổ làm Đốc học tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1883 Triều đình Huế kí Hoà ước với Pháp ra lệnh bãi binh.
Nguyễn Thiện Thuật bỏ quan về huyện Đông Triều chiêu mộ quân đánh
Pháp. Ngô Quang Huy cùng em trai là Ngô Quang Chước, đỗ cử nhân khoa
Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1867) tại trường thi Hà Nội đang làm Huấn đạo
huyện Mỹ Đức đều bỏ quan chiêu mộ được hơn 100 quân đến Đông Triều
gia nhập đội quân khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật.
Ngô Quang Huy là nhà nho từng làm đốc học, nên ông hiểu rõ
tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, giáo dục. Ông đã thành lập một
đội tuyên truyền gồm các nho sinh hô hào đồng bào gia nhập nghĩa quân,
tiếp tế lương thực cho nghĩa quân. Nghĩa quân do các ông chỉ huy hoạt
động mạnh ở các huyện Đông Triều, Chí Linh, Kinh Môn, Thanh Hà, Cẩm
Giàng, Mỹ Hào và vùng chung quanh lỉnh lị Hải Dương.
Chiều 12/11/1883 nghĩa quân do Nguyễn Thiện Thuật, Hai Kế,
Đề Vinh chỉ huy xuất phát từ Đông Triều về hạ thành Hải Dương. Đánh
nhau đến gần sáng ngày 13 tháng 11, nghĩa quân không hạ được thành phải
rút. Ngô Quang Huy trở về An Lạc cùng Nguyễn Cao, Hoàng Văn Hoè, Tạ
Hiện thành lập Tam tỉnh nghĩa quân còn gọi là “Đại nghĩa đoàn". Nghĩa
quân có 5.000 người, xây dựng căn cứ ở núi Nham Biền (Yên Dũng, Bắc
Giang) và các căn cứ ở Trúc Ty, Vân Cốc, Trung Đồng. Sau vài tháng bị
quân Pháp liên tục tấn công, lực lượng nghĩa quân suy yếu, thiếu súng đạn,
bị quân Pháp truy kích nghĩa quân tan rã, Ngô Quang Huy trở về An Lạc,
tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang chờ thời, bí mật liên kết với các nghĩa sĩ.
Tháng 8/1885, Nguyễn Thiện Thuật được vua Hàm Nghi phong
là Lễ bộ thượng thư, sung Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần, tước Thuần
trung hầu. Nguyễn Thiện Thuật trở về vùng giáp ranh ba tỉnh Hải Dương -
Hưng Yên - Bắc Ninh cho người mời cử nhân Ngô Quang Huy và Nguyễn
Hữu Đức tới bàn bạc. Nhận được tin, Ngô Quang Huy lập tức đến gặp
Nguyễn Thiện Thuật. Ba ông đã nhất trí phải khôi phục phong trào Bãi Sậy
và mở rộng phạm vi hoạt động của nghĩa quân sang Bắc Ninh, Hải Dương
và các tỉnh khác. Nguyễn Thiện Thuật giao cho Ngô Quang Huy phụ trách
miền Nam Bắc Ninh, Bắc Hưng Yên và Bắc Hải Dương.
Sau đó không lâu, Ngô Quang Huy nhận được sắc phong của
vua Hàm Nghi phong cho ông là "Hồng lô Tự khanh, Tán lý quân vụ”.
Nghĩa quân và nhân dân coi Ngô Quang Huy là nhân vật số hai của cuộc
khởi nghĩa Bãi Sậy, nên thường gọi ông là “ông Tán Bắc", "ông Tán Thái
Lạc”...
Ngô Quang Huy cùng em trai là Ngô Quang Chước, Tuần Văn
người xã Xuân Quan, huyện Văn Giang đã dấy binh từ năm 1883 theo
Đổng Quế, Đốc Sung, trợ thủ của Tuần Vân, Đội Văn (Vương Văn Vang)
vốn là tướng giỏi của Tam tỉnh nghĩa quân năm 1884, cả hai ông đều được
Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật phong là Đề đốc,
phát triển lực lượng ra vùng chung quanh.
Ngô Quang Huy thành lập một đội quân tuyên truyền tố cáo tội
ác của giặc Pháp và quan lại Nam triều, họp các kỳ hào và dân chúng, tuyên
đọc Chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi. Ông còn cho đắp đê, trồng tre
dọc sông Nghĩa Trụ kéo dài từ xã Ngọc Kinh, qua Tuấn Dị, Vĩnh Bảo đến
các xã Đông Khúc, Vĩnh Khúc, Tráng Vũ, Kênh Cầu dài gần 20 cây số, một
con đê khác từ Nghĩa Trai đến Cầu Ghênh (Nhạc Miếu) dài 4 cây số làm
tuyến phòng thủ. Ông cho đắp nhiều gò đống, đắp nhiều bờ ruộng cao, khơi
sâu kênh mương ở dọc đường 5 để quân sĩ ẩn núp phục kích quân Pháp.
Nghĩa quân do Ngô Quang Huy chỉ huy đánh nhiều trận như
trận tấn công đồn Bần Yên Nhân, nhiều trận phục kích quân Pháp ở đồn
Ghênh, đồn Bần Yên Nhân, đồn Đống Mối (Nghĩa Lộ tổng Đại Từ, Văn
Lâm). Các trận càn của quân Pháp và quân Hoàng Cao Khải vào An Lạc,
Đình Dù, Đại Từ, Nghĩa Trai, Đông Khúc, Khúc Lộng... đều bị nghĩa quân
đánh bật ra bảo vệ được căn cứ.
Tán lý quân vụ Ngô Quang Huy còn được vua Hàm Nghi và
Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Quang Bích giao cho việc tổ chức lực lượng
kháng chiến ở vùng đồng bằng sông Hồng. Ông thường thảo thư từ liên lạc
với các quan lại trong phe chủ chiến và sớ gửi vua Hàm Nghi.
Mặc dù đã nhiều cố gắng, song bị quân Pháp liên tục bao vây,
truy kích Ngô Quang Huy đành phải giải tán nghĩa quân rồi cùng em là Ngô
Quang Chước cùng mươi nghĩa quân thân tín chạy lên Phủ Lạng Thương
(tỉnh Bắc Giang ngày nay), quân Pháp vẫn đuổi sát phía sau, để giữ trọn
danh tiết không sa vào tay giặc, ngày 1 tháng 4 năm Kỷ Sửu (khoảng
1/5/1889), Ngô Quang Huy đã tự tử. Ngô Quang Chước cùng mấy nghĩa
quân chôn cất, rồi san bằng mặt ruộng cho mất dấu tích. Mươi năm sau, ông
Chước quay lại tìm thì không thấy.
NGÔ QUANG CHƯỚC
Ngô Quang Chước là em trai Tán tương quân vụ Ngô Quang
Huy, quê ở xã An Lạc, tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay
là xã Trưng Trắc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Ông đỗ cử nhân khoa
Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1867) tại trường thi Hà Nội. Ông được bổ làm
Huấn đạo huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông.
Năm 1883 khi triều đình Huế ký Hoà ước với quân Pháp, tổng
đốc Hải - Yên Nguyễn Thiện Thuật bỏ quan về Đông Triều mộ quân đánh
Pháp. Noi gương anh trai, ông cũng bỏ quan, cùng anh chiêu mộ được hơn
100 quân về Đông Triều gia nhập đội quân đánh Pháp của Nguyễn Thiện
Thuật. Ngô Quang Chước cùng với anh trai và Nguyễn Cao, Hoàng Văn
Hoè... thành lập “Tam tỉnh nghĩa quân". Đội quân này có tới trên 5000
người, có nhiều tướng giỏi như Đội Văn, Lãnh Mỹ đã đánh thắng quân
Pháp nhiều trận ở các huyện Lang Tài, Quế Võ, Tiên Du, Yên Phong (Bắc
Ninh), Phượng Nhỡn (Bắc Giang). Nhưng sau quân Pháp tập trung quân
đánh, nghĩa quân tan rã. Ông cùng với anh trở về quê chờ cơ hội đánh Pháp.
Tháng 7 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật ở Long Châu (Trung
Quốc) trở về lãnh đạo phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy. Nguyễn Thiện Thuật
mời Ngô Quang Huy, Nguyễn Hữu Đức bàn việc phát triển cuộc khởi nghĩa
Bãi Sậy trở thành một phong trào rộng lớn. Nguyễn Thiện Thuật giao cho
Ngô Quang Huy phụ trách phong trào đánh Pháp ở Nam Bắc Ninh, Bắc Hải
Dương, Bắc Hưng Yên. Ngô Quang Chước đã cùng các ông Lãnh Dâu,
Lãnh Dong ở xã An Lộc, Điển Lộc ở xã Nghĩa Trai, Hiệp Hanh ở xã Đại
Từ, Lãnh Mỹ ở xã Xuân Cầu, Tổng Nghĩa ở Ngọc Quỳnh đắp đê, trồng tre
gai dọc sông Nghĩa Trụ từ Ngọc Kinh qua xã Tuấn Dỵ, Vĩnh Bảo, đến các
xã Đông Khúc, Vĩnh Khúc, Tráng Vũ, Kênh Cầu dài gần 20 cây số làm
phòng tuyến chống Pháp, giao cho các tướng lập đồn binh phòng thủ. Ông
còn cho đắp nhiều gò, đống, đào nhiều mương máng ở hai bên đường số 5
từ Như Quỳnh đến Bần Yên Nhân làm trận địa phục kích. Ngô Quang
Chước cùng các tướng xây dựng các làng chiến đấu như Đại Từ (Văn Lâm),
Đông Khúc, Khúc Lộng, Xuân Quan (Văn Giang). Ông cũng tham gia
nhiều trận đánh ở các đồn Bần Yên Nhân, Đống Mối, Cầu Ghênh, Phú
Thị...
Ngày 12 tháng 11 năm 1888, ông cùng anh trai là Ngô Quang
Huy đưa hơn 200 quân về tham gia trận phục kích lớn ở cánh đồng Liêu
Trung. Trận này nghĩa quân đại thắng.
Tháng 3 năm 1889, quân Pháp do Giám binh Blan chard, Kinh
lược sứ Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải đưa đoàn bình định, quân các tỉnh Bắc
Ninh, Hải Dương, Hưng Yên có pháo binh yểm trợ bao vây tấn công ráo
riết vào các căn cứ của hai ông ở Nam Bắc Ninh. Dưới sự chỉ huy của anh
trai, ông cùng các tướng như Đội Văn, Đốc Sung, Lãnh Mỹ chiến đấu quyết
liệt. Song quân Pháp được tăng viện, kéo thêm đại bác, bắn phá các làng
chiến đấu, giết hại nhiều nghĩa quân và nhân dân, đốt trụi hàng chục làng.
Cùng đường Ngô Quang Chước cùng mười nghĩa quân thân tín hộ vệ anh
trai chạy lên Phủ Lạng Thương. Bị vây hãm, biết không còn đường thoát,
Ngô Quang Huy tự tử để bảo toàn danh tiết. Hôm đó là ngày mùng 1 tháng
4 năm Kỷ Sửu (khoảng ngày 1 tháng 5 năm 1889). Ngô Quang Chước cùng
nghĩa quân chôn cất anh, san bằng, đánh dấu rồi cùng mấy nghĩa quân lên
mạn ngược ẩn náu. Không bắt được Ngô Quang Huy, Ngô Quang Chước,
quân Pháp kéo quân về tàn phá làng An Lạc. Mãi đến năm 1905, Ngô
Quang Chước và một số con cháu mới trở về An Lạc, xây dựng lại nhà cửa
trên đống tro tàn, gạch vụn. Ngô Quang Chước mở trường dạy học, học trò
đến học rất đông, nhiều người đỗ đạt cao. Khi Ngô Quang Chước mất, con
cháu và môn sinh quàn để tế lễ rồi mới đem chôn. Ngô Quang Chước cùng
anh trai được thờ ở nhà thờ họ Ngô Quang ở làng An Lạc, nhà thờ chữa lại
năm 1934 đến nay vẫn còn.
LÊ VĂN HANH
Lê Văn Hanh quê ở xã Đại Từ, tổng Đại Từ huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh nay là thôn Đại Từ, xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm
tỉnh Hưng Yên. Ông tham gia khởi nghĩa, được Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ
đại thần Nguyễn Thiện Thuật phong là Hiệp quản nên gọi là Hiệp Hanh.
Ông là người chỉ huy làng chiến đấu Đại Từ, nhưng nghĩa quân ở Đại Từ
mạnh nên Ngô Quang Huy và Nguyễn Thiện Kế thường điều động quân
của ông đi đánh quân Pháp ở nhiều nơi trong tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Hưng
Yên.
Hiệp Hanh cùng Tuần Tịnh quê ở xã Đông Mai cũng thuộc tổng
Đại Từ chỉ huy nghĩa quân làng Đông Mai và mấy làng lân cận. Hai người
thân thiết với nhau đã cùng nhau chiến đấu thắng nhiều trận lớn ở Thuận
Thành, Văn Giang, Cầu Đuống, Từ Sơn. Sau Tuần Tịnh liên lạc với Pháp
làm phản, có người mật báo cho Ngô Quang Huy biết. Ngô Quang Huy sai
Hiệp Hanh bắt Tuần Tịnh về hỏi tội đầu hàng giặc, phản lại nghĩa quân.
Mặc dù là bạn, nhưng việc quân là quan trọng, nên ông vẫn chấp hành.
Tuần Tịnh biết việc mình định ra hàng Pháp đã bị bại lộ song ông là người
nghĩa khí, dám chịu trách nhiệm trước việc mình làm nên hẹn với Hiệp
Hanh: "Ông chờ tôi ở đầu làng, đúng giờ Ngọ tế thành hoàng xong, tôi sẽ
theo ông về đầu thú”. Hiệp Hanh tin lời Tuần Tịnh nên ra đầu làng chờ.
Đúng giờ Ngọ, tế Thành hoàng xong, cơm no, rượu say, Tuần Tịnh đi ra
đầu làng nơi Hiệp Hanh đang chờ đợi. Khi đó con trai Tuần Tịnh là Lê Văn
Vắn mới 16 tuổi nhưng nhanh nhẹn biết võ nghệ, đã từng theo cha ra trận
can ngăn cha không nên ra nộp mình cho Hiệp Hanh, rút gươm ra đòi giết
Hiệp Hanh. Tuần Tịnh là người trọng nghĩa khí nên trừng mắt nhìn mắng
con: “Đây là chuyện người lớn, không phải chuyện
trẻ con”, rồi thanh thản đi ra đầu làng. Tới nơi không chờ Hiệp Hanh
nhắc, Tuần Tịnh tự mình chui vào cũi. Hôm đó Tuần Tịnh uống rất nhiều
rượu ở đình, trời lại nắng gắt nên gần đến đại bản doanh của ông Tán Bắc
thì Tuần Tịnh bị cảm, Hiệp Hanh sai quân đưa Tuần Tịnh ra khỏi cũi, mời
lương y đến cứu chữa nhưng không kịp, Tuần Tịnh qua đời.
Từ tháng 3/1889 quân Pháp cùng tổng đốc Hoàng Cao Khải liên
tiếp mở các cuộc tấn công lớn vào vùng Nam Bắc Ninh, Bắc Hưng Yên và
Bắc Hải Dương. Do các hoạt động quân sự ráo riết đó của quân Pháp cánh
quân do Ngô Quang Huy chỉ huy bị tan rã. Lãnh Vắn thấy thời cơ trả thù đã
đến, liền "thương thuyết với Bố chính Bắc Ninh đóng ở đồn Đống Mối và
gửi dấu ấn đến làm chứng tấm lòng thành thật ra hàng”.
Tháng 5/1889, Lãnh Vắn khi đó mới 21 tuổi, hắn cho tay chân
đem cáng, tàn lọng về xã Đại Từ đón bố của Hiệp Hanh là ông Phó tổng
đến khánh thành chợ Dọi. Đến chợ hắn vung dao chặt đầu ông Phó tổng,
treo đầu ở gốc cây đa Dọi, còn xác thì cho người nhà đi theo đem về.
Hiệp Hanh khi đó đang chiến đấu ở huyện Ân Thi được tin báo
liền cấp tốc về. Khi Hiệp Hanh về đến nơi thì Lãnh Vắn đã đầu hàng Pháp.
Pháp cho lính đến đóng ở Cầu Bà Sinh, ông không lấy được đầu bố mình.
Hiệp Hanh tức giận đem quân đến đốt phá làng Đông Mai. Được tin, Lãnh
Vắn lúc này được Pháp tin cậy cho làm đồn trưởng đồn Đống Mối đưa quân
đến đánh phá làng Đại Từ. Nhưng làng có luỹ tre, luỹ đất, hào sâu bao bọc,
nghĩa quân và dân kiên quyết chiến đấu bảo vệ làng, Lãnh Vắn được công
sứ Bắc Ninh tăng viện cũng không vào được làng Đại Từ, đành phải rút.
Ông Hiệp Hanh không lấy được đầu bố, không giết được Lãnh
Vắn, uất quá hóa điên, nhịn ăn mà chết.
PHẠM VĂN ĐỨC
Tiền quân Phạm Văn Đức sinh khoảng năm Bính Ngọ, Thiệu Trị
thứ 6 (1846), quê ởỞ làng Thượng Cốc, tổng Hội Xuyên, huyện Gia Lộc,
tỉnh Hải Dương. Do cuộc sống ở Thượng Cốc gặp khó khăn ông phải lưu
lạc ra đảo Cát Bà sống bằng nghề chài lưới. Vùng hải đảo thường có nhiều
hải tặc quấy nhiễu, ông tập hợp những người biết võ nghệ có máu giang hồ
thành một đội vũ trang chống bọn giặc Tàu Ô, cướp biển, hải phỉ. Năm
1873 khi quân Pháp đổ bộ lên đảo Cát Bà, ông hô hào dân đảo đánh trả
chúng quyết liệt.
Ngày 6/6/1874, vua Tự Đức sai Nguyễn Văn Tường ký kết quy
ước với Phi lát, trưởng phái đoàn Pháp với nhiều điều khoản có lợi cho
Pháp, Pháp rút quân khỏi Hà Nội và một số tỉnh đã chiếm đóng ở Bắc Kỳ,
chỉ để lại một số quân đóng ở Hà Nội và Ninh Hải (Hải Phòng). Phạm Văn
Đức giải tán nghĩa quân, ông trở về quê ở làng Thượng Cốc, huyện Gia Lộc
sinh sống. Ngày 25/4/1882, quân Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai. Ngày
12/3/1883 chúng đánh chiếm khu mỏ Hòn Gai, ngày 27/4/1883 chúng đánh
chiếm tỉnh thành Nam Định, tháng 8/1883 quân Pháp hạ tỉnh thành Hải
Dương. Căm thù giặc Pháp, Phạm Văn Đức dựng cờ khởi nghĩa, chiêu mộ
quân đánh Pháp, xây dựng căn cứ ngay tại làng Thượng Cốc. Lực lượng
nghĩa quân của ông rất đông, được trang bị súng bắn nhanh, được huấn
luyện thành thạo các thao tác chiến đấu. Tháng 9 năm 1883, triều đình Huế
ra lệnh triệt binh, Tạ Hiện trả chức Đề đốc Nam Định lui về phủ Kiến
Xương chiêu mộ quân đánh Pháp. Tạ Hiện thành lập năm dinh là Trung
quân, Tiền quân, Hậu quân, Tả quân, Hữu quân. Phạm Văn Đức chỉ huy
Tiền quân, nên gọi là Tiền Đức. Khoảng giữa năm 1884, quân Pháp do
trung tá Sécvie (Serviere) chỉ huy chia quân làm nhiều hướng tiến đánh căn
cứ Thượng Cốc, nhưng Tiền Đức và các tướng đã kịp thời di chuyển quân
từ trước chỉ để lại một lực lượng nhỏ cản địch. Tiền Đức chuyển hướng
hoạt động về vùng cửa sông ven biển và đảo Cát Bà. Với năng lực và uy tín
của mình, ông đã thống nhất các lực lượng vũ trang ở các tỉnh Hưng Yên,
Hải Dương (bao gồm cả Hải Phòng), Bắc Ninh (gồm cả Bắc Giang) Quảng
Yên, Hà Nội (gồm các huyện Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên của Hà
Đông và tỉnh Hà Nam), Thái Bình (khi đó thuộc Hưng Yên và Nam Định)
dưới ngọn cờ Cần vương. Tiền Đức cũng gia nhập cuộc khởi nghĩa này,
được thủ lĩnh Nguyễn Thiện Thuật dâng sớ lên vua Hàm Nghi phong ông
chức "Tiền quân đô thống". Nguyễn Thiện Thuật giao cho Tiền Đức cùng
Lãnh Hy, Lãnh Pha, Đề Hồng, Lãnh Hai... hoạt động ở vùng cửa các sông
Văn Úc, Thái Bình,vùng đảo Cát Bà, đảo Cái Bàn... Song từ cuối năm 1891
đến năm 1892, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy chịu nhiều tổn thất nặng nề, nhiều
tướng lĩnh hy sinh. Tháng 4 năm 1892 , sau trận thất bại ở Ngô Phần, Bích
Khê, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy tan rã. Song
Tiền Đức cùng một số tướng lĩnh vẫn duy trì được cuộc kháng chiến ở vùng
biển và các đảo trên vịnh Bắc Bộ. Đến khoảng giữa năm 1893, quân Pháp
tập trung hải quân bao vây đánh phá ác liệt các đảo Cát Bà, Cái Bầu nghĩa
quân bị thiệt hại nặng nề, Tiền quân Đô thống Phạm Văn Đức liền sang
Trung Quốc. Ông đến yết kiến chủ tướng Nguyễn Thiện Thuật đang ở nhà
Lưu Vĩnh Phúc tại Sa Hà. Tiền Đức có mối quan hệ mật thiết với giới quan
lại có thế lực ở Quảng Đông, Quảng Tây như Thống lĩnh Trần Thế Hoa.
Nguyễn Thiện Thuật thường phái ông đi hộ tống các yếu nhân của Duy tân
hội và phong trào Đông du như Phan Bội Châu. Ghi nhớ công lao của Tiền
Đức nhân dân ấp Tiền Đức ở Mạo Khê, Đông Triều, nhân dân đảo Cát Bà
lập đền thờ ông. Tại thành phố Hải Phòng có một đường phố số 24b ở quận
Hồng Bàng được mang tên là phố Tiền Đức từ tháng 11/1996.
CẢ SEN
Cả Sen tên thật là Vũ Văn Lộc, quê ở xã Nghĩa Trang, tổng Sài
Trang, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương. Ngay sau khi thành Hưng Yên
bị mất, Đổóng quân vụ Đinh Gia Quế, người xã Thọ Bình, tổng Bình Dân,
huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu kêu gọi nhân dân khởi nghĩa chống
Pháp. Ông nói với thân phụ: "Thưa cha, cha dạy con là làm trai phải trung
với vua, hiếu với dân. Nay quân Pha lang đã cướp thành Hà Nội, thành Hải
Dương, thành Hưng Yên. Chúng thẳng tay giết người, đốt nhà tàn phá biết
bao làng xóm. Ông Đổng Quế ở phủ Khoái Châu đã nổi dậy kêu gọi mọi
người đánh Pháp. Cha hãy bằng lòng cho con và em Vũ Văn Lương vào
Bãi Sậy gia nhập nghĩa quân đánh Pháp”.
Ngay sau khi gia nhập nghĩa quân, để tránh việc người quen
nhận mặt, quan phủ, quan huyện khủng bố gia đình, đốt phá làng xóm, Đốc
Sung đã chuyển hai ông vào đội quân cơ động của mình mà địa bàn hoạt
động chủ yếu là ở Nam Bắc Ninh.
Cả Sen và Vũ Văn Lương đã tham gia vào nhiều trận đánh như
trận Đốc Sung chặn đánh quân Pháp ở chợ Bốn, đê Cự Khối, nay thuộc
huyện Gia Lâm. Năm 1884, khi lữ đoàn Negrier tấn công cứ điểm Bãi Sậy,
Đề đốc Nguyễn Văn Sung đã chỉ huy quân đánh tạt sườn chúng, có trận ông
đánh vào phía sau chúng, đốt phá kho lương khiến chúng hoảng loạn. Trong
trận này Cả sen lập công lớn, được Đề đốc Nguyễn Văn Sung bẩm báo với
Đổng quân vụ Đinh Gia Quế phong ông chức Suất đội, nghĩa quân gọi là
Đội Sen.
Tháng 3/1888, Cả Sen chỉ huy 30 nghĩa quân tham gia vào đạo
quân lớn tới 500 người do các ông Đề đốc Nguyễn Văn Sung, Đề đốc Mỹ,
Quản Dây chỉ huy hoạt động ở vùng sông Cà Lồ khi đó thuộc Bắc Ninh,
giáp Thái Nguyên, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Quân Pháp và quân của Tiễu
phủ sứ Hoàng Cao Khải phải vất vả lắm mới đẩy lùi được cuộc tấn công
này.
Năm 1888, hai ông Cả Sen, Vũ Văn Lương tham gia trận phục
kích lớn ở Liêu Trung. Trận này do đích thân Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ
Đại thần Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy giết chết 31 lính Pháp, trong đó có
tên Giám binh Louis Ney.
Tháng 3 năm 1889, Nguyễn Thiện Thuật giao cho Đốc Sung
điều quân trở lại Nam Bắc Ninh chi viện cho cánh quân của Tán lý Ngô
Quang Huy đang bị quân Pháp bao vây ở Từ Sơn, Yên Phong. Cả Sen, Vũ
Văn Lộc có mặt trong đạo quân này. Các ông đã kịch chiến với quân Pháp ở
Liễu Khê, Liễu Ngạn, Thuận Thành, Bắc Ninh. Vũ Văn Lương và hơn 10
nghĩa quân hy sinh trong trận này. Khi trận chiến kết thúc, giặc rút, Cả Sen
quay lại tìm thi thể của em để chôn cất nhưng nhân dân đã chôn chung một
hố 11 người. Ông đem hương đi nhưng không dám thắp sợ bọn mật vụ phát
hiện ra đây là mộ các nghĩa quân.
Đội quân của Đốc Sung đi giải vây lại bị quân Pháp bao vây
chia cắt nên không chi viện được cho Ngô Quang Huy. ngày 1 tháng 4 năm
Kỷ Sửu (khoảng 1/5/1889), Ngô Quang Huy cùng đường phải tự tử. Cả Sen
tiếp tục chiến đấu cạnh Đốc Sung. Sau đó ông hy sinh trong trận Đồng Ngư
(Bắc Ninh) ngày 21 tháng 2 năm 1890. (Trận này báo Tin tức Hải Phòng số
35 ngày thứ năm ngày 27/2/1890 viết quan Pháp bị chết 1 vệ binh chính, 1
vệ binh bị thương ở vai. "bọn cướp"(chỉ nghĩa quân) bị chết 15 người, bỏ lại
1 súng lục, 1 súng tay).
ĐỐC ĐOÁN
Đốc Đoán tức Tổng Đoán tên thật là Đinh Văn Đoán người làng
Vô Ngại, sau đổi là Cảnh Lâm. Ông là bạn thân tín của Nguyễn Thiện
Thuật, tham gia chống Pháp từ năm 1883, khi Nguyễn Thiện Thuật chiêu
mộ quân đánh Pháp ở các huyện Đông Triều, Chí Linh. Ông có mặt trong
đội quân do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy đánh thành Hải Dương ngày
12/11/1883.
Sau trận hạ thành Hải Dương không thành ông lại theo Nguyễn
Thiện Thuật đánh Pháp ở Phả Lại, và giữ thành Bắc Ninh. Bắc Ninh lọt vào
tay quân Pháp, Đốc Đoán theo Nguyễn Thiện Thuật lên giữ thành Hưng
Hoá, đánh Pháp ở Phủ Lạng Thương, Tuyên Quang. Sau khi Nguyễn Thiện
Thuật phải tạm lánh sang Trung Quốc, Đốc Đoán trở về Cảnh Lâm chiêu
mộ quân phối hợp chặt chẽ vơi hai ông Lãnh Chủ, Lãnh Điếc, chỉ huy nghĩa
quân ở Xuân Trúc, Ân Thi nhưng chỉ cách thôn Vô Ngại một cánh đồng
rộng.
Nghĩa quân của Đốc Đoán đã cùng nghĩa quân Lãnh Chủ, Lãnh
Điếc đánh Pháp trên đường 39, đường đê 99 Lực Điền - Cầu Hầu, tập kích
quân Pháp đóng ở Lực Điền.
Ông cũng điều động nghĩa quân và nhân dân đến Thuỷ Trúc khai
hoang nuôi quân. Sau khi phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy thất bại, số ruộng
của nghĩa quân trở thành công điền của làng Cảnh Lâm.
Tháng 8/1885, Nguyễn Thiện Thuật ở Long Châu (Trung Quốc)
về nước. Ông được Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Quang Bích thừa lệnh vua
Hàm Nghi cử ông về lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy vì Đổng Quân vụ
Đinh Gia Quế bị ốm nặng. Được tin báo tháng 9/1885, Đốc Đoán về Văn
chỉ Bình Dân dự lễ tế cờ. Ông nhận nhiệm vụ phối hợp với Đốc Đồng, Lãnh
Mậu, Lãnh Chủ, Lãnh Điếc chống, đánh quân Pháp ở Mỹ Hào và Ân Thi.
Đốc Đoán chỉ huy nghĩa quân đánh nhiều trận. Ngày 3/3/1889,
hôm đó là ngày chủ nhật, Đốc Đoán tham gia đánh quân Pháp đặt đường
dây điện thoại từ Lực Điền đi Sặt, tiêu diệt một số tên làm ngừng trệ công
việc. Báo Tin tức Hải Phòng số 250 ra ngày thứ năm, 7/3/1889 viết như
sau: "Chủ nhật ngày mùng 3 tháng 3 tổ điện báo có nhiệm vụ đặt đường
dây nối từ Lực Điền lên Kẻ Sặt bất ngờ bị tấn công trong tỉnh Hưng Yên.
Lực lượng tấn công đông chừng 100 tên”.
Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Tân Việt xuất bản năm 1997
viết: "Vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp mở rộng phạm vi đô hộ nước
ta thì cũng tà lúc phong trào Cần vương bùng nổ. Tại khu vực tỉnh nhà có
phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy do ông Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy. Tân
Việt (trong đó có Cảnh Lâm) là một căn cứ của nghĩa quân. Nhân dân Tân
Việt đã tự nguyện đứng dưới cờ khởi nghĩa của nghĩa quân Bãi Sậy. Nhiều
người là tướng lĩnh tin cẩn của ông đã chỉ huy nghĩa quân chiến đấu dũng
cảm chống đội quân xâm lược và đội quân nhà Nguyễn, làm cho chúng bao
phen khiếp sợ”.
LÃNH DUỆ
Lãnh Duệ quê gốc ở Nghệ An người cao, gầy, giỏi võ nghệ. Ông
đã từng chiến đấu chống quân Pháp ở Nghệ An, bị quân Pháp truy nã, phải
chạy ra Bắc, làm con nuôi cụ Tán Thuật rồi ở lại làng Xuân Đào, xã Xuân
Dục, tổng Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hải Dương. Tới nay con cháu
cũng không nhớ rõ ông họ Vương hay họ Hoàng. Điều này được chứng
minh là khi phong trào Bãi Sậy tan rã, giặc Pháp tới xã Xuân Dục truy xét
một người mang hai họ Vương và họ Hoàng.
Tuy Lãnh Duệ theo nghề võ, nhưng đã từng theo học chữ Nho
tới khoá sinh Vì thế tuy Nguyễn Thiện Thuật phong ông làm lãnh binh,
nhưng vẫn giữ nhiệm vụ văn thư. Lãnh Duệ cũng là người thay mặt Nguyễn
Thiện Thuật tiếp kiến các tướng đề đạt kiến nghị của họ lên và truyền mệnh
lệnh của Nguyễn Thiện Thuật đến các tướng lĩnh. Tuy vậy Lãnh Duệ vẫn
cầm quân đánh giặc.
Nguyễn Thiện Thuật đã phái Lãnh Duệ tới các xã trong huyện
Mỹ Hào, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên
phát động nhân dân khởi nghĩa. Từ cuối năm 1885, đầu năm 1886, Nguyễn
Thiện Thuật phái Lãnh Duệ về xây dựng căn cứ ở chùa Xuân Nhân. Căn cứ
xây dựng xong ông là người chỉ huy căn cứ này, cây đề cạnh chùa Xuân
Nhân là vọng gác tiền tiêu của căn cứ. Từ căn cứ Xuân Nhân - Xuân Bản -
Xuân Đào quê hương của Nguyễn Thiện Thuật, Lãnh Duệ đã tới xã Lương
Xá gặp vợ chồng Lãnh Lường, tới làng Khuốc gặp anh em Lãnh Thảo bàn
kế hoạch tác chiến và thu lương.
Tháng 10 năm 1890, Nguyễn Thiện Thuật đi Trung Quốc cầu
viện, giao binh quyền cho Nguyễn Thiện Kế. Lãnh Duệ chiến đấu dưới sự
lãnh đạo của Nguyễn Thiện Kế. Lãnh Duệ đã cùng Lãnh Thảo, Hai Thao,
Đốc Muỗi ở làng Khuốc, Tuần Khấu, Đốc Nhông ở Hương Lãng chiến đấu
chống quân Pháp ở Nam Bắc Ninh, Bắc Hải Dương. Nguyễn Thiện Thuật
đi Trung Quốc, nhưng dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thiện Kế , Đề Vinh,
Lãnh Duệ, Đề Ban, Hai Thao... vẫn hết lòng giúp đỡ Nguyễn Thiện Kế
đánh đuổi quân Pháp, xây dựng cơ sở, cử những người của nghĩa quân ra
làm chánh tổng, lý trưởng, đóng thuế, quyên góp cho nghĩa quân.
Tháng 4 năm 1892 , Nguyễn Thiện Kế, Đề Vinh thất trận ở Ngô
Phần, Bích Khê, huyện Lang Tài, Bắc Ninh, nghĩa quân Bãi Sậy tan rã.
Lãnh Duệ trở về Xuân Đào, Xuân Nhân mưu toan khôi phục phong trào.
Quân Pháp kéo về Xuân Dục bắt người mang hai họ Vương,
Hoàng người Nghệ An. Song ông đã được báo trước nên trốn đi gia nhập
nghĩa quân của Đề Thám. Không bắt được ông, chúng sục vào khắp các
xóm bắt con cháu ông. Khi đó anh Luận, con trai ông Duệ cho rằng mình đã
đổi họ sang họ Phạm là họ của mẹ, chúng không biết, nên chỉ trốn quanh
làng. Chúng bắt được Luận đầy đi Côn Đảo. Hết hạn tù, Luận được tha, trở
về nhà làm thợ mộc, chết năm 1967, thọ 77 tuổi.
Từ khi Lãnh Duệ lên Yên Thế tham gia cuộc khởi nghĩa do
Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, con cháu không nhận được tin tức gì chỉ nghe
phong thanh lên đó ông đổi tên là Cai Thanh hay Cai Chanh. Con cháu
cúng giỗ vào ngày ông đi là ngày 28 tháng 8 âm lịch. Nhưng theo Nguyễn
Thiện Kế nói lại thì Lãnh Duệ hy sinh trong trận chiến đấu với quân Pháp ở
Tam Lộng, tỉnh Vĩnh Phúc.
ĐỐC ĐỒNG
Đốc Đồng tên thật là Vũ Văn Đồng, còn gọi là Đốc Quần, quê ở
xã Tam Trạch, tổng Sài Trang, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, nay thuộc xã
Trung Hoà, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.
Vũ Văn Đồng chiêu mộ nghĩa quân, dựng cờ khởi nghĩa ngay từ
khi giặc Pháp hạ thành Hải Dương và thành Hưng Yên lần thứ hai (1883).
Hai năm đầu ông chiến đấu dưới sự chỉ huy của Tán tương quân vụ Nguyễn
Thiện Thuật. Cuối năm 1884, Nguyễn Thiện Thuật chuyển địa bàn hoạt
động lên Phủ Lạng Thương, Lạng Sơn sau đó sang Long Châu, (Trung
Quốc) thì ông chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đổng quân vụ Đinh Gia Quế.
Tháng 9/1885, khi Đinh Gia Quế bị ốm, nằm dưỡng bệnh ở xã
Dương Trạch (trong căn cứ Bãi Sậy) Nguyễn Thiện Thuật về nước trực tiếp
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, được vua Hàm Nghi phong Bắc Kỳ Hiệp
thống quân vụ đại thần. Ông Thuật đưa phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy lên
một quy mô lớn trên phạm vi các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh,
Quảng Yên, Phúc Yên, Phủ Lạng Thương, Sơn Tây. Xã Tam Trạch căn cứ
của Đốc Đồng và Lãnh Mậu chỉ qua một cánh đồng tới thôn Xuân Nhân, xã
Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, là tiền đồn của đại bản doanh Nguyễn Thiện
Thuật những năm 1885, 1886; qua sông Nghĩa Trụ ở bến Cầu Hàu. Đốc
binh Vũ Văn Đồng lập được nhiều công lao như trận đánh quân Pháp tấn
công vào làng Tam Trạch; trận tấn công đồn Mai Đường ở xã Đỗ Mỹ,
huyện Ân Thi.
Cuối năm 1889 giặc Pháp mở cuộc càn quét lớn vào căn cứ Tam
Trạch - Nguyễn Xá chúng bắt được Đốc binh Vũ Văn Đồng đưa đi đày ở
Côn Đảo. Chúng chém ông sau một lần ông cầm đầu cuộc đấu tranh quyết
liệt với bọn giám ngục, vứt thây xuống biển, chặt đầu ướp muối đưa về cắm
cọc bêu ở huyện Mỹ Hào. Sau nghĩa quân cùng con cháu lấy được đầu ông
đưa về táng ở quê, không có thân thể, con cháu đành lấy cành dâu làm
xương đưa về táng, chỉ đánh dấu, không đắp nấm.
BANG ẤM
Bang Ấm tên thật là Phạm Ngọc Toản là con trai độc nhất của
Ngự sử Phạm Ngọc Xuân. Phạm Ngọc Toản là người thông tuệ học nhiều,
hiểu rộng, thông kinh sử, nhưng không thích chốn quan trường ràng buộc,
chỉ thích vui thú cảnh điền viên, nên không đi thi. Giữa lúc ấy quan Tán
Nguyễn Thiện Thuật đứng lên chống giặc Pháp vận động ông gia nhập
nghĩa quân Bãi Sậy. Sẵn có tấm lòng yêu nước, được Nguyễn Thiện Thuật
động viện, ông hăng hái nhận lời, nhận ra làm quan Bang. Trong thời gian
làm quan, ông đã thu thập được nhiều tin tức về các cuộc hành quân, vây
bắt các thủ lĩnh kịp thời báo cho nghĩa quân. Việc này đã giúp cho nghĩa
quân tránh được nhiều tổn thất, còn quân Pháp thì bị khốn đốn.
Nhằm đẩy nhanh tốc độ khai thác thuộc địa ở xứ Bắc Kỳ, giặc
Pháp thẳng tay đàn áp phong trào Cần vương. Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy bị
quân Pháp đem quân vây đánh liên tục. Nghĩa quân bị tan vỡ, Nguyễn
Thiện Thuật phải trốn tránh hết nơi này đến nơi khác. Trước tình hình đó
ông thấy mình không thể làm gì được cho nghĩa quân nữa, ông xin từ chức
quan Bang. Về nhà được ít lâu Nguyễn Thiện Thuật biết ông chưa bị lộ, bí
mật cho người đến bàn cách tiếp tục chống giặc.
Nguyễn Thiện Thuật phái ông Toản và một số thủ lĩnh nghĩa
quân lên miền rừng núi Yên Bái lập đồn điền để trồng cấy lấy lương thực,
đồng thời dựa vào thế rừng núi hiểm trở làm nơi tụ nghĩa. Ông Toản liền
làm đơn với chính quyền Pháp đưa số nghĩa quân đã ra hàng hoặc chưa bị
lộ đi mở đồn điền ở tỉnh Yên Bái. Nghe ông Toản trình bày chúng rất mừng
vì sơn lâm, chướng khí, nước độc sẽ giết chết số nghĩa quân đó, chúng sẽ
không mang tiếng giết người đã ra hàng. Chúng chẳng những cấp giấy
phép, mà còn chu cấp cả nông cụ, lương thực, thuốc men cho anh em. Ông
Toản cùng đi với anh em đến nơi lập đồn điền rồi về đón Nguyễn Thiện
Thuật đang trú ẩn ở một nơi an toàn đi Cao Bằng để sang Trung Quốc cầu
viện nhà Thanh.
Anh em ở đồng bằng lên, lạ nước, lạ cái ăn uống không giữ
được vệ sinh, uống nước suối, ăn quả xanh, mùng màn không có, nên bị sơn
lam, chướng khí, muỗi đốt bị sốt rét chết gần một nửa. Số còn lại nản chí bỏ
về gần hết. Khi ông Toản đưa Nguyễn Thiện Thuật lên Cao Bằng trở về nơi
lập đồn điền thì chỉ còn dăm người, đành bàn với nhau hãy trở về quê, chờ
Nguyễn Thiện Thuật về sẽ bàn kế chống giặc. Thế là ông cùng mấy anh em
lủi thủi luồn rừng trở về nhà. Ông không ở đấy lâu nhưng cũng bị bệnh sốt
rét, ốm đau dai dẳng, quặt quẹo mãi, sau đó qua đời vào ngày 11 tháng 6
khi mới 37 tuổi.
Chuyện về ông bang biện Phạm Ngọc Toản chống Pháp do bà
Phạm Thị Oanh, tức Chiêu Oanh là em gái ông Toản kể lại cho Phạm Dung
là cháu gọi là bà cô từ trước cách mạng Tháng 8 năm 1945, sau này ông
Phạm Dung viết lại trong gia phả dòng họ Phạm ở xã Bạch Sam, huyện Mỹ
Hào, tỉnh Hưng Yên.
Cứ mỗi lần kể xong, bà lại khóc nức nở. Qua cơn xúc động, cụ
lau khô nước mắt nói nhỏ với cháu: "Bà nói cho cháu nghe chuyện gian
truân của nhà mình để cháu biết thôi chớ có hở môi ra với ai, Tây nó biết
nó cắt lưỡi đấy. Làng ta và làng Đậu làng vẫn vẫn có mật thám rình mò
đấy. Chả thế mà cụ Hai Kế, em cụ Tán bị giặc Pháp bắt đày ra Côn Đảo,
ngoài bẩy chục tuổi nó mới thả về. Khi cụ mất, mật thám còn về soát xét
xem có phải cụ chết thật không hay là nói ra như thế để trốn đi làm Hội kín.
Cháu nhớ nhời bà dặn nhé”. (Theo bài kể của cụ Phạm Dung, cụ Phạm
Toán - Cháu tam đại cụ Bang Ấm)
LÃNH THẢO
Ngày 20 tháng 8 năm 1883, Triều đình Huế ký với thực dân
Pháp Hiệp ước Harmand, ra lệnh cho các quân thứ Bắc Kỳ bãi binh, Tán
tương quân vụ, Tổng đốc Hải - Yên Nguyễn Thiện Thuật kháng chỉ, từ
quan về Đông Triều mộ quân đánh Pháp. Ông cho quân về các tỉnh Hải
Dương, Bắc Ninh kêu gọi mọi người gia nhập nghĩa quân.
Năm anh em ông Lê Văn Thảo, Lê Văn Thao, Lê Văn Muỗi, Lê
Văn Điền, Lê Văn Cỡi người làng Khúc Nhu tên nôm là làng Khuốc cùng
các ông Cai Thóc, Xã Tiên, Sư Rốn ở thôn Kim Huy, Vũ Xuân Quang ở
thôn Yên Xá đều ở tổng Lỗ Xá, huyện Đường Hào đã thành lập đội nghĩa
binh hàng tổng gia nhập cuộc khởi nghĩa này.
Sau trận đánh thành Hải Dương không thành, Nguyễn Thiện
Thuật giao cho một số chỉ huy nghĩa quân trở về quê xây dựng lực lượng vũ
trang bí mật. Ông chỉ huy hơn 300 quân phối hợp với các lực lượng vũ
trang khác, đánh quân Pháp ở Phả Lại, tham gia giữ thành Bắc Ninh, Hưng
Hoá, đánh quân Pháp ở Phủ Lạng Thương, Kép, cầu Quan Âm (Lạng Sơn).
Sau trận này, Chính phủ Pháp và Triều đình Mãn Thanh ký "Hiệp ước Hoà
bình” rút hết quân Triều đình và quân Cờ Đen về nước. Quân Pháp huy
động lực lượng lớn đánh phá Lạng Sơn, Nguyễn Thiện Thuật phải giải tán
nghĩa quân, rồi sang Long Châu, Trung Quốc.
Trong khi đó thì tại Khúc Khu, anh em Cả Thảo cùng các ông
đầu lĩnh nghĩa quân khác ở xã Lỗ Xá hoạt động gặp nhiều khó khăn, vì
quân Pháp đóng đồn ở Bần Yên Nhân, huyện lỵ Mỹ Hào, đồn Đống Mối.
Sau một thời gian, Nguyễn Thiện Thuật về nước, tháng 9 năm
1885, ông tổ chức lễ Tế cờ ở Văn chỉ Bình Dân, triệu tập các tướng về dự.
Cả Thảo, Vũ Xuân Quang, Ba Muỗi cũng được về dự. Sau lễ tế cờ, Nguyễn
Thiện Thuật đã phong chức tước cho tướng lĩnh. Cả Thảo và Vũ Xuân
Quang được phong chức Lãnh binh, Ba Muỗi được phong chức Đốc binh.
Để phá âm mưu tiêu diệt phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy của thực
dân Pháp, Nguyễn Thiện Thuật lệnh cho các tướng đồng loạt tấn công đồn
binh Pháp. Lãnh Thảo, Lãnh Quang, Đốc Muỗi nhận được lệnh cùng Tuần
Khấu, Đốc Nhông quê ở tổng Thái Lạc, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
xây dựng vùng Khuốc - Lạng thành căn cứ quân sự quan trọng ở vùng Tây
bắc Hải Dương, Tây - Nam Bắc Ninh.
Ngày 11/11/1888, Lãnh Thảo, Lãnh Quang nhận được lệnh của
Nguyễn Thiện Thuật, liền điều động 80 nghĩa quân của tổng An Xá về cánh
đồng xã Liêu Trung, tổng Liêu Xá, cũng thuộc huyện Mỹ Hào tham gia trận
phục kích lớn. Quân ta diệt 31 tên Pháp trong đó có giám binh Louis Ney
và bang tá Nguyễn Hữu Hào, bắt hụt Hoàng Cao Khải.
Lãnh Thảo cùng với Hai Thao, Đội Khĩnh, Đội Thi đều là người
làng Khuốc chỉ huy 150 nghĩa quân từ Mễ Xá (Ân Thi) theo đường 38 hiện
nay rút về căn cứ của Lãnh Chủ, Lãnh Điếc ở Xuân Trúc, Xuân Đình rồi từ
đó về căn cứ Bãi Sậy. Nhưng đi tới Chu Xá (Ân Thi) thì các ông bị quân
Pháp mai phục đổ ra đánh, các ông phải chạy sang ấp Thuần Xuyên. Các
ông vừa đánh, vừa rút về vùng Tam Tổng (Xuân Đào, Xuân Nhân, Xuân
Bản) quê hương của chủ tướng Nguyễn Thiện Thuật. Nghĩa quân bị thiệt
hại nặng nề. Lãnh Thảo bị thương gẫy chân, mấy nghĩa quân cõng ông giấu
trong một cái bếp của nhà dân ở làng Xuân Nhân. Ông biết mình không thể
sống truyền lệnh cho mấy nghĩa quân: “Nếu giặc ập đến thì đốt nhà, kéo
sập xuống”, nói rồi ông rút súng lục ghé vào tai bóp cò tự sát.
ĐỐC MUỖI
Đốc Muỗi tên thật Lê Văn Muỗi quê ở làng Khúc Khu, xã Lỗ
Xá, tổng Yên Xá, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương, nay là thôn Phúc Xá,
xã Phan Đình Phùng, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.
Tháng 4 năm 1883, khi Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật
quê ở làng Xuân Đào, xã Xuân Dục, tổng Bạch Sam huyện Mỹ Hào làm
Tổng đốc Hải - Yên từ quan về Đông Triều khởi nghĩa đánh Pháp, thì bốn
anh em trai trong đó có Lê Văn Muỗi đã chiêu mộ dân làng Khuốc gia nhập
đội nghĩa binh về Đông Triều ứng nghĩa.
Lê Văn Muỗi cùng với các anh trai là Cả Thảo, Hai Thao và các
ông Vũ Xuân Quang, Cai Thóc, Cai Tiên, Sư Rốn đều là những người ở các
thôn trong xã Lỗ Xá thành lập một đội nghĩa quân bí mật, luyện tập quân
sự, chờ thời cơ khởi nghĩa. Các ông đã nhiều lần cảnh cáo bọn lý dịch trong
tổng không được theo Pháp làm hại dân, khống chế ba em trai của Cả Nhiên
đã đi lính đeo lon đội nhất lính Khố đỏ không được tiếp tay cho Pháp làm
hại dân.
Tháng 7 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật ở Long Châu nhận
được tin vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị hạ chiếu Cần
vương liền về nước. Ông được vua Hàm Nghi phong là Bắc Kỳ hiệp thống
quân vụ đại thần trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy thay Đổng Quế
vừa lâm bệnh từ trần.
Tháng 9/1885, Ba Muỗi cùng với anh trai là Cả Thảo, Vũ Xuân
Quang được triệu tập về Văn chỉ Bình Dân dự lễ tế cờ và nghe đọc chiếu
Cần vương của vua Hàm Nghi. Sau lễ tế cờ, thủ lĩnh Nguyễn Thiện Thuật
phong chức tước cho chỉ huy các đội nghĩa quân. Lê Thảo và Vũ Xuân
Quang được phong chức Lãnh binh, ông được phong chức Đốc binh. Trở về
quê, các ông đã phát triển lực lượng nghĩa quân ở tổng Yên Xá. Các ông
còn liên kết với nghĩa quân tổng Thái Lạc, phủ Thuận Thành do Tuần
Khấu, Đề Quân, Đốc Nhông chỉ huy thành “căn cứ Khuốc - Lạng".
Đốc Muỗi đã tham dự nhiều trận phối hợp với Tuần Khấu, Đốc
Nhông ở thôn Hương Lãng, tổng Thái Lạc, huyện Thuận Thành tấn công
đồn Bần Yên Nhân, lấy được đầu Đề Quân bị chúng cắm cọc bêu ở cổng
đồn. đốt cháy đồn vào khoảng tháng 3 năm 1886.
Trong năm 1886-1887 ông cùng Lãnh Thảo, Lãnh Quang, Đôi
Khĩnh, Đội Thi đánh phá các đồn binh trạm gác của giặc Pháp mới xây
hoặc đang xây ở đường 5 đoạn từ Phố Nối đi huyện lỵ Đường Hào, đoạn từ
Quán Gỏi đi Cẩm Giàng - Bắc Ninh. Khi nhận được tin quân Pháp đóng dã
ngoại ở cầu Bà Sinh thuộc huyện Thuận Thành, nay thuộc Văn Lâm, ông
đem quân tập kích, giết chết một số tên, thu vũ khí. Ông phối hợp với nghĩa
quân tổng Thái Lạc tấn công đồn Điền (Xuân Đào), đồn Đống Mối (Đông
Mai) gây cho chúng thiệt hại nặng nề. Ông cũng có mặt trong trận nghĩa
quân mai phục ở cánh đồng Liêu Trung giết chết 31 tên lính Pháp, lính
Nam, trong đó có tên giám binh Louis Ney, bang tá Nguyễn Hữu Hào, bắt
hụt Hoàng Cao Khải.
Tháng 12/1888 ông cùng Lãnh Thảo, Lãnh Quang tập kích vào
sườn quân hỗn hợp Lê dương - pháo binh Bắc Kỳ - vệ binh dân sự đông tới
223 tên do trung uý Corre chỉ huy đang tấn công đội quân của Lãnh binh
Lưu Ngọc Tháu ở làng Liêu Trung tổng Liêu Xá cũng ở huyện Đường Hào
khiến quân Pháp phải tháo chạy.
Giặc Pháp càn quét vùng Khuốc - Lạng bắt được Đốc Muỗi tại
chợ Trạm, phủ Thuận Thành. Chúng áp giải ông về đồn Đống Mối tra hỏi.
Ông không khai báo nửa lời, còn nguyền rủa chúng là quân bán nước thờ
quan Tây. Suốt hai ngày ròng rã Đốc Muỗi nhịn ăn, nhịn uống. Bọn giặc ở
đồn Đống Mối nhốt ông vào cũi sắt kéo từ Đống Mối, qua Hương Lãng,
đến làng Khuốc chúng gọi loa cho người nhà ra nhận mặt. Chúng kéo ông
về đồn Bần Yên Nhân. Trước khi đưa ông ra xử chém, chúng cho ông một
bát cơm, ông hất cơm đi, đập bát lấy mảnh khoét rốn lôi ruột ra thét lớn:
"Muỗi từ nay không thèm đốt chúng bay nữa mà nhân dân sẽ giiết chúng
bay!”. Chúng sai tên đao phủ xông tới chém ông. Dòng máu hồng của ông
vọt lên cao tưới ướt đẫm mảnh đất Bần Yên Nhân nơi đã thấm máu biết bao
anh hùng liệt sĩ bị chúng hành hình ở đây. Chúng đem đầu ông cắm cọc
đem bêu, còn thây vứt xuống sông Bần Yên Nhân, trôi dạt vào vó bè của
cánh đồng Đìa, nhân dân vớt lên chôn ở mé song. Vài ngày sau anh em
đang đêm tới đào lên đem về làng Khuốc chon, chỉ đánh dấu hòn đá rồi san
bằng mặt.
Từ ấy cho đến nay, con cháu (chỉ có ông Tư Dệu là có con, còn
bốn ông chưa có vợ con) không biết đích xác ngày ông hi sinh chỉ cúng ông
vào ngày ông đi. (Lê Quang Tuyến - Lê Thị Hoà cháu gọi bằng ông và các
cụ cao tuổi ở làng Khúc Khu (Phúc Xá), làng Lạng (Hương Lãng) kể với
tác giả.)
LÃNH LƯỜNG
Lãnh Lường tên thật là Nguyễn Văn Lường sinh năm 1863, quê
ở làng Lương Xá, tổng Bạch Sam, huyện Mỹ Hào. Từ tháng 4 năm 1883,
Nguyễn Thiện Thuật mộ quân đánh Pháp. Rất nhiều trai tráng trong huyện
tham gia. trong số đó có Nguyễn Văn Lường đã tới Đông Triều ứng nghĩa.
Tháng 9 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật làm lễ Tế cờ ở Văn chỉ
Bình Dân (Khoái Châu, Hưng Yên) phát động cuộc khởi nghĩa trên qui mô
lớn. Ông Nguyễn Văn Lường ở Lương Xá cũng được triệu tập về dự. Sau lễ
Tế cờ, ông Lường được phong là Lãnh binh, được cử cùng Lãnh Đậu (quê
Thuận Thành, Bắc Ninh) hoạt động ở các xã thuộc tổng Bạch Sam. Lãnh
Lường cùng Lãnh Đậu được lệnh đưa quân đánh bọn phản động cưỡng bức
dân rào làng, lĩnh súng của Pháp chống lại nghĩa quân ở làng Ngọc Cục,
huyện Bình Giang, Hải Dương. Ngày 12/11/1888, Lãnh Lường tham gia
đánh trân phục kích lớn ở cánh đồng Liêu Trung, góp phần vào chiến công
giết 31 tên Pháp, trong đó có giám binh Louis Ney. Lãnh Lường phối hợp
chặt chẽ với các lực lượng nghĩa quân khác liên tục đánh quân Pháp trên địa
bàn huyện Mỹ Hào. Bị thua đau nhiều trận quân Pháp khủng bố ác liệt nhân
dân huyện Mỹ Hào.
Năm 1890 quân Pháp mở nhiều trận tấn công lớn vào vùng Bắc
Hải Dương, Hưng Yên, Nam Bắc Ninh, nhưng đội nghĩa quân do Lãnh
Lường chỉ huy vẫn bảo vệ được làng Lường, vẫn mở nhiều trận đột kích
vào các đồn binh Pháp.
Tháng 10 năm 1890, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy suy yếu, Nguyễn
Thiện Thuật giao binh quyền cho Nguyễn Thiện Kế, sang Trung Quốc mưu
một cuộc vận động mới. Tuy vậy trong suốt những tháng cuối năm 1890 và
đầu năm 1891, cuộc kháng chiến của các đội nghĩa binh và nhân dân Mỹ
Hào vẫn tồn tại.
Quân Pháp, quân Nam triều tập trung binh lực tiêu diệt thủ lĩnh,
đánh tan rã các cánh quân chủ lực của cuộc khởi nghĩa như Đốc Sung tháng
3/1891; Đốc Cọp tháng 5/1891; bốn anh em Đề Tính và Lãnh Điển tháng
8/1891; Đề Ban tháng 12/1891… thì cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy bị suy yếu
hoàn toàn, quân Pháp tập trung quân đánh phủ huyện Mỹ Hào và các huyện
Lang Tài, Gia Bình ở Nam Bắc Ninh. Khoảng tháng 1 -2 năm 1892, Lãnh
Lường và Lãnh Đậu đóng quân ở làng Vân An bị quân Pháp truy kích phải
chạy sang làng Vũ Xá, nơi Lãnh Đậu đang trú quân. Quân Pháp tập trung
quân bao vây, đánh phá. Các ông buộc phải phá vây. Lãnh Đậu hy sinh.
Lãnh Lường chạy thoát sang làng Bùi. Quân Pháp đem hàng trăm quân bao
vây chặt làng Bùi. Lãnh Lường đem quân ra đột phá ở hướng Đông của
làng thu hút quân địch để đại bộ phận nghĩa quân và dân làng rút ra khỏi
làng theo hướng Tây và đã hy sinh, giặc chặt đầu ông bêu ở phố Bạc.
Dân làng Bùi chôn cất ông, biết ơn ông hy sinh vì dân, vì nước,
đã bốc bát hương phối thờ ông ở trong đình, sau lập miếu thờ ở gốc cây đề
gần đình.
Đến nay các cháu của ông đã cải táng ông ở đồng làng Lương
Xá và trong nhà tổ của ngôi chùa làng Lương Xá có một ban thờ ông. (Ghi
theo lời kể của cụ Nguyễn Văn Nhiêu 82 tuổi là cháu gọi cụ Lãnh Lường là
ông chú kể theo gia phả)
ĐỐC NHÔNG
Tháng 9 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật họp hội nghị các tướng
và làm lễ tế cờ ở Văn chỉ Bình Dân, Khoái Châu. Nguyễn Văn Nhông, Tuần
Khấu, ông Quân cũng được triệu tập về dự. Tại lễ Tế cờ, Nguyễn Thiện
Thuật nhận được sắc của vua Hàm Nghi phong là Bắc Kỳ Hiệp thống quân
vụ đại thần, gia chấn Trung tướng quân. Nguyễn Thiện Thuật phong cho
Nguyễn Văn Long chức Chánh tuần huyện, ông Quân được phong là Đề
đốc, Nguyễn Văn Nhông được phong là Đốc binh nên thường gọi là Đốc
Nhông.
Ngày 26/10/1884, Đốc Nhông có mặt trong trận đánh quân Pháp
ở cầu Quan Âm, Bắc Lệ, Lạng Sơn. Đốc Nhông còn tham gia nhiều trận
quân ta đánh Pháp ở Phủ Lạng Thương, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Tuyên
Quang.
Sau khi dự lễ Tế cờ ở Văn chỉ Bình Dân về, Đốc Nhông góp
phần tích cực cùng Chánh tuần Khấu chiêu mộ thêm nghĩa quân, trang bị vũ
khí, quyên góp lương thực. Các ông cũng xây dựng xã Hương Lãng, xã
Phượng Trì, xã Xuân Ao thành những làng chiến đấu.
Trong khi các ông đang khẩn trương trang bị vũ khí, luyện quân
thì nhận được tin bọn chỉ huy Pháp ở đồn Bần Yên Nhân đang ráo riết tập
hợp quân ở các nơi để tấn công vào các căn cứ Hương Lãng, Xuân Ao,
Phượng Trì. Đốc Nhông đưa ra ý kiến là phải đánh phủ đầu trước. Kế hoạch
trên được Chánh tuần Khấu và Đề Quân nhất trí. Ngay tối hôm đó nghĩa
quân tổng Thái Lạc làm lễ Tế cờ ở đình Chạ xã Hương Lãng, xuất quân
đánh đồn Bần Yên Nhân. Trận này do Đề Quân trực tiếp chỉ huy, Đốc
Nhông bảo vệ căn cứ.
Cuối năm 1888, Nguyễn Thiện Thuật điều động 100 nghĩa quân
tổng Thái Lạc do Đốc Nhông chỉ huy vào đội quân cơ động do Nguyễn
Thiển Kế, Đề Vinh chỉ huy hoạt động ở Bắc Hải Dương, Nam Bắc Ninh.
Tháng 10 năm 1890, nhận thấy tình hình trong nước khó khăn,
Nguyễn Thiện Thuật giao binh quyền cho Nguyễn Thiện Kế rồi sang Trung
Quốc mưu tính một cuộc vận động mới. Song tình thế đã khác, việc không
thành, ông cũng không thể về nước được.
Trong những năm tháng khó khăn đó, Đề Vinh, Quan Bá Học,
Đốc Nhông vẫn giúp Nguyễn Thiện Kế duy trì được đội quân thường trực
trên 300 người. Đội quân này cùng với các tướng Đề Ban ở Ân Thi, Đốc
Cọp ở Kim Động, Đốc Sung, Lãnh Tháu ở Yên Mỹ, Chánh Tính, Lãnh
Điển ở Khoái Châu duy trì cuộc chiến đấu. Một cuộc chiến đấu không cân
sức giữa một bên là 409 quân Pháp, trang bị vũ khí hiện đại, có đại bác yểm
trợ, một bên là 70 nghĩa quân do Đề Vinh, Quan Bá Học, Đốc Nhông chỉ
huy và khoảng 40 nghĩa quân làng Ngô Phần do Hai Dĩnh chỉ huy.
Song nghĩa quân dựa vào hào lũy kiên cố đã bắn chết, làm bị
thương hơn 10 tên Pháp. Quân Pháp nhận được quân tiếp viện từ Bắc Ninh
do tên sĩ quan Pierrot, Feleppit, Vilian... kéo tới cùng hai khẩu pháo. Chúng
tấn công ác liệt vào Ngô Phần. Nghĩa quân đợi chúng tiến sát lũy tre mới
bắn, giết chết tên Desmot, bắn trọng thương giám binh Lambert cùng trên
20 lính Pháp, lính Nam. Song nghĩa quân cũng bị tổn thất, Hai Dĩnh cùng
30 nghĩa quân hy sinh. Đề Vinh, Đốc Nhông, Quan Bá Học quyết định đi
ngược luồng đạn của giặc để thoát khỏi vòng vây. Đó là quyết định táo bạo
và sáng suốt, vì nếu còn ở lại trong làng sẽ bị chết dưới làn đạn đại bác và
đạn bắn thẳng của giặc. Nhưng cả 30 chiến sĩ trong đó có Đề Vinh, Đốc
Nhông, Quan Bá Học, Am đều hy sinh. Song trong trận phá vây táo bạo này
quân Pháp cũng bị chết năm tên trong đó có tên Montillion, bảy tên khác bị
thương.
Ba ngày sau xác của Đốc Nhông trôi lập lờ trên sông Bích Khê
đổ ra cống huyện lỵ Cẩm Giàng đổ ra sông Cẩm Giàng. Những người dân
ven sông vớt lên an táng trên bờ sông. Song sợ giặc khủng bố, họ đánh dấu
bằng một tảng đá lớn, rồi đắp một cái mộ giả cách đó một quãng.
NGUYỄN VĂN LONG
Nguyễn Văn Long, con trai cụ Nguyễn Đình Chi, được Triều
đình phong chức "Bách hộ hầu”. Ông quê ở làng Phượng Trì, còn gọi là
làng Xuân Ao, tên Nôm là làng Ao.
Ông làm Chánh tổng rồi làm Chánh tuần huyện Thuận Thành,
tỉnh Bắc Ninh. Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật từ Trung Quốc về
nước hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi. Lễ bộ thượng thư
Nguyễn Quang Bích được vua Hàm Nghi ủy quyền chủ trương chống Pháp
ở Bắc Kỳ, khi đó chỉ huy căn cứ ở Tiên Động, Phú Thọ giao cho Nguyễn
Thiện Thuật về trực tiếp lãnh đạo căn cứ Bãi Sậy do Đổng Quế chỉ huy
nhưng đang bị ốm nặng. Nguyễn Thiện Thuật đã đưa cuộc khởi nghĩa Bãi
Sậy lên quy mô lớn khắp các tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương, Quảng
Yên, Bắc Giang. Các xã Phượng Trì, Hương Lãng của huyện Thuận Thành
nằm giáp huyện Mỹ Hào là một trong những căn cứ lớn của nghĩa quân nên
có nhiều người gia nhập cuộc khởi nghĩa.
Trước khí thế sôi sục đó Nguyễn Văn Long từ quan về quê chiêu
mộ quân khởi nghĩa. Hầu hết tuần đinh và tráng đinh tổng Thái Lạc, huyện
Thuận Thành gia nhập nghĩa quân do ông chỉ huy. Khi đã có vài trăm quân,
ông đến căn cứ Xuân Nhân gặp phái viên của cụ Tán bẩm báo tình hình, xin
gia nhập cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Nguyễn Văn Long được phái viên của cụ
Tán chỉ định chỉ huy nghĩa quân tổng Thái Lạc và các xã phụ cận.
Vốn là người phụ trách công việc trị an, an ninh trong huyện,
nên Nguyễn Văn Long rất thạo việc binh. huấn luyện quân sĩ và xây dựng
các đồn trại công khai, bí mật ngăn chặn quân Pháp đánh vào Hương Lãng,
Xuân Ao, Phượng Trì.
Khi Lãnh Vắn ở Đông Mai làm phản, giết hại nhiều thủ lĩnh
nghĩa quân Bãi Sậy, thì Nguyễn Văn Long cũng bị Lãnh Vắn chỉ điểm cho
giặc Pháp bắt. Chung đưa ông ra tù Côn Đảo. Khi được trả tự do, ông gả em
gái cho Lãnh Hạp ở Tam Má, rồi lên Thuận Thành tiếp tục sự nghiệp chống
Pháp.
Nguyễn Văn Long cùng Lãnh Hạp đánh Pháp ở Thuận Thành,
Gia Bình, ông hy sinh trong trận đánh thành Thuận Thành. Đồng đội chôn
xong xóa dấu vết, đánh dấu. Mất 20 năm sau con cháu mới đưa hài cốt về
quê, nay mộ thất lạc. Con cháu cúng giỗ vào ngày 15 tháng giêng. (Ghi theo
lời kể của cụ Nguyễn Văn Nguyên 84 tuổi ở thôn Thanh Khê, cháu ba đời
Nguyễn Văn Long).
QUẢN CẦU
Lê Hữu Cầu còn gọi là Quản Cầu, quê ở làng Lưu Xá, xã Nhật
Tân, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Ông sinh khoảng năm 1860 trong một
gia đình nho học. Tháng 7 năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần vương của vua
Hàm Nghi, ông chiêu mộ trai tráng ở địa phương dấy binh Cần vương tập
kích quân Pháp ở Cầu Giẽ (cầu bắc qua sông Nhuệ, trên đường số I), gây
cho chúng thiệt hại nặng nề, chúng phải tháo chạy.
Lê Hữu Cầu nhận thấy ông chỉ có gần 100 quân không thể
chống chọi lâu dài với giặc Pháp liền đưa quân vượt sông Hồng sang căn cứ
Dạ Trạch gia nhập vào cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Khi đó phong trào khởi
nghĩa Bãi Sậy do Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật
chỉ huy.
Lê Hữu Cầu đến Bãi Sậy khoảng một tháng thì được dự lễ tế cờ
ở Văn chỉ Bình Dân tổ chức vào tháng 9 năm 1885. Sau lễ tế cờ, Nguyễn
Thiện Thuật phong chức tước cho một số người chỉ huy. Lê Hữu Cầu được
phong chức Hiệp quản, nên quân sĩ gọi là Quản Cầu.
Ngay sau lễ Tế cờ, vị Tổng chỉ huy cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy tổ
chức một cánh quân vượt sông Hồng tấn công các đồn binh Pháp cùng các
huyện đường các huyện Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng Hòa
thuộc tỉnh Hà Đông. Lê Hữu Cầu xin đi tiên phong, Nguyễn Thiện Thuật
tin tưởng vào tài năng chiến thắng quân Pháp trong trận Cầu Giẽ nên chấp
nhận. Nghĩa quân đánh phá ác liệt các huyện trên. Cao Xuân Dục đem lính
từ Hà Nội tới đánh bị thua phải bỏ chạy về Hà Nội.
Cuối tháng 9 năm 1885 nghĩa quân Bãi Sậy tấn công thành Hải
Dương. Vì kế hoạch bị lộ, quân Pháp đưa quân ra ngoài thành chặn đường
Mao Điền. Quân Pháp điều hai pháo hạm tuần tiễn trên sông Thái Bình để
bảo vệ thành phố Hải Dương. Để trả thù, tháng 10/1885, thống tướng De
Courcy giao cho thiếu tướng Négrier, trung tá Donuier, trung tá Godard,
Hoàng Cao Khải mở cuộc càn quét lớn vào căn cứ Bãi Sậy. Nguyễn Thiện
Thuật giao cho các tướng đem quân mai phục chặn các ngả đường vào Bãi
Sậy. Quản Cầu được lệnh đem quân vượt sông Hồng đánh phá các đồn binh
thuộc Thường Tín, Phú Xuyên (Hà Đông), Đồng Văn (Hà Nam), đánh phá
giao thông để ngăn chặn không cho quân Pháp từ Hà Đông, Hà Nam vượt
sông Hồng đánh vào phía Tây căn cứ Bãi Sậy. Nghĩa quân mai phục chờ
quân Pháp lọt vào trận địa phục kích mới đổ ra đánh giáp lá cà. Quản Cầu
đã góp phần công lao vào chiến công đánh cho thiếu tướng Négrier phải
liều chết mở đường máu chạy thoát.
Tháng 11/1888, Nguyễn Thiện Thuật giao cho Quản Cầu bảo vệ
căn Bãi Sậy, điều động phần lớn các tướng đánh trận phục kích lớn ở Liêu
Trung.
Trong trận càn quét quy mô lớn của quân Pháp đánh vào căn cứ
Bãi Sậy vào cuối năm 1889, Quản Cầu chiến đấu ngoan cường và anh dũng
hy sinh.
PHẠM TRUNG THỨ
Phạm Trung Thứ còn có tên là Phạm Khắc Thứ, Phạm Khắc
Trung. Ông sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Thượng
Đồng, bờ Bắc sông Đáy, tỉnh Ninh Bình. Thời gian này, phe chủ hòa, do
vua Tự Đức cầm đầu đã thắng thế. Quân Pháp phải rút khỏi các tỉnh Bắc Kỳ
do chúng đánh chiếm năm 1873, nhưng vẫn cho bọn tay chân như Tạ Văn
Phụng, Tiên Viên tập hợp bọn lưu manh, thổ phỉ và những giáo dân quá
khích gây nhiều vụ bạo loạn, dọn đường cho quân Pháp đánh Bắc Kỳ lần
thứ hai. Vì vậy Phạm Trung Thứ không nhận chức tước của triều đình Huế.
Tháng 7 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật được giao lãnh đạo
cuộc kháng chiến Bãi Sậy. Nhận được tin trên, Phạm Trung Thứ liền đến
Bãi Sậy gia nhập lực lượng vũ trang do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy.
Trong suốt mấy năm tham gia nghĩa quân Bãi Sậy, Phạm Trung
Thứ đã có nhiều công lao trong việc đánh địch, bảo vệ căn cứ và mở rộng
địa bàn hoạt động của nghĩa quân sang Hải Dương, Bắc Ninh, Quảng Yên.
Cuộc chiến đấu ở Bãi Sậy gặp nhiều khó khăn, khó có điều kiện phát triển,
Phạm Trung Thứ trở về làng Thượng Đồng cùng với các ông Đỗ Công
Thiềm, Phạm Văn Sắt, Phạm Văn Thu, Nguyễn Thế Thị, Phạm Kim Thảo
lập thành bộ tham mưu hoạch định kế hoạch khởi nghĩa. Các ông là những
người có uy tín ở các huyện phía bắc tỉnh Ninh Bình nên vừa hô hào nhân
dân khởi nghĩa thì toàn bộ trai gái Thượng Đồng kể cả những người cao
tuổi đã nhiệt liệt hưởng ứng. Các ông cũng trưng tập thợ rèn các nơi về rèn
vũ khí, các kho lương được thành lập. Nghĩa quân được các ông chia thành
cơ ngũ, huấn luyện kỹ năng chiến đấu. Để giành thế chủ động, Phạm Trung
Thứ và bộ Tham mưu quyết định khởi nghĩa. Sau khi làm lễ Tế cờ, đích
thân Phạm Trung Thứ chỉ huy một cánh nghĩa quân tiến đánh huyện lỵ
Phong Doanh, bắt tên tri huyện Nguyễn Quỹ đưa về đình làng Thượng
Đồng xử tội. Không để cho giặc kịp trở tay, Phạm Trung Thứ đưa quân về
đánh chiếm tỉnh lỵ Ninh Bình. Nhưng quân Pháp cho quân đón đường chặn
đánh, nghĩa quân vừa chiến đấu vừa rút về làng chốt giữ cứ điểm, đắp cao
lũy đất, rào thêm tre, đào nhiều hố chông, cạm bẫy để diệt địch. Quân Pháp
bao vây làng, không dám tiến đánh, chỉ ở xa bắn súng vào, triệt đường tiếp
tế. Chỉ sau khi do thám lực lượng quân sự trong làng và cách bố phòng của
nghĩa quân, ngày 10/12/1889, quân Pháp nã đại bác rồi tấn công vào làng
Thượng Đồng. Một cuộc ác chiến đã xảy ra, nghĩa quân ít súng đạn nhưng
lợi dụng địa hình mình quá quen thuộc và vũ khí thô sơ để đánh địch. Khi
quân giặc tiến đến sát lũy đất, Phạm Trung Thứ lệnh cho nghĩa quân bắn
vào bọn xâm lược Pháp và phát loa gọi lính tập quay súng bắn vào giặc
Pháp trở về với chính nghĩa. Công tác địch vận có kết quả, nhiều lính tập
chĩa súng lên trời bắn chỉ thiên. Quân Pháp không vào được làng mà còn bị
thương vong nhiều phải rút quân. Giặc Pháp điều động lực lượng đánh phá
núi Nể, làng Thượng Đồng, Phạm Trung Thứ phải chia nhỏ quân đội chống
càn quét, bảo vệ nhân dân. Bọn giặc tràn vào Thượng Đồng, đốt phá nhà
những gia đình tham gia nghĩa quân, tịch thu gia sản, ruộng đất của họ.
Trước sự khủng bố ác liệt của giặc, nghĩa quân tan rã, Phạm
Trung Thứ lẩn tránh 10 năm mới trở về làng Thượng Đồng. Giặc dụ ông ra
làm quan, ông không ra, mở trường dạy học. Đỗ Công Thiền cũng không
hàng giặc, được nhân dân giúp đỡ ông trốn tránh, đến khi tuổi già mới trở
về làng.
TÀI LIỆU BIÊN SOẠN CHÍNH
Sách lịch sử:
- Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1894
- Việt sử cương mục tiết yếu
- Đại Nam thực lục chính biên, tập 34, 35, NXB Khoa học xã hội, 1974.
- Công văn tấu tập, ký hiệu A545, Thư viện Khoa học xã hội.
- Hà Nội thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trần Quốc
Vượng chủ biên, NXB Quân đội Nhân dân.
- Hội đồng lịch sử Hà Bắc: Lịch sử Hà Bắc tập I.
- Ban nghiên cứu lịch sử Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh, Những mẩu chuyện và
thời niên thiếu của Bác Hồ, NXB Sự thật, 1985.
- Lịch sử 80 năm chống Pháp.
- Hà Nam nhân vật lịch sử và văn hóa
- Trần Văn Giầu: Chống xâm lăng quyển I, II, NXB Xây dựng, Hà Nội
1956
- Tôn Quang Phiệt: Phan Bội Châu và một giai đoạn lịch sử chống Pháp
của nhân dân Việt Nam, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1958.
- Dương Kinh Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử, tập I, NXB Khoa
học xã hội.
- Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu Phước: Khởi nghĩa Trương Định, NXB
Thành phố Hồ Chí Minh, 1989.
- Phan Trần Chúc - Lê Quế: Nguyễn Tri Phương, NXB Quốc Văn, Hà
Nội, 1946.
- Ban liên lạc Cựu chiến binh Việt Nam ở Cămpuchia thời kỳ 1945-
1954: Quân tình nguyện Việt Nam ở Cămpuchia thời kỳ 1945-1954.
- Phan Khoang: Việt Nam Pháp thuộc sử, Sài Gòn 1974.
- Đào Đăng Vỹ: Nguyễn Tri Phương, Bộ Văn hóa - Giáo dục và thanh
niên, Sài Gòn, 1974.
- Phạm Văn Sơn: Quân dân Việt Nam chống Tây xâm, Sài Gòn, 1963.
- Nguyễn Văn Hầu: Cuộc khởi nghĩa Bẩy Thưa, Tân Sinh, Sài Gòn,
1956.
Sách Văn học:
- Phan Bội Châu toàn tập, nxb Thuận Hóa
- Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, NXB Văn học, Hà Nội, 1970.
- Thơ văn yêu nước Nam Bộ.
- Dương Quảng Hàm: Văn học sử yếu, nha Học chính Đông Pháp, Hà
Nội, 1943.
- Đại Nam chính biên liệt truyện, Quốc sử quán triều Nguyễn
- Phan Bội Châu niên biểu
- Truyện Trương Định
- Ông Nghè, ông Cống triều Nguyễn
- Sơn Nam: Bến Nghé xưa, NXB Trẻ 1997.
- Trần Văn Giáp: Lược truyện các tác gia Việt Nam. Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1971.
- Phạm Phú Thứ với tư tưởng Canh tân, NXB Đà Nẵng, 1995.
- Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập II, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1969.
- Nhóm Trà Lĩnh: Đặng Huy Trứ: Con người và tác phẩm, NXB Thành
phố Hồ Chí Minh, 1990.
- Kỳ Xuyên Văn Sao, bản dịch của Lê Thước.
- Văn học yêu nước cách mạng Hà Nam Ninh.
- Phạm Thận Duật toàn tập, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000.
- Danh nhân Thái Bình.
- Các nhà khoa bảng Việt Nam.
- Vè Thái Bình.
- Vũ Ngọc Khánh: Giai thoại ông đồ, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2002.
Địa chí:
- Địa chí Bến Tre
Sách tiếng Pháp:
- André Massen: "Hà Nội, giai đoạn 1873 - 1888".
- Dulleman: Cuộc chiến tranh chống cướp bóc
- Histoire militaire de l'Indochine Francais
- Parlin Histoire de la Cochindume
- Toboulel: Le geste francais en Indochine
- P.Vial: Les premièrè années de la Cochine (Những năm đầu ở Nam
Kỳ).
- Annales de la, prapagagation de la Foi
- L'Amiral Dpéet la conquête du Ton Kin Dideb.
- Histoire militaire de l'Indochinoir
- Những người Pháp ở Bắc Kỳ và việc can thiệp của người Pháp.
- Xứ Bắc Kỳ và sự can thiệp của Pháp (bản dịch thư viện KHXH).
Sách tiếng Nga:
- K.Xtannhin Kêvich: Vòng quanh thế giới trên lầu Coóc xin: Tuyển tập
tác phẩm, 1977.
Sách tiếng Trung Quốc:
- Dương sự thủy mạt: Bản dịch của trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
- Chiến tranh Trung - Pháp, quyển 7.
Báo cáo:
- Báo cáo của công sứ Thái Bình Ô e (Auer), hồ sơ số 71, 844, F6, 686,
Cục lưu trữ Trung ương.
- Simôni: Báo cáo gửi Toàn quyền Đông Dương.
- Thư tín chính trị (Contes pondances pliliquen) (Thư của De Vile gửi
cho Henririvière).
Tạp chí:
- Tạp chí Nghiên cứu lịch sử các số 3/1977; Số 2/1990, số 4/1994, số
6/2000.
- Tạp chí Xưa và nay số 223 tháng 1/2004; số 223/2005.
- Tạp chí Toàn cảnh số 5/1999.
Gia phả:
- Gia phả họ Lê Xuân ở Rạch Giá.
Hết tập 3
284 ANH HÙNG HÀO KIỆT CỦA VIỆT NAM - TẬP
4

Tác giả : Vũ Thanh Sơn


Nxb Công an Nhân dân 01/2009
Số trang : 180. Kích thước : 14.5 x 20.5cm
Thực hiện ebook : hoi_ls
(www.e-thuvien.com)
LỜI GIỚI THIỆU
ĐỘI VĂN
VŨ GIÁC
ĐỀ VINH
ĐỐC TÍT
NGUYỄN TRUNG LAN
LƯU KỲ
ĐỀ YÊM
LÃNH MẬU
CỬ BÌNH
LÃNH ĐẬU
ĐỀ QUÝ
NGUYỄN HỮU ĐỨC
CHÁNH TÍNH
LÃNH SẬY
PHẠM VĂN BAN
DƯƠNG VĂN ĐIỂN
ĐỐC CỌP
NGUYỄN VĂN SUNG
NGUYỄN SUNG
ĐỐC GIỚI
LÃNH MỊCH
NGUYỄN DUY HIỆU
NGUYỄN HÀM
HỒ HỌC
LÊ VĨNH HUY
LÊ TRUNG ĐÌNH
NGUYỄN DUY CUNG
MAI XUÂN THƯỞNG
NGUYỄN THẾ TRIẾT
LÊ CÔNG CHÁNH
TRỊNH PHONG
ĐÀO CÔNG BỬU
BỔN SƯ NGÔ LỢI
LÊ THÀNH PHƯƠNG
VÕ TRỨ
ĐỒ ĐÀM
TRẦN TRỌNG CUNG
CAI NGA
NGUYỄN THỊ MÃO
NGUYỄN CÔNG VẬN
NGUYỄN HÀNG CHI
NGUYỄN HIỆT CHI
LÊ BÁ TRINH
TỔNG KIÊM - ĐỐC BANG
PHẠM CHÁNH - PHẠM LUÂN - NGUYỄN SUM
KỲ ĐỒNG NGUYỄN VĂN CẨM
MẠC ĐÌNH PHÚC
NGUYỄN BÁ ÔN
NGUYỄN THÁI PHÚC
BÙI TAM ĐỒNG
TRẦN XUÂN SẮC
SƯ CỤ VƯƠNG QUỐC CHÍNH
ĐỖ ĐỨC KIÊN
NGUYỄN HANH
SƯ CỤ THÍCH THANH TRANG
ĐỒ MẬU
LANG XÁNG
HOA VĂN TRỨ - HOA VĂN CHÂU - HOA VĂN HƯNG
VUA THÀNH THÁI
ĐOÀN VĂN CỰ
TÀI LIỆU BIÊN SOẠN CHÍNH
LỜI GIỚI THIỆU
Bộ sách “284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam” bao gồm 5 tập với
tổng cộng gồm 1000 trang của tác giả Vũ Thanh Sơn viết về chân dung các
nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà văn, nhà báo Vũ Thanh Sơn đã tập trung
khắc họa lại tương đối đầy đủ và toàn diện về chân dung của 284 Anh hùng
hào kiệt của Việt Nam từ cuối Thế kỷ XIX đến đầu Thế kỷ XX. Trong đó
nhiều nhân vật mà các cuốn sách đã xuất bản từ trước đến nay chưa hề
được đề cập đến. Bằng công trình của mình không những tác giả đã đóng
góp phần bổ sung cho những thiếu vắng của lịch sử nước nhà (đặc biệt là
về nhân vật và sự kiện) mà còn góp phần tuyên truyền, giáo dục những tấm
gương tiêu biểu cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc - đó là sự nghiệp đấu
tranh chống ngoại xâm giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc.
Chân dung các nhân vật lịch sử Việt Nam trong thời kỳ lịch sử cận
đại được tác giả Vũ Thanh Sơn tập trung khắc họa ở 3 nhóm chính tương
ứng với ba thời kỳ sôi động của lịch sử Việt Nam, đã có biết bao anh hùng,
nghĩa sĩ hô hào nhân dân vũ trang đánh đuổi giặc Pháp:
Đó là thời kỳ đầu tranh chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ
XIX (từ khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tại bán đảo Sơn Trà,
chính thức mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam 1/9/1858).
Là phong trào Cần Vương với nhiều cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của
văn thân chông Pháp (1885-1896) phát triển rộng khắp từ Nam ra Bắc.
Và còn là phong trào đấu tranh chống Pháp đầu thế kỷ XX với ý thức
của hệ tư tưởng mới với các phong trào chống thuế ở Quảng Nam, phong
trào Duy tân, Đông du dưới sự lãnh đạo của Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh...).
Trong cuộc kháng chiến không cân sức này có biết bao anh hùng, hào
kiệt đã ngã xuống, nhưng ý chí quật cường chống giặc Pháp, cùng những
lời tuyên bô đanh thép trước giây phút bị hành hình vẫn mãi sáng chói,
rạng ngời lên chủ nghĩa anh hùng của dân tộc Việt Nam. Đó là những câu
nói đến nay ta đọc lại vẫn rung động như Tổng đốc Nguyễn Tri Phương
tuyên bố: “Bây giờ nếu ta chỉ miễn cưỡng lay lắt mà sống, sao bằng thung
dung chết vì việc nghĩa”; Bình Tây đại nguyên soái Trương Định tuyên bố:
“Chúng ta thề sẽ đánh mãi và không ngừng, khi ta thiếu tất cả ta sẽ bẻ
nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm vũ khí cho binh lính ta”; hay Nguyễn
Trung Trực trước giờ giặc hành hình vẫn dõng dạc tuyên bố: “Bao giờ
người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”... và còn
rất nhiều, rất nhiều lời tuyên ngôn đanh thép khác.
Nhìn chung, các nhân vật lịch sử tác giả đề cập đến trong bộ sách
đều xứng đáng được tôn vinh. Họ có thể là những quan lại, hay những nhà
chí sĩ có tinh thần yêu nước. Mặc dù, mỗi người ở cương vị khác nhau, vị
thế xã hội và hoàn cảnh xuất thân không giống nhau nhưng tất cả những
con người ấy đều có chung mục đích cao cả nhất là không quản ngại hy
sinh gian khổ, kiên quyết đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược giành
độc lập cho đất nước.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bộ sách “284 Anh hùng hào kiệt
của Việt Nam” với quý vị độc giả.
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
ĐỘI VĂN
Đội Văn tên thật là Vương Văn Vang, trong các bản Thông cáo của
ông gửi nhân dân Yên Dũng (Bắc Giang) vào tháng 10-1889 ông cũng
thường xưng là “Đề đốc họ Vương”. Ông quê ở thôn Thuận An, xã Trạm
Lộ, tổng Tám Á, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Trạm Lộ, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Vương Văn Vang trở thành một viên dũng tướng trong Tam tỉnh
nghĩa quân, ông đã góp phần tích cực xây dựng căn cứ Đình Bảng, căn cứ
núi Nham Biền, huyện Yên Dũng. Vương Văn Vang (khi đó gọi là Đội
Văn) đã đánh thắng nhiều trận lớn trong đó có trận thắng lớn làng Ngọc Trì
(tên Nôm là làng Bến) huyện Lang Tài tỉnh Bắc Ninh. Đội Văn còn tổ chức
trận đánh lớn vào đồn Hồ cướp súng của quân Pháp trang bị cho nghĩa
quân.
Cuối năm 1884 “Tam tỉnh nghĩa quân” tan rã, Đội Văn cùng Tuần Xô
vẫn hoạt động ở Nam Bắc Ninh. Khi Tuần Xô hy sinh trong trận Hà Mẫn,
Đội Văn tiếp tục hoạt động, song để cung cấp quân lương cho gần 200 quân
rất khó khăn, ông thường phải đi “làm lương” tức là thu thuế của dân, vận
động nhân dân ủng hộ, và cướp thóc của nhà giầu. Trong lễ Tế cờ ở Văn chỉ
Bình Dân, Nguyễn Thiện Thuật phong cho Đội Văn chức Đề đốc dưới
quyền chỉ huy trực tiếp của Ngô Quang Huy. (Daufes viết trong cuốn: “Bảo
an binh Đông Dương từ ngày thành lập đồn này viết: “trong vùng giáp
ranh Hai Dương. Bắc Ninh - Hưng Yên có Đốc Sung, Đội Văn, Hai Kế”).
Tháng 7/1887 Đội Văn tấn công Phố Bạc nay là xã Bạch Sam, huyện
Mỹ Hào (Hưng Yên). Trước sự truy kích ráo riết của quân Pháp và quân
Hoàng Cao Khải, nghĩa quân do Đội Văn chỉ huy bị tổn thất nặng nề, một
số thủ lĩnh dưới quyền ông và nhiều nghĩa quân hy sinh, dân chúng ở các
làng ủng hộ nghĩa quân bị tàn sát, nhà cửa, đình chùa bị đốt phá. Hoàng
Cao Khải biết Đội Văn lâm vào tình thế nguy ngập liền viết thư dụ hàng.
Ngày 27/2/1889 Đội Văn viết thư cho Hoàng Cao Khải xin đầu hàng. Pháp
và Hoàng Cao Khải rất mừng trao lại toàn bộ số vũ khí trên cho ông và cấp
thêm 50 khẩu súng trường để ông đánh nghĩa quân.
Ngày 17-9- 1889, Đội Văn sau 8 tháng trá hàng, trong một trận quân
Pháp sai ông đi đàn áp nghĩa quân ông đã ước hẹn trước với một số đồng
chí rồi bí mật đem 200 quân, 100 tay súng vượt sông Đuống nhập với toán
quân của Lãnh Đội đã chờ sẵn theo mật ước từ trước. Nghĩa quân mặc quần
áo lính theo đường số 1 qua sông Cầu để lên Yên Thế gia nhập nghĩa quân
Đề Nắm (Lương Văn Nắm) tiếp tục đánh Pháp. (Daufes, sách đã dẫn - Báo
Le Courier d’ Hải Phòng năm 1889 viết là Đội Văn đem theo 40 súng. Thco
chúng tôi, khi Đội Văn ra hàng, Pháp để nguyên số súng của đội quân của
ông lại trang bị thêm 50 súng nữa, như vây số súng ông đem đi phải nhiều –
VTS).
Trong một thông báo gửi nhân dân Bắc Ninh, Đội Văn tuyên bố rằng
“mình đã trá hàng để tạo khả năng nghiên cứu kỹ càng hơn tổ chức và
chiến thuật của quân đội Pháp, do đó sẽ bảo đảm đánh được họ khi thời cơ
đến nhằm đánh đuổi bọn dã man phương Tây ra khỏi xứ sở Bắc Kỳ”.
Đội Văn trở lại hàng ngũ kháng chiến lại liên kết với nghĩa quân Yên
Thế làm cho bọn xâm lược Pháp ở Bắc Kỳ rất hoảng sợ. Chúng phải kêu
lên: “Lúc này Đội Văn lại hoạt động mạnh trong vùng rộng lớn giữa Phủ
Lạng Thương Bắc Ninh và Tỉnh Đạo” và: “Cách đây 2 tháng người ta có
thể ung dung đi lại trên con đường Hà Nội - Lạng Sơn, nhưng ngàv nay thì
người ta sẽ phải “vũ trang đến tận răng” thế mà cũng phải là người táo
bạo lắm mới dám đi từ Đáp Cầu đến Phủ Lạng Thương”.
Bọn chỉ huy quân sự Pháp ở Bắc Kỳ lập tức ra lệnh cho đồn binh Phủ
Lạng Thương phải dò tìm đường hành quân của ông. Tên trung úy May e
(Meyer) chỉ huy đồn Phủ Lạng Thương lập tức cho lính lùng sục vùng Phủ
Khê, Liên Bộ, Lán Tranh. Đội Văn trở về Bắc Ninh. Trong một bức thư gửi
nhân dân Yên Dũng. tỉnh Bắc Ninh đề ngày 25-8 âm lịch, năm Hàm Nghi
thứ 5, Đội Văn nêu rõ: “mục đích chiến đấu của ông là nhằm để đánh đuổi
giặc xâm lược Pháp, khôi phục lại đất nước, mang lại hòa bình, yên tĩnh
thực sự cho nhân dân và chấm dứt những nỗi đau khổ đang đè nặng lên mọi
người. Cũng để đạt được mục đích trên, Văn đã chiêu mộ nghĩa quân tổ
chức lực lượng quân sự chống Pháp. Văn kêu gọi nhân dân tích cực ủng hộ
nghĩa quân”.
Để diệt trừ Đội Văn, quân Pháp đã điều động một lực lượng lớn tràn
lên Yên Thế để tiêu diệt lực lượng. Ngày 31-10-1889 cố đạo Tây Ban Nha
Lê Vátcô làm trung gian, chúng đem nộp ông cho đồn binh Pháp ở Bắc
Ninh. Mặc dù ông bị thương, bị ốm nặng chúng vẫn nhốt ông vào cũi, đeo
gông cổ, xiềng tay chân giải về Hà Nội.
Bắt được Đội Văn, bọn xâm lược Pháp xử chém ông ngày 7 tháng 11
năm 1889 tại bãi đất trống cạnh hồ Hoàn Kiếm. Khi ông chết, giặc Pháp
vẫn sợ, chúng chặt đầu ông đưa về bêu ở Bắc Ninh, còn xác ném xuống
sông Hồng.
VŨ GIÁC
Vũ Giác hiệu Tùng Trai, sinh năm Mậu Tuất (1838) quê ở thôn Ngọc
Quan, tên nôm là làng Sen, nay thuộc xã Lâm Theo, huyện Lang Tài, tỉnh
Bắc Ninh.
Vũ Giác là người thông minh, học rộng, nghe nhiều. Ông đỗ Cử nhân
khoa thi Ất Sửu (1865) năm 27 tuổi. Năm sau khoa Bính Dần (1866), ông
đỗ Phó bảng. Ông được cử giữ chức Bố chánh Thái Nguyên. Ông là người
có uy đức, giàu lòng nhân hậu, yêu nước, thương dân. Trong cương vị làm
quan đầu tỉnh, ông được triều đình tin dùng, quân dân trong hạt Thái
Nguyên kính trọng. Vì vậy khi ông còn sống, nhân dân làng Quan Đào,
huyện Yên Lãng đã xin húy hiệu của ông để thờ làm Thành hoàng làng.
Trước tình thế triều đình nhân nhượng với giặc Pháp, Vũ Giác từ
quan về quê mở trường dạy học. Lúc này một số quan lại thân Pháp nhiều
lần đến vận động ông và các con ông ra làm việc cho Pháp và Nam triều,
nhưng ông kiên quyết từ chối. Ông mở trường dạy học, và liên hệ mật thiết
với các thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa, các sĩ phu yêu nước ở các tỉnh Bắc
Kỳ, Trung Kỳ. Đối với cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật ở Đông
Triều, Chí Linh, ông hết lòng giúp đỡ bằng việc động viên con cháu, môn
sinh, người làng tham gia nghĩa quân. Ông cũng đứng ra quyên góp tiền
bạc, lương thực, áo quần gửi về Đông Triều cho nghĩa quân. Nhà ở và
trường học của ông cũng là đầu mối liên lạc của quan lại trong triều ủng hộ
cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật. Nhà ông cũng là nơi trú chân của
gia đình Nguyễn Thiện Thuật bị chính quyền Nam triều khủng bố.
Ngay sau khi nhận lệnh trở về căn cứ Bãi Sậy, Nguyễn Thiện Thuật
cùng với Cử nhân Ngô Quang Huy, Cử nhân Nguyễn Hữu Đức họp bàn và
cho người mời Phó bảng Vũ Giác tới cùng xây dựng kế hoạch kháng chiến
chống Pháp.
Nguyễn Thiện Thuật rất quan tâm đến đồn điền của Vũ Giác ở Bình
Xuyên và đề nghị mở rộng diện tích, lập các ấp ở chung quanh để khi xảy
ra chiến tranh thì biến thành các đồn tiền tiêu, chú ý đến đồn lũy phòng thủ.
Nếu căn cứ Bãi Sậy bị uy hiếp thì nghĩa quân dồn lên đó dựa vào thế hiểm
trở của miền núi để kháng chiến. Nguyễn Thiện Thuật cũng đề nghị ông
Phó bảng tiếp tục giữ bí mật việc mình đứng ra lập đồn điền mà giao cho
người tin cẩn đảm nhiệm như trước đây để mật thám Pháp không nhòm
ngó.
Trong thời gian căn cứ Bãi Sậy tồn tại suốt từ năm 1885 đến năm
1888, đồn điền ở Bình Xuyên đã cung cấp nhiều lương thực, tiền bạc cho
nghĩa quân. Đây cũng là nơi trú chân của các thủ lĩnh nghĩa quân bị giặc
Pháp truy nã, hoặc bị thương, bị bệnh đến điều trị.
Hoài bão lớn lao của ông chưa được thực hiện, thì năm 1888 ông bị
bạo bệnh qua đời khi mới 50 tuổi. Song đồn điền của ông vẫn được các thủ
hạ duy trì, tiếp tục làm nhiệm vụ hậu cần cho căn cứ Bãi Sậy.
ĐỀ VINH
Cho tới nay các tài liệu của Pháp để lại cũng như truyền thuyết về các
tướng lĩnh nghĩa quân Bãi Sậy chỉ biết Đề Vinh, quê ở vùng Ba Tổng, nay
là các thôn Thanh Lâm, Cường Trang, An Thịnh huyện Lang Tài, tỉnh Bắc
Ninh.
Đề Vinh luôn luôn chiến đấu bên cạnh thủ lĩnh Nguyễn Thiện Thuật
và nhiều lần khi bị quân Pháp bao vây, ông đã dẫn đội cảm tử mở đường
máu xông ra thu hút hỏa lực địch về phía mình.
Khi quân Pháp đánh chiếm thành Phả Lại đã huy động lực lượng 2 sư
đoàn gồm 16.300 quân, 55 đại bác và nhiều pháo thuyền từ Hải Dương,
sông Đuống bắn vào. Ngày 20-2- 1884 thành Phả Lại thất thủ, Nguyễn
Thiện Thuật cùng Hai Kế, Đề Vinh hội quân với Hoàng Văn Hòe, Ba Báo
hai lần tấn công Phả Lại. Đề Vinh dẫn đội quân cảm tử đi thuyền nhẹ lọt
vào các căn cứ của Pháp nổ súng rồi từ trong đánh ra. Các tướng Nguyễn
Thiện Thuật, Nguyễn Thiện Kế, Hoàng Văn Hòe đánh vào gây tổn thất lớn
cho quân Pháp. Khi thành Bắc Ninh bị quân Pháp uy hiếp, Đề Vinh lại theo
Nguyễn Thiện Thuật lên tham gia giữ thành Bắc Ninh. Thành Bắc Ninh lọt
vào tay quân Pháp, ông lại theo Nguyễn Thiện Thuật lên giữ thành Hưng
Hóa, thành Hưng Hóa mất, Đề Vinh lại theo Nguyễn Thiện Thuật đi đánh
quân Pháp ở Phủ Lạng Thương, Lạng Sơn.
Tháng 7/1885 vừa nhận được tin vua Hàm Nghi xuất bôn ra Quảng
Trị, xuống chiếu Cần vương, Đề Vinh lập tức sang Long Châu đưa Nguyễn
Thiện Thuật về căn cứ Tiên Động gặp Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Quang
Bích nhận chiếu Cần vương. Sau đó Đề Vinh lại cùng một số nghĩa quân hộ
tống Nguyễn Thiện Thuật về căn cứ của Nguyễn Thiện Kế, Lãnh Giang ở
vùng giáp ranh các tỉnh Hải Dương - Bắc Ninh - Hưng Yên bàn định kế
hoạch khôi phục cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.
Sau lễ Tế cờ khởi nghĩa ở Văn chỉ Bình Dân, Đề Vinh luôn luôn ở
bên Nguyễn Thiện Thuật bàn việc quân cơ. Những khi đi tấn công quân
Pháp, Đề Vinh vẫn là người đi đầu, ông còn về vùng Tam Tổng (ở Quế Võ -
Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh) xây dựng làng chiến đấu.
Ngày 12/11/1888 Đề Vinh tham gia trận đánh Hoàng Cao Khải, Giám
binh Louis Ney ở làng Liêu Trung.
Ngày 20/5/1889 Đề Vinh tấn công 30 vệ binh đóng ở đồn Hoàng
Trạch, tổng Mễ Sở, huyện Khoái Châu do cai Soler chỉ huy. Bọn chúng thua
phải chạy về Bình Phú, tổng Khóa Nhu. Đề Vinh đuổi theo bao vây uy hiếp
đồn Bình Phú. Quân Pháp đóng ở đồn Bần Yên Nhân và đồn Lực Điền phải
vội vã cho quân đến cứu.
Trong suốt thời kỳ Nguyễn Thiện Kế chỉ huy nghĩa quân, Đề Vinh lại
luôn luôn sát cánh bên ông, tổ chức nhiều trận đánh quân Pháp và phối hợp
với Đề đốc Phạm Văn Ban, Lãnh Mỹ đánh các trận bảo vệ La Mát lần thứ
nhất, lần thứ hai. Đề Vinh dẫn trên 70 quân rút qua làng Ngọc Trì, quân
Pháp đuổi theo, Đề Vinh rút sang làng Ngô Phần (làng Ngò) cũng thuộc
tổng Ngọc Trì. Quân Pháp đuổi theo bao vây làng Ngô Phần.
Nửa đêm trời mưa to, Đề Vinh liền dẫn nghĩa quân rút về làng Bích
Khê cũng thuộc huyện Lang Tài chỉ cách Ngô Phần khoảng 4 cây số. Vài
giờ sau, ngày 12/1/1892, quân Pháp lại kéo tới bao vây quanh làng, song
nghĩa quân vẫn chiến đấu dũng cảm, quân Pháp không sao vào gần chiến
lũy được. Mặc dù đang ốm nặng Đề Vinh vẫn quyết định nửa đêm đi ngược
luồng đạn để thoát khỏi vòng vây. Nhưng trước luồng đạn dầy đặc của giặc
phần lớn nghĩa quân đều hy sinh tới 30 người trong đó có Đề Vinh, Quan
Bá Học.
ĐỐC TÍT
Đốc Tít còn có các tên khác như: Đốc Tích, Nguyễn Duy Hiệu,
Nguyễn Đức Hiệu. Ông vốn dòng dõi họ Mạc, khi nhà Mạc thất thế, đổi
sang họ Nguyễn nhưng vẫn thực hiện quy định “sinh Nguyễn, tử Mạc” nên
khi ông qua đời, con cháu khấn là Mạc Đăng Tiết.
Đốc Tít sinh ngày 10 tháng chạp năm Mậu Thân (1851), quê làng
Yên Lưu thượng, tổng Yên Lưu, huyện Hiệp Sơn, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải
Dương. Đốc Tít có công trừ giặc Khách ở các phủ Kiến Thụy, Cẩm Giàng
được Nguyễn Thiện Thuật phong chức Hiệp quản tinh binh suất đội. Sau
ông lại lập được công lớn, Thống tướng Hoàng Tá Viêm và Phó tướng
Nguyễn Thiện Thuật dâng sớ về triều, vua Tự Đức phong ông là Đốc binh,
chính tay Hoàng Tá Viêm trao sắc phong cho ông.
Triều đình Huế ký Hòa ước với Pháp, ra lệnh triệt binh, Nguyễn
Thiện Thuật chống lệnh, bỏ chức về Đông Triều mộ quân đánh Pháp. Đốc
Tít hăng hái tham gia vào đội quân kháng chiến này.
Sau trận đánh thành Hải Dương không thành, Đốc Tít theo Nguyễn
Thiện Thuật lên đánh Pháp ở Phủ Lạng Thương, Lạng Sơn. Ông được Tổng
đốc Lạng Sơn - Cao Bằng Lã Xuân Oai cấp cho một số vũ khí, ông trở về
Kinh Môn (Hải Dương) dựa vào vùng hang động ở thôn Tử Lạc, xã Minh
Tâm và các hang động ở dãy núi Thiên Sơn, Trại Sơn (nay Trại Sơn thuộc
xã An Sơn, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải phòng) xây dựng đồn lũy,
trồng tre gai quanh Trại Sơn. Căn cứ này nằm ở chân núi Thiên Triều, xung
quanh được nghĩa quân đào hào đắp lũy, đào hầm chông, đặt cạm bẫy, tổ
chức các tuyến ném lao.
Trong năm tháng đầu năm 1889, nghĩa quân Đốc Tít gây cho quân
Pháp nhiều thiệt hại lớn, bộ chỉ huy quân sự Trung-Bắc Kỳ giao cho Thống
sứ Bắc Kỳ phải tập trung binh lực tiêu diệt căn cứ Trại Sơn và Cù lao Hai
Sông.
Báo chí Pháp cũng phải than phiền: “Đốc Tít ngày càng trở nên nguy
hiểm. Mấy tháng trước thiếu tướng Nê gờ ri ê (De Négrier) đưa quân đến
hỏi tội y, đã bị y làm vỡ kế hoạch. Một cuộc tiễu phạt mới được tổ chức, kết
quả cũng chẳng tốt lành”.
Tuy phá được căn cứ Hai Sông buộc Đốc Tít và một số thủ lính khác
phải ra hàng nhưng quân Pháp cũng bị thiệt hại khá lớn, tiêu tốn từ 600
đồng đến 7000 đồng. Giám binh Laune bị thương nặng, 2 viên quản bị chết,
trên 100 lính bị chết bị thương.
Bọn xâm lược Pháp rút kinh nghiệm Đội Văn ra hàng vào tháng
3/1889 sau đó lại trở lại đánh Pháp, nên đã quyết định đày ông đi biệt xứ.
Đốc Tít mất ngày 19/12/1916. Con gái ông xin đem thi hài cha về đến
Kinh Môn vào ngày 29/12/1917 (tức ngày 16 tháng 1 năm Đinh Tỵ).
Hàng nghìn nhân dân phủ Kinh Môn đã đi đón linh cữu của ông. ¤ng
được táng tại nghĩa trang của dòng họ Mạc tại xã Yên Lưu Thượng (thị trấn
Kinh Môn) tỉnh Hải Dương.
NGUYỄN TRUNG LAN
Nguyễn Trung Lan sinh trưởng trong một gia đình ở thôn Đống Liêu,
xã Hạ Trường, tổng Hạ Vĩnh, huyện Thanh Hà, sau thuộc thôn Hà Trường,
xã Thanh Bình, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, nay là thị trấn Thanh Hà.
Nhiệt liệt hưởng ứng phong trào mộ quân đánh Pháp của Nguyễn
Thiện Thuật, năm anh em ông cùng chiêu mộ tráng đinh trong vùng thành
lập đội nghĩa quân, các ông đã dấy quân ở chùa Minh Khánh và thế lực
ngày càng mạnh. Nghĩa quân do các ông chỉ huy đã đánh bại nhiều trận càn
quét của giặc Pháp vào căn cứ Phù Tình.
Ngày 12/12/1887, Nguyễn Trung Lan đem quân tập kích chợ Hệ, giết
chánh tổng Hạ Vĩnh Lê Văn San, tay sai đắc lực của giặc Pháp điên cuồng
đánh phá nghĩa quân. Ít ngày sau, Lê Văn Cơ, Lê Văn Thức là con trai tên
San cùng Tuần Tiếu đưa lính về đánh căn cứ Phù Tình, bị nghĩa quân đánh
cho đại bại phải tháo chạy. Trung Lan liên lạc được với nghĩa quân Bãi Sậy
và trở thành bộ tướng của Nguyễn Thiện Thuật.
Trung Lan được nghĩa quân Bãi Sậy tăng viện, ngày 25 tháng chạp
năm Đinh Hợi (1887) chia làm hai toán, một toán tiến theo đường sông núp
dưới thuyền buôn vàng mã từ Hải Dương vượt qua cống Bá Hoàng vượt
sông Hệ đổ quân lên vườn Vạn (Hạ Vĩnh) một toán đổ bộ qua Đò Bầu tiến
vào chợ Hệ. Trung Lan nhận thấy vị trí xóm Liêu không có lợi liền rút sang
thôn Phù Tình (nay thuộc xã Trường Thành) lập căn cứ. Chỉ trong một đêm
nghĩa quân và nhân dân đã xây dựng xong bản doanh, đắp luỹ chiến đấu.
Trên toàn cục, cuối năm Mậu Tý (1888) cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy đã
suy yếu. Nghĩa quân Trung Lan chỉ giữ được thôn Phù Tình, một phần thôn
Nhan Bầu và một phần thôn Tiên Kiều.
Đêm 12 rạng ngày 13 tháng 10 năm Mậu Tý (11/1888), Tuần Tiếu
nhận lệnh của công sứ Pháp tỉnh Hải Dương và Tổng đốc Hoàng Cao Khải
kiêm Tiễu phủ sứ đưa quân Pháp tấn công nghĩa quân Trung Lan, Đốc Đàm
ở căn cứ Phù Tình. Đây là trận thứ 9 quân Pháp đánh vào Phù Tình. Sau
tám trận thất bại nặng nề, lần này quân Pháp điều động cả lính lê dương,
lính khố xanh, cảnh sát, lính thuỷ đánh bộ, công binh do tên Lê Văn Cơ con
trai chánh tổng Lê Văn San dẫn đường. Bọn chúng từ Hải Dương đi trên
những ca nô đổ bộ một toán quân xuống bến đò Mũi Gươm, qua thôn Ngọc
Điểm tiến vào phía Tây bắc Phù Tình. Tuần Tiếu cùng bọn lính đồn trú ở
đồn Đò Gùa, đồn Sòi tiến vào phía đông bắc Phù Tình.
Về phía nghĩa quân, sau tám trận chiến thắng, tuy lực lượng bị giảm
sút, chưa kịp bổ sung, vẫn cùng nhân dân rào luỹ tre cho dầy, đắp luỹ đất
cao thêm 1 mét, đào hào sâu thêm, cắm thêm chông, tổ chức canh gác
nghiêm mật. Quân Pháp vừa nổ súng, Trung Lan đã chỉ huy nghĩa quân và
cả làng đánh giặc, bẻ gẫy nhiều đợt tấn công ào ạt của chúng. Nhiều tên bị
bắn chết, bị sập hầm chông bị chém xả vai, máu giặc loang đỏ ngoài luỹ tre,
bờ hào.
Nhiều thủ lĩnh và nghĩa quân bị bắt, bị giết. Trung Lan chạy sang
vùng An Lão, Kiến An, sau cũng bị bắt bị giết.
LƯU KỲ
Bố Lưu Kỳ là người Hoa, mẹ là người Việt, quê ở huyện Lục Ngạn
thuộc tỉnh Bắc Ninh. Ông là người giỏi võ nghệ, giao du rộng rãi trong giới
quan lại người Việt và người Hoa. Ông có ý chí căm thù giặc Pháp.
Khi giặc Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (1873), Lưu Kỳ đã tập hợp
các chiến hữu ở vùng Lục Ngạn, Đông Triều bàn kế đánh Pháp. Trong số
các thủ lĩnh người Hoa, Nguyễn Thiện Thuật đặc biệt quan tâm đến Lưu
Kỳ, ông đã đến Lục Ngạn bàn bạc với Lưu Kỳ về việc thành lập một đội
quân hỗn hợp người Việt, người Hoa, người dân tộc thiểu số ở vùng Đông
Bắc thành một đạo quân để chiến đấu chống Pháp ở địa bàn quan trọng này.
Nguyễn Thiện Thuật biết rõ mối quan hệ mật thiết giữa Lưu Kỳ với các
quan chức hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông và các thương nhân Trung Hoa
nên đã bàn với ông thiết lập một đường dây mua vũ khí từ Hồng Kông,
Quảng Đông, Quảng Tây về vùng biên giới Móng Cái - Tiên Yên - Lộc
Bình rồi theo đường mòn vùng rừng núi đưa về Lục Ngạn để trang bị cho
nghĩa quân. Nghĩa quân Lưu Kỳ là những người đã từng quen với chiến
trận, biết võ thuật, thông thạo vùng rừng núi nên ngay từ khi mới thành lập
đã tổ chức các trận tấn công quân Pháp.
Nhờ có nguồn súng mua từ Trung Quốc, đội vũ trang của ông được
trang bị nhiều súng bắn nhanh. Địa bàn hoạt động của ông là vùng Đông
Triều, Lục Ngạn. Trong đội quân của ông có nhiều tướng lĩnh xuất sắc như
Hoàng Tài Ngạn, Hoàng Thái Nhân, Đề Kỳ, Đề đốc Quý... Trong buổi đầu
xây dựng vũ trang Nguyễn Thiện Thuật đã cử các tướng lĩnh tới giúp Lưu
Kỳ biên chế đơn vị, huấn luyện quân sự cho tân binh, giúp đỡ lương thực.
Đội quân của Lưu Kỳ được tổ chức rất chặt chẽ, có kỷ luật, thiện chiến.
Bọn xâm lược đã gán ghép cho đội quân của ông bao điều xấu xa như thổ
phỉ, cướp, buôn đàn bà, con gái... nhưng vẫn phải thừa nhận: “Lưu Kỳ là
một người có nghị lực và rất thông minh, đã làm cho đồng đội tin tưởng
tuyệt đối” và “Quân của ông là đội quân có kỷ luật và thiện chiến, thông
thạo sở trường đánh du kích”.
Nghĩa quân Lưu Kỳ hoạt động mạnh mẽ liên tục tấn công quân Pháp
ở Lục Ngạn, Đông Triều. Ông đã xây dựng một số cứ điểm ở vùng Bảo Đài,
Đông Triều, phía Đông tỉnh Bắc Giang. Hoạt động của Lưu Kỳ mạnh mẽ
đến mức trong một bức điện của Trương Chí Đông (quan lại Trung Hoa) đề
ngày 15 tháng 3 năm Quang Tự (nhà Thanh Trung Quốc) năm thứ 11
(1885) nêu rõ: “Vùng Đông bắc (Việt Nam) có hàng vạn nghĩa quân hoạt
động” gửi cho nha môn tổng lý các quốc sự vụ ngày 10/8 năm Quang Tự
(nhà Thanh) thứ 11 (1885) thừa nhận “Lưu Kỳ là thủ lĩnh đội nghĩa quân
mạnh nhất vùng Đông Bắc (Việt Nam)”. Mã Trung Thừa (quan lại Trung
Quốc) cũng xác nhận rằng: “Suốt năm này sang năm khác bọn du phỉ náu
đất Việt luôn ở những xứ giáp nước ta (chỉ Trung Quốc)”.
Nhận được chiếu Cần vương, Nguyễn Thiện Thuật từ Long Châu
(Trung Quốc) về nước. Lưu Kỳ được phong chức Đề đốc.
Tháng 9/1885 Lưu Kỳ nhận lệnh của Nguyễn Thiện Thuật về Văn chỉ
Bình Dân dự cuộc họp tướng lĩnh và Tế cờ khởi nghĩa, Lưu Kỳ chính thức
trở thành một thủ lĩnh xuất sắc trong cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy chiến đấu
dưới ngọn cờ Cần vương. Với danh nghĩa Cần vương cứu nước bảo vệ vua
Hàm Nghi, Lưu Kỳ đã tập hợp thêm được nhiều người dân tộc Hoa và dân
tộc thiểu số dân tộc Việt ở vùng Đông bắc và cả quân lính, quan lại trong
quân đội Pháp và Nam Triều vào hàng ngũ kháng chiến. Một số toán tàn dư
của các phong trào nông dân khởi nghĩa ở Trong Quốc như Thiên Địa hội,
Thái Bình Thiên quốc bị quân đội nhà Thanh đánh đuổi tràn sang Việt Nam
cũng được ông thu nạp vào nghĩa quân. Được sự giúp đỡ tích cực của các
thổ ty và nhân dân các dân tộc miền núi tỉnh Quảng Yên, tỉnh Lạng Sơn,
tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hải Dương, Lưu Kỳ đã xây dựng được đội quân mạnh,
và có đủ lương thực cho đội quân đông đảo, Lưu Kỳ đã nhanh chóng tổ
chức được đường dây mua, vận chuyển vũ khí từ đất Quảng Đông, Quảng
Tây vượt qua đường biên vào hai tỉnh Quảng Yên, Lạng Sơn rồi từ đó
chuyển về Lục Ngạn để cung cấp cho nghĩa quân. Lưu Kỳ còn tổ chức một
đội quân hộ tống được trang bị mạnh để tiêu diệt các toán quân Pháp, thổ
phỉ chặn đường cướp vũ khí.
Từ khi Nguyễn Thiện Thuật về nước, Lưu Kỳ tham gia vào cuộc khởi
nghĩa Bãi Sậy, thì thế lực của Lưu Kỳ ngày càng lớn mạnh, quân Pháp phải
thừa nhận: “Mặc dù khác dân tộc, khác khuynh hướng, hai người thủ lĩnh
(Nguyễn Thiện Thuật và Lưu Kỳ) đã phối hợp chặt chẽ trong mọi hành
động” và “Ông có mối liên hệ rất mật thiết với Tán Thuật và đã được Tán
Thuật phong chức Đề đốc”.
Cuối tháng 7 đầu tháng 8/1889 quân Pháp liên tiếp mở chiến dịch lớn
tấn công vào căn cứ của Lưu song đều bị bẻ gẫy hoàn toàn.
Để đối phó với nghĩa quân Lưu Kỳ từng gây bao nỗi kinh hoàng cho
quân Pháp, bộ Chỉ huy quân sự Pháp ở Trung- Bắc Kỳ phải thiết lập hàng
loạt đồn bốt ở Chi Ngãi, Lục Nam, Lầm, Biển Động, Vi Loại, Uông Bí,
Đông Triều, đưa sáu pháo thuyền ngày đêm tuần tra trên sông Lục Nam để
cắt đứt đường tiếp tế của nghĩa quân và mở nhiều cuộc hành quân càn quét.
Lưu Kỳ chuyển địa bàn hoạt động về Đông Triều.
Ngày 9/7/1892 Nghĩa quân Lưu Kỳ lại đánh một trận lớn ở Bắc Lệ do
Lưu Kỳ trực tiếp chỉ huy, có 1 8 xe chở vũ khí và một đạo quân hộ vệ do
bốn viên sĩ quan chỉ huy: thiếu tá Bonnard, đại uý Sác păng chie
(Charpentier) trung uý Van tông (Valton) và bác sĩ quân y Mơnie (Menier).
Ngay loạt đạn đầu tên thiếu tá và tên đại uý đã tử trận. Trời còn sớm, sương
mù bao phủ núi đồi và địch không ngờ Lưu Kỳ lại dám phục kích ở nay một
địa điểm cũ và ngay sau khi chúng xuất phát lên đường. Trận đánh diễn ra
ác liệt địch gần như hoàn toàn bị tiêu diệt, 2 sĩ quan, 30 lính bị giết. Nhưng
không may Lưu Kỳ cũng trúng đạn hy sinh trong khi chỉ huy trận đánh.
ĐỀ YÊM
Đề Yêm tên thật là Đinh Văn Nghiêm, sinh năm 1858 trong một gia
đình điền chủ, nhà có tới gần 60 mẫu ruộng ở làng Đồng Lạc, tổng Kim
Bảng, phủ Lỵ Nhân, tỉnh Hà Nội, nay thuộc xã Đồng Hoá, huyện Kim Bảng
tỉnh Hà Nam. (Địa chí Hà Nam viết tên thật của ông là Đinh Quang Lý -
Thắng cảnh Hương Sơn của Trần Lê Văn, Công ty phát hành sách Hà Tây
xuất bản tháng 3/1999 viết chỉ huy cánh quân Bãi Sậy ở Hương Sơn là Đinh
Vàn Thuận, ông còn có tên là Đề Yêm).
Đinh Văn Nghiêm tuy là lý trưởng, nhưng có lòng bao dung người
nghèo, căm thù giặc Pháp cướp nước cùng bọn vua quan bán nước. Vì vậy,
ngay từ năm 1883, khi Đổng Quế phát động cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy ở
Khoái Châu, ông đã bí mật giúp đỡ lương thực. Đầu năm 1887 ông tập hợp
những người bất mãn với bọn cầm quyền ở các xã Hoàng Tây, Văn Xá,
Nhật Tân đi cướp thóc của nhà giàu chia cho dân đói. Ông đưa toàn bộ tiền
thuế thu được ủng hộ nghĩa quân Bãi Sậy. Cuối năm 1887, tri phủ Phan
Đình Hoè phát mại tài sản của ông để bù vào tiền thuế.
Đinh Văn Nghiêm cùng Tắc Vy vượt sông Hồng sang Khoái Châu gia
nhập nghĩa quân Bãi Sậy. Chủ tướng Nguyễn Thiện Thuật đổi tên ông là
Yêm. Ông chiến đấu dũng cảm, mưu trí, lập nhiều chiến công, Nguyễn
Thiện Thuật phong ông là Đề đốc quân vụ, quân sĩ gọi ông là Đề Yêm.
Cuối năm 1888, Nguyễn Thiện Thuật giao cho ông về xây dựng căn
cứ ở Hà Nam. Đề Yêm xây dựng cơ sở thông tin liên lạc, trú quân ở các xã
ven sông Hồng thuộc hai huyện Duy Tiên, Lý Nhân. Ông xây dựng tổng
Kim Bảng vùng núi đá quê ông thành một cứ điểm quân sự vững chắc.
Tháng 9 năm 1889, quân Pháp liên tục tấn công Đề Yêm. Ông chuyển
căn cứ kháng chiến đến chùa Tuyết Sơn nay thuộc xã Hương Sơn huyện Mỹ
Đức tỉnh Hà Tây. Đề Yêm giao cho Thượng toạ Thích Thanh Quyết cùng
Lãnh Cường xây dựng đồn tiền tiêu ở chùa Bảo Đài. Từ khi xây dựng căn
cứ Tuyết Sơn, Bảo Đài, Đề Yêm luôn luôn xuất kích, tấn công các đồn binh
Pháp, chặn đứng nhiều cuộc càn quét của chúng.
Sau trận đánh ngày 14/10/1891 nghĩa quân Đề Yêm hao tổn, vì không
còn căn cứ, đạn dược, lương thực cũng bị quân Pháp cướp và phá huỷ. Đề
Yêm cùng hoà thượng Thích Thanh Quyết, mấy nghĩa quân tâm phúc lên
Yên Thế. Ông hy sinh trong một trận đánh ác liệt ở đồn Phồn Xương, Yên
Thế vào đầu năm 1912.
Nhận xét Yề Đề Yêm, sách Lịch sử Hà Nam Ninh tập II viết: “Đề
Yêm tham gia cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật được phong Đề
đốc. Năm 1889 đề Yêm cùng Tắc Vy đem quân vượt sông Hồng về Đồng
Văn (Duy Tiên), Chợ Đại (Kim Bảng), xây dựng phòng tuyến chống Pháp,
sau đó mở rộng địa bàn sang chợ Dầu, Tuyết Sơn (Mỹ Đức, Hà Đông) lấy
Tuyết Sơn làm căn cứ. Nghĩa quân đã đánh những trận lớn ở Quang Thừa,
Mã Não (huyện Kim Bảng). Nhiều cuộc chiến đấu quyết liệt diễn ra ở các
huyện Thanh Liêm, Nam Xang và vùng núi Hà Đông, trong trận làng Đùng
(Thanh Liêm) cả làng bị giặc giết sạch. Nghĩa quân chiến đấu anh dũng,
sau phải rút lui vì tương quan lực lượng giữa địch và ta quá chênh lệch”.
LÃNH MẬU
Lãnh Mậu tên thực là Hoàng Văn Mậu, quê gốc ở làng Văn Kỵ, nay
là xã Bối Khê, huyện Thường Tín, gần Vân Đình tỉnh Hà Tây. Sau tổ tiên
về lập nghiệp ở xã Sài Trang, tổng Sài Trang, huyện Đường Hào tỉnh Hải
Dương nay là thôn Ông Tố, thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng
Yên.
Năm 1883, Hoàng Văn Mậu 35 tuổi cũng là giặc Pháp hạ thành Hưng
Yên, Hải Dương lần thứ hai, triều đình Huế ký hoà ước với Pháp ra lệnh bãi
binh, Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật chống lệnh, trao trả quan
tước, về Chí Linh, Đông Triều xây dựng căn cứ chống Pháp. Cả huyện Mỹ
Hào quê hương ông nhiệt liệt hưởng ứng. Ông đến chùa Xuân Nhân, xã
Xuân Dục tổng Bạch Sam huyện Mỹ Hào, nơi đây vừa là quê hương và vừa
là căn cứ của Tán tương quân vụ xin tòng quân. Rất nhiều người ở các xã
trong tổng Sài Trang gia nhập nghĩa quân. Sau vụ ông tham gia giết tên
cường hào ở thôn Đỗ Xá, cùng xã Sài Trang theo Tây thì Hoàng Văn Mậu
cùng vợ và hai con gái là Từ Huỳnh, Từ Vát xuống làng Nguyễn Xá cùng
tổng, vì dưới đó ông cũng có họ hàng. Một lý do nữa là vùng Nguyễn Xá,
Tam Trạch có lực lượng nghĩa quân rất mạnh, do Đốc binh Vũ Văn Đồng
quê ở Tam Trạch chỉ huy.
Từ khi xuống Nguyễn Xá, ông Mậu tổ chức nghĩa quân và nhân dân
xây dựng làng chiến đấu. Ông trở thành trợ thủ đắc lực của Đốc binh Vũ
Văn Đồng quê ở Tam Trạch. Đình Nguyễn Xá là nơi Hoàng Văn Mậu
thường xuyên tập trung, huấn luyện võ nghệ cho nghĩa quân. Đền Cương ở
cánh đồng gần làng hồi đó còn là rừng núi, rừng sậy, cây cối rậm rạp um
tùm là nơi ông cùng các thủ lĩnh họp bàn việc quân cơ. Cây đề ở Tam Tầng
nằm trên trục đường đất Cầu Treo- Cầu Hầu là trạm gác tiền tiêu của nghĩa
quân. Do trong chiến đấu Hoàng Văn Mậu Mậu lập được nhiều chiến công,
ông được phong là Lãnh binh (dân làng thường gọi ông là Lãnh Mậu).
Tháng 3 năm 1885 khi Nguyễn Thiện Thuật sang Long Châu (Trung
Quốc) thì Đốc Đồng và Lãnh Mậu gia nhập cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do
Đổng quân vụ Đinh Gia Quế chỉ huy.
Tháng 7 năm 1885, Đổng quân vụ Đinh Gia Quế ốm, dưỡng bệnh ở
làng Dương Trạch nằm trong căn cứ Bãi Sậy, thủ lĩnh Nguyễn Thiện Thuật
về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy đã đưa cuộc khởi nghĩa
Bãi Sậy lên quy mô rộng lớn, chủ động tấn công quân Pháp ở các tỉnh Hưng
Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Quảng Yên, đột nhập vào một số thành phố
lớn...
Lãnh Mậu đã chỉ huy nghĩa quân đánh quân Pháp nhiều trận như trận
đánh quân Pháp càn vào vùng Tam Trạch. Ông còn phối hợp với nghĩa quân
ở Bối Khê, Ân Thi do Đề Ban chỉ huy tấn công đồn Mai Đường ở xã Đỗ
Mỹ, trên đường 38 ở huyện Ân Thi. Lãnh Mậu đã giết Đô Tép quê ở xã
Thuỵ Trang (nay là xã Trung Hưng, huyện Yên Mỹ) làm phản khi hắn từ
Sặt theo bờ sông Hoan Ái về Lực Điền.
Lãnh Mậu cũng đã tham gia trận đánh lớn ngày 12/11/1888 tại Lưu
Trung do đích thân Nguyễn Thiện Thuật và nhiều tướng lĩnh chỉ huy, giết
chết tên Louis Ney, bang tá Nguyễn Hữu Hào cùng 31 tên Pháp, suýt bắt
được Hoàng Cao Khải.
Sau trận đánh này Lãnh Mậu bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở vực Nghĩa
Xuyên gần xã Tam Trạch và Nguyễn Xá vào năm 1889. Ông mất khi vừa
tròn 40 tuổi.
CỬ BÌNH
Cử Bình ( không rõ họ tên thật) quê ở làng Liễu Dịch, huyện An Lão,
phủ Kiến An, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ cử nhân dưới triều Nguyễn, nhưng
chán ghét triều đình đầu hàng giặc, ông không ra làm quan.
Cử Bình cùng với Nguyễn Văn Tư khởi nghĩa, lập căn cứ ở chùa Hoa
Long, núi Voi (huyện An Lão, phủ Kiến An) rồi liên lạc với Tán Thuật khởi
nghĩa ở huyện Đông Triều, Chí Linh với Đốc Tít, khởi nghĩa ở Trại Sơn, cù
lao Hai Sông (Thuỷ Nguyên, Hải Phòng).
Cử Bình giữ cương vị chỉ huy trưởng, Nguyễn Văn Tư giữ cương vị
phó chỉ huy. Năm 1884 nghĩa quân Cử Bình, Nguyễn Văn Tư có khi độc
lập tác chiến có khi phối hợp với các lực lượng nghĩa quân khác liên tục
đánh phá giao thông đường thủy, đường bộ của địch.
Năm 1885 nghĩa quân Cử Bình hoạt động chống Pháp ở các huyện
An Lão, Kiến Thuỵ, Tứ Kỳ. Theo một tài liệu của Pháp thì Cử Bình là một
tướng của Đề đốc Tạ Hiện. Tạ Hiện có 5 dinh là: trung quân, tiền quân, hậu
quân, tả quân, hữu quân. Cử Bình chỉ huy hậu quân. Piglowski trong sách
Histoire de la garde indigène de l’An Nam, tập I, Hà Nội. Les province du
Tonkin; Hưng Yên Reme indochinois n08, 30/10/1905 cũng công nhận Cử
Bình là Hậu quân của Đề Hiện.
Từ ngày 2/2/1887 Tạ Hiện bị quân Pháp bắt và giết thì Cử Bình phối
hợp với Tiền quân đô thống Phạm Văn Đức, Lãnh Pha hoạt động ở các cửa
sông Thái Bình, Văn Úc, các đảo Đồ Sơn, Cát Bà.
Tháng 12/1888, Cử Bình và Lãnh Tư chỉ huy nghĩa quân tấn công và
tiêu diệt đồn núi Voi. Trận đánh kéo dài suốt từ 4 giờ sáng đến 4 giờ chiều.
Về trận này, Minh Thành viết trong bài: “Về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy”
đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử như sau: “Vào tháng 12/1888, nghĩa
quân đã tấn công đồn Voi (Hải Dương) suốt từ 4 giờ sáng đến 4 giờ chiều”.
Cũng về trận đánh này Lịch sử đấu tranh vũ trang huyện An Lão viết
như sau: “Tại núi Voi, nghĩa quân do Lãnh Tư (Khúc Giản), Cử Bình (Liễu
Dịch) chỉ huy tiến công Tượng Sơn (Núi Voi) dùng hoả công đốt cháy đồn
giặc, giết chết tên quan Ba chỉ huy đồn”.
Giặc Pháp đem quân đánh Cử Bình nhiều lần không được, chúng sai
bọn cha cố phản động lừa bắt ông rồi xử tử hình. Triều đình nhà Nguyễn
hùa theo giặc Pháp xoá tên ông trong danh sách cử nhân.
Sau khi xử tử hình Cử Bình, thực dân Pháp đã san bằng khuôn viên
chùa Long Hoa căn cứ của nghĩa quân.
Ngày 28/11/1996, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng đã
ký Quyết định số 666 QĐ/UB về việc đổi tên, đặt tên một số đường phố
trên địa bàn quận Hồng Bàng. Trong đó đường hiện mang số 24 (a) dài 500
mét được đặt tên là phố Cử Bình.
LÃNH ĐẬU
Lãnh Đậu ( không rõ tên họ thật) quê ở huyện Siêu Loại, phủ Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh tham gia cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Thiện Thuật
lãnh đạo từ năm 1883. Lãnh Đậu cùng một số người ở huyện Mỹ Hào đã tới
Chí Linh, Đông Triều tham gia nghĩa quân. Ông đã theo Nguyễn Thiện
Thuật, Nguyễn Thiện Kế về hạ thành Hải Dương, song việc không thành,
nghĩa quân phải rút lui về Chí Linh, Đông Triều. Sau Tán Thuật cử Lãnh
Đậu về xây dựng căn cứ chống Pháp ở các xã Vân An, Sài Phi, Vân Cốc,
nay thuộc xã Minh Đức, huyện Mỹ Hào. Với sự nhiệt tình của nhân dân,
hưởng ứng lời kêu gọi chống Pháp của Nguyễn Thiện Thuật, đông đảo trai
tráng, cả người già, phụ nữ cũng gia nhập nghĩa quân. Nhờ sự ủng hộ nhiệt
tình ủng hộ của nhân dân, quân của Lãnh Đậu có tới hơn 200 người nhưng
chưa bao giờ bị thiếu lương thực, thực phẩm.
Lãnh Đậu xây dựng các xã Vân An, Sài Phi, Phong Cốc thành những
làng chiến đấu, trong hào, ngoài luỹ tre dầy đặc, giặc Pháp và bọn tay sai
Việt gian đem quân đánh phá nhiều lần không được. Lãnh Đậu chỉ huy đánh
nhiều trận lớn như trận Cầu Đồng ở huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương,
nghĩa quân thắng trận về mổ lợn ăn mừng thì bị bọn Việt gian đưa đường
quây kín chung quanh làng rồi tấn công. Nghĩa quân chiến đấu suốt từ gà
gáy đến tận ba giờ chiều thì bị giặc Pháp vây chặt nghĩa quân trong một
xóm nhỏ, tình thế vô cùng nguy hiểm. Lãnh Đậu cho quấn vải tẩm dầu lên
mình hai con trâu, đốt lửa, đánh trâu xông vào bọn giặc. Bọn giặc kinh
hoàng vứt cả súng tháo chạy, nghĩa quân thừa cơ rút lui an toàn
Quân Pháp nhiều lần tấn công vào các làng Vân An, Sài Phi, Phong
Cốc đều bị Lãnh Đậu và vợ chồng Lãnh Lường đón đánh từ xa khiến chúng
phải tháo chạy. Trong một trận đánh khác, nghĩa quân chỉ có 12 người phục
kích ở chợ Đường Cái đã đánh cho một toán quân Pháp đi tuần thua chạy
toán loạn.
Năm 1892 phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy tan rã, Lãnh Đậu đem 7
nghĩa quân về đóng ở Vũ Xá. Quân Pháp đưa quân đến vây bắt, Lãnh Đậu
chỉ huy anh em chiến đấu quyết liệt. Cuối cùng thoát khỏi vòng vây. Ông
vừa chạy khỏi làng thì bị quân Pháp đến tăng viện đón đường bắn chết.
Giặc Pháp rất căm Lãnh Đậu người đã đánh chúng nhiều trận, giết lính
Pháp, lính người Việt đánh thuê cho Pháp. Chúng trả thù ông bằng cách
chặt đầu ông cắm cọc bêu ở cổng đồn, cắt hẳn một tiểu đội lính canh gác,
còn xác ném xuống sông.
Được nhân dân chỉ đường, Lãnh Lường giao cho vợ là bà Phạm Thị
Ngảnh chỉ huy một số nghĩa quân đi mò xác Lãnh Đậu còn mình chỉ huy
nghĩa quân đánh đồn và cướp đầu Lãnh Đậu đưa về an táng.
ĐỀ QUÝ
Đề Quý ( không rõ tên thật) là lính thị vệ của kinh đô Huế có công
được thăng chức tuần thành, nên còn gọi là Tuần Quý. Kinh thành Huế thất
thủ (tháng 7/1885) ông về Bắc.
Sau đó ông theo Tán Thuật được phong chức Đề đốc, nên còn gọi là
Đề Quý, Cẩm Quý, Thạnh Quý. Ông được phân công chỉ huy nghĩa quân
vùng giữa Hải Dương - Hải Phòng. Đề Quý nổi tiếng gan dạ, ra trận thường
đi trước, tính nóng như lửa. Nhiều lần chỉ một mình ông đánh thắng cả một
toán quân Pháp. Ông chỉ huy nhiều trận đánh xuất sắc, có công lớn. Lính
Pháp, lính Nam nghe tiếng ông là kinh sợ hết hồn. Quân Pháp dùng chức
tước, tiền bạc mua chuộc ông song không được.
Tháng 1/1887, Lãnh Giang, Đốc Khoát, Đội Văn, Đề Quý phối hợp
với nghĩa quân Ba Báo thành một đạo quân lớn tấn công các hạm tàu, xà lúc
của quân Pháp vận chuyển quân lính, khí tài, lương thực, thư từ trên sông
Luộc. Kết quả ba chiếc xà lúc trên sông Luộc bị tấn công, một chiếc tất cả
thủy thủ sợ hãi bỏ trốn, nghĩa quân trèo xuồng ra thu hết vũ khí, quân trang,
lương thực, đốt phá xà lúc.
Tháng 3/1889, phân đội Đống Mối (Văn Lâm) nhận được tin báo là
toán của Đề Quý đang đồn trú ở các hang thuộc hai hòn đảo nhỏ thuộc
huyện Nghiêu Phong gần đảo Cát Bà. Tin này do Bang Huy còn gọi là Lang
Biên thuộc toán của Quý phản bội báo cho Pháp. Nhưng Hoàng Cao Khải
đang đuổi theo quân của ông Thuật đang hoạt động ở tỉnh Phúc Yên, toán
quân của Ba Phi ở Gia Lâm, Văn Giang, nên chưa đem quân đi đánh quân
của Đề Quý được.
Đề Quý đang hoạt động ở vùng biển Ninh Hải (Hải Phòng) và các đảo
thì tháng năm ông lại đột ngột chuyển địa bàn hoạt động ở Khoái Châu để
tránh trận càn lớn của thuỷ quân Pháp ở các đảo.
Ngày 20/5/1889 viên Chương ấn Hưng Yêu báo cho người Pháp ở
Hưng Yên biết một toán 200 nghĩa quân do Đốc Sung, Đề Quý, Lãnh Mỹ
chỉ huy tấn công 30 lính vệ binh đóng ở Hoàng Trạch tổng Mễ Sở, huyện
Khoái Châu do cai Soler chỉ huy lúc đang đi tuần tra, thám báo. Bọn vệ
binh thua phải rút chạy về Bình Phú, tổng Khoá Nhu. Mặc dù đã có viện
binh viên phó quản chỉ huy từ đồn Lực Điền, tổng Tử Dương, huyện Yên
Mỹ đến cứu viện. Đồn Bần Yên Nhân cho một toán thám báo đông tới 100
quân theo dõi các hoạt động của nghĩa quân.
Khi trận càn lớn của thuỷ quân, hải quân Pháp chấm dứt ở các đảo thì
Đề Quý, Lãnh Hai, Lãnh Nhan, Tuấn Huế lại trở về hoạt động ở vùng Tứ
Kỳ, Thanh Hà, Tiên Lãng, vùng cửa sông và các đảo.
Đề Quý cũng đã trở lại chiến trường, tổ chức lại đội ngũ, trang bị
thêm vũ khí đánh phá các huyện Tứ Kỳ, Thanh Hà, Kim Thành. Trên địa
bàn có các huyện khác như huyện Năng Yên, Thanh Lâm lại xuất hiện các
đạo quân khá mạnh, sẵn sàng chiến đấu.
Trước sự xuất hiện của một lực lượng nghĩa quân hùng mạnh và liên
kết nhau chặt chẽ dưới sự chỉ huy chung của vị tổng chỉ huy Nguyễn Thiện
Kế, còn phía quân Pháp ở Hải Dương thì lực lượng Bảo an binh từ 800 đã
bị thương vong trong các trận chiến đấu, do bỏ ngũ nay chỉ còn lại 450 và
không có hy vọng gì tăng lên được.
Trước tình hình không có lợi đó, Toà sứ Hải Dương chủ trương và
được bộ Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp ở Trung- Bắc Kỳ, Phủ Thống sứ
Bắc Kỳ chấp nhận đã thành lập một lực lượng cảnh sát đặc biệt dưới danh
hiệu “lính cơ”. Lực lượng cảnh sát này thi hành mệnh lệnh trực tiếp của các
quan phủ huyện được trang bị súng bắn nhanh, cho phép các quan phủ
huyện hoạt động trong bất cứ thời điểm nào chống bọn phá rối trật tự theo
sáng kiến và ý thức trách nhiệm của chính mình. Lực lượng này được bổ
sung hoàn chỉnh thêm bằng sáng kiến tổ chức một lực lượng tuần tra và
thám báo do hào mục các thôn xã đảm nhiệm bằng sự thiết lập hàng loạt
những lô cốt trên các ngả đường giao thông quan trọng. Những lô cốt này
dùng làm nơi đồn trú tạm thời cho những đạo quân thường xuyên di động
trong tỉnh từ chỗ này qua chỗ khác làm cho tất cả dải đất của tỉnh này đều
nằm trong sự giám sát và cũng từ đó có sự tuần tra của hào mục càng tăng
thêm phần hiệu lực.
Sự hoạt động mạnh mẽ của Đề Quý khiến cho công sứ Hải Dương và
Hoàng Cao Khải đối phó bằng các cuộc hành quân không tiêu diệt được
ông, đã tìm cách mua chuộc, hắn sai viên quản Vinciliomi trước kia từng có
quan hệ với Đề Quý cho người đem thư của hắn tới dụ dỗ Đề Quý ra hàng.
Đề Quý khảng khái trả lời: “Tôi hành động trên vì nước, vì vua, dưới vì chủ
soái tôi. Còn tôi đã quyết dù có chết cũng không thay đổi”.
NGUYỄN HỮU ĐỨC
Nguyễn Hữu Đức còn gọi là Nguyễn Đức, người làng Mễ Xá tổng
Nhân Vũ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Ông đậu cử nhân nhưng không ra
làm quan ở nhà dạy học. ngấm ngầm nuôi chí đánh Pháp.
Ngày 28/3/1883 thành Hưng Yên bị quân Pháp hạ một cách dễ dàng
vì quan quân nhà Nguyễn ươn hèn không dám đánh trả. Đinh Gia Quế,
đang làm Chánh tuần huyện Đông Yên căm thù giặc Pháp và quan lại Triều
đình Huế bỏ quan chuẩn bị khởi nghĩa đã đến bàn với ông, được ông nhất
trí và tham gia ngay từ đầu. Nguyễn Hữu Đức đã vận động con cháu, môn
sinh và trai tráng trong vùng gia nhập nghĩa quân.
Tháng 7/1885 Nguyễn Thiện Thuật đang ở Long Châu (Trung Quốc)
nhận được Chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi đã trở về nước, về vùng
giáp ranh Hải Dương - Hưng Yên - Bắc Ninh mời ông và cử nhân Ngô
Quang Huy đến bàn cách khôi phục cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Ông được
Nguyễn Thiện Thuật giao cho phụ trách miền Nam Hưng Yên và làm dâng
sớ lên vua Hàm Nghi phong ông là Tán tương quân vụ. Vì thế nghĩa quân
và nhân dân gọi ông là ông “Tán Nam”. Sỹ phu Bắc Kỳ quý tài năng, đức
độ của ông đã tôn ông là một trong “Tứ Tán Bắc Kỳ”. (Đó là: Tán Bắc -
Nguyễn Cao, tán lý quân vụ Thái Nguyên, còn gọi là ông Tán Cách Bi, vì
ông quê ở làng Cách Bi, tỉnh Bắc Ninh; Tán Đông là Nguyễn Thiện Thuật;
Tán Nam là Nguyễn Hữu Đức; Tán Tây là Nguyễn Ái, tự Trắc Phong, đỗ
tiến sĩ. Mối quan hệ giữa bốn ông Tán như sau: con gái Nguyễn Thiện
Thuật là Nguyễn Thị Trúc lấy con trai ông Nguyên Hữu Đức là Nguyễn
Hữu Hạnh, cháu gái của Nguyễn Thiện Thuật (Nguyễn Thị Vân, húy Hợi)
gả cho Nguyễn Cương, điệt tôn của Nguyễn Cao, cháu Nguyễn Ái gả cho
cháu Nguyễn Thiện Thuật (cháu gọi Nguyễn Thiện Kế là ông nội).
Nguyễn Hữu Đức giúp các tướng như Đề Tập ở Kim Động, giúp xã
Tam Nông ở Tiên Lữ chống càn quét của giặc Pháp, bảo vệ được làng xóm,
liên tục tập kích các đồn giặc, phục kích giặc trên đường 39, 38, đường đê
sông Luộc. Ông còn tổ chức các trận đánh lớn ở đoạn giữa Dốc Lã, (Hưng
Yên) Thanh Miện ( Hải Dương), Hưng Nhân, Duyên Hà (Thái Bình).
Nguyễn Hữu Đức không chỉ tổ chức lực lượng kháng chiến, đột kích,
tập kích. phục kích quân giặc, ông còn rất coi trọng công tác tuyên truyền
giáo dục, vì ông hiểu rõ muốn nhanh chóng đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi bờ
cõi thì cả dân tộc Việt Nam không phân biệt giàu nghèo, sang hèn đều phải
đồng tâm nhất trí nên rất coi trọng công tác tuyên truyền, vạch trần tội cướp
nước của giặc và đám vua quan nhà Nguyễn đầu hàng giặc.
Nói về các hoạt động tích cực của ông, A de Miribel từng làm Công
sứ Hưng Yên đã phải thú nhận trong cuốn: “Lịch sử cuộc chiếm đóng Hưng
Yên” (La Pronnes de Hung Yên) về vai trò quan trọng của cử nhân Nguyễn
Hữu Đức như sau: “Tán Thuật và Cử Đức là linh hồn của cuộc nổi dậy. Hai
người đi hết làng này đến làng khác họp các kì hào và nhóm lên trong lòng
họ ngọn lửa yêu nước nồng nàn. Cả hai đều tỏ ra có tinh thần vô tư tuyệt
đối và tinh thần hi sinh lớn lao đều phê phán những sự trả thù tàn bạo và
những sự đàn áp đẫm máu. Họ tuyên truyền kháng chiến chống người
ngoại quốc và hết sức thu phục những người theo họ bằng sự mềm mỏng và
lòng tin chứ không phải bằng cách làm cho họ sợ hãi...Đó là bản chất của
nhà ái quốc bất khuất, chúng ta phải mất 5 năm trời để chiến đấu với
những ảnh hưởng của ông ta”.
Khi cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy thất bại (tháng 4 năm 1892) Nguyễn
Hữu Đức phải chạy sang các tỉnh Thái Bình, Hải Dương. Hà Nam trong
nhiều năm. Giặc Pháp bắt bớ giam cầm nhiều người trong gia đình, ép ông
phải về hàng. Biết rõ uy tín của ông trong các tầng lớp nhân dân và giới
khoa bảng, giặc Pháp và bọn quan lại dụ dỗ ông ra làm quan, nhưng trước
sau ông từ chối, ở nhà dạy học.
CHÁNH TÍNH
Nguyễn Đình Tính quê ở xã An Vĩ, tổng An Cảnh, huyện Đông Yên,
phủ Khoái Châu tỉnh Hưng Yên. Ông sinh trưởng trong một gia đình có
truyền thống yêu nước, cả ba anh em ông đều gia nhập lực lượng khởi
nghĩa của quan tuần huyện Đinh Gia Quế, ông được phong là Chánh đề
đốc.
Chánh Tính chỉ huy nhiều trận đánh, có trận quân ta ở trong bãi sậy
lực lượng ít, quân Pháp bao vây kín chung quanh, Chánh Tính cho đốt
nhiều đống lửa nghi binh. Quân Pháp tưởng quân ta đông, không dám tấn
công phải rút quân. Trong trận đánh quân Pháp càn quét vào làng Ngọc
Nha, Chánh Tính đã cho quân nấp dưới cống, tiểu đội Pháp đi tới anh em
xông lên diệt gọn cả tiểu đội thu vũ khí...
Nghĩa quân do Chánh Tính chỉ huy đóng ở xã Trung Châu (Khoái
Châu), liên tiếp mở các cuộc tấn công vào quân Pháp gây cho chúng nhiều
tổn thất.
Trong hoàn cảnh nghĩa quân bị địch vây ráp liên tục, gặp phải rất
nhiều khó khăn, Chánh Tính đã tập hợp các tướng, đánh trả các cuộc tấn
công của quân Pháp, bảo vệ được căn cứ Bãi Sậy phá tan âm mưu liêu diệt
căn cứ Bãi Sậy của giặc Pháp và Hoàng Cao Khải.
Tháng 8/1885, Nguyễn Thiện Thuật về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc
khởi nghĩa Bãi Sậy. Chánh Tính rất mừng vì cuộc khởi nghĩa đã có một thủ
lĩnh tài giỏi lãnh đạo nên thực hiện ngay mệnh lệnh.
Dưới sự lãnh đạo của Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn
Thiện Thuật, cuộc khởi nghĩa được phục hồi nhanh chóng và phát triển ra
các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ gây cho quân Pháp nhiều tổn thất lớn. Ngày
12/8/1888 công sứ Hưng Yên Dalmas và tổng đốc Hoàng Cao Khải hạ lệnh
cho lính về An Vĩ bắt Chánh Tính, không bắt được ông, chúng bắt 15 kỳ
mục của 1àng.
Những trận đánh do Chánh Tính, chỉ huy diễn ra liên tiếp gây cho
quân Pháp những tổn thất nặng nề.
Tháng 10/1890 Nguyễn Thiện Thuật sang Trung Quốc giao quyền
Tổng chỉ huy cuộc khởi nghĩa cho Nguyễn Thiện Kế, lực lượng nghĩa quân
suy yếu. Nhưng theo tài liệu của mật vụ Pháp thì Hai Kế vẫn còn bẩy thủ
lĩnh chính trong đó có Chánh Tính, ông vẫn còn trên 200 quân, ba phần tư
được trang bị súng bắn nhanh. Nghĩa quân của ông hoạt động mạnh mẽ ở
Nam Hưng Yên, Nam Hải Dương gây cho quân pháp nhiều tổn thất lớn,
đến nỗi chúng phải kêu lên “Hai toán còn lại tiếp tục chống cự là Đề Tính
và Lãnh Điển. Hai toán này hoạt động ở phủ Khoái Châu và mỗi khi cần
thiết lại vào ẩn nấp ở vùng Bãi Sậy, họ đã chống cự lại một cách hữu hiệu
đối với các cuộc truy kích của binh đoàn”.
Nghĩa quân Chánh Tính hoạt động mạnh chỉ tính từ tháng 4 đến tháng
6/1891 De Porto Carrero giám binh hạng nhất chết; ngày 27/6/1891 tên La
Sage giám binh hạng nhì bị giết cùng nhiều lính Âu-Phi, lính Nam.
Sang tháng 7/1891 Chánh Tính bị đạo quân lớn của Hoàng Cao Khải
không ngừng truy kích. Ông phải cùng các Lãnh binh Nguyễn Đình Xuyên,
Nguyễn Đình Đề, Lãnh binh Ba Sành đưa 300 quân vượt sông Hồng sang
Hà Đông để liên lạc với nghĩa quân của hai thủ lĩnh Đôn và Tây đang hoạt
động ở vùng này.
Tháng 8/1891 quân Pháp truy kích Chánh đề đốc Nguyễn Đình Tính
mãi không được cuối cùng nhờ tên Lãnh binh Lê Văn Vắn phản bội nghĩa
quân đầu hàng Pháp bao vây mới bắt được. Sau khi bắt được ông chúng tiếp
tục truy kích bắt được hai ông Lãnh Xuyên, Lãnh Đề. Chúng đưa ba ông về
giam ở thành Hưng Yên. Ngày 21/8/1891 chúng xử chém ba ông (ngày 17
tháng 7 năm Tân Mão). Chúng vứt thây ba ông ở đâu không rõ, còn đầu ba
ông chúng chôn ở trong thành, lấp đất, đặt kiềng lên trên đun và giao cho
Đội Quý canh giữ.
Em gái Lãnh Đề tìm mọi cách không lấy được đầu ba ông sau phải
nhận lời lấy Đội Quý, chuốc rượu cho Đội Quý và bọn lính gác say rượu rồi
đào lấy đầu ba ông đem về An Vĩ, bí mật chôn ở vườn trầu không, lấy cành
dâu làm xương rồi an táng.
LÃNH SẬY
Lãnh Sậy tên thật là Nguyễn Đình Mai, còn gọi là Nguyễn Xuân Mai,
người làng Thọ Bình, cùng thôn với Đinh Gia Quế. Ông là người có công
lớn xây dựng và phát triển lực lượng nghĩa quân Bãi Sậy từ năm 1883 đến
năm 1885. Ông là người thiết kế và chỉ đạo thi công thành Thọ Bình ở ấp
Thọ Bình. Ấp này ở cách xa làng Thọ Bình, gần ấp Dương Trạch, gần đê
sông Hồng, cách đền Hóa Dạ Trạch theo đường chim bay một kilômét. Đó
là một kiến trúc quân sự hiện đại vào cuối thế kỷ XIX.
Ngoài nhiệm vụ xây dựng lực lượng nghĩa quân, xây dựng công trình
phòng thủ, với phương châm tự túc lương thực tới mức cao nhất. Đổng
Quân vụ Đinh Gia Quế giao cho Lãnh binh Nguyễn Đình Mai chỉ huy hậu
cần lo quân lương, vũ khí cho quân khởi nghĩa. Nguyễn Đình Mai đã thu
thuế của nông dân cứ mỗi mẫu ruộng nộp ba phương thóc, ông còn tịch thu
thóc của quan lại, địa chủ theo Pháp chống nghĩa quân. Ông cũng quan hệ
chặt chẽ với chánh tuần huyện Đông Yên Dương Văn Bính ở xã Phù Sa mật
báo cho ông biết ngày giờ, địa điểm quân Pháp vận chuyển quân lương để
ông cho quân đánh úp cướp lương.
Nhằm tự túc lâu dài và ổn định lương thực cho nghĩa quân, giảm bớt
sự đóng góp của nhân dân Nguyễn Đình Mai đã chọn những nghĩa quân già
yếu và những nông dân tự nguyện đi phục vụ nghĩa quân phát, đốt sậy khai
hoang đắp bờ được hàng trăm mẫu cấy lúa, trồng rau mầu. Đến vụ thu
hoạch thì nghĩa quân thay nhau về gặt lúa. Số thóc đó được gửi trong dân
bảo quản và xay giã giao cho nghĩa quân. Chính vì ông chỉ huy việc đốt sậy
khai hoang, nên nghĩa quân gọi ông là Lãnh Sậy, quân Pháp cũng gọi theo
như vậy.
Lãnh Sậy còn đảm nhiệm việc cung cấp vũ khí cho nghĩa quân. Lãnh
Sậy không những chỉ tổ chức sản xuất súng ở hai làng Hoàng Vân mà sản
xuất ở nhiều làng khác như Tân Dân, Ông Đình, Phù Sa, Ngọc Nha, Dạ
Trạch cung cấp vũ khí cho nghĩa quân.
Có thời kỳ Lãnh Sậy đóng đại bản doanh ở đền An Lạc.
Ông chỉ huy nhiều trận đánh, trong trận đánh ở xã Đức Nhuận gần
đền Dạ Trạch, Piglowski viết: “Trong trận đánh ở Đức Nhuận, nghĩa quân
mặc quần áo như nông dân, quân Pháp chỉ nhận ra Lãnh Sậy chỉ huy trận
đánh vì ông chít khăn xanh, thắt lưng đỏ”.
Từ cuối năm 1884 đến giữa năm 1885 lực lượng nghĩa quân Đổng
Quế ngày càng mạnh. Tháng 11/1884, quân Pháp và quân Hoàng Cao Khải
tấn công căn cứ Bãi Sậy. Lãnh Sậy dẫn quân vượt sông Hồng đánh sang các
huyện Thường Tín, Thanh Trì tỉnh Hà Đông khiến quân Pháp đang đánh
phá Bãi Sậy phải vội vã rút quân về bảo vệ phía Nam thành phố Hà Nội.
Lãnh Sậy còn cùng các tướng tấn công các đồn Ứng Lôi, Bình Phú,
Lực Điền gây cho chúng thiệt hại về người, vũ khí và nỗi kinh hoàng không
dám đi càn quét các vùng chung quanh.
Giữa tháng 8/1885 (tháng 7 năm Ất Dậu) Đinh Gia Quế cùng Lãnh
Sậy đem quân vượt sông Hồng đánh đuổi Hoàng Cao Khải, Cao Khải thua
bỏ chạy theo đường đê về Hà Nội. Hai ông dẫn quân đuổi đến tận làng
Thanh Trì (giáp cảng Phà Đen, Hà Nội) thì có kẻ đưa Hoàng Cao Khải đi
giấu nên hắn thoát chết. Hai ông dẫn quân trở về đến bến đò Vạn Phúc
(huyện Thanh Trì) thì bị quân Pháp phục kích. Nghĩa quân bị thiệt hại nặng
nề, tan vỡ. Đổng Quế phải trốn lên một làng gần bến đò Hồ, huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh. Quân Pháp bắt được Lãnh Sậy, chặt đầu ở gốc gạo
đền Lộ, đem đầu về Hà Nội rồi đưa về Hưng Yên bêu, còn xác vùi ở gốc
gạo trước cửa đền Lộ.
Sau này con cháu Lãnh Sậy xây một ngôi miêu tưởng niệm dưới gốc
gạo đền Lộ và cúng giỗ vào ngày 17 tháng 7 âm lịch là ngày ông đi đánh
trận này.
PHẠM VĂN BAN
Phạm Văn Ban sinh trưởng trong một gia đình giàu có ở làng Đống
Vậy, xã Bối Khê, tổng Huệ Lai huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, nay thuộc xã
Bãi Sậy, huyện Ân Thi. Cha ông là Phạm Văn Cán, Chánh tổng tổng Huệ
Lai, ông cũng đương chức Lý trưởng xã Bối Khê.
Với lòng yêu nước sâu sắc và chí căm thù giặc Pháp cướp nước và lũ
Việt gian bán nước, Phạm Văn Ban đã bàn bạc với ông tú tài Thương Bằng,
với ông Xã Thâu ở xã Bối Khê, Nguyễn Đình Tuyển ở xã La Mát kế hoạch
khởi nghĩa. Phạm Văn Ban dựng một lá cờ đại ở đình Bối Khê, đánh trống
để tuyển mộ quân.
Vấn đề vũ khí được Phạm Văn Ban hết sức quan tâm, ngoài vũ khí tự
tạo như dao kiếm, lao, đoản đao, súng kíp, ông còn tổ chức nhiều trận đánh
táo bạo vào đồn địch lấy súng đạn của giặc. Ngoài ra ông còn tập trung tất
cả thợ rèn giỏi nghiên cứu cách chế tạo súng theo mẫu súng 1874; súng
remington, súng lục của quân Pháp. “ví như lò rèn của nghĩa quân Đề Ban
ở làng Nhân Đồng (tổng Huệ Lai, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên). Đề Ban
lại có một nghĩa quân rất giỏi nghề đẽo báng súng bằng gỗ quê ở làng Bối
Khê (Ân Thi, Hưng Yên) chuyên việc chữa các báng súng trường kiểu 1874.
Ông này được mệnh danh là Cai Binh” (Minh Thành: Về cuộc khởi nghĩa
Bãi Sậy đăng trang Tập san Nghiên cứu lịch sử năm 1961).
Phạm Văn Ban lập đại bản doanh ở xã Bối Khê quê hương ông và ở
đền Phù Ủng. Đề Ban hoàn toàn làm chủ ba tổng Huệ Lai, Phù Vệ, Đỗ Xá.
Song địa bàn hoạt động của ông rất rộng gồm Ân Thi, Mỹ Hào, Phù Cừ,
Tiên Lữ (Hưng Yên); Bình Giang, Ninh Giang, Cẩm Giàng, Thanh Miện
(Hải Dương). Ông thường đi xe ngựa do một con ngựa đen kéo, có một
nghĩa quân đánh xe, hai nghĩa quân trang bị súng bắn nhanh đi hộ vệ. Ông
đi theo hành trình từ Bối Khê đi qua An Khải, Chu Xá, Huệ Lai, Kim Lũ,
Phù Ủng, Đào Quạt, Tiên Kiều, rồi trở lại Bối Khê để nắm tình hình, kiểm
tra công việc của nghĩa quân. Khi ra trận ông cưỡi ngựa đen có đủ yên
cương, nhạc.
Hầu hết dân ba tổng Huệ Lai, Đỗ Xá, Phù Vệ đều theo Đề Ban. nghĩa
quân có lới hàng nghìn, dân đều theo Đề Ban nên giặc Pháp gọi là “Tam
tổng chi nhân đô thị tặc” nghĩa là “cả ba tổng đều làm giặc”.
Đề Ban đã liên hệ với Đinh Gia Quế ở làng Thọ Bình thủ lĩnh cuộc
khởi nghĩa Bãi Sậy và với các thủ lĩnh khác ở Hưng Yên, Hải Dương, Bắc
Ninh để cùng đánh Pháp.
Từ giữa năm 1885, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy bị suy yếu có nguy cơ
tan rã thì lực lượng nghĩa quân do Đề Ban chỉ huy vẫn hầu như nguyên vẹn.
Và tại Văn chỉ Bình Dân thì Đề Ban đã có mặt chiến đấu dưới ngọn
cờ Cần vương do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo.
Cuối năm 1885 quân Pháp tập trung quân đánh Đề Ban, ông phải đưa
hơn 1000 quân chạy lên Đông Triều, tỉnh Hải Dương (nay thuộc tỉnh Quảng
Ninh), Nguyễn Thiện Thuật tới bàn bạc với ông, chỉ giữ lại 300 người khỏe
mạnh, trung thành, dũng cảm được trang bị tốt. Từ đó Đề Ban không phải
lo nhiều về lương thực, thực phẩm cho nghĩa quân.
Khi biết tin về Đề Ban đóng quân ở làng La Mát, quân Pháp huy động
lực lượng lớn đến bao vây nhằm tiêu diệt cánh quân của ông.
Ngày 8/2/1891 quân Pháp tập trung trên 1400 dân binh và lính lệ do
thanh tra Blanchart và Hoàng Cao Khải chỉ huy và 14 tên vệ binh chính
cùng lính Nam ba tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh có pháo binh, tàu
chiến yểm hộ tấn công dữ dội vào căn cứ Bãi Sậy và các căn cứ khác của
nghĩa quân. Lực lượng nghĩa quân do Hai Kế, Đề Ban, Đốc Sung, Lãnh Tảo
chỉ huy đã trống trả quân Pháp quyết liệt, nhưng sau cũng phải rút sang
huyện Tứ Kỳ, Thanh Hà sang vùng sông Kinh Thày.
Mặc dù bị quân Pháp bao vây ngày càng chặt, nghĩa quân Đề Ban vẫn
hoạt động mạnh.Trong một trận đánh diễn ra dữ dội kéo dài một tiếng đồng
hồ, nghĩa quân núng thế. Đề Ban thấy quân Pháp vây kín chung quanh biết
là khó thoát, ông từ chối không để Nguyễn Văn Bồng cõng mà rút súng lục
tự sát, hôm đó là ngày 25/12/1891, tức ngày 18/11 âm lịch.
DƯƠNG VĂN ĐIỂN
Dương Văn Điển sinh năm 1836 quê ở làng Phù Sa cựu tổng Đại
Quan, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Ngày 28/3/1883, quân Pháp hạ thành Hưng Yên lần thứ hai, bọn quan
lại hèn nhát bỏ thành chạy. Dương Văn Điển là người nghĩa khí, không chịu
khuất phục kẻ cường quyền áp bức liền bàn với anh em thân tín trong chi họ
mộ quân đánh Pháp. Dân trong vùng vốn biết tài đức của Dương Văn Điển
lại sẵn lòng căm thù giặc Pháp và bọn quan lại nhà Nguyễn đầu hàng giặc
nên nô nức tòng quân. Vì thế chỉ trong một tuần trăng số nghĩa quân được
tuyển lựa đã lên tới trên 100 người. Ông hiểu rõ quân đội hơn dân bính ở
chỗ tinh thông võ nghệ, am hiểu phép tiến lui, thông thạo các thế trận nên
đã cùng Dương Văn Phô, Dương Văn Sáu, Phạm Văn Thọ chia quân thành
đội ngũ luyện tập cách sử dụng đao, kiếm, cách bắn súng, cách dàn thế trận.
Sau lễ Tế cờ, Đổng quân vụ phong chức một số tướng lĩnh, Dương
Văn Điển được phong là Lãnh binh, một số người dưới quyền ông được
phong là hiệp quản, quản, đội, cai, bếp chỉ huy các đội, các cơ, các toán
quân. Đổng Quân vụ Đinh Gia Quế giao cho ông về Phù Sa xây dựng thành
căn cứ chống pháp ở ngoại đê sông Hồng. Trở về Phù Sa, Dương Văn Điển
đã xây dựng ba làng Phù Sa, làng Ninh Tập thành một căn cứ chống quân
Pháp từ tỉnh lỵ Hưng Yên theo đường đê sông Hồng và đường sông Hồng
đánh vào phía Nam căn cứ Bãi Sậy
Dương Văn Điển hiểu rõ muốn đánh thắng quân Pháp chỉ có lòng
dũng cảm chưa đủ mà còn phải có vũ khí tốt. Ông đã giao cho bà Hai Đạm
là vợ mình về hai làng Hoàng Vân Nội và Hoàng Vân Ngoại, tổng An Lạc,
huyện Đông Yên có nghề rèn truyền thống sản xuất được cả súng kíp; về
chùa Tây Trù, xã Tứ Dân, huyện Đông Yên rèn vũ khí. Để nhanh chóng có
nhiều súng bắn nhanh trang bị cho nghĩa quân, Lãnh Điển còn tổ chức
nhiều trận đánh táo bạo vào các đồn binh địch với mục đích chính là cướp
súng. Những trận đấu như thế xảy ra rất nhiều như trận: “Ngày 6/4/1889 Đề
đốc Dương Văn Điển chỉ huy một đội quân trên 50 người, nắm được tin tên
chỉ huy Soler đi vắng, giao quyền cho tên cai người Nam chỉ huy. Ông đã
cho một số quân cải trang làm phụ nữ đem rau đến chợ Bình Phú bán, chợ ở
sát đồn địch... Một người trong bọn đến giả vờ trò chuyện với lính gác rồi
bất thình lình cướp súng của hắn. Lập tức những người khác xông vào đồn
giết lính, cướp 12 khẩu súng. Địch ở Lực Điền, Thung Linh đến cứu viện
thì nghĩa quân Lãnh Điển đã rút xa”.
Dương Văn Điển dùng lối đánh du kích như phục kích, tập kích, hỏa
công, độn thổ, khi thì giả làm người đi chợ, khi là những nông dân bình
thường xuất kỳ bất ý tiêu diệt quân Pháp, thu vũ khí rồi rút nhanh. Có lần
ông cho hai nghĩa quân nhỏ bé nấp trong hai bó sậy do một nghĩa quân
khỏe mạnh gánh vào đồn bán. Vào trong đồn, nghĩa quân đạp sậy tung ra
giết lính, cướp súng rồi nhân lúc quân lính rối loạn rút lui an toàn.
Đội quân thường trực do Dương Văn Điển chỉ huy dao động từ 200
đến 300 người đều là quân thoát ly khỏi làng xã, hai phần ba được trang bị
súng bắn nhanh, rất thiện chiến và tự túc được lương thực nên giữ kỷ luật
nghiêm minh không tơ hào của dân, mà chỉ cướp thóc những nhà giầu, quan
lại không nộp thuế cho nghĩa quân, chống lại nghĩa quân.
Từ năm 1883- 1884 Dương Văn Điển chỉ huy chiến đấu nhiều trận
như trận đánh đám hào lý phản động ở các làng chống lại nghĩa quân. Các
trận ông chỉ huy đánh quân Pháp ở Hoàng Vân, Giếng Vàng, Ngọc Nha,
Kênh Khê. Bình Phú, Quán Cà... đã gieo mối kinh hoàng cho quân Pháp và
quân Hoàng Cao Khải.
Nghĩa quân Dương Văn Điển rất gan dạ, mưu trí, kiên cường đánh
giặc, quân Pháp và quân Hoàng Cao Khải nghe nói đến quân Dương Văn
Điển là sợ như sợ cọp.
Tháng 1/1886. quân Pháp thực hiện chính sách “Dùng người Việt,
đánh người Việt” lập binh đoàn Bình định giao cho tên đại Việt gian Hoàng
Cao Khải làm Tư lệnh trưởng. Được sự hỗ trợ đắc lực của bộ binh, công
binh, pháo binh, hạm tầu và cả sĩ quan Pháp chỉ huy, Hoàng Cao Khải đã
điên cuồng mở nhiều đợt tấn công vào nghĩa quân Bãi Sậy. Song nghĩa
quân Dương Văn Điển dũng cảm được nhân dân ủng hộ đã đánh thắng
nhiều trận trong đó có những trận Dương Văn Điển phối hợp với các thủ
lĩnh khác như trận Cầu Ngàng (Kim Đồng), trận Hoàng Vân, Kênh Khê,
Hoàng Nha, Quán Cà (Khoái Châu), Thung Linh, Bình Phú (Yên Mỹ).
Khiếp sợ Dương Văn Điển, tháng 6/1889 Morel, phó công sứ Hưng
Yên cho lính về đóng ở Phù Sa và lệnh cho quân Pháp đóng trong tỉnh
Hưng Yên phải truy kích ráo riết nghĩa quân Lãnh Điển, song ông đã khôn
khéo tránh các cuộc truy kích của địch mà còn tổ chức các trận tập kích:
phục kích lại chúng. Đánh không được, Morel viết thư dụ ông hàng, ông
phản đối, Morel cho lính bắt mẹ ông và hẹn ông năm ngày ông phải ra hàng
ở Kênh Khê nếu không chúng giết mẹ ông và triệt phá cả ba làng Phù Sa.
Dương Văn Điển là người chí hiếu với mẹ, ông phải ra hàng để cứu
mẹ, nhưng lợi dụng lúc giặc sơ hở, ông cõng mẹ chạy trốn. Quân Pháp cho
hai tên lính khố xanh trá hàng nghĩa quân để thực hiện âm mưu ám sát
Dương Văn Điển, nhưng do nghĩa quân cảnh giác, nên chúng bị bắt khi
chưa thực hiện được âm mưu đen tối.
Tháng 10/1889 quân Pháp đóng ở phủ lý Khoái Châu được lệnh truy
kích ráo riết nghĩa quân Dương Văn Điển. Song Điển đã khôn khéo tránh
các cuộc truy kích của địch và còn tổ chức các trận tập kích, phục kích
chúng khiến cho bọn đi đánh lại bị đánh.
Tháng 8/1891, Dương Văn Điển thấy không thể nào hoạt động ở
Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh được, ông giải tán nghĩa quân, khuyên
mọi người lên Yên Thế gia nhập nghĩa quân Đề Thám, ông cùng Hiệp quản
Dương Văn Phô, Hiệp quản Dương Văn Ké, Hiệp quản Lê Văn Cần tìm
đường lên Hưng Hóa gia nhập nghĩa quân Đề Kiều. Ngày 21/8/1891 bốn
ông đi đến làng Phương Cách, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây thì bị lính của
tri phủ Quốc Oai, và lính của tri huyện sở tại Phạm Hữu Đại bao vây. Các
ông bị bọn lính bắt được lôi lên bờ chặt đầu. Sau khi Lãnh Điển hy sinh,
quân giặc đưa đầu ông về Hưng Yên gọi lý trưởng đến nhận diện. Khi đó
đầu Dương Văn Điển đã nát không nhận rõ, nhưng để yên chuyện lý trưởng
công nhận đó là đầu Dương Văn Điển.
ĐỐC CỌP
Đốc Cọp tên thật là Vũ Văn Cợp quê ở xã An Xá, tổng An Xá, huyện
Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Vũ Văn Cợp tuy hiếu động nhưng học hành
thông minh. Cợp đi thi vào đến Đệ nhị trường nhưng đến Đệ tam trường thì
trượt. Chán con đường khoa cử, Cợp bỏ học văn, tìm thầy học võ. Chẳng
bao lâu ông trở thành người giỏi võ, còn tài vật thì trong vùng không ai
bằng. Cha mẹ muốn giữ chân ông, nên chạy cho ông chân phó lý. Ông làm
phó lý, nhà giầu nhưng không keo kiệt, thường giúp đỡ người nghèo.
Ngày 28/3/1883, thành Hưng Yên thất thủ. Vũ Văn Cợp liền bàn với
em trai là Hai Cống và hai bạn từ thuở chăn trâu là Nguyễn Văn Soàng và
Tạ Văn Xuân đứng lên kêu gọi trai tráng trong hàng tổng khởi nghĩa đánh
Pháp gia nhập cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do Đổng quân vụ Đinh Gia Quế
lãnh đạo.
Dân cư tổng An Xá và các xã trong vùng vốn quí trọng phó lý Vũ
Văn Cợp nên nô nức gia nhập nghĩa quân. Chỉ trong vòng nửa tháng đã có
trên 200 người gia nhập quân khởi nghĩa. Đốc Cợp chỉ huy nhiều trận đánh
Pháp ở Khoái Châu, Kim Động, trận Cầu Ngàng (Kim Động).
Tháng 9/1885 khi Nguyễn Thiện Thuật về trực tiếp lãnh đạo cuộc
khởi nghĩa Bãi Sậy. Đốc Cợp có mặt ngay từ buổi đầu, dự lề tế cờ khởi
nghĩa ở Văn chỉ Bình Dân. Trong suốt quá trình chiến đấu, Đốc Cợp là một
thủ lĩnh mưu trí, có công lớn trong phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy. Ông
được Nguyễn Thiện Thuật giao cho ông cùng Tán tương quân vụ Nguyễn
Hữu Đức chỉ huy vùng Nam Hưng Yên. Ông là người chỉ huy dũng cảm,
táo bạo, tài thao lược, quân Pháp sợ ông như sợ cọp, nên chúng tôn ông là
“Đốc Cọp”. Bọn chỉ huy Pháp viết về ông như sau: “Trong tỉnh Hưng Yên
Đề đốc Ban, Đề đốc Cọp đã gây cho quân Pháp bao nỗi kinh hoàng”
(Daufès: Bảo an binh Đông Dương từ ngày thành lập đến nay).
Tháng 3/1888, một đội quân do Đốc Cọp chỉ huy tao ngộ chiến dữ dội
với quân Pháp ở Đông Nhu. Vũ Xá bắn trọng thương 2 sĩ quan Pháp là
Legllé và Chuibert, giết chết nhiều tên.
Nghĩa quân do Đốc Cọp chỉ huy hoạt động mạnh mẽ ở các huyện
Kim Động, Ân Thi, Khoái Châu song ông bị quân Pháp truy kích ráo riết.
Đầu tháng 4-1891, Đốc Cọp đưa quân về đóng ở chùa Quàn thuộc xã
Lôi Cầu, huyện Đông Yên (Lôi Cầu nay thuộc xã Việt Hòa, huyện Khoái
Châu, Hưng Yên). Nghĩa quân đóng trong chùa tổ chức phòng thủ, Hoàng
Cao Khải được quân Pháp hỗ trợ đưa quân tới đánh, song trận nào chúng
cũng bị quân của Đốc Cọp đánh bật ra ngoài. Nghĩa quân giữ được chùa
Quàn hơn một tháng. Vì nghĩa quân đã mệt mỏi, đạn đã cạn, không còn
lương thực, Đốc Cọp lợi dụng đêm tối và cánh đồng lau sậy tốt rút khỏi
chùa Quàn về xã Tiểu Quan.
Ngày 21/5/1891 khi quân Pháp biết tin Đốc Cọp chỉ huy 300 quân
đang cùng hơn 1 00 nghĩa quân làng Tiểu Quan đang đóng trong làng Tiểu
Quan, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu, lập tức Vincillioni, Pointes,
Brezton chỉ huy bao vây chặt Tiểu Quan. Quân Pháp đến từ nửa đêm nhưng
chúng sợ Đốc Cọp không dám xem thường mà chỉ bao vây từ xa, gần sáng
chúng mới thít chặt vòng vây. Mờ sáng ngày 22/5/1891 nghĩa quân chuẩn bị
rút khỏi Tiểu Quan bỗng có báo động. Đốc Cọp cho người ra quan sát thì
thấy quân Pháp đã bao vây kín làng, ông liền bố trí quân sau các lũy tre dày
gấp rút đào công sự đánh địch. Quân Pháp bắn như đổ đạn vào làng, nghĩa
quân bắn lại, tuy lực lượng nghĩa quân ít, lại bị mệt mỏi sau hơn một tháng
chiến đấu, đạn dược ít nhưng có ưu thế chiếm được cao điểm lại có lũy tre
dầy, lũy đất kiên cố nên nghĩa quân bắn rất trúng, hạ được nhiều giặc, quân
Pháp không sao tới gần được lũy. Suốt ngày hôm ấy nghĩa quân xông ra
nhiều lần song không chọc thủng được vòng vây, sai người đi về Bãi Sậy
cầu viện cũng không đi thoát, nghĩa quân bị tổn thất nặng nề. Quân Pháp
tràn được vào làng, nghĩa quân đánh giáp lá cà nhưng lực lượng ít không
địch nổi quân Pháp. Quân Pháp chia nhau đi sục sạo. Đốc Cọp bị thương
nặng, nấp dưới ao sâu, đậy bè rau muống lên trên chỉ ngửa mặt lên thở. Bọn
lính đuổi bắt gà, tình cờ một con gà bay xuống ao, bọn lính đuổi theo, phát
hiện ra Đốc Cọp chúng bắt đưa về Hà Nội. chúng cũng bắt được 20 nghĩa
quân. Ngày 23/5/1891 (ngày 16/4 âm lịch) quân Pháp xử bắn ông ở khu đất
trống cạnh hồ Hoàn Kiếm Hà Nội - nơi chúng đã bắn Đội Văn tháng
11/1889 (nay là vườn hoa Lý Thái Tổ) đưa đầu về Hưng Yên bêu, xác ném
xuống sông Hồng.
NGUYỄN VĂN SUNG
Nguyễn Văn Sung còn gọi là Nguyễn Đức Sung sinh năm 1843 quê ở
xóm Son, làng Dịch Trì, tổng Liêu Xá, huyện Mỹ Hào tỉnh Hải Dương, nay
là thôn Dịch Trì, xã Ngọc Long, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.
Nguyễn Văn Sung học văn rất thông tuệ, học võ sớm tinh thông các
môn vật, gậy, đoản đao, kiếm. Năm 1882 quân Pháp hạ thành Hà Nội lần
thứ hai, ngày 28/3/1883, quân Pháp hạ thành Hưng Yên Nguyễn Văn Sung
khi đó đang ở làng Tam Á, tổng Tam Á liền tập hợp anh em trong phường
gặt và anh em nghèo trong vùng sắm sửa vũ khí, tích trữ lương thực mưu đồ
nổi dậy chống Pháp bị quân Pháp vây bắt, nhưng được nhân dân giúp đỡ
nên ông đã trốn thoát. Đúng vào thời gian đó Tuần Vân ở xã Xuân Quan,
huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh khởi binh đánh Pháp, Nguyễn Văn Sung
đem vài chục thủ hạ đến theo. Ông nhanh chóng trở thành một thủ lĩnh xuất
sắc của Tuần Vân. Đốc Sung đã chặn đánh quân Pháp nhiều trận như trận
chợ Bốn, bên trong đê Cự Khối, huyện Gia Lâm gây cho quân Pháp nhiều
thiệt hại.
Tháng 9/1885, Nguyễn Văn Sung đã có mặt trong buổi lễ Tế cờ tại
Văn chỉ Bình Dân. Nguyễn Thiện Thuật phong ông chức Đề đốc và dâng sớ
về căn cứ kháng chiến ở Quảng Trị để vua Hàm Nghi ban thưởng. Vua ban
cho ông Kim tiền và thanh gươm báu, chuôi bằng ngà voi có tám chữ:
“Phục quốc diệt thù - Tiền trảm hậu tấu”. Nguyễn Thiện Thuật giao cho ông
chiến đấu ở Nam Bắc Ninh, Bắc Hưng Yên và Bắc Hải Dương dưới quyền
Hồng lô Tự khanh Tán lý quân vụ Ngô Quang Huy.
Đốc Sung đóng quân ở đình Tam Á, và ở khu đền Sĩ Nhiếp rộng tới
hơn 2 mẫu cây cối um tùm. Nhưng Tam Á là một làng trống trải nên ông
còn xây dựng căn cứ ở cánh đồng Trằm và xây dựng làng Hà Mãn cách đó
một quãng thành làng chiến đấu. Biết tin Đốc Sung về hoạt động ở Gia
Lâm, Thuận Thành, Gia Bình bên Tả ngạn sông Đuống và Từ Sơn, Tiên Du
bên Hữu ngạn sông Đuống, Pháp đưa quân đến đánh, ông lập trận địa ở
cánh đồng Trằm rồi nhử chúng vào Hà Mãn, đặt phục binh hô quân đánh
giáp lá cà. Quân Pháp thua bỏ chạy để lại trên 10 súng bắn nhanh.
Cuối năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật điều ông về đóng ở Tây Nam
huyện Mỹ Hào, bảo vệ căn cứ Bãi Sậy. Ông đóng quân ở làng Liêu Trung
cùng Lãnh binh Lưu Ngọc Tháu xây dựng Liêu Trung thành làng chiến đấu.
Quân pháp cho cai Ponnis về đóng đồn Thụy Lân, giáp Cầu Đừng qua sông
Nghĩa Trụ, chặn nghĩa quân từ Cầu Treo, Sài Trang tiến vào Bãi Sậy.
Khi Đề đốc Nguyễn Văn Sung đóng quân ở Liêu Trung, ông đã tổ
chức cho nghĩa quân khai hoang, phục hóa cấy được hơn 100 mẫu lúa và
rau mầu. giảm bớt sự đóng góp của dân. Đốc Sung đã “thi hành chính sách
đạc điền”, tức là bắt bọn địa chủ ở Dịch Trì và các làng ông kiểm soát phải
khai báo diện tích ruộng đất. Bọn này sợ phải đóng thuế nhiều nên đã khai
bớt diện tích. Ông cho đo đạc lại tịch thu số ruộng đất dôi ra, sung vào công
điền rồi chia cho dân nghèo.
Địa bàn hoạt động của Đề đốc Nguyễn Văn Sung rất rộng. Tháng 10-
1888 Đốc Sung đưa quân đến đánh phá huyện Cẩm Giàng. Về trận này
quân Pháp thú nhận như sau: “Trong khi huyện Mỹ Hào được yêu ổn thì
hulyện Cẩm Giàng lại bị quân cướp của Đốc Sung từ Bắc Ninh đến quấy
phá luôn. Các vùng khác, trừ miền núi vẫn yên”. Nghĩa quân của ông hoạt
động rất mạnh, đẩy lùi được rất nhiều cuộc đàn áp của giặc.
Đầu tháng 3/1891 Đốc Sung đưa quân về hoạt động ở quê ông: tổng
Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, đạo Bãi Sậy, đóng quân ở chùa Đống Long, cạnh
làng Dịch Trì thì bị Lãnh Vắn ở làng Đông Mai (sau khi Lãnh Vắn làm
phản, Pháp cho hắn làm đồn trưởng đồn Đống Mối) và tên Kha trước đây là
thân cận của ông đang đêm đưa quân Pháp đến vây chùa. Đốc Sung khi đó
đi tuần phát hiện được liền gọi loa báo cho nghĩa quân và dân biết. Bọn
Pháp xả súng bắn, Đốc Sung bị thương nặng ở đùi, ông bò ra khu ao rộng 5
sào trước cửa chùa. Bọn Pháp bủa vây chung quanh, ông giấu thanh gươm
vua Hàm Nghi ban vào bụi lau sậy rồi rút súng lục bắn vào miệng tự sát.
Con cháu Đốc Sung vẫn cúng giỗ vào ngày 27 tháng 2 âm lịch (ngày 17
tháng 3 năm 1891).
NGUYỄN SUNG
Nguyễn Sung là con trai thứ hai Nguyễn Thành Thà, quê ở thôn Phan
Bổng, xã Đỗ Mỹ, huyện Thần Khê, tỉnh Hưng Yên, cùng với anh cả là
Nguyễn Khả Lương tham gia cuộc kháng chiến của nghĩa quân Bãi Sậy do
Đổng Quân vụ Đinh Gia Quế lãnh đạo.
Nguyễn Sung được Đinh Gia Quế cử giữ chức Hiệp quản chuyên
trách lo hậu cần cho căn cứ Bãi Sậy. Để có lương thực cung cấp ngay cho
nghĩa quân. Lãnh binh Dương Văn Điển đã cùng với Hiệp quản Nguyễn
Sung bí mật đến nhà ông Dương Văn Bính là chú họ Dương Văn Điển đang
giữ chức Tuần huyện Đông Yên bàn việc tổ chức quân lương cho nghĩa
quân. Ông Bính làm việc cho Nam triều nhưng là người yêu nước đã thực
hiện kế hoạch do Lãnh Điển và Hiệp Sung đề ra là trước khi ông đi áp tải
lương từ các xã nộp vào kho của huyện hay trên đường vận chuyển lương
thực tới các đồn binh thì báo trước cho nghĩa quân. Nguyễn Sung cho quân
phục kích để cướp lương, nhưng cố không giết chết quân lính đi áp tải, trừ
những tên ngoan cố để bảo vệ an toàn tính mạng cho Dương Văn Bính.
Với cách làm đó nghĩa quân thu được rất nhiều lương thực, mà ông
Dương Văn Bính cũng không bị giặc nghi ngờ.
Khi cha và anh cùng hai em lần lượt hy sinh, Nguyễn Sung vẫn một
mình kiên trì hoạt động để trả thù nhà, đền nợ nước. Trong một lần dẫn một
toán nghĩa quân đi vận chuyển vũ khí do Lưu Kỳ mua ở biên giới Trung
Quốc về đến vùng giáp ranh Bắc Ninh - Hưng Yên thì Nguyễn Sung bị
quân Pháp càn bất ngờ. Ông chỉ huy anh em chiến đấu và hy sinh anh dũng.
ĐỐC GIỚI
Đốc Giới tên thật là Nguyễn Giới là con trai thứ ba Nguyễn Thành
Thà, quê ở thôn Phan Bổng, xã Đỗ Mỹ, huyện Thần Khê, tỉnh Hưng Yên,
nay là xã Bình Lang huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Nguyễn Thành Thà đã
cho hai con trai là Nguyễn Khả Lương, Nguyễn Sung sang chiến đấu ở căn
cứ Bãi Sậy từ tháng 4 năm 1883 dưới quyền chỉ huy của Đổng Quân vụ
Đinh Gia Quế.
Tháng 9 năm 1885, Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ Đại thần Nguyễn
Thiện Thuật về lãnh đạo căn cứ Bãi Sậy thay Đinh Gia Quế. Nguyễn Thành
Thà lại cho con trai thứ ba là Nguyễn Giới và con trai thứ tư là Nguyễn
Mịch sang chiến đấu ở căn cứ Bãi Sậy.
Nguyễn Thiện Thuật phái Nguyễn Giới cùng Nguyễn Mịch giúp Bang
Tốn xây dựng phòng tuyến sông Luộc ngăn chặn quân Pháp từ Nam Định
vượt sông Luộc đánh sang các cứ điểm của nghĩa quân Bãi Sậy, đóng ở
Tiên Lữ, Phù Cừ, và ngăn quân Pháp từ Hưng Yên, Hải Dương đánh sang
Nam Định.
Nguyễn Giới đã góp phần quan trọng trong các trận nghĩa quân Bãi
Sậy đánh thắng quân Pháp trên phòng tuyến sông Luộc. Do lập được nhiều
chiến công, Nguyễn Thiện Thuật phong Nguyễn Giới hàm Đốc binh. Mọi
người thường quên gọi ông là Đốc Giới.
Nguyễn Thiện Thuật chủ trương mở rộng căn cứ Bãi Sậy sang huyện
Thần Khê nên giao cho Nguyễn Mịch cùng em trai về xây dựng căn cứ
Đống Lau ở ngay quê ông là làng Phan Bổng, biến mảnh đất này làm mồ
chôn quân Pháp và tay sai. Từ căn cứ Đống Lau, nghĩa quân bảo vệ được
căn cứ Bãi Sậy từ xa và cũng ngăn chặn được quân Pháp từ hữu Ngạn sông
Luộc đánh sang tả Ngạn sông Luộc.
Giặc Pháp đem quân đánh phá căn cứ Đống Lau nhiều lần không
thắng mà còn bị thương vong nặng nề. Giặc Pháp giao cho tên đại Việt gian
Hoàng Cao Khải dùng kế li gián. Hàng ngày Khải sai tay chân gọi loa dụ dỗ
Đốc Giới cùng em ông là Lãnh Mịch đầu hàng sẽ được phong quan tước.
Khải còn hèn nhát mạo thư ông nhận lời cộng tác với giặc Pháp để nghĩa
quân và nhân dân nghi ngờ ông. Chúng bao vây chặt làng Phan Bổng,
người nào ra khỏi làng là chúng dùng thóc gạo, tiền bạc, vải vóc mua
chuộc. Người nào không nghe chúng đánh cho gãy tay, què chân. Quân
Pháp không ngừng bắn đại bác vào trong làng, chặn các nguồn tiếp tế lương
thực, thực phẩm. Sau nhiều ngày bị giặc phong tỏa, căn cứ Phan Bổng lâm
vào cảnh thiếu lương, thiếu muối, nghĩa quân cũng hết đạn. Người trong
làng bị bắt vãn. Nghĩa quân thiếu ăn, ngày đêm phải đề phòng quân giặc tấn
công nên mệt mỏi, không còn sức chiến đấu. Đến lúc đó quân Pháp mới đổ
quân, tấn công ào ạt, nghĩa quân không còn đạn, cũng không còn sức chiến
đấu nên phần lớn hy sinh và bị bắt. Đốc Giới cùng em trai là Lãnh Mịch
cũng bị bắt. Chúng bảo ông đầu hàng thì chúng tha chết. Ông vẫn kiên
cường không khuất phục. Chúng đưa Nguyễn Giới về chém ở Kỳ Bá.
Vua Hàm Nghi nhận được bản tấu về sự hy sinh của ông, truy tặng
ông hàm Nhiêu, sĩ phu Bắc Kỳ có nhiều câu đối phúng viếng.
LÃNH MỊCH
Lãnh Mịch tên thật là Nguyễn Mịch, là con trai thứ tư nhà yêu nước
Nguyễn Thành Thà, người đã phối hợp với Đốc học Phạm Văn Nghị đánh
quân Pháp từ năm 1873 khi đang làm Chánh quản ở tỉnh Hưng Yên. Năm
1883, quân Pháp hạ thành Nam Định lần thứ hai, Nguyễn Thành Thà giữ
Cửa Đông, bị thương vẫn chiến đấu. Thành mất, ông về Vị Xuyên tổ chức
nghĩa quân đánh giặc Pháp.
Tháng 4 năm 1883 , Đinh Gia Quế lập căn cứ kháng chiến ở Bãi Sậy,
phủ Khoái Châu, ông cử con cả là Nguyễn Khả Lương, con thứ hai là
Nguyễn Sung sang chiến đấu dưới ngọn cờ “Nam Đạo Cần Vương - Bình
Tây phạt tội”. Tháng 4 năm 1885 khi Nguyễn Thiện Thuật về trực tiếp lãnh
đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy ông lại cử con thứ ba là Nguyễn Giới, con thứ
tư là Nguyễn Mịch sang Bãi Sậy chiến đấu dưới dự chỉ huy của Nguyễn
Thiện Thuật, ông Thuật giao cho ông và anh ông là Nguyễn Giới giúp Bang
Tốn, xây dựng phòng tuyến sông Luộc. Nguyễn Mịch chỉ huy một đồn binh
ở miệt vạn chài ven sông Luộc cách đồn Úng Lôi của giặc Pháp không xa.
Nghĩa quân của ông phần lớn là dân chài đánh cá trên sông Luộc và các
ngòi lạch thuộc huyện Tiên Lữ và huyện Thần Khê. ông đảm đương đầu
mối liên lạc giữa ban chỉ huy trung tâm cuộc khởi nghĩa ở đầm Dạ Trạch
với hai huyện Thần Khê, Duyên Hà ở bên kia sông Luộc. Mỗi khi có các
cuộc hành quân lớn của nghĩa quân qua sông Luộc thì ông cho quân bao
vây, khống chế đồn Úng Lôi. Ông đã hai lần tấn công đốt trụi đồn Úng Lôi.
Song quân Pháp không thể bỏ vị trí quan trọng này nên chúng lại dồn quân
đến tái lập đồn.
Do lập được chiến công xuất sắc, Nguyễn Mịch được Nguyễn Thiện
Thuật phong làm Lãnh binh. Nguyễn Thiện Thuật chủ trương phát triển lực
lượng nghĩa quân sang huyện Thần Khê và huyện Duyên Hà nên đã cử
Lãnh Mịch cùng anh trai là Đốc Giới về đóng đồn ở quê ông là làng Phan
Bổng, Đống Lau, xã Đỗ Mỹ huyện Thần Khê. Đồn binh này đã chặn đứng
các cánh quân Pháp từ Nam Định, từ huyện Vũ Thư đánh sang. Đồng thời
kiểm soát con đường từ phủ Thái Bình (sau là tỉnh Thái Bình) sang các tỉnh
Hưng Yên và Hải Dương. Quân Pháp đánh mãi không được, mới sai tên
Việt gian Hoàng Cao Khải cho tay sai gọi loa dụ hàng.
Không khuất phục được anh em Lãnh Mịch, Đốc Giới bằng vũ lực và
dụ hàng, Hoàng Cao Khải bao vây chặt làng Phan Bổng, cắt đứt mọi nguồn
tiếp tế từ ngoài vào. Chúng còn kéo đại bác từ Nam Định sang bắn phá ác
liệt vào làng Phan Bổng. Người dân nào chạy ra khỏi làng là chúng bắt tra
tấn cực kỳ man rợ. Bị bao vây nhiều ngày, thiếu đạn, thiếu gạo, thiếu muối,
vô cùng mệt mỏi, mất hết sức chiến đấu đến lúc đó quân Pháp mới ào ạt tấn
công vào làng.
Lãnh Mịch và Đốc Giới chỉ huy nghĩa quân đánh quân Pháp, nhiều
nghĩa quân hy sinh và bị bắt. Lãnh Mịch, Đốc Giới cũng bị chúng bắt.
Chúng dụ dỗ các ông đầu hàng sẽ không giết, Lãnh Mịch kiên quyết phản
đối. Giặc hèn nhát đem anh ông là Đốc Giới về Kỳ Bá chém, còn ông chúng
đưa ông về bến đò Phiên ở làng chém để uy hiếp đồng bào.
Vua Hàm Nghi nhận được bản tấu đã truy tặng ông và anh ông hàm
Nhiêu, Nam sĩ phu trong tỉnh Hưng Yên và Nam Định làm nhiều thơ, câu
đối phúng viếng, trong đó có câu:
Tích nhật Lục Giang Pháp phỉ kinh hồn
Phan Bổng anh hùng, đốc lãnh dân xưng bất hủ;
Kim thiên Lô Đống, nguỵ quân táng đởm,
Nông Kỳ tráng sĩ, Nhiêu Nam để tặng trường linh.
Dịch:
Ngày trước sông Luộc giặc Pháp kinh hồn, anh hùng Phan Bổng, Đốc
Lãnh dân còn tôn mãi;
Hôm nay Đồng Lau ngụy quân vỡ mật, tráng sĩ Nông Kỳ, Nhiêu, Nam
vua tặng không mờ.
NGUYỄN DUY HIỆU
Nguyễn Duy Hiệu còn gọi là Nguyễn Hiệu, Hường Hiệu sinh năm
1847 quê ở làng Thanh Hà, huyện Diên Phước, nay là huyện Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam. Nguyễn Duy Hiệu có tư chất thông minh, năm 14 tuổi đã đi thi
Hương, nhưng mãi đến năm 1879 mới đậu cử nhân và khoa thi Hội năm
1879 mới đậu phó bảng. Năm 1882 Tự Đức bổ dụng ông làm Giảng tập ở
Dũng Thiện đường để dạy hoàng tử Ưng Đăng (sau là vua Kiến Phúc).
Khi triều đình Huế ký hoà ước với Pháp ông treo ấn từ quan thành lập
Nghĩa hội chống Pháp. Sau khi Tôn Thất Thuyết ra bản Thông báo cho cả
nước biết việc vua Hàm Nghi xuất bôn và kêu gọi mọi người “Cần vương”,
lập tức Nguyễn Duy Hiệu cùng các ông Trần Văn Dư, Phan Bá Phiến, Hồ
Học, Nguyễn Thành chiêu mộ quân nghĩa dũng đánh Pháp. Riêng ông Hồ
Học chiêu mộ được 1000 quân. Hồ Học được Nguyễn Duy Hiệu giao cho
chỉ huy từ đèo Hải Vân đến An Ngãi Đông.
Nguyễn Duy Hiệu được vua Hàm Nghi sắc phong: Bính bộ Tả tham
tri, sung Tham tán quân vụ đại thần, kiêm lý Nam - Ngãi Tổng đốc (Tả
tham tri bộ Binh, giữ chức Tham tán quân vụ đại thần, kiêm tổng đốc Nam -
Ngãi). Nguyễn Duv Hiệu đã nhân danh vua Hàm Nghi phong chức cho
những người đảm đương trach nhiệm hành chính và quân sự.
Nguvễn Duy Hiệu kế tục sự nghiệp của Trần Văn Dư lãnh đạo nghĩa
quân. Ông hoạt động kiên quyết, nguyện hiến thân cho đại cục. Trước sự
tấn công ác liệt của quân Pháp và quân triều đình Đổng Khánh, căn cứ
Trung Lộc bị thất thủ. Nghĩa quân bị thiệt hại nặng nề. Nguyễn Thành, Hồ
Học ra sức cản địch để các vệ sĩ bảo vệ Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến
rút về Gò May rồi chạv về vùng ven biển. Nguyễn Duy Hiệu thấy không
còn khả năng phục hồi được Nghĩa Hội, ông nói với Phan Bá Phiến:
“Nghĩa hội ba tỉnh ônạ với tôi thật chủ trương. Việc đã không thể làm
thì ta chỉ có chết mà thôi. Nhưng hai ta cùng chết một lúc là vô ích. Ônq
hãy chết trước. Phần tôi, tôi sẽ giải tán Hội, rồi đem thân mặc cho Pháp
bắt. Nqười Pháp tra hỏi, tôi sẽ cực lực giải thoát cho Hội. Một mình tôi
chết không đáng tiếc, còn hội ta sau này có kẻ làm thay chí ta, tức là ta
sống đó!”. Sau đó hai thủ lĩnh quyết lấy cái chết để giữ bí mật của Nghĩa
hội và bảo vệ các đồng chí còn sống được an toàn. Phan Bá Phiến uống
thuốc độc tự tử trước, Nguyễn Duy Hiệu về quê thắp hương ở bàn thờ mẹ
rồi ra miếu Quan Công, sai người báo cho Nguyễn Thân đến bắt. Ông nhận
hết trách nhiệm về mình. Ngày rằm tháng tám năm Đinh Hợi (1/10/1887)
một ngày sau khi Đồng Khánh phê chuẩn bản án tử hình, Nguyễn Duy Hiệu
ung dung ra pháp trường chịu chém, trên môi vẫn nở nụ cười. Giặc Pháp và
triều đình Huế chặt đầu ông dùng ngựa trạm hoả tốc đưa về phủ Điện Bàn
tỉnh Quảng Nam bêu. Sự bình thản đi vào cõi chết của ông khiến kẻ thù run
sợ. Baille, Khâm sứ Trung Kỳ lúc đó chứng kiến cái chết của ông đã phải
viết:
''Hiệu đợi chết đứng như một nqười thuộc loại y vào bực y, nghĩa là y
đợi chết không sợ sệt và đợi nó như một vận số, một định mệnh không có
điều qì để căm qiận(...) Hiệu cũng như nhiều người khác đã thấy ở Nam Kỳ
và Trung Kỳ, vẫn làm thơ trong khi đi tới pháp trường, rồi viết câu thơ đầu
ngọn bút lông, mà không một nét nào run, tỏ sự xúc động gì cả...” (Baillc:
Souvemirs d'Annam)
NGUYỄN HÀM
Nguyễn Hàm còn có tên là Nguyễn Thành, hiệu Tiểu La, sinh năm
1863, quê ở làng Nam Thịnh, huyện Thắng Bình, tỉnh Quảng Nam.
Năm Ất Dậu, Hàm Nghi nguvên niên (1885), Nguyễn Thành ra Huế
dự kỳ thi Hương nhưng kinh đô thất thủ, vua Hàm Nghi ra sơn phòng
Quảng Trị hạ chiếu Cần vương. Nguyễn Thành trở về quê ứng nghĩa Cần
vương. Sẵn có lòng yêu nước và kiến thức quân sự, lại biết võ nghệ,
Nguyễn Thành cũng dựng cờ, chiêu mộ nghĩa quân đánh Pháp. Sau ông đưa
quân gia nhập lực lượng của Nguyễn Duy Hiệu và trở thành Phó tướng khi
ông mới 22 tuổi. Nguyễn Thành lĩnh chức Tán tương quân vụ lập công
ngay trận đánh thu hồi sơn phòng Dương Yên.
Tháng 12 nám 1885 nghĩa quân bị một tổn thất lớn là thủ lĩnh Trần
Văn Dư bị quân Pháp giết hại, công việc của Nghĩa hội do Nguyễn Duy
Hiệu, Phan Bá Phiến, Nguyễn Thành gánh vác. Song về quân sự thì Nguyễn
Thành đảm nhận là chính.
Cuối năm 1887, Đồng Khánh sai Nguyễn Thân chỉ huy 1000 quân.
Khâm sứ Pháp cũng phái hai đạo quân gồm 400 lính Pháp 200 lính tập cùng
quân của Phan Liêm đánh phá căn cứ Trung Lộc. Quân Pháp còn trang bị
cho Nguyễn Thân, Phan Liêm 400 súng trường báng gấp cùng nhiều đạn
dược. Giặc đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Thành bị bắt nhưng
không bị tra tấn nhiều do Nguyễn Duy Hiệu đã nhận hết trách nhiệm về
mình.
Nguyễn Thành không phải đi đày mà chỉ bị quản thúc ở làng. Về sau
Nguyễn Thân ra Nghệ Tĩnh đàn áp cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng mấy
lần mời ông cộng tác, ông đều khéo léo cự tuyệt.
Nguyễn Thành lập trại cày ở Nam Thịnh để tập hợp đồng chí, tích luỹ
lương thảo, bề ngoài sản xuất nông nghiệp để che mắt kẻ thù.
Năm 1902, Phan Bội Châu đã biết tiếng Nguyễn Thành là người đã
tham gia cuộc khởi nghĩa của Nghĩa hội Quảng Nam và là viên dũng tướng
nên quyết định vào gặp Nguyễn Thành để kết làm đồng chí cùng lo việc
nước. Đầu tháng 5/1904, Phan Bội Châu và Nguyễn Thành đã triệu tập một
Hội nghị có trên 20 sĩ phu đại diện cho ba kỳ Bắc - Trung - Nam tại Nam
Thịnh sơn trang (điền trang của Tiểu La) nay thuộc huyện Thăng Bình, tỉnh
Quảng Nam. Saư khi thảo luận kỹ đường lối, chính cương của tổ chức mới,
các đại biểu đã nhất trí đặt tên là hội Duy tân. Khi Phan Bội Châu đi Nhật,
thì công việc của hội ở trong nước đều Nguvễn Thành đảm nhận. Việc cầu
viện Nhật không thành Phan Bội Châu chủ trương chuyển hướng xuất
dương du học, gọi là phong trào Đông du, nhưng do hội Duy tân chủ trương
thực hiện.
Trên thực tế từ giữa năm 1905 đến năm 1908, Nguvễn Thành là yếu
nhân của Duy tân hội cũng là sáng lập viên hội Duy tân, vừa là người phụ
trách phong trào Đông du ở miền Nam Trung Kỳ.
Vào giai đoạn 1907 ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi có sự phân
kỳ tư tưởng trong nội bộ hội Duy tân giữa hai xu hướng là bạo động cách
mạng và cải cách ôn hoà, đã gây ra mối bất hoà trong hội. Tiểu La Nguyễn
Thành là người đứng ra điều tiết hoà hợp hai xu hướng này một cách kết
quả.
Đầu năm 1908 phái cải cách ôn hoà trong hội Duy tân ở miền Nam
Trung Kỳ đã phát động phong trào xin xâu, chống thuế mãnh liệt tại tỉnh
Quảng Nam và đã lan ra khắp các tỉnh miền Trung. Song thực dân Pháp đã
đàn áp đẫm máu các cuộc biểu tình này. Rất nhiều sĩ phu yêu nước bị bắt,
Nguyễn Thành cũng nằm trong số đó. Ông bị kết án khổ sai chung thân đày
ra Côn Đảo. Trong tù ông bị bênh, đến khi Nguyễn Thành biết mình không
qua khỏi, ông đã đọc cho Huỳnh Thúc Kháng ghi lại di chúc của mình gửi
cho anh em đồng chí, trong đó có câu: “Thời cuộc xoay vần, cơ hội tốt sẽ
đến, guồng máy Đông Á sau này còn nhiều cuộc biến đổi. Anh em hãy gắng
lên”. Ông cũng để lại bài thơ TUYỆT MỆNH.
Một việc chưa thành tóc nhuộm màu,
Non sông ngoảnh lại thẹn mày râu.
Vá trời thiếu sức bàn nghe dễ,
Cứu thế không tài, tránh ở đâu?
Cuộc biến ngại gì mây đổi sắc,
Tình người e nỗi sóng thêm sâu.
Mở toang hai mắt xem trời đất,
Ngắm thử mười năm vẫn thế ru?
Ông mất tại Côn Đảo vào năm 1911.
HỒ HỌC
Hồ Học người làng Vân Dương, tổng An Hoà, huyện Hoà Vang, nay
thuộc thành phố Đà Nẵng. Ông chiêu mộ được 1000 quân, trang bị,vũ khí
đánh Pháp. Nghĩa quân tự trang bị vũ khí, súng bắn nhanh, súng khai hậu là
súng trang bị cho quân triều đình có rất ít, chủ yếu là vũ khí thô sơ. Nhân
dân huyện Hoà Vang và những nơi ông đóng quân tự nguyện đóng góp thóc
gạo. trâu lợn và tiền bạc làm quân lương. Các sĩ phu tham gia vào đội quân
của Hổ Học đã làm bài thơ tố cáo bọn xâm lược Pháp cướp nước, và triều
đình nhà Nguyễn bán nước.
Hồ Học đã đưa quân đội của mình tham gia Nghĩa hội do Trần Văn
Dư, Nguyễn Hàm (Nguyễn Thành) đem quân đánh thành Quảng Nam. Bọn
quan tỉnh thân Pháp từ Tuần phủ, Bố chính, Án sát, sợ hãi bỏ thành chạy.
Nghĩa quân của Nghĩa hội làm chủ tỉnh thành, lấy súng đạn, vũ khí, quân
trang lương thực cho nghĩa quân và cấp phát cho dân. Đội quân của Hồ Học
mở cửa nhà tù giải thoát cho những người yêu nước bị chúng bắt giam.
Phần lớn tù nhân xin gia nhập nghĩa quân. Để cứu nguy cho thành Quảng
Nam, quân Pháp và quân triều đình Đồng Khánh tấn công tỉnh thành La
Qua. Nghĩa quân phải rút khỏi thành Quảng Nam. Trong một trận đánh
không cân sức, Trần Văn Dư bị giặc Pháp bắt rồi anh dũng hy sinh. Nghĩa
Hội Quảng Nam cử Nguyễn Duy Hiệu lên giữ vị trí đứng đầu Nghĩa hội và
chỉ huy nghĩa quàn. Hồ Học là người chỉ huy dũng cảm, có tài cầm quân,
đánh thắng quân Pháp nhiều trận. Nguvễn Duy Hiệu giao cho ông chỉ huy
nghĩa quân, quản lý vùng đất đai rộng lớn từ đèo Hải Vân đến An Ngãi
Đông. Lợi dụng địa hình đồi núi hiểm trở ông đã xây nhiều đồn lũy thành
một thế trận liên hoàn, hỗ trợ lãn nhau trong phòng thủ và tấn công. Ông chỉ
huy đánh quân Pháp nhiều trận lớn, có trận chiến thắng vans dội như trận
dánh quân Pháp ở đèo Hải Vân. Trong trận Hố Chiếu, quân Pháp đông gấp
bốn lần nghĩa quân, lại có quân tiếp viện, nên nghĩa quân chỉ cầm cự được
một ngày thì đồn luỹ bị đại bác của chúng san phẳng. Hồ Học cùng nhiều
tướng lĩnh của ông như Tán Bùi, ông Đốc Sành, ông Lãnh Địa, Cai Á. Cai
Cải cũng bị chúng bắt. Chúng giải ông về Ty Niết (tức Ty án sát của Nam
triều) Hội An tra hỏi. Chính tên đại tá Pháp và tên án sát Quảng Nam hỏi
cung. Chúng mơn trớn dụ dỗ ông khai báo nơi ở của thủ lĩnh Nguvễn Duy
Hiệu, Phan Bá Phiến và các bí mật của Nghĩa hội, nghĩa quân sẽ được tha.
Hồ Học đã quăng cả chiếc ghế vào tên đại tá Pháp. Chiếc ghế vừa quăng đi
bọn lính bảo vệ đã bắn chết ông. Giặc Pháp còn giết các ông Tán Bùi, Đốc
Lãnh, Lãnh Trinh, Cai Á, Cai Cải. Chúng chặt đầu các ông bêu trên bờ sông
Cẩm Lệ để uy hiếp nhân dân. Nhân dân an táng ông ở Hố Chiếu trong đó có
nhiều ngôi mộ giả. Mãi đến năm 1957 cháu chắt ông mới dựng bia bên cạnh
mộ.
LÊ VĨNH HUY
Lê Vĩnh Huy tên thật là Lê Ngọc Cung, tự Vĩnh Huy, tên tục là Bang
Tuyên hay Tán Hai. Quê quán làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang Thượng,
huyện Hà Đông, nay là xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
Khi phong trào nghĩa hội Cần vương nổ ra, Lê Vĩnh Huy hăng hái
tham gia. Ông được cử giữ chức Bang tá, sau thăng Tán lý Quân vụ thuộc
Nghĩa hội Quảng Nam.
Năm 1886 sau khi Nguyễn Duy Hiệu chuyển ban Lãnh đạo Nghĩa hội
đến Nà Lầu, nay thuộc xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước, ông Lê Vĩnh Huy
trực tiếp chỉ huy một cánh quân chủ lực bảo vệ căn cứ và đại bản doanh.
Quân Pháp và quân triều đình tiến đánh nhiều trận, Lê Vĩnh Huy đã mưu
trí, dũng cảm chỉ huy nghĩa binh phản kích, lập nên chiến thắng Nà Lầu,
Dốc Miếu, Suối Đá.
Tháng 2 năm 1886, ông cùng tướng Hồ Học chỉ huy một cánh quân
lớn, hợp đồng với cánh quân của Phan Bá Phiến tiến đánh tỉnh thành Quảng
Nam đóng tại xã Vĩnh Điện (nay thuộc huyện Điện Bàn). Sau quân Pháp và
quân triều đình phản công nghĩa quân núng thế, phải rút về căn cứ Quế Sơn,
Tiên Phước, Trà My.
Cuối tháng 7 năm 1887, đại bản doanh nghĩa quân liên tục bị quân
Pháp và quân triều đình đánh phá. Phan Bá Phiến, Nguyễn Duy Hiệu lần
lượt hi sinh, phong trào nghĩa hội tan rã.
Một số thủ lĩnh nghĩa quân bị bắt, bị giết, bị đày ải trong các nhà tù.
Ông và một số khác về quê nhà sống mai danh ẩn tích. Để tránh sự nhòm
ngó của giặc Pháp và tay sai, ông ra làm Chánh tổng Tiên Giang, ngấm
ngầm tán trợ cho các phong trào yêu nước.
Năm 1904, ông bí mật liên lạc với Tiểu La Nguyễn Thành gia nhập
Duy Tân hội. Ông là một trong số người đầu tiên gia nhập tổ chức này. Ông
cùng Nguyễn Thành gây dựng phong trào Duy tân ở Quảng Nam. Sau
chuyến đi của Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ sang Nhật thì chủ trương cầu
viện Nhật Bản để đánh Pháp bị bãi bỏ, thay vào đó là vận động thanh, thiếu
niên sang Trung Hoa, Nhật Bản du học đào tạo nhân tài để về xây dựng đất
nước.
Chủ trương này sau được gọi là phong trào Đông du. Theo sự phân
công của tổ chức, Lê Vĩnh Huy phụ trách việc vận động đưa thanh niên
sang du học tại Nhật Bản. Đây là một công việc rất khó khăn vì vừa vận
động thanh thiếu niên du học, vừa lo công tác tài chính.
Trước khó khăn đó, Lê Vĩnh Huy đã cho em trai mình là Lê Quý Liên
và hai con trai là Lê Triêm và Lê Duyên xuất dương ngay từ đợt đầu về tài
chính, ông đã cống hiến một nửa tài sản (tiền bán quế, bán hồ tiêu, bán chè)
của gia đình ông cho phong trào. Khi nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương
thông đồng với chính phả Nhật trục xuất Phan Bội Châu và lưu học sinh
Việt Nam khỏi Nhật, thì Lê Quý Liên cùng Lê Triêm, Lê Duyên về Trung
Quốc, Xiêm La một thời gian rồi về nước tham gia cuộc khởi nghĩa ở kinh
thành Huế năm 1916 do Thái Phiên, Trần Cao Vân chủ trương có vua Duy
Tân tham gia. Chính Lê Triêm, Trần Hoành chỉ huy một cánh quân đánh
chiếm đồn Trà Mv rồi tiến xuống thị trấn Tam Kỳ vàv bắt tri phủ Tam Kỳ
Tạ Thúc Xuyên - một kẻ thân Pháp.
Cuộc khởi nghĩa năm 1916 thất bại, nhiều người trong gia đình Lê
Vĩnh Huy bị bắt. Lê Triêm bị đầy đi Lao Bảo, bị thảm sát trong vụ tù chính
trị do Hổ Bá Kiện và Lưu Thanh cướp ngục năm 1918. Lê Duyên bị đầy đi
Côn Đảo, cháu ông là Lê Liễu cũng hi sinh năm 1916. Riêng Lê Vĩnh Huy
bị bắt giam trong nhà lao Hội An khi cuộc khởi nghĩa 1916 bị đàn áp, ông
hi sinh tại nhà lao ngay năm đó. Gia đình cha ông là Lê Vĩnh Khanh ở Tiên
Phúc cũng có nhiều người bị bắt giam, bị tịch biên gia sản. Hiện nay ở
thành phố Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh có đường phố mang tên Lê
Vĩnh Huy.
LÊ TRUNG ĐÌNH
Lê Trung Đình sinh năm 1863 là con thứ sáu tiến sĩ Lê Trung Lượng,
người làng Nhơn Phú, huyện Sơn Tịnh, phủ Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Lê
Trung Đình có tướng lạ, hai lòng bàn chân cong lại không hề dính đất. Ông
thông minh, lỗi lạc về văn chương, thơ phú và tính tình rất khí khái trong
đối nhân xử thế. Năm Lê Trung Đình 15 tuổi đã thuộc làu kinh sử, giỏi đối
đáp. Có lần Lê Trung Đình cùng cử nhân Trần Bá Võ, thủ khoa Điện ra Huế
thi, ba người ngồi sát nhau. Các sĩ tử Nghệ An biết tiếng Lê Trung Đình
liền cho hai cô gái người Nghệ An ra vờ thăm hỏi rồi ra vế đối:
“Tam nhân đồng toạ, thượng hạ lục đầu”
Cử Đình liền đáp:
“Nhị nữ song hành tung hoành tứ khẩu”.
Thơ Lê Trung Đình phần lớn mang tính trào lộng, đả kích. Song ông
cũng có những bài thơ nồng nàn, đằm thắm yêu thương, như bài thơ: Giã vợ
đi thi Hội:
Tên cỏ, cung dân vẫn chắc phần
Cực vi biển ái lại nguồn ân
Khúc đàn cầm sắt vui từng nhịp
Chén rượu quan hà nặng mấy cân
Trướng liễu dù vui xuân chín chục
Võ môn ai lướt sóng ba từng
Dặn lòng vàng đá, em đừng ngại
Chán biết hoàng châu mấy sắc xuân.
Song phần lớn thơ của ông mang khí tiết hiên ngang. Ông mượn cảnh
thiên nhiên tái hiện cảnh sống lầm than cùng cực của nhân dân trước ách cai
trị của giặc Pháp. Bài thơ cũng ý thức được trách nhiệm của “Trai thời
loạn” và bày tỏ tâm sự của mình trong bài thơ Lụt:
Mưa từng chặp, gió từng hồi
Đoái lại giang san nước khoá rồi
Lũ kiến bất tài tha trứng chạy
Bầy rêu vô dụng kết bè trôi
Líu lo rừng vắng nghe chim hót
Lủm khủm giường cao thấy chó ngồi
Nỡ để dân đen chìm đắm bấy
Nào ông Hạ Võ ở đâu ơi!
Năm 1879 Lê Trung Đình dự khoa thi Kỷ Mão ở Bình Định, vì sơ ý
để chữ “Nhất” (-) xuất vận nên bị đánh trượt. Năm thi Hương Nhâm Ngọ
(1882), ông đi thi, cầm chắc đỗ Thủ khoa, nhưng chỉ được đỗ hạng nhì.
Sau hiệp ước Patơnốt(1884) Tôn Thất Thuyết đã soạn thảo kế hoạch
đánh Pháp lâu dài. Ông biết Lê Trung Đình là người kiên quyết chống Pháp,
nên ngay sau khi soạn thảo xong bản kế hoạch đánh Pháp lâu dài, ông đã
mật giao cho Lê Trung Đình tập hợp những người có nghĩa khí ở tỉnh
Quảng Ngãi lặng lẽ chuẩn bị lực lượng Hương binh để sẵn sàng đánh giặc
Pháp. Lê Trung Đình trở về Quảng Ngãi cùng Nguyễn Tự Tân và các sĩ phu
trong tỉnh thành lập Nghĩa hội Quảng Ngãi, tổ chức các đoàn kiệt và Hương
binh.
Giờ Tý ngày 1 tháng 6 năm Ất Dậu (1885) Lê Trung Đình họp nghĩa
quân ở chiến khu Truyền Tung (Bình Sơn) rồi kéo quân về chiếm tỉnh lỵ
Quảng Ngãi. Lê Trung Đình được cử làm Chánh quản Hương binh, Tú tài
Nguyễn Tự Tân và Vũ Hội được cử làm Phó quản Hương binh, Nguyễn
Văn Hoành được cử làm Thương biện.
Đêm mùng 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1885 Kinh thành Huế thất thủ,
Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật hộ giá vua Hàm Nghi ra sơn phòng
Quảng Trị lãnh đạo nhân dân đánh Pháp. Nhận được chiếu của vua Hàm
Nghi, Lê Trung Đình đã liên lạc với Thành thủ uý Nguyễn Côn và Hiệp
quản Trần Tư ở thành Quảng Ngãi tập hợp lực lượng chống Pháp. Nghĩa
quân làm lễ tế cờ tại bãi cát Văn Thánh vào ngày 12 tháng 7 năm Ât Dậu
rồi chia quân làm ba đạo vượt sông Trà Khúc tiến về tỉnh thành Quảng
Ngãi. Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt, Lê Trung Đình bị bắt. Giặc Pháp
tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc ông ra làm quan cho triều đình nhưng ông
không khuất phục, chửi mắng chúng, Nguyễn Thân, Nguyễn Hội xử ông tội
chết chém.
Lê Trung Đình bị tên Việt gian Nguyễn Thân xử tử ngày 18/7/1885,
khi chưa tới 22 tuổi. Hiện nay mộ Lê Trung Đình vẫn toạ lạc ở ấp Phú
Nhơn cách tỉnh lỵ 5 cây số về phía Đông Bắc. Con cháu cúng giỗ ông vào
ngày 11 tháng 6 âm lịch.
NGUYỄN DUY CUNG
Nguyễn Duy Cung quê ở ấp Thanh Liêm, xã Tủ Bình, quận Tư
Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Ông thi đỗ cử nhân, dạy học một thời gian. Năm
1882 ông được cử làm Thượng biện sơn phòng, giữ chức vụ đó trong 3
năm. Khoảng tháng 3 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, người đứng đầu phe chủ
chiến biết rõ tư chất của ông nên cử ông vào giữ chức án sát tỉnh Bình Định
để tăng cường lực lượng, nên nhân dân gọi ông là án Cung.
Vua Hàm Nghi xuất bôn, kêu gọi nhân dân hưởng ứng chiếu Cần
vương. Hồng lô Tự thiếu khanh Đoàn Doãn Địch một quan lại trí sĩ, tập hợp
600 nghĩa quân khởi nghĩa hưởng ứng chiếu Cần vương, án sát Nguyễn
Duy Cung trở thành trợ thủ số một cho Đoàn Doãn Địch. Từ thành Bình
Định, nghĩa quân mở nhiều trận đánh từ Trường Úc đến Phong Miêu, có kẻ
phản bội, bắt Nguyễn Duy Cung bỏ ngục rồi mở cửa thành đầu hàng quân
Pháp. Nguyễn Duy Cung vượt ngục ra vùng cửa sông Tiền phát lời kêu gọi
nhân dân đánh Pháp. Người ứng nghĩa rất đông, Nguyễn Duy Cung lập ra
phòng tuyến trước sông Cửa Tiền từ Cầu Gạch đến Chóp Vung để chống
Pháp ở mặt Đông. Án Cung bí mật liên lạc với Mai Xuân Thưởng, người
thôn Phú Lạc, huyện Bình Khê lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Phú Phong.
Tháng 8/1885 Nguyễn Duy Cung được tin Lê Trung Đình. Nguyễn
Tự Tân đã chiếm thành Quảna Ngãi. Các ông làm chủ được 5 ngày thì quân
Pháp, Nguyễn Thân đem quân đến đánh,
Nguyễn Duy Cung đem quân vào cứu. Khi ông dẫn quân tới nơi thì
Nguyễn Tự Tân đã hy sinh, Lê Trung Đình bị Nguyễn Thân bắt, thành lọt
vào tay giặc, Nguyễn Duy Cung đem quân trở về Bình Định tiếp tục xây
dựng phòng tuyến từ Cầu Gạch đến Chóp Vung. Người đến tham gia nghĩa
quán ngày càng đông, trong đó có cả Lê Bá Thân, Tổng đốc Bình Định
cũng bí mật tham gia. Tháng 8 năm 1885, quân Pháp từ biển đổ bộ vào
chiếm Quy Nhơn. Nguyễn Duy Cung đưa toàn bộ quân sĩ cùng văn thân
nghĩa sĩ trong tỉnh ra chặn giặc. Thế giặc mạnh, ông bị thua, phải lui quân
về An Nhơn, gia nhập cuộc khởi nghĩa do Mai Xuân Thưởng lãnh đạo. Giặc
Pháp, Nguyễn Thân đem quân đến đánh nhiều lần không được. Chúng sử
dụng chiến tranh gián điệp, mua chuộc, dụ dỗ những tên ham sống, sợ chết
trong nội bộ nghĩa quân làm phản. Nguyễn Cung không ngờ kẻ phản bội
mình lại là Tổng đốc Lê Bá Thân. Hắn khuyên ông trở lại Bình Định mở
một trận tấn công quân Pháp, đánh chiếm vùng rừng núi phía Tây của tỉnh
xây dựng căn cứ để từ đó đánh thọc xuống đồng bằng, tỉnh thành và vùng
ven biển. Nguyễn Duy Cung tin lời hắn, hẹn địa điểm, ngày giờ hội quân.
Tên Lê Bá Thân lập tức mật báo cho giặc Pháp, Nguyễn Thân đặt quân mai
phục bắt ông rồi mở cửa thành đầu hàng giặc Pháp. Giặc Pháp, Nguyễn
Thân, Lê Bá Thân dùng chức tước, tiền bạc dụ dỗ ông ra làm quan cho
chúng, bị ông cự tuyệt và chửi mắng bọn Việt gian đầu hàng giặc. Bọn
chúng dùng cực hình thời trung cổ tra tấn ông, hòng ông khuất phục, khai
báo cơ sở và đồng chí của mình. Ông vẫn một lòng kiên trinh sắt đá phục
vụ lý tưởng cứu nước của mình. Chúng tống giam ông và ngục Bình Định.
Trong ngục, Nguyễn Duy Cung xé vạt áo cắn ngón tay lấy máu viết tâm thư
gửi cho Mai Xuân Thưởng và Nghĩa binh tại mật khu Linh Đỗng (Bình
Khê). Bức thư bằng máu này có nhiều tên gọi khác nhau như Huyết lệ tâm
thư. Hịch kêu gọi chống Pháp, Hịch Bình Tây, và còn có tên gọi là Bình
Thành Cáo thị vì nó được viết từ thành Bình Định.
Chúng tôi dẫn toàn văn văn kiện trên:
Thiết vị:
Quốc gia đa sự,ninh từ huống tụy dĩ tuyên lao
Thần tử phỉ cung, cảm vị tồn vong nhi cải tiết
Cái năng tận thần đạo,
Phương khả uỷ quân tâm.
Nhan Châu khanh tư chuẩn Đường nguy, đoạn thiệt hà phương ư Hy
Liệt;
Lý Thị Chế kỳ thanh tống nạn, phanh can hà uỷ ư Bá Nhan.
Viễn giám tiền nhăn Sự đồng kim nhật Ty dĩ
Thượng Châu tiện phẩm,
Ngãi tỉnh hàn nho.
Lạm dự khoa danh,
Hạnh bồi văn tịch
Sơn phòng tham biện, tích tổ hiệu ư tứ niên;
Lân tỉnh đề hình, hoá vị chu ư tam nguyệt.
Đồng niệm đế kinh luân một, oán kết thống tâm,
Sấu tư hoàng giá bá thiên, cừu thảm khiết xỉ.
Kế dĩ cô thành khởi sự, hội chúng mưu nhi thu thập nhân tâm.
Tạc văn lân tỉnh hưng binh, tán dinh soái nhi trù duy quốc kế.
Phương hỷ binh dân văn tập,
Tương kỳ tướng sĩ lôi oanh.
Tưởng tha soái phủ khả minh công. Cần Hải chi lang yên tiêu tức;
Nại thử tướng nhân vô hiệu ỉực,
Bình thành chi nhung mã tung hoành.
Ty, tự liệu tài sơ, Nan kham kế hoạch.
Dục hướng An Nhân thoái thủ, khủng vi mệnh dĩ cầu sinh;
Phục hồi ban tỉnh ngự phòng, quyết vong thân nhi tuẫn quốc.
Bất ý gian thần mại quốc,
Nhẫn tương thổ địa dữ tha.
Bài cỉúmq nghị dĩ khoa trương, chiến cục phiên thành hoà cục;
Khai thành môn nhi nghinh tiếp, nam nhân hoán tác Tây nhân.
Kỷ nhật đề lao cấm cố, hiếp ty đẳng cữ thành hoà hảo chi mưu;
Sổ ngôn hoạ kết binh liên, gia ty dẳnq mật klìải văn thân chi tội.
Ty tự niệm.
Ninh vi trung nghĩa quỷ;
Bất vi tàm phụ nhân.
Thệ cửu tử dĩ hà từ, đỉnh hoạch sình tiền an túc uý;
Túng nhất sinh nhi hữu khiểm, đao phong tử hậu hiũi thuỳ tri.
Thể bất tịnh sinh,
Phận cam vạn tử.
Bá thử trung can nghĩa phủ, đối cố chủ dĩ vô tàm;
Cảm vân tráng tiết hoàn danh, dữ cổ nhân như tịnh liệt.
Thử tại tâm trung tự hứa;
Chuyên khảo chư liệt chứng tri.
Cảm tương tu ngã qua mâu, địch khái chi hùng tâm vị tỏa;
Kỳ dĩ dữ đồng bào trạch, Cần vương chi tráng chi vô vong.
Thiên ý nhược hưrĩg Lưu, Quang Vũ chi đông đô phục chấn;
Nhân tâm như đái Tống, Cao tông chi nam độ trùng hưng.
Vương nhất khuông tương, hạnh bằng chúng trí.
Kinh thành khôi phục, ký dữ chư công Huyết lệ thư phong,
Chúc duy cáo thị.
Toàn văn bản dịch của Nguvễn Bích Ngô:
Thiết nghĩ:
Quốc gia khi nhiều việc phải nên tận tưỵ chịu gian lao.
Tôi con quyết một lòng, há vi mất còn thay khí tiết.
Vì có hết đạo kẻ dưới,
Mới khỏi phụ lòng bề trên.
Nhan Châu Khanh lo cứu nguy nhà Đường, bị cắt lưỡi nhưng kinh gì
Hy Liệt;
Lý Thị Chế mong yên nạn nhà Tống, bị moi gan nhưng nào sợ Bá Nhan.
Xa trông người trước,
Việc giống ngày nay.
Cung này, thân phận hèn ở Tượng Châu.
Nhà nho nghèo ở Quảng Ngãi.
Lạm dự đỗ đạt, may bổ quan văn.
Sung chức Sơn phòng, tham biện mới được bốn năm.
Đổi sang tỉnh cạnh đề hình chưa đầy ba tháng.
Xót nghĩ kinh thành thất thủ, oán kết ruột đau, sầu lo xa giá chạy dài,
hằn sâu răng nghiến.
Liệu giữ cô thành tính việc, hội chúng mưu mà thu thập lòng người;
Chợt nghe tỉnh cạnh dấy binh giúp đinh soái để toan lo việc nước.
Vua mừng quân dân mây hợp,
Hầu mong tướng sĩ sấm vang.
Tưởnq phá soái phủ để ghi công, bể Cần Hải khói lang bay báo.
Ngờ đâu tướng thần không gắng sức, thành tỉnh Bình ngựa giặc dọc
ngang.
Cung này, tự liệu tài hèn;
Không bày kế hoạch.
Muốn lui đến An Nhân tìm thế thủ, e rằng trái mệnh cầu sinh.
Nên lại về bản tỉnh để đề phòng quyết kế quên mình mà báo quốc.
Không ngờ gian thần bán nước,
Nỡ đem lãnh thổ cho Tây.
Bác chúng nghị để làm càn, chiến cục xoay thành họa cục.
Mở cửa thành ra đón tiếp, nqười Nam đổi dạng người Tây.
Mấy ngày cấm cố đề lao, hiếp bọn Cung tác thành mưu hoà hảo.
Câu chuyện động binh gây vạ, buộc bọn Cung vào tội họp văn thân.
Cung này tự nghĩ:
Thà làm ma có hồn trung vía nghĩa
Không làm người đeo mặt ngựa đầu trâu
Chín phần thề chết chẳng từ, sống dẫu nấu vạc xanh không núng chí.
Một đời sống thêm còn mang tội, chết còn nhiều hình phạt có ai hay.
Thế chẳng đều sinh
Phận cam vạn tử.
Bày hết gan trung ruột nghĩa, đối chủ cũ cũ không thẹn lương tâm.
Dám cầu cao tiết thơm danh, cùng người xưa sánh hàng liệt sĩ.
Chính bởi trong lòng tự quyết.
Dám mong các bạn chứng tri,
Xin trong tay sắp sẵn qua mâu, lòng địch khái còn hăng chưa nhụt.
Xin cùng nhau trọn lòng giáp trụ, chí Cần vương còn mạnh không quên,
Lòng trời còn tựu Lưu, Quang Vũ đóng phía Đông lại thịnh;
Nhà nước được vững vàng, từ nay mong nhờ chúng trí.
Kinh thành lại khôi phục, sau đây cậy có các ông.
Lệ máu dán thư,
Mấy lời bá cáo.
Viết xong Huyết lệ tâm thư, ông tìm cách gửi ra ngoài rồi ông tự tử
trong ngục giữ tròn khí tiết. Ông hy sinh năm 1886.
MAI XUÂN THƯỞNG
Mai Xuân Thưởng sinh năm 1860 tại thôn Phú Lạc, xã Bình Thành,
huyện Tuy Viễn, nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.
Sau khi thi đậu cử nhân, tháng 7/1885 ông vào Huế dự thi Hội. Dời
trường thi, Mai Xuân Thưởng về làng chiêu mộ nghĩa quân hưởng ứng
chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi chống Pháp. Với lòng yêu nước căm
thù giặc Pháp và ngưỡng mộ nhà vua trẻ tuổi đã dũng cảm rời ngai vàng
cùng cuộc sống đế vương vào rừng sâu, núi thẳm lãnh đạo nhân dân kháng
chiến, nên gia nhập rất đông. Nghĩa quân suy tôn Mai Xuân Thưởng là
Nguyên soái, Bùi Điền quê ở xã Mỹ Hoà là Thống trấn, Nguyễn Đức
Nhuận là Hiệp trấn, cùng một số phó tướng, thống binh trở xuống. Lực
lượng nghĩa quân Bình Định đông hàng ngàn người.
Ngay sau khi vừa thành lập, tháng 7/1885 nghĩa quân đã đánh chiếm
tỉnh thành Bình Định. Nghĩa quân còn đánh phá các làng theo đạo Thiên
chúa được thực dân Pháp vũ trang đi cướp phá các làng bên lương, do thám
hoạt động của các tổ chức yêu nước, chỉ điểm cho quân Pháp đến đánh phá.
Thủ lĩnh nghĩa quân Mai Xuân Thưởng còn phối hợp với nghĩa quân
tỉnh Phú Yên do cử nhân Nguyễn Trọng Trì chỉ huy tấn công tỉnh lỵ Phú
Yên vào tháng 9/1885, bắt giam Bố chính Phạm Như Xương theo Pháp.
Mai Xuân Thưởng chủ trương mở rộng cuộc khởi nghĩa vào Nam Kỳ, đã
phong cho Nguyễn Công Chánh chức Tổng đốc cử vào Nam vận động các
sĩ phu và nhân dân khởi nghĩa.
Các trận đánh ác liệt đẫm máu diễn ra giữa quân Nguyễn Thân, Trần
Bá Lộc với quân Mai Xuân Thưởng và các tướng trong suốt tháng 7/1887.
Nghĩa quân chiến đấu kiên cường, dũng cảm tiêu diệt nhiều sinh lực địch.
Nghĩa quân tuy đông, dũng cảm, hăng hái song chưa được luyện tập thành
thục các động tác chiến đấu, vũ khí kém xa địch. Nghĩa quân đánh nhau cả
tháng nhưng không có quân tiếp viện, một số căn cứ thiếu lương ăn, nên
không cầm cự được lâu.Trong các cuộc chiến, một số thủ lĩnh bị bắt bị hy
sinh, nghĩa quân số chết, số tan tác, có một số nản chí bỏ đi. Song các thủ
lĩnh Mai Xuân Thưởng, Bùi Điền, Bùi Hiền, Vương Toàn, Nguyễn Trọng
Trì, Tăng Doãn Văn (Tăng Bạt Hổ) vãn kiên trì chiến đấu, mở nhiều trận
tập kích vào quân triều đình tay sai đắc lực của bọn thực dân Pháp.
Đêm 30/4/1887, Mai Xuân Thưởng quyết định cùng các tướng chỉ
huy đội quân BaNa đột kích vào doanh trại của Trần Bá Lộc. Nghĩa quân
phá trại giam giải thoát người bị bắt, trong đó có bà Hoàng Thị Nguyệt, mẹ
của Mai Xuân Thưởng. Song nghĩa quân không tiêu diệt được hoàn toàn
quân địch. Trần Bá Lộc chạy thoát. Trước tình thế bị cô lập, Mai Xuân
Thưởng cử ông Mai Xuân Phẩm mang thư và quà sang Xiêm cầu viện. Lực
lượng nghĩa quân còn lại chừng 50 người do Mai Xuân Thưởng chỉ huy
bănơ rừng, lội suối vào Phú Yên chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa mới. Nhưng
ngày 4/5/1887, đội quân mệt mỏi vừa tới chân đèo Phú Quý thì bị Trần Bá
Lộc phục kích bắt hết. Ông Phẩm trên đường sang Xiêm cầu viện cũng bị
quân của Đồng Khánh bắt đưa về Huế xử giảo.
Mai Xuân Thưởng bị giải về thành Bình Định, triều đình Huế nghị án:
“Dương vị Hàm Nghi khởi nghĩa, ân vị Huệ Nhạc phục thù” và giao cho
Tổng đốc Bình Định thực hiện án trảm. Mai Xuân Thưởng cùng với Bùi
Điền, Nuuvễn Đức Nhuận và 18 đồng chí khác bị giải từ nhà lao Bình Định
ra pháp trường ở Gò Chàm, cách đó không xa về hướng Bắc để hành quvết.
Riêng Mai Xuân Thưởng bị Đồng Khánh xử “ tội lăng trì xử tử”.
Mai Xuân Thưởng và các đồng chí của ông bị giặc Pháp và triều đình
Đồng Khánh xử chém ở Gò Chàm, tỉnh Bình Định vào ngày 15 tháng 4
năm Đinh Hợi (khoảng 15/5/1887), hài cốt đưa về chôn cất ở làng cũ Phú
Lạc, quận Bình Khê phía Bắc ngạn sông Côn.
NGUYỄN THẾ TRIẾT
Nguyễn Thế Triết tự là Tứ Quý, hiệu là cổ Khê, thường gọi là Tám
Tương. Ông là người làng Phụng Sơn, phủ Tuy Hoà, tỉnh Bình Định. Sau
khi thi đỗ tú tài ông được bổ làm hậu bổ.
Hưởng ứng chiếu Cần vương, Mai Xuân Thưởng tổ chức lực lượng
nghĩa quân khởi nghĩa. Biết tiếng của Nguyễn Thế Triết, Mai Xuân Thưởng
mời ông về và phong cho ông chức Tán tương quân vụ chỉ huy đạo quân
Bình Nhơn - An Khê. Khởi nghĩa nổ ra ở hầu khắp các phủ huyện trong
tỉnh Bình Định, phát triển sang phía nam tỉnh Quảng Ngãi, bắc tỉnh Phú
Yên. Giặc Pháp hoảng sợ, đích thân tướng Đờ Cuốc xi (De Courcy) tướng
Pờ Rung đom nơ và Khâm sứ Trung kỳ De Champo chỉ huy quân Pháp,
Nguyễn Thân, Trần Bá Lộc chỉ huy quân Nam triều tiến đánh nghĩa quân.
Nguyễn Thế Triết tham gia nhiều trận đánh lớn.
Tháng 4 năm 1887 quân Pháp điều động lực lượng lớn, Khâm sứ
Trung kỳ và vua Đồng Khánh sai các tên Việt gian Nguyễn Thân, Trần Bá
Lộc chỉ huy một lực lượng lớn quân lính do sĩ quan Pháp huấn luyện, trang
bị tới Bình Định mở cuộc tấn công quy mô lớn vào tất cả các căn cứ của
nghĩa quân. Chúng bịt chặt các đường thông từ Quảng Ngãi vào từ Phú Yên
ra, nên nghĩa quân không ứng cứu cho nhau được. Các trận đánh diễn ra
đẫm máu, nghĩa quân tiêu diệt được nhiều địch, song cũng bị tổn thất nặng
nề.
Ngày 4/5/1887 Mai Xuân Thưởng chỉ còn lại khoảng 50 nơựời chạy
về Phú Yên trong đó có ông Bùi Điền, Nguyễn Đức Nhuận thì bị Trần Bá
Lộc đặt phục binh bắt. Vua bù nhìn thân pháp Đồng Khánh ra lệnh xử chém
tất cả các tướng lĩnh.
Cuộc khởi nghĩa Bình Định tan rã, một số tướng như Nguyễn Trọng
Trì, Đặng Thành Tích trốn tránh một thời gian, rồi ra trình diện được Pháp
tha. Riêng Tán tương quân vụ Nguyễn Thế Triết cùng phó tướng Đặng
Xuân Thiều vẫn duy trì được đạo quân Bình Nhơn, An Khê, rút lên Tây
Nguyên, xây dựng căn cứ ở làng Con Rang.
Từ căn cứ Con Rang xa xôi hiểm trở ông vẫn hướng về quê hương
Phụng Sơn với nỗi nhớ quê, nhớ người mẹ già, nhớ vợ con bội phần. Song
sơn lam chướng khí và bệnh sốt rét rừng đã cướp đi sinh mạng của ông tú
tài, Tán tương quân vụ Nghĩa quân Bình Định. Phó tướng Đặng
XuângThiều vuốt mắt cho ông rồi cùng nghĩa quân và đồng bào Thượng
Con Rang làm lễ an táng người chỉ huy tận trung với nước, tận hiếu với dân
của mình.
LÊ CÔNG CHÁNH
Lê Công Chánh tức Nguyễn Ngọc Ân, Lê Công Sơn, Võ Văn Thung,
Nguyễn Văn Hải sinh năm 1842. Ông quê ở tổng Phú Vĩnh, tỉnh Phú Yên.
Ông học trường võ tại Bình Định, đỗ cử nhân võ. Sau ông ra Hà Nội dự thi
võ trúng tiến sĩ, được phong chức Lãnh binh.
Năm 1885 Lê Công Chánh giữ chức Phó tổng binh thành Hà Nội. Khi
vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị hạ chiếu Cần vương thì
ông về Bình Định tham gia cuộc khởi nghĩa Mai Xuân Thưởng. Mai Xuân
Thưởng phong ông chức Tổng đốc, cử ông vào Nam Kỳ vận động nhân dân
chống Pháp.
Lê Công Chánh vào Nam cùng Nguyễn Xuân Phong, Nguyễn Bá
Trọng, Lê Bá Đạt lập căn cứ ở vùng Thất Sơn (Bảy Núi), An Giang phát
động nhân dân khởi nghĩa. Lê Công Chánh về Mỹ Tho với tên giả là Võ
Văn Thung thì bị bắt. Bọn Pháp bắt kết án ông 2 năm tù, đày ra Côn Đảo
rồi lại chuyển về đày ở nhà lao Phú Quốc. Đầu năm 1889 Lê Công Chánh
cùng bảy người vượt ngục Phú Quốc, bị bão dạt vào rạch Cả Hường, Cần
Vọt của Campuchia.
Tháng 3/1893 ông trở về núi Thất Sơn ở An Giang rồi xuống Mỹ Tho
theo đường biển trở ra Bình Thuận vào tháng 8/1893. Cuối tháng 9/1893,
Lê Công Chánh cùng Nguyễn Đăng Giai vào gặp Lê Văn Lễ khi đó đã 60
tuổi ngụ tại An Lộc, Bình Tri thuộc Gia Định, năm 1861 đã từng tham gia
khởi nghĩa Trương Định. Sau đó Lê Công Chánh lại gặp Trần Xuân Sanh,
tên chính là Đỗ Văn Thống, 57 tuổi, người làng Bình Qươn, tổng Hoà Hảo,
hạt Mỹ Tho, trú quán ở Tân Thuận Đông, năm 1875 đã tham gia khởi nghĩa
Nguyễn Hữu Huân giữ chức Thống quân. Khi Thủ khoa Huân bị bắt, ông
trốn ở làng Tân Thuận Đông. Các thủ lĩnh họp bàn, cử ra bộ chỉ huv cuộc
vân động gồm: Nguyễn Đăng Giai, Chưởng lãnh Lưỡng Kỳ; Nguvễn Văn
Lễ; Nam Kỳ tổng thống Trần Văn Sanh; Nam Kỳ hiệp thống Lê Công
Chánh; Nam Kỳ Hiệp biện quân; Phan Thanh Thuần giữ chức thương biện,
sau phong Hộ đốc, Nguyễn Văn Mỹ giữ chức Tham mưu.
Công việc vận động đang tiến hành thì đầu năm 1894 bị giặc Pháp
phát hiện và đàn áp. Hầu hết các yếu nhân trong tổ chức Lê Công Chánh
đều bị bắt.
Lê Công Chánh biết rằng bọn thực dân Pháp đã biết rõ lai lịch của
mình, khó thoát nên ông đã nhận hết trách nhiệm về mình. Cũng nhờ lời
tuyên bố khảng khái nhận hết trách nhiệm về mình, nên giặc Pháp không có
cớ khủng bố rộng rãi, số người tham gia vào kế hoạch nổi dậy, kể cả những
người ở trong ban lãnh đạo cũng chỉ bị chúng kết án đi đầy, chỉ một mình
ông bị chúng xử chém.
TRỊNH PHONG
Trịnh Phong người làng Phú Vinh, huyện Vĩnh Xương nay là xã Vĩnh
Thanh, huyện Vĩnh Xương tỉnh Khánh Hoà. Ông theo nghề binh từ khi còn
trẻ, lập được nhiều chiến công, được phong tới chức Để đốc, chỉ huy thành
Diên Khánh là tỉnh lỵ tỉnh Khánh Hoà, nên quân sĩ và nhân dân gọi ông là
Đề Phong.
Đề đốc Trịnh Phong vốn là người thuộc phe chủ chiến từ khi giặc
Pháp đánh chiếm thành Gia Định rồi cướp cả lục tỉnh Nam Kỳ, hai lần đánh
Bắc Kỳ, tấn công cửa Thuận An uy hiếp triều đình Huế thì trong lòng Trịnh
Phong rất căm thù giặc Pháp. Vì vậy chiếu Cần vương vừa ban ra, Trịnh
Phong cùng ba anh em Nguyễn Khánh, Nguyễn Dy, Nguyễn Lương chỉ huy
thành Diên Khánh hưởng ứng chiếu Cần vương chiếm thành Diên Khánh.
Ông cho người đến yết kiến vua Hàm Nghi và đại thần Tôn Thất
Thuyết còn tự mình đem quân đi đánh chiếm các phủ huyện trong tỉnh
Khánh Hoà. Khi quân Pháp và tên vua bán nước Đồng Khánh cho quân ra
Khánh Hoà đàn áp phong trào Cần vương, Trịnh Phong giao thành Diên
Khánh cho các ông Nguyễn Khánh, Nguyễn Dy giữ, còn mình đem quân ra
Hòn Khói ở Đông bắc quận Ninh Hoà để đón đánh quân Pháp ngay từ khi
chúng đặt chân tới Khánh Hoà. Công việc chưa xong thì quân Pháp và quân
của Đồng Khánh kéo ra tấn công. Cuộc chiến đấu giữa quân của Trịnh
Phong với quân Pháp diễn ra vô cùng quyết liệt. Song quân Pháp đông,
thiện chiến, trang bị vũ khí hiện đại,
có tàu chiến, đại bác yểm trợ, lại được quân của Đồng Khánh đưa
đường dẫn lối và khống chế các làng ĩriệt đường tiếp tế của nghĩa quân.
Quân của Trịnh Phong ít, trang bị kém xa quân Pháp nên chỉ cầm cự được
một ngày một đêm, rồi phải bỏ chiến luỹ, rút lên rừng phòng thủ. Quân
Pháp đuổi theo truy kích. Quân Pháp ngày càng thắt chặt vòng vây, chúng
cho quân triệt phá các làng chung quanh cắt đứt hoàn toàn nguồn tiếp tế của
dân cho nghĩa quân... Nghĩa quân đã thiếu đạn dược lại thiếu lương thực
nên ngày càng nguy ngập. Quân Pháp được tăng viện, ngày càng ngọn núi ở
Hòn Khói, Trịnh Phong chỉ huy anh em quân sĩ đánh thọc ra hướng Tây để
rút vào rừng rậm cách đó khoảng 5 dặm. Song quân Pháp vây vòng trong,
vòng ngoài, tấn công mãnh liệt, nghĩa quân bị thương vong nặng nề. Trịnh
Phong cũng bị thương ở cánh tay. Bọn giặc xô đến, quyết không để giặc bắt
sống, ông rút đoản đao định đâm vào cổ tự sát nhưng bị tên giặc xô tới
giằng mất. Bọn Pháp cho bọn quan lại Nam triều dụ dỗ ông đầu hàng sẽ
được phục nguyên chức. Ông không chịu chỉ luôn mồm nguyền rủa giặc
Pháp và bọn vua quan Đồng Khánh. Không khuất phục được ông chúng
đưa ông về thành Diên Khánh, đem ra cái gò ở bờ sông Cạn gần chỗ Cây
Dầu đôi để chém đầu. Người ta kể lại, trước giờ giặc hành hình, người nhà
dọn cỗ cho ông ăn. Ông ngồi ăn đàng hoàng, sau đó bảo người nhà dọn đi
rồi ông ung dung ra nơi hành hình. Tên đao phủ chém ông, dòng máu đỏ
của ông vọt lên cao như khí phách ông khi còn sống.
Từ đó nhân dân gọi gò bên bờ sông Cạn là “Gò chết chém”. Nhân dân
thương tiếc lập đền thờ ông ngay tại nơi đó.
ĐÀO CÔNG BỬU
Đào Công Bửu còn có tên là Đoàn Công Bửu, Đào Xuân Bửu, Cả
Bửu sinh năm 1825 tại Trà Vinh ngụ tại xã An Bồi, Bảo Hữu, Bến Tre. Năm
1867 ông đã tham gia cuộc khởi nghĩa ở Trà Vinh với chức vụ Tổng binh
dưới sự chỉ huy của Phó đốc binh Lê Đình Đường. Ông đã tham gia trận
đánh ở Long Điền ở tổng Bình Trị Thượng ngày 26/8/1867. Trận này nghĩa
quân thắng lớn nhưng chủ tướng Lê Đình Đường hy sinh, nghĩa quân tan rã,
ông chạy về Bến Tre, liên kết với những người yêu nước. Năm 1875 Đào
Công Bửu, cùng Nguyễn Xuân Phụng khởi nghĩa ở Trà Vinh. Đến năm
1885, 1886 hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Đào Công Bửu
tham gia các hoạt động chống Pháp ở Bến Tre, Mỹ Tho. Năm 1893 thực
dân Pháp đã ổn định được bộ máy cai trị của chúng từ cấp xứ, tỉnh, phủ,
huyện, tổng tới cấp xã, ấp đặt các đồn binh, đồn cảnh sát ở khắp mọi nơi để
khống chế đồng bào. Năm đó Đào Công Bửu đã 67 tuổi vẫn cùng với Lê
Công Từ phát động nhân dân khởi nghĩa chống Pháp trên một địa bàn rộng
lớn bao gồm các tỉnh Bến Tre, Mỹ Tho, Gò Công, Trà Vinh, Hà Tiên, An
Giang, Châu Đốc, Gia Định.
Để có danh nghĩa, Đào Công Bửu tự xưng là “Nam Kỳ tướng quân
Nguyên soái Đào Công Bửu”, Lê Công Từ là “Nam Kỳ phó tướng quân”.
Đào Công Bửu từng chỉ huy nghĩa quân từ năm 1867 nên ông tích luỹ được
nhiều kinh nghiệm vận động quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang và
đặc biệt là công tác giữ bí mật. Để tránh sự truy lùng của bọn cầm quyền
Pháp, ông chọn Rạch Giá cách xa các đô thị lớn để đặt sở chỉ huy, song
không cố định ở một nơi và có nhiều cơ sở dự bị như Rạch Giá, rạch Cái
Nhum, Nước Mặn, Chùa Nha Sạp ở làng Nhục Tụng, Rừng Cái Nạng, Gò
Đất. Vì vậy ông đã nhiều lần thoát được các cuộc vây bắt của giặc như
trường hợp đầu tháng 12/1893, ông đang trên đường từ Bến Tre đi Rạch Giá
thì bị quân Pháp phát hiện, ông lập tức chuyển sang Cù Lao Dài khoảng nửa
đêm ngày 5/12/1893 ông tới nhiều cơ sở rồi về Cà Mau.
Sự hoạt động linh hoạt của ông đã được tri huyện Sa Đéc báo cáo với
thực dân Pháp như sau: “Trong thời gian ở Rạch Giá, Đào Công Bửu đã
giả dạng là thày pháp cao tay, có khi lại đóng vai một viên quan đi tuyển
mộ nghĩa sĩ theo lệnh của ông vua xuất bôn” (ý nói vua Hàm Nghi).
Nhận xét về các hoạt động chống Pháp của ông, báo cáo ngày
5/6/1894 của tri huyện Sa Đéc viết: ''Bửu là tên phiến loạn rất ngoan cố,
nếu tính cả lần mưu tính nổi dậy vào năm 1894 thì Bửu đã 5 lần lôi kéo,
kích động dân Nam Kỳ chống lại người Pháp”.
Tên chủ tỉnh Rạch Giá phải thừa nhận: “Cuộc vận động chống lại
chúng ta trên hầu khắp các tỉnh ở Nam Kỳ trong những tháng đầu năm nay
là do Đào Công Bửu chủ mưu. Y đã triển khai mưu đồ chủ yếu tại địa bàn
các tổng Kiên Định, Kiên Hảo là những tổng khó kiểm soát nhất”.
Thống đốc Nam Kỳ viết trong báo cáo gửi Toàn quyền Đông Dương
về ông như sau: “Đào Công Bửu rất linh hoạt và năng động, tuy đã già. Y
len lỏi được trong hạt Rạch Giá và tìm cách đánh lạc hướng sự truy nã của
chúng ta là nhờ sự đồng mưu của nhiều hương chức và dân địa phương,
cảm thấy mình đã được lãng quên, Đào Công Bửu lại bắt đầu khởi xướng
những vụ nổi loạn và y đã chọn một địa bàn được chuẩn bị chu đáo trong
các tổng Kiên Định và Kiên Hảo. Đào Công Bửu không khó khăn lắm trong
việc làm cho mọi người tin rằng y là một quan chức của triều đình Huế
được cử vào kêu gọi dân chúng Rạch Giá nổi dậy chống lại nền thống trị
của người Pháp. Đào Công Bửu đã từng là tên chủ mưu ngoan cố trong các
vụ nổi dậy liên tiếp ở Trà Vinh, Bến Tre, và ở nhiều địa phương khác, nay y
lại xuất hiện ở Rạch Giá đẻ tổ chức một cuộc nổi loạn mới”.
Đáng tiếc là cuộc vận động yêu nước do Đào Công Bửu lãnh đạo
chưa kịp bùng nổ thì ông và hầu như toàn bộ các thủ lĩnh đều bị thực dân
Pháp bắt. Bọn xâm lược Pháp và tay sai Nam triều đã dùng mọi cực hình tra
tấn để khai thác bí mật của tổ chức. Song họ đều dũng cảm nhận trách
nhiệm về mình, bảo vệ những thủ lĩnh nghĩa binh chưa bị lộ, bảo vệ cơ sở.
Tất cả những người có danh sách trên đều bị bắt và bị kết án tù từ 4 đến 15
năm và đày đi Côn Đảo. Ra đảo họ bị đánh đập, lao dịch nặng nhọc, bị bỏ
đói nên phần lớn đều chết trước khi mãn hạn.
BỔN SƯ NGÔ LỢI
Từ năm 1867 Cao đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương Trần Văn Thành,
nguyên là Chánh quản cơ đã từ bỏ mọi chức vụ để theo Phật Thầy chiêu mộ
nghĩa sĩ và nhân dân lập trại xây dựng căn cứ chống Pháp ở Bẩy Thưa -
Láng Linh từ năm 1867 đến năm 1873.
Noi gương Bửu Sơn Kỳ Hương Trần Văn Thành, năm 1876, Bổn sư
Ngô Lợi là một trong những vị chủ trương đạo “Tứ Ân Hiếu Nghĩa” là một
nhà sư thoát tục song ông vẫn có tấm lòng thương dân, yêu nước thiết tha,
một lòng lo đánh đuổi giặc Pháp cứu nước, cứu dân.
Để thực hiện mục tiêu xây dựng căn cứ chống Pháp, năm 1876 Bổn
sư Ngô Lợi đã dẫn một số tín đồ đạo “Tứ Ân Hiếu Nghĩa” vào núi Tượng là
một trong bảy ngọn núi của Thất Sơn. Các tín đồ đạo “Tứ Ân Hiếu Nghĩa”
đều là những ngưòi tin đạo, yêu nước.
Trong số những người theo bổn sư Ngô Lợi lên “trảm thảo khai sơn”
còn có những người từng là điền chủ, từng là hương chức nên theo việc
khai hoang, lập làng mới. Vì vậy chẳng bao lâu bốn làng mới mang tên là
An Định, An Hoà, An Thanh, An Lập đã được dựng lên theo kiểu vừa là
khu dân cư, vừa là làng chiến đấu.
Ngày 25/9/1878, Giám đốc Nội vụ Sài Gòn phát lệnh truy nã Bổn sư
Ngô Lợi tức Năm Thiếp. Chúng còn treo giải 1000 đồng cho kẻ nào bắt
được Ngô Lợi. Thực hiện lệnh truy nã trên có rất nhiều người theo đạo “Tứ
Ân Hiếu Nghĩa” ở các tỉnh bị giặc Pháp bắt. Song Ngô Lợi có tài hoá trang,
bình tĩnh, mưu trí lại được nhân dân hết lòng bảo vệ, nên vẫn an toàn. Ngô
Lợi lợi dụng đêm tối và sự che chở của nhân dân trốn thoát khỏi vòng vây.
Không bắt được ông, giặc đốt phá hết nhà cửa, ngôi chùa của đạo “Tứ
Ân Hiếu Nghĩa” ở làng An Định. Từ đó địch thần thánh hoá Bổn sư Ngô
Lợi có phép tàng hình, thăng thiên độn thổ để che đậy sự bất lực của mình.
Song điều đó càng tăng thêm uy tín cho nhà sư yêu nước Ngô Lợi.
Bổn sư Ngô Lợi không chỉ hoạt động ở núi Cấm (Thất Sơn) - nay
thuộc phần đất huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Thực dân Pháp chăng lưới
khắp nơi, nhưng trong suốt mấy năm liền chúng không bắt được ông.
Chúng nhiều lần đốt phá nhà cửa, chùa chiền của bốn làng, nhưng giặc vừa
rút, nhân dân lại trở lại dựng nhà cửa, chùa chiền. Hưởng ứng Chiếu Cần
vương, bổn sư Ngô Lợi và các tướng bàn kế hoạch giương cao ngọn cờ Cần
vương, phát động nhân dân vùng lên chống Pháp. Công việc tiến hành rất
thuận lợi, anh hùng nghĩa sĩ khắp lục tỉnh tụ hội về...
Khoảng tháng 12/1887, tháng giêng 1888, bằng đức độ và tài thuyết
phục của mình, bổn sư Ngô Lợi đã giáo hoá được Năm Cùi (tức Nguyễn
Thành Liễu) là tay sai đắc lực của Đốc phủ sứ Trần Bá Lộc cài vào để ám
sát bổn sư Ngô Lợi. Năm Cùi đã tình nguyện ở lại Bảy Núi, và còn quay về
ám sát Trần Bá Lộc, tiếc rằng việc không thành, Trần Bá Lộc thoát chết.
Để đánh lừa giặc Pháp, tín đồ phao tin bổn sư Ngô Lợi đã chết, lập
mộ giả ở Hai Ký thuộc làng An Thành. Trong khi quân Pháp còn bán tín
bán nghi thì Ngô Lợi vẫn tiếp tục các hoạt động cứu nước. Song lúc này lực
lượng nghĩa quân đã suy yếu, hầu hết tướng lĩnh đều bị giết, bị tù. Bổn sư
Ngô Lợi mất vào năm 1890, an táng tại núi Tượng.
LÊ THÀNH PHƯƠNG
Lê Thành Phương sinh năm 1825, quê ở làng Phú Mỹ huyện Trung
An, tỉnh Phú Yên. Năm Ất Mão (1885) ra Huế thi Hương đậu Tú tài.
Năm 1885 Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn chỉ huy Phấn nghĩa
quân tấn công Pháp ở đồn Mang Cá, Toà Khâm sứ Pháp không thành, hộ
tống vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị, hạ chiếu Cần vương.
Lê Thành Phương hưởng ứng chiếu Cần vương, tổ chức nghĩa quân,
tự xưng là Tổng thống quân vụ đại thần lập căn cứ chống Pháp ở Quán Câu,
nay thuộc xã Tuy Hiệp, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ông phong cho con
trai là Lê Thành Bích làm Hữu tham tri cùng ông chỉ huy nghĩa quân.
Lê Thành Phương tế cờ ở núi Phù Diềm (Hoà Đa) rồi chia quân đi
chống giữ các nơi. Giặc Pháp cho tầu chiến bắn phá bờ biển Phú Yên, ông
đưa súng thần công lên núi bắn trả dữ dội gây cho quân Pháp nhiều thiệt
hại.
Với quân lính thiện chiến, có tàu và đại bác yểm trợ quân Pháp đổ bộ
đánh chiếm tỉnh Phú Yên. Nghĩa quân chiến đấu quyết liệt gây cho quân
Pháp nhiều tổn thất rồi rút quân lên Củng Sơn tiếp tục đánh du kích.
Giặc Pháp hèn hạ sai Trần Bá Lộc đem quân đến bắt vợ con ông để
buộc ông ra đầu thú, ông cũng không khuất phục.
Cuối cùng tên Việt gian Trần Bá Lộc cho bọn phản động trong vùng
lừa bắt ông nộp cho giặc Pháp. Chúng dụ dỗ ông ra làm quan, ông quát lớn:
“Thà chết chứ không chịu”. Giặc Pháp đưa ông ra chém ở bến đò Cây Dừa
xã Ngân Sơn, huyện Trung An. Giặc chặt đầu ông bêu ở gốc cây đa bến đò
Chiều làng Phú Mỹ, 10 ngày sau chúng mới cho chôn. Năm đó Lê Thành
Phương 62 tuổi.
VÕ TRỨ
Võ Trứ còn có tên là Võ Văn Trứ, Nguyễn Trứ, Võ Thản, quê ở làng
An Nhơn, tổng Kỳ Sơn, phủ Tuy Phước, Bình Định, sau dời về làng Quang
Vân cũng thuộc phủ Tuy Phước. Võ Trứ là một bộ tướng của Mai Xuân
Thưởng.
Khi Mai Xuân Thưởng hy sinh, nghĩa quân tan rã, Võ Trứ trở về Phù
Cát, khoác áo thày tu, đến chùa Đá Bạc giúp thày chùa bắt mạch kê đơn,
bốc thuốc cứu giúp người nghèo. Ông là người thông thạo thuốc Nam,
thường dùng ngay những cây thuốc trồng trong vườn chùa và cây tự nhiên
mọc trong vùng làm thuốc. Trong các buổi giảng giải kinh sách Phật ông đã
khéo léo kích động lòng yêu nước của các tín đồ lên án giặc Pháp và bọn
tay sai bán nước. Tín đồ theo về ngày càng đông. Trần Cao Vân nghe
những lời đồn đại về vị thày chùa đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa Mai
Xuân Thưởng, nay chuyên làm việc thiện cứu dân, liền đến chùa làng
Chánh Danh tìm. Song ông được các Phật tử ở chùa cho biết thày Võ Trứ
đang đi phân phát thuốc cho dân không rõ ở làng xã nào, nên ông đành
quay trở về Bình Định.
Võ Trứ về đến chùa Chánh Danh được các đệ tử trao cho bức thư của
Trần Cao Vân để lại. Võ Trứ từng được nahe những người vêu nước ở Phú
Yên ca ngợi thày địa lý họ Trần giỏi Kinh dịch đang hoàn thiện thuyết
“Trung Thiên dịch” liền thu xếp đi ngay thành Bình Định để gập Trần Cao
Vân.
Hai người cùng có chung một hoàn cảnh, cùng có tấm lòng thiết tha
yêu nước gặp gỡ nhau lần đầu, song tâm đầu, ý hợp đã nhanh chóng trở
thành đôi bạn tri kỷ. Hai ông nhận định sau khi thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa ở
Bình Định Mai Xuân Thưởng hy sinh, khởi nghĩa tan rã (1887), gần đây
nhất (1895) khi Phan Đình Phùng mất, khởi nghĩa cũng thất bại. Các cuộc
khởi nghĩa khác cũng bị giặc đàn áp từ khi mới phôi thai, cả nước chỉ còn
cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Vì vậy cần có
ngay cuộc khởi nghĩa ở xứ Trung Kỳ để thức tỉnh đồng bào và cũng để cho
thực dân Pháp thấy rõ tinh thần quật cường của người Việt Nam. Vì thế hai
ông quyết định gấp rút chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa ở hai tỉnh Bình Định,
Phú Yên mà Phú Yên là trọng điểm. Trần Cao Vân ở lại Bình Định một thời
gian ngắn rồi cũng vào Phú Yên làm tham mưu cho Võ Trứ.
Võ Trứ đã hoạt động tích cực ở ba huyện Bắc Phú Yên. Đi đến đâu
Võ Trứ cũng giúp đỡ dân, bốc thuốc, chữa bệnh cho dân, cung cấp dao
phát, dao quắm, rìu cho dân đi rừng làm rẫy. Ông cũng nói rõ những nỗi
nhục của người dân mất nước, khơi gợi lòng căm thù giặc Pháp. Thực dân
Pháp và Nam triều sợ ảnh hưởng của ông lan rộng trong dân chúng, nên vu
cáo ông biển thủ công quỹ, trốn đi ở chùa để hạ uy tín ông. Song đồng bào
các tầng lớp nông dân, dân nghèo, trí thức người Việt, các tầng lớp tăng ni,
phật tử đồng bào các dân tộc ở miền Tây hai tỉnh Phú Yên, Bình Định vẫn
tin yêu, kính trọng ông. Giặc Pháp cho mật thám theo dõi, lùng bắt ông
khắp nơi. Nhưng nhờ có tinh thần cảnh giác cao, có tài hóa trang, được các
tầng lớp nhân dân ủng hộ, giúp đỡ, nên ông vẫn an toàn. Thực dân Pháp,
quan lại Nam triều đồn đại tung tích kì dị của ông, để che giấu nỗi bất lực
của mình là: “Nghe đồn rằng vị sư ấy là Tiên, ban đêm cưỡi chim hai cánh
bay rất nhẹ nhàng!”. Các ông đã sử dụng giáo lý của nhà Phật để phát triển
đức tin trong các tầng lớp nhân dân vào công cuộc phục quốc. Ông thuyết
phục đồng bào Thượng ở vùng núi Phú Yên trên dải Trường Sơn đi theo
con đường chống Pháp cứu nước.
Ông đã thành lập đội nghĩa binh, dự định tập kích trại lính để cướp
súng rồi tiến đánh dinh công sứ, dinh tuần phủ và các lỵ sở khác. Song cuộc
khởi nghĩa thất bại, Võ Trứ, Trần Cao Vân trốn tránh trong các làng đồng
bào Thượng được đồng bào che chở an toàn.
Võ Trứ thấy giặc bắt rất nhiều đồng đội của mình và đồng bào tra tấn
cực kỳ dã man và giết hại, đốt phá các làng, tàn phá trâu bò, ngô lúa. Khắp
hai tỉnh Phú Yên, Bình Định nơi nào cũng khói lửa ngút trời.
Để cứu đồng đội và đồng bào, ông ung dung tự ra cho giặc bắt. Giặc
tra tấn Võ Trứ vô cùng dã man, hết bọn mật thám Pháp lại đến bọn bố chính
Bùi Xuân Huyến tra tấn ông cực kỳ man rợ, song ông nhận hết trách nhiệm
về mình, không hề khai cho ai. Giặc đưa ông ra pháp trường chém, cho đến
lúc chết ông vẫn ung dung.
ĐỒ ĐÀM
Đồ Đàm tên thực là Đỗ Văn Đàm, còn gọi là “Đồ Hà Nam”, Đồ Hải.
Ông người làng Tạ Xá, tổng Lương Xá, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông,
nay thuộc Hà Tây.
Ông Đồ Đàm văn hay, chữ tốt, nhưng vì nặng lòng yêu nước, thương
dân ông thường làm thơ đả kích thực dân Pháp, quan lại Nam triều theo
Pháp. Vì vậy bọn cầm quyền hằn học ông, chỉ tìm cách hãm hại. Tư tưởng
chống Pháp của ông được thể hiện trong các bài thơ, nên ông đi thi nhiều
lần đều bị giám khảo đánh trượt. Ông chán nản bỏ học, bỏ thi về làng mở
trường dạy học. Học trò trong vùng, mến đức độ của ông theo học rất đông.
Trong khi ngồi dạy học, ông vẫn bí mật liên lạc với các phong trào
khởi nghĩa như ông vượt sông Hồng sang căn cứ Bãi Sậy ở huyện Đông
Yên, phủ Khoái Châu liên lạc với thủ lĩnh Nguyễn Thiện Thuật. Ông đã
cùng một số học sinh tâm huyết trực tiếp điều tra các hoạt động quân sự,
các vị trí đóng quân của quân Pháp ở huyện Phú Xuyên, huyện Thường Tín,
Thanh Trì rồi báo cho nghĩa quân Bãi Sậy sang tập kích, tiêu biểu là các
trận đánh vào huyện lỵ Thanh Trì ngày 8/7/1888 do Đội Văn chỉ huy 500
quân; tấn công huyện Thanh Trì vào tháng 7 năm 1889.
Năm 1892, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy tan rã, Đồ Đàm lên Yên Thế yết
kiến tướng quân Hoàng Hoa Thám. Khi Hoàng Hoa Thám thành lập đảng
Nghĩa Hưng ở Hà Nội thì Đồ Đàm là một yếu nhân của Đảng này. Đảng
Nghĩa Hưng chủ trương làm nội ứng cho nghĩa quân Yên Thế về đánh
thành Hà Nội. Ông có nhiều quan hệ với đảng Nghĩa Hưng, tích cực chuẩn
bị cho việc đánh thành Hà Nội. Kế hoạch đánh thành Hà Nội lúc đầu định
vào ngày 15/11/1907, sau hoãn đến ngày 16/5/1908, cuối cùng do đích thân
thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám duyệt sẽ diễn ra vào ngày 27/6/1908, khi các bồi
bếp đầu độc sĩ quan và binh lính Pháp. Một bộ phận nội ứng khác làm nổ
kho thuốc súng. Ông Đồ Đàm được đảng Nghĩa Hưng giao nhiệm vụ cùng
các ông Lang Seo khi đó đóng giả làm thầy bói đến các đền, chùa tuyên
truyền nhân dân chống Pháp được giao nhiệm vụ hạ cờ Pháp kéo cờ khởi
nghĩa lên Cột Cờ Hà Nội làm hiệu lệnh. Song thuốc độc do các bồi bếp đầu
độc lính Pháp vì chế bằng cà độc được nên quá nhẹ, chỉ làm cho chúng say,
nôn mửa không làm cho chúng chết. Cuộc khởi nghĩa bị lộ, giặc Pháp báo
động toàn thành phố và lùng bắt các hạ sĩ quan, bồi bếp, binh lính ở trong
thành chúng nghi có liên quan đến vụ đầu độc. Quân Pháp điều quân ra bờ
sông Hồng, cầu Phùng, Cầu Giấy, Ngã tư Sở, Lò Lợn, Gia Lâm, Chèm chặn
đánh các cánh quân từ Yên Thế về. Cuộc binh biến thất bại hoàn toàn.
Trong khi đó ông Đồ Đàm núp ở gần Cột Cờ chờ mãi không nghe thấy súng
lệnh nổ, chỉ thấy giặc Pháp lùríg sục, bắt người khắp các phố. Ông Đồ biết
là đại sự bị bại lộ, liền cùng một người học trò cùng làng Tạ Xá đóng vai
người kéo xe tay chờ sẵn kéo ông từ Hà Nội về Tạ Xá. Ông biết thế nào
giặc cũng về làng lùng sục bắt mình liền vượt sông Hồng sang một làng ở
huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu ẩn náu, chờ thời. Giặc Pháp truy lùng
ông Đồ Đàm, chúng hẹn cho lý dịch làng Tạ Xá phải đem nộp ông nếu
không chúng sẽ triệt hạ làng Tạ Xá quê ông và làng Vân Hội quê ngoại ông.
Ông Đồ Đàm không muốn để liên lụy đến bà con, liền thiêu hủy tài
liệu, trở về làng. Ngay từ khi ông từ phủ Khoái Châu trở về làng, bọn mật
vụ đã biết báo cho bọn cầm quyền. Chúng khâm phục nghĩa khí của ông và
cũng sợ dân kịch liệt phản đối chúng, nên chúng chỉ bao vây chặt làng Tạ
Xá chứ không vào bắt ông ngay để mặc ông từ biệt con cháu, học trò cùng
họ hàng, dân làng. Mãi đến khi cuộc “tế sống” thày tàn cuộc giặc Pháp mới
vào bắt. Oai phong của ông lẫm liệt, khiến giặc không dám trói, không dám
đeo gông, ông đàng hoàng đi giữa đường làng vẫy chào đông đảo dân làng
ra vĩnh biệt, ông chỉ căn dặn một điều: “Bà con ở lại ngẩng cao đầu mà
sống, đừng tiếp tay cho giặc”.
Giặc Pháp giải ông ra Hà Nội giam tại Hỏa Lò và hành quyết ông
cùng một số đồng chí của ông phần lớn là các đảng viên đảng Nghĩa Hưng
người Hà Nội tại pháp trường Quần Ngựa, Hà Nội. Nhân dân Hà Nội đã
chứng kiến giây phút anh hùng của ông Đỗ Đàm và các đồng chí của ông.
Từ đó cứ tới ngày 10 tháng 11, con cháu học trò, họ hàng, thân thuộc lại tập
trung ở nhà ông Đẩu, trưởng tràng cúng giỗ thày.
TRẦN TRỌNG CUNG
Trần Trọng Cung tức Trần Văn Lý còn gọi là Đồ Cát, vì ông là người
làng Thượng Cát, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông, nay Từ Liêm thuộc Hà
Nội. Ông theo nghiệp binh chiến đấu dưới quyền Bố chính Sơn Tây
Nguyễn Văn Giáp. Sau khi thành Hà Nội thất thủ lần thứ hai, Bố chính
Nguyễn Văn Giáp đã liên kết với tướng Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy quân Cờ
Đen phòng thủ Sơn Tây. Trong trận đánh quân Pháp lần thứ hai ngày
19/5/1883 tại Cầu Giấy, Trần Trọng Cung chỉ huy một đội quân mai phục ở
làng Dịch Vọng Trung dưới sự chỉ huy của Tả dực Dương Trí Ân. Cánh
quân này đã giết chết đại tá De Viler. Từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 9/1883
ông đã theo Nguyễn Văn Giáp phối hợp với quân Cờ Đen do tướng Lưu
Vĩnh Phúc chỉ huy chặn đánh quân Pháp do tướng Bouet chỉ huy tiến đánh
Sơn Tây. Quân Pháp bị tổn thất nặng nề, phải rút về Hà Nội.
Ngày 14/12/1883 Đô đốc Cuốc bê (Courbet) chỉ huy một lực lượng
lớn bộ binh lính thủy đánh bộ có tầu chiến, pháo binh, công binh hỗ trợ
đánh thành Sơn Tây. Bố chính Nguyễn Văn Giáp chỉ huy quân sĩ chặn đánh
quân Pháp ở chiến lũy Phù Sa. Trần Trọng Cung luôn ở bên cạnh quan Bố
chính, bảo vệ ông. Ông còn chỉ huy các mũi đột kích vào doanh trại của
giặc, tổ chức các mũi vu hồi đánh tạt sườn vào trận địa quân Pháp. Khi
quân ta phải rút khỏi chiến lũy Phù Sa về thành Sơn Tây, ông đã ở lại đánh
chặn giặc, yểm hộ cho chủ tướng rút trước. Ông đã sát cánh cùng Bố chính
trong ba ngày liền chiến đấu giữ thành Sơn Tây, gây cho quân Pháp thương
vong nặng nề.
Thành Sơn Tây thất thủ, triều đình Huế ký hòa ước với Pháp, lệnh
cho các tướng ở Bắc Kỳ phải triệt binh. Nguyễn Văn Giáp chống lệnh ở lại
mộ quân chống Pháp. Trần Trọng Cung lại theo Bố Giáp rút về huyện Lâm
Thao xây dựng căn cứ Thanh Mai.
Khi Thanh Mai thất thủ, Trần Trọng Cung hợp với quân Nguyễn
Quang Bích. Tháng 10/1887 Bố Giáp hy sinh tại căn cứ Nghĩa Lộ, Trần
Trọng Cung còn chiến đấu trong hàng ngũ nghĩa quân mấy năm nữa, cho
đến khi tuổi già, sức yếu, bị sơn lam, chướng khí quật ngã ông mới chịu trở
về sống ở Thượng Cát, mở trường dạy học để che mắt kẻ thù, nên dân mới
gọi là ông Đồ Cát. Về quê nhưng ông vẫn liên lạc với các đồng chí trong
cuộc khởi nghĩa.
Vụ Hà thành đầu độc bị thất bại. Chúng xử tử hình nhiều người, Trần
Trọng Cung bị giặc Pháp bắt đày đi Côn Đảo và bị bệnh mất tại Côn Đảo
vào cuối năm 1908.
CAI NGA
Cai Nga tên thực là Nguyễn Văn Nga, còn gọi là Nguyễn Tác A, sinh
quán tại Hà Nội. Ông đi lính đeo lon cai, ở cùng cơ binh pháo thủ số 9 với
Đội Bình, Đội Nhân. Mỗi khi ông bất bình với bọn chỉ huy Pháp thường
đến tâm sự với Đội Bình, Đội Nhân là bạn thân, cùng chung chí hướng như
mình. Cai Nga trở thành trợ thủ tin cậy của Đội Bình trong việc tuyên
truyền, phát triển lực lượng phản chiến trong quân đội Pháp. Ông là người
thông minh, đọc văn thơ yêu nước mà thực dân Pháp cấm lưu hành như Hải
ngoại huyết thư, Lịch sử Việt Nam, Thiết tiền ca, Bài ca lính tập chỉ vài lần
là thuộc làu, đọc lại cho anh em nghe. Cai Nga đã bỏ ra nhiều công sức điều
tra kỹ lưỡng các mục tiêu mà binh lính phản chiến và nghĩa quân Yên Thế
sẽ tấn công như Phủ Toàn quyền Đông Dương, dinh Thống sứ Bắc Kỳ, Bộ
Tổng Tham mưu Pháp. Trong cuộc họp phân công người chỉ huy các cánh
quân, Cai Nga được chỉ định làm chỉ huy phó đánh bộ Tổng Tham mưu, do
chính Đội Bình làm chỉ huy trưởng.
Sau cuộc tấn công giặc Pháp tháng 6 năm 1908 bị thất bại vì có nội
phản báo cho giặc biết kế hoạch tấn công của nghĩa quân và đầu độc sĩ quan
Pháp thì giặc Pháp sai đóng cổng thành, vây bắt hầu như toàn bộ binh lính,
bồi bếp đã tham gia. Cai Nga bị bắt cùng với nhiều đồng chí khác. Giặc
Pháp dùng mọi cực hình tra tấn ông dã man, nhưng ông cắn răng chịu đựng
không khai những đồng chí, những cơ sở ở bên ngoài thành cho giặc biết.
Để xét xử “Vụ Hà Thành đầu độc”, ngày 28 tháng 6 năm 1908, Hội đồng
Đề hình được thành lập cấp tốc để xét xử vụ đầu độc với quyền hạn rộng rãi
và thủ tục xét xử nhanh chóng. Mặc dù cuộc điều tra còn đang tiếp tục,
ngày 8 tháng 7 năm 1908 giặc Pháp đã đưa Đội Bình, Đội Nhân, Cai Nga,
Đội Cốc ra xét xử. Cai Nga bị giặc đưa ra xử thứ hai, sau Nguyễn Trị Bình.
Tác phẩm Truyện các liệt sĩ Hà thành của Phan Bội Châu khi đó đang ở
Nhật đã thu thập tài liệu viết về vụ này ngay trong tháng 10/1908 đoạn viết
về Cai Nga như sau:
“...Khi đến lượt Nguyễn Văn Nga, các nhà chức trách Pháp hỏi Nga
các câu sau:
- Chính phủ đã nuôi mày, đối xử với mày tử tế, tại sao mày lại đứng
vào hàng ngũ những tên nổi loạn?
Nga đáp:
- Người Pháp bắt người Việt Nam đóng mọi thứ thuế. Đó là một số
tiền rất lớn, mấy triệu đồng một năm, thế mà Chính phủ Pháp chỉ trả cho
chúng tôi lương mỗi tháng 5 đồng, 8 đồng hoặc 10 đồng,thì làm sao mà
chúng tôi có thể nói được các ông đối xử tốt. Người Pháp các ông tới nước
chúng tôi, chiếm lấy những gì mà tôi, đồng bào tôi có trong nhà. Các ông
đuổi chúng tôi, các ông sai giết chúng tôi để đảm bảo hạnh phúc cho các
ông và cho gia đình các ông. Chúng tôi đã tổ chức cuộc âm mưu này chống
lại các ông, đó là vì chúng tôi tự thấy mình đã quá khốn khổ”.
Người ta ra lệnh chặt đầu Nga. Trước lúc chặt đầu ông, người ta hỏi
ông có điều gì cần nói nữa không. Nếu ông có thể tố giác những người khác
tham gia âm mưu, ông sẽ được ân xá khỏi tội chặt đầu. Nga đã trả lời rằng,
nếu ông không giết người Pháp thì người Pháp sẽ tiêu diệt nòi giống Việt
Nam. Ông thích được chặt đầu ngay lập tức hơn là phải nhìn nòi giống
mình bị người pháp tiêu diệt. Sau câu nói cuối cùng này, tên đao phủ đã
thực hiện nhiệm vụ của nó. Nga thét to: “Đồng bào! Đồng bào vạn tuế!”.
Ông vừa dứt lời thì tên đao phủ hạ đao. Ông lìa đầu khỏi cổ trong hoàn
cảnh thật bi hùng.
NGUYỄN THỊ MÃO
Nguyễn Thị Mão còn có tên gọi cô Đồng Đa, là người trông nom ngôi
đền Sóc Sơn. Cô cũng là người phụ trách trạm liên lạc tiền tiêu của căn cứ
Yên Thế từ những năm 1884, 1885. Các thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa thường
tránh lối qua phía Nam cầu tỉnh lỵ Bắc Giang về qua Bắc Ninh mà thường
đi tắt. Đền Sóc Sơn là địa điểm dừng chân của các tướng lĩnh. Tại đây cô
Đồng Đa báo cho họ biết tình hình hoạt động của quân Pháp và quan phủ
quan huyện. Người từ đồng bằng lên Yên Thế cũng được các liên lạc đưa
lối đi qua đền Sóc Sơn.
Tháng 3/1907, trường Đông Kinh nghĩa thục thành lập ở Hà Nội, cô
Đồng Đa tham gia vào hoạt động của trường, nhưng không phải là giảng
viên, ban tu thư, hay ban tài chính mà cô tham gia vào ban tuyên truyền.
Cách tuyên truyền của cô Đồng Đa cũng rất độc đáo đó là cô không đăng
đàn, diễn thuyết, không hô hào mọi người làm cách mạng mà cô mượn lời
tiên, thánh dưới các hình thức cầu cơ, giáng bút, soạn thành lời ca trong các
quẻ thẻ để truyền bá tư tưởng yêu nước, kêu gọi đồng bào đồng tâm nhất trí
đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.
Tiếng đồn các vị Thánh ở đền Sóc linh thiêng giáng bút, cầu cơ xin
thẻ rất mầu nhiệm, khiến khách từ khắp nơi đến đền. Bọn mật thám đánh
hơi được có hoạt động chính trị ở đền Sóc Sơn, cho tay chân len lỏi vào
khách thập phương đến xin giáng bút, xin thẻ để dò la.
Đền Sóc còn là nơi các sĩ phu trường Đông Kinh nghĩa thục, phong
trào Đông du, phong trào Duy tân hội họp bàn việc quốc sự vì họp ở Hà Nội
khó giữ được bí mật. Đền Sóc cũng là nơi lun giữ nhiều tài liệu thơ văn
cách mạng của trường Đông Kinh nghĩa thục, của phong trào Đông du.
Tháng 12/1907, nhà cầm quyền Pháp đóng cửa trường Đông Kinh
nghĩa thục, bắt bớ những yếu nhân của trường, thì đền Sóc là nơi cất giấu
tài liệu của trường. Những hoạt động nhộn nhịp của những người thường ra
vào đền, nhìn bề ngoài không có vẻ mộ đạo, có những người nằm trong tầm
kiểm soát của quan phủ, quan huyện, khiến bọn mật thám theo dõi gắt gao.
Tên Việt gian chó săn trung thành của giặc Pháp là Từ Đạm án sát tỉnh Phúc
Yên cho tay chân đóng vai người đi lễ bám sát các hoạt động của cô Đồng
Đa. Từ Đạm cho tay chân đe dọa sẽ trị tội cô Đồng Đa nếu cô còn dính líu
vào quốc sự.
Song sự bao vây, theo dõi gắt gao của mật thám và tay chân Từ Đạm
không làm cô Đồng Đa nhụt chí, từ bỏ sự nghiệp thức tỉnh đồng bào, kêu
gọi đồng bào đứng lên chống giặc ngoại xâm của mình. Cô càng căm thù
bọn chó săn cho giặc, riêng đối với Từ Đạm cô ví hắn như quỷ dữ, gây tội
tất “ác giả, ác báo”', nên nhân ngày rằm tháng bẩy “xá tội vong nhân”
năm Mậu Thân (1908), cô Đồng Đa đặt ở hàng mã một chiếc thuyền rồng
bằng giấy, trong thuyền là một lũ quỷ sứ đầu trâu, mặt ngựa, thành đanh, đỏ
mỏ, tượng trưng cho bọn tay sai, mật thám bị Diêm Vương kết tội giam
xuống hỏa ngục. Chúng được Đức Phật thương tình giác ngộ; cải tà quy
chính, cho chúng được hình nhân thế mạng, làm phép cho chúng sống lại
đời lương thiện để chuộc tội. Bọn tay chân vội vàng ton hót với Từ Đạm,
hắn không còn giả nhân, giả nghĩa che đậy bộ mặt chó săn của mình mà sai
lính đến bắt cô Đồng Đa, lục soát đền Sóc Sơn. Tại nhà lao Phúc Yên, Từ
Đảm sai bọn cai tù, những tên mất hết lương tri dùng mọi ngón đòn tra tấn
dã man, tàn bạo nhất với cô. Song người phụ nữ yêu nước kiên trinh không
một lời khai báo, xin xỏ, luôn mồm lớn tiếng chửi mắng Từ Đạm. Biết
trước sau tên chó săn Từ Đạm cũng giết hại mình, một đêm nhân lúc bọn
gác ngục sơ hở, cô Đồng Đa xé áo thắt cổ chết, giữ trọn khí tiết của mình.
NGUYỄN CÔNG VẬN
Nguyễn Công Vận quê ở xã Động Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh
Thái Bình, ông là cháu nội Nguyễn Mậu Kiến, con trai Nguyễn Hữu
Cương, gọi Nguyễn Hữu Bản là chú ruột. Cả ông, cha, chú đều hy sinh
trong sự nghiệp chống Pháp, cứu nước.
Với mục đích tuyên truyền lính khố xanh, khố đỏ, lính làm binh biến,
Nguyễn Hữu Cương đã cho con trai là Nguyễn Công Vận vào lính tập.
Nhiều người không hiểu ý đồ của ông, tỏ ý trách cứ ông, ông vẫn bình thản,
không thanh minh. Trong suốt thời gian ở lính tập đóng ở tỉnh lỵ Thái Bình,
Nguyễn Công Vận đã làm công tác binh vận, tuyên truyền giác ngộ được
nhiều lính tập. Ông bí mật gửi các văn thơ yêu nước của Phan Bội Châu
như “Việt Nam vong quốc sử”, ''Lưu Cầu huyết lệ thư”, “Tĩnh hồn quốc
dân ca”... bí mật gửi về nước. Số binh sĩ trên đã hứa nếu quân khởi nghĩa
nổi lên đánh vào tỉnh lỵ thì họ sẽ hưởng ứng.
Năm Mậu Thân (1908), cha ông là Nguyễn Hữu Cương đã cùng các
ông Lê Đại, Vũ Hoàng, tức Bẩy Quang, Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí đã
liên lạc được với nhóm sĩ quan trong thành Hà Nội do Đội Nhân, Đội Bình,
Cai Nga... gia nhập đảng Nghĩa Hưng do thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Hoa
Thám chủ trương, thì ông cùng nhóm hạ sĩ quan, binh lính ở tỉnh lỵ Thái
Bình cũng ráo riết chuẩn bị để khi Hà Nội khởi nghĩa thì Thái
Bình cũng hưởng ứng. Ngày 27 tháng 6 năm 1908, tức ngày 29 tháng 5
năm Mậu Thân tại thành Hà Nội nổ ra “vụ Hà Thành đầu độc”. Song kế
hoạch bị bại lộ, giặc Pháp đàn áp. Các ông Nguyễn Công Úc, Nguyễn Công
Tích, Nguyễn Công Vận cùng số hạ sĩ quan, binh lính tham gia vào vụ đánh
tỉnh thành Thái Bình cùng cha ông và nhiều nghĩa quân bị bắt. Ông cùng
cha bị đầy vào thành Gia Định, sau đó ông mắc bệnh, chết ở đó. Cha ông vì
phẫn quất mất ngày 12/5/1912 tại nơi đi đầy ở Cần Thơ.
Khi Nguyễn Công Vận mất, có nhiều thơ điếu, liễn, câu đối phúng
viếng.
Một câu liễn điếu Nguyễn Công Vận
Phiên âm:
Trung hiếu hữu chân truyền, niệm tổ quốc, niệm đồng bào, khỏi nhẫn
thiên nhai di lão phụ.
Anh hùng vô ấn bản, diệc ngoan dân, diệc nghĩa sĩ, quản giao sử bút
thuộc danh gia.
Dịch:
Trung hiếu do truyền thống từ xưa, nghĩ tổ quốc, nghĩ đồng bào, nỡ
để bên trời quên lão phụ;
Anh hùng không bản in để lại, cũng ngoan dân, cũng nghĩa sĩ, rồi đây
bút sử chép danh gia.
(Thơ điếu, liễn in trong sách Việt Nam nghĩa liệt sử của Đặng Bằng
Đoàn, trang 92, 93).
NGUYỄN HÀNG CHI
Nguyễn Hàng Chi khi nhỏ tên là Nối, đi học là Đồ Nam, nho Tuy, khi
đỗ tú tài thì gọi là Tú Nối. Ông sinh năm 1886. Ông là con một nhà nho nổi
tiếng ở làng Đông Thượng, xã Ích Hậu, tổng Phù Lưu (nay là xã Hậu Lộc,
huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh), ông là em ông Nguyễn Hiệt Chi. Cũng như
người anh, ông là người hay chữ, giỏi văn thơ nhất vùng, nhưng không đi
thi.
Cuối năm 1906, đầu năm 1907, Nguyễn Hàng Chi đi Quảng Nam,
gặp được các nhà nho trong phong trào Duy tân, ông đã chịu ảnh hưởng sâu
sắc. Ông trở về Hà Tĩnh lại được ông Phạm Văn Thản - người lãnh đạo
phong trào Duy tân ở Nghệ Tĩnh giác ngộ về tinh thần và phương pháp đấu
tranh chống đế quốc Pháp. Ông Thản còn cho Nguyễn Hàng Chi đọc nhiều
tân thư, tân văn. Qua các buổi tiếp xúc với các nhà nho trong phong trào
Đông du và tiếp thu được từ Tân thư, ông có nhiều việc làm thiết thực như
hưởng ứng phong trào Đông du, là người đầu tiên cắt tóc ngắn, mặc quần
áo ngắn (quần áo khách).
Từ tháng 11/1907 nhiều nhà lãnh đạo phong trào Duy tân như Phó
bảng Đặng Nguyên cẩn lần lượt bị bắt giam ở nhà lao Hà Tĩnh, thì Nguyễn
Hàng Chi trở thành người đứng đầu phong trào chống thuế ở Hà Tĩnh.
Ngày 18/4/1908 tỉnh Quảng Nam nổ ra vụ chống thuế, do hội Duy tân
chủ trương, quần chúng các phủ huyện xông vào Tòa sứ đòi bỏ sưu thuế.
Nguyễn Hàng Chi lập tức gặp các yếu nhân phong trào Duy tân ở Nghệ
Tĩnh. Sau khi thảo luận các ông đã nhất trí phát động nhân dân Hà Tĩnh kéo
lên phủ huyện, lên tỉnh chống thuế vào ngày 23/5/1908. Cuộc họp cũng
thông qua thông tri do Nguyễn Hàng Chi soạn thảo nói về diễn biến cuộc
biểu tình chống thuế ở Quảng Nam ngày 18/4/1908 và kêu gọi các hội viên
Duy tân trong tỉnh kêu gọi, phát động nhân dân Hà Tĩnh biểu tình chống
thuế vào ngày 23/5/1908.
Từ ngày 22/5/1908, Trịnh Khắc Lập diễn thuyết ở chợ Giang Đình,
huyện Nghi Xuân kêu gọi mọi người hưởng ứng tờ Thông tri của Nguyễn
Hàng Chi. Hôm sau - ngày 23/5, Trịnh Khắc Lập, Trịnh Yên, Trịnh Xuyên,
Phan Chiêu, Phan Cẩn, Trần Tý, Nguyễn Lương Nhân dẫn trên 500 người
áo xác, quần xơ, nón cời, tơi rách, cơm đùm, cơm nắm kéo đến vây huyện
Can Lộc. Những người biểu tình trói tri huyện Lê Trần Thụy, giải về tỉnh
kêu sưu. Đoàn đi khỏi huyện, vừa tới hơi toán lính của tên trung úy Pháp
Gaya chặn lại và xông vào dân xin xâu đánh đập. Mặc dù bị đánh, Nguyễn
Hàng Chi và Trịnh Khắc Lập vẫn dẫn đầu mọi người xông tới đòi gặp Công
sứ Pháp để chất vấn, đưa yêu sách. Song giặc Pháp đàn áp, Nguyễn Hàng
Chi, Trịnh Khắc Lập cùng những người khác bị bắt, tên án sát Cao Ngọc Lễ
dùng cực hình tra tấn. “Cái quần lụa trắng của Nguyễn Hàng Chi đã
nhuộm máu mất hai phần mà ông vẫn không nhận”. Song sau đó ông lại
nhận hết về mình không khai cho ai khác.
Bọn cầm quyền Pháp và tay sai chém Nguyễn Hàng Chi ở sau thành
Hà Tĩnh.
NGUYỄN HIỆT CHI
Nguyễn Hiệt Chi còn có tên là Nguyễn Đức Thuận, hiệu Mông
Thượng, sinh năm 1870, là anh trai Nguyễn Hàng Chi. Ông quê ở làng
Đông Thượng, xã Ích Hậu, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh
(nay là xã Hậu Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Ông học giỏi, đỗ đầu ở
trường thi Nghệ An và đỗ tú tài trường thi Bìrih Định, nên thường gọi là Xứ
Thuận. Khi thi Hương, ông cố tình để hỏng nhiều lần để được thi lại, ông có
cơ hội làm bài thuê để kiếm tiền. Năm 1906 ông lại đi thi, quan trường cho
ông đỗ tú tài cuối bảng.
Ông cùng em trai là Nguyễn Hàng Chi vào Phan Thiết. Ông được bổ
làm ký học ở Phú Yên, sau được bổ vào ngạch giáo dục dạy chữ Hán tại
trường Pháp - Việt Phan Thiết. Ông cùng em trai là Nguyễn Hằng Chi đều
là những hội viên tích cực của hội Duy tân. Ông thuộc phái Minh xã, còn
Nguyễn Hàng Chi ở trong phái Ám xã theo xu hướng bạo động. Năm 1908
Nguyễn Hàng Chi chịu ảnh hưởng của phong trào xin xâu, chống thuế ở
Quảng Nam, trở về Hà Tĩnh phát động phong trào chống thuế. Cuộc chống
thuế ở Hà Tĩnh diễn ra quyết liệt, Nguyễn Hàng Chi cùng với đồng chí là
Trịnh Khắc Lập bị nhà cầm quyền Pháp giết hại. Nguyễn Hiệt Chi cũng bị
Pháp bắt hai lần, giam cầm trong 6 tháng, song không có chứng cớ chúng
đành phải tha. Ông cùng với Nguyễn Trọng Hợi, Nguyễn Quý Anh, Hồ Tá
Bang lập Thương quán là công ty Liên Thành, Nguyễn Hiệt Chi là nhân vật
chủ chốt của công ty. Tiếng là công ty thương nghiệp nhưng do nhiều nhà
trí thức tiến bộ sáng lập, nên công ty đã thành lập trường Tư thục Dục
Thanh. Nguyễn Hiệt Chi là giáo viên ở trường Dục Thanh. Ông còn là
người hiểu biết các sách Tân thư do các nhà cách mạng Trung Quốc như
Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Tôn Dật Tiên viết và dịch của các học giả
phương Tây như Mông pát kiơ, Rút xô, Vích to Huy gô, nên ông được công
ty giao cho phụ trách một thư xã có rất nhiều sách Tân thư.
Khi ở Phan Thiết, Nguyễn Hiệt Chi giúp đỡ tận tình cho nhiều người
ở Nghệ Tĩnh vào Phan Thiết và về tiền bạc, lương thực, nơi trú chân và tinh
thần. Nguyễn Hiệt Chi giảng dạy ở trường Dục Thanh 12 năm, dạy ở trường
Quốc học Huế 2 năm, sau đó ông trở về Nghệ An dạy ở trường tiểu học Cao
Xuân Dục và Nguyễn Trường Tộ ở thành phố Vinh.
Nguyễn Hiệt Chi còn là nhà biên soạn sách trong khi dạy ở trường
Quốc học Huế, ông đã soạn sách Mẹo tiếng Nam, soạn Hán - Việt từ điển
(với Đoàn Danh Từ), Hán văn Tân giáo khoa thư soạn với Lê Thước, Sách
dạy tiếng Nam, mẹo chữ Pháp. Ông cũng làm thơ, chủ yếu là thơ trào
phúng, là cộng tác viên với báo Nữ giới chung của bà Sương Nguyệt Anh.
Năm 1933, Nguyễn Hiệt Chi về hưu, được hai năm thì mất (1935),
thọ 65 tuổi.
Trong suốt 38 năm đứng trên bục giảng, Nguyễn Hiệt Chi đã đào tạo
được nhiều nhân tài cho đất nước và soạn nhiều sách về giáo dục, đặc biệt
là Từ điển.
LÊ BÁ TRINH
Lê Bá Trinh sinh năm Ất Sửu (1865) (Có sách viết ông sinh năm
1875 hay 1878). Quê ông ở xã Hải Châu thượng, huyện Hòa Vang nay
thuộc quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Ồng thi đậu cử nhân khoa thi
Hương, niên hiệu Thành Thái 12 (1900), xếp hạng 4 trên 22. Thi Hội ông
chỉ đủ phân số để bổ nhiệm, không đỗ tiến sĩ.
Lê Bá Trinh sớm có lòng yêu nước từ khi tuổi còn trẻ, không chịu ra
làm quan cho chính quyền thực dân Pháp và Nam triều. Ông làm một nếp
nhà nhỏ ở chân núi Hành Sơn ngày ngày cày ruộng, tát nước làm kế sinh
nhai. Trần Quý Cáp là bạn thân với Lê Bá Trinh, đến nhà ông ở chân núi
Hành Sơn chơi, mong muốn ông ra hoạt động cách mạng, liền tặng bạn đôi
câu đối:
Hoàn hải sơ khai thiên cổ nhan
Cố nhân do ngọn Ngũ Hành Sơn.
Dịch:
Trời mới đã ra mối thế giới
Bạn xưa còn núp dưới Hành Sơn.
Lê Bá Trinh tỉnh ngộ, bèn ra dạy học ở nhà ông Thương Liên ở Đà
Nẵng. Từ đây về sau, các nhà ái quốc trong Nam ra, ngoài Bắc vào đều lấy
chỗ nhà ông Châu Thành và nhà ông Lê Bá Trinh làm căn cứ.
Từ đó ông giao kết với các nhà yêu nước có xu hướng canh tân như
Thái Phiên, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp. Ông cùng
em trai là Lê Thúc Kỳ, dời nhà về làng Quảng Cái (Khái Đông) mở trường
dạy học theo chủ trương tân canh, thực dụng. Cao trào chống thuế bùng nổ
ở huyện Đại Lộc, nhanh chóng phát triển ra toàn tỉnh Quảng Nam và các
tỉnh Trung Kỳ. Lê Bá Trinh và nhiều nhà yêu nước ở Quảng Nam tích cực
tham gia phong trào này. Thực dân Pháp đàn áp khốc liệt, Lê Bá Trinh cùng
Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng bị thực dân Pháp kết án đày đi Côn
Đảo, riêng ông bị kết án 9 năm khổ sai. Tại nhà tù tàn bạo của thực dân
Pháp, Lê Bá Trinh vẫn kiên cường liên tiếp đứng ra tổ chức nhiều cuộc đấu
tranh với bọn chúa đảo, đòi không được đánh đập tù nhân, không cho ăn
gạo mục, cá thối, mà phải cho án no, có rau, cá tươi.
Lê Bá Trinh bị tù ở Côn Đảo 7 năm, năm 1915 ông được trả tự do.
Vừa về đến nhà, ông lại cùng hai người em là Lê Trọng Đoàn và Lê Thúc
Kỳ gia nhập tổ chức Việt Nam Quang Phục hội ở các tỉnh Nam Trung Kỳ
do Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh đạo. Tại Đại hội thành lập Việt Nam
Quang Phục hội ở Trung Kỳ, ông được cử phụ trách ban Kinh tài thay cho
Thái Phiên được bầu giữ chức chủ tịch.
Ông là một trong những người đã cùng Thái Phiên, Trần Cao Vân...
tích cực chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa ở kinh thành Huế có vua Duy Tân
tham gia. Ngày 3 tháng 5 năm 1916, cuộc khởi nghĩa nổ ra bị thất bại, Lê
Bá Trinh cùng hai em là Lê Trọng Đoàn, Lê Thúc Kỳ, bị đày đi Lao Bảo.
Trong nhà tù khắc nghiệt của đế quốc Pháp ông vẫn kiên cường dẫn đầu các
cuộc đấu tranh với bọn chúa ngục. Ông tích cực tham gia vụ cướp ngục
năm 1918 do Hồ Bá Kiện và Liêu Thanh lãnh đạo. Thực dân Pháp đàn áp,
em ông là Lê Trọng Đoàn cùng nhiều chiến sĩ hy sinh trong vụ thảm sát.
Ông bị chúng bắt lại ở rừng Lào bị chúng xích trong nhiều năm, chân thành
tật.
Sau khi mãn hạn trở về, ông mất tại Hòa Hải, Đà Nẵng vào năm 1934.
Nay ở thành phố Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh đều có đường phố
mang tên ông.
TỔNG KIÊM - ĐỐC BANG
Tổng Kiêm tên thật là Nguyễn Văn Kiêm là thuộc tướng của Đốc
Ngữ, do chiến đấu xuất sắc, được phong là Lãnh binh, nên còn gọi là Lãnh
Kiêm. Ông hoạt động mạnh ở tỉnh Phương Lâm, sau đổi là tỉnh Chợ Bờ, rồi
Hòa Bình.
Năm 1908, Đinh Công Nhung cậy thế giặc Pháp cướp 8 mẫu ruộng
của nhân dân Mông Hóa. Đốc Bang giữ chức phó tổng và Nguyễn Văn
Kiêm tức Tổng Kiêm lãnh đạo nhân dân Mông Hóa làm đơn kiện Đinh
Công Nhung lên Công sứ tỉnh, Thống sứ Bắc Kỳ và Toàn quyền Đông
Dương. Thực dân Pháp đã xử cho Đinh Công Nhung. Đinh Công Nhung
dựa vào thế lực Pháp khủng bố những người đi kiện hắn. Đốc Bang và
Tổng Kiêm phải trốn lên rừng. Đinh Công Nhung tàn bạo, bắt bố Đốc Bang
đóng cũi trôi sông để uy hiếp tinh thần đấu tranh của nhân dân.
Lãnh Kiêm liền chiêu mộ quân đánh Pháp. Vốn biết tiếng Lãnh Kiêm,
nên những nghĩa quân cũ của ông cùng nhiều người dân Việt, dân Mường
nhiệt liệt hưởng ứng, tham gia nghĩa quân rất đông, Lãnh Kiêm liên lạc
được với Đốc Bang.
Đốc Bang tên thực là Nguyễn Đình Nguyên, người Mông Hóa, huyện
Kỳ Sơn khi đó cũng đang tập hợp lực lượng đánh Pháp và tay sai Đinh
Công Nhung.
Đến tháng 4/1909, lực lượng nghĩa quân có 30 người, đặt tên là đội
“Bình Tây”. Quân kỳ mầu đỏ, có hai chữ “Bình Tây”. Hai ông làm lễ tế cờ
tại núi Viên Nam, xã Mông Hóa. Nghĩa quân tôn Tổng Kiêm làm Chánh
Thống tướng, Đốc Bang làm phó Thống tướng. Cuối tháng 7/1909 lực
lượng nghĩa quân lên tới 41 người, nhưng trang bị kém, chỉ có một khẩu
súng hỏa mai, 8 thanh mã tấu, còn lại là dao quắm, dao phát bờ. Hai ông
nhận được tin tại tỉnh Hòa Bình, công sứ Rênhiê (Régnier) đi dưỡng bệnh,
phó công sứ Patơrích (Patrich) đi thanh tra các đồn điền. Chánh quan lang
Đinh Công Nhung ở bên chợ Phương Lâm, hữu ngạn sông Đà. Tỉnh chỉ còn
lại Án sát và Đề đốc. Hai ông tính toán tuy quân số ít, vũ khí trang bị thua
xa quân Pháp, nhưng nghĩa quân lại có ưu thế là lòng căm thù giặc, quen
thuộc địa hình. Một thuận lợi nữa là viên Đề đốc đã hứa án binh bất động
khi nghĩa quân đánh vào tỉnh lỵ. Hai ông cho quân áp sát tỉnh lỵ, cho trinh
sát đi điều tra nắm vững địa hình, binh lực, hỏa lực, các mục tiêu là đồn lính
khố xanh, kho bạc, ty thương chính, nhà dây thép, nhà tù. Nắm chắc phần
thắng, Tổng Kiêm và Đốc Bang nhanh chóng quyết định đánh chiếm Tỉnh
lỵ, thời gian được ấn định vào đêm mùng 2 rạng ngày mùng 3 tháng 8 năm
1909. Trận đánh đã thành công tốt đẹp. Tổng Kiêm, Đốc Bang định đưa
quân vượt sông Hồng sang Tam Đảo,Vĩnh Yên, hợp với quân Đề Thám,
nhưng bị 3000 quân chặn đường nghĩa quân phải vượt sông Đà sang đóng ở
Bản Thôn thuộc huyện Thanh Thủy định vượt sông Hồng, sông Lô sang
Vĩnh Yên nhưng quân Pháp phái 3 tiểu đoàn chặn đánh ở Tô Vũ vào ngày
31/10/1909. Tình thế buộc nghĩa quân vượt sông trở lại, bị quân Pháp cắt
nghĩa quân làm đôi, Tổng Kiêm bị dồn về chân núi Ba Vì. Đốc Bang bị bao
vây ở Mông Hóa. Nghĩa quân phải phân tán thành nhiều toán, đánh những
trận nhỏ. Do quân Pháp khủng bố nhân dân dữ dội, không có tiếp tế nên
nghĩa quân bị cô lập. Đêm 29 rạng ngày 30/12/1909, Đốc Kiêm hy sinh
trong 1 trận bị quân Pháp phục kích. Trong tháng 01/1910, trong một trận
đánh, nghĩa quân hy sinh, bị bắt 25 người, 84 người bị bao vây, hết đạn, hết
lương thực phải ra hàng. Đốc Bang bị Pháp đày ở Lạng Sơn 20 năm.
PHẠM CHÁNH - PHẠM LUÂN - NGUYỄN SUM
Đêm mùng 4 rạng ngày mùng 5 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết,
Phạm Thận Duật, Trần Xuân Soạn chỉ huy Phấn nghĩa quân tấn công toà
Khâm sứ Pháp, đồn Mang Cá, khu nhượng địa. Việc không thành, sáng 5/7
quân Pháp phản công, Tôn Thất Thuyết hộ giá vua Hàm Nghi ra sơn phòng
Quảng Trị, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương. Các tướng lĩnh, sĩ phu,
những người yêu nước khắp các tỉnh Trung Kỳ, Bắc Kỳ sôi nổi hưởng ứng.
Tại tỉnh Khánh Hoà có Trịnh Phong, Trần Dương, Phạm Chánh cùng
con trai là Phạm Luân và Nguyễn Sum cùng nhiều người khác hưởng ứng.
Phạm Chánh cùng con trai là Phạm Luân và Nguyễn Sum đều quê tại làng
Hội Khánh huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà. Ba người đã hăng hái hưởng
ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, đứng ra chiêu mộ nghĩa quân
đánh Pháp. Đông đảo trai tráng trong huyện Vạn Ninh đã tới làng Hội
Khánh nơi đặt đại bản doanh cuộc khởi nghĩa tòng quân. Nhiều người còn
đem theo cả vũ khí, lương thực đến. Phạm Chánh giao cho con trai là Phạm
Luân biên chế nghĩa quân thành cơ đội, huấn luyện các thao tác chiến đấu,
cách sử dụng vũ khí. Nguyễn Sum lo công tác hậu cần chủ yếu là mua sắm
quyên góp vũ khí quân lương.
Nhận được tin Phạm Chánh cùng với Phạm Luân, Nguyễn Sum khởi
nghĩa, Thượng thư bộ Binh Tôn Thất Thuyết cử phái viên giao cho ba
người cai quản nghĩa quân hạt Vạn Ninh. Nhận thấy địa hình ở Hội Khánh
trống trải, các ông xây dựng căn cứ và thành lập kho lương tại Đồng Đồn
trên núi Ninh Phước. Phạm Chánh cùng Phạm Luân và Nguyễn Sum chỉ có
tấm lòng căm thù giặc, yêu nước thiết tha, không có kiến thức về quân sự,
lại không có tham mưu giỏi. Công tác tuyển quân cũng ồ ạt, theo lối “đánh
trống ghi tên” không lựa chọn, nên có những kẻ cơ hội, cả bọn lưu manh lọt
vào hàng ngũ. Quân Pháp nghe tin đánh bất ngờ vào ban đêm, các ông
không đề phòng nên bị thất bại, nghĩa quân mạnh ai nấy chạy, kho lương bị
đốt cháy.
Sau trận tập kích của quân Pháp, các ông tụ tập tàn quân chờ ngày
khởi sự. Nhận được tin quân Pháp đóng ở thôn Hiền Lương, Phạm Chánh
cùng Phạm Luân, Nguyễn Sum đem quân đến đánh báo thù. Trận đánh diễn
ra vô cùng ác liệt, quân Pháp bị thiệt hại nặng nề, nhưng ba ông lại bị thua,
quân số còn rất ít. Lẽ ra các ông nên rút vào nơi an toàn bổ sung lực lượng,
trang bị thêm vũ khí, chờ cơ hội diệt địch thì các ông lại đưa số quân ít ỏi,
trang bị kém xa quân Pháp, đánh trận thứ ba ở núi Quán Chùa. Kết quả là
trận này các ông lại bị thua. Đánh ba trận thua cả ba, nghĩa quân chán nản
bỏ đi. Khi hai cha con Phạm Chánh rút về căn cứ trên núi không thấy
Nguyễn Sum, hai cha con ông xuống núi trở lại trận địa tìm kiếm thì thấy
Nguyễn Sum bèn đưa về căn cứ chữa vết thương. Quân sĩ lúc này bỏ đi hết
chỉ còn lại hai cha con Phạm Chánh và Nguyễn Sum.
Ba ông rút về núi Tu Bông, hết lương thực, bị quân Pháp bao vây
chặt, không có người tiếp tế, Phạm Chánh về làng tìm lương thực, bị tay sai
của giặc Pháp bắt nộp cho Đốc phủ. Khi dựng cờ khởi nghĩa ba người đã
thề sống chết có nhau nên Phạm Luân và Nguyễn Sum tự ra cho giặc bắt để
cùng được chết. Giặc Pháp và bọn tay sai dụ dỗ các ông đầu hàng, các ông
không theo. Chúng tra tấn cực kỳ dã man cũng không khuất phục được các
ông.
Chúng đưa các ông về làng Hội Khánh xử bắn tại Gò Đồn. Bắn xong,
chúng chặt đầu ba người. Đầu cha con ông Phạm Chánh bêu tại Tu Bông,
thân mình bêu tại Vạn Dã, đầu ông Nguyễn Sum bêu tại Vạn Dã, thân mình
bêu tại Gò Bí (Tu Bông). Ai đi qua cũng vô cùng thương cảm, mãi ba ngày
sau chúng mới cho gia đình chôn cất.
Mộ Phạm Chánh, Phạm Luân, Nguyễn Sum nay vẫn còn ở thôn Hội
Khánh, huyện Vạn Ninh.
KỲ ĐỒNG NGUYỄN VĂN CẨM
Kỳ Đồng tên thật là Nguyễn Văn cẩm sinh ngày 10 tháng 8 năm
1875, cha là Nguyễn Văn Tỵ đỗ nhị trường, sống bằng nghề dạy học, đan
lát và đóng cối xay, dân làng gọi là cụ Đồ Tỵ. Nguyễn Văn Cẩm sớm bộc lộ
thông minh kỳ lạ từ khi mới bốn, năm tuổi. Năm 6 tuổi đã học chữ Nho, có
tài ứng đối nhanh và rất tài tình. Lên bẩy tuổi, đã biết làm thơ chữ Hán và
thuộc nhiều câu sấm Trạng Trình. Nghe đồn Nguyễn Văn Cẩm thông minh
kỳ lạ, nhiều nhà nho đến tận nơi thử tài. Một hôm bạn của cha cậu đến chơi,
đọc một câu trong sách:
Tam tài: thiên, địa, nhân (Ba cõi trời, đất, người).
Nguyễn Văn Cẩm ngồi chơi ở góc nhà liền đối:
Tứ thi: phong, nhã, tụng.
Chỗ hóc búa là nói đến bốn thể thơ mà chỉ có ba. Nhưng tuy ba mà
bốn, vì chữ Nhã bao gồm cả chữ nhã và tiểu nhã cộng vói phong, tụng đúng
là bốn thể thơ.
Những huyền thoại đối đáp của Kỳ Đồng với những nhà thâm nho,
những vị khoa bảng nhiều và hết thảy người ra đối đều vô cùng thán phục.
Điều đặc biệt là Kỳ Đồng chưa một lần bị thua cuộc.
Lên tám tuổi, Nguyễn Ván cẩm được cha dẫn lên tỉnh Hưng Yên dự
kỳ thi sát hạch, chuẩn bị cho kỳ thi Hương ở Nam Định. Các quan chấm thi,
thấy cẩm bé, ra câu đối cực khó, nhưng Kỳ Đồng lập tức đối lại rất chỉnh
khiến các quan trường đều phải phục tài. Kết quả Nguyễn Văn Cẩm đạt
hạng Ưu. Các quan tỉnh kinh dị làm sớ tâu về triều.
Vua Tự Đức có chỉ dụ: “Cấp cho trẻ lạ Hưng Yên Nguyễn Văn Kỳ (tức
Cẩm) lên tám tuổi mà thông minh, nhà nghèo, chăm học, mỗi tháng ba
quan tiền, một phương gạo, quần áo mỗi thứ hai cái, một năm cấp một
lần”. (Trong bức thư gửi cho công sứ Thái Bình ngày 2/5/1897. Nguyễn
Văn Cẩm cho biết tên Kỳ Đồng là do vua Tự Đức ban)
Tiếng tăm và những huyền thoại của Kỳ Đồng ngày càng vang xa.
Nhân dân ở các tỉnh Bắc Kỳ, kể cả Thanh - Nghệ rất ngưỡng mộ và kính
phục coi ông như Trạng Trình giáng sinh để cứu dân, cứu nước đã kéo nhau
về xem mặt Kỳ Đồng đông như trẩy hội.
Năm 1887 phong trào theo Kỳ Đồng lên rất cao, các sĩ phu yêu nước
ở Nam Định, Thái Bình muốn nhân dịp này tổ chức lực lượng để đánh
chiếm thành Nam Định, nên đã tuyên truyền rộng rãi những kỳ tài của Kỳ
Đồng.
Thống sứ Bắc Kỳ Bờ Ri e rơ (Brrière) trước từng làm công sứ Nam
Định, sợ Kỳ Đồng trở thành ngòi nổ cho một cuộc khởi nghĩa chống Pháp.
Bắt Kỳ Đồng đưa đi tù thì lập tức dân có phản ứng mạnh mẽ đòi trả tự do
cho thần tượng. Hắn liền đưa Kỳ Đồng sang học ở trường Lui Lơgrang
(Louis Le Grand) ở thủ đô Algé nước Algéri để tách ông ra khỏi phong trào
chống Pháp và hy vọng đào tạo thành tay sai của chúng. Tại Algérie, Kỳ
Đồng đã liên hệ với vua Hàm Nghi (vua Hàm Nghi hơn Kỳ Đồng ba tuổi).
Tháng 9 năm 1896, Kỳ Đồng đỗ tú tài toàn phần, chúng đưa ông về nước.
Bọn cầm quyền Pháp giao cho ông nhiều chức vụ nhưng ông không nhận.
Ông trở về quê mở trường dạy học chữ Hán và chữ Pháp. Người đến học
trường ông rất đông. Ông làm giỗ bố thật to để bạn bè xa gần đến làng
Ngọc Đình cùng nhau hội ngộ bàn việc cứu nước. Trước những hoạt động
tích cực vận động phong trào chống Pháp của Kỳ Đồng, thực dân Pháp ra
lệnh đóng cửa trường và giám sát ông chặt chẽ.
Kỳ Đồng xin phép mở đồn điền song mật thám Pháp cho theo dõi sát
từng hành động nhỏ của ông ở khắp mọi nơi.
Kỳ Đồng trở thành quân sư của cuộc khởi nghĩa lớn do Mạc Đình
Phúc lãnh đạo. Trước nguy cơ bùng phát một cuộc khởi nghĩa mới, Toàn
quyền Đông Dương ra lệnh cho Péroz chỉ huy đạo quân Yên Thế phải bí
mật bắt Kỳ Đồng. Khi ông bị bắt, giặc Pháp dùng thuyền máy đưa ông về
Hải Phòng. Từ Hải Phòng chúng đưa ông vào Sài Gòn theo đường biển rồi
giải sang Pháp. Từ khi bị bắt, chúng cùm xích ông canh gác rất chặt rồi đưa
đi đầy ở Tahiti thuộc quần đảo Polinêdi. Tin tức Kỳ Đồng Nguyễn Văn
Cẩm bị Pháp bắt đầy sang đảo Tahiti, lập tức Hội Bảo vệ và bênh vực nhân
dân bản xứ tại Pháp, bác sĩ Ghia người cùng Kỳ Đồng khai phá đồn điền
chợ Kỳ ở Yên Thế đã gửi thư cho Toàn quyền Pôn Dume đòi trả tự do cho
Kỳ Đồng nhưng không kết quả. Tại Tahiti, Kỳ Đồng đã làm quen với nhà
danh họa người Pháp bị đày sang đó năm 1901. Ông viết một vở kịch ba hồi
“Những mối tình của người họa sĩ già ở quần đảo Mác ki dơ”. Trong suốt
30 năm bị đi đầy, ông không được gặp một người đồng bào nào của mình,
không hề biết tin tức gì về đất nước mình. Ông mất ngày 17/7/1929.
MẠC ĐÌNH PHÚC
Mạc Đình Phúc tên thực là Nguyễn Khắc Tình, còn gọi là Khóa Tinh,
Khóa Doãn, người làng Bình Hà, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.
Ông là người có học, đỗ khóa sinh, từng làm tiên chỉ ở làng Bình Hà.
Ông có quan hệ rộng với hàng lý dịch trong huyện và có hiểu biết về lính
Pháp.
Từ năm 1881, khi Nguyễn Văn Cẩm lên 6 tuổi nổi tiếng thần đồng,
được coi là Trạng Trình tái thế cứu nhân dân. Người khắp các tỉnh ở Bắc
Kỳ, cả Thanh - Nghệ kéo đến làng Ngọc Đình xem mặt và thử tài. Trong
dòng người đó có Nguyễn Khắc Tinh.
Tại đây, ông đã thấy rõ trí tuệ thông minh của Nguyễn Văn Cẩm trong
lòng rất kính phục. Ông cũng kết thân với các nhà nho như cử nhân Bùi
Tam Đồng huấn đạo huyện Duyên Hà, Phó bảng Trần Xuân Sắc, tri huyện
huyện Tiên Lữ, cử nhân Nguyễn Bá Ôn, quê ở làng Nguyệt Lâm, huyện
Kiến Xương, cử nhân Phan Cung quê ở Nam Định.
Từ đó Khóa Tinh thường xuyên đi lại với các nhà nho ở Thái Bình
(khi đó còn là phủ Thái Bình, thuộc tỉnh Nam Định) và huyện Duyên Hà
(khi đó thuộc Hưng Yên).
Sau khi Kỳ Đồng về nước và tổ chức một cuộc gặp mặt anh em, đồng
bào, Mạc Đình Phúc trở về Thanh Hà gấp rút chuẩn bị cho sự ra đời của tổ
chức Mạc Thiên binh. Ông triệu tập gấp cuộc họp với Nguyễn Văn Viễn,
Phạm Ngọc Bài, Phạm Huy Thiện, Đội Khánh, Quản Hà phát động phong
trào Mạc Thiên binh, Phan Cung cũng rời Nam Định sapg Thanh Hà với
danh nghĩa thầy đồ đi mở trường dạy học để giúp Mạc Đình Phúc thảo hịch,
mệnh lệnh, thư từ giao dịch với thủ lĩnh các tỉnh.
Mạc Đình Phúc giao cho Nguyễn Văn Viễn, Phạm Ngọc Bài, Phạm
Huy Thiện phát triển lực lượng ở Hải Dương còn ông tới Hải Phòng, bí mật
liên hệ với tri phủ Kiến Thụy Phạm Huy Du và các thủ lĩnh ở Kiến An như
Lãnh Mộc, Tổng Tốn...
Tại Thái Bình, ngoài việc gặp gỡ chủ súy Nguyễn Bá Ôn, Mạc Đình
Phúc thường đến chùa Lãng Động ở huyện Trực Định (Kiến Xương) bàn
bạc với sư Thụ người chỉ huy quân sự cao nhất ở Thái Bình tuyên truyền
chống Pháp. Ông phát cho nghĩa đảng của mình một thẻ tre có chữ Mạc
Thiên binh.
Mạc Đình Phúc loan truyền tin, ông được trời cho chức “Mạc thị
khâm sai trừ Tây, diệt Nguyễn” do đó ông có nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân
chống Pháp, đánh đuổi, tiêu diệt chúng, lật đổ vua quan nhà Nguyễn. Phong
trào Mạc Thiên binh từ Thanh Hà lan rộng ra các huyện.
Cùng với việc tuyển quân tại chỗ, Mạc Đình Phúc, Nguyễn Bá Ôn,
Bùi Tam Đồng, Phan Cung... còn tích cực vận động người di dân lên Yên
Thế xây dựng đồn điền chợ Kỳ cho Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm, thực tế là
để dự các lớp huấn luyện quân sự do Kỳ Đồng trực tiếp giảng dạv.
Pháp giao cho tri phủ Lê Văn Thức đánh dẹp nghĩa quân ở Thanh Hà.
Sau khi Tuần Thức bắt được Mạc Đình Phúc, chúng giải ông về thị xã Hải
Dương và xử tử ông vào ngày 29 tháng 12 năm 1897.
NGUYỄN BÁ ÔN
Nguyễn Bá Ôn quê ở làng Nguyệt Lâm, nay là xã Minh Tân, huyện
Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông là một nhà nho, không đỗ đạt, nhưng nổi
tiếng về phương thuật.
Ông tự xưng là Thiên thần giáng sinh. Bấy giờ bệnh dịch tả hoành
hành ở khắp các tỉnh, người ta mang kiệu tới rước ông đi trừ dịch, có khi
vào đến Thanh Hóa, Nghệ An. Nhưng thực ra đó chỉ là một tấm bình phong
cho hoạt động tuyên truyền chống Pháp của ông.
Ông có mối quan hệ mật thiết với Tạ Hiện, Bang Tốn. Ông đã cùng
với Phó bảng Trần Xuân sắc cử nhân Bùi Tam Đồng dạy dỗ thơ văn và
truyền cảm lòng yêu nước cho thần đồng Nguyễn Văn Cẩm truyền bá rộng
rãi những “câu sấm” và văn thơ của Kỳ Đồng ra quảng đại quần chúng.
Nguyễn Bá Ôn và một số đồng chí đã quyết định xây dựng lực lượng
chiến đấu do Mạc Đình Phúc làm minh chủ, Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm
làm quốc sư, Nguyễn Bá Ôn làm chủ súy.
Tháng 12/1896, Kỳ Đồng với tư cách là Quốc sư, Nguyễn Bá Ôn với
tư cách là chủ súy đã bí mật sang Bình Hà (huyện Thanh Hà) Hải Dương
cùng Mạc Đình Phúc thảo luận cụ thể kế hoạch chiêu mộ, huấn luyện quân
sĩ, xây dựng căn cứ, chuẩn bị vũ khí quân lương ở các tỉnh đồng bằng Bắc
Kỳ để khởi nghĩa khi có thời cơ.
Với ý định xây dựng căn cứ quân sự để mưu việc chống Pháp, tháng 9
năm 1897 ông phối hợp với bác sĩ Ghia mở đồn điền ở Yên Thế, gần căn cứ
Phồn Xương của Hoàng Hoa Thám. Theo báo cáo của mật thám thì đồn
điền có từ 2500 đến 3000 người. Ông vẫn giữ vững mối liên lạc với Mạc
Đình Phúc và Nguyễn Bá Ôn chỉ đạo tích cực chuẩn bị khởi nghĩa.
Trong khi Kỳ Đồng ở Yên Thế thì Nguyễn Bá Ôn khẩn trương cùng
các tướng là Sư Thụ chùa Thuyền Quan, Lãnh Chuẩn khẩn trương tổ chức
nghĩa quân, trang bị vũ khí, điều tra sự bố phòng của giặc cho trận đánh sắp
tới. Nguyễn Bá Ôn cũng tới Bình Hà với tư cách là chủ súy cùng Mạc Đình
Phúc đi Hải Phòng, Kiến An khích lệ tướng sĩ làm tốt công tác chuẩn bị
khởi nghĩa. Ông chăm chú nghe các tướng báo cáo mục tiêu, kế hoạch tấn
công, huy động lực lượng một cách cụ thể.
Giặc Pháp lo sợ những hoạt động của Kỳ Đồng nên bắt cóc ông song
kế hoạch khởi nghĩa vẫn được Mạc Đình Phúc và Nguyễn Bá Ôn thực
hiện.Cuộc khởi nghĩa của phong trào Kỳ Đồng - Mạc Đình Phúc ở các tỉnh
Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình nhanh chóng bị giặc Pháp đàn áp. Mạc
Đình Phúc bị bắt và bị xử tử vào ngày 29/12/1897, Sư Thụ bị thương, bị bắt
cũng bị chúng tử hình. Nguyễn Bá Ôn bị bắt, giam ở đề lao Thái Bình, bị
tên công sứ David xử tử ngay tại đề lao. Có tài liệu lại viết ông bị quân
Pháp đưa về làng Nguyệt Lâm chém đầu ông trưóc đền Tam Thánh để uy
hiếp dân chúng. Dân làng xô nhau vào lấy vải xô màn thấm máu ở cổ ông
đưa về thờ.
NGUYỄN THÁI PHÚC
Nguyễn Thái Phúc quê ở tỉnh Hải Dương là một chiến sĩ chống Pháp
kiên cường; Giặc Pháp và chính quyền Nam triều truy nã gắt gao, ông phải
cải trang là nhà sư để che mắt giặc. Ông đến tu ở chùa Nham Chàng, tên
Nôm là làng Chàng, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam với pháp danh là Sư So.
Sư So tham gia nghĩa quân của Đinh Công Tráng, lo việc huấn luyện quân
sự, quyên góp, sản xuất lương thực làm quân lương, lo cứu chữa thương
binh, chôn cất tử sĩ. Ông còn trực tiếp tham gia các trận đánh lớn ở căn cứ
Rừng Chàng, Bưởi, Tâng, Sở Kiện (Hà Nam), chợ Dầu (Vụ Bản, Nam
Định)...
Ngày 15 tháng 3 năm 1874, Triều đình Huế ký Hiệp ước mang tên
''Hiệp ước Hòa bình liên minh” bán rẻ chủ quyền đất nước cho giặc Pháp,
Đinh Công Tráng trả chức quan cho triều đình về tuyển mộ quân sĩ, trang bị
vũ khí xây dựng căn cứ chống Pháp ngay ở làng Chàng và rừng Chàng.
Nghĩa quân do Đinh Công Tráng chỉ huy lên tới 2000 người, chia thành 5
đạo trung quân, tiền, hậu, tả hữu. Sư So tham gia nghĩa quân lo việc huấn
luyện quân sư quyên góp, sản xuất lương thực làm quân lương, lo cứu chữa
thương binh, chôn cất tử sĩ. Ông còn trực tiếp tham gia các trận đánh lớn ở
căn cứ Rừng Chàng, Bưởi, Tâng, Sơ Kiện (HàNam), chợ Dầu (Vụ Bản,
Nam Định)...
Khi giặc Pháp tập trung quân đàn áp khốc liệt các căn cứ của Đinh
Công Tráng ở Hà Nam, Đinh Công Tráng rút quân về Ninh Bình rồi cùng
các tướng lĩnh ở Thanh Hóa xây dựng căn cứ Ba Đình ở Nga Sơn, Thanh
Hóa thì Sư So đổi tên là Sư Thọ, giặc Pháp truy lùng ông đổi tên là Sư Dù.
Không thể ở Hà Nam, Ninh Bình được, ông về tỉnh Nam Định đến tu ở
chùa Lãng Động huyện Trực Định, nay thuộc xã Trà Giang, huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình và đổi pháp danh là Sư Thụ. Ngay khi về Trực Định,
sư Thụ đã mộ quân tham gia phong trào kháng chiến do Tạ Hiện lãnh đạo.
Ông đã đem quân phối họp với Lãnh Bon đánh quân Pháp trong trận Tống
Vũ, huyện Trực Định, nay thuộc huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Phong
trào Cần Vương thất bại, Sư Thụ liên lạc với Mạc Đình Phúc, người làng
Bình Hà, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương thủ lĩnh phong trào Mạc Thiên
binh để phát triển phong trào ở Thái Bình.
Sư Thụ là người chỉ huy cao nhất của phong trào Mạc Thiên binh tại
Thái Bình. Đêm 15 rạng ngày 16 tháng 12 năm 1897, một đội nghĩa binh
gần 200 người do sư Thụ trực tiếp chỉ huy theo đê sông Trà Lý tiến về đánh
chiếm Phủ Bo. Cuộc chiến đấu của nghĩa quân ở dinh công sứ đang diễn ra
quyết liệt, nghĩa quân chiếm ưu thế áp đảo quân Pháp thì tên giám binh Lit
tây (Littaye) mang lính đến bắn mạnh vào phía sau nghĩa quân. Vì không có
phòng bị từ trước, nhiều nghĩa quân hy sinh, hàng ngũ nghĩa quân rối loạn.
Lợi dụng cơ hội đó, bọn lính mở cổng dinh đánh ra nghĩa quân bị kẹp vào
giữa, nên phải rút lui. Sự Thụ trốn lên Kỳ Bá, giặc Pháp kéo tới bao vây. Sư
Thụ chỉ huy nghĩa quân
đánh trả quyết liệt, ông bị thương và bị chúng bắt. Các tướng như Lãnh
Chuẩn, tức Đỗ Đình Chuẩn cũng lần lượt bị quân Pháp và quân Nam triều
bắt. Sau khi quân Pháp bắt được Sư Thụ, Công sứ David sai Tri phủ Kiến
Xương Phạm Văn Thụ đem lính về làng Lãng Động, căn cứ của Sư Thụ
tịch thu ấn tín, bằng sắc, bắt thêm một số người nữa, giải về tỉnh. Giặc Pháp
xử chém ông ở Gò Muống nay là bãi đất lương thực thị xã. về sự kiện này,
Giáo sư sử học Đinh Xuân Lâm viết: “Cùng lúc với các cuộc tấn công vào
Hải Dương, thành phố Hải Phòng, nghĩa quân Thái bình do Nguyễn Thái
Phúc chỉ huy vào đêm 15 rạng ngày 16 tháng 12 năm 1897 theo đê Trà Lý
tiến về đánh chiếm tỉnh lỵ”.
Cuộc chiến đấu do Sư Thụ chỉ huy trong phong trào chống Pháp Kỳ
Đồng - Mạc Đình Phúc đã chứng tỏ các hòa thượng, sư sãi tuy gửi thân nơi
cửa Phật, nhưng vẫn không thoát li cuộc chiến đấu của dân tộc chống ngoại
xâm, sẵn sàng cởi áo cà sa cầm vũ khí đánh giặc, nhiều vị đã anh dũng hy
sinh da ngựa bọc thây nơi chiến địa.
BÙI TAM ĐỒNG
Bùi Tam Đồng người làng Thượng Hộ, tổng Thượng Hộ, huyện
Duyên Hà, nay thuộc xã Minh Hồng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đậu
cử nhân khoa Bính Tý (1876). Bùi Tam Đồng có thời làm huấn đạo huyện
Duyên Hà, Hưng Nhân; có thời gian được Tự Đức cử làm Hà đê phó sứ
chuyên lo chỉ huy đắp đoạn đê Văn Giang. Ông là một nhà Văn thân chống
Pháp. Khi ông làm Huấn đạo huyện Duyên Hà, nghe đồn về cậu bé kỳ tài
Nguyễn Văn Cẩm, ông đã cùng hai người bạn đến xem mặt và thử tài.
Khách đến nhà, Kỳ Đồng đang chơi trò thuyền vỏ trứng ở ngoài ao. Thấy
Kỳ Đồng có cái chỏm và hai trái đào ông Huấn đạo liền đọc: “Một thằng ba
chỏm tóc”'. Không cần suy nghĩ, -Nguyễn Văn Cẩm ứng khẩu đáp: “Ba cụ
chín chòm râu”. Cử nhân Bùi Tam Đồng phải phục là tài. Từ đó cử nhân
Bùi Tam Đồng cùng với Phó bảng Trần Xuân sắc, cử nhân Nguyễn Bá Ôn
đã cùng nhau dạy dỗ, giúp cho tài năng thần đồng của Kỳ Đồng Nguyễn
Văn Cẩm ngày càng bay cao, bay xa.
Trong đám giỗ do Kỳ Đồng tổ chức, đã tụ họp các văn thân, phát
động nhân dân các tỉnh đồng bằng khởi nghĩa và đưa ra việc mở đồn điền ở
chợ Kỳ (Yên Thế, Bắc Giang), các ông đã phân công Bùi Tam Đồng giúp
Kỳ Đồng vận động người và của đi mở đồn điền, còn Nguyễn Bá Ôn, Phan
Cung giúp Nguyễn Khắc Tỉnh xây dựng lực lượng vũ trang.
Việc Kỳ Đồng trở về nước, mở đồn điền ở chợ Kỳ, Yên Thế và cùng
những sĩ phu ủng hộ Kỳ Đồng đi khắp các tỉnh tập hợp quần chúng, làm
cho nhà cầm quyền Pháp lo lắng, tìm mọi cách để bắt. Bùi Tam Đồng hiểu
rõ việc Kỳ Đồng lập đồn điền chỉ là cái cớ để xây dựng căn cứ quân sự ở
Yên Thế bên cạnh căn cứ của Đề Thám. Bùi Tam Đồng còn hiểu rõ ý nghĩa
này trong bài thơ: “Niềm vui vỡ đồn điền” trong đó có câu: “Lấy Nông
nghiệp tạo thành quân nghiệp”. Vì vậy Bùi Tam Đồng đã cùng các nhà nho
ở trong nhóm văn thân trước đây như các ông Trần Hữu Giảng, Trần Văn
Gia, Trần Xuân Tuyên ở thôn Quần Anh... (nay thuộc xã Hải Trung, huyện
Hải Hậu, tỉnh Nam Định tuyên truyền vận động nông dân và cả các nho sĩ,
nghĩa quân của các cuộc khởi nghĩa trước, một số tổng lý yêu nước có
những nhà rất giàu, tham gia.
Khi Kỳ Đồng bị nhà cầm quyền Pháp bắt đày ở đảo Hahiti, cuộc khởi
nghĩa do Mạc Đình Phúc lãnh đạo bị đàn áp, thực dân Pháp điên cuồng
khủng bố bắt những người có liên quan, cử nhân Bùi Tam Đổng cũng bị bắt
giam giữ một thời gian dài, sau không đủ chứng cớ buộc tội, chúng phải
thả.
TRẦN XUÂN SẮC
Trần Xuân sắc tự là Trọng Ôn, hiệu là Đông Viên, biệt hiệu là Đông
Hải tiên sinh, sinh năm Đinh Mùi (1847). Ông là người xã Đông Thành,
huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, nay Đông Thành thuộc huyện Tiền Hải,
tỉnh Thái Bình.
Năm Quý Mùi (1879) ông đỗ phó bảng, lúc 33 tuổi. Ông được làm tri
huyện huyện Tiên Lữ là một huyện nghèo ở trên bờ Hữu ngạn sông Luộc,
tỉnh Hưng Yên.
Năm 1882 quân Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ hai, một số quan lại vô
liêm sỉ trở thành tay sai của giặc Pháp, đàn áp nhân dân như Nguyễn Chính,
Trần Đình Túc, Hoàng Cao Khải. Ông chán nản bỏ quan về nhà ở xã Đông
Thành dạy học.
Tại đây, ông có mối liên hệ chặt chẽ với những nhà nho yêu nước
thuộc phe chủ chiến như Nguyễn Quang Bích, Tạ Quang Hiện, Nguyễn
Thiện Thuật, Nguyễn Hữu Đức...
Giặc Pháp và tay sai cho Pháp như Tổng đốc Nam Định Vũ Văn Báo
cho mật thám theo dõi ông. Ông là người có nhân nghĩa, khảng khái, sống
thanh cao, nên được các nghĩa sĩ và nhân dân mến phục, hết lòng bảo vệ,
nên tránh được nhiều phen nguy hiểm.
Ông không chỉ dạy văn chương, chữ nghĩa mà còn truyền cho học trò
tinh thần yêu nước, thương dân. Nhiều học trò của ông trở thành những
chiến sĩ cách mạng kiên cường.
Nghe tiếng Kỳ đồng Nguyễn Văn cẩm, ông đã gặp và thử tài của cậu,
ông ra cho Kỳ Đồng một vế đối:
Ngữ bá tự xưng ngũ xích đồng.
Nghĩa là: đứa bé 12 tuổi (5 thước) cũng thấy xấu hổ khi nói đến dạo
Ngũ Bá.
Vì thế thực dân Pháp cho người theo dõi ông.
Từ khi được gặp mặt và trò truyện với cậu bé thông minh, xuất chúng,
ông thường xuyên đến Ngọc Đình để bồi dưỡng một cách có hệ thống và cơ
bản về kinh sách, về đạo làm người cho cậu bé thông minh này. Trần Xuân
sắc quả không lầm, Nguyễn Văn Cẩm không hề tự phụ, kiêu căng về sự
thông tuệ khác thường của mình, mà đã chăm học học tập bài thày giảng, kể
cả những điều mình đã biết. Trần Xuân Sắc đã cùng Nguyễn Bá Ôn, cử
nhân Bùi Tam Đồng đã góp một phần vào việc hun đúc nhân tài Kỳ Đồng
Nguyễn Văn Cẩm.
`Năm 1907, Trần Xuân sắc cùng các nhà nho Nguyễn Hữu Cương,
Ngô Quang Đoan ở huyện Kiến Xương, Lý Thoa mở trường dạy học chữ
quốc ngữ theo chương trình của trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội.
Trần Xuân sắc dạy học suốt 40 năm, đào tạo rất nhiều nhân tài cho đất
nước. Ông mất ngày 30 tháng 5 năm Kỷ Mùi (1919) thọ 72 tuổi.
SƯ CỤ VƯƠNG QUỐC CHÍNH
Sư cụ Vương Quốc Chính là một nhà nho yêu nước ở làng Cổ Am,
huyện Vĩnh Bảo, phủ Kiến An tỉnh Hải Dương, nay thuộc quận Kiến An,
thành phố Hải Phòng. Cụ là một nhà sư uy tín trụ trì và thuyết pháp ở nhiều
chùa tại phủ Kiến An, trong đó có chùa Hoa Long ở núi Voi, huyện An Lão,
phủ Kiến An. Cụ là bạn thân của Tổng đốc Hải Yên kiêm Tán tương quân
vụ Nguyễn Thiện Thuật. Khi ông Thuật từ quan, dựng cờ khởi nghĩa ở Chí
Linh, Đông Triều, sư cụ Vương Quốc Chính cùng một số đồ đệ đã có mặt
dưới cờ. Sư cụ được chủ tướng giao cho về Kiến An phát động các tầng lớp
nhân dân khởi nghĩa chống Pháp.
Tháng 9 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật nhận được chiếu Cần vương
của vua Hàm Nghi về nước nhận nhiệm vụ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi
Sậy thì Vương Quốc Chính gia nhập cuộc khởi nghĩa do Cử Bình, Nguyễn
Văn Tư quê ở huyện An Lão phát động. Các thủ lĩnh nghĩa quân An Lão
xây dựng căn cứ ở chùa Hoa Long - nơi sư cụ Vương Quốc Chính tu hành.
Nghĩa quân đã đánh nhiều trận, gây thiệt hại nặng nề cho quân Pháp. Chúng
cho quân vây ráp, sư cụ phải đi lánh nạn ở Hương Sơn một thời gian, khi
giặc Pháp rút lại trở về chùa và tiếp tục tu hành. Tháng 7 năm 1889, sư cụ
Vương Quốc Chính dẫn một số nghĩa quân chạy sang huyện Lang Tài, tỉnh
Bắc Ninh để nhập vào đạo quân do Nguyễn Thiện Kế, Đề Vinh chỉ huy.
Nhưng quân Pháp đã chiếm hết các
ngả đường sang Lang Tài, Thuận Thành. Sư cụ tìm về căn cứ Hai Sông
ở Thủy Nguyên do Đốc Tít chỉ huy thì căn cứ đã bị 4 cánh quân của Giám
binh Blancha và giám binh Lannan, Tán lý Đào Trọng Kỳ, Tán lý Cao Xuân
Dục và Hoàng Cao Khải Tư lệnh binh đoàn cảnh sát vây đánh. Ông bèn rút
về căn cứ Bãi Sậy ở Khoái Châu nhưng căn cứ này cũng bị quân Pháp vây
chặt để triệt đường nghĩa quân đi ứng cứu ở các nơi khác. Sư cụ Vương
Quốc Chính được sư ông ở chùa Khúc Lộng (Văn Giang) là trạm liên lạc bí
mật của Nguyễn Thiện Thuật, thì được sư ông cho biết Đề Yêm - người mà
sư cụ từng gặp trong các cuộc họp tướng lĩnh đang xây dựng căn cứ ở Chùa
Tuyết Sơn động trên núi Bảo Đài, chùa Hương Sơn. Sư cụ đã từng hành
Hương tới chùa theo lối tắt Phủ - Lý - Ba Sao, liền cho quân lính cải trang
thành phường thợ gặt, thợ sơn tràng đi làm nhiều tốp nhỏ, đến tập kết ở
chùa Hương Sơn.
Đề Yêm vui mừng đón nhận vị sư yêu nước vào bộ chỉ huy và còn
yêu cầu cụ trụ trì chùa Ngọc Long Động vì sư ông ở đây vừa viên tịch.
Tuy nương thân nơi cửa Phật, nhưng sư cụ Vương Quốc Chính vẫn bí
mât liên lac với các đồng chí mưu viêc cứu nước. Ngày rằm tháng 4 năm
1895 họ cùng về chùa Tuyết Sơn họp bàn việc thành lập tổ chức cứu nước,
lấy tên là hội Thượng Chí. Cuộc khởi nghĩa đã gây cho giặc Pháp nhiều tổn
thất rất lớn, chúng thẳng tay đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sư cụ Vương Quốc
Chính và nhiều nhà sư ở Sơn Tây, Hà Đông bị giặc Pháp giết hại.
Cuộc vũ trang chống xâm lăng của sư cụ Vương Quốc Chính khởi
xướng, tuy thất bại, nhưng vẫn nêu một tấm gương sáng chói lọi trong cuộc
chiến đấu cứu nước quật cường của dân tộc Việt Nam.
ĐỖ ĐỨC KIÊN
Đỗ Đức Kiên người làng Đăm Giữa, xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm,
thành phố Hà Nội, từng làm Chánh tổng.
Khi quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ 2 (1882), Đỗ Đức Kiên
cùng một số trai làng gia nhập đội dân binh, hỗ trợ cho đạo quân của Hoàng
Kế Viêm, Tôn Thất Thuyết, quân Cờ đen do tướng Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy
đánh quân Pháp ở Cầu Giấy giết chết tên đại tá Franci Garnier. Sau trận này
ông lấy danh nghĩa là chánh tổng tuyển mộ tuần đinh, rào làng chống cướp
để xây dựng lực lượng nghĩa quân.
Biết ông là người có nghĩa khí, căm thù giặc Pháp, sau lần tiếp xúc
với sư cụ Vương Quốc Chính, sư ông Thích Thanh Trang đã tuyên truyền,
vận động ông tham gia hội Thượng Chí do sư cụ Vương Quốc Chính tổ
chức và lãnh đạo. Đỗ Đức Kiên hăng hái hưởng ứng và đã vận động nhân
dân ở ba làng Đăm thuộc xã Tây Tựu gia nhập hội Thượng Chí.
Năm 1887, sư cụ Vương Quốc Chính nhận thấy số hội viên đã đông
đảo, nhất là ở hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây, nên quyết định thành lập lực
lượng vũ trang.
Tại cuộc hội nghị thành lập lực lượng vũ trang, Đỗ Đức Kiên được
giao chức Chánh Để đốc. Sau khi được phong chức Chánh Đề đốc Đỗ Đức
Kiên cùng các ông Tán lý quân vụ phát động toàn dân Tây Tựu, kế cả hào
lý gia nhập nghĩa quân hoặc
ủng hộ nghĩa quân. Núp dưới danh nghĩa rào làng chống cướp. Đề Kiên
đã biến làng Đăm Giữa và cả xã Tây Tựu thành làng chiến đấu trong lũy,
ngoài hào.
Đề Kiên đã cùng với nghĩa quân đánh và đẩy lùi được một số cuộc
tiến công của giặc. Chúng điên cuồng truy sát, bắt được Đề Kiên, chúng
dùng mọi cực hình tra tấn ông, để bắt ông khai ra những cơ sở, những thủ
lĩnh cùng nghĩa quân của Hội Thượng Chí. Song ông bền gan vững chí cắn
răng chịu đựng không khai nửa lời. Chúng đem ông ra Chợ Nhổn chém cắm
đầu vào cọc bêu ở chợ. Nhân dân thương tiếc vị Chánh Đề đốc đang đêm
lén lấy được thi hài ông về chôn cất, không đắp nấm, xóa dấu vết.
NGUYỄN HANH
Nguyễn Hanh - còn gọi là Tú Hanh, quê ở làng cổ Nhuế thuộc huyện
Từ Liêm là một người hăng hái nhiệt tình chống Pháp. Ông đã cùng các nhà
sư có lòng yêu nước như Vương Quốc Chính, Thích Thanh Trang lập nên
hội Thượng Chí. Sau một thời gian hoạt động, Hội Thượng Chí đã gây cho
giặc nhiều tổn thất nặng nề... Sau cuộc tiếp kiến với sư cụ thủ lĩnh hội
Thượng Chí, Nguyễn Quý Hoan đã cùng Nguyễn Hanh xây dựng lực lượng
quân sự bí mật ở Hưng Hóa, Sơn Tây, Bắc Ninh và Hà Đông...
Năm 1897 Vương Quốc Chính thủ lĩnh hội Thượng Chí chính thức
thành lập lực lượng vũ trang có năm quân là Trung quân, Tiền quân, Hậu
quân. Tả quân, Hữu quân, Nguyễn Hanh được cử làm Tiền quân Nguyễn
Quý Hoan được cử làm Tiền quân Hộ lý. Các ông cùng chỉ huy của bốn
quân tích cực xây dựng lực lượng, huấn luvện quân sự, trang bị vũ khí, tích
trữ lương thực đợi thời cơ khởi nghĩa.
Tháng 10 năm 1898 Trung quân Trương Công Bỉnh cùng một số
nghĩa quân bị quân Pháp bắt ở Hà Nội. Trước tình hình đột biến không có
lợi cho nghĩa quân, Vương Quốc Chính đã triệu tập cuộc họp chỉ huy năm
cánh quân họp ở nhà Tiền quân Nguyễn Hanh ở làng Cổ Nhuế để bàn cụ thể
kế hoạch khởi nghĩa. Hội nghị quyết định khởi nghĩa vào 10 giờ đêm ngày
mùng 5 tháng 12 năm 1898. Hiệu lệnh là khi nhà máy điện bị
đánh hỏng, điện tắt thì khởi sự. Cũng trong cuộc họp này chỉ huy các
cánh quân đã cử Tiền quân Nguyễn Hanh giữ chức chỉ huy Trung quân,
Tổng chỉ huy cả năm cánh quân, Tiền quân Hộ lý Nguyễn Quý Hoan được
cử giữ chức chỉ huy Tiền quân.
Chập tối ngày 5 tháng 12 năm 1898, theo sự phân công của Vương
Quốc Chính và Trung quân Nguyễn Hanh, chỉ huy các cánh quân dẫn quân
vào mai phục ở các vị trí được chỉ định trước. Trung quân Nguyễn Hanh,
Trung quân Hộ lý Trương Công Xán, cùng Tiền quân Nguyễn Quý Hoan
cùng các ông Hoa Văn Trứ, Hoa Văn Châu, Hoa Văn Hưng đưa quân đã tập
trung ở Cổ Nhuế, Nguyễn Văn Khuyến đưa quân từ Chèm lên phục sẵn
trong thành Hà Nội để đánh chiếm các cơ quan, đặc biệt là nhà đèn. Song
kế hoạch đánh thành Hà Nội bị bại lộ, trước đột biến đó Nguyễn Hanh cho
liên lạc đi báo cho các cánh quân rút lui? nhưng các liên lạc phái đi đều bị
giặc bắt, ông đành lệnh cho Trung quân rút lui. Song việc vượt ra khỏi
thành lúc này rất khó khăn vì khắp các đường phố, cửa ô đều có quân giặc
chặn đườns, nghĩa quân lại không quen đường phố nên phần lớn bị bắt. Sau
vài ngày lẩn trốn Trung quân Nguyễn Hanh bị giặc Pháp bắt giết ở cổ Nhuế
chặt đầu cắm cọc bêu ở chợ. Giặc Pháp triệt hạ làng cổ Nhuế, truy lùng họ
Nguyễn và họ Hoa. Hai họ phải chạy rải đi các nơi, một chi nhánh đổi thành
họ Văn. Một chi họ Hoa chạy sang làng Quảng Bá đổi là Vũ Hoa.
SƯ CỤ THÍCH THANH TRANG
Sư Thích Thanh Trang tên thật là Nguyễn Trang, quê ở tỉnh Hải
Dương, nhà sư đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện
Thuật lãnh đạo.
Năm 1890 trước tình hình khó khăn, Nguyễn Thiện Thuật sang Trung
Quốc cầu viện, giao binh quyền lại cho em trai là Nguyễn Thiện Kế. Giặc
Pháp huy động lực lượng lớn quân đội : đánh phá các căn cứ của nghĩa
quân, nhiều thủ lĩnh nghĩa quân hy sinh, Nguyễn Trang phải lánh lên Hạ
Mỗ, nương nhờ cửa Phật lấy pháp hiệu là Thích Thanh Trang tu ở chùa Hạ
Mỗ chờ thời cơ khởi nghĩa đánh Pháp.
Đầu năm 1895, ông liên lạc được với sư cụ Vương Quốc Chính, nhà
sư Thích Thanh Hữu ở phủ Hoài An thành lập một tổ chức đánh Pháp lấy
tên là Hội Thượng Chí. Các ông họp toàn dân tố cáo tội ác của giặc Pháp,
phát động nhân dân vũ trang khởi nghĩa, làm lễ tế cờ ở chùa Hạ Mỗ, thề
tiêu diệt hết giặc Pháp đem lại cuộc sống tự do cho dân, độc lập cho nước.
Vương Quốc Chính và các tướng đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc khởi
nghĩa thì tháng 10 năm 1898, Trung quân Trương Công Bỉnh và một số
đồng chí của ông bị giặc Pháp bắt ở Hà Nội.
Ngày 1 tháng 12 năm 1898, các tướng họp ở nhà Tiền quân Nguyễn
Hanh ở làng Cổ Nhuế quyết định khởi nghĩa vào đêm 5 tháng 12 năm 1898,
cử Tiền quân Nguyễn Hanh chỉ huy Trung quân thav Trương Công Bỉnh.
Mục tiêu nổ súng là Hà Nội và Sơn
Tây cùng đánh. Hiệu lệnh là đèn điện tắt. Hữu quân Chánh tướng Thích
Thanh Trang nhận nhiệm vụ chỉ huy cánh quân từ Nam Định lên tập kết ở
huyện Thường Tín hành quân qua Văn Điển tiến vào Hà Nội. Vương Quốc
Chính và các tướng đã quá lo xa cho rằng Trương Công Bỉnh và một số
tướng của ông bị bắt thì kế hoạch khởi nghĩa bị bại ]ộ. Nhưng Trương Công
Bỉnh và các tướng của ông bị bọn thống trị Pháp tra tấn cực kỳ dã man,
song vẫn không khai báo về tổ chức Thượng Chí. Vì vậy đến lúc đó bọn
thống trị Pháp chỉ được bọn quan lại tay sai như Lê Hoan, cố đạo Vallexô ở
nhà thờ tỉnh lỵ Bắc Ninh cũng chỉ nghi ngờ có một tổ chức chống Pháp mới
được hình thành ở Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Hải Dương. Còn về ai là
người đứng đầu tổ chức đó, mục tiêu của tổ chức đó là gì thì chúng chưa hề
biết. Còn về cuộc bạo động, tướng Bichot chỉ biết 1 giờ trước khi nổ súng.
Hắn lập tức cho quân phong tỏa các ngả đường vào Hà Nội. Hữu quân
Thích Thanh Trang chờ đợi, đã quá giờ mà đèn điện vẫn chưa tắt. Các hiệu
lệnh khác như trống chiêng không có. Ông phái liên lạc đi gặp trung quân
Nguyễn Hanh, thì khắp Hà Nội chỗ nào cũng có lính Tây, lính ta chặn các
ngả đường và tuần tra trên các phố. Ông biết cuộc khởi nghĩa đã bại lộ, hạ
lệnh rút quân. Nhưng đã quá muộn, bọn thống trị Pháp huy động tất cả lính
Âu - Phi, lính Nam, cảnh sát, chặn tất cả các đường ra khỏi thành phố khám
xét. Hữu quân Thích Thanh Trang và nhiều nghĩa quân bị giặc Pháp bắt.
Chúng biết sư ông Thích Thanh Trang chỉ huy Hữu quân Chánh tướng, nên
tra tấn vô cùng tàn bạo, song không moi được ở nhà sư lời khai nào. Giặc
Pháp đưa sư ông về chùa Hạ Mỗ, bắt nhân dân ra điểm mục, tiếp tục tra tấn,
bắt nhà sư phải chỉ mặt những người đã tham gia vào đội nghĩa quân và
những người giúp đỡ hội Thượng Chí. Chúng chém ông tại gốc duối.
ĐỒ MẬU
Đồ Mậu tên thật là Vũ Như Đẩu, sở dĩ có tên gọi là Đồ Mậu vì ông
nối nghiệp cha là cụ Tú Phác ngồi dạy học ở “Mậu Hòa giảng thất”, huyện
Đan Phượng gần Cầu Đơ thị xã Hà Đông, nay Mậu Hòa thuộc xã Minh
Khai, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Nối chí lớp Văn thân đàn anh như Vũ
Như Cầu, Vũ Duy Ninh, Nguyễn Tư Giản, Lê Văn Diên, Ngô Văn Dạng...
năm 1896 Đồ Mậu Vũ Như Đẩu đã gia nhập hội Thượng Chí do Sư cụ
Vương Quốc Chính tu ở chùa Ngọc Long Động, khu Hương Tích tổ chức.
Khi Sư cụ Vương Quốc Chính thành lập lực lượng vũ trang chống
Pháp thì nhà thờ họ Vũ ở làng Mậu Hòa được chọn làm nơi hội họp, làng
Mậu Hòa là địa điểm tập trung nghĩa quân vùng Cầu Đơ quanh thị xã Hà
Đông hiện nay.
Theo sách “Chống xâm lăing” của Giáo sư Trần Văn Giàu có đoạn
như sau:
... Đồ Mậu được phong làm Tán tương quân vụ nghĩa quân. Trước khi
xuất phát, ông làm lễ Tế cờ ở đình làng Mậu Hòa, ứng tác một bài vè cổ
động tướng sĩ, rồi mới kéo quân đi về phía Cẩu Đơ.
Khi phiên chế 5 cánh quân, Đồ Mậu dược phong làm Tán tương quân
vụ của Trung quân Trương Công Bỉnh. Sau một thời gian chuẩn bị. Vương
Quốc Chính nhận thấy chưa đủ vũ khí (cần chuẩn bị thêm) và thời cơ khởi
nghĩa vào tháng 12/1898. Nhưng các thủ lĩnh nhận được tin giặc Pháp ở
Hà Nội và các tỉnh đánh hơi đang có sự chuẩn bị cho cuộc khởi nqhĩa ở
nhiều tỉnh. Đến tháng 10/1898 xảy ra sự kiện là Trung quân Trương Công
Bỉnh và một số nghĩa quân bị giặc Pháp bắt ở Hà Nội. Vì vậy, ngày
1/12/1898, Lãnh tụ 5 quân họp tại nhà Tiền quân Nguyễn Hanh ở làng Cổ
Nhuế để bàn kế hoạch khởi nghĩa. Sau một hồi thảo luận, Hội nghị đỡ nhất
trí phải khỏi sự sớm vào giờ đêm ngày 5 tháng 12 năm 1889 tại Hà Nội
đang có Hội chợ, có nhiều người đi lại, giặc Pháp không để ý”.
Hội Thượng chí đã tổ chức một cuộc khởi nghĩa. Theo đúng mệnh
lệnh tác chiến, Đồ Mậu chỉ huy các cánh quân ở phía tây huyện Đan
Phượng và vùng chung quanh Cầu Đơ (thị xã Hà Đông và vùng phụ cận
ngày nay) về đình Mậu Hòa làm lễ Tế Cờ sau đó tiến ra Cầu Đơ thẳng
đường về tập kết ở Ngã Tư Sở. Do cuộc khởi nghĩa nổ ra trước kế hoạch, vũ
khí trang bị chưa thật đầy đủ, việc trinh sát các mục tiêu tấn công chưa
được chính xác, và kế hoạch đánh Hà Nội bị bại lộ trước giờ nổ súng 1
tiếng đồng hồ. Nên quân Pháp có đủ thời gian bố phòng các mục tiêu, tổ
chức lực lượng cơ động phản kích. Hơn nữa, chỉ có hiệu lệnh tấn công duy
nhất là đèn điện thành phố tắt thì nổ súng, không có hiệu lệnh thứ hai như
pháo lệnh, trống, chiêng nên khi giặc Pháp phát hiện ra cuộc tấn công bắt
hết kíp thợ điện, đưa lính vào nhà máy, không tắt điện, thì các cánh quân
chuệch choạc người đánh người rút. Đồ Mậu chờ đợi tới gần 12 giờ đêm,
thấy đèn điện vẫn sáng thành phố vẫn yên tĩnh, đành phải ra lệnh rút lui.
Nhưng khi đó đã quá chậm, quân Pháp đã bịt kín con đường từ Ngã Tư Sở
về Hà Đông bằng rất nhiều toán quân mai phục và tuần tiễu. Đồ Mậu cùng
nhiều nghĩa binh bị quân Pháp bắt, chúng xích tay chân ông cho vào cũi rồi
đem đi đày ở Côn Đảo.
Vũ Thế Khôi viết về sự kiện này trong “Vũ Tông Phan với Văn hóa
Thăng Long” như sau: ''Theo vài người cùng đi tù với Đồ Mậu ở Côn Đảo
mãn hạn trở về nói với thân nhân ông Đồ Mậu thì sau một thời gian ra đảo,
ông cùng một số đồng chí đóng bè vượt ngục, nhưng đã hy sinh ỏ giữa biển.
Họ dặn thân nhân ông Đồ lấy ngày ông đồ xuống mảng vượt biển làm ngày
giỗ và đưa một ít tiền quyên góp cho vợ ông Đồ Mậu và khuyên bà nên đưa
con trốn đi xa tìm kế sinh nhai”.
LANG XÁNG
Lang Xáng tên thật là Lý Diễm, người làng Bồng Lai (khu vực Hồ
Tây, Hà Nội). Ông nguyên là dũng tướng của Sư cụ Xướng tu ở chùa Đạm
Nội, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Yên là thủ lĩnh nghĩa quân đánh Pháp ở
huyện Bình Xuyên.
Khi quân Pháp tập trung quân đàn áp được các cuộc khởi nghĩa ở
Vĩnh Yên, Phú Thọ, nghĩa quân của cụ Xướng tan rã. Sư cụ Xướng trở về
chùa đau buồn vì cảnh nước mất nhà tan, nhịn ăn mà hóa. Tướng của sư cụ
là Lang Xáng (tức Lý Diễm) đến làm thày tự ở chùa Đạm Nội để hương
khói, chăm lo phần mộ cho vị thủ lĩnh nghĩa quân.
Tuy nương nhờ cửa Phật, nhưng Lang Xáng vẫn bí mật liên lạc với
nghĩa quân của Sư cụ Xướng đang tản mát ở các nơi, động viên anh em giữ
vững ý chí chờ thời cơ đánh Pháp. Đối với anh em túng thiếu ông còn chu
cấp gạo tiền. Lang Xáng cũng biến chùa Đạm Nội thành nơi trú chân an
toàn cho các tướng lĩnh, nghĩa quân của sư cụ Xướng đang bị giặc Pháp
truy nã.
Sau khi biết Hội Thượng chí được thành lập, Lang Xáng đưa hơn 20
nghĩa quân cũ của mình về chùa Ngọc Long Động gia nhập nghĩa quân.
Vương Quốc Chính giao cho Lang Xáng và anh em cùng đi lo việc huấn
luyện quân sự, sử dụng vũ khí cho tân binh, sau đó giao cho mỗi người chỉ
huy một toán quân.
Khi phiên chế năm cánh quân: Trung quân, Tiền quân, Hậu quân, Tả
quân, Hữu quân thì Lang Xáng được cử làm Tả quân Hộ lý, làm phó tướng
cho Tả quân Nguyễn Đăng Quế.
Trong khi Vương Quốc Chính và bộ Tham mưu khẩn trương chuẩn bị
cho cuộc khởi nghĩa thì chỉ huy Trung quân Trương Công Bỉnh và một số
nghĩa quân bị bắt ở Hà Nội hồi tháng 10/1898.
Các tướng lĩnh lo kế hoạch bị bại lộ, nên tại Hội nghị các chỉ huy các
cánh quân họp ngày 1 tháng 12 năm 1898 tại nhà Tiền quân Nguyễn Hanh ở
làng Cổ Nhuế, đã quyết định khởi nghĩa vào 10 giờ đêm ngày 5 tháng 12
năm 1898, hiệu lệnh là nhà máy đèn bị phá, điện tắt. Lang Xáng được giao
nhiệm vụ cùng Đề đốc Hoành, Chánh Đề đốc Đỗ Đức Kiên đưa quân về tập
kết ở Cầu Giấy chờ lệnh. Song bọn cầm đầu quân sự Pháp là trung tướng
Bichot đã biết trước kế hoạch đánh Hà Nội của nghĩa quân một tiếng đồng
hồ, nên đã lệnh cho quân Pháp ở Hà Nội đối phó.
Cuộc khởi nghĩa thất bại, quân Pháp truy kích lùng sục khắp nơi để
bắt nghĩa quân. Lang Xáng trốn tránh được ít ngày thì bị chúng bắt và giết
hại.
Lang Xáng xứng danh là một dũng tướng trong cuộc khởi nghĩa của
sư cụ Xướng và trong cuộc khởi nghĩa Vương Quốc Chính.
HOA VĂN TRỨ - HOA VĂN CHÂU - HOA VĂN
HƯNG
Trong Hội Thượng Chí thành lập năm 1895 và lực lượng vũ trang của
Hội thành lập năm 1897 do sư cụ Vương Quốc Chính làm thủ lĩnh có ba
anh em ông Hoa Văn Trứ - Hoa Văn Châu - Hoa Văn Hưng đã từng tham
gia chặn đánh quân Pháp ngày 7/6/1883 làm thất bại âm mưu đánh tỉnh
thành Sơn Tây của chúng.
Ba ông còn đi gặp bạn bè cùng chí hướng trong vùng tuyên truyền
mục đích tôn chỉ của hội Thượng Chí rồi giới thiệu với ông Tú Hanh kết
nạp.
Năm 1897 khi lực lượng hội Thượng Chí đã mạnh, Vương Quốc
Chính quyết định thành lập lực lượng vũ trang Hoa Văn Trứ - Hoa Vãn
Châu đã tuyển chọn các hội viên tích cực hăng hái, trung thành để thành lập
đội nghĩa binh vùng cổ Nhuế. Hoa Văn Hưng làm nhiệm vụ trang bị vũ khí
và quyên góp quân lương.
Các ông đã chọn chùa Sùng Quang một ngôi chùa được mở rộng từ
thời Lê rộng tới 5 mẫu để làm nơi luyện tập quân sự cho nghĩa binh. Công
việc chuẩn bị khởi nghĩa đang tiến hành khẩn trương thì Trung quân Trương
Công Bỉnh bị giặc Pháp bắt ở Hà
Nội- Hội nghị các tướng lĩnh họp ở nhà Nguyễn Hanh đã cử ông giữ
chức chỉ huy Trung quân, cử Nguyễn Quý Hoan giữ chức Tiền quân thay
Nguyễn Hanh, Hoa Văn Trứ - Hoa Văn Châu - Hoa Văn Hưng giữ chức Hộ
lý Tiền quân.
Chuẩn bị cho trận đánh đêm 5/12/1898, các Hộ lý Tiền quân Hoa Văn
Trứ - Hoa Văn Châu - Hoa Văn Hưng đưa quân từ vùng Cổ Nhuế, Nguyễn
Văn Khuyến đưa quân từ Chèm lên phục sẵn trong thành phố Hà Nội để
đánh chiếm các cơ quan, đặc biệt la phá nhà máy đèn. Song kế hoạch trận
đánh đã bị bại lộ trước 1 tiếng đồng hồ, giặc Pháp kị.p thời đối phó, bắt hết
kíp thợ điện làm nội ứng thay vào đó là lính thợ. Hầu hết các mục tiêu tấn
công của nghĩa binh đều được phòng thủ chắc chắn. Cuộc tấn công không
thành chỉ có mũi đánh đồn Ngọc Hà, mặc dù điện không tắt vẫn tấn công
đồn và nhà tên chỉ huy Cátxiê. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, giặc Pháp bắt
được cả ba anh em họ Hoa. Chúng giết Hoa Văn Trứ chặt đầu treo ở cây
gạo làng Cổ Nhuế. Còn ông Hoa Văn Châu và Hoa Văn Hưng cùng một số
thủ lĩnh khác chúng đày ra Côn Đảo. Hai ông bị chúng hành hạ đã hy sinh ở
đó.
Về sự kiện cuộc khởi nghĩa Vương Quốc Chính đêm 5/12/1898 ở Hà
Nội được Lịch sử cách mạng xã cổ Nhuế (1930- 1992) viết như sau: “...Ở
Cổ Nhuế, phong trào chống thực dân Pháp rất sôi động, đứng đầu là các
ông Hoa Văn Trứ - Hoa Văn Châu - Hoa Văn Nhung trong nghĩa đảng
Vương Quốc Chính có kế hoạch đánh chiếm thành Hà Nội, đầu não của
giặc Pháp. Đêm ngày 5 tháng 12 năm 1898 cuộc bạo động đã nổ ra. Cánh
quân Cổ N huế do ông Hoa Văn Trứ chỉ huy đã đánh chiếm được đồn Ngọc
Hà. Cánh quân Đỗ Đắc Kiên ở Tây Tựu đã kéo vào Cầu Giấy, các cánh
quân ở Hà Đông, Sơn Tây đã kéo vào nội thành nhưiĩg do các cánh quân
đã không liên lạc được với nhau,
không cố sự phối hợp hành động nên cuộc khởi nghĩa thất bại.
Thực dân Pháp ra sức đàn áp, các ông Hoa Văn Trứ, Hoa Văn Châu,
Hoa Văn Nhung bị bắt. Ông Trứ bị giặc đưa về làng, chúng chém ông rồi
bêu đầu lên cây gạo đầu làng, các ông khác bị đầy đi Côn Đảo rồi không
thấy trở về”.
Sau vụ này giặc Pháp triệt hạ làng Cổ Nhuế, truy lùng những người
họ Nguyễn và họ Hoa. Hai họ phải chạy dạt đi các nơi, một chi nhánh đổi
thành họ Văn, một chi họ Hoa chạy sang làng Quảng Bá đổi là Vũ Hoa.
VUA THÀNH THÁI
Hoàng tử Nguyễn Phước Bửu Lân con thứ bẩy của vua í Dục Đức và
bà Từ Minh Phan Thị Điểu lên ngôi vua ngày Mậu 1 Thân, tháng giêng,
năm Kỷ Sửu (01/2/1889) lấy niên hiệu là Thành Thái.
Thành Thái vốn là ông vua thông minh và có khí phách anh hùng.
Nhà vua hiểu rõ muốn đánh thắng Pháp thì phải hiểu rõ lịch sử, sự phát
triển xã hội, cả về kinh tế, quân sự của Pháp. Vì vậy ông rất chăm chỉ học
tiếng Pháp, chữ Pháp, đọc nhiều tân thư của Pháp, Nhật, Anh được dịch ra
tiếng Hán. Vua Thành Thái chịu ảnh hưởng tư tưởng của các nhà cách mạng
Nhật, Trung Hoa. Ngài tìm hiểu phong trào Duy tân của hai nước này và
khao khát cải cách quốc gia về mọi mặt, những mong đưa đất nước đến chỗ
phú cường, thịnh trị. Ngài bắt các hoàng thân, quốc thích học theo hướng
của Trung Hoa, Nhật Bản. Nhưng những ý tưởng, chủ trương của Ngài đều
bị tòa Khâm sứ ngăn trở. Vua Thành Thái có đầu óc Duy tân, không thủ cựu
như các tầng lớp vua, quan thời đó.
Vua Thành Thái có nhiều lần phát ngôn chống đối người Pháp, phê
phán bọn quan lại theo Pháp, quên cả Tổ quốc, quên nhân dân. Bọn cầm
quyền Pháp thấy để nhà vua tồn tại không có lợi cho sự thống trị của chúng,
muốn phế truất song chưa tìm được chứng cớ.
Những hành động yêu nước của Vua Thành Thái đều không qua được
những cặp mắt chó săn của Trương Như Cương, Thượng thư bộ Lại, cầm
đầu Viện Cơ mật ton hót với Khâm sứ Pháp để lật đổ vua Thành Thái, đưa
Bửu Đảo (sau là Khải Định) con rể hắn lên làm vua. Trương Như Cương
cho tay chân dò biết vua “bắt” con gái nhập cung không phải để múa hát mà
là bí mật thành lập đội nữ binh, hắn ton hót với Khâm sứ. Khâm sứ Pháp cài
mật thám vào nội cung. Chúng phát hiện ra một hệ thống đường ngầm dưới
những đền đài, lầu các, trong ấy có bia để tập bắn cung, bắn súng. Trong số
gươm, súng của đội hát để công khai trên nhà có gươm, có súng, có vũ khí
thật xen lẫn vũ khí giả. Trong đại nội lại có nữ võ sư túc trực luyện tập cung
kiếm cho cung nga thể nữ.
Ngày 29/7/1907 Tòa Khâm sứ bàn với Hội đồng Thượng thư thăng bổ
một số quan lại, Thành Thái không phê chuẩn. Le Vecquet được dịp tuyên
bố “Nhà vua không thành thật với Chính phủ Bảo hộ thì từ nay mọi việc
Hội đồng thượng thư cứ tùy nghi mà làm”. Le Verquet cũng báo cho vua
Thành Thái: “Từ nay nhà vua không còn quyền hành gì và không được ra
khỏi nơi ở đã dành cho mình trong Đại nội”. Một Hội động phụ chính được
thành lập do Trương Như Cương cầm đầu. Cái Hội đồng toàn là bọn Việt
gian bán nước này cùng với Tòa Khâm sứ đưa ra bản Tuyên bố chung “Vì
Thành Thái mắc bệnh điên nên hai Chính phủ đã quyết định để bảo vệ lợi
ích của quốc gia cũng như của chính bản thân nhà vua”.
Vua Thành Thái bị giam ở điện Càn Thành từ ngày 30 tháng 7 năm
1907. Mùa thu năm 1907, Toàn quyền Brôni và Khâm sứ Trung Kỳ
Leveque rất e ngại về vua Thành Thái, chúng đã đày vua ra Cáp Sanh giắc
cơ (Capsain Jacque - Vũng Tàu). 9 năm sau, vua cùng với vua Duy Tân bị
đi đày ở đảo Réunion.
Năm 1947 vua Thành Thái đã già yếu thực dân Pháp mới cho nhà vua
về sống ở Vũng Tàu và chỉ được sống ở Nam Bộ. Năm 1953 ông được ra
thăm Huế lần cuối, sau đó ở lại Sài Gòn. Nhà vua mất ngày 24 tháng 3 năm
1954, thọ 76 tuổi. Thi hài của nhà vua được đưa ra táng ở An Lăng gần lăng
mộ vua cha Dục Đức.
ĐOÀN VĂN CỰ
Đoàn Văn Cự sinh năm 1835 quê ở làng Bình An, Thủ Đức tỉnh Gia
Định, nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Cha ông là một nhà nho có lòng
yêu nước nồng nàn. Ông bị thực dân Pháp theo dõi rời quê hương đến ở
rừng Bưng Kiện, thôn Vĩnh Cửu, nay thuộc phường Tam Hoà, tỉnh Đồng
Nai.
Đoàn Văn Cự là người thông minh, học giỏi. Nhưng ông không ra
làm quan mà theo nghề cha làm thuốc, cứu chữa cho dân. Khi đã về già 67
tuổi, Đoàn Văn Cự đã tập hợp những người yêu nước trong tổ chức “Thiên
địa hội”, bề ngoài mang tôn chỉ tôn giáo, song nội dung lại là hoạt động
yêu nước, vì vậy dân Nam Kỳ gọi là “Hội kín”.
Ông có quy định chặt chẽ trong liên lạc, thông tin, dùng dù làm tín
hiệu liên lạc như:
Dù mang bên Tả, Đảng viên
Đi việc cơ mật nói riêng chủ nhà
Dù mang cái móc trở ra
Bàn sơ chút việc ghé qua đi liền
Dù mang cái móc trở vô
Phải lo cơm nước với đồ nghỉ ngơi.
Đoàn Văn Cự còn xây dựng Bưng Kiện thành một căn cứ kháng
chiến, ông đã chiêu mộ nhiều danh tài hảo hán, tinh thông võ nghệ, coi việc
nghĩa là việc đại sự, một lòng vì nước, vì dân.
Lợi dụng những buổi giảng đạo, ông khơi dậy lòng yêu nước, căm thù
giặc trong các “tín đồ”, đã thành lập lực lượng nghĩa quân bí mật với một
lực lượng đông đảo, được trang bị vũ khí và có lương thực dự trữ.
Trong vòng ba năm (1902-1905) lực lượng “Hội kín” của Đoàn Văn
Cự rất đông đảo ở khắp các tỉnh Miền Đông. Nơi có tổ chức Hội mạnh nhất
là từ Bình Da Chợ Chiếu, (Hiệp Hoà) đến núi Nứa (Bà Rịa).
Để chuẩn bị khởi nghĩa, ông mua súng, lập lò rèn gươm giáo. Ông
thường xuyên tập dượt binh pháp cho nghĩa quân. Lực lượng nghĩa quân
mau lớn mạnh hoạt động mạnh ở rừng Bưng Kiện.
Ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch (khoảng 5/5/1905), quân Pháp do một
tên đại uý chỉ huy, bao vây, mai phục tới bờ suối cầu Khỉ...
Vòng vây ngày càng thắt chặt. Đoàn Văn Cự như có linh tính báo
trước sự việc nghiêm trọng sắp xảy ra, ông lệnh cho hai tướng Hoàng Mè,
Hoàng Giáp tập trung hàng trăm nghĩa quân bố trí lực lượng bảo vệ căn cứ.
Đội quân mai phục từ sáng đến tối không thấy động tĩnh gì, ông cho rằng
quân Pháp đã rút liền cho nghĩa quân giải tán về ăn cơm. Nhưng nghĩa quân
vừa rút thì quân Pháp thắt chặt vòng vây, khi biết rõ trong nhà cụ không có
ai, tên đại uý cùng vài tên lính hộ vệ tiến thẳng vào nhà cụ. Khi đó Đoàn
Văn Cự đang gọn gàng trong bộ quần áo uy nghi, lẫm liệt, đầu chít khăn lụa
điều, lưng thắt dây lưng vải hồng, dắt đoản đao chuôi đầu hổ đang đứng
trước bàn thờ tổ, thấy tên đại uý Pháp cùng hai tên lính xộc bước vào,
nhanh như cắt cụ xoay người rút đao chém xả vào đầu tên chỉ huy Pháp.
Nhưng hắn né tránh kịp nên chỉ đứt mép tai và bị thương ở tay trái. Tên này
thoát chết lập tức rút súng bắn vào Đoàn Văn Cự mấy phát, ông chết ngay
trước bàn thờ Tổ.
TÀI LIỆU BIÊN SOẠN CHÍNH

Sách lịch sử:


- Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1894
- Việt sử cương mục tiết yếu
- Đại Nam thực lục chính biên, tập 34, 35, NXB Khoa học xã
hội, 1974.
- Công văn tấu tập, ký hiệu A545, Thư viện Khoa học xã hội.
- Hà Nội thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Trần Quốc Vượng chủ biên, NXB Quân đội Nhân dân.
- Hội đồng lịch sử Hà Bắc: Lịch sử Hà Bắc tập I.
- Ban nghiên cứu lịch sử Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh, Những mẩu
chuyện và thời niên thiếu của Bác Hồ, NXB Sự thật, 1985.
- Lịch sử 80 năm chống Pháp.
- Hà Nam nhân vật lịch sử và văn hóa
- Trần Văn Giầu: Chống xâm lăng quyển I, II, NXB Xây dựng,
Hà Nội 1956
- Tôn Quang Phiệt: Phan Bội Châu và một giai đoạn lịch sử
chống Pháp của nhân dân Việt Nam, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1958.
- Dương Kinh Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử, tập I,
NXB Khoa học xã hội.
- Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu Phước: Khởi nghĩa Trương
Định, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1989.
- Phan Trần Chúc - Lê Quế: Nguyễn Tri Phương, NXB Quốc
Văn, Hà Nội, 1946.
- Ban liên lạc Cựu chiến binh Việt Nam ở Cămpuchia thời kỳ
1945- 1954: Quân tình nguyện Việt Nam ở Cămpuchia thời kỳ
1945-1954.
- Phan Khoang: Việt Nam Pháp thuộc sử, Sài Gòn 1974.
- Đào Đăng Vỹ: Nguyễn Tri Phương, Bộ Văn hóa - Giáo dục và
thanh niên, Sài Gòn, 1974.
- Phạm Văn Sơn: Quân dân Việt Nam chống Tây xâm, Sài Gòn,
1963.
- Nguyễn Văn Hầu: Cuộc khởi nghĩa Bẩy Thưa, Tân Sinh, Sài
Gòn, 1956.
Sách Văn học:
- Phan Bội Châu toàn tập, nxb Thuận Hóa
- Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, NXB Văn học, Hà
Nội, 1970.
- Thơ văn yêu nước Nam Bộ.
- Dương Quảng Hàm: Văn học sử yếu, nha Học chính Đông
Pháp, Hà Nội, 1943.
- Đại Nam chính biên liệt truyện, Quốc sử quán triều Nguyễn
- Phan Bội Châu niên biểu
- Truyện Trương Định
- Ông Nghè, ông Cống triều Nguyễn
- Sơn Nam: Bến Nghé xưa, NXB Trẻ 1997.
- Trần Văn Giáp: Lược truyện các tác gia Việt Nam. Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1971.
- Phạm Phú Thứ với tư tưởng Canh tân, NXB Đà Nẵng, 1995.
- Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập II, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1969.
- Nhóm Trà Lĩnh: Đặng Huy Trứ: Con người và tác phẩm, NXB
Thành phố Hồ Chí Minh, 1990.
- Kỳ Xuyên Văn Sao, bản dịch của Lê Thước.
- Văn học yêu nước cách mạng Hà Nam Ninh.
- Phạm Thận Duật toàn tập, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội,
2000.
- Danh nhân Thái Bình.
- Các nhà khoa bảng Việt Nam.
- Vè Thái Bình.
- Vũ Ngọc Khánh: Giai thoại ông đồ, Nxb Thanh niên, Hà Nội,
2002.
Địa chí:
- Địa chí Bến Tre
Sách tiếng Pháp:
- André Massen: "Hà Nội, giai đoạn 1873 - 1888".
- Dulleman: Cuộc chiến tranh chống cướp bóc
- Histoire militaire de l'Indochine Francais
- Parlin Histoire de la Cochindume
- Toboulel: Le geste francais en Indochine
- P.Vial: Les premièrè années de la Cochine (Những năm đầu ở
Nam Kỳ).
- Annales de la, prapagagation de la Foi
- L'Amiral Dpéet la conquête du Ton Kin Dideb.
- Histoire militaire de l'Indochinoir
- Những người Pháp ở Bắc Kỳ và việc can thiệp của người
Pháp.
- Xứ Bắc Kỳ và sự can thiệp của Pháp (bản dịch thư viện
KHXH).
Sách tiếng Nga:
- K.Xtannhin Kêvich: Vòng quanh thế giới trên lầu Coóc xin:
Tuyển tập tác phẩm, 1977.
Sách tiếng Trung Quốc:
- Dương sự thủy mạt: Bản dịch của trường Đại học Tổng hợp,
Hà Nội.
- Chiến tranh Trung - Pháp, quyển 7.
Báo cáo:
- Báo cáo của công sứ Thái Bình Ô e (Auer), hồ sơ số 71, 844,
F6, 686, Cục lưu trữ Trung ương.
- Simôni: Báo cáo gửi Toàn quyền Đông Dương.
- Thư tín chính trị (Contes pondances pliliquen) (Thư của De
Vile gửi cho Henririvière).
Tạp chí:
- Tạp chí Nghiên cứu lịch sử các số 3/1977; Số 2/1990, số
4/1994, số 6/2000.
- Tạp chí Xưa và nay số 223 tháng 1/2004; số 223/2005.
- Tạp chí Toàn cảnh số 5/1999.
Gia phả:
- Gia phả họ Lê Xuân ở Rạch Giá.
Hết tập 4
284 ANH HÙNG HÀO KIỆT CỦA VIỆT NAM
(Tập 5)

Tác giả : Vũ Thanh Sơn


Nxb Công an Nhân dân 01/2009
Số trang : 183. Kích thước : 14.5 x 20.5cm

Thực hiện ebook : hoi_ls


(www.e-thuvien.com)
LỜI GIỚI THIỆU
PHAN BỘI CHÂU
TĂNG BẠT HỔ
VƯƠNG THÚC QUÝ
PHAN CHU TRINH
HUỲNH THÚC KHÁNG
NGÔ ĐỨC KẾ
ĐẶNG VĂN BÁ
NGUYỄN AN KHƯƠNG
ĐẶNG TỬ KÍNH
NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
PHẠM VĂN NGÔN
HỒ HỌC LÃM
TRẦN HOÀNH
ĐẶNG THÁI THÂN
TRẦN KỲ PHONG
NGUYỄN THẦN HIẾN
TRẦN CHÁNH CHIẾU
NGUYỄN HÁO VĨNH
ĐẶNG THÚC LIÊNG
LÊ CƠ
ĐẶNG NGUYÊN CẨN
LÊ KHÁNH
HỒ SĨ TẠO
LÊ THỊ ĐÀN
NGUYỄN QUANG DIÊU
MAI LÃO BẠNG
NGUYỄN QUỲNH LÂM
LÊ VĂN HUÂN
ĐẶNG ĐOÀN BẰNG
BÙI CHÍNH LỘ
NGUYỄN THỨC CANH
NGUYỄN THỨC ĐƯỜNG
LÝ LIỄU
ĐỘI PHẤN
HỒ PHI HUYỀN
TÔN THẤT DOÃN
VÕ HOÀNH
HOÀNG TĂNG BÍ
TRẦN QUÝ CÁP
TRƯƠNG GIA MÔ
BÙI LIÊM
LÊ ĐÌNH CẨN
HOÀNG XUÂN HÀNH
LƯƠNG VĂN CAN
NGUYỄN QUYỀN
PHẠM TƯ TRỰC
PHAN TUẤN PHONG
NGHIÊM XUÂN QUẢNG
LÊ VÕ
N' TRANG LƠNG
HOÀNG TRỌNG MẬU
NGUYỄN KHẮC CẦN
NGUYỄN THẠC CHI
THÁI PHIÊN
VUA DUY TÂN
LÊ ĐÌNH DƯƠNG
LÊ NGUNG
NGUYỄN THỤY
PHAN THÀNH TÀI
LÊ CHÂU HÀN
LÊ CHÂU NAM
TÀI LIỆU BIÊN SOẠN CHÍNH
LỜI GIỚI THIỆU

Bộ sách “284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam” bao gồm 5 tập với
tổng cộng gồm 1000 trang của tác giả Vũ Thanh Sơn viết về chân dung các
nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà văn, nhà báo Vũ Thanh Sơn đã tập trung
khắc họa lại tương đối đầy đủ và toàn diện về chân dung của 284 Anh
hùng hào kiệt của Việt Nam từ cuối Thế kỷ XIX đến đầu Thế kỷ XX.
Trong đó nhiều nhân vật mà các cuốn sách đã xuất bản từ trước đến nay
chưa hề được đề cập đến. Bằng công trình của mình không những tác giả
đã đóng góp phần bổ sung cho những thiếu vắng của lịch sử nước nhà (đặc
biệt là về nhân vật và sự kiện) mà còn góp phần tuyên truyền, giáo dục
những tấm gương tiêu biểu cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc - đó là sự
nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc.

Chân dung các nhân vật lịch sử Việt Nam trong thời kỳ lịch sử cận
đại được tác giả Vũ Thanh Sơn tập trung khắc họa ở 3 nhóm chính tương
ứng với ba thời kỳ sôi động của lịch sử Việt Nam, đã có biết bao anh hùng,
nghĩa sĩ hô hào nhân dân vũ trang đánh đuổi giặc Pháp:

Đó là thời kỳ đầu tranh chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ
XIX (từ khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tại bán đảo Sơn Trà,
chính thức mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam 1/9/1858).

Là phong trào Cần Vương với nhiều cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của
văn thân chông Pháp (1885-1896) phát triển rộng khắp từ Nam ra Bắc.

Và còn là phong trào đấu tranh chống Pháp đầu thế kỷ XX với ý
thức của hệ tư tưởng mới với các phong trào chống thuế ở Quảng Nam,
phong trào Duy tân, Đông du dưới sự lãnh đạo của Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh...).

Trong cuộc kháng chiến không cân sức này có biết bao anh hùng,
hào kiệt đã ngã xuống, nhưng ý chí quật cường chống giặc Pháp, cùng
những lời tuyên bô đanh thép trước giây phút bị hành hình vẫn mãi sáng
chói, rạng ngời lên chủ nghĩa anh hùng của dân tộc Việt Nam. Đó là những
câu nói đến nay ta đọc lại vẫn rung động như Tổng đốc Nguyễn Tri
Phương tuyên bố: “Bây giờ nếu ta chỉ miễn cưỡng lay lắt mà sống, sao
bằng thung dung chết vì việc nghĩa”; Bình Tây đại nguyên soái Trương
Định tuyên bố: “Chúng ta thề sẽ đánh mãi và không ngừng, khi ta thiếu tất
cả ta sẽ bẻ nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm vũ khí cho binh lính ta”; hay
Nguyễn Trung Trực trước giờ giặc hành hình vẫn dõng dạc tuyên bố: “Bao
giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”...
và còn rất nhiều, rất nhiều lời tuyên ngôn đanh thép khác.

Nhìn chung, các nhân vật lịch sử tác giả đề cập đến trong bộ
sách đều xứng đáng được tôn vinh. Họ có thể là những quan lại, hay những
nhà chí sĩ có tinh thần yêu nước. Mặc dù, mỗi người ở cương vị khác nhau,
vị thế xã hội và hoàn cảnh xuất thân không giống nhau nhưng tất cả những
con người ấy đều có chung mục đích cao cả nhất là không quản ngại hy
sinh gian khổ, kiên quyết đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược giành
độc lập cho đất nước.

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bộ sách “284 Anh hùng hào kiệt của Việt
Nam” với quý vị độc giả.

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN


PHAN BỘI CHÂU
Phan Bội Châu trước năm 1900 có tên là Phan Văn Son, hiệu Hải
Thụ, sau hiệu là Sào Nam. Trong quá trình hoạt động cách mạng, ông còn
có nhiều tên hiệu, bút danh như Thị Hán, Thiên Phú, Độc Tinh Tử, Cây
Sung...
Ông sinh năm 1867 trong một gia đình nhà nho nghèo quê ở làng Đan
Nhiễm, tổng Xuân Liễu, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nay là xã Nam
Hoà, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Tháng 10/1900, sau khi cụ thân sinh
mất, Phan mới có điều kiện hoạt động cách mạng.
Năm 1901, Phan Bội Châu cùng một số đồng chí chiêu tập nghĩa
binh đánh thành Nghệ An, việc không thành. May nhờ có Tổng đốc Đào
Tấn che chở, nên không bị thực dân Pháp bắt.
Năm 1903 Phan Bội Châu đến kinh thành Huế đọc sách ở Quốc Tử
giám, đã gặp Phan Chu Trinh. Từ đó về sau, hai người còn gặp nhau vài lần
nữa, trao đổi chính kiến với nhau. Hai ông thống nhất với nhau là muốn
cứu nước thì phải mở mang dân trí, coi trọng giáo dục, đưa thanh niên đi
du học ở nước ngoài, mở mang việc tuyên truyền văn hóa mới. Phan Chu
Trinh rất khâm phục con người và tài trí của Phan Bội Châu.
Tháng 2/1905, Phan Bội Châu ra Bắc gặp Nguyễn Thượng Hiền,
Lương Văn Can bàn việc phát triển Duy tân hội và tổ chức Đông du. Việc
Đông du được thực hiện ngay, chuyến đi này ông đem theo bốn học sinh
trong đó có hai con trai của cử nhân Lương Văn Can là Lương Nghị Khanh
và Lương Lập Nham (Lương Ngọc Quyến)
Ngày 25/02/1905, Phan Bội Châu sang Trung Quốc gặp Lương Khải
Siêu và Tôn Dật Tiên, Tại đây ông viết '”Việt Nam vong quốc sử” ( Lịch sử
mất nước Việt Nam), lời tựa do Lương Khải Siêu viết.
Tháng 7 năm 1905. Phan Bội Châu về nước tiếp tục đưa thanh niên
sang Nhật. Tháng 9 năm 1905 (tháng 8 năm Ất Tỵ) Phan Bội Châu về nước
sau đó gặp gỡ Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế, Phan Bội Châu về nhà cử
nhân Nguyễn Văn Đảng ở làng Nội Duệ, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh bàn
việc tổ chức các nhóm “ Minh xã” “Ám xã” và lập các hội Nông, Công,
Thương, Học.
Tháng 3 năm 1907 trường Đông Kinh Nghĩa thục thành lập ở Hà
Nội, thì văn thơ yêu nước của Phan Bội Châu được đưa vào chương trình
giảng dạy ở trường số 4 Hàng Đào và các phân hiệu và trong các buổi diễn
thuyết bình thơ văn cho đông đảo công chúng nghe. Trên cơ sở hiểu biết
về trường Khánh Ưng Nghĩa thục ở Nhật Bản mà Phan Bội Châu trao đổi
với các sĩ phu Hà Nội, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Đỗ Cơ Quang,
Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc... đã quyết định thành lập trường Đông
Kinh Nghĩa thục.
Văn thơ Phan Bội Châu sôi sục tinh thần cách mạng đã từ trường
Đông Kinh Nghĩa thục nhanh chóng phát triển trong nhân dân, trở thành
một phong trào.
Từ khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, Phan Bội Châu và
nhiều chí sĩ Việt Nam lại nhìn sang Nhật Bản, mong được sự viện trợ “một
nước da vàng tiên tiến” để ca ngợi sự nghiệp Minh Trị Duy tân của Nhật
và việc Nhật đánh bại Sa hoàng Nga, chủ trương đưa Nhật Bản theo con
đường Duy tân.
Việt Nam Duy tân hội sau khi được thành lập cũng đề ra phương
châm tranh thủ sự viện trợ của nước ngoài. Phan Bội Châu đích thân đi
Nhật và phát động phong trào Đông du. Ông cho rằng Nhật Bản là một
nước Châu Á cùng máu đỏ, da vàng và cùng có một nền văn hóa như Việt
Nam, “thường lấy việc lợi hại khuyên răn ta, họ nhất định sẽ vui vẻ giúp
đỡ chúng ta” .
Nhưng tới giữa năm 1908, đầu năm 1909, Pháp và Nhật cấu kết với
nhau giải tán các tổ chức học sinh Việt Nam tại Nhật Bản như “ Công Hiến
hội” “Đông Á Đổng văn thư viện”... trục xuất lưu học sinh Việt Nam khỏi
Nhật, Phan Bội Châu, Cường Để cũng bị trục xuất. Bấy giờ Phan Bội
Châu mới nhận thức được rằng không thể dựa vào Nhật Bản, nên ông
chuyển hướng sang đảng cách mạng Trung Hoa và những nước những dân
tộc trên thế giới "có căn bệnh giống ta”.
Năm 1911 cách mạng Tân Hợi Trung Quốc thành công, Tôn Trung
Sơn được bầu làm tổng thống. Đây là cơ hội thuận lợi cho cách mạng Việt
Nam.
Năm 1912 Phan Bội Châu tuyên bố giải thể hội Duy tân thành lập
Việt Nam Quang phục hội. Tháng 1 năm 1914, thực dân Pháp thỏa thuận
với nhà cầm quyền Quảng Đông bắt Phan Bội Châu giải về Đông Dương
giao cho thực dân Pháp. Tuy ở trong tù nhưng Phan Bội Châu vẫn tìm mọi
cách liên lạc với các đồng chí chỉ đạo công việc của cách mạng như đối
với cuộc khởi nghĩa ở Trung Kỳ tháng 5 năm 1916, Phan Bội Châu cũng đã
ủy quyền cho Nguyễn Thượng Hiền tới đại sứ Đức và đại sứ Áo ở Xiêm
La nhận tiền để mua vũ khí cho quân cách mạng Việt Nam. Ông bị giam ở
núi Quan Âm mãi đến năm 1917, quân cách mạng tấn công Quảng Đông,
Long Tế Quang bỏ chạy ông mới được giải thoát.
Từ năm 1920 trở đi Phan Bội Châu về Hàng Châu cộng tác vói tờ
“Bình sự tạp chí” ông đi lại nhiều ở Trung Quốc.
Ngày 30/6/1925, Phan Bội Châu tới một bưu điện Thượng Hải gửi
tiền cho một du học sinh đang học ở Đức, thì bị một kẻ phản bội chỉ điểm
báo cho mật thám Pháp bắt cóc. Chúng bí mật giải ông về Hồng Kông , rồi
từ đó đưa ông về Hải Phòng trên tầu Ăng Co, rồi bị áp giải về Hà Nội giam
ở nhà lao Hỏa Lò. Để tránh dư luận lên án và bí mật hãm hại ông theo bản
án tử hình vắng mặt đã có sẵn, chính quyền thực dân bưng bít và đặt cho
ông một cái tên giả là Trần Văn Đức. Song âm mưu của chúng đã bị bại lộ.
Quần chúng nhân dân kịch liệt lên án phản đối, đòi trả tự do cho ông.
Trước sự đấu tranh quyết liệt của nhân dân Hà Nội và nhân dân cả
nước phản đối nhà cầm quyền Pháp kết án Phan Bội Châu. Hội đồng bảo
hộ Pháp phải họp ngay tại phủ Thống sứ để xét lại cái án đó. Toàn quyền
Varen phải gửi điện về Pháp xin ân xá cho ông.
Ngày 22/12/1925, toàn quyền Varen phải ký giấy trả tự do cho nhà
cách mạng lão thành Phan Bội Châu. Ngày 29/12/1925, Tổng thống Pháp
cũng phải ký uỷ quyền cho Varen tuyên bố tha bổng Phan Bội Châu, sau đó
an trí ông ở Huế. Tại nơi an trí Phan Bội Châu không hoạt động chính trị
được nhưng ôngđặc biệt quan tâm đến thời cuộc. Phan Bội Châu mất ngày
29 tháng 10 năm 1940.
TĂNG BẠT HỔ
Tăng Bạt Hổ tên thật là Tăng Doãn Văn, hiệu là Sư Triệu, sinh năm
Mậu Ngọ (1858). Ông quê ở An Thường, xã Ân Thạch, huyện Hoài Ân,
tỉnh Bình Định.
Ông là người học hành thông minh, thông hiểu kinh sách, từmg luyện
tập võ nghệ, can trường. Năm Ất Hợi (1876) dưới triều Tự Đức, ông vừa
18 tuổi đã thay anh đi lính, trước năm 1883 đã thăng suất đội.
Nghe tin vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương, Tăng Doãn Văn bỏ
quân ngũ kêu gọi đồng đội chiêu mộ nghĩa quân lập chiến khu tại núi Kim
Sơn gọi là Tổng dinh chống Pháp. Lực lượng nghĩa quân của Tăng Doãn
Văn phát triển nhanh, thực dân Pháp và bọn tay sai biết ông là người đứng
đầu phong trào Cần vương ở tỉnh Bình Định đã đánh phá căn cứ của ông
rất ác liệt.
Tháng 8 năm Bính Tuất (1888) tên Việt gian Nguyễn Thân kéo quân
vào Bình Định, đóng quân tại đồn Lại Giang xã Bồng Sơn, huyện Hoài
Nhơn để tiến đánh đồn Tổng Dinh và lực lượng kháng chiến ở Kim Sơn.
Phán đoán trước ý đồ của giặc, ông mật ước với Thống trấn Bùi Điền lợi
dụng đêm tối tấn công vào đồn Lại Giang trrước. Tướng Bùi Điền lầm
tưởng Lại Giang là Lộc Giang thuộc xã Ân Tường, huyện Hoài Ân vào
đêm đó lực lượng phân tán, ông bị quân địch phản công nên bị thiệt hại
nặng nề, đối phó với giặc rất khó khăn.
Mùa xuân năm 1887, Tăng Doãn Văn cùng một số đồng chí sang
Xiêm La toan tính cầu viện cứu nước. Khi đi đến dốc Đót giáp với cao
nguyên An Khê tỉnh Bình Định gặp con cọp đứng chắn đường, mấy người
đi theo ai nấy run như cầy sấy. Tăng Doãn Văn không chút sợ hãi, ông
nhìn thẳng vào con cọp nói: “Này chúa Sơn lâm! Ta đi đây là vì đại nghĩa,
chứ không phải việc riêng tư nào khác. Xin chúa Sơn lẩn tránh ra một bên
để cho kẻ vong quốc này lên đường cho sớm!”
Con cọp như hiểu được lời ông liền tránh sang một bên, nhường
đường cho ông đi qua. Những người cùng đi vô cùng cảm phục ông và tôn
ông là Tăng Bạt Hổ. Từ đó ông mang tên này.
Tăng Bạt Hổ ở Xiêm La vài tháng rồi sang Trung Quốc. Ông tới
nhiều vùng của hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây gặp gỡ Việt kiều để gây
dựng cơ sở. Khi Tăng Bạt Hổ ở Trung Hoa, người Pháp xem ông là một
phái viên rất đắc lực của Tôn Thất Thuyết bấy giờ đang bị an trí ở Triều
Châu. Tăng Bạt Hổ có tài nguỵ trang, ông đi về thường xuyên giữa Quảng
Đông và Huế biết được biến động chính trị ở các nước Trung Hoa, Nhật
Bản, Đài Loan, Nam Dương (Indonexia) nơi mà Tăng Bạt Hổ đã đến tận
nơi khảo sát tình hình chính trị, kinh tế.
Trong những chuyến từ Trung Quốc về nước Tăng Bạt Hổ còn đem
theo các sách Tân thư, Tân văn của Trung Hoa và Nhật Bản về nước. Tăng
Bạt Hổ đã có mối liên hệ mật thiết với Nguyễn Thượng Hiền.
Về nước một thời gian, nhưng cơ hội chưa đến Tăng Bạt Hổ thấy chỉ
có con đường đi Nhật như Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi đã nói. Để đỡ
tốn tiền, ông xin làm thuỷ thủ cho một tàu buôn sang Nhật.
Tháng 10/1904, Tăng Bạt Hổ từ Nhật trở về nước gặp Phan Bội
Châu. Ông cùng Phan Bội Châu bàn thành lập phong trào Đông du với sự
có mặt của Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Quyền.
Tháng giêng năm Ất Tỵ (1905) Tăng Bạt Hổ vừa là người đưa
đường, người phiên dịch tháp tùng Phan Bội Châu sang Nhật.
Tháng chạp năm 1905 ông từ Nhật về mang theo thư của Phan Bội
Châu nhan đề “Khuyên Thanh niên Du học”. Sau đó ông lại cùng Nguyễn
Quyền xúc tiến thành lập Đông kinh nghĩa thục.
Mùa Đông năm Đinh Mùi (1908), ông từ Bắc Kỳ trở vào miền Trung,
ông dừng chân tại Huế cổ động cho phong trào Đông du thì lâm bệnh. Bệnh
ông quá nặng, thuốc thang không giảm, ông mất trên thuyền. Các đồng chí
an táng ông trên bờ sông Hương.
VƯƠNG THÚC QUÝ
Vương Thúc Quý sinh năm Nhâm Tuất (1862) là con trai độc nhất
của tú tài Vương Thúc Mậu, người làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An.
Vương Thúc Quý từ nhỏ đã là người học giỏi, tài hoa. Vùng Nam
Đàn có bốn người học giỏi nổi tiếng vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
được mệnh danh là “Tứ hổ” thì làng Kim Liên chiếm tới ba người là
Vương Thúc Quý, Nguyễn Sinh Sắc, Trần Văn Lương, chỉ còn lại Phan
Bội Châu người làng Đan Nhiệm:
Uyên bác bất như San
Thông minh bất như Sắc
Tài hoa bất như Quý
Cường ký bất như Lương
Nghĩa là:
Không ai hiểu biết rộng như Phan Văn San (tức Phan Bội
Châu)
Không ai thông minh như Nguyễn Sinh Sắc
Không ai tài hoa như Vương Thúc Quý
Không ai nhớ giỏi như Trần Văn Lương
Khoa thi Hương năm Tân Mão (1891), Vương Thúc Quý đi thi đậu
cử nhân. Mang nặng mối thù nhà, nợ nước, ông không ra làm quan, cũng
không đi thi Hội ở nhà dạy học, cùng Phan Bội Châu hoạt động cách mạng
cứu nước.
Ngày 14 tháng 7 năm 1901, lợi dụng ngày Quốc khánh nước Pháp có
nhiều người đi lại trong thành Nghệ An, Vương Thúc Quý, Trần Hải đã
theo Phan Bội Châu chỉ huy khoảng 20 người, bí mật tập trung trong thành
Nghệ An định dùng giáo mác để cướp vũ khí giặc rồi đánh úp tỉnh thành
Nghệ An. Việc không thành vì tên Nguyễn Điềm phản bội mật báo với thực
dân Pháp. Tổng đốc Nghệ An Đào Tấn hết lòng che chở, nên Phan Bội
Châu, Vương Thúc Quý, Trần Hải và những người tham gia đều thoát nạn.
Năm 1904 Phan Bội Châu thành lập hội Duy tân ở Quảng Nam, năm
1905 phát triển ra Nghệ An, Vương Thúc Quý trở thành người tích cực
hoạt động cho hội Duy tân. Ông tổ chức cho nhiều thanh niên Nghệ An
xuất dương sang Nhật du học và vận động tài chính cho Hội. Năm 1907,
trường Đông Kinh nghĩa thục được thành lập ở Hà Nội, Vương Thúc Quý
thành lập phân hiệu Đông Kinh nghĩa thục ở làng Sen xây dựng tủ sách Tân
thư.
Giữa năm 1907 Vương Thúc Quý trên đường ra Hải Phòng để sang
Nhật. Ông tới Nam Định, bị ốm nặng phải trở về quê nhà. Bệnh tình ngày
càng trầm trọng, ngày 19 tháng 7 nãm 1907, Vương Thúc Quý cố gắng
ngồi dậy, bảo người bên cạnh đưa giấy, bút, viết mấy chữ : “Phụ thù vị
báo, thử sinh đồ” (Nghĩa là: thù cha chưa báo được đời này thật uổng, rồi
trút hơi thở cuối cùng.
PHAN CHU TRINH
Phan Chu Trinh tự Hy Mã, hiệu Tây Hồ, sinh ngày 9 tháng 9 năm
1872 tại làng Tây Lộc, huyện Hà Đông, tỉnh Quảng Nam, nay thuộc huyện
Tuy Phước, tỉnh Quảng Nam.
Năm 1900, Phan Chu Trinh thi đỗ cử nhân, năm sau thi hội đỗ Phó
Bảng, được bổ làm Thừa biện bộ Lễ. Năm 1903 kết giao với Phan Bội
Châu.
Năm 1904 Phan Chu Trinh từ quan tham gia cuộc vận động Duy tân.
Năm 1905 ông vào Bình Định cùng với Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng
viết Chí Thành thông thánh. Năm 1905 sang Trung Quốc rồi sang Nhật
trao đổi chính kiến với Phan Bội Châu, nhưng ông không đi theo con
đường vũ trang của Hoàng Hoa Thám và Phan Bội Châu. Phan Chu Trinh
muốn lợi dụng chiêu bài khai hóa của thực dân Pháp để đấu tranh hợp
pháp, trước hết là mở mang trường học để khai hóa dân trí.
Năm 1906, Phan Chu Trinh ra Bắc gặp Lương Văn Can bàn việc mở
một trường học tại Hà Nội để làm kiểu mẫu, rút kinh nghiệm mở các
trường trong toàn quốc. Sau khi gặp Lương Văn Can, Phan Chu Trinh bí
mật dời Hà Nội lên Phồn Xương gặp Hoàng Hoa Thám.
Đầu năm 1907 Phan Chu Trinh trở về Quảng Nam cùng các ông Trần
Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng thực hiện chủ trương khai hóa dân trí đã bất
chấp sự cấm đoán của bọn cầm quyền Bảo hộ Pháp và chính quyền Nam
triều, các ông đã đi vận động mở nhiều trường học ở Quảng Nam như
trường An Phước (Hoa Phụng), Tân Thạnh (Hòa Phước), Hòa An (Hòa
Phát) đều thuộc huyện Hòa Vang ra đời. Sau khi hàng chục trường học ở
Quảng Nam ra đời thì tại Hà Nội, ông cử Lương Văn Can, Đốc học
Nguyễn Quyền cùng nhiều nhà nho khác đã thành lập trường Đông Kinh
nghĩa thục ở Hà Nội. Lương Văn Can đã mời Phan Chu Trinh ra dạy ở
trường Đông Kinh nghĩa thục. Phan Chu Trinh đã nhiều lần diễn thuyết về
phong trào Duy tân trước công chúng Hà Nội tại trường Đông Kinh nghĩa
thục và các phân hiệu như ở Chèm, Hà Đông. Ông cổ động cho lối sống
mới ở Hà Nội. Phan Chu Trinh rất quan tâm đến việc đào tạo cán bộ
chuyên môn cho từng ngành nghề khuyến khích việc học nghề. Trong
phong trào Duy tân, Phan Chu Trinh chủ trương không tán thành bạo động
vũ trang mà ông chủ trương cải cách là "khai thông dân trí, mở rộng dân
quyền" trái ngược với chủ trương bạo động của Phan Bội Châu. Từ chủ
trương cải cách của Phan Chu Trinh đã dẫn tới cuộc đấu tranh "xin xâu,
chống thuế ở Trung Kỳ".
Phan Chu Trinh với chủ trương ''Pháp - Việt đề huề” đã có nhiều
hoạt động trong giới Việt kiều và vận động các chính khách tư sản, hội
Nhân quyền và Chính phủ Pháp thực hiện những cải cách ở Đông Dương
trong khuôn khổ cải lương tư sản.
Ông bị thực dân Pháp bắt và đày ra Côn Đảo. Phan Chu Trinh khi ở
Côn Đảo làm rất nhiều thơ, trong đó có bài:
CÔN LÔN TỨC CẢNH
Biển dân đời đổi mấy thu đông
Cụm núi Côn Lôn đứng vững trông
Bốn mặt dày vò oai sóng gió
Một mình che chở tội non sông
Cỏ hoa đất nở cây trăm thước
Rồng cá trời riêng cả một vùng
Nước biếc non xanh thiêng chẳng nhĩ
Gian nan xin hộ khách anh hùng
Năm 1911 ra tù ông sang Pháp, hoạt động trong Việt kiều yêu nước.
Năm 1912, Phan Chu Trinh gặp Phan Văn Trường sang Pháp từ trước. Đầu
năm 1914 ông và Phan Văn Trường thành lập ''Hội người Việt Nam yêu
nước" tại Pháp. Tháng 4/1914 ông và Phan Văn Trường bị bắt vì bị vu cho
là "Mật thông với kẻ thù của nước Pháp" (nước Đức). Phan Chu Trinh
cũng đưa con là Phan Châu Dật là con thứ ba và là con trai duy nhất sang
Pháp học. Trong thời gian Phan Chu Trinh bị giam ở ngục Săng đê, Châu
Dật được phép mỗi tuần đến thăm cha hai lần chờ ở phòng khách thăm tù.
Tháng 4/1914 chúng phải thả hai ông vì không có đủ chứng cứ buộc tội.
Ngày 3/2/1925, Phan Chu Trinh diễn thuyết lần cuối cùng ở hội
Nhân quyền Paris. Ngày 28/5/1925 ông cùng Phan Văn Trường đi Mác
Xây rồi về Sài Gòn.
Tháng 6/1925 Phan Chu Trinh về đến Sài Gòn. Ngày 24/3/1926,
Phan Chu Trinh đột ngột qua đời tại Sài Gòn.
HUỲNH THÚC KHÁNG
Huỳnh Thúc Kháng thuở nhỏ tên là Huỳnh Hanh hiệu Minh Viên,
sinh năm Bính Tý (1876), ở làng Thanh Bình, tổng Tiên Giang Thượng,
huyện Hà Đông, phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, nay là xã Tiên Cảnh,
huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Ông nhà nghèo, học giỏi.
Năm Canh Tý (1900) ông đỗ Giải nguyên kỳ thi Hương. Năm Giáp
Thìn (1904), ông 29 tuổi, đỗ đầu kỳ thi Hội (Hội nguyên) rồi đỗ Tiến sĩ Đệ
Tam giáp ở kỳ thi Đình. Ông được giới sĩ phu và nhân dân xếp là "Tứ Hổ"
ở đất Quảng (bốn người học giỏi là Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng,
Nguyễn Đình Hiên, Phạm Liệu). Huỳnh Thúc Kháng đỗ tiến sĩ, nhưng
không ra làm quan, mà ờ nhà đọc tân thư, giao du với các nhà yêu nước
như Trần Quý Cáp, Phan Chu Trinh.
Đầu năm 1905, Huỳnh Thúc Kháng tham gia "Duy tân tự cường"
cùng Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế. Khác với Phan Bội Châu theo chủ
trương bạo lực cách mạng, Huỳnh Thúc Kháng vận động phát khởi phong
trào Duy tân cải cách văn hóa xã hội theo hướng ''khơi dân trí, chấn dân
khí, hào dân sinh" (khẩu hiệu và mục tiêu của phong trào Duy tân do Phan
Chu Trinh đề xướng), Huỳnh Thúc Kháng không phản đối đường lối “bạo
động xuất dương cầu ngoại viện" của Phan Bội Châu, cũng không hoàn
toàn tin theo đường lối "bất bạo động, bất ngoại vong" của Phan Chu
Trinh. Nếu Phan Chu Trinh tỏ ra là người cực đoan thì Huỳnh Thúc Kháng
lại là người có vai trò: "điều hòa mâu thuẫn" giữa hai đường lối của hai
nhà yêu nước họ Phan.
Ngay sau khi thi đỗ tiến sĩ, Huỳnh Thúc Kháng không ra làm quan,
tháng 10 năm Giáp Thìn (1904), Huỳnh Thúc Kháng cùng Phan Chu Trinh,
Trần Quý Cáp đi khắp nơi trong tỉnh Quảng Nam cổ động cho phong trào
Duy tân. Tháng 2 năm Ất Tỵ (1905), Huỳnh Thúc Kháng lại cùng Phan
Chu Trinh, Trần Quý Cáp thực hiện cuộc "Nam du". Đến nơi nào ba nhà
Duy tân cũng "cổ xúy tân học không chán''.
Ông cùng các bạn tù bị thực dân Pháp giam ở Khám Lớn, Sài Gòn
chờ đi Côn Đảo. Huỳnh Thúc Kháng bị giam ở Côn Đảo từ năm 1908.
Tháng 2/1921 ông được tha.
Tháng 12/1926 ông vận động thành lập một công ty tập hợp những
người yêu nước tìm vốn kinh doanh để tài trợ cho những hoạt động chính
trị.
Tháng 4/1927, công ty Huỳnh Thúc Kháng được thành lập ở Đà
Nẵng với sự tham gia của nhiều nhân vật như Nguyễn Đình Kiên, Nguyễn
Xương Thái... chuyên ngành in và báo chí. Huỳnh Thúc Kháng lấy tư cách
là Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ, đã xin phép xuất bản tờ Tiếng
Dân mà ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút.
Ngày 10/8/1927, báo Tiếng Dân ra số đầu tiên. Tờ báo được coi như
cơ quan ngôn luận của Viện dân biểu Trung Kỳ, nhưng trên thực tế, cụ
Huỳnh đã sử dụng tờ báo này làm diễn đàn đòi một số quyền tự do dân chủ
trong khuôn khổ những cải cách có tính chất tư sản và hợp pháp.
Sau những lần xô xát với Phạm Quỳnh và Bùi Quang Châu tại kỳ
hợp thường niên ngày 2/10/1928, Huỳnh Thúc Kháng đã lên tiếng chỉ trích
kịch liệt đường lối phản dân chủ của bọn thực dân và ông tuyên bố từ chức.
Việc ông từ chức đã dẫn theo sự ly khai của hàng loạt các dân biểu tiến bộ.
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, Huỳnh Thúc Kháng đã gần 70
tuổi. Được sự tin cậy của Hồ Chủ tịch, ông đã giữ chức Quyền Chủ tịch
nước (và cũng là Quyền Thủ tướng) trong hơn 5 tháng, giữa lúc đất nước
vẫn bị nạn đói đe dọa và có nguy cơ mất vào tay giặc Pháp và bọn Việt
Quốc, Việt Cách, tay sai của Tưởng Giới Thạch. Sau ngày Toàn quốc
kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946, ông đi thanh tra ở tỉnh Quảng Ngãi với
tư cách là đại diện Chính phủ. Ông đột ngột mắc bệnh rồi qua đời tại nhà
một người dân dùng làm trụ sở Ủy ban kháng chiến Hành chính Nam
Trung Bộ (chợ Chùa) ngày 21 tháng 4 năm 1947.
NGÔ ĐỨC KẾ
Ngô Đức Kế hiệu Tập Xuyên, sinh năm Kỷ Mão (1879) (có sách viết
ông sinh năm Mậu Dần (1878). Ông người xã Trảo Nha, tổng Đoài, huyện
Thạch Hà, phủ Hà Thanh, tỉnh Hà Tĩnh, nay là thôn Nam Sơn, thị trấn Can
Lộc, tỉnh Hà Tĩnh (Có sách viết nay là xã Đại Lộc, huyện Can Lộc. tỉnh Hà
Tĩnh). Ngô Đức Kế bẩm tính thông minh, học giỏi từ nhỏ. Khoa thi năm
Đinh Dậu (1897), khi mới 19 tuổi, ông đỗ cử nhân, khoa thi năm Tân Sửu,
Thành Thái thứ 13 (1901), đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ khi mới 23 tuổi.
Ngô Đức Kế không ra làm quan, đề xuất lối học mới, vận động bỏ
khoa cử, hô hào thực nghiệp. Ngô Đức Kế có mặt ngay từ khi Duy tân hội
được thành lập, hoạt động trong phái "Minh Xã". Phái này hoạt động công
khai, hợp pháp chuyên lo mở trường học, lập hội buôn, mở xưởng thủ
công nghiệp để chấn hưng kinh tế đưa phần lớn tiền lãi vào quỹ hội Đông
du. Ngô Đức Kế cùng em trai là Ngô Đức Thiệu mở một hiệu buôn ở
Nghèn. Đến khoảng năm 1906, ông lại cùng với Đặng Nguyên Cẩn, Đặng
Văn Bá, Lê Văn Huân thành lập Triêu Dương Thương điếm ở Vinh chuyên
lo buôn bán đường mật, tơ lụa. Khi Phan Bội Châu xuất dương, ông cùng
với các đồng chí đảm nhiệm cổ vũ phong trào Đông du. Thương điếm
cũng là trạm liên lạc của hội Duy tân, có quan hệ với các hiệu buôn khác
cùng mục đích vận động Duy tân như Hồng Tân Hưng, Quảng Hương
Long, Quảng Nam Hiệp thương công ty. Năm 1907, Đông Kinh nghĩa thục
thành lập, Ngô Đức Kế ở Vinh nhưng cũng tham gia ban Tu thư của trường
cùng với Lương Văn Can, Lê Đại, Nguyễn Hữu Cầu, Phan Chu Trinh. Ban
này chia làm hai bộ phận: biên soạn và dịch thuật. Ngô Đức Kế ở ban biên
soạn. Ông đã soạn được nhiều sách, trong đó có các cuốn: "Quốc dân độc
bản", "Nam quốc giai sự”, "Nam quốc địa dư", "Quốc văn giáo khoa thư",
"Luân lý giáo khoa thư"...
Đầu năm Mậu Thân (1908) cuộc xin xâu nổ ra ở Quảng Nam, Quảng
Ngãi rồi lan đến Nghệ Tĩnh. Các Hội viên hội Duy tân như Nguyễn Hàng
Chi, Trịnh Khắc Lập đứng lên lãnh đạo và hô hào đồng bào "xin xâu". Ngô
Đức Kế cùng một số yếu nhân như Đặng Nguyên Cẩn, Đặng Văn Bá, Lê
Văn Huân... đều tích cực tham gia. Các ông bị nhà cầm quyền bắt vào
tháng 3, tháng 4/1908, bị đưa về giam ở nhà lao Hà Tĩnh. Tòa án Nam triều
do Án sát Cao Ngọc Lễ, Lãnh binh Ngụy Tác Hạ theo lệnh của công sứ
Pháp Đuxê (Doucet) đã tuyên án tử hình Nguyễn Hằng Chi, Trịnh Khắc
Lập. Ngô Đức Kế, sau đổi làm tội đồ (đi đày) chung thân, rồi giảm xuống
13 năm đày ra Côn Đảo.
Ở Côn Đảo Ngô Đức Kế đã gặp Huỳnh Thúc Kháng và hai ông đã
trở thành bạn thân thiết cũng như với Đặng Nguyên Cẩn và Phan Bội
Châu. Bốn nhà chí sĩ cùng có một tâm huyết đánh đuổi giặc Pháp, cùng gắn
bó với nhau trong sự nghiệp văn chương trong dòng thơ văn yêu nước.
Hết hạn đi đày, năm 1921, Ngô Đức Kế về quê nghỉ ngơi ít lâu, rồi
cuối năm 1922 ra Hà Nội chủ trương báo Hữu Thanh, nguyên là cơ quan
Ngôn luận của Hội Trung Bắc nông công thương tương tế, lúc mới lập do
nhà thơ Tản Đà làm chủ bút. Ông còn mở hiệu đối trướng ở phố Hàng
Điếu, Hà Nội. Ngô Đức Kế là nhà cựu học tiếp cận được với trào lưu mới,
ông giao tiếp nhiều, kiến văn rộng,
Năm 1926, Ngô Đức Kế mở "Giác quần thư xã", xuất bản một số
thơ văn của Phan Bội Châu, Phan Tây Hồ di thảo... Ông đọc sách Bách
khoa toàn thư, viết cuốn "Đông Tây vĩ nhân" trong đó có Tôn Dật Tiên,
Găngđi.
Ngô Đức Kế làm sách chưa được bao lâu thì ông ốm nặng và mất
vào ngày 10 tháng giêng năm Kỷ Tỵ (10/12/1929), tại Bạch Mai, Hà Nội.
ĐẶNG VĂN BÁ
Đặng Văn Bá tự Thanh Bình, hiệu Nghiêm Giang, sinh năm 1873,
người làng Phất Lão, nay là xã Thanh Bình, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Ông thi đỗ cử nhân khoa Canh Tý(1900), nên thường gọi là Cử Đặng.
Ông tham gia Duy tân hội và phong trào Đông du từ năm 1905 thuộc phái
"Ám xã". Ông có quan hệ mật thiết với Lê Võ và Trần Văn Bỉnh một
người Thiên chúa giáo yêu nước cùng tham gia Duy tân hội với ông. Đặng
Văn Bá thuộc phái “Ám xã” tức là phái vũ trang bạo động. Ba ông có dự
mưu khởi nghĩa vũ trang từ năm 1905, ông và Lê Võ chịu trách nhiệm tổ
chức lực lượng, xây dựng căn cứ, Trần Văn Bỉnh là người có năng khiếu
về cơ học, từng nghiên cứu cách chế tạo súng đạn lo việc quân giới.
Khoảng năm Bính Ngọ ( 1906), năm Đinh Vị (1907), Đặng Văn Bá
muốn khởi sự ở Trung Kỳ, ông đã đầu tư tiền bạc giao cho ông Trần Văn
Bỉnh đưa hơn 10 đệ tử đến tỉnh Phương Lâm (Sau đổi là tỉnh Hòa Bình) ở
xứ Bắc Kỳ là nơi đồng bào dân tộc có nhiều súng cũ hỏng, nơi có rừng núi
hiểm trở thành lập xưởng đúc súng. Trong khoảng nửa năm. Trần Văn Bỉnh
chế tạo súng đã dùng được, nhưng còn thiếu đạn, Ông Bỉnh đang nghiên
cứu chế tạo thì lâm bệnh nặng rồi mất. Đặng Văn Bá cùng Lê Võ tiếp tục
chiêu mộ quân, xây dựng căn cứ hoàn chỉnh việc chế tạo súng đạn, thì năm
1908 nổ ra cuộc xin xâu, chống thuế từ Quảng Nam lan ra Hà Tĩnh, Nghệ
An, Đặng Văn Bá cũng bị thực dân Pháp bắt với Ngô Đức Kế, Đặng
Nguyên Cẩn, các ông bị đầy ra Côn Đảo.
Trần Văn Bỉnh mất, Đặng Văn Bá bị mất, số vũ khí tinh xảo do Trần
Văn Bỉnh chế tạo ra cũng mất theo. Sau một năm giam cầm trong nhà tù
với cảnh “ngậm đắng, ăn cay đợi bữa luôn” giữa “Sóng khoá chân thần sau
mặt khuất, Biển dăng hơi quỷ khiến người nôn” của cảnh tù đày Côn Đảo,
địa ngục trần gian, Đặng văn Bá đã khẳng định:
Trải nhiều gian khổ thêm can đởm (đảm)
Biệt cảnh quê hương rối mộng hồn.
Lá rụng một đêm theo gió cuốn
Non sông khắp xứ thu vòng tròn.
Ông bị đày 1 năm rồi 2 năm, 3 năm, tìm mưu tính kế bao lần các sĩ
phu không vượt được ngục vẫn phải âm thầm sống trong tù đày. Các sĩ phu
yêu nước lại động viên nhau: Chớ ngại tóc sương khắp mái.
Đến năm 1921 (Có tài liệu viết năm 1916) ông được tha. Ông về ở
Sài Gòn. Năm 1925 Phan Bội Châu bị an trí ở Huế thì ông về Huế cùng ở
với Phan Bội Châu, sau một thời gian ở Huế, ông về quê, mất năm 1931.
Đặng Văn Bá sáng tác nhiều thơ chữ Hán và chữ Nôm. Xin giới thiệu một
số bài để thấy rõ tâm tư cùng hoài bão của một người yêu nước, căm thù
giặc sâu sắc:
TÍCH NIÊN KIM NHẬT ĐÁO CÔN LÔN
Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn
Nhữ khổ hàm tân bất đãi luân
Cựu mục thần châu ba lãng viễn
Bức nhân quỷ khí hải đào hôn
Thường đa gian khổ tăng can đảm
Biệt cửu gia sơn nhiễu mộng hồn
Nhất dạ thu phong tồi lạc nghiệp
Thiên sơn vận hái kiến triêu đôn
Dịch thơ:
NGÀY NÀY NĂM TRƯỚC ĐẾN CÔN LÔN
Ngày này năm ngoái đến Côn Lôn
Ngậm đắng ăn cay đợi bữa luôn
Sóng khỏa châu Thần trong mặt khuất
Biển giăng hơi quỉ khiến người nôn
Trải nhiều gian hiểm thêm can đảm
Biệt cách quê hương rối mộng hồn
Lá rụng một đêm theo gió cuốn
Non sông khắp xứ thấy vừng tròn.
Huỳnh Thúc Kháng dịch
(Theo Thi tù tùng thoại,
Nxb Nam Cường, Sài Gòn, 1951).
NGUYỄN AN KHƯƠNG
Nguyễn An Khương người làng Mỹ Hòa (Quán Tre) huyện Hóc
Môn, tỉnh Gia Định, nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Ông là thân phụ
nhà cách mạng Nguyễn An Ninh.
Khi Phan Bội Châu và các đồng chí phát khởi phong trào Duy tân, thì
Nam kỳ là nơi phong trào phát triển nhất. Ngoài số thanh niên xuất dương,
còn có các nhân sĩ yêu nước, các phú hào, các đại điền chủ ủng hộ tài
chính.
Trong số những người tham gia Duy tân hội ở Nam Kỳ ( Nam Kỳ gọi
là Minh tân) phải kể đến các nhân vật Nguyễn An Khương, Nguyễn An Cư,
Gilbert Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Thần Hiến...
Nguyễn An Khương là chiến sĩ cách mạng, thủ lĩnh phong trào Duy
tân ở Nam Kỳ. Ông vận động nhiều thanh niên xuất dương, quyên góp tiền
bạc cho phong tràoo Khi trường Đông Kinh nghĩa thục thành lập ở Hà Nội,
ông là người đầu tiên hưởng ứng và tích cực mở trường nghĩa thục ở Nam
Kỳ.
Ông mở khách sạn Chiêu Nam Lầu tại số 49 đường Kinh Lấp
(Boulevard Charner) Sài Gòn. Khách sạn này kinh doanh dịch vụ khách sạn
nhà hàng, cạnh tranh công khai với cơ sở nhà hàng của Hoa Kiều. Ông lấy
tiền lãi cung cấp cho thanh niên Đông du vừa là nơi in lại sách của trường
Đông Kinh nghĩa thục, cung cấp cho các trường nghĩa thục ở Nam Kỳ.
Khách sạn còn là nơi các nhà yêu nước gặp gỡ nhau bàn định công việc
cứu nước.
Năm 1908, Nguyễn An Khương cùng các đồng chí Nguyễn Quang
Diêu, Nguyễn Thần Hiến, Bùi Chí Nhuận vượt biên giới sang Cao Miên
rồi từ đó qua Xiêm La để sang Trung Quốc. Tại Trung Quốc, Nguyễn An
Khương tích cực hoạt động cho phong trào Đông du. Ông được tổ chức
phân công về hoạt động ở Nam Kỳ. Tại Củ Chi, nhà ông là nơi liên lạc bí
mật của các chí sĩ. Trong thời gian ở Củ Chi, Sài Gòn, Nguyễn An Khương
dịch các sách Trung Quốc như Tam Quốc chí, Thủy Hử, Phấn Trang Lầu
từ chữ Hán ra chữ Quốc ngữ. Ông cũng là trợ bút đắc lực cho tờ "Nông Cổ
Mín đàm''. Tờ Nông cổ Mín đàm trước của một người Pháp tên là
Canavaggiô, sau giao cho các ông Gilbert Chiểu, Đỗ Thức, Lương Khắc
Ninh, Nguyễn Chánh Sắt quản lý. Năm 1902, Canavaggiô qua đời thì
Nguyễn Chánh Sắt làm chủ bút. Ông đã cho in những văn thơ yêu nước,
viết và đăng những lời cổ động cho phong trào Minh tân. Nguyễn An
Khương là trợ bút đắc lực cho tờ báo này.
ĐẶNG TỬ KÍNH
Đặng Tử Kính người làng Hải Côn, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An,
ông là chú ruột Đặng Thái Thân. Ông là một trong năm thành viên sáng lập
ra Duy tân hội.
Tháng giêng năm Ất Tỵ (1905) ông cùng Tăng Bạt Hổ tháp tùng
Phan Bội Châu sang Nhật với mục đích là cầu ngoại viện. Đặng Tử Kính
mới qua Nhật, nhưng qua Tăng Bạt Hổ và các nhân sĩ Trung Quốc ông đã
có mối quan hệ rộng rãi với chính khách Nhật. Phan Bội Châu giữ ông ở
lại Nhật giúp bố trí nơi ăn ở, học tập ở các trường cho lưu học sinh Việt
Nam, giao tiếp với các chính khách Nhật và các nhà cách mạng Trung Hoa
đang ở Nhật.
Khi Phan Bội Châu có việc về nước lần thứ nhất (1905) lần thứ hai
(1906) thì toàn bộ công việc đối nội, đối ngoại ở Nhật đều do Đặng Tử
Kính lo liệu. Cuối năm 1908, Chính phủ Nhật thông đồng với nhà cầm
quyền Pháp ở Đông Dương trục xuất lưu học sinh Việt Nam chủ yếu ở
Nam Kỳ về nước thì ông cũng là người đứng ra lo tiền bạc cho lưu học
sinh.
Đến năm 1909 Chính phủ Nhật thực hiện Hiệp ước ký với Pháp đã ra
lệnh trục xuất Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính cùng toàn thể cán bộ, lưu học
sinh Việt Nam ở Nhật. Cán bộ, học sinh đành phải về Trung Hoa. Đây là
thời kỳ cực kỳ khó khăn của lưu học sinh, vì tiền bạc trong nước bị nghẽn
không gửi sang được. Ông cùng Phan Bội Châu và những đồng chí đang
hoạt động ở Trung Quốc phải dựa vào mối quan hệ với các nhân sĩ Trung
Quốc, những người dân Trung Quốc ủng hộ cách mạng Việt Nam, kiều bào
Việt Nam ở Trung Quốc lo tiền ăn học cho anh em.
Năm 1911 cách mạng Tân Hợi (Trung Quốc) thành công, đây là cơ
hội thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Đặng Tử Kính liền từ Xiêm về
Quảng Đông.
Năm 1912, Phan Bội Châu triệu tập cán bộ ba kỳ và cán bộ đang hoạt
động ở Trung Quốc, Xiêm La họp ở Quảng Đông tuyên bố giải tán Duy tân
hội, thành lập Việt Nam Quang Phục hội. Đặng Tử Kính được bầu vào ban
chấp hành, phụ trách kinh tế.
Từ năm 1914 khi Phan Bội Châu và Mai Lão Bạng bị nhà cầm quyền
Quảng Đông bắt giam thì Đặng Tử Kính và Nguyễn Thượng Hiền lãnh đạo
Việt Nam Quang Phục hội.
Tháng 3 năm 1915, ỏng và Nguyễn Thượng Hiền sang Xiêm vận
động công sứ Đức, Áo viện trợ 10.000 đồng tiền Xiêm. Hai ông chia làm 3
phần giao cho ba nhóm Quang Phục quân mua vũ khí để đánh vào Móng
Cái, Hà Khẩu, Lạng Sơn. Song đáng tiếc những hoạt động quân sự trên
không thành công.
Năm 1925 khi Phạm Hồng Thái trong nhóm Tâm Tâm xã, ném tạc
đạn ở Sa Điện Trung Quốc, ám sát hụt Toàn quyền Méc Lanh. Mật thám,
lính Pháp truy kích gắt gao, ông nhẩy xuống sông Châu Giang để thoát
thân, không ngờ dòng nước chảy xiết, cuốn trôi ông. Đặng Tử Kính cảm
phục tinh thần dũng cảm của Phạm Hồng Thái, ông làm bài thơ:
KÍNH DÂNG HƯƠNG HỒN LIỆT SĨ PHẠM HỒNG THÁI
(Trích đoạn cuối)
... Bây giờ cơ đã đến nơi
Lòng người có chí thì trời cũng bênh,
Ông khi ấy một mình len lỏi
Một chiếc thuyền theo dõi bờ sông
Toàn quyền Đông Pháp Mặc Lanh
Hắn lên xe điện thẳng dong hàng
Thành Sa Điện (*) phố phường đón rước,
Mời vào nhà thết tiệc hoan nghênh,
Ông vào thám thính phân minh
Lại gần chú lính đang canh nạt dồn
Tám giờ tối bàn hoàn chưa định,
Việc gấp rồi phải tính mau mau
Khen người kế hoạch mưu cao
Tới ngay cửa sổ ném vào một khi
Người trong tiệc còn chi đâu nữa
Chúng kinh hoàng hồn rữa, phách tan
Tây kia mới hết khoe khoang
Xương tan xác pháo, thịt tan bụi hồng
Chốn Sa Điện một vùng tối mịt
Thuyền Châu Giang trăm chiếc đón đưa
Hy sinh cứu nước bây giờ
Hồn thiêng cao phất, ngọn cờ tự do.
"Anh hùng vị quốc quyên khu" (**)
Sông Châu Giang ấy nghìn thu lưu truyền
(Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX)
Ông mất tại tỉnh Phi Chịt nước Xiêm năm 1928.
(*) Sa Điện tên đất thuộc Quảng Châu (Trung Quốc) tô giới nước
Pháp
(**) Người anh hùng vì nước hy sinh thân mình.
NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
Nguyễn Thượng Hiền tự Đỉnh Nam, Đỉnh Thần, hiệu Mai Sơn, sinh
năm 1866 trong một gia đình phong kiến quý tộc, quê ở làng Liên Bạt, tổng
Xà Cầu, huyện Sơn Lãng, sau đổi là huyện ứng Hòa, tỉnh Hà Đông, nay là
xã Liên Bạt, huyện úng Hòa, tỉnh Hà Tây.
Ông là người thông tuệ, lại chăm chỉ học ở trường và đọc sách. Năm
Giáp Thân, Kiến Phúc thứ nhất (1884), ông 19 tuổi đỗ Cử nhân. Ông đỗ cử
nhân, nhưng bỏ nhà đi tu. Sau vì anh ông mất sớm, gia đình đón về bắt lấy
vợ. Ông kết duyên với con gái Tôn Thất Thuyết.
Ất Dậu, năm đầu Hàm Nghi (1885), ông 20 tuổi thi Hội trúng cách,
chưa kịp truyền loa thì kinh thành thất thủ, nên chưa được công nhận chính
thức. Ông ở lại Huế học tập.
Khoa thi năm Nhâm Thìn thành Thái thứ 5 (1892) ông đi thi Hội, vì
đã trúng cách trước, nên ông được vào thi Đình, đỗ Hoàng giáp, bấy giờ
ông mới 27 tuổi.
Ông đỗ cao nhưng đau xót cảnh đất nước rơi vào tay giặc Pháp, nên
không chịu ra làm quan, dâng sớ xin nghỉ 10 năm để đọc sách tu dưỡng.
Triều đình chỉ cho nghỉ 3 năm. Hết hạn nghỉ, ông ra nhận chức Toản tu
quốc sử quán, sau đổi làm Đốc học Nam Định - Ninh Bình.
Trong thời gian ỉàm việc ở Huế và ở Nam Định, Nguyễn Thượng
Hiền được đọc nhiều tân thư của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vy (Trung
Quốc).
Sau đó lại được tiếp xúc với nhà cải cách Nguyễn Lộ Trạch, sư Viên
Giác và các nhà chí sĩ Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, nên
ông có cảm tình sâu sắc với phong trào chống Pháp. Ông từ quan về núi
Nưa (Thanh Hóa) ở ẩn.
Năm 1907 thân phụ mất, ông tìm đường xuất dương hoạt động cách
mạng. Ông tham gia phong trào chống thuế ở miền Trung bị bọn cầm
quyền Pháp kết án tử hình vắng mặt.
Năm 1908, ông xuất dương sang Trung Quốc gặp Phan Bội Châu.
Năm 1912, Nguyễn Thượng Hiền tấn thành tôn chỉ bỏ quân chủ của Việt
Nam Quang Phục hội. Ông là đại biểu cho Bắc Kỳ trong bộ Bình nghị của
Việt Nam Quang Phục hội.
Năm 1914 Phan Bội Châu bị quân phiệt Trung Hoa bắt giam, mọi
công việc của Hội đều do ông lo liệu, ông lại thực hiện kế hoạch ba mũi
tiến công vào Bắc Kỳ mà ông trực tiếp chỉ huy một đội quân mưu việc
đánh úp Lạng Sơn, song việc không thành. Giặc Pháp ráo riết truy bức các
nhà cách mạng Việt Nam Quang Phục hội. Nguyễn Thượng Hiền phải bôn
tẩu khắp nơi, khi ở Quảng Đông, Quảng Tây, khi ở Bắc Kinh, Thượng Hải,
Hàng Châu, có lúc lại sang Xiêm La.
Năm 1915 ông đi Xiêm La liên hệ với hai viên công sứ Đức và Áo,
yêu cầu họ giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Họ giúp cho một số tiền để mua
vũ khí về nước đánh Pháp. Trung Quốc tuyên chiến với Đức và Áo, khủng
bố các nhà cách mạng Việt Nam ở Trung Quốc.
Đại chiến thế giới lần thứ nhất kết thúc nước Pháp thắng trận, năm
1925, Phan Bội Châu bị bắt đưa về nước rồi bị quản thúc ở Huế. Nguyễn
Thượng Hiền nản chí bỏ đi tu ở một ngôi chùa ở Hàng Châu (Trung
Quốc).
Nguyễn Thượng Hiền sáng tác rất nhiều văn thơ yêu nước, bài văn,
thơ nào cũng cháy bỏng lòng yêu nước thiết tha, ca ngợi những người vì
nghĩa quên mình, kêu gọi mọi người mở mang công nghệ, lập hội buôn,
mở trường học để chấn hưng đất nước Nguyễn Thượng Hiền là một nhà
văn, nhà thơ xuất sắc. Ý chí bất khuất của ông được thể hiện rõ nét trong
văn thơ:
ĐỀ MIẾU MÃ VIỆN Ở LONG THÀNH
Trèo non vượt bể biết bao công
Một trận Hồ Tây chút vẫy vùng
Quắc thước khoe chi mình tóc bạc
Cân đai đọ với khách quần hồng
Dèm chê đã chán đầy mâm ngọc
Công cán ra chi mấy cột đồng
Ai muốn chép công, ta chép tội
Công riêng ai đó oán hờn chung
Khi được tin vợ mất, ông làm câu đối khóc vợ:
"Ngưỡng quan thiên, thiên dĩ vân mai tứ tắc, phủ quan địa, địa dĩ
kinh cức hoàng sinh, bôn trì thiên vạn lý, khiết tiết thôn chiên, thượng hải
vị năng điền, thệ ngã thử tâm, trường đối, giang sơn oanh lữ mộng;
Thiếu tòng phụ, phụ dĩ vương mệnh xuất bôn, tưởng tòng phu, phu dĩ
quốc nạn viễn tỵ, tiền hậu tam thập niên, hàm tân nhữ khổ, bạch đầu ưng

cách thậm, đa quản tiên giác, tảo ly trần giới đoạn sầu căn".
Dịch:
Ngẩng trông trời, trời đã mây mù che kín, cúi xem đất, đất đã gai góc
mọc đầy, chạy vạy ngàn muôn dặm, ăn tuyết, nhai tanh, bể xanh còn chưa
lấp, thề tớ lòng này, đất khách mơ màng non nước cũ;
Trẻ theo bố, bố vâng lệnh chúa ra đi, lớn theo chồng, chồng vì nạn
nước xa lánh, sau trước ba mươi năm, nuốt cay, ngậm đắng, đầu bạc lại
thêm thương, may bà biết trước, suối vàng dứt hẳn mối sầu xưa.
Lê Thước dịch in trong Hợp tuyển thi văn Việt Nam
(1858 - 1920) quyển II Nxb Văn học, Hà Nội, 1985).
Ông sống lưu vong ở Trung Quốc song vẫn hướng về quê cha, đất tổ
Việt Nam, vẫn không ngừng cổ động, khuyến khích lớp lớp con cháu làm
cách mạng đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Sức ông yếu, lại sót sa, nỗi
buồn mất nước, nặng lòng thương cảm các đồng chí lần lượt hy sinh, do
vậy sức khỏe của ông ngày càng suy sụp. Ông ngã bệnh nặng rồi mất ngày
28 tháng 12 nãm 1925 tại chùa Thường Tịch Quang trên núi Cô Sơn giữa
Tây Hồ, tỉnh Hàng Châu, Trung Quốc, thọ 57 tuổi. Thi hài của ông được
hỏa táng, rắc tro xuống sông Tiền Đường theo lời Di chúc của ông.
PHẠM VĂN NGÔN
Phạm Văn Ngôn còn gọi là Phạm Ngôn, hiệu Tùng Nham, sinh năm
1881, quê ở thôn Yên Nội, xã Việt Yên hạ, huyện La Sơn, phủ Đức Phong,
tỉnh Hà Tĩnh, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Tháng 12 năm 1906, Phan Bội Châu từ Nhật trở về nước đến đồn
Phồn Xương lần thứ hai gặp Hoàng Hoa Thám. Hai ông thỏa thuận lập một
"Đồn điền Tú Nghệ" ở Yên Thế làm nơi ẩn náu cho các nhà cách mạng
Nghệ An, Hà Tĩnh.
Năm 1907 giặc Pháp đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng ở Nghệ
Tĩnh, Tú Ngôn đưa một số đồng chí ra ẩn náu ở đồn điền Tú Nghệ ở Yên
Thế chờ thời cơ.
Đầu năm 1909 trước âm mưu chuẩn bị tiến công căn cứ Đề Thám ở
Yên Thế của giặc Pháp ngày càng lộ liễu, Tú Ngôn trở về Hà Tĩnh để vận
động binh lính nổi dậy chống Pháp phối hợp tác chiến với Đề Thám. Cuộc
vận động xây dựng đồn điền Tú Nghệ ở Yên Thế không thành vì không có
kinh phí. Tại Nghệ An cũng có cuộc nổi dậy chống Pháp phối hợp với Đề
Thám nhưng thất bại. Giặc bao vây nơi các ông hội họp, các ông chống cự
kịch liệt và bị đàn áp dã man. Phạm Văn Ngôn bị giặc bắt, chúng đánh ông
gẫy hai cái răng cửa, mình mẩy thâm tím. Chúng giam ông ở nhà lao Đà
Nẵng chờ ngày ra Côn Đảo cùng với nhiều đồng chí khác, trong đó có em
ruột ông là Phạm Văn Thản.
(Việt Nam nghĩa liệt sử viết: “Phạm Văn Ngôn ở Nghệ An nghe tin
quân Pháp tuyên chiến với tướng quân Hoàng Hoa Thám, ông dẫn một số
đồng chí ra Bắc định vào đồn giúp Hoàng Hoa Thám đánh giặc. Nhưng
đồn bị vây tứ phía. Hoàng tướng quân cũng giữ đồn chống giặc, trong
ngoài không thông được tin tức với nhau. Ông mạo hiểm tìm đường mà
tiến. Giặc thì đóng, đường mắc nghẽn, ông bị giặc vây đánh và bị bắt giải
về Nghệ An. Bọn chó săn cho Pháp dùng nhục hình tra tấn ông hòng tìm ra
chứng cớ đảng”).
Tại nhà lao Đà Nẵng, Phạm Văn Ngôn vẫn kiên cường đấu tranh bất
khuất. Khi bọn cai ngục đàn áp, ông lấy thân mình đỡ đòn cho các đồng
chí bị đau yếu. Ông mất tại nhà ngục không rõ thời gian. Nhưng theo bài
"Văn tế anh'' của em trai ông là Phạm Văn Thản, còn gọi là Đồ Thản, tham
gia phong trào Duy tân rồi cùng Đội Quyên lập đồn Bố Lư ở huyện Thanh
Chương rồi bị bắt đầy ra Côn Đảo (Phạm Văn Thản bị chết ở Côn Đảo
năm 1920) thì ông mất vào ngày 15 tháng 2 (không rõ năm), nguyên văn
câu đó như sau:
"... Mang tu mi đứng giữa cõi đời, tuổi ba mươi lăm lẻ
Đem tính mệnh thác ngoài Côn Đảo, ngày mười sáu tháng hai”
HỒ HỌC LÃM
Hồ Học Lãm còn có tên là Hồ Xuân Lan, sinh năm 1848 tại làng
Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Hồ Xuân Lan là người học
hành thông tuệ, lại tiếp thu được truyền thống cách mạng của gia đình, nên
sớm có hành động yêu nước. Khi xuất dương "Đông du" sang Nhật ông
đổi lên là Hồ Học Lãm. Sang tới Tôkyô (Nhật Bản), ông được Phan Bội
Châu bố trí vào học ở trường Chấn vỗ học hiệu. Ông lại đổi tên là Hồ
Hinh Sơn để đăng ký với nhà trường.
Đầu năm 1909, Chính phủ Nhật Bản trục xuất Phan Bội Châu và du
học sinh Việt Nam. Học sinh Việt Nam bị giải tán, một số về lại Việt Nam
còn phần lớn về Trung Quốc, Xiêm. Hồ Học Lãm cùng Lương Lập Nham,
Lâm Quảng Trung... học ở Bảo Định sĩ quan học hiệu.
Cách mạng Tân Hợi (1911) nổ ra thì Hổ Học Lãm tốt nghiệp mãn
khóa. Ông được phiên chế về bộ Tổng Tham mưu quân cách mạng do
Tưởng Giới Thạch làm ủy viên Tổng tài. Ông từng tham gia nhiều trận
Quốc Dân Đảng đánh lại Viên Thế Khải.
Năm 1912, Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Quang Phục hội trên
đất Trung Hoa. Hồ Học Lãm có mối quan hệ mật thiết với những người
lãnh đạo của Hội. Năm 1916, Hồ Học Lãm phụ trách biên tập tờ Bình sự
tạp chí ở Hàng Châu cho tới năm 1929. Ông đã viết nhiều bài luận văn
quân sự quan trọng, nội dung các luận văn quân sự đã bộc lộ rõ tâm tư ông
luôn hướng về Tổ quốc.
Gia đình Hồ Học Lãm ở Hàng Châu là cơ sở rất tin cậy và an toàn
cho các nhà cách mạng Việt Nam lưu vong sang Trung Quốc hoạt động từ
năm 1914 đến 1918.
Từ cuối năm 1925 đến năm 1927, Hồ Học Lãm chuyển đến công tác
ở Nam Kinh và vẫn hoạt động trong quân đội Quốc Dân đảng. Gia đình
ông vẫn là cơ sở tin cậy của các nhà cách mạng Việt Nam, của các chiến sĩ
cộng sản Việt Nam hoạt động ở Trung Quốc. Nhiều tài liệu đã ghi nhận sự
đóng góp lớn lao của gia đình ông đối với cách mạng như:
"Có thể nói trong nhiều năm, ngôi nhà của ông ở Nam Kinh, theo
cách nói của anh em ta lúc bấy giờ hệt như một trạm đón tiếp nồng hậu,
một trạm xá tận tình chữa bệnh. Lúc ít cũng hơi, ba đồng chí; lúc đông tới
mười, mười lăm người. Có đồng chí dừng chân vài ba ngày. Nhung cũng
có những đồng chí một hai, ba tháng. Ngoài ăn uống, thuốc men, đồng chí
nào sức yếu, mùa đông lạnh, còn có cả áo "ba đờ suy'' bằng len dạ. Ông bà
coi như một nghĩa vụ của mình đối với cách mạng”.
(Theo Siêu Hải: Người mang biệt danh cây gỗ mun,
Nxb Hải Phòng, 1993, tr. 153).
Năm 1928, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã cử Lê Thiết Hùng đến Nam
Kinh gặp Hồ Học Lãm nhờ ông bố trí cho Lê Thiết Hùng vào công tác ở
ngay trong quân đội Quốc Dân đảng và giữ mối liên lạc giữa đồng chí
Nguyễn Ái Quốc với Hồ Học Lãm và Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Từ năm 1930 đến 1935, Hồ Học Lãm đã vượt qua biết bao nguy
hiểm thu thập được tư liệu 5 lần quân Quốc Dân Đảng tấn công vào khu
vực Xô Viết thông qua Lê Thiết Hùng để báo cho đảng Cộng sản Trung
Hoa biết.
Khoảng cuối năm 1935, Hồ Học Lãm cùng một số ngưòi yêu nước
chân chính lập ra "Việt Nam Độc lập vận động đồng minh hội'' gọi tắt là
Việt Minh. Hồ Học Lãm được bầu làm Chủ tịch và được chính quyền
Tưởng Giới Thạch công nhận, cấp giấy phép hoạt động. (Việt Nam độc lập
vận động đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh, nhưng không phải là Việt
Nam độc lập Đồng minh (Việt Minh thành lập ngày 19/5/1941).
Năm 1937, Hồ Học Lãm theo bộ Tổng tham mưu về Trùng Khánh,
đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã bí mật đến gặp Hồ Học Lãm, yêu cầu cho Lê
Thiết Hùng giải ngũ về nước.
Bước sang đầu năm 1943, bệnh tình ngày càng trầm trọng và ông đã
qua đời vào ngày 12/4/1943 tại Quế Lâm.
Thiếu tướng Lê Thiết Hùng kể lại lời Bác Hồ nói về Hồ Học Lãm
như sau: "Ông Hồ Học Lãm là người yêu nước cùng thời với Phan Bội
Châu, Đặng Tử Kính, Đặng Thái Thân là những bậc lão thành cách mạng,
hết lòng vì nước vì dân. Tuy chưa phải là người cộng sản, nhưng chúng ta
cũng coi ông Hồ Học Lãm như một người trong tổ chức chúng ta. Nếu ông
còn sống, có thể mời ông tham gia Chính phủ, làm Chủ tịch nước năm
1945..”.
Theo Sở Văn hóa - Thông tin Nghệ An
Hồ Tùng Mậu - lịch sử và thời đại
(Kỷ yếu tọa đàm khoa học
Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh xuất bản, 1997)
TRẦN HOÀNH
Trần Hoành (Cửu Cai) hiệu Phước Bình, sinh năm 1878, quê ở làng
Phương Sơn, xã Triệu Sơn, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (Sách
"Phong trào Duy tân” của Nguyễn Văn Xuân, Nxb Đà Nẵng viết quê ông ở
làng Phước Bình, huvện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam).
Năm 1902 Trần Hoành làm thông ngôn ở mỏ than Nông Sơn tỉnh
Quảng Nam. Năm 1905, ông tham gia phong trào Duy tân cùng với Phan
Chu Trinh. Trần Hoành hoạt động trong nhóm Minh Xã do Phan Chu Trinh,
Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng chủ trương, hoạt động theo đường lối ôn
hòa như tích cực vận động mở trường học chữ quốc ngữ, dùng hàng nội
hóa, chống mê tín dị đoạn, đàn ông cắt tóc ngắn. Trong việc mở mang Tân
học, ông hăng hái cổ động học chữ quốc ngữ, chữ Pháp.
Năm 1906, ông là người mở trường và là giám đốc trường Phước
Bình. Trường lập ở Quế Sơn gần Đèo Le, cạnh làng Trung Lộc không xa
khu vực Tân tỉnh của nghĩa quân Cần vương Nguyễn Duy Hiệu. Đầu năm
1908, Quảng Nam, Quảng Ngãi phát động phong trào xin xâu, chống thuế.
Đến tháng 3/1908 phong trào lan ra Quảng Trị đã được Trần Hoành hưởng
ứng. Ông bị mật thám truy lùng ráo riết, nên chuyển vào hoạt động bí mật ở
Quảng Trị, Quảng Nam và ở cả Nam Kỳ. Năm 1912 ông bị thực dân Pháp
bắt ở Mỹ Tho và đầy ra Côn Đảo. Ngày 20 tháng 8 năm 1917, Trần Hoành,
Phan Kim Đài, Nguyễn Đình Kiên đóng bè vượt ngục Côn Đảo, hoạt động
ở tỉnh Bình Thuận. Trên đường ông vào Nam Kỳ cổ động cho cách mạng,
ngày 25 tháng 9 ông lại bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo.
Trần Hoành là một trong những người hăng hái tìm cách vượt ngục
Côn Đảo trở về đất liền phục hồi phong trào cách mạng. Ngày 20 tháng 8
năm 1917, Trần Hoành, Phan Kim Đài, Nguyễn Đình Kiên đóng bè vượt
ngục Côn Đảo. Năm, sáu ngày đêm liền, sáu ngày lênh đênh giữa biển cả,
trên trời, dưới nước. Đồ ăn không còn, không đói lắm nhưng nước ngọt
cạn kiệt. Khát quá mọi người phải nhúng người xuống biển cho đỡ khát.
Mấy anh em tuyệt vọng chờ chết. Đến ngày thứ 6 thì nhìn thấy núi và đất
liền, nhưng còn xa bờ. Anh em cố chèo, nhưng còn cách xa bờ. Gọi cứu,
người trong bờ nghe tiếng, nhưng không ai ra cứu. Cuối cùng lợi dụng
sóng to, anh em cố chèo lái cùng vào được bờ. Mọi người vừa đói, vừa
mệt, họ nằm ngay trên bờ ngủ say như chết. Sau khi hỏi thăm thì được biết
đây là một huyện thuộc tỉnh Bình Thuận, từ bãi biển ra tới đường xe lửa
phải đi một ngày đường. Sáu người tìm vào một nhà dân mua gạo nấu cơm
ăn. Khi đó thực dân Pháp đã thông báo cho các tỉnh, các bến xe, ga tầu hỏa
truy nã các ông. Những người dân nghi ngờ các ông là tù vượt ngục, may
là trong anh em có người mang trong mình một tờ giấy chữ Tây có dấu của
Tham biện nên dân bán gạo và cho nấu cơm nhờ. Sau khi ăn uống nghỉ
ngơi, ba người trở về lục tỉnh, còn hai người trở ra bắc Trung Kỳ, Cửu Cai
cũng đi tầu hỏa cùng với hai người ra bắc Trung Kỳ, nhưng ông ở lại hoạt
động ở tỉnh Bình Thuận. Trên đường ông vào Nam Kỳ cổ động cho cách
mạng, ngày 25 tháng 9 ông lại bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Ở Côn
Đảo, ông lại vượt ngục lại tổ chức vượt ngục, lại bị bắt. Ông được anh em
tù chính trị gọi là "Vua vượt ngục".
Từ năm 1927 đến năm 1930, ông làm quản đốc nhà in báo Tiếng Dân
cho cụ Huỳnh Thúc Kháng. Ông mất năm 1945.
ĐẶNG THÁI THÂN
Đặng Thái Thân sinh năm 1873, tên hiệu là Ngư Hải, người làng Hải
Côn, huyện Nghi Lộc (nay là xã Nghi Thái huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An)
là học trò và là đồng chí của Phan Bội Châu. Ông thông minh, học giỏi, đỗ
Đầu xứ.
Năm 1901, cử nhân Vương Thúc Quý người làng Kim Liên, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, mở trường dạy học ở làng, Nguyễn Tất Thành
(sau này là Nguyễn Ái Quốc) cũng theo học thì Đặng Thái Thân cùng với
Phan Bội Châu là khách thường xuyên tới bàn chuyện cứu nước.
Tháng 5/1904, Phan Bội Châu, Nguyễn Thành thành lập hội Duy tân
ở Quảng Nam ông là người đầu tiên tham gia. Khi Phan Bội Châu xuất
dương (1905), thì ông là người tổ chức lực lượng ở trong nước, và quyên
góp tiền gửi sang Trung Hoa và Nhật cho các du học sinh Việt Nam. Ông
thường bí mật sang Trung Quốc, Nhật Bản gặp Phan Bội Châu để bàn bạc,
thống nhất chủ trương hoạt động của hội, phối hợp nhịp nhàng các hoạt
động của hội ở trong nước và ngoài nước. Phan Bội Châu coi ông là người
cộng sự xuất sắc, một đồng chí trung thành, hăng say và là một đồng chí tri
kỷ.
Mùa đông năm 1906, Đặng Thái Thân nhận nhiệm vụ của Duy tân
hội đem Hội chủ Kỳ Ngoại hầu Cường Để xuất dương.
Ông định đến Đà Nẵng đi thuyền ra Bắc, nhưng gặp sóng to không đi
được, lại sợ mật thám theo dõi phát hiện ra mình, ông làm bài thơ:
ĐỢI THUYỀN
Thiên lý nhăn tâm bước lộ trình,
Chết rồi sống lại các sinh linh
Đông cung sáng suốt treo vừng nhật
Kịp gửi thuyền Tây(*) để tới Kinh
1906
(Theo Đặng Đoàn Bằng: Việt Nam nghĩa liệt sử,
Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1955).
Năm 1910, Đặng Thái Thân cùng Lê Khánh đến cơ sở ở làng Phan
Thôn (nay là xã Nghi Kim huyện Nghi Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Cơ sở này bị lộ,
mật thám Pháp và tay sai đem lính đến vây bắt. Đặng Thái Thân cùng Lê
Khánh bắn trả bọn giặc. Lê Khánh bị chúng bắn chết. Đặng Thái Thân nhẩy
lên mái nhà bắn chết 2 tên mật thám, còn viên cuối cùng bắn vào thái
dương tự sát.
Cái chết của Đặng Thái Thân đã gây niềm tin lớn cho đồng bào là
Việt Nam vẫn còn nhiều người dám hy sinh thân mình để cứu nước..
(*) Tức thuyền máy
TRẦN KỲ PHONG
Trần Kỳ Phong tự Nghĩa Bình sinh năm 1872 người Chu Me, xã
Bình Châu, huyện Kim Sơn, tỉnh Bình Định. Ông đỗ tú tài năm Nhâm Dần
(1902) nên thường gọi là Tú Trần. Ông tham gia phong trào Cần vương từ
khi còn rất trẻ. Năm 1905 ông tham gia hoạt động cho Duy tân hội, hoạt
động liên tục trong các cuộc vận động mở trường dạy chữ quốc ngữ chữ
Pháp, cắt tóc ngắn, đùng hàng nội hóa.
Năm 1906, Trần Kỳ Phong và một đồng chí ở Quảng Ngãi vượt biên
sang Trung Quốc để sang Nhật du học. Các ông đi tới Quảng Đông thì gặp
Phan Bội Châu. Phan Bội Châu đã biết ông là người có lòng nhiệt thành, có
dũng khí, có thể đương được gánh nặng, Phan nói với ông rằng: "Mục đích
của chúng ta ngày nay là cốt ở cách mệnh, mà cách mệnh sở dĩ thực hành
được tất ở trong nước có người vận động, cẩn thiết hơn tại ngoại du học
nhiều lần. Bởi vì du học chỉ là bồi dưỡng nhân tài kiến thiết, mà nhân tài
thuộc về phần phá hoại thì không thể chỉ dựa vào nhân tài du học
được”.Hai ông nghe lời Phan Bội Châu vui lòng trở về nước vận động.
Năm 1908 Trần Kỳ Phong tích cực tham gia phong trào chống thuế ở
Trung Kỳ. Phong trào chống thuế bị đàn áp dữ dội, người bị bắn chết, bị
tra tấn đến tàn phế, bị đầy đi Lao Bảo, Buôn Ma Thuột, Côn Đảo. Tòa án
Nam triều tỉnh Quảng Ngãi kết án ông vắng mặt với án bắt được chém lập
tức. Ông rút vào hoạt động bí mật.
Ngày 5/11/1908 Trần Kỳ Phong bị chính quyền thực dân bắt ở Cửa
Đại (Quảng Nam). Thực dân Pháp và Nam triều đã hai lần xét lại bản án,
cuối cùng tuyên án ông 13 năm tù khổ sai. Ở trong nhà tù của đế quốc,
Trần Kỳ Phong vẫn kiên cường bất khuất, liên tục đấu tranh. Ông luôn
luôn sẵn sàng hy sinh thân mình cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc với
quan niệm; "Góc biển rừng hoang xương anh hùng không cần lựa chỗ”.
Khi mãn hạn tù trở về, tiếp tục hoạt động cách mạng. Năm 1923 ông
lập "Hội Thiếu niên ái quốc", năm 1925 ông thành lập "Công ái đảng”. Khi
hội Phục Việt do Tôn Quang Phiệt, Trần Phú thành lập ở thành phố Vinh
sau đổi thành Đảng Tân Việt, ông tham gia với kinh nghiệm hoạt động dày
dạn của mình, ông đã cùng Tú Kiên, Giải Huân truyền lại cho lớp trẻ như
Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Sỹ Sách.
Năm 1925, đồng chí Nguyễn Ái Quốc về Trung Quốc thành lập Việt
Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội.
Năm 1926 ông tham gia đảng Tân Việt rồi Thanh niên cách mạng
đồng chí hội. Cuối năm 1929, ông bị thực dân Pháp bắt.
Khi mãn hạn tù, mặc dù tuổi già, sức yếu ông vẫn tận tụy, trung thành
với Tổ quốc. Khi ông ra tù thì Đảng Cộng sản Đông Dương đã thành lập,
ông thực hiện mọi chủ trương đường lối của Đảng như những chiến sĩ
cộng sản.
Trần Kỳ Phong mất năm 1941.
NGUYỄN THẦN HIẾN
Nguyễn Thần Hiến còn có tên khác là Nguyễn Như Khê, bút tự Phác
Đình, biệt hiệu Chương Chu và Hoàng Xương, tục gọi là Hội đồng Hiến.
Ông sinh năm 1856. Ông vốn gốc người Quảng Trị, tổ làm quan đời Gia
Long.
Nguyễn Thần Hiến có mối quan hệ với Phan Bội Châu từ tháng
giêng năm 1904 ở Sa Đéc khi Phan Bội Châu vào Nam Kỳ kết giao với cắc
đổng chí. Vì vậy tháng 5/1904, hội Duy tân thành lập, Phan Bội Châu đã
giao cho Nguyễn Thành vào Hà Tiên bàn bạc với Nguyễn Thần Hiến để
phát triển hội ở các tỉnh Nam Kỳ.
Nguyễn Thần Hiến hăng hái tham gia và trở thành một yếu nhàn của
Duy tân hội. Ông đã sáng lập "Khuyến du học hội" và đã đem một phần tài
sản riêng với số tiền 20.000 đồng sung vào quỹ Hội. Việc làm của ông đã
gây thành phong trào quyên góp, ủng hộ quỹ của phong trào Đông du do
Duy tân hội tổ chức ở các tỉnh Nam Kỳ.
Năm 1908 ông lên Sài Gòn tiễn chân con trai duy nhất là Nguyễn
Như Bích Đông du sang Nhật. Nguyễn Thần Hiến đã bị mật thám Pháp
theo dõi từ lâu, nên sau việc này ông bị nhà cầm quyền Pháp truy nã gắt
gao.
Cuối năm 1908, Nguyễn Thần Hiến phải cùng Nguyễn Quang Diêu,
Nguyễn An Khương (thân phụ Nguyễn An Ninh), Bùi Chí Nhuận chạy vào
Cần Thơ, ra biển trốn sang Cao Miên rồi đi Xiêm La nơi có cơ sở của
những người Việt Nam yêu nước. Các ông ở Băng Cốc hơn một năm rồi
sang Trung Quốc, hoạt động ở các tỉnh Quảng Đông, Hồng Kông, Thượng
Hải, Hàng Châu sau đó sang Nhật Bản, hoạt động trong phong trào Đông
du của Phan Bội Châu.
Tháng 5/1912 Phan Bội Châu tuyên bố giải tán Duy tân hội thành lập
Việt Nam Quang Phục hội, chủ trương chống thực dân Pháp với tôn chỉ
độc lập, dân chủ. Nguyễn Thần Hiến được cử giữ chức Tổng ủy viên Sự vụ
trong Chính phủ lâm thời giải phóng dân tộc. Nguyễn Thần Hiến đại diện
cho Nam Kỳ ở bộ Bình nghị. Ngoài các nhiệm vụ ở bộ Sự vụ và bộ Bình
nghị, Nguyễn Thần Hiến còn lo quyên góp tiền dùng vào công cuộc cách
mạng cứu nước.
Để có vũ khí chuyển về nước đánh Pháp, Nguyễn Thần Hiến cùng
các ông Nguyễn Quang Diêu, Huỳnh Hưng, Đinh Hữu Thuật tổ chức sản
xuất tạc đạn trong tô giới Anh ở Hồng Kông. Không may, một người sơ ý
để tạc đạn nổ, các ông bị cảnh sát Anh ở Hồng Kông bắt ngày 5 tháng 6
năm 1913. Bọn cầm quyền Pháp ở Việt Nam yêu cầu cảnh sát Anh giao
cho Pháp để đưa về xét xử tại Hà Nội. Các ông bị giải về Hà Nội giam ở
nhà lao Hỏa Lò, bị chúng tra tấn cực kỳ dã man, tàn bạo. Nguyễn Thần
Hiến đã bước vào tuổi 58, sức yếu không chịu được đòn đã bị liệt nửa
người, thổ huyết, bọn Pháp đưa ông vào nhà thương của nhà lao. Tại đây
ông tiếp tục tuyệt thực.
Ông mất vào ngày mồng 1 tết Nguyên đán năm Giáp Dần (ngày 26
tháng Giêng năm 1914) Bọn cầm quyền Pháp không chôn cất ông, mà đưa
ông qua trường Thuốc cho sinh viên giải phẫu. May sao có mấy sinh viên
Nam Kỳ như Nguyễn Tấn Đởm, Võ Xuân Hoành nhận diện được ông và
giữ nguyên thi hài và báo cho gia đình. Một tháng sau, cháu ruột gọi ông
bằng chú từ Hà Tiên ra xin xác nhà cầm quyền, đưa về táng ở nghĩa trang
Nam Việt ở Hà Nội (Sau năm 1954 nghĩa trang này dời đi, nay không rõ
mộ ông chuyển đi đâu).
TRẦN CHÁNH CHIẾU
Trong số người hoạt động công khai cho Hội Minh tân ở Nam Kỳ,
hăng hái, có hiệu quả nhất là Gilbert Trần Chánh Chiếu, sinh năm 1867.
Ông còn có nhiều bút danh, bút hiệu, nhưng bút danh thường ký là Trần Tứ
Duy, Trần Thiếu Chánh, Gilbert Chiếu. Ông là con cụ Tú tài Trần Hữu
Thườag một nhà giáo mẫu mực và nhiệt tình yêu nước. Quê ở xã Phú
Thuận, quận Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Ông làm quan phủ, nhưng hoạt
động tích cực cho phong trào Minh tân, nên được gọi là quan phủ Minh tân.
Hoạt động của Trần Chánh Chiếu trên hai lãnh vực kinh tài và báo
chí. Hoạt động kinh tài của ông chủ yếu gây quỹ cho Hội Minh tân, gửi
sang Nhật nơi học sinh du học.
Hội Minh tân khuyến khích lập các hãng buôn, công ty, nhà hàng,
khách sạn. Riêng Trần Chánh Chiếu đã đứng chủ hoặc hùn vốn với người
khác kinh doanh như:
- Nam Trung khách sạn ở đường Amiral Korantz (sau đổi là Phan
Văn Hùm) do Trần Chánh Chiếu làm Tổng lý.
- Minh tân khách sạn ở Mỹ Tho, cơ sở của Huỳnh Đình Điển, nhân sĩ
yêu nước ở Gò Công, là sáng lập viên của Nam Kỳ Minh tân công nghệ,
cho Trần Chánh Chiều mượn làm nơi đứng tên hội họp, do Trần Chánh
Chiếu quản lý. Sau vì ông bận quá nhiều việc phải giao cho Huỳnh Đình
Điền quản lý.
- Nam Kỳ Minh tân công nghệ do Trần Chánh Chiếu và Nguyễn
Thành Út sáng lập ở Chợ Lớn do Trần Chánh Chiếu làm Tổng lý. Cơ sở
chuyên sản xuất xà bông, diêm quẹt, dệt vải.
- Mỹ Tho Minh tân túc mễ Tổng cuộc Mỹ Tho chuyên mua lúa. Trần
Chánh Chiếu lấy danh nghĩa là phủ hàm hùm vốn 1 000 đồng.
- Công ty Nhàm ở Sài Gòn lập nhà in nhật trình, sách vở do một
người Pháp là Pirre Jeautet làm Tổng lý, Trần Chánh Chiếu làm phó.
Những người tham gia Minh tân hội còn thành lập rất nhiều công ty,
khách sạn, nhà hàng, thương cuộc như Minh tân thương cuộc ở Tầm Vu,
Tân An; Nam Mỹ thương quán ở Vĩnh Long; Nam Mỹ Thanh thương quán
ở Vĩnh Long; Nam Hoà Lợi ở Bến Tre, kinh doanh rượu, thuốc tây, dụng
cụ học trò...Tế Nam khách sạn ở Sài Gòn; Nam Đồng Hướng Lữ quán ở
Cao Lãnh; Y dược công ty ở Sài Gòn; Nam Hoà buôn bán lúa gạo ở Bến
Tre và rất nhiều cơ sở kinh doanh ở Nam Kỳ.
Trần Chánh Chiếu và các đồng chí của ông trong phong trào Minh
tân còn tích cực hoạt động trên lãnh vực báo chí. Các tờ báo Nông Cổ mín
đàm, Đại Nam Đồng Văn nhật báo, Lục tỉnh tân văn đã có rất nhiều bài xã
luận, bình luận, tường thuật... cổ động cho phong trào Minh tân. Đáng chú
ý là hai tờ báo lớn:
- Nông cổ mín đàm vốn là của Canavaggio người Pháp, hội viên Hội
đồng quản hạt. Sau giao cho các ông Đỗ Thúc, Lương Khắc Ninh, Trần
Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Tấn Phong. Khi Canavaggio qua
đời thì Nguyễn Chánh sắt làm chủ bút. Năm 1905 báo Nông cổ mín đàm
thường xuyên hô hào canh tân, cải cách nông nghiệp, công nghệ... Trong
các năm 1906, 1907 khi Trần Chánh Chiến làm chủ bút, ông đã đăng trên
báo này chủ trương Minh tân kêu gọi các nghiệp chủ, điền chủ, tổng lý gia
nhập Hội Minh tân. Sau đó lại tập hợp các bài mình viết in thành một tập
sách với nhan đề “Minh tân tiểu thuyết”.
- Năm 1907 tờ Đại Nam Đồng văn Nhật báo đổi thành Đông cổ tùng
báo. Tờ báo này là của người Pháp tiến bộ là Francois Henry Schneider. Tờ
Đông cổ tùng báo đã đăng nhiều bài kêu gọi lòng yêu nước, chống phong
kiến góp phần hỗ trợ phong trào Duy tân. Báo tồn tại được 8 tháng, thì
ngày 11/11/1907 bị đóng cửa.
- Báo Lục tỉnh tân văn, chủ nhiệm là Pierre Jeantet là người Pháp tiến
bộ, chống thực dân Pháp. Báo do Trần Chánh Chiếu làm phó chủ bút. Lục
tỉnh tân văn công khai lập trường chính trị và hoạt động của hội Minh tân.
Báo còn có các chuyên mục về văn nghệ, thơ, nhạc, tuồng, cải lương của
các cây bút tiến bộ như Đặng Thúc Liêng, Hoàng Thế Trạc. Đến số 51 thì
Trần Chánh Chiếu bị bắt, Lương Khắc Ninh thay thế, ra tới số 52 thì bị
nhà cầm quyền Pháp đóng cửa. Đây là báo công khai chống thực dân Pháp
(Theo Nguyễn Hữu Hiếu: Một trăm năm Duy tân ở Nam Kỳ,
Tạp chí Xưa và Nay số 235 tháng 5/2005).
NGUYỄN HÁO VĨNH
Nguyễn Háo Vĩnh sinh ngày 19 tháng 2 năm 1893 tại làng Bình Đức,
Long Xuyên. Theo chủ trương của Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, Nguyễn
Thành, năm 1905 đưa thanh niên Việt Nam “Đông du” sang Nhật học.
Nguyễn Háo Vĩnh khi đó ở vào tuổi 13 nhưng tác phong nhanh nhẹn,
học hành thông minh, sớm căm thù giặc Pháp cướp nước nên được cử đi
học đợt đầu ở Nam Kỳ.
Sang Nhật, Nguyễn Háo Vĩnh vào học trường công nghệ, song hoạt
động của phong trào Đông du đã bị mật thám Pháp theo dõi chặt chẽ.
Năm 1909 nhà cầm quyền Pháp thông đồng với chính quyền Nhật
Bản trục xuất Phan Bội Châu, Cường Để và du học sinh Việt Nam tại Nhật.
Phần lớn học sinh chạy về Trung Quốc, Xiêm La. Riêng Nguyễn Háo Vĩnh
được ông Nguyễn Háo Văn đón về Hồng Kông tiếp tục học ở trường Saint
Joseph English.
Khi Nguyễn Háo Vĩnh về nước thì xảy ra việc Minh Tâm công nghệ
do các ông Trần Chánh Chiếu, Đặng Thúc Liêng đang xúc tiến xây dựng
nhà máy diêm quẹt ở Mỹ Tho phải ngừng lại vì không được nhà cầm
quyền cấp phép.
Trước tình hình đó Nguyễn Háo Văn dẫn Nguyễn Háo Vĩnh đến trình
diện Toàn quyền Klobukowski. Nguyễn Háo Vĩnh bị Toàn quyền Đông
Dương tra hỏi anh sang Nhật học do ai cung cấp tiền. Nguyễn Háo Vĩnh
bình tĩnh trả lời: “Tôi đi Nhật học do tiền của công ty Minh tân cung cấp
để sau này trở về trông nom xưởng diêm quẹt của công ty”.
Với ý đồ gài Nguyễn Háo Vĩnh vào tổ chức Minh tân để thực hiện
âm mưu phá tổ chức yêu nước từ trong phá ra, Toàn quyền Klobu Kowski
hỏi ông Nguyễn Háo Văn có muốn mua lại cổ phần Minh tân công nghệ
không? Ông Nguyễn Háo Văn trả lời là muốn mua phần lớn cổ phần công
ty Minh tân để Nguyễn Háo Vĩnh nắm quyền kiểm soát nhà máy diêm quẹt
Mỹ Tho. Toàn quyền Đông Dương bắt Trần Chánh Chiếu giao quyền điều
khiển nhà máy hợp quẹt cho Nguyễn Háo Vĩnh, không giao cho Đặng Thúc
Liêng nữa. Trần Chánh Chiếu thực hiện ngay lệnh của Toàn quyền Đông
Dương.
Từ đó Nguyễn Háo Vĩnh tiếp tục xây dựng và quản lý nhà máy diêm
quẹt. Khi nhà máy đã đi vào hoạt động có nền nếp, Nguyễn Háo Vĩnh
tuyên bố xưởng bị thua lỗ xin toà phát mãi để giao tiền lại cho Minh tân.
Từ ngày 3/11/1909 Kỳ Ngoại hầu Cường Để bị Chính phủ Nhật trục
xuất, Cường Để về Hồng Kông. Năm 1913, chí sĩ Nguyễn Thần Hiến từ
Nam Kỳ vượt biển sang Hồng Kông mời Kỳ Ngoại hầu Cường Để về Nam
Kỳ để lòng dân tin tưởng. Cuối tháng 5/1913 Nguyễn Háo Vĩnh khi đó
đang học ở Hổng Kông đã giúp Kỳ Ngoại hầu về Nam Kỳ. Cường Để trở
lại Hồng Kông cũng bị mật thám Anh bắt, ông Nguyễn Háo Vĩnh và ông
Lâm Cần ở Hồng Kông thuê luật sư bào chữa với tiền thế chân là 2000
đồng, nên Cường Để chỉ bị giam 8 ngày thì được tha. Sau đó Cường Để đi
Anh, đem theo ông Trương Duy Toản giỏi tiếng Pháp, Đồ Văn Y giỏi tiếng
Đức, Lâm Tỷ giỏi tiếng Anh từ Singgapor đi Luân Đôn (Anh). Nguyễn Háo
Vĩnh sau khi tốt nghiệp ở Hồng Kông cũng đi Luân Đôn liên lạc với
Cường Để.
Năm 1916 Nguyễn Háo Vĩnh bị mật thám Anh bắt ở Hồng Kông
giao cho mật thám Pháp ở Sài Gòn. Toà kết án tử hình, sau nhờ cụ Nguyễn
Háo Văn chạy chọt, nên được giảm án. Khoảng năm 1923 được tha, ông
trở về Sài Gòn làm báo. Ông là sáng lập viên của hai tò báo Hoàn Cầu tân
văn và Nam Kỳ kinh tế báo. Ông cũng là chủ nhà in Xưa Nay ở Sài Gòn.
Năm 1928, Nguyễn Háo Vĩnh bị bắt giải ra toà về tội “rải giấy in nói
chuyện” tầm bậy (thực ra là chuyện chính trị).
Ngày 29/7/1934 Nguyễn Háo Vĩnh thọ pháp pháp (tu theo pháp môn
Cao Đài Chiếu minh tam thanh).
Nguyễn Háo Vĩnh mất ngày 19 tháng 6 năm Tân Tỵ (1941). Mộ phần
xây có tháp tại trước nhà đàn mang tên “Trước Tiết Tàng Thơ” tại Thủ
Thiêm, Thủ Đức nay là phường An Khánh quận 2 thành phố Hồ Chí Minh
mà ông xây dựng từ khi chưa theo đạo Cao Đài.
ĐẶNG THÚC LIÊNG
Đặng Thúc Liêng sinh năm 1867, thuở nhỏ tên là Đặng Văn Huấn,
năm 18 tuổi ông lấy biệt hiệu là Trúc Am, năm 30 tuổi ông đổi tên là Đặng
Thúc Liêng, biệt hiệu Lục Hà Tẩu, bút tự Mộng Liêm. Ông nguyên quán ở
làng Tân Phú Trung, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định nay thuộc xã Tân
Thông Hội, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1904, Phan Bội Châu, Nguyễn Thành... thành lập Duy tân hội,
phát động phong trào Đông du. Phong trào từ miền Trung nhanh chóng
phát triển vào Nam Kỳ. Những người hưởng ứng phong trào Đông du đầu
tiên là Trần Chánh Chiếu (Gibbert Chiếu) Đặng Thúc Liêng, Nguyễn
Chánh Sắt, Nguyễn An Khương... Đặng Thúc Liêng đã tích cực trong việc
vận động tuyển chọn thanh niên đi du học, quyên góp tài chính cho phong
trào Đông du. Đặng Thúc Liêng hoạt động trên nhiều lãnh vực: báo chí,
văn, thơ, dịch thuật, phê bình văn học, sân khấu, y dược. Ông còn là người
tích cực cổ động cho việc học chữ Quốc ngữ.
Đặng Thúc Liêng với bút danh Lục Hà Tẩu, Mộng Liêm, Phụ viên
thập bát (18 thôn vườn trầu), ông đã viết cho các tờ báo Nông cổ mín đàm,
Lục tỉnh tân văn, Đại Việt Tạp chí, Đông Pháp thời báo, Phụ nữ tân văn,
Thần chung, Công luận báo. Từ chỗ tham gia viết báo, Đặng Thúc Liêng đã
giữ vai trò người chủ trương ra báo chí. Năm 1933, ông sáng lập và làm
chủ bút báo Việt Dân, xuất bản ở Sài Gòn, công kích bọn tay sai, thân
Pháp, đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu thân Pháp. Tháng 1 năm 1938
khi nhà cầm quyền Pháp đóng cửa báo Việt Dân, ông chuyển sang phụ
trách biên tập tờ Tạp chí Văn học Đông Phương.
Trong hoạt động báo chí của ông có những bài xuất sắc, nêu cao tinh
thần tự chủ dân tộc như bài xã luận “Quốc văn hồn” đăng ở Đông Pháp
thời báo số tháng 5/1926, đăng lại trên báo Đông Phong số 31 tháng 12
năm 1943.
Trong văn học, Đặng Thúc Liêng sáng tác, biên khảo, dịch thuật, làm
thơ, bình luận. Trong đó sách văn học có Quốc văn hồn, Hán văn thi tập,
Việt âm thi tập, Tiểu Phù viên thi văn toàn tập, Trương Vĩnh Ký hành trạng,
Việt Nam Trung lương công thần, Lê Văn Duyệt. Sách khuyến nông có các
quyển Tâm bổn mễ thượng, Canh hoang biến pháp. Sách giáo dục đạo đức
có Tâm quyền giải, Tu lưỡng học dĩ phục nhơn tâm... Sách Tôn giáo có
Cao Đài đàm quái giáo nghị...
Trong hoạt động văn học, thơ của Đặng Thúc Liêng cũng được độc
giả đương thời ca ngợi. Đặc biệt thơ của ông ca tụng những canh tân của
đất nước theo chủ trương của Duy tân hội. Ông có bài thơ trên báo Nông
cổ mín đàm ca ngợi báo có ích đốivới quốc dân. Báo Nông cổ Mín đàm
mở cuộc thi thơ cũng lấy bài thơ “Sùng tu VănThanh miếu” của ông làm
đề tài cho cuộc thi thơ. Trong số những người hưởng ứng có nhà văn yêu
nước Nguyễn Chánh Sắt mà hai năm sau, ông cùng với Trần Chánh Chiếu
là yếu nhân của phong trào Duy tân và Đông du. Đặng Thúc Liêng cũng
sáng tác cổ vũ cho phong trào thơ mới. Ông còn phê bình thơ như bài:
“Đọc Thanh quan thi hữu cảm thỉnh dẫn” đăng trên “Đại Việt tạp chí” năm
1918. Ông quan niệm: “Thi ca là để tỏ cái chí khí và ý thức của người,
chẳng phải để làm trò vui về lối văn chương... Vậy mới biết người mà
không chí khí, không ý thức, thời có thể làm được thi ca gì”.
Về sân khấu, Đặng Thúc Liêng đã có công phục hồi, chấn hưng loại
hình hát tuồng, hát bội, hát cải lương. Ông soạn sách Tuồng “Trưng nữ
vương” ca ngợi khí phách chống giặc ngoại xâm của Trưng Trắc, Trưng
Nhị.
Với chủ trương “Người Nam dùng thuốc Nam”, năm 1934, Đặng
Thúc Liêng sáng lập “Việt Nam y dược hội”.
Đặng Thúc Liêng còn là một nhà từ thiện, năm 1926, các tỉnh Bắc Kỳ
bị vỡ đê, lụt, Đặng Thúc Liêng đã đi khắp nơi diễn thuyết “Quốc văn hồn”
kêu gọi đồng bào lạc quyên, cứu trợ...
LÊ CƠ
Lê Cơ sinh năm 1870 là con ông Lê Tuân ở Quảng Nam thuộc dòng
dõi vua Lê Thánh Tông. Ông sinh quán ở làng Phú Lâm, huyện Lễ Dương,
sau đổi là Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Lê Cơ là người có khí phách,
ngang tàng, sẵn sàng đương đầu với cường quyền, đấu tranh cho công
bằng xã hội. Ở làng Phú Lâm, chức Lý trưởng từ xưa đến nay không ai
muốn làm, vì thế đã ba năm liền, Phú Lâm không có lý tưởng. Tri phủ
Thăng Bình ép ông ra làm lý trưởng. Từ đó ông còn có tên là Lý Cơ hay Lý
Sáu. Lý Cơ đã thực hiện cải cách, xóa bỏ những bất công ở làng Phú Lâm
tồn tại từ nhiều năm nay.
Những cải cách của Lê Cơ lại đi đúng đường lối của nhóm Minh tân
xã trong hội Duy tân do Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng
chủ trương là chấn hưng kinh tế, lập hội buôn, bài trừ hủ tục, mở mang
việc học để khai hóa dân trí làm cho quốc phú, dân cường. Đó là điều thực
dân Pháp và bọn quan lại Nam triều làm tay sai cho chúng đang thực hiện
một chính sách kìm hãm kinh tế, ngu dân để chúng dễ bề thống trị.
Trong buôn bán, Lê Cơ cũng thực hiện có bài bản, xin bằng của quan
phủ rồi mới lập Hội buôn. Hội buôn này theo Huỳnh Thúc Kháng chỉ:
“mua giấy bút bán cho học trò, cùng mắm muối bán cho dân cày, như một
cái quán trong nhà quê”. Nhưng thực ra đó là một đại lý cho người nghèo
đến nhận hàng đem đi bán rồi ăn hoa hồng. Hội buôn mà lại có cả lò rèn
rèn nông cụ và cả lập vườn trồng quế. Lê Cơ đã biến hội buôn thành nơi
hội họp công khai. Vì thế quan phủ đòi lại bằng Lê Cơ không chịu trả cứ
thế dằng co mãi. Cuối cùng quan phủ kiện Lê Cơ lên toà sứ. Sứ gọi hai
người lên hầu toà. Quan phủ cay cú lắm, còn quan sứ đâu cũng có thực
lòng xử cho Lê Cơ được kiện. Lê Cơ biết như vậy, song ông không chịu lùi
mà hội lập hội Bảo hiểm vườn quế với quy mô lớn có trạm gác, có cắm cờ
biển, tất nhiên các chi phí đó các chủ vườn quế phải đóng góp. Điều đó
làm cho quan phủ và tổng lý, chức dịch tay chân của quan phủ tức muốn
chết. Song Lê Cơ không sợ, vẫn dũng cảm trong cuộc chiến. Đang kỳ thu
thuế, các chánh tổng 4 tổng mở cuộc hát bội để thu tiền của các xã. Lê Cơ
viết câu đối trên vải điều treo công khai trong đám hát bội:
Dịch:
Tổng thời thuế chưa xong, xâu chưa hết, lợichưa hưng, hại chưa
trừ, vui gì vậy? Xã thì gia chẳng an, trẻ chẳng học, trai chẳng cày, gái
chẳng dệt, hát làm chi.
Chánh tổng tức lắm, thu đôi câu đối. Những cải cách của Lê Cơ được
phe Duy tân ca ngợi, nhưng bọn cầm quyền Pháp và Nam triều thì bầm
gan, tím ruột. Chúng ton hót về mối nguy cơ đối với nền bảo hộ của Pháp
quốc ở Việt Nam, đến nỗi công sứ Pháp xưa xử cho ông được kiện nay
cũng phải đề phòng. Công sứ phải cho mở một con đường chiến lược từ
phủ Thăng Bình qua Phú Lâm tới huyện Tam Kỳ để chở quân đối phó với
loạn Lê Cơ - một cuộc nổi loạn tưởng tượng đó, thực dân Pháp đóng một
đồn binh ngay giữa làng Phú Lâm, cái lô cốt cao nghện chĩa nòng khẩu
súng máy vào nhà Lê Cơ.
Lê Cơ đâu có sợ cái đồn đó, ngay từ khi bọn giặc mới tới, đi chặt tre,
cắt gianh của dân, đã bị Lê Cơ sai tuần đinh lấy gông, gông cổ lại. Tên
thiếu uý phải đến xin lỗi. nhận đền mỗi cây tre theo thời giá là hai giác.
Chưa hết, tên đồn trưởng nuôi dê, dê chạy sang phá vườn nhà Lê Cơ. Hai
lần đầu, ông trói lại đem trả. Lần thứ ba, ông chặt chân dê rồi kêu đồn
trưởng ném trả. Tên thiếu uý đồn trưởng cũng không dám làm gì ông.
Tháng 3 năm 1908, nổ ra cuộc cự sưu, kháng thuế của nông dân
huyện Đại Lộc rồi nhanh chóng lan ra cả tỉnh Quảng Nam, rồi tới Thừa
Thiên. Thực dân Pháp bắt các ông Trần Quý Cáp cùng nhiều yếu nhân khác
xử chém. Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng bị đầy ra Côn
Đảo. Lê Cơ và anh rể là Lê Lương bị kết án 3 năm tù. Lê Cơ ở tù về vẫn
nuôi ý chí chống Pháp, song có một điều ông giác ngộ là không thể chấn
hưng kinh tế, thực hiện dân quyển, khai hóa dân trí khi đất nước bị giặc
Pháp đô hộ, mà trước hết phải vũ trang đánh đuổi giặc Pháp trước. Vì vậy
năm 1914 ông đã bí mật gia nhập tổ chức Việt Nam Quang Phục hội ở
Quảng Ngãi do các chí sĩ Lê Ngung, Lê Đình Dương, Nguyễn Thuỵ,
Nguyễn Suý lãnh đạo (*). Trong cuộc khởi nghĩa này, Lê Cơ được cử giữ
chức Ngự tiền hộ giá Đại tướng quân (đặc trách hầu cận vua Duy tân) kiêm
Tổng đốc Nam Ngãi Lưỡng Quảng (Quảng Nam - Quảng Ngãi). Ông được
phân công cùng Thái Phiên nổ phát súng lệnh ở đồn Mang Cá trong kinh
thành Huế.
Khởi nghĩa được quyết định nổ ra vào tối mùng 3 rạng ngày mùng 4
tháng 5 năm 1916. Song các nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa không ngờ rằng
cuộc khởi nghĩa đã bị tiết lộ trước 2 tiếng đồng hồ. Giặc Pháp đã thu súng
của lính khố xanh, khố đỏ, cấm trại, giặc Pháp đã điều động lính Âu - Phi,
lính Lê dương chặn các ngả đường, bao vây các trung tâm khởi nghĩa.
Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Để, Nguyễn Duy Siêu, Phan
Thành Tài, Lê Cơ bị giặc Pháp bắt. Giặc Pháp đã xử chém các ông Thái
Phiên,Trần Cao Vân, Tôn Thất Để, Nguyễn Quý Siêu, Phan Thành Tài ở
An Hoà, đày vua Duy Tân sang đảo Reunion. Lê Cơ, Trần Huỳnh, Trần
Tùng Vân bị đày đi Lao Bảo cùng với 60 đồng chí. Ngày 21 tháng 9 năm
Mậu Ngọ (1918), bọn cai ngục bắt các tù nhân đi lao dịch. Lê Cơ được
chứng kiến tên quản ngục hành hạ dã man một người tù bị bệnh kiết lỵ,
ông vô cùng phẫn uất, sẵn con dao vót nan cầm trong tay, ông lao vào đòi
chặt đầu tên quản ngục, lập tức một tên lính đứng gần đó xả một loạt đạn
vào người ông, ông hy sinh.
(*) Họ Lê dòng dõi Lê Thánh Tông ở tỉnh Quảng Ngãi có rất đông người tham gia Việt Nam
Quang Phục hội như Lê Đình Dương con cụ Lê Đĩnh, Lê Bá Trinh, nay thuộc quận Hải Châu, thành
phố Đà Nẵng, hai anh cm Lê Chân Hàn (Lê Cảnh Thái), Lê Chân Nam (Lê Cảnh Vận)... đều là
những yếu nhân của Việt Nam Quang Phục hội.
ĐẶNG NGUYÊN CẨN
Đặng Nguyên Cẩn tên cũ là Đặng Thúc Nhận, lại có tên là Đài Nhận,
hiệu Thai Sơn, sinh năm Đinh Mão (1867).
Ông là người thông tuệ, học giỏi, thi đỗ cử nhân khoa Mậu Tý
(1888), đỗ phó bảng khoa Ất Mùi (1895), năm 29 tuổi. Ông được bổ làm
giáo thụ huyện Hưng Nguyên, sau thăng Đốc học Hà Tĩnh.
Năm 1906, Đặng Nguyên Cẩn xin phép nhà cầm quyền Pháp mở
trường tư thục dạy chữ Quốc ngữ, chữ Pháp ở huyện Thanh Chương, Nghệ
An. Ông còn thành lập nhiều hội buôn, trong đó có Triều Dương thương
quán để lấy tiền lãi ủng hộ quỹ Đông du và là nơi các đồng chí hội họp.
Các hoạt động yêu nước của ông ảnh hưởng sâu rộng trong các giới đồng
bào Nghệ Tĩnh. Nhà cầm quyền Pháp và Nam triều lo sợ ảnh hưởng của
ông ngày càng lan rộng gây khó khăn cho sự cai trị của chúng, nên đổi ông
vào Bình Thuận và giám sát ông chặt chẽ. Tuy ông đã đổi vào tận Bình
Thuận nhưng Cao Ngọc Lễ tên phản bội đã giết chết Tống Duy Tân và
nhiều nhà hoạt động cách mạng khác, nay được Pháp cho làm Án sát Nghệ
Tĩnh vẫn cho người giám sát ông, kiểm soát các thư từ của ông gửi về
Nghệ Tĩnh và của các bạn ông từ Nghệ Tĩnh gửi vào Bình Thuận.
Năm 1908 nhân phong trào chống thuế ở Trung Kỳ, thực dân Pháp
vu cáo cho ông âm mưu nổi loạn, bắt ông đày đi Côn Đảo. ít lâu sau tên
Cao Ngọc Lễ cũng bắt Ngô Đức Kế đưa đi đày ở Côn Đảo cùng với nhiều
nhà cách mạng khác. Đặng Nguyên Cẩn không những là một nhà sư phạm
tài giỏi, một nhà hoạt động chính trị nhiệt thành mà còn là một nhà văn hóa.
Đặng Nguyên Cẩn không những là một nhà sư phạm tài giỏi, một nhà hoạt
động chính trị nhiệt thành mà còn là một nhà văn hóa. Ông được giới sĩ phu
Nghệ Tĩnh đầu thế kỷ XX suy tôn là bậc đàn anh về đạo đức và trình độ
uyên tâm Hán học. Một số bài thơ của ông được in trong tập “Thi tù tùng
thoại” và “Thi tù thảo” của Huỳnh Thúc Kháng. Trong đó có một số bài
được liệt vào loại xuất sắc như:
TIỄN PHAN SÀO NAM NAM DU(1)
Bắc châu vị dĩ phục Nam châu,
Hồ hải hào tâm bất khẳng thâu
Tự tiếu thử sinh do bạch diện(2)
Khả vô kỳ khí ngạo thương châu
Thai Dương(3) thái được tầm cao sĩ,
Trường Lũy(4), quan bi điếu cổ hầu
Độc hữu Tam Thai(5) nhàn tàn hữu;
Tương tư tịch tịch ỷ giang lâu
Dịch thơ:
TIỄN CỤ PHAN SÀO NAM VÀO NAM
Vừa ra Bắc đó lại vào Nam
Hồ hải lòng hăng bước chửa nhàm
Tự nghĩ thân này còn mặt trắng
Há không khí lạ ngạo đời phàm
Cổ hầu lũy nọ tìm bia đá,
Cao sĩ làng kia hái thuốc thơm
Lựa có Tam Thai người bạn cũ,
Giang lầu ngồi dựa ngóng thâu đêm.
Huỳnh Thúc Kháng dịch
(Thi tù tùng thoại - Nxb Nam Cường Sài Gòn,
1951)
Do chế độ hà khắc của nhà tù đế quốc Pháp nên năm 1921, sau 13
năm bị đày đọa ở nhà tù Côn Đảo, thân hình ông tiều tụy, chỉ 2 năm sau,
năm 1923 ông mất.
(1) Vào khoảng năm 1904 Phan Bội Châu sau khi ra Bắc gặp gỡ các chí sĩ Bắc Kỳ, trở vào
Nam kết giao với các nhân sĩ lục tỉnh.
(2) Chỉ học trò, ý nói mình chưa làm nên sự nghiệp gì.
(3) Gần cửa Thuận An, quê của Hoàng Quang tác giả của bài Hoài Nam khúc
(4) Trường Lũy: Lũy Trường Dục, cũng gọi là Lũy Thày do Đào Duy Từ đắp ở Quảng Bình.
(5) Tam Thai: tên một ngọn núi quê của Tác giả. Biệt hiệu Thái Sơn của tác giả lấy từ núi
này.
LÊ KHÁNH
Lê Khánh sinh năm 1886, người huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Sinh
ra trong một gia đình công giáo. Ông học trường Tiểu chủng viện Xã Đoài,
sau khi tốt nghiệp ông được vào học trường Đại chủng viện. Những sinh
viên học trường Đại chủng viện được coi là Thày già, vì chỉ học trong vài
năm là được phong Linh mục. Song Lê Khánh cảm thấy nỗi nhục nhã của
người dân mất nước, trong khi cả dân tộc đang phải hy sinh cả núi xương,
sông máu để đánh đuổi giặc Pháp thì mình lại đi tu. Ý chí chống giặc Pháp,
muốn xả thân cứu nước thôi thúc trong tâm can Lê Khánh đã lâu, song quy
định nghiêm ngặt của nhà trường là sinh viên không được tiếp xúc với bên
ngoài, không được đọc các sách báo ngoài kinh sách của Giáo hội, nên
không rõ tình hình trong nước và trên thế giới. Lê Khánh chỉ biết tâm sự
cùng Lưu Song Tử những nỗi căm thù người Pháp của mình, nhưng cả hai
người đều không biết hành động ra sao. May sao trong số những người
truyền giáo châu Âu có một người tên Việt gọi là Bạch Nhị Nghĩa đã đem
tình hình Nga - Nhật chiến tranh và các phong trào cách mạng ở Việt Nam
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong đó có tổ chức Duy Tân hội và phong
trào Đông du do nhà chí sĩ Phan Bội Châu tổ chức và lãnh đạo.
Bạch Nhị Nghĩa cũng vì mối quan hệ trên với Lê Khánh và Lưu Song
Tử mà ngay trong năm đó bị bãi chức truyền giáo. Tuy nóng lòng yêu
nước, nhưng Lê Khánh cũng như Lưu Song Tử phải đợi đến năm Bính
Ngọ và năm Kỷ Vị (1906 - 1907), tốt nghiệp được cử làm thày giảng ở Tòa
Giám mục mới thoát được sự khống chế của các linh mục người Pháp,
được tiếp xúc với những người ngoài tôn giáo, trong đó có ông Trần Văn
Bỉnh là giáo dân tham gia Duy Tân hội, đã giới thiệu Lê Khánh với ba vị
Linh mục là Nguyễn Trường, Đậu Quang Lĩnh, Nguyễn Thận Đồng và thày
già Mai Lão Bạng đều là chức sắc trong Tòa giám mục địa phận Vinh. Ba
vị Linh mục yêu nước đã theo dõi từng bước đi của hai sinh viên Đại chủng
viện, nên khi được ông Trần Văn Bỉnh giới thiệu ba vị linh mục đã giao
nhiệm vụ cho hai thày già Lê Khánh và Lưu Song Tử.
Khi Lê Khánh và Lưu Song Tử tham gia hoạt động hội Duy Tân thì
ba vị linh mục phân công Mai Lao Bạng xuất dương sang Nhật giúp đỡ
Hội chủ, cử Lê Khánh vận động thanh niên, giáo dân ở huyện Hương Sơn.
Sau đó Lưu Song Tử được cử sang Nhật học, Lê Khánh cùng hoạt động với
Đặng Thái Thân.
Lê Khánh cùng Đặng Thái Thân tiếp tục vận động thanh niên công
giáo sang Nhật và quyên tiền gửi sang Nhật. Lê Khánh bị địch truy nã gắt
gao, nhưng ông vẫn cùng Đặng Thái Thân cố gắng gây dựng lại cơ sở. Ông
cùng Đặng Thái Thân dự định vũ trang khởi nghĩa vì sợ rằng nếu cứ để cho
địch khủng bố thì dần dần phong trào sẽ đi đến chỗ tan rã. Thực dân Pháp
đàn áp Duy Tân hội và phong trào Đông du ngày càng khốc liệt, nhiều hội
viên bị bắt. Trong một chuyến công tác, Lê Khánh bị bắt, bị giam ở nhà lao
Vinh. Giặc tra tấn ông vô cùng dã man, nhưng ông kiên trinh bất khuất,
giặc không khai thác được tài liệu gì. Ông đã nhặt nhạnh, tích trữ lạt gói
bánh tày bện lại thành dây để leo leo lên mái nhà, dỡ ngói trốn khỏi nhà
lao. Năm 1910 Lê Khánh cùng Đặng Thái Thân đến họp ở làng Phan Thôn.
Thực dân Pháp cho quân đến bao vây làng rồi xông vào bắt, Đặng Thái
Thân nấp ở máng nước giữa hai mái nhà, dùng súng lục bắn trả bọn mật
thám, giết chết được mấy tên, dành viên cuối cùng tự bắn mà chết, quyết
không để cho giặc bắt. Lê Khánh thu hút giặc về phía mình để cứu Ngư
Hải, bị trúng đạn chết, năm đó ông mới 25 tuổi.
HỒ SĨ TẠO
Hồ Sĩ Tạo sinh năm Kỷ Tỵ (1869), người thôn Hòa Cư, làng Nhơn
Hưng, tổng An Mỹ, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, nay là xã Hòa Cư,
huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định. Hồ Sĩ Tạo đậu Tú tài tại trường thi
Hương Huế, năm 19 tuổi. Năm Tân Mão, Thành Thái thứ 3 (1891), ông đỗ
cử nhân ở trường thi Bình Định. Ông được bổ làm giáo thụ ở Tuy Hòa.
Vừa làm quan, ông vừa học, khoa thi Giáp Thìn, Thành Thái thứ 16 (1904),
ông đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, năm 36 tuổi. Được bổ làm Thừa
phái ở bộ Lại 4 năm, rồi bổ Tri huyện Tân Định, tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1905, Hồ Sĩ Tạo, Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang, Tôn Thất Doãn
đã bí mật tiếp xúc với Phan Chu Trinh trong chuyến đi vào Nam tìm bạn
đồng tâm. Tuy vậy bọn mật thám Pháp cũng dò xét được cuộc gặp gỡ bí
mật của các ông, báo cho Khâm sứ Trung Kỳ và triều đình Huế biết.
Hồ Sĩ Tạo hưởng ứng phong trào Duy tân và hoạt động tích cực cho
hội. Đầu năm 1908, Hồ Sĩ Tạo về quê cư tang mẹ. Trong lúc ông đang ở
quê thì ở Quảng Nam, Quảng Ngãi nổ ra vụ ''chống thuế, xin xâu". Theo
gương các nhà chí sĩ ở Nam - Ngãi, Hồ Sĩ Tạo phát động nhân dân Bình
Định noi gương 2 tỉnh Nam Ngãi chống thuế. Tại đây ông kết thân với
Tiến sĩ Trần Quý Cáp. Ông đã phát động được phong trào chống thuế, xin
xâu rộng lớn ở Bình Định. Nhân dân tín nhiệm mời ông làm minh chủ. Xúc
động trước sự tín nhiệm của nhân dân, ông đã từ quan về quê gánh vác
công việc nhân dân giao phó.
Phong trào chống thuế ở Trung Kỳ bị bọn cầm quyền Pháp đàn áp
khốc liệt, hàng trăm người bị bắn chết, bị giam, Hồ Sĩ Tạo cùng nhiều nhà
lãnh đạo khác và nhân dân tham gia chống thuế bị thực dằn Pháp bắt. Bùi
Giản, Tổng đốc Bình Định tay sai đắc lực của thực dân Pháp khép ông vào
tội chết song ông chỉ bị án 12 năm tù giam ở nhà lao Bình Định.
Khi ở trong tù, Hồ Sĩ Tạo làm nhiều thơ, trong đó có bài "Xuân Nhật
ngẫu cảm'' như sau:
"Năm mới ngày xuân cha chả vui
Vui rồi nghĩ lại vẫn bùi ngùi
Một thân võng lọng, gông cùm đủ
Nửa áng xuân thu khổ xướng rồi
Chương chướng ngoài tai trâu ngựa gọi,
Khăng khăng trong dạ đá vàng trui
Từ đây cho đến về sau nữa
Sau nữa ra răng để thử coi".
Mãi đến năm 1920 ông mới được ra tù. Ông không ra làm quan, ở
quê nhà mở trường dạy học, giữ trọn tấm lòng son sắt với đất nước. Ông
mất năm Giáp Tuất (1934) tại quê nhà.
LÊ THỊ ĐÀN
Lê Thị Đàn người xóm Chỉ, thôn An Hòa, làng Thế Lại Thượng,
thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên, xuất thân từ một gia đình khá giả, có
truyền thống yêu nước. Lê Thị Đàn thông minh từ nhỏ, nết na, đức hạnh.
Bà được cha mẹ cho theo học chữ Hán, nên sớm hiểu đạo lý làm người.
(Việt Nam Danh nhân từ điển của Nguyền Huyên Anh, nhà sách Khai Trí,
62 Lê Lợi, Sài Gòn viết là Nguyễn Thị Đang, có bản chép là Lê Thị Đàn:
Trong Tái sinh sinh (Sống trở lại). Phan Bội Châu lại viết là Âu Vân phu
nhân - Bài này Phan Bội Châu viết trước khi ông bị bắt (năm 1925).
Tháng 5 năm 1904, hội Duy tân thành lập, Lê Thị Đàn cũng tham gia
hoạt động. Phan Bội Châu đã đặt bí danh cho Đàn là Ấu Triệu - tức là "Bà
Triệu nhỏ".
Ấu Triệu đã liên hệ mật thiết với Nguyễn Thành, Đặng Thái Thân và
các yếu nhân khác của hội Duy tân. Ấu Triệu đã lựa chọn những chị em là
họ hàng, bạn bè thân thiết, nhưng phải là người chung thủy, dũng cảm
thành lập ra các chi hội phụ nữ ở các tỉnh để lo từng việc của nhiệm vụ giao
thông, liên lạc. Ấu Triệu đã học tập được ở các vị tiền bối phương pháp
tuyên truyền, giáo dục đến tuyển chọn người vào tổ chức, đặc biệt là công
tác giữ bí mật. Ấu Triệu đã cùng các chi hội phụ nữ đi buôn, khi là người
vợ thăm chồng đang đi lính cho Chính phủ bảo hộ, lại có khi trong vai
người gồng thuê, gánh mướn, áo quần tả tơi đi công khai trên đường, vượt
qua các trạm kiểm soát, qua mắt các tên mật thám nhà nghề một cách an
toàn. Có những việc cần kíp bà phải nhịn đói đi suốt đêm để tránh sự kiểm
soát của địch. Lại có khi phải lẩn trốn trong rừng sâu hoặc trong buồng tối
của các cơ sở tránh sự truy lùng gắt gao của mật thám. Chị em trong các
chi hội cũng học tập được ở bà đức tính kiên trì, lòng quả cảm tận tụy để
hoàn thành nhiệm vụ. Nhờ đó trong hơn bốn năm trời sự liên lạc giữa ba
kỳ Bắc - Trung - Nam được thông suốt, tiền gửi sang Nhật, tài liệu của
Phan Bội Châu, Mai Lão Bạng từ Nhật gửi về nước được đưa đến đúng địa
chỉ không hề mất mát.
Bà đã cùng với Nguyễn Đình Tiến vận động thí sinh bỏ kỳ thi khóa
sinh ở huyện Hương Trà để phản đối thực dân Pháp và Nam triều.
Trong phong trào chống thuế nổ ra ở Quảng Nam, Quảng Ngãi năm
Mậu Thân (1908) bà đã cùng các ông Khóa Mãnh, Khóa Mộng kêu gọi
nhân dân Thừa Thiên hưởng ứng. Căm thù giặc Pháp xâm lược và triều
đình Huế, tay sai cho Pháp, Ấu Triệu không giữ nổi bình tĩnh và bí mật đã
công khai chửi rủa thực dân Pháp và triều đình Huế, nên bị chúng bắt.
Bọn mật thám dùng đủ mọi cực hình tra tấn, nhưng bà vẫn không hề
hé răng khai báo một lời. Chúng giải bà đến nhà lao Thừa Phủ (Huế), giao
cho tên Trương Như Cương, Thượng thư bộ Hình, con chó săn trung thành
của giặc Pháp, tên này lại biết rõ thân phận của bà. Trương Như Cương
mất hết tính người, không cần giữ thể diện là đại thần của triều đình, tự tay
tra tấn, hỏi cung bà, khi thì dụ dỗ ngon ngọt để bà khai ra tổ chức và những
người có liên quan. Song Ấu Triệu là một nữ đảng viên trung kiên, có đạo
đức. Bà là người đã từng ngược xuôi Nam Bắc, rèn luyện mình trong chốn
gian nan. Mặc cho Trương Như Cương và bọn chúa ngục tra tấn cực kỳ dã
man, bắt khai báo các đồng chí và kế mưu của Đảng, nhưng trước sau bà
không chịu nói câu nào. Bà biết giặc không để cho mình sống, liền quyết
định chọn lấy cái chết thanh thản, để đền nợ nước, liền đánh lừa Trương
Như Cương.
- Người trong Đảng và mọi việc của Đảng, tôi đều biết hết. Muốn
lấy cung thì không thể trong chốc lát mà tôi nói ra đầy đủ. Bây giờ tôi đang
đau lắm, miệng không thể nói ra được. Xin cho tôi được đến một căn
phòng yên tĩnh để nghỉ ngơi một đêm rồi đem đến cho tôi giấy bút, tôi sẽ
ghi cho những gì tôi nhớ được, tôi sẽ ghi hết cho mọi sự việc, để các người
xem khỏi phải tra tấn làm gì cho mệt, mà tôi cũng đỡ đau đớn. Các người
có bằng lòng cho tôi được như vậy không? Nếu không thì tôi sẽ chết dưới
kìm hẹp của các người, thì các người cũng chẳng có lợi gì!
Trương Như Cương tin là thật, làm theo mọi yêu cầu của bà, chỉ cho
lính gác chặt chung quanh phòng bà ở. Được tự do, có nước sạch bà gội
đầu, tắm rửa, mặc quần áo tươm tất. Bà bèn trải giấy ra dưới đèn, cắn tay
hòa máu tươi, chấm bút viết rất nhanh, lời lẽ thao thao đến vài ngàn chữ.
Bà tố cáo tội ác trời không dung, đất không tha của giặc Pháp xâm lược và
tội dâng đất cầu hòa cam tâm làm chó săn cho giặc giết hại giống nòi của
vua quan triều Nguyễn. Viết xong, bà dán lên tường. Rồi bà lại cắn lưỡi
lấy máu đề luôn ba bài thơ tuyệt mệnh. Xong đâu đó, bà đập đầu vào
tường chết.
Trời sáng rõ, bọn lính canh mở cửa phòng, thấy sự việc như vậy, liền
hô hoán lên, báo cho Trương Như Cương biết. Tên thượng thư Việt gian
vô cùng tức tối vì "thấp mưu, thua chí đàn bà" sai đem thi thể bà cùng
những lời lẽ bà tố cáo bọn giặc viết ra đem thiêu hủy. Riêng mấy bài thơ
bà viết trên tường bọn giặc không nhìn thấy. Những lời thơ đó như sau:
I.
Thê lương ngục thất mệnh chung thi
Hải khoát sa không khốc tự tri
Tử quốc đáo mùng thiên hữu phận,
Thương tâm quan lũ kỷ nam nhi

II
Trùng tuyền yểm lệ kiến Trưng Vương
Đề huyết thư quyên chỉ tự thương
Bằng tạ Phật linh như tái thế,
Nguyên thân thiên lý, lý thiên sang
III
Huyết khô lệ liệt hận non tiêu,
Trường đoạn Hương Giang nhật dạ trào
Ngô đảng táo thanh cừu lỗ nhật,
Phần tiền nhất chỉ vị nung thiêu
Dịch:
I
Lạnh lùng cảnh ngục lúc quyên sinh
Biển rộng đồng không mình biết mình...
Chết với non sông em tốt số,
Trạnh lòng tủi hổ lũ trâm anh!
II
Suối vàng gạt lệ gặp Bà Trưng,
Máu thắm hồn quyên khóc thảm thương.
Lạy Phật: thân này còn hóa kiếp,
Tay xin nghìn cánh, cánh nghìn thương
III
Huyết lệ dầu khan, giận chửa sờn,
Chiều hôm tê tái nước sông Hương
Đảng ta khi quét xong quân giặc,
Trước nấm mồ em đốt bó nhang

Đặng Thai Mai dịch


(Thơ văn cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX )
NGUYỄN QUANG DIÊU
Nguyễn Quang Diêu hiệu Tử Ngọc, biệt hiệu Trần Cảnh Sơn và Nam
Xương, sinh năm Canh Thìn (1880) trong một gia đình khá giả; quê ở xã
Tân Thuận, tổng An Tịnh, quận Cao Lãnh, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp.
Thân phụ là Nguyễn Quang Huy (tức Hội đồng Sách) và Thân mẫu là
Nguyễn Thị Huệ.
Nguyễn Quang Diêu có tư chất thông minh từ nhỏ, đặc biệt là tính
tình khoan dung, điềm đạm nhưng ngay thẳng và dũng cảm, có tâm hồn
yêu nước dạt dào. Khi phong trào Duy tân lan rộng vào Nam, ông hăng hái
gia nhập và hoạt động cùng các chí sĩ Nguyễn An Khương ( cha Nguyễn
An Ninh) Nguyễn Thần Hiến, Bùi Chí Nhuận. Năm 1907, ông đặt trụ sở bí
mật ở chùa Linh Sơn (Cao Lãnh). Từ chùa này ông phát triển tới chùa Kim
Quang và các chùa khác.
Năm 1912, Phan Bội Châu giải tán Duy tân hội thành lập Việt Nam
Quang Phục hội thì ông và hầu hết các đồng chí lại chuyển sang hoạt động
cho Việt Nam Quang Phục hội. Tháng 5 năm 1913, Nguyễn Quang Diêu
dẫn đầu một đoàn 12 người, vượt biên giới sang Cao Miên, tới Xiêm La để
từ đó đi Trung Hoa liên lạc với Phan Bội Châu và các đồng chí trong Tổng
bộ. Đến Hương Cảng, các ông chưa kịp hoạt động thì cảnh sát Anh khám
thấy tạc đạn và giấy tờ quan trọng tại nơi phái đoàn ở, nên ông và các
đồng chí đều bị bắt. Nhà cầm quyền Anh ở Hương Cảng trục xuất, giải
các ông về Hà Nội, giao cho mật thám Pháp.
Trong phiên tòa xét xử, chúng coi ông là người cầm đầu, kết án 10
năm khổ sai, đầy sang Guyane (Nam Mỹ). Trên đường đi Guyane qua
Pháp, chúng giam ông ở nhà ngục Mác xây. Thực dân Pháp đầy Nguyễn
Quang Diêu đến một hòn đảo hoàn toàn xa lạ, sống giữa những người
ngoại tộc, ông không hề biết tiếng nói, phong tục tập quán, không được
nghe tiếng nói thân thương của đồng bào, đồng chí, cách Việt Nam nửa
vòng trái đất. Đế quốc Pháp tin rằng ông sẽ phải chịu chết già trên hòn đảo
đó, xong với ý chí quật cường, quyết tâm vượt ngục trở về nước hoạt động
như ông đã bộc lộ trong bài thơ Bị giam ỏ MácXây cảm tác;
“...Nếm mật nằm gai đành tạm lúc,
Sổ lồng tháo cũi hẳn chờ khi... ”
Đầu năm 1917, Nguyễn Quang Diêu vượt ngục trốn sang đảo
Trinidat thuộc Anh. Ông khi đó đã giỏi tiếng Pháp, tiếng Hoa, ông sống trà
trộn trong đồng bào Hoa, học tiếng Hoa, tiếng Anh. Bằng sự ngụy trang
khéo léo để giấu tung tích, cuối nãm 1920, Nguyễn Quang Diêu trở về
Hồng Kông rồi tới Quảng Châu liên lạc với Phan Bội Châu. Bạn bè, đồng
chí vô cùng kinh ngạc thấy ông xuất hiện, ông rất đau buồn khi biết tin
nhiều đồng chí thân thiết đã hy sinh hay còn nằm trong nhà tù đế quốc.
Được trở về hoạt động cùng các đồng chí được nghe tiếng nói thân thương
của đồng bào. Ông dồn hết sức lực, tâm chí cho công tác cách mạng, bù
đắp cho thời gian ông bị đế quốc Pháp cầm tù ở nơi xa xôi.
Đầu năm 1927, Nguyễn Quang Diêu về nước để khôi phục phong
trào với cái tên mới là Trần Văn Vẹn. Thực dân Pháp đánh hơi thấy các
hoạt động cách mạng của Nguyễn Quang Diêu, chúng tung mật thám đi dò
la tung tích của ông, lùng bắt rất gắt gao, ông phải thường xuyên thay đổi
chỗ ở. Do Nguyễn Quang Diêu tham gia phong trào Đông du, Việt Nam
Quang phục hội, chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa Tam dân của Tôn
Dật Tiên, nên ông đã dịch các sách Tam dân chủ nghĩa, Ngũ quyền hiến
pháp của Tôn Dật Tiên.
Sau một số người có cảm tình với ông, lại có thế lực đối với Pháp
đứng ra bảo trợ, ông đến làng Vĩnh Hoà gần Tân An dạy học và bốc thuốc.
Ông cũng sáng tác nhiều văn thơ để gửi gắm nỗi niềm tâm sự của mình.
Đến nay các đồng chí, dòng họ của ông còn giữ được nhiều thơ văn
của ông, trong đó có các bài: Viếng Hoàng Hoa Cương, Viếng mộ Phan
Tây Hồ, Sầu Non nước, Hà Thành lâm nạn, Tự do diễn ca, Chiêu hồn dân
ruộng, Ngỏ cùng nữ giới...
Mùa hè năm 1935, Nguyễn Quang Diêu nhuốm bệnh rồi mất, thọ 57
tuổi.
MAI LÃO BẠNG
Mai Lão Bạng là người theo đạo Thiên chúa, quê ở làng Vang, nay
thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Sau mấy năm học chữ Nho, gia đình
gửi ông vào học trường Đại chủng viện Đoài để trở thành linh mục. Thời
gian học ở trường, ông thấy những cha cố người Tây cấm không cho học
sinh đọc Tân văn, Tân thư từ ngoài xã hội đưa vào và khinh thị người dân
Việt Nam.
Năm Mậu Thân (1908) Mai Lão Bạng liên lạc với những người phụ
trách phong trào Đông du ở trong nước đưa học sinh người công giáo
Đông du. Từ đó Mai Lão Bạng ở lại Tôkyô cùng Phan Bội Châu gánh vác
công việc ở Nhật. Mai Lão Bang là người giúp Phan Bội Châu làm công
tác vận động công giáo trước hết là “Kêu gọi sự đồng tâm của giáo đổ
Thiên chúa”, như trong Hải ngoại huyết thư đã nêu rõ:
... Khắp đến kẻ hành nhân tẩu tốt,
Cả giáo đồ khắp suốt nơi nơi,
Đội trời đạp đất ở đời,
Sinh ra Nam quốc là người trượng phu
Ai cũng bụng phục thù, báo quốc,
...Dẫu rằng là đạo bất đồng,
Nhưng cùng đất nước, cùng chung giống nòi,
Quyết không có thể nào không vì mình
Chớ thấy khác mà sinh hình tích,
Để cho rằng cừu địch Nam nhân,
Chữ rằng đồng loại tương thân
Giáo dân xem với lương dân khác gì.
Để vận động đông đảo đồng bào công giáo tham gia vào công việc
cứu nước, Lão Bạng sáng tác bài ca nhan đề: “Lão Bạng phổ khuyến” (Bài
ca của Lão Bạng khuyên chung mọi người). Bài thơ “Lão Bạng phổ
khuyến” có tác dụng giáo dục lòng yêu nước rất to lớn đối với đồng bào
công giáo.
Năm 1909, Phan Bội Châu, Mai Lão Bạng cùng học sinh Việt Nam bị
Chính phủ Nhật trục xuất, phải trở về Trung Quốc, Mai Lão Bạng từ Trung
Quốc sang Xiêm La, mưu về nước, nhưng chính quyền Pháp ở Đông
Dương yêu cầu Chính phủ Xiêm La bắt các nhà cách mạng Việt Nam. Ông
bị bắt giam 8 tháng mới được trả tự do. Ông sang Hương Cảng, song chính
quyền Hương Cảng cũng theo ý của bọn cầm quyền Pháp ở Đông Dương
bắt giam ông 3 tháng. Mai Lão Bạng cùng với Phan Bội Châu sang Quảng
Đông.
Để phù hợp với thời cục chính trị mới năm 1912 Phan Bội Châu họp
các đồng chí tuyên bố giải tán Duy tân hội thành lập tổ chức cách mạng
mới là Việt Nam Quang Phục hội. Hội nghị bầu Phan Bội Châu làm Tổng
lý của Chính phủ nước Việt Nam Quang Phục, Mai Lão Bạng được bầu
làm uỷ viên bộ chấp hành cùng Đặng Tử Kính phụ trách kinh tế.
Việt Nam Quang Phục hội thực hiện đường lối bạo động phái một số
hội viên về nước đánh úp các đồn binh, ám sát một số tên cầm đầu cai trị
Pháp, Việt gian, song kết quả không lớn, Việt Nam Quang phục hội bị
khủng bố dữ dội, nhiều cơ sở ở trong nước, nhiều hội viên nòng cốt bị
giặc Pháp bắt xử tử hình và đưa đi đầy.
Ngày 30 tháng 6/1925 do sự phản bội của Phan Bá Ngọc báo cho mật
thám, Mai Lão Bạng cùng bị bắt với Phan Bội Châu ở Thượng Hải, mật
thám Anh dẫn độ ông cho mật thám Pháp giải về nước. Chúng giam ông ở
nhà lao Vinh một thời gian rồi đày ra Côn Đảo 15 năm, đến năm 1933 mới
được tha về.
Mai Lão Bạng về quê sau đợt khủng bố đẫm máu của giặc Pháp
trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh khiến ông đau đớn. Bạn bè giúp ông
dựng cái quán thuốc bắc “Lão Bạng y quán” ở chợ Vinh kiếm ăn. Vài năm
một lần ông đáp tàu hoả vào Huế thăm Phan Bội Châu bị giam lỏng ở Bến
Ngự.
Mai Lão Bạng mất vào năm 1942 ở Vinh trong sự thương tiếc của
nhân dân.
NGUYỄN QUỲNH LÂM
Nguyễn Quỳnh Lâm người huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông
sinh năm 1891, đất nước đã mất, bị người Pháp cai trị, đồng bào cơ cực
lầm than. Mùa đông năm 1906, ông mới 15 tuổi, nhưng chí khí cương
quyết. Khi Phan Bội Châu cử người về nước lấy thanh niên xuất dương
Đông du, ông hăng hái lên đường. Ông cùng với Đặng Bằng Đoàn vào học
ở ban đặc biệt của Đồng thư xã học. Ông ít nói ham học, tiến bộ rất nhanh.
Học được gần 2 năm thì hết tiền học, ông bỏ Nhật về Xiêm La rồi từ đó về
Hà Tĩnh mưu vận động binh lính khởi nghĩa. Thực dân Pháp phát hiện
được, lùng bắt ông ráo riết, ông lại phải chạy sang Hương Cảng. Ông xin
vào binh dinh Quảng Đông, tập luyện những việc ở chiến địa. Sau khi ra
khỏi binh dinh, ông lại nghiên cứu những cách chế tạo hoả khí chủ yếu là
chế thuốc súng và thuốc tạc đạn. Ông dày công nghiên cứu, chế tạo được
“vô yên hoả dược” (thuốc nổ không khói).
Tháng 2 năm Canh Tuất (1910) Phan Bội Châu giao cho Nguyễn
Quỳnh Lâm áp giải rương súng đạn chở đi Băng Kốc. Cảnh sát Hương
Cảng thấy rương nặng mở ra khám thấy súng liền tịch thu, Nguyễn Quỳnh
Lâm bị giam mấy tháng. May Chính phủ này có cảm tình với Việt Nam,
Quỳnh Lâm là người cách mạng nên ông được tha.
Năm 1912, Việt Nam Quang Phục hội được thành lập, ông hết sức
giao dịch với Trung Hoa Quốc dân đảng mong được viện trợ súng đạn.
Năm Quý Sửu (1913) tháng 5, cách mạng lần thứ hai ở Trung Hoa nổ
ra. Ông nói với các đồng chí: “Đây không phải là trường thử nghiệm của ta
hay sao. Trời sinh ra ta có bộ gân đồng, xương sắt, mà cứ ngồi ăn uống
thong thả, để ngày tháng qua làm gì?”. Anh em can ngăn ông vì đây là việc
của Trung Hoa, ông không nghe. Ở Nhật ông đã quen Hoàng Khắc Cường
(Hoàng Hưng) chỉ huy phòng thủ Nam Kinh. Ông gặp Hoàng Khắc Cường
trình bày. Hoàng Khắc Cường hết sức khen ngợi, cử ông làm trung đội
trưởng. Ông xung phong vào đội tiên phong. Khi ra trận luôn động viên
chiến sĩ chiến đấu, tự mình xông lên trước làm gương. Quân cách mạng
thiếu súng đạn nên tan rã, thành Nam Kinh sắp bị hãm, quân Viên Thế Khải
hãm thành, Hoàng Khắc Cường khuyên ông bỏ chạy, ông gạt nước mắt nói:
‘Tôi là một người vong quốc, sau này tôi sẽ đánh giặc cứu nước, nay lại
làm ông tướng bại trận thì chạy đi đâu? Vả lại đại trượng phu sao có thể bỏ
chạy để mà sống?". Hoàng Khắc Cường bỏ chạy, các binh quan Trung Hoa
vẫn biết ông là người đảng cách mạng Việt Nam, khuyên ông: “Việc nảy
không can thiệp gì đến việc cách mạng đảng, ông nên lưu tính mạng lại để
đợi thời cơ”. Ông trả lời một cách can đảm: “Người ta đem quân giao cho
mình là nghĩ mình giết được đồn giặc kia cơ mà! Bây giờ thấy giặc mà
trốn, mặt mũi nào làm con trai nữa”.
Ông tiếp tục chỉ huy chiến đấu, bị trúng hai mồi đạn ở ngực và cánh
tay, chết ở giữa trận.
LÊ VĂN HUÂN
Lê Văn Huân hiệu Lâm Ngu, sinh năm 1867 (Có sách viết ông sinh
năm Ất Hợi (1875) người làng Trung Lễ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống nho học, nhưng ông mồ
côi cha từ nhỏ, được mẹ cho ăn học đến nơi, đến chốn, ông thi Hương tại
trường thi Nghệ An khoa Bính Ngọ (1906) đậu Giải nguyên, nên thường
gọi là Giải Huân.
Ông tham gia phong trào Đông du cùng với tiến sĩ Ngô Đức Kế, Phó
bảng Đặng Nguyên Cẩn, tú tài Nguyễn Đình Kiên. Ông hoạt động rất tích
cực trong nhóm "Minh xã", khác với nhóm "Ám xã". Ám xã chủ trương
bạo động, còn nhóm Minh xã do Ngô Đức Kế đứng đầu chủ trương cải
cách văn hóa, phát triển công thương nghiệp.
Khi Phan Bội Châu từ Nhật Bản bí mật về nước thảo luận với các sĩ
phu trong nước, trong đó có Lê Văn Huân bàn kế hoạch: "khai dân trí -
chấn dân khí - đào tạo nhân tài'' thì các sĩ phu nhiệt liệt hưởng ứng và bàn
kế hoạch thực hiện. Năm 1907, Lê Văn Huân cùng với Tiến sĩ Ngô Đức
Kế, Phó bảng Đặng Nguyên Can, tú tài Nguyễn Đình Kiên, Đặng Văn Bá,
bà Trần Thị Trâm lập "Triêu Dương thương điếm” công khai ở thành phố
Vinh, lấy tiền lãi sung vào quý Đông du cấp cho thanh thiếu niên du học ở
Trung Hoa, Nhật Bản. Theo chủ trương của Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh, Duy tân hội đã cử một số sĩ phu ra Bắc Kỳ tới căn cứ Yên Thế gặp
tướng quân Hoàng Hoa Thám, trong số đó có Lê Văn Huân.
Tháng 5 năm 1908, theo lời kêu gọi của Nguyễn Hàng Chi, Nguyễn
Hiệt Chi, Trịnh Khắc Lập các sĩ phu yêu nước và nông dân nghèo ở các
huyện trong tỉnh Hà Tĩnh đã kéo nhau về thị xã Hà Tĩnh biểu tình đòi giảm
sưu khất thuế. Lê Văn Huân đã cùng Phạm Văn Ngôn, Lê Văn Cẩn dẫn
đầu các cuộc biểu tình tuần hành của nông dân kéo vào thị xã đòi nhà cầm
quyền Pháp, Nam triều đòi giảm thuế, khất thuế. Phong trào chống thuế
phát triển rầm rộ nhất là ở các huyện Can Lộc, Nghi Xuân, Đức Thọ, Nghi
Xuân (Hà Tĩnh), Lê Văn Huân dẫn đầu hàng trăm nông dân các làng Đông
Thái, Yên Vượng, Trung Lễ, Đông Khê, Văn Xã... Bọn cầm quyền Pháp và
quan lại Nam triều đã đàn áp khốc liệt phong trào chống thuế ở Hà Tĩnh,
Nghệ An cũng như những tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ở tỉnh Hà Tĩnh
hàng trăm người bị bắt trong đó có Lê Văn Huân, Phạm Văn Ngôn, Nguyễn
Duy Phương. Cũng trong năm 1908, Lê Văn Huân bị thực dân Pháp bắt
đầy ra Côn Đảo.
Năm 1917 hết hạn tù, ông được tha về, lại tiếp tục hoạt động. Ông
cùng với Nguyễn Đình Kiên và một số đồng chí bị tù đầy lập ra nhóm
"chính trị phạm Trung Kỳ”.
Ngày 14 tháng 7 năm 1925, Lê Văn Huân cùng một số trí thức tân
học ở Hà Tĩnh như Tôn Quang Phiệt, Trần Mộng Bạch, Trần Phú... đã
nhóm họp ở thành phố Vinh thành lập nhóm "Phục Việt" để truyền bá tư
tưởng yêu nước và tập hợp lực lượng chống Pháp, Nghệ Tĩnh trở thành
trung tâm của Hội”.
Năm 1929, Lê Văn Huân bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Hà
Tĩnh. Trong tù, Lê Văn Huân đấu tranh quyết liệt với bọn chúa ngục.
Chúng đàn áp tàn bạo ông phản đối cùng các tù nhân tuyệt thực, sau đó ông
rạch bụng hy sinh.
Lê Văn Huân là một nhà nho yêu nước thức thời, ông còn là một nhà
thơ tài hoa, đồng thời là lý thuyết gia thành lập chính đảng dân chủ đầu
tiên ở nước ta hồi đầu thế kỷ XX, ông cũng là liệt sĩ cách mạng đầu tiên
của tổ chức tiền thân của Đông Dương cộng sản Đảng.
ĐẶNG ĐOÀN BẰNG
Đặng Đoàn Bằng tức Đặng Hữu Bằng tên chính là Đặng Tử Mẫn,
năm 1906 xuất dương lấy tên là Đặng Xung Hồng. Ông là con cụ nghè
Đặng Hữu Dương, người làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường, nay là
huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đặng Đoàn Bằng thông minh từ nhỏ,
giỏi sáng tác thơ văn, phú, câu đối, tính khí cương cường.
Ông xuất dương sang Nhật, theo học trường Chấn Võ giỏi tất cả các
môn quân sự, giỏi chữ Hán, chữ Nhật. Năm 1909, ông đậu Thủ khoa. Minh
Trị Thiên hoàng (Mút su Hi tô Meifi) là bậc anh hùng canh tân nước Nhật
chủ toạ lễ mãn khoá đã tặng riêng ông một chiếc đồng hồ bỏ túi có khắc
tên, chữ ký của nhà vua. Khi thực dân Pháp cấu kết với Chính phủ Nhật
trục xuất Phan Bội Châu và du học sinh Việt Nam, ông trở về Trung Quốc
học một trường quân sự.
Thượng tuần tháng 2/1912, Phan Bội Châu thành lập Việt Nam
Quang Phục hội ở Trung Quốc, ông tham dự và được bầu vào bộ chấp
hành có 10 uỷ viên. Ông cùng Mai Lão Bạng phụ trách kinh tế. Ông còn
giữ chức cố vấn quốc gia, uỷ viên vận động Bắc Kỳ của Chính phủ Lâm
thời Việt Nam Quang Phục hội thành lập hồi tháng 5 năm 1912. Ông là một
yếu nhân của Việt Nam Quang Phục hội.
Năm 1913 Đặng Đoàn Bằng cùng Nguyễn Thượng Hiền vượt biên
giới về Lạng Sơn vận động lính dõng quê ở tổng Nhân Lý, châu Văn Uyên
nổi dậy tấn công đồn Đồng Đăng. Sau trận giao chiến với quân Pháp ở
vùng Pắc Luống, nghĩa quân bị thua, nhiều người bị bắt. Ông cùng Nguyễn
Thượng Hiền chạy thoát sang Trung Quốc.
Năm 1913 ông tham gia chế bom, lựu đạn trong tô giói Anh ở Hương
Cảng. Lựu đạn nổ, ông bị cụt ba ngón tay. Ông trốn thoát chạy về Quảng
Đông, Quảng Tây.
Trong mấy năm nương náu ở Quảng Đông, Quảng Tây, ông đã
nghiên cứu, tập trung tài liệu viết cuốn “Việt Nam nghĩa liệt sĩ” năm 1918.
Ông ghi chép 50 chí sĩ hi sinh cho đất nước như Đặng Thái Phiên, Trần
Văn Bình, Trần Đông Phong, Phan Lại Lương, Nguyễn Quỳnh Lâm, Cao
Trúc Hải, Hồ Bá Kiện, Hồ Bá Phiến, Phạm Văn Ngôn... Quyển sách này
được Phan Bội Châu sửa chữa kỹ, Nguyễn Thượng Hiền đề tựa, in năm
1918 ở Trung Quốc. Sách đã được dịch ra chữ Quốc ngữ, Nhà xuất bản
Văn hóa xuất bản năm 1960. Sau đây là một đoạn trong mục “Chép chung
chuyện Nguyễn Đức Công, Nguyễn Thức Đường".
... “Nước mất, giặc hoành hành, nhưng bọn vô liêm sỉ đang đua nhau
làm nô lệ, ông rất lấy làm thẹn, lúc 15, 16 tuổi, ông đã nuôi cái chí đánh
giặc phục quốc, nhưng chưa biết làm với ai. Một hôm ông đến nhà Sào
Nam, Sào Nam đưa ông xem bản “Lưu cần huyết lệ tân thư” Ông rất phấn
khởi đem về nhà suốt đêm đọc không ngủ. Từ đó bỏ nghê học cũ, chuyên
giao kết với các khách gươm rượu. Ông thân dỏ biết, nhưng cũng không
ngăn cấm được...
Sau đây là một đoạn trong mục “Lê Khiết”.
... Nguyễn Thân đã đánh dẹp đảng ở Nam Ngãi nên người Pháp cho
Thân là giỏi, mới bổ Thân làm kinh lược tiết chế đợi sứ Nghệ Tĩnh. Thân
đem Lê Khiết đi theo làm Tán tương, Lê giúp Thân dẹp đảng Nghệ Tĩnh và
được bổ chức Bố chánh quyền việc Tổng đốc. Lúc đó Phan Thị Hán bị tình
nghi và theo dõi, ông vì mến phục Phan mà hết sức che chở...
Đặng Đoàn Bằng còn có nhiều thơ Điếu các chí sĩ như: Điếu Tăng
Bạt Hổ, Điếu Nguyễn Đức Công, Điếu Đỗ Cơ Quang, thơ điếu Hoàng Văn
Kỷ, Hà Thành tuấn nghĩa chư liệt sĩ Điếu nghĩa sĩ dân (các tỉnh Trung Kỳ)
chống thuế bị hại.
Mùa hè năm 1923, Đặng Đoàn Bằng cùng với Hồ Tùng Mậu, Lê Văn
Phan (Lê Hồng Sơn) Nguyễn Giản Khanh (con nuôi cụ Nguyễn Thiện
Thuật) Trương Quốc Uy, Lê Cầu (Tống Giáo Cầu), Nguyễn Công Viễn
(Lâm Đức Thụ) cùng có chung một chí hướng, cùng sinh sống, học tập tại
Hàng Châu sáng lập ra Tân Việt Thanh niên đoàn (còn gọi là Tâm tâm xã).
Khoảng năm 1924, Đặng Đoàn Bằng bị thổ phỉ ở Nam Ninh giết
chết, chặt bàn tay phải thành tật của ông bán cho thực dân Pháp ở Bắc Kỳ.
BÙI CHÍNH LỘ
Bùi Chính Lộ còn có tên là Lê Mai Tử. Ông người xã Thanh Thuỷ,
nay là xã Nam Thanh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông sớm tham gia
phong trào Duy tân, Đông du do Phan Bội Châu, Nguyễn Thành, Đặng Tử
Kính, Đặng Thái Thân sáng lập. Khi Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, Mãi Lão
Bạng xuất dương thì ông làm công tác vận động thanh niên xuất dương và
vận động tài chính.
Từ sau vụ "Hà thành đầu độc” thất bại thì các công ty buôn bán,
thương quán, nhà hàng do Đông du và Đông Kinh nghĩa thục chủ trương
đều bị bọn cầm quyền Pháp triệt phá, nếu không triệt phá được thì bao vây
cô lập làm cho phá sản, do đó tài chính gây quỹ cho Đông du càng khó
khăn hơn. Song Bùi Chính Lộ đã khôn khéo, mưu trí lọt qua được tất cả sự
do thám của giặc, để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này. Trong một chuyến
đi quyên tiền vào khoảng cuối năm 1911, đầu năm 1912, kịp chuyển ra Hải
Phòng để liên lạc gửi sang Trung Quốc cho Phan Bội Châu chi vào việc
nuôi anh em ăn học và mua sắm vũ khí. Phan Bội Châu đã biểu dương Bùi
Chính Lộ - Lệ Mai Tử trong “Tái sinh truyện” (sống, trở lại) như sau:
“Sự nghiệp kinh doanh của cấc đồng chí tôi, nếu không liên lạc vận
động thì không thể nào thành công, nhưng liên lạc, vận động lại là việc rất
khó khăn, nguy hiểm. Người gánh vác cái trách nhiệm vô cùng khó khăn
gian khổ dó chính là Lệ Mai tử. Vì Lệ Mai là người có nhiệt thành, có học
vấn, có đảm lược lại có cơ mưu và sở trường về khoa ngôn luận. Giữa
trách nhiệm đó là người của Đảng ngày một tiến bộ, tiếng tăm lừng lẫy, kẻ
thù rất khiếp sợ, chỉ muốn bắt bằng được ông mới yên lòng”.
Bùi Chính Lộ bị mật thám bắt đưa về giam ở nhà lao Vinh. Sau đó
ông giả chết để thoát khỏi nhà lao.
Tổ chức quyết định đưa ông sang hoạt động ở Xiêm La. Tới Xiêm La
ông đã cùng Đặng Thúc Hứa xây dựng cơ sở Trại Cày Bạn Thầm làm nơi
sản xuất ra lúa gạo, nơi dừng chân cho các nhà cách mạng Việt Nam từ
trong nước trốn qua để xuất dương.
Bùi Chính Lộ đã tuyên truyền, khích lệ bà con thương yêu, giúp đỡ
nhau ở nơi đất khách quê người, luôn luôn hướng về Tổ quốc. Mở trường
dạy con em Việt Kiều học tiếng Việt, học lịch sử Việt Nam và cho các cháu
biết Tổ quốc đang bị giặc Pháp giày xéo. Lớn lên phải có nghĩa vụ giải
phóng Tổ quốc.
Bùi Chính Lộ theo đường Xiêm La sang Trung Quốc gặp Phan Bội
Châu và các đồng chí. Khi đó Tổng bộ Việt Nam Quang Phục hội chủ
trương tổ chức nhiều cuộc bạo động, gây những tiếng vang kinh thiên động
địa để kích thích lòng yêu nước của đồng bào.
Mục tiêu là gây tiếng nổ ở cả ba kỳ: Bắc - Trung - Nam. Khi đó Bùi
Chính Lộ vừa vượt biên mới sang Xiêm, ở Xiêm La một thời gian rồi sang
Trung Quốc, liền xung phong đi. Phan Bội Châu biết rõ ông là người hiểu
tình hình địa dư Nam Kỳ liền chấp nhận cho ông đi.
Bùi Chính Lộ đi đường Xiêm La - qua Cao Miên để về Nam Kỳ.
Nhưng ông tới Băng Kốc (Xiêm La) thì bị bọn chó săn bám riết, không sao
dứt ra được, không thể thoát được, ông liền rút lựu đạn ném giết chết hai
tên mật thám. Bọn chúng xô vào bắt, đưa vào nhà lao thì ông tự sát.
NGUYỄN THỨC CANH
Nguyễn Thức Canh sinh khoảng năm 1884 hay 1885, là con trai Sơn
phòng sứ Nguyễn Thức Tự và cụ bà là Lê Thị Huệ. Vì ông là con cả, nên
còn gọi là Cả Canh, hiệu là Trần Hữu Công, Trần Trọng Khắc. Ông là anh
các ông Nguyễn Thức Đường, Nguyễn Thức Bao và Nguyễn Thức Độ.
Ông tham gia phong trào Duy tân hội, xuất dương sang Trung Quốc
rồi sang Nhật học khoa văn chương trường Cao đẳng Sư phạm Tôkyô. Học
xong ông trở về Trung Quốc. Em ông là Nguyễn Thức Đường (tức Trần
Hữu Lực) và Nguyễn Thức Bao cũng xuất dương sang Nhật.
Vì vậy ngày 7/2/1910, Toà án Nam Nghệ An, Chánh án là Trần Đình
Phác (Tổng đốc An Tĩnh), Tôn Thất Đạm (Bố chính), Đào Phan Duẩn (Án
sát) đã luận tội các bị cáo chạy ra nước ngoài gồm có: Phan Bội Châu,
Đặng Thúc Hứa, Nguyễn Thức Canh, Nguyễn Thức Đường. Sau khi
Nguyễn Thức Đường (Trần Hữu Lực) bị bắt ở Xiêm đưa về Hà Nội xử bắn
cùng Hoàng Trọng Mậu ở trường bắn Bạch Mai, tháng 6 năm 1915 thì bọn
cầm quyền Pháp ở Đông Dương nhận được tin mật báo từ Nhật về cho
biết: “Trần Hữu Công chính là Nguyễn Thức Canh, là anh của Trần Hữu
Lực, đã ở Nhật nhiều năm, có nhiều bạn bè trong quan chức Nhật”.
Ngày 19/7/1923, Viện cơ mật Nam triều đã ra lệnh truy nã Nguyễn
Thức Canh dẫn về giao cho nhà chức trách để luận tội theo luật của triều
đình.
“Năm 1924, mật thám Pháp ở Vinh có được một nguồn tin rằng Trần
Hữu Công từ Berlin đã gửi một thư về Quảng Châu bàn về việc giúp đỡ
Hồ Tùng Mậu. Phong bì mang tên Đức là Kranzlin, số nhà 2 Guthestrasse,
Berlin Licheter - Felde, chính quyền Pháp đã nhờ chính quyền Đức điều
tra và được biết đó là nhà một ông cách mạng mang tên là Nuchaellis. Tin
này sau được xác nhận có Trần Hữu Công quốc tịch Trung Hoa ở nhà
người Đức tên là Kranzlin”.
Việc này cũng được Phan Bội Châu xác nhận trong cuốn Phan Bội
Châu biên niên như sau:
Mấy năm nay tôi ở Hàng Châu, vì có gánh một việc, tức là giúp cho
ông Trần Hữu Công, tức là Trần Trọng Khắc tiên sinh. Ông lưu học ỏ Béc-
lin nước Đức. Tôi phải một năm hai lần tháng sáu và tháng chạp, lén lên
Thượng Hải để gửi bạc học cho ông Trần.
Và cũng vì chuyến đi này Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt giải về
Hà Nội.
Tháng 6/1930, mật thám Pháp ở Vinh biết rõ lai lịch của Nguyễn
Thức Canh đã từng học ở Nhật, khi học ở Đức có liên lạc với Hồ Tùng
Mậu, sau đó gặp Nguyễn Ái Quốc ở Berlin.
Năm 1932, mật thám Pháp lại được tin Trần Hữu Công là quan chức
cao cấp của phái đoàn Trung Quốc tại đã trở về Viễn Đông, hiện hành
nghề bác sĩ trong một quân cảng ở Thượng Hải, hiện đang ở Hàng Châu,
rồi lại có tin ở Nam Kinh.
Năm 1934 sau khi Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần... tổ chức Việt
Nam Độc lập đồng minh hội có ra tờ báo lấy tên là “Việt Nam thanh”
(Tiếng nói Việt Nam). Những công tác viên chính của tờ báo là Hồ Học
Lãm, Nguyễn Hải Thần, Trần Hữu Công, Vi Bình Di, Vi Chính Nam...
NGUYỄN THỨC ĐƯỜNG
Nguyễn Thức Đường, hiệu Càn Kiệm, khi đi du học thì đổi là Trần
Hữu Lực. Ông sinh năm 1885 tại làng Đông Chữ, nay là xã Nghi Trung,
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông là con cụ Nguyễn Thức Tự, giữ chức
Sơn phòng sứ. Khi Tự Đức kí Hòa ước với Pháp, cụ cáo quan về quê dạy
học, Phan Bội Châu cũng theo học cụ. Ông là em trai Nguyễn Thức Canh,
anh trai Nguyễn Thức Bao, cũng xuất dương sang Trung Quốc, Nhật Bản,
Đức du học. Nguyễn Thức Đường từ thuở thiếu niên đã là người tuấn tú,
thông minh, một người có bản lĩnh, có ý chí. Ông được Phan Bội Châu, học
trò của cha mình dìu dắt. Phan Bội Châu viết về ông có đoạn: "Ông Trần
Hữu Lực, người Nghệ An, nguyên tên là Nguyễn Thức Đường, con trai
Đông Khê tiên sinh là thày học của tôi. Nhà đời đời nghiệp nho, mà tính
chất ông khác một cách, có thái độ như một nhà võ sĩ đời xưa. Lúc ông 15
tuổi, thấy được quyển Lưu cần huyết lệ của tôi làm, bèn lấy trộm về nhà,
đọc lén một mình, từ đó bỏ quách văn cử nghiệp, không chịu tập nữa,
chuyên theo các anh em du hiệp học những việc múa gậy, đánh gươm, đã
từng giết một tên cử nhân mà ăn lương chó săn tức là Nguyễn Điềm”. Giết
Điềm chết rồi, ông chuyên làm những chính sách bạo động ở trong nước.
Ông Ngư Hải sợ làm mất tiền đồ của ông, mới cưỡng bức ông xuất
dương. Ông sang Nhật vào học trường Đồng Văn thư viện, và nhanh
chóng trở thành một học sinh xuất sắc. (Nguyễn Điềm là tên năm 1902 đã tố cáo với
Pháp việc Phan Bội Châu định lấy tỉnh thành Nghệ An).
Sau khi thực dân Pháp ở Đông Dương thông đồng với Chính phủ
Nhật trục xuất Phan Bội Châu và học sinh Việt Nam khỏi Nhật Bản, Trần
Hữu Lực cũng như Hoàng Trọng Mậu và nhiều học sinh khác về Trung
Quốc, ông vừa lao động kiếm sống, vừa học tiếng bạch thoại, tiếng Hoa
Bắc, Hoa Nam.
Đúng lúc đó Thái Tùng Ba ở Quảng Tây đương huyện binh có nhà
Lục quân cán bộ học đường (còn gọi là Quảng Tây học hiệu) chiêu sinh.
Trần Hữu Lực đổi tên, mang quốc tịch Trung Hoa cùng Nguyễn Tiên Đầu,
Nguyễn Thái Bạt ba người cùng đồng thời vào nhà quân hiệu học tập nghề
làm tướng. Ba năm ở nhà Học hiệu thường hăng hái như tới giữa chiến
trường. Sau khi tốt nghiệp trở về Quảng Đông, được bổ làm thiếu úy, xuất
lĩnh một đội nhỏ, hễ đến lúc thao luyện, quân sĩ đều kinh sợ lắm”.
(Nguyễn Tiêu Đầu tức Nguyền Bá Trác, về sau đầu thú giặc, viết báo Nam Phong, cuối cùng
ra làm quan đến chức Thị lang của triều đình Huế, tay sai đắc lực của thực dân Pháp).
Cách mạng Tân Hợi (1911) thành công, là cơ hội thuận lợi cho cách
mạng Việt Nam. Phan Bội Châu, Nguyễn Thức Đường và nhiều nhà cách
mạng Việt Nam đang hoạt động ở Trung Quốc, ở Xiêm đều trở về Quảng
Đông. Năm 1912, Phan Bội Châu tuyên bố giải tán Duy tân hội, thành lập
một tổ chức cách mạng mới là Việt Nam Quang Phục hội. Trần Hữu Lực
được ủy nhiệm cùng Hoàng Trọng Mậu ủy viên trưởng phụ trách Quân vụ
viết Tuyên cáo của Việt Nam Quang phục hội và Thư gửi đổng bào Nghệ
Tĩnh trong dịp thành lập Việt Nam Quang Phục hội. Nhưng bọn cai trị Pháp
ở Đông Dương đã cấu kết với Long Tế Quang, Tổng đốc Quảng Đông bắt
những nhà cách mạng Việt Nam nộp cho Pháp. Trước tình hình đó, Trần
Hữu Lực tự nguyện sang Xiêm La, tổ chức toán quân Việt kiều quang phục.
Phan Bội Châu lấy danh nghĩa Quang Phục hội Tổng lý ủy ông làm Trú
Xiêm Quang Phục hội chi bộ bộ trưởng. Ông bôn tẩu trên đất Xiêm, hễ chỗ
nào có kiều dân Việt Nam là đến tuyên truyền, vận động. Kết quả ông
thành lập được đội quân trên 60 người, trang bị vũ khí đầy đủ, dự định
vượt biên giới qua Lào đánh vào Nam Trung Bộ. Chính phủ Xiêm đã thỏa
thuận với nhà cầm quyền Pháp bắt các nhà cách mạng Việt Nam. Hai tên
mật thám Pháp, một tên là Hùng người Bắc Kỳ, một tên người Trung Kỳ
được cảnh sát Xiêm giúp sức lùng sục ông ở khắp nơi. Chúng bắt được
ông trên một chuyến tầu và được trao cho chính quyền Pháp để đổi lấy tù
chính trị người Ấn Độ ở Sài Gòn. Giặc Pháp đưa ông về Hà Nội, giam ở
nhà lao Hỏa Lò, chúng biết ông là một nhân vật quan trọng trong tổ chức
Việt Nam Quang phục hội, đang chỉ huy một đội quân ở Xiêm nên ra sức
dụ dỗ: "Nếu ông thu phục thì sẽ được tha tội". Ông giữ vững ý chí. Bọn
mật thám dùng đủ mọi cực hình tra tấn ông, song ông vẫn bền gan, vững
chí, không tiết lộ bí mật của tổ chức không hề khai báo một người nào đã
về nước và cơ sở của Hội ở trong nước cũng như ở Xiêm.
Không khai thác được gì ở ông, ngày 20 tháng 12 năm Ất Dậu (22
tháng 1 năm 1916) chúng đưa ông cùng với Hoàng Trọng Mậu vừa là bạn,
vừa cùng quê, vừa là đồng chí thân thiết của ông, ra bắn ở trường bắn Bạch
Mai.
LÝ LIỄU
Lý Liễu quê ở Tam Bình (Vĩnh Long), từ nhỏ đã được sống trong
không khí sôi sục cách mạng của gia đình, lại bẩm tính thông minh, nên
được cha cho đi học đến nơi đến chốn.
Năm 1907, Phan Bội Châu cho Bùi Chí Nhuận về Nam Kỳ kêu gọi
thanh niên xuất dương du học. Lý Liễu khi đó mới khoảng 14-15 tuổi cùng
với Nguyễn Truyện, con cụ xã Trinh tuổi cũng xấp xỉ như vậy xuất dương
ngay đợt đầu tiên. Sang tới Trung Quốc, Lý Liễu và Nguyễn Truyện được
đưa tới Hồng Kông học tại trường Trung Anh học đường.
Lý Liễu vốn bẩm tính cực kỳ thông minh từ nhỏ, lại say sưa học tập
nên ngoài chuyên môn, Liễu còn giỏi tiếng Anh, tiếng Trung và biết tiếng
Pháp. Lý Liễu hết sức học tập, chờ ngày về nước Việt Nam độc lập thi thố
tài năng giúp nước. Nhưng mơ ước đó vĩnh viễn không thành.
Nguyên là cuối tháng 5 năm 1913, một phái đoàn Nam Kỳ do ông
Nguyễn Quang Diêu dẫn đầu sang Hồng Kông với mục đích lãnh tín phiếu,
mua vũ khí đưa thêm vài học sinh sang du học. Đoàn ngụ ở nhà ông Huỳnh
Hưng ở ven đảo Cửu Long. Hai vợ chồng ông Huỳnh Hưng sang Cửu
Long ở rất lâu giữ đầu mối liên lạc giữa các đồng chí ở Trung Quốc với
các đồng chí ở trong nước. Vì vậy khi nghe tin phái đoàn đến, Lý Liễu và
Nguyễn Truyện sang nhà Huỳnh Hưng hỏi thăm tin tức gia đình.
Ngày 16 tháng 6 năm 1913 do có kẻ chỉ điểm, mật thám Anh ập đến
nhà Huỳnh Hưng khám xét, bắt được 13 quả tạc đạn, bắt hết những người
có mặt. Lý Liễu vừa đến cũng bị cảnh sát bắt, Huỳnh Hưng nhận mình mua
số tạc đạn đó, những người khác không biết. Tòa án Anh ở Hồng Kông xử
Huỳnh Hưng án tù, còn những người khác bị cảnh sát Anh giao cho nhà
cầm quyền Pháp ở Đông Dương.
Mùa đông năm 1913, Lý Liễu và các đồng chí bị cảnh sát Anh giao
cho cảnh sát Đông Dương. Mọi người bị bọn mật thám tra tấn cực kỳ dã
man. Cuối năm 1913, Tòa án Đại hình đặc biệt xử tại Hà Nội, trong đó Lý
Liễu bị án nhẹ nhất là 5 năm khổ sai. Nguyễn Truyện tự tử, Nguyễn Thần
Hiến nhịn ăn chết. Lý Liễu, Nguyễn Quang Diêu, Đinh Hữu Thuật, Trần
Ngọ đều bị đầy đi Guyane (Nam Mỹ). Tại đây, ông là người thông báo tin
tức, đấu tranh đòi quyền lợi như quần áo, thuốc men, nhận thư từ từ trong
nước gửi sang, và chuyển thư của anh em về nước.
Do Lý Liễu quen biết thân thiết với nhiều kiều dân Hoa sống ở
Guyane, ông ngỏ ý vượt ngục và nhờ họ giúp đỡ. Họ đã giúp ông trốn sang
Trinidad và được kiều dân Trung Hoa ở đảo Trindad sắp xếp công ăn việc
làm ổn định, lo giấy tờ hợp pháp: quốc tịch Trung Hoa.
Lý Liễu ở trong thương hội một thời gian rồi lấy vợ người Anh.
Mặc dù sống nơi đất khách song ông vẫn không nguôi nhớ về quê hương.
Ông tìm cách trở về Việt Nam Đổi tên là Lý Phùng Xuân. Thực dân Pháp
biết ông trở về, sai người chiêu dụ ông ra đầu thú sẽ được làm quan. Ông
phản đối, phải trốn về vùng quê hoạt động vẫn vững vàng một lòng tranh
đấu.
Khoảng năm 1933 - 1934, ông đang lẩn trốn trong một căn nhà lá nhỏ
bên Lộ Kế Ông tỉnh Vĩnh Long, cách quận lỵ An Hóa không xa thì bị lính
Pháp đến bao vây bắt được.
Tòa án thực dân Pháp gán cho ông tội gây loạn, phá rối trị an, lại truy
cái án vượt ngục ở Guyane ngày trước, kết án tù 15 năm khổ sai, đầy ra
Côn Đảo. Lý Liễu không chịu đựng được sự khổ sở nhọc nhằn trong cảnh
lao tù, ốm đau trong thời gian dài. Cách mạng tháng Tám ra rước tù chính
trị về, ông được cử làm Chủ tịch huyện An Hóa, tỉnh Vĩnh Long.
ĐỘI PHẤN
Đội Phấn tên thật là Hồ Trọng Phấn, còn gọi là Hồ Bá Phấn, Hồ Sỹ
Phấn, tên chữ là Càn Thái, ông quê ở xã Nghi Vạn, huyện Nghi Lộc, tỉnh
Nghệ An. Ông xuất thân từ một gia đình nông dân, ít được học hành,
nhưng bản tính ông cương dũng, chuộng làm việc nghĩa, giàu lòng yêu
nước. Khi giặc Pháp hạ thành Nghệ An, tuy còn ít tuổi nhưng ông đã theo
nghĩa quân chiến đấu.
Hồ Trọng Phấn nhận thấy muốn đánh thắng quân Pháp thì phải học
cách cầm quân, biết cách sử dụng binh khí hiện đại của quân Pháp thì mới
đánh thắng được chúng. Nghĩ vậy ông trở về làng, xin vào lính bản địa
(còn gọi là lính khố xanh). Ở lính vài năm, ông lập được nhiều công trạng,
quan binh Pháp thấy ông tài giỏi lại có lòng trung thành với mẫu quốc, nên
cho làm chức đội trưởng, được chỉ huy một tiểu đội lính tập, tiểu đội thời
đó có đến 50 người. Vài năm sau, ông được lên tới chức Chánh đội trưởng,
chỉ huy 100 lính tập được học tập, nghiên cứu, tìm tòi chiến lược, lập kế
hoạch đánh trận. Ông cùng binh lính gần gũi nhau giúp đỡ nhau trong cuộc
sống khi phải xa nhà, vì vậy binh lính quý mến ông, coi ông như người anh
cả và nghe lời ông.
Năm 1907 phong trào Duy tân phát triển mạnh mẽ ở hai tỉnh Nghệ
An, Hà Tĩnh. Một số nhân vật thuộc phái "Ám xã" như Hoàng Văn Hành,
Nguyễn Thị Thanh biết Hồ Trọng Phấn tuy đi lính cho Pháp, làm tới chức
Chánh đội trưởng, nhưng là người yêu nước, xưa đã từng ở hàng ngũ nghĩa
quân, chưa gây tội ác với nhân dân, nên đã gặp gỡ tuyên truyền bí mật gia
nhập Duy tân hội. Nhằm huấn luyện cho các hội viên hội Duy Tân biết kỹ
thuật quân sự và sử dụng vũ khí mới, ông lấy lý do thu nhận ỉính mới để bổ
sung cho lính già yếu. Ông tận tâm huấn luyện quân sự cho anh em để anh
em nhanh chóng có khả năng chỉ huy một đội nghĩa quân. Anh em cũng
hiểu rõ mục đích vào lính của mình nên tất thảy đều cố gắng học tập, tiến
bộ rất nhanh.
Tháng 5 năm Mậu Thân (1908) phong trào "Xin xâu”, "Chống thuế"
từ Quảng Nam lan ra Nghệ An, Hà Tĩnh khiến cho nhà cầm quyền Pháp và
Nam triều phải đối phó. Đội Phấn nhận định thời cơ khởi nghĩa đã đến,
ông chỉ huy trên 100 lính phản chiến, phối hợp với quân của Quản Truyền,
Quản Lại cũng bí mật gia nhập Duy tân hội như ông nổi dậy cướp thành Hà
Tĩnh là nơi ông đóng quân.
Song vào thời điểm 1907, 1908 thực dân Pháp và Nam triều đã ổn
định được bộ máy cai trị ở các tỉnh Trung Kỳ, Bắc Kỳ, vì vậy quân khởi
nghĩa chiếm thành được vài tiếng đồng hổ thì quân Pháp kéo đến phản
công, bao vây, tấn công quân khởi nghĩa quyết liệt. Quân khởi nghĩa ít,
trang bị kém nên chỉ cầm cự được vài tiếng, đồng đội của ông một số hy
sinh, một số bỏ chạy. Khi quân Pháp tràn được vào thành, Đội Phấn cùng
một số quân khởi nghĩa chạy thoát, đến ở một cơ sở bí mật của Duy tân
hội ở ngoài thành. Đội Phấn cùng các ông Lê Quyên, Ngô Đảng bí mật
chiêu mộ quân. Đội Phấn còn bí mật trở về Hà Tĩnh chiêu tập lính khố
xanh, khố đỏ Pháp cho giải ngũ và thanh niên yêu nước về căn cứ Bố Lư ở
huyện Thanh Chương để huấn luyện quân sự.
Sau những năm ở trong quân đội Pháp, Đội Phấn đã rút ra bài học là
quân không cốt ở đông, mà cốt ở tinh luyện, thành thục các động tác chiến
đấu biết lợi dụng địa hình, địa vật để bố trí trận đánh cho phù hợp để lấy ít
địch được nhiều, lấy vũ khí thô sơ thắng vũ khí hiện đại, vì vậy ông rất coi
trọng việc huấn luyện quân sự cho nghĩa quân. Đội Phấn còn đặc biệt quan
tâm đến trang bị vũ khí hiện đại cho nghĩa quân. Trong một trận chiến đấu
tại một đồn binh Pháp ở huyện Thanh Chương do Đội Phấn chủ quan nên
bị quân Pháp bắt. Song ông đã mưu trí đánh lừa giặc, giết lính canh rồi trốn
thoát. Ngày 16 tháng 2 năm 1910, Tòa án binh của thực dân Pháp kết án
ông tử hình vắng mặt.
Ông nhận thấy chiến đấu với quân Pháp nếu lực lượng của ta nhỏ
không thể thắng được, nên đã bàn với các ông Lê Quyên, Ngô Đảng sáp
nhập vào lực lượng nghĩa quân do Đặng Thái Thân lãnh đạo. Ồng đã chỉ
huy nghĩa quân chiến đấu với quân Pháp rất nhiều trận. Nghe đến tên Đội
Phấn là quân Pháp và quân Nam triều rất kinh hoàng.
Năm 1912, Phan Bội Châu tuyên bố giải thể Duy tân hội, thành lập
Việt Nam Quang Phục hội, Hội thành lập Phục quốc quân, Đội Phấn, Đội
Quyên chuyển sang hoạt động cho Việt Nam Quang Phục hội. Đội Phấn,
Đội Quyên đang tập hợp lực lượng để đánh thành Nghệ An, nhưng súng
đạn chưa đủ, còn phải đợi hàng tuần nữa để tìm cách cướp xưởng binh khí
của địch. Mật thám Pháp dò biết đem đại binh đến bao vây đồn bắt được
ông.
Ngày 3 tháng 7 năm 1916, giặc Pháp chém ông ở quán Thầu Dầu,
thành phố Vinh. Lúc ông bị giết có một người lính vệ binh tự tử theo.
HỒ PHI HUYỀN
Hồ Phi Huyền còn gọi là Hồ Phi Thống, ông là cháu năm đời Hồ
Phi Tích, là cháu ngoại tiến sĩ Văn Đức Giai, là con cử nhân Hồ Phi Tự -
một nhân vật quan trọng trong phong trào Cần vương ở Nghệ An.
Ông sinh năm 1879 tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ
An. Hồ Phi Huyền sớm nổi tiếng thông minh và cương trực.
Ông đậu cử nhân khoa thi Hương ở Nghệ An năm Canh Tý (1900)
khi 21 tuổi, đồng khoa với Phan Bội Châu.
Ông không ra làm quan mà hoạt động trong Duy tân hội và phong
trào Đông du do Phan Bội Châu khởi xướng và lãnh đạo. Ông bị thực dân
Pháp bắt và kết án tù.
Ra tù, khoảng từ 1910 đến 1915, Hồ Phi Huyền dạy học, làm thuốc
và viết sách.
Ông tổ chức các lớp học kiểu mới dạy cả chữ Hán, chữ Quốc ngữ,
toán, vẽ, thể dục, âm nhạc, đánh cờ. Thông qua sách báo của Lương Khải
Siêu, Khang Hữu Vy là các nhà cải cách lớn ở Trung Quốc, ông truyền bá
tư tưởng dân chủ và tinh thần yêu nước cho học sinh. Hồ Phi Huyền còn là
một nhà một nhà trước tác chủ yếu là về triết học, y học, văn học. Trong đó
"Nhân đạo quyền hành'' do ông soạn thảo từ năm 1920 bằng Hán văn đăng
trên Nam Phong, nãm 1929 dịch ra tiếng Việt đăng trên báo Thanh - Nghệ -
Tĩnh năm 1934, in thành sách năm 1936. Quyển sách mỏng có 100 trang
nhưng có tầm tư duy cao. Sách ra đời được nhiều người chú ý.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao phẩm chất và tư tưởng cũng
như trước tác của Hồ Phi Huyền.
Nhà văn Sơn Tùng đã ghi lại Hồi ký của ông Vũ Đình Huỳnh, Bí thư
của Hồ Chủ tịch từ Hội nghị Tân Trào.
Chuyện này xảy ra vào năm 1946 khi đất nước đang bị lâm nguy. Ở
phía Bắc thì từ biên giới Việt - Trung đến vĩ tuyến 16, 20 vạn quân Tưởng,
kéo theo bọn phản động tràn vào với âm mưu lật đổ Chính phủ Hồ Chí
Minh; ở phía Nam vĩ tuyến 16 trở vào thì giặc Pháp núp sau quân Anh - Ấn
gây hấn ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ. Giữa lúc đất nước đang lâm nguy
như vậy, Hồ Chủ tịch tìm đến tận phòng làm việc của ông Huỳnh. Bác bảo:
“Lần này có việc ủy thác chú đi mời đón một nhà túc nho thông thiên địa
nhân. Bậc nho sĩ này đồng khoa, đồng đạo với các cụ Đặng Nguyên Cẩn,
Ngô Đức Kế”. Tôi (V.Đ.H) đi đón khách... Bữa cơm đãi khách thật đạm
bạc mà ngon lành thanh khiết. Hồ Chủ tịch đón tiếp cụ Hồ Phi Huyền
không đơn thuần như một vị nhân sĩ, mà còn là một bậc thân tri cố cựu...
Mời cụ ra giúp nước, nhưng cụ biết mệnh phận không còn. Cụ phải thốt ra:
"Quốc gia đa cổ, các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Bùi Bằng
Đoàn đều ra gánh vác việc nước với cụ Hồ, tôi thì mệnh tận”. Tuy mệnh
tận, ra gặp Bác Hồ, khi bái biệt, cụ còn thưa: "Xin Chủ tịch lưu tâu, thời
mệnh trong thế cực này, chúng ta phải trải qua: thiên đô bảo chủ quốc tôn,
độn thổ trường kỳ kháng địch”. Sau đố cụ Hồ Phi Huyền trở về quê và
mất ngày 25 tháng 12 năm 1946, lời tiên tri bỏ thủ đô và kháng chiến
trường kỳ là đúng".
Ngoài tác phẩm "Nhân đạo quyền hành” Hồ Phi Huyền còn có các
tác phẩm "Y học toát yếu", "Đạm Trai văn tập", "Kỳ thuật" (dạy đánh cờ).
TÔN THẤT DOÃN
Tôn Thất Doãn sinh năm 1858. Sau khi học xong trường Quốc Tử
giám, ông được bổ nhiệm làm Thông phán ở dinh Tuần vũ Bình Thuận.
Năm 1905, Tôn Thất Doãn, Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang mà một số nhà
nho khác đã bí mật gặp gỡ Phan Chu Trinh trong chuyến cụ Phan vào các
tỉnh phía Nam tìm bạn đồng tâm.
Năm 1906 Tôn Thất Doãn được bổ làm Tri phủ Hòa Đa ở tỉnh Bình
Thuận. Cũng năm đó phong trào Đông du do Phan Bội Châu phát động,
phong trào Duy tân do Phan Chu Trinh phát động từ Quảng Nam lan tới
tỉnh Bình Thuận. Tôn Thất Doãn đã bí mật tham gia cả hai phong trào đó
và đã nhanh chóng trở thành một trong những người lãnh đạo phong trào
Đông du và Duy tân ở miền Nam Trung Kỳ. Tôn Thất Doãn là người lập
danh sách, cũng là người bảo quản danh sách những người tham gia phong
trào Đông du và phong trào Duy tân ở các tỉnh Nam Trung Kỳ đồng thời
quản lý phân phối các tài liệu bí mật như Hải Ngoại huyết thư, Lưu cầu
huyết lệ tân thư của Phan Bội Châu, Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ
Trạch.
Nắm vững phương châm hành động của phong trào Duy tân là: "Khai
dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh", Tôn Thất Doãn đã cùng các ông
Trương Gia Mô, Hồ Sĩ Tạo, Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh đứng ra
mở trường Dục Thanh và thành lập công ty Liên Thành ở Phan Thiết.
Năm 1908, Tôn Thất Doãn được Triều đình Huế bổ nhiệm làm tri
huyện Ninh Hòa. Cũng vào thời điểm đó, Trần Quý Cáp giáo thụ huyện
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam được điều về làm giáo thụ huyện Tân Định
cũng thuộc tỉnh Khánh Hòa. Từ đó hai người quen biết nhau và trở thành
đôi bạn thân thiết, thường cùng nhau bàn luận về thời cuộc, kể cho nhau
nghe những thủ đoạn áp bức, bóc lột nhân dân của thực dân Pháp và bè lũ
tay sai và bàn kế sách vận động nhân dân đấu tranh.
Thực dân Pháp giết hại Trần Quý Cáp, bắt giam các nhà yêu nước,
Tôn Thất Doãn vẫn bền bỉ, củng cố, phát triển phong trào Đông du và Duy
tân. Bọn cai trị Pháp biết ông vẫn hoạt động trong phong trào yêu nước,
song không có chứng cớ để bắt giam, liền buộc triều đình Huế đổi ông đi
nơi khác.
Đầu năm Tân Hợi (1911), Triều đình Huế bổ nhiệm ông làm tri phủ
Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Tôn Thất Doãn đã ủng hộ nông dân chống
cường hào địa chủ bóc lột tô tức. Những hành động bảo vệ dân của ông
không lọt qua được mắt chúng, Khâm sứ Trung Kỳ đòi Triều đình Huế
cách chức ông để có cớ bắt giam. Song ông nhờ có người em thúc bá là
Tôn Thất Hân làm Thượng thư Bộ Hình, phụ chính đại thần can thiệp với
tòa Khâm sứ, nên năm 1913 ông bị điều về kinh giữ chức Thừa chỉ Hàn
lâm viện. Tại đây ông lại chắp mối liên lạc với Phan Bội Châu đang ở
Trung Quốc và các hội viên Việt Nam Quang Phục hội ở Trung Kỳ.
Năm 1914, Tòa Khâm sứ Trung kỳ buộc triều đình Huế cách chức
ông. Trở về sống ở làng Kim Long, Tôn Thất Doãn lại bí mật liên lạc với
Thái Phiên, Trần Cao Vân... cùng những yếu nhân của Việt Nam Quang
Phục hội ở Nam Trung Kỳ.
Ngày 3 tháng 5 năm 1916, cuộc khởi nghĩa ở kinh thành Huế do Thái
Phiên, Trần Cao Vân lãnh đạo, có sự tham gia của vua Duy Tân thất bại,
Thái Phiên, Trần Cao Vân và nhiều yếu nhân khác của Việt Nam Quang
Phục hội bị xử chém. Vua Duy Tân bị đầy đi đảo Reunion. Tôn Thất Doãn
chán nản, âu sầu vì cảnh mất nước, dân làm nô lệ ông lâm bệnh. Ngày 12
tháng Chạp năm Đinh Tỵ (1/2/1918) ông mất ở tuổi 61.
VÕ HOÀNH
Võ Hoành hiệu Ngọc Tiên, sinh năm 1867 thuộc dòng dõi thế gia quê
ở làng Thịnh Liệt, tục gọi là làng Quang, huyện Thanh Đàm, tỉnh Hà Đông,
nay Thịnh Liệt thuộc huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Võ Hoành đi thi
mấy khoa nhưng không đỗ. Ông tham gia phong trào Đông Kinh nghĩa
thục, là hội viên Tán trợ, lãnh trách nhiệm cổ động và quyên tiền cho
trường. Ông còn giữ đầu mối liên lạc với các đồng chí ở trong nước với
nước ngoài.
Trường Đông Kinh nghĩa thục được thành lập từ chủ trương của
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh hai yếu nhân của hội Duy tân, nhưng
cũng là thủ lĩnh của hai xu hướng: bạo động và cải cách, nên trường cũng
tập hợp người của hai xu hướng đó. Võ Hoành được coi như người đứng
đầu phái theo xu hướng bạo động. Các ông không chỉ đơn thuần là dạy học
trò nâng cao kiến thức, mở mang dân trí, mà còn khơi dậy lòng yêu nữớc,
căm thù giặc hướng quốc dân đồng bào đi vào con đường vũ trang khởi
nghĩa
Những hoạt động tích cực của Võ Hoành đối với trường Đông Kinh
Nghĩa thục và trong các tầng lớp nhân dân như truyền bá văn thơ yêu nước
trong trường Đông Kinh Nghĩa thục, ngoài xã hội; quan hệ mật thiết với
những người có xu hướng bạo động, quyên góp tiền cho trường, ngợi ca
cuộc chiến đấu của Đề Thám của ông đã bị mật thám Pháp theo dõi. Sách
Đông Kinh nghĩa thục của Chương Thâu đã dẫn nhận xét về ông của thực
dân Pháp:
"Một phần tài liệu giảng dạy quan trọng ở trường Đông Kinh từ
nước ngoài gửi về, trong đó có những tác phẩm của Phan Bội Châu như
Hải ngoại huyết thư được nhà trường dịch ra ba thứ tiếng Hán, Nôm,
Quốc ngữ phổ biến rộng rãi. Theo dõi hoạt động của Đông Kinh nghĩa
thục, bọn mật thám phát hiện: "Cứ ba, bốn ngày một lần, Võ Hoành bí mật
tập hợp một số người tại nhà riêng để đọc tài liệu từ Hải ngoại gửi về và
mưu toan hưởng ứng cuộc bạo động của Phan Bội Châu tổ chức”.
Khi trường Đông Kinh nghĩa thục bị Phủ Thống sứ Bắc Kỳ giải tán,
Võ Hoành vẫn bí mật phân phát những tài liệu giảng dạy ở trường trong
các tầng lớp nhân dân ở Hà Nội. Cuối năm 1907 khi Thủ lĩnh cuộc khởi
nghĩa Yên Thế, Hoàng Hoa Thám cử Đội Hổ, Chánh Tỉnh, Chánh Song về
bắt liên lạc với ông và các ông Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Quyền, Đồ Đàm,
Đội Bình, Đội Nhân thành lập đảng Nghĩa Hưng ở Hà Nội thì Võ Hoành có
nhiều đóng góp quan trọng.
Khi vụ "Hà thành đầu độc" năm 1908 nổ ra Võ Hoành cũng nhiều
yếu nhân của trường Đông Kinh Nghĩa thục tham gia. "Vụ Hà Thành đầu
độc” thất bại, giặc Pháp bắt Võ Hoành kết án chung thân khổ sai đầy ra
Côn Đảo. Ông được tha trước thời hạn, năm 1909 nhưng bị bọn Pháp an trí
ở Sa Đéc. Tuy bị Pháp an trí, nhưng vẫn hăng hái hoạt động cách mạng.
Mặc dù bọn cầm quyền Pháp kiểm soát rất ngặt Võ Hoành vẫn liên lạc
được với Nguyễn Quyền bị an trí ở Bến Tre, Dương Bá Trạc bị an trí ở
Long Xuyên, Lương Văn Can bị an trí ở Nông Pênh. Năm 1914 cụ Nguyễn
Sinh Sắc, thân phụ Hồ Chủ tịch đã tới Sa Đéc gặp Võ Hoành, cùng gặp gỡ
các nhà chí sĩ ở Bắc Kỳ bị an trí ở Nam Kỳ để bàn kế hoạch tổ chức lực
lượng yêu nước và cũng để hỏi thăm tin tức của Nguyễn Ái Quốc...
HOÀNG TĂNG BÍ
Hoàng Tăng Bí tự là Nguyên Phu, sinh năm Tân Tỵ (1833) tại làng
Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà
Nội.
Ông thi đỗ Á nguyên khoa Bính Ngọ (1906), song không ra làm quan
mà tham gia phong trào Duy tân, đi các nơi diễn thuyết, hô hào Duy tân.
Ông tham gia Đông Kinh nghĩa thục từ đầu, sung vào ban giáo dục.
Ban này chia làm ba môn: Việt văn, Hán văn, Pháp văn. Hoàng Tăng Bí
cùng các ông Nguyễn Quyền, Vũ Trác, Hoàng Tích Phụng, Dương Bá
Trạc, Lương Trúc Đàm, Đào Nguyên Phổ dạy Hán văn.
Hoàng Tăng Bí còn tham gia giảng bài, bình thơ vàn yêu nước, diễn
thuyết ở trường Đông Kinh nghĩa thục, các phân hiệu ở Hà Nội, Hà Đông
về văn thơ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền và của
nhiều nhà hoạt động cách mạng khác từ Trung Quốc, Nhật Bản gửi về. Các
ông cũng đưa những bài văn thơ đăng trên Đăng cổ tùng báo và Đại Việt
Tân báo là cơ quan ngôn luận của trường. Ông là một diễn giả nổi tiếng của
Đông Kinh nghĩa thục.
Hoàng Tăng Bí cổ động cho việc phát triển công nghiệp thương
nghiệp để phát triển kinh tế của đất nước và là người thực liệm đã cùng
với Nguyễn Quyền mở cửa hàng Đông Thành Xương ở phố Hàng Gai vừa
buôn bán, vừa làm công nghệ. Ông là người đầu tiên dùng những khung
cửi rộng dệt xuyến hoa phù dung lớn rồi nhuộm đen. Hiệu buôn của ông
còn sao tẩm chế ra trà Tàu, trà mạn, trà hộp ướp sen và giấy hoa tiên để
cạnh tranh với hàng của Hoa kiều.
Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, ông thôi dạy học vẫn tiếp tục mở
mang thủ công nghệ, buôn bán và vẫn giữ liên lạc với các yếu nhân, giảng
viên Đông Kinh nghĩa thục đàm luận thời cuộc.
Khi vụ "Hà Thành đầu độc" nổ ra, thực dân Pháp đã gán cho những
yếu nhân của Đông Kinh nghĩa thục có liên quan chủ mưu trong vụ đầu độc
và liên kết với nghĩa quân Yên Thế đánh úp Hà Nội để bắt đưa đi đầy ở
Côn Đảo, an trí ở các tỉnh thuộc Nam Kỳ, Cao Miên. Hoàng Tăng Bí cũng
bị bắt, nhưng nhờ có nhạc gia là Cao Xuân Dục, Thượng thư bộ Hộ bảo
lãnh, được tha, chỉ bị an trí ở Huế. Tại đây ông học tiếng Pháp và Toán, trở
thành tinh thông.
Năm 1915 ông ra Hà Nội mở trường dạy học Pháp văn, Toán học,
Khoa học thường thức. Ông cũng dạy Việt văn ở trường Tư thục Gia Long
(sau đổi là Thăng Long).
Năm Canh Tuất, niên hiệu Duy Tân (1910), ông thi Hội, đậu Phó
bảng, nhưng không ra làm quan.
Ông viết báo và dịch các tiểu thuyết của Pháp như Paul et Virginie
của Bemadin de Saint-Pierri. Le conte de Monte Cristo đăng trên báo Trung
- Bắc tân văn mà ông làm trợ bút. Ông còn soạn các vở tuồng Đệ bát tài tử
hoa tiên ký (1913), Nghĩa nặng tình sâu (1926), Thù chồng nợ nước
(1927). Các vở tuồng của ông đều mượn tích xưa để kêu gọi đồng bào
vùng lên đánh đuổi quân thù.
Hoàng Tăng Bí qua đời năm 1939.
TRẦN QUÝ CÁP
Trần Quý Cáp còn có tên là Nghị, tự Dã Hàng, lại tự là Thích Phu,
hiệu Thai Xuyên. Ông sinh năm Canh Ngọ (1870), quê ở thôn Đài La, làng
Bát Nhị, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay là huyện
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Ông thông minh, học giỏi, nhưng thi Hương ba khóa chỉ đậu Tú tài.
Vì nhà nghèo, ông phải đi dạy học thêm ở nhà Bố chính Nguyễn Mại.
Trần Quý Cáp đỗ tú tài liền ba khóa, theo lệ coi như đã đỗ cử nhân,
được vào thi Hội. Ông đỗ Tam giáp tiến sĩ khoa Giáp Thìn (Thành Thái 16
năm 1904).
Trần Quý Cáp không muốn làm quan, mà dấn thân vào con đường
hoạt động cách mạng. Thời gian đầu Trần Quý Cáp thuộc nhóm Duy tân
hội (bạo động - cầu ngoại viện) của Phan Bội Châu. Song vì ông còn mẹ già
nên không theo Phan Bội Châu sang Nhật Đông du được. Trần Quý Cáp
hưởng ứng phong trào cải cách do Phan Chu Trinh khởi xướng và trở
thành một nhân vật nhiệt thành với sự nghiệp cải cách.
Năm Ất Tỵ (1905), ba nhà ái quốc Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp,
Huỳnh Thúc Kháng lên đường vào Nam du để tuyên truyền cách mạng,
quyên góp tiền vào quỹ Đông du.
Trường Thăng Bình là nơi Trần Quý Cáp được cử đến làm giáo thụ,
ông mở ngay lớp trong trường của nhà nước, mời thày về dạy chữ quốc
ngữ, chữ Pháp, học trò có vài trăm. Các hoạt động mở trường, diễn thuyết
do Trần Quý Cáp chủ trương diễn ra sôi động ở tỉnh Quảng Nam, khiến
cho bọn cầm quyền Pháp lo ngại.
Ngày 15 tháng 12 năm Duy Tân Thứ nhất (cuối tháng 1/1908), Tổng
đốc Quảng Nam là Hồ Đắc Trung có trát cho các tổng, xã trong tỉnh là theo
lời công sứ, Trần Quý Cáp, giáo thụ ở phủ Thăng Bình thường vận âu
phục, đi lại các xã đánh trống, tụ tập dân chúng diễn thuyết, từ nay cấm
Trần Quý Cáp không được làm như thế nữa. Đồng thời lệnh cho các tổng
lý thông báo cho dân biết từ nay không được đánh trống, tụ tập diễn thuyết,
ai trái lệnh sẽ bị nghiêm trị theo pháp luật, những lý dịch không thực hiện
nghiêm lệnh này cũng bị xử phạt. Ngay sau đó nhà cầm quyền Pháp đổi
Trần Quý Cáp vào Khánh Hòa.
Đầu tháng 5/1908 xảy ra việc chống thuế ở Quảng Nam. Giữa tháng
5/1908, Trần Quý Cáp từ Nha Trang gửí thư về cho bạn ở Quảng Nam,
trong đó có đoạn: "Cận văn ngô châu cử nhất, khoái sự ngô văn chi. Khoái
thậm! Khoái thậm!” (Gần đây tôi nghe ở tỉnh nhà, có làm được một việc
rất thú. Tôi nghe tin lấy làm khoái lắm! Khoái lắm).
Không ngờ thư bị kiểm duyệt, Phạm Ngọc Quát, Án sát Khánh Hòa
vốn xuất thân tú tài bị ông khinh miệt, tìm cách trả thù. Hắn báo việc này
với công sứ tỉnh Khánh Hòa là Bréda là nhân vụ chống thuế bắt ông. Hắn
không trình lên triều đình Huế, muốn nhân dịp này trừ ông để đánh phá
phong trào, vừa để trả thù ông khinh miệt hắn. Hắn thông đồng với công sứ
Bréda quan thày của hắn cho lính khám nhà ông. Chúng chỉ bắt được một
tấm bản đổ thế giới treo trên tường và tìm được bản "Hải ngoại huyết thư"
ở trong tráp. Tội trạng như thế cũng chưa đủ để kết án, song tên Việt gian
này đã làm án: "Gia trung quốc thế giới địa đồ bức, ý dục hà vi Sương nội
tàng Hải ngoại huyết thư nhất phong tịnh kỳ khả biến. Truy bạn trọng vị
hình, nhi bạn tâm dĩ súc kĩ. Kỳ y Trần Quý Cáp, nghĩ ưng xử trảm dĩ vi
mưu bạn giả giới” (Trên tường treo một bức bản đồ thế giới, ý muốn làm
gì? Trong tráp giấu một phong "Hải ngoại huyết thư" tình đà đủ thấy. Tuy
việc phản chưa hình thành nhưng lòng phản đã sẵn. Nghĩa nên xử chém, để
những bọn mưu phản làm gương).
Trần Quý Cáp bị bắt khiến dư luận phản ứng mạnh mẽ đòi đưa Trần
Quý Cáp ra xét xử công khai. Song tên công sứ Bréda và Phạm Ngọc Quát
đã vu khống cho Trần Quý Cáp tội "Có hành động tạo phản chống Nam
triều và Chính phủ Bảo hộ".
Phạm Ngọc Quát biết rõ với chứng cớ và lời lẽ trong thư, tấm bản
đồ và bản "Hải ngoại huyết thư" chưa thể xử chém, thế nào Tòa Khâm sứ
Trung Kỳ, Bộ Hình cũng can thiệp, hắn tính: “Làm sự đã rồi”, ngày
17/5/1908 nghĩa là 2 ngày sau khi Trần Quý Cáp bị bắt, hắn thông báo sẽ
xử theo hình thức "yêu trảm" nghĩa là chém ngang lưng ở bãi Sông Cạn bên
cầu Phước Thanh, tục gọi là "Gò chết chém", nơi mà 23 năm trước (1885),
giặc -Pháp đã chém Đề Phong (Trịnh Phong) thủ lĩnh phong trào Cần
vương tỉnh Khánh Hòa.
Trước khi bị chém ông ung dung đọc bài thơ Tuyệt mệnh.
"Ai mà sợ chết, chết như chơi
Chết cũng vì vua, chết bởi thời
Chết hiếu đã đành xương thịt nát,
Chết trunq bao quản cổ đầu rơi
Chết nhân tiếng để hiền muôn thuở
Chết nghĩa danh nêu biết mấy đời
Thà chết, chết trong hơn sống đục,
Ai mà sợ chết, chết như chơi.
Hôm đó là ngày 5 tháng 5 năm 1908, khi đó ông mới 38 tuổi.
TRƯƠNG GIA MÔ
Trương Gia Mô hiệu Cúc Nông, tự là Sư Thánh, sau đổi là Sư Quản,
biệt hiệu Hoài Huyền Tử, sinh năm 1806. Ông quê ở Gia Định, nhưng sinh
tại làng Hương Điểm, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay thuộc huyện
Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Tuy sinh ở Bến Tre, nhưng từ thời niên thiếu, Trương Gia Mô sống
ở Bình Thuận là chính khi cha ông đương chức Tuần vũ Thuận - Khánh.
Trương Gia Mô bẩm tính thông minh, học giỏi từ nhỏ và tìm đọc rất
nhiều loại sách, kể cả sách khoa học, công nghệ, ngoại thương của phương
Tây được dịch ra tiếng Hán. Nhờ đó ông tinh thông văn thơ, sử địa, kinh
tế, quân sự. Chính vì vậy mà nhân dân gọi ông là Nghè Mô.
Năm Nhâm Thìn (1892), Trương Gia Mô ra Huế được bổ làm thừa
phái bộ Công.
Tại bộ Công, ông có điều kiện tiếp xúc với các loại sách do các đoàn
đi sứ Trung Quốc, Pháp, Xingapo, Hương Cảng, Hồng Kông mang về.
Nhân thượng thư Nguyễn Trọng Hợp được cử đi Pháp đàm phán, Trương
Gia Mô gửi bản Điều trần lên vua Tự Đức xin triều đinh cải cách 5 việc:
1. Mở trường dạy học chữ Pháp ở các tỉnh. Dịch sách chữ Pháp và
chữ Trung Quốc ra chữ Quốc ngữ để phổ biến rộng rãi ra dân chúng.
2. Chấn hưng công nghệ thực nghiệp, mở rộng việc khai hoang,
chăm sóc, chữa bệnh cho bệnh nhân nghèo.
3. Cách chức bọn quan lại tham nhũng, sàng lọc bọn vô dụng trong bộ
máy công quyền.
4. Lập Nghị viện, mở báo quán để rộng đường dư luận.
5. Chỉnh đốn hương tục, đẩy mạnh việc giáo hóa trong xã hội, ngăn
ngừa sự đồi bại.
Để được trực tiếp quan sát, học hỏi kỹ nghệ phương Tây, đưa về ứng
dụng ở Việt Nam, ông làm đơn sung vào sứ đoàn đi Pháp, nhưng cả hai
việc ông đề xuất đều không được triều đình chấp nhận. Ông bất mãn, trao
trả ấn tín, từ quan về sống ở Lục tỉnh, sau đó lại trở ra Bình Thuận. Ông đã
cùng với Nguyễn Lộ Trạch mưu tính việc xuất dương nhưng việc không
thành.
Năm 1904, Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng
"Nam du" để liên kết đồng chí chuẩn bị cho ra đời Hội Duy tân đã dừng
chân ở Bình Thuận giao kết với Trương Gia Mô, cùng các thân sĩ hô hào
Duy tân, cải cách, tổ chức công ty Liên Thành, thành lập trường Dục
Thanh.
Năm Mậu Thân (1908), sau vụ chống thuế ở Quảng Nam, ông bị bọn
cầm quyền Pháp kết tội, tham gia vào tổ chức bí mật "đảng hội", bị chúng
bắt giam ở nhà lao Khánh Hòa. Nhà ông cũng bị lính của Án sát tỉnh Khánh
Hòa Phạm Ngọc Quát lục soát. Phạm Ngọc Quát không tìm được chứng cớ
buộc tội ông, nên phải thả ông. Ông trở về nhà lúc đã ngoài 40 tuổi, làm
nghề bốc thuốc chữa bệnh cho dân. Song ông vẫn bí mật liên lạc với Tri
phủ Tôn Thất Doãn và các đồng chí trong Duy tân hội ngấm ngầm xây
dựng lại phong trào.
Bình sinh Trương Gia Mô rất ghét giặc Pháp, ghét triều đình suy tàn.
Khoảng năm 1928 - 1929 ông tiếp xúc với Nguyễn Sinh Sắc. Theo nhân
dân miền Nam truyền lại thì khi Bảo Đại ở Pháp về làm vua, ông đi sắm
súng sáu để đón đường bắn chết. Việc không thành, ông bị giặc Pháp truy
bắt, ông ẩn mình ở núi Sam, tỉnh Châu Đốc, nay thuộc tỉnh An Giang. Ông
muốn tự tử, đốt cả thơ mình. Bị mật thám truy bức ráo riết ông không
muốn mình lọt vào tay chúng, đã leo lên tháp cao của pháo đài cổ, gieo
mình xuống vực sâu tự tử. Sự việc đó xảy ra vào năm 1929. Các báo Thần
Chung, Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn đưa tin và bình luận cái chết của ông với
sự kính trọng và thương tiếc. Mộ ông chôn ở chân núi Sam.
BÙI LIÊM
Bùi Liêm sinh năm 1881, người làng Giáp Nhị, xã Thịnh Liệt, huyện
Thanh Trì, Hà Nội. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng,
song ông dự một khoa thi Hương nhưng không đỗ. Họ hàng có nhiều
người làm quan, đưa ông vào học ở trường Hậu bổ, nhưng ông từ chối,
liên lạc với các nhà nho yêu nước tìm đường cứu nước. Ông kết bạn với
Phan Tuấn Phong ở làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm.
Năm 1907, Phan Tuấn Phong giới thiệu Bùi Liêm tham gia Đông
Kinh nghĩa thục. Bùi Liêm nhận thấy Thái Bình là nơi có phong trào Văn
thân chống Pháp từ cuối thế kỷ XIX, phong trào Đông du, phong trào Đông
Kinh nghĩa thục phát triển, nơi có nhiều trường học dạy theo chương trình
của trường Đông Kinh nghĩa thục, nên liền về huyện Thụy Anh, tỉnh Thái
Bình mở một cửa hàng Tạp hóa vừa để kinh doanh sinh sống, vừa là nơi
liên lạc với các nhà nho yêu nước ở Thái Bình, Nam Định, vừa lấy tiền
ủng hộ những người xuất dương Đông du. Sau khi Đông Kinh nghĩa thục
bị đóng cửa, Bùi Liêm tham gia phong trào Đông du của Phan Bội Châu.
Giữa năm 1912, nghe tin Việt Nam Quang Phục hội thành lập, Bùi
Liêm cùng Đinh Trọng Liên, Nguyễn Quang Uyên (tức Hồ Hải Thu)... trốn
sang Trung Quốc tham gia Việt Nam Quang Phục hội.
Năm 1913, Trung ương Quang Phục Hội cử Nguyễn Trọng Thường,
Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Khắc Cần, Phạm Văn Tráng về nước ám sát
Toàn quyền Albert Sarraut, Hoàng Trọng Phu, Nguyễn Duy Hàn không đạt
kết quả mĩ mãn. Năm 1915 Quang Phục Hội lại cử Hoàng Trọng Mậu
(Nguyễn Đức Công), Nguyễn Hải Thần, Trần Hữu Lực (Nguyễn Thúc
Đường)... về đánh đồn Tả Lùng. Vì sai lầm của Nguyễn Hải Thần trận
đánh thất bại, Trần Hữu Lực bị bắt ở Hương Cảng, Hoàng Trọng Mậu bị
bắt ở Băng Cốc, rồi hai ông bị xử bắn ở Bạch Mai.
Sau một số lần thất bại, năm 1916 Việt Nam Quang Phục hội lại cử
Bùi Liêm và một số đồng chí về nước gây dựng phong trào, nhưng trên
đường về nước Bùi Liêm tới Quảng Châu thì bị mật thám bắt giải về nước.
Tại Tòa án Đại hình ngày 6 tháng 11 năm 1916, Bùi Liêm bị giặc
Pháp xử bắn tại thành phố Nam Định - là nơi ông tham gia hoạt động.
Trước khi chết ông có thư tạ tội cùng bố, vì đã không giữ trọn đạo
hiếu phụng dưỡng cha già. Trong thư có hai câu nói lên chí hướng của
mình:
"Sinh bất tiêm cừu chung hữu hậu
Tử nhu đắc sở thị hoàn danh"
Dịch:
Sống chẳng diệt thù ôm hận mãi
Chết mà đúng chỗ ấy danh thơm.
LÊ ĐÌNH CẨN
Lê Đình Cẩn còn gọi là Lê Cẩn sinh năm Canh Ngọ (1870), người xã
Hòa Vinh, huyện Chương Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, nay Hòa Nghĩa thuộc
huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi.
Lê Đình Cẩn là người thông minh, hiếu học. Ông đậu cử nhân khoa
thi Hương năm Quý Mão, Thành Thái thứ 15 (1903) tại trường thi Bình
Định, năm 34 tuổi, cùng khóa với Nguyễn Thụy (Nguyễn Sụy). Ông được
bổ làm Huấn đạo huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
Sau ông chán cảnh triều đình Huế ngày càng lệ thuộc vào thực dân
Pháp, tiếp tay cho chúng đàn áp các phong trào chống Pháp của nhân dân.
Vì vậy ông từ quan trở về kết giao với các nhân sĩ mưu việc cứu nước.
Ông hăng hái tham gia cuộc khởi nghĩa do Trần Du lãnh đạo.
Năm 1905, 1906, Lê Đình Cẩn tham gia phong trào Duy tân và Đông
Du. Ông là một trong số ít người được Phan Bội Châu bàn bạc về Cương
lĩnh chương trình hoạt động của Hội và có nhiều đóng góp tích cực cho sự
ra đời của Duy tân hội và phong trào Đông Du.
Năm 1908 nổ ra cuộc chống thuế quyết liệt ở các tỉnh Quảng Nam,
Quảng Ngãi, ông tích cực tham gia, trở thành một trong số người lãnh đạo
chủ chốt của phong trào này. Lê Đình Cẩn đã cùng Lê Khiết, Nguyễn Bá
Loan, cử Thụy, Tú Chẩm... đi khắp 6 phủ huyện phát động nhân dân nổi
dậy chống thuế rầm rộ ở Quảng Ngãi, trở thành cao trào kéo về vây thành
Quảng Ngãi tới 10 ngày và trừng trị bọn tay sai của giặc Pháp.
Khi giặc Pháp đàn áp, ông bị giặc Pháp bắt cùng với các ông Lê
Khiết, Nguyễn Bá Loan, cử nhân Nguyễn Thụy, cử Quảng, tú tài Nguyễn
Cao Chẩm... Khi bị bắt, ông vẫn ngang nhiên chửi thẳng vào mặt tên tay sai
đầu sỏ Nguyễn Thân. Giặc Pháp đưa ông về giam ở nhà lao Quảng Ngãi
cùng với Cử Thụy, Tú Chẩm, Tú Tuyên, Cử Quảng, huyện Mai để chờ đưa
đi đầy ở Côn Đảo. Tại nhà lao, Lê Đình cẩn làm bài thơ chữ Hán:
"Cố quốc sơn hà trọng
Tân triều thế lực khinh
Hùng tâm vinh đỉnh hoạch
Tô mộng đoạn nghê kình
Dục liệu Cao trường khấp
Ninh tri Cát bất thành
Túng nhiên lưu nhiệt huyết
Đồng loại hấp văn minh"
Cụ Huỳnh Thúc Kháng dịch và in trong tập Thi tù tùng thoại:
"Non sông ơn vẫn nặng
Sóng gió cuộc vừa xoay
Vạc lửa lòng quên sợ
Tăm kình mộng đuổi ngay
Khóc đời Cao chư chán(1)
Hỏng việc Cát nào hay(2)
Máu nóng đầu trôi chảy
Văn minh hấp cả bầy".
(1) Cao Sơn Chinh Chí
(2) Cát Điền là nhân vật Duy tân Nhật Bản.
Lê Đình cẩn bị chết ở Côn Đảo năm 1915 (Tú Quang cũng bị chết,
Nguyễn Cao Chẩm bị bọn chúa đảo sát hại tại đảo).
HOÀNG XUÂN HÀNH
Hoàng Xuân Hành còn gọi là Giám Hành vì con đầu ông tên là Giám,
nhân dân thường gọi là cố Giám Hành. Quê ông ở làng Hoàng Trù tổng
Lâm Thịnh, huyện Nam Thanh, tỉnh Nghệ An, nay thuộc xã Kim Liên,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Hoàng Xuân Hành thông minh, văn thơ
hay, nhưng mấy lần lều chõng đi thi đều bị trượt vì phạm quy. Ông làm
thày đồ ở các làng Dương Phổ, Phù Long.
Nam Đàn là địa phương đầu tiên ở Nghệ An có tổ chức Duy Tân hội
do các ông Hoàng Xuân Hành cùng các ông cử nhân Vương Thúc Quý,
Trần Văn Lương, Vương Thúc Nghiêm... thành lập. Hoàng Xuân Hành là
người dìu dắt Nguyễn Thị Thanh, con của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh sắc
vào tổ chức Duy Tân hội.
Ông được Phan Bội Châu tin cậy cử đi Yên Thế cùng với các ông
Phạm Văn Ngôn, Vương Thúc Nghiêm, xây dựng đồn điền Tú Nghệ. Ít lâu
sau Phan Bội Châu lại điều ông về Nghệ An cùng với các ông Đội Quyên,
Đội Phấn, Thần Sơn Ngô Quảng, Lang Sơn... xây dựng căn cứ chống Pháp
ở Bố Lư (Thanh Chương) và Đông Hồ (Tân Kỳ). Hoàng Xuân Hành cùng
các đồng chí đã phân phát những lời kêu gọi, những vần thơ ứa máu và
nước mắt của cụ Phan như Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư,
Khuyến quốc dân trợ tư dư học... đã khơi dậy lòng căm thù giặc Pháp, lòng
yêu nước thiết tha của các nho sinh, thanh niên, nhân dân huyện Nam Đàn.
Hoàng Xuân Hành cùng các yếu nhân khác của Duy tân hội và phong
trào Đông du đã vận động được nhiều thanh niên xuất dương như Vương
Thúc Thoại, Vương Thúc Oánh, Nguyễn Sinh Khánh, Hoàng Tộ...
Năm 1911 cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thành công, năm 1912,
Phan Bội Châu triệu tập các yếu nhân của Duy tân hội và phong trào Đông
du ở trong nước, ở Trung Hoa, Xiêm La thành lập Việt Nam Quang Phục
hội, Phục Quốc quân xây dựng lực lượng vũ trang ở trong nước và ở
Trung Hoa. Hai căn cứ Bố Lư và Đông Hồ được củng cố. Hoàng Xuân
Hành tích cực hoạt động trong tổ chức này. Phong trào đấu tranh chống
thực dân Pháp ngày càng quyết liệt, nhất là ở làng Dương Phổ nơi ông
ngồi dạy học.
Năm 1914 ở đây đã nổ ra phong trào đánh Tây chống áp bức bất
công. Phong trào công khai chống thực dân Pháp và Nam triều ở Dương
Phổ được các làng Mỹ Thiện, Vạn Lộc, Xuân La noi gương.
Năm 1915 Hoàng Xuân Hành về hoạt động ở thôn Mỹ Thiện, xã
Tràng Cát, nay là xã Nam Cát, giáp xã Kim Liên về phía Đông. Do một học
trò cũ phản bội chỉ điểm cho giặc Pháp, Hoàng Xuân Hành bị mật thám bắt
giải về Vinh. Khi chúng giải đến địa phận huyện Hưng Nguyên, ông cắn
lưỡi tự tử, song không chết. Chúng giải ông đến nhà lao Vinh, ông tuyệt
thực luôn 9 ngày đêm. Giặc tra tấn ông bằng những đòn dã man, tàn bạo,
cũng không lấy được một lời khai. Ngay kẻ thù cũng phải khiếp phục lòng
kiên trinh, bất khuất của ông. Tòa án thực dân kết án ông tù 10 năm, đầy đi
Lao Bảo.
Năm 1925 Hoàng Xuân Hành được trả tự do. Nghe tin Phan Bội
Châu bị quản thúc ở Huế, ông vào ngay Huế thăm người lãnh tụ của phong
trào chống Pháp đầu thế kỷ XX.
Hoàng Xuân Hành đã cùng các ông Huỳnh Thúc Kháng, Trần Hoành,
Phạm Nghị, Trần Đình Phiên và hai con trai của ông là Phan Nghi Huynh,
Phan Nghi Đệ khâm liệm chôn cất ông Phan chu đáo. Ông còn ở lại chăm
sóc phần mộ cho cụ Phan cho đến khi cải táng mới trở về quê. Về tới nhà
được ba tuần, đúng ngày rằm tháng 10 năm Nhâm Ngọ (22/12/1942)
Hoàng Xuân Hành từ biệt cõi đời.
LƯƠNG VĂN CAN
Lương Văn Can tự là Hiếu Liêm, hiệu Ôn Như sinh năm 1854, người
làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Đông nay là huyện Thường
Tín tỉnh Hà Tây.
Ông sinh trưởng trong một nhà nho có truyền thống khoa bảng. Gia
đình có nhà ở số 4 Hàng Đào, Hà Nội, mặt sau là số 10 phố Hàng Quạt.
Lương Văn Can thông minh từ nhỏ theo học cử nhân làng Vũ Thạch
là một trường rất nổi tiếng, có đến hàng ngàn học trò (nay là số 7 Tràng
Thi).
Năm Lương Văn Can 17 tuổi đã thi Hương vào Tam trường, năm
1871 đỗ cử nhân. Năm 1872 ông thi Hội không đỗ. Triều đình cử làm giáo
thụ phủ Hoài Đức, ông không nhận.
Khi thực dân Pháp ổn định được bộ máy cai trị ở Hà Nội mời ông ra
làm uỷ viên Hội đồng Thành phố, ông cũng không nhận, ở nhà dạy học,
nuôi chí.
Lương Văn Can thấy đất nước ngày càng suy vong, ông mở trường
dạy học ở số 4 phố Hàng Đào. Đây cũng là nơi lui tới của các chí sĩ như
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Quyền,
Lê Đại, Dương Bá Trạc... thường đến xướng hoạ văn thơ, đọc tân thư, tân
văn, đàm đạo công việc cứu nước.
Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc... cùng các yếu
nhân khác đã tích cực triển khai việc mở trường Đông Kinh Nghĩa thục ở
Hà Nội...
Cử nhân Lương Văn Can, 53 tuổi là người nhiều tuổi nhất trong số
sĩ phu sáng lập được bầu làm Thục trưởng phụ trách Ban Tu thư, Nguyễn
Quyền được bầu làm Giám học.
Tháng 12 năm 1907 Phủ Thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh đóng cửa trường.
Năm sau chúng bắt các ông Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bá
Trạc, Lê Đại, tịch thu sách vở, tài liệu của trường. Tuy vậy thực dân Pháp
không đủ chứng cứ kết tội nên phải thả. Song chúng vẫn cho mật thám
giám sát chặt chẽ.
Năm 1908 nhân Vụ Hà thành đầu độc, thực dân Pháp liên tục bắt
Lương Văn Can, giám học Nguyễn Quyền cùng các giảng viên khác xét hỏi
ở Sở Liêm phóng. Chúng căn vặn Lương Văn Can nhiều vấn đề, nhưng
trước sau ông chỉ ôn tồn đáp: "Chúng tôi mở trường Nghĩa thục để giúp
Chính phủ khai hóa dân trí và Chính phủ đã cho phép. Từ khi Chính phủ
rút phép, thì chúng tôi không hoạt động gì nữa!”'. Không có lý do để bắt
giữ ông, hơn nữa trông ông đã già, râu tóc bạc trắng như đã 70 tuổi, chúng
buộc phải thả, nhưng vẫn giám sát chặt chẽ.
Năm 1913 sau vụ chiến sĩ Việt Nam Quang Phục hội ném bom vào
khách sạn "Con gà vàng’’ (ngày 23 tháng 4), thực dân Pháp bắt giam tới
mấy trăm người, chúng cho là do nhóm Đông Kinh nghĩa thục chủ trương,
nên bắt giam Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Lê Đại, Dương Bá Trạc,
Nguyễn Cảnh Lâm và nhiều giảng viên khác. Chúng kết án Lương Văn
Can 10 năm biệt xứ, đưa đi an trí ở Phnom Pênh.
Năm 1924, sau 9 năm bị an trí ở ông mới được trở về nước. Trong
thời gian trở về Hà Nội, Lương Văn Can để hết tâm lực vào soạn các bộ
sách: Quốc sự phạm lịch sử ấu học, Tùng đàm và dịch các bộ sách Luận
ngữ, Mạnh Tử. Ông còn có mối liên hệ mật thiết với các nhà cách mạng
như Nguyễn Mậu Cường ở Thái Bình, Phan Bội Châu bị an trí ở Huế,
Huỳnh Thúc Kháng...
Sáu giờ sáng ngày 13 tháng 5 năm Đinh Mão (12/6/1927), Lương
Văn Can mất đột ngột.
NGUYỄN QUYỀN
Nguyễn Quyền sinh năm 1869, quê ở làng Thượng Trì, tục gọi là
làng Đìa, tổng Thượng Mão, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc
xã Hoài Thượng huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông thi đỗ tú tài khoa
Tân Mão (1891).
Cuối năm 1905, ông được bổ nhiệm làm Huấn đạo Phủ Lạng. Gọi là
Phủ, nhưng chỉ là tỉnh nhỏ Lạng Sơn, vì quan Tổng đốc Lạng Sơn là Vi
Văn Lý (con trai Vi Văn Định) tư xin phủ Thống sứ bổ cho một quan giáo
chức là dạy học trò bản tỉnh. Vì vậy phủ Thống sứ mới bổ nhiệm ông.
Nguyễn Quyền dạy học, nhưng học trò ít lắm, nên có thời giờ đọc Tân thư
của Trung Quốc, do chí sĩ Duy tân Trung Quốc soạn hoặc dịch của các
nước châu Âu, châu Mỹ như "Trung Quốc hồn”, "Quần kỹ quyền giới
luận”. Ông cũng đã tiếp thu được những tư tưởng tân tiến trong Tân thư.
Qua một số lần tiếp xúc của Nguyễn Quyền với Lương Văn Can và
một số nhà nho yêu nước khác, các cụ đã quyết định mở trường nghĩa thục
tại Hà Nội, đặt tên là Đông Kinh nghĩa thục. Với lòng thiết tha đào tạo
nhân tài cho đất nước, Nguyễn Quyền từ chức đốc học Lạng Sơn về Hà
Nội tổ chức trường. Lương Văn Can được cử làm thục trưởng, Nguyễn
Quyền khi đó 38 tuổi được cử làm giám học. Hai ông là những người đứng
mũi chịu sào, chèo lái con thuyền Đông Kinh nghĩa thục.
Những hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục khiến cho thực dân Pháp
tức tối.
Vì vậy cuối năm 1907, phủ Thống sứ Bắc Kỳ đã ra quyết định rút
giấy phép của Đông Kinh nghĩa thục lấy cớ trường này đã làm náo động
lòng dân, cấm các cuộc diễn thuyết bình văn, tài liệu của Đông Kinh nghĩa
thục bị tịch thu. Đông Kinh nghĩa thục giải tán ít lâu, Thống sứ Bắc Kỳ
buộc Nguyễn Quyền trở lại ty giáo huấn với chức vụ giáo thụ phủ Phù
Ninh, tỉnh Phú Thọ. Nguyễn Quyền về nhận chức giáo thụ ở Phù Ninh
được một tháng thì bị giặc Pháp bắt giải về Hà Nội, giam ở Hỏa Lò. Các
ông Lê Đại, Võ Hoành, Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí... cũng đều bị bắt.
Nguyễn Quyền bị giam ở Hỏa Lò 9 tháng thì cùng các ông trên bị Pháp đưa
ra Hội đồng Đề hình (Comission criminelle) xét xử. Hội đồng này khép
Nguyễn Quyền vào án "Trảm giam hậu” sau đổi thành án khổ sai chung
thân đầy ra Côn Đảo vào năm 1909.
Năm 1930, Nguyễn Quyền được trả tự do được coi là "Cứu xét vô
can" (Xét ra không can phạm tội gì) nhưng bị an trí ở tỉnh lỵ Bến Tre,
Dương Bá Trạc ở Long Xuyên, Võ Hoành ở Sa Đéc, Hoàng Tăng Bí ở
Huế, Phan Chu Trinh ở Mỹ Tho.
Nguyễn Quyền bị an trí, song vẫn nặng lòng yêu nước, vẫn giao du
với những nhà chí sĩ yêu nước trong vùng lục tỉnh, mở tiệm may tại thị xã
Bến Tre làm nơi giao thiệp, liên lạc với bên ngoài, vận động quần chúng
góp tiền bạc gửi sang Nhật giúp Phan Bội Châu.
Năm 1941, Nguyễn Quyền bị bệnh bướu ở cổ. Vào 12 giờ đêm ngày
24-6 năm Tân Tỵ (18-7-1941) ông từ trần. Mộ táng ở làng Tân Xuân gần
xã Rạch Vạc, tỉnh Sa Đéc).
PHẠM TƯ TRỰC
Phạm Tư Trực hồi nhỏ có tên là Phạm Đăng Thê, tự Bang Phu, hiệu
Trọng Thăng Tử, là con ông Phạm Hải, sinh quán ở làng Hoàng Xá, nay
thuộc xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Thuở nhỏ Phạm Tư
Trực chăm học, lại chăm lo việc nhà nông. Ông đỗ tú tài liền hai khoa Canh
Tý (1900) và Quý Mão (1903). Đến khoa Bính Ngọ (1906) ông đỗ cử nhân
thủ khoa. Thấy ông là người tài giỏi, chữ đẹp, Hoàng Cao Khải mời ép ông
về tư dinh ở Thái Hà ấp chép hộ tập thơ chữ Hán, nhưng thực ra là dụ dỗ
ông là làm quan dưới quyền hắn. Phạm Tư Trực lấy cớ còn mẹ già, kiên
quyết từ chối xin về. Phủ Thống sứ Bắc Kỳ bổ nhiệm ông làm huấn đạo
huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
Vốn sẵn lòng yêu nước, ông đã bí mật liên lạc với cử nhân Lương
Văn Can, huấn đạo Nguyễn Quyền, hoàng giáp Đào Nguyên Phổ và một số
nhà nho khác thành lập trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội. Ông được
cử vào ban Tu thư viết và dịch sách giảng dạy ở nhà trường và dùng làm tài
liệu trong các buổi diễn thuyết cổ súy tân học, bình văn thơ yêu nước. Phủ
Thống sứ Bắc Kỳ cấp giấy phép cho trường không thể vừa cấp xong đã
thu hồi, để đối phó, phủ Thống sứ cũng thành lập ban tu thư, do ông làm
trưởng ban, buộc ông viết một cuốn Lịch sử Việt Nam.
Ông đã làm bài thơ chứa chan niềm tự hào dân tộc trong các cuộc
chiến thắng ngoại xâm trong lịch sử, thực dân Pháp bèn cách chức trưởng
ban tu thư ở phủ thống sứ của ông trả về làm huấn đạo huyện Thanh Miện.
Trong khi giữ chức Huấn đạo ở huyện Thanh Miện, Phạm Tư Trực
vẫn làm nhiệm vụ ở ban tu thư. Ông sáng tác thơ văn theo tôn chỉ của
trường là ca ngợi tinh thần bất khuất của Tổ tiên trong sự nghiệp đánh giặc
cứu nước, khuyên mọi người đồng tâm đồng sức cứu nước.
Lời thơ của Phạm Tư Trực có những câu cứng như thép, quyết liệt
được thể hiện trong bài Cải cách lối học:
Chí làm trai đứng trong trời đất
Phải sao cho tỏ mặt non sông
Kìa kìa mấy bậc anh hùng
Cũng vì thuở trước học không sai đường
Cuộc hoàn hải liệt cường tranh cạnh
Mở trí dân giàu mạnh biết bao
Nước Nam học vấn thế nào
Chẳng lo bỏ dại lẽ nào còn khôn
Chữ quốc ngữ là hồn trong nước
Phải đem ra tỉnh trước dân ta
Sách các nước, sách Chi-na
Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ tường.
Nhưng trong bài thơ "Mẹ khuyên con'' thì lời thơ lại nhỏ nhẹ, tâm
tình, đúng là tiếng tâm sự thủ thỉ của mẹ hiền:
Con làm sao cho thù báo nghĩa đền
Cho yên việc nước kẻo phiền mẹ cha
Con làm sao cho ích nước lợi nhà
Nước kia có vẹn thì nhà mới xong
Con làm sao, cho nổi tiếng Lạc Hồng
Văn minh đôi chữ đọ cùng Á, Âu.
Phạm Tư Trực còn dịch nhiều sách chữ Hán ra chữ Nôm như sách
Đại học, Luận Ngữ, Kinh thi. Ông biên soạn các sách Ấu tân học thư, Nam
quốc lịch sử giáo khoa thư, Tu thân, Luân lý giáo khoa thư.
Trong khi tham gia hoạt động ở Đông Kinh nghĩa thục, Phạm Tư
Trực vẫn bí mật liên lạc với phong trào Đông du do Phan Bội Châu tổ chức.
Phạm Tư Trực mất ngày 15 tháng 3 năm Tân Dậu (1921) tại quê nhà,
thọ 53 tuổi.
PHAN TUẤN PHONG
Phan Tuấn Phong là anh cả Phan Văn Trường quê ở làng Đông Ngạc
(Vẽ) huyện Từ Liêm, Hà Nội, ông cùng là Phan Trọng Kiên tham gia phong
trào Đông Kinh nghĩa thục.
Sách "Đông Kinh nghĩa thục" của Chương Thâu viết về hoạt động
của Phan Tuấn Phong đối với trường Đông Kinh nghĩa thục như sau:
"...Ngoài ra còn có nhiều hội viên tán trợ như: Đào Nguyên Phổ, Phan
Tuấn Phong, Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Lê Đại, Vũ Hoành, Nguyễn
Hữu Cầu, Phạm Tất Tuân v.v...”
Phan Tuấn Phong thường có mặt ở Chèm, nơi có đông đảo nhân dân
tham gia phong trào Đông Kinh nghĩa thục. Đề phòng bọn cầm quyền Pháp
khủng bố những người tham gia, lập một tổ chức bí mật ở một hiệu thuốc
Bắc trên bờ đê sông Hổng, làm nơi hội họp nghe bình thơ văn, diễn thuyết.
Phan Chu Trinh, Lương Trúc Đàm thường về diễn thuyết bình văn.
Khi Bùi Liêm về Thái Bình cùng các ông Đào Nguyên Phổ, Ngô
Quang Đoan, Phạm Tư Trực mở một trường Đông Kinh nghĩa thục ở Thái
Bình, Phan Tuấn Phong cũng hết sức khuyến khích, cung cấp một số tài
liệu giảng dạy, học tập.
Để có tiền ủng hộ những người xuất dương Đông Du, Bùi Liêm về
huyện Thụy Anh mở cửa hàng Tạp hóa thì Phan Tuấn Phong cũng về giúp
ông tiền vốn, kinh nghiệm kinh doanh.
Phan Tuấn Phong là một trong những người phụ trách phân hiệu
Chèm-Vẽ. Sách Đông Kinh nghĩa thục của Chương Thâu viết: "Ở làng
Chèm (Từ Liêm) nhân dân tham gia phong trào khá đông. Họ tổ chức
những buổi bình thơ văn, kích động lòng yêu nước. Ở đây họ lập một tổ
chức yêu nước hoạt động bí mật đặt trụ sở ở hiệu thuốc Bắc ngay bờ để
làm nơi tụ họp. Phan Chu Trinh, Hoàng Tăng Bí cũng thường về đây diễn
thuyết, bình văn".
Phan Tuấn Phong là bạn thân với Bùi Liêm quê ở xã Thịnh Liệt,
huyện Thanh Trì. Biết Bùi Liêm không vào học trường Hậu bổ để ra làm
quan, từ năm 1907, Tuấn Phong đã giới thiệu Bùi Liêm vào Đông Kinh
nghĩa thục. Sau Bùi Liêm sang Trung Quốc tham gia Việt Nam Quang Phục
hội. Năm 1916 nhận lệnh về nước hoạt động, đến Quảng Châu thì bị mật
thám Pháp bắt và xử tử hình ngày 6/11/1916 tại thị xã Nam Định.
Sau khi Phủ Thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh giải tán Đông Kinh nghĩa thục,
hiệu thuốc bắc ở làng Chèm cùng nhà nhiều hội viên bị khám xét.
Sau vụ Hà Thành đầu độc ngày 27/5/1908, thực dân Pháp bắt hết các
nhà sáng lập, giảng dạy, ủng hộ Đông Kinh nghĩa thục. Phan Tuấn Phong
cùng với anh trai là Phan Trọng Kiên bị bắt.
Lịch sử Việt Nam từ năm 1897 đến 1918 cũng viết: "Hoàng Hoa
Thám dã lập ra đảng Nghĩa Hưng gồm những nhân vật chủ yếu như Chánh
Tỉnh (tức Chánh Sòng), Nguyễn Viết Hanh, tức Đội Hổ, Lý Nho, Đỗ Hà
Nam tức Đồ Đản, Nguyễn Văn Phúc, tức Lang Seo. Họ tản về các tỉnh,
nhất là về Hà Nội bắt liên lạc với các nhà yêu nước của Đông Kinh nghĩa
thục như Lê Đại, Phan Tuấn Phong, Hoàng Tăng Bí, Vũ Hoành".
Phan Tuấn Phong bị thực dân Pháp đày ra Côn Đảo từ năm 1909, đến
năm 1911 thì được tha, đưa về đất liền, xác bị quăng xuống biển.
NGHIÊM XUÂN QUẢNG
Nghiêm Xuân Quảng sinh năm 1869, người xã Tây Mỗ nay là thôn
Tây Mỗ, xã Tây Mỗ, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Ông đỗ cử nhân khoa Giáp Ngọ (1894), đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Ất Mùi, niên hiệu Thành Thái 7 (1895) năm 26 tuổi.
Lúc đầu bổ làm tri huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Hai năm sau, năm
1897 ông cáo quan về rồi lại ra Hậu bổ Hưng Hóa, lần lượt giữ các chức
đốc học Hưng Yên, Án sát Lạng Sơn. Nghiêm Xuân Quảng là một trong
bốn người sáng lập ra Đông Kinh nghĩa thục.
Đông Kinh nghĩa thục thành lập ở Hà Nội, Nghiêm Xuân Quảng đang
làm Án sát tỉnh Lạng Sơn, từ quan về Hà Nội cùng Lương Văn Can và các
yếu nhân khác xây dựng trường. Các ông chủ trương xây dựng trường
nghĩa thục ở Hà Nội thật tốt, rồi mở rộng ra chung quanh. Nghiêm Xuân
Quảng thành lập một phân hiệu Đông Kinh nghĩa thục ở Tây Mỗ, làng của
mình. Phân hiệu do các ông Tú Kình, Đỗ Đàm, Nguyễn Hữu Đạm, Bá
Quýnh, Nguyễn Văn Khuyên phụ trách.
Nghiêm Xuân Quảng xuất thân nhà nho, làm tới Đốc học, Án sát,
nhưng do đọc nhiều tân thư, tân báo, tiếp xúc với các nhà nho tiến bộ như
Nguyễn Thượng Hiền, Lương Văn Can, Phan Chu Trinh, Nguyễn Quyền...
nên có lòng yêu nước. Ông quan điểm muốn cho dân giầu nước mạnh, thì
phải mở mang công nghiệp, thương nghiệp. Đó cũng là mục hàng đầu
trong cuốn "Quốc dân độc bản”, tài liệu giảng dạy của Đông Kinh nghĩa
thục. Vì vậy mà các yếu nhân của Đông Kinh nghĩa thục, các sĩ phu yêu
nước từ Nghiêm Xuân Quảng, Đỗ Quang Cơ, Ngô Quang Đoan, Hoàng
Tăng Bí... chẳng những chỉ giảng dạy về phát triển công nghiệp, thương
nghiệp mà chính các ông cũng mở xưởng công nghệ, mở công ty thương
nghiệp như Nghiêm Xuân Quảng thành lập công ty Nghiêm Xuân Quảng ở
Thái Bình, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Quyền mở hiệu Đông Thành Xương.
Gương Án sát Nghiêm Xuân Quảng từ quan về tham gia Đông Kinh
nghĩa thục và mở hiệu buôn đã lôi cuốn nhiều nhà nho thức thời như
Nguyễn Trác mở hiệu buôn sơn ở Việt Trì. Tại Thanh Hóa, công ty Phượng
Lâu có từ trước cũng mở rộng kinh doanh, có chi nhánh ở Vinh, Hà Tĩnh.
Ở Quảng Nam - Quảng Ngãi có Liên Thành công ty. Ở Nam Kỳ, Nguyễn
An Khương (thân sinh Nguyễn An Ninh) - một thủ lĩnh phong trào Duy tân
ở Nam Kỳ mở công ty Chiêu Nam Lầu...
Mặc dù làm chủ công ty kinh doanh tơ lụa, nhưng Nghiêm Xuân
Quảng vẫn cùng các nhà yêu nước ở Thái Bình như Nguyễn Hữu Cương,
Ngô Quang Đoan, Lý Thoa ở huyện Kiến Xương, Tiền Hải, Tú Phan, Lý
Bội, Dương Xuân Ngại ở Đông Hưng, Thái Bình vẫn đứng ra mở trường
dạy học chữ quốc ngữ cho thanh, thiếu niên. Nội dung dạy theo chương
trình của trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội.
Cũng như những nhà nho yêu nước, tiến bộ khác, Nghiêm Xuân
Quảng mở công ty tơ lụa với mục đích làm gương, khuyến khích nhân dân
làm theo. Tại công ty của ông cũng là nơi nhà yêu nước bàn đinh kế sách
cứu nước. Lợi nhuận của các cửa hàng, công ty trên phần lớn tài trợ cho
thanh niên xuất dương Đông du.
Khi trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội bị Thống sứ Bắc Kỳ bắt
đóng cửa thì các công ty, hiệu buôn, nhà hàng cũng bị nhà cầm quyền Pháp
gây khó khăn, một số phá sản, một số phải tự đóng cửa. Công ty Nghiêm
Xuân Quảng cũng nằm trong số phận đó. Sau khi Đông Kinh nghĩa thục bị
đóng cửa, Nghiêm Xuân Quảng nghỉ tới 10 năm, sau đó lại ra làm quan và
mất vào ngày 8 tháng 5 năm 1941.
LÊ VÕ
Lê Võ còn gọi là Ấm Võ, tên chữ là Ngoạn Ngọc, hiệu là Trúc Khê
tiên sinh lại có hiệu là Dạt Trúc tiên sinh. Ông là con trai quan Bố chính Lê
Khanh và bà Nguyễn Thị Thục.
Ông sinh năm Giáp Tuất (1871), người làng Trung Lễ (Lạc Thiện),
nay là xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh. Lê Võ vốn là dòng dõi
con nhà tướng bốn người anh đã chết vì nước. Ông có tướng lạ: tay vượn,
mày diều, mặt mũi sắc sảo. Ông tham gia cuộc khởi nghĩa Phan Đình
Phùng cùng với anh trai là Lê Trực. Năm 1887, Lê Trực tử trận ở Trung Lễ,
ông được cử thay anh giữ chức Thương biện quân vụ khi còn rất trẻ.
Năm 1891, phong trào Cần vương ở Nghệ An, Hà Tĩnh bị đàn áp,
ông về sống ở quê, năm 23 tuổi, ông vào Huế xin khai ấm sinh nhưng vì
ông tham gia phong trào Cần vương nên không được xét. Lê Võ nghe tin ở
Quảng Nam có nhiều danh sĩ, liền lẻn vào Quảng Nam xin vào học quan
Đốc học Quảng Nam là Trần Đình Phong. Tại đây ông kết bạn với các
danh sĩ nổi tiếng như Trần Quý Cáp, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng.
Năm 25 tuổi, ông vào Huế được tập ấm vào học ở trường Quốc Tử
giám.
Năm 1905 Phan Bội Châu vào khuyên ông không nên theo con
đường cử nghiệp mà nên mở một cuộc vận động lớn trong nước theo con
đường Tân học. Phan Bội Châu trở ra Bắc bàn bạc với các đồng chí, Lê Võ
vào Quảng Nam, Quảng Ngãi, Nam Kỳ vận động. Chuyến đi của Lê Võ có
kết quả là cùng các ông Hội đồng Hiến, Thần Sơn Ngô Quảng đứng ra
quyên góp được tới 20.000 đồng và tìm được một số đông đảo thanh niên
để xuất dương. Sau khi tập hợp được các đồng chí ở cả Trung, Nam, Bắc
Kỳ, Phan Bội Châu, Lê Võ lại gặp nhau và quyết định hai ông cùng Cường
Để xuất dương. Kết quả chuyến đi Trung Quốc của Phan Bội Châu, Lê Võ,
Cường Để đã bàn bạc với các nhà cách mạng Trung Hoa là Tôn Văn,
Hoàng Hưng thành lập được trường "Đồng Văn học hiệu" ở Trung Hoa, do
người Nhật quản lý, đào tạo học sinh cho Việt Nam và Trung Quốc.
Các ông phân công nhau, Phan Bội Châu lưu trú ở Đông Kinh, (Nhật
Bản) sắp xếp công việc ngoại giao, Lê Võ sang Tàu và sang Xiêm cổ động
Việt kiều đi học.
Lê Võ ở Xiêm La một thời gian, sau đó ông qua Lào trở về Thanh
Chương (Nghệ An), ông tìm các đồng chí. Khi đó mới biết sau vụ chống
thuế ở Quảng Nam - Quảng Ngãi thì "Việt Nam Duy tân hội" và "Đông du"
ở trong nước bị nhà cầm quyền Pháp đàn áp, bị tổn thất nặng nề. Lê Võ
lên Yên Thế Bắc Giang (trước đó Phan Bội Châu đã thảo luận với Hoàng
Hoa Thám) về việc lập đồn điền "Tú Nghệ" ở Yên Thế và lập căn cứ
kháng chiến ở Nghệ Tĩnh để làm thế ỷ dốc với nhau.
Song công việc tiến hành gặp khó khăn vì thiếu vốn để mở đồn điền
"Tú Nghệ” ở Yên Thế, các chí sĩ ở Nghệ An người bị hy sinh, người ở
trong tù nên kế hoạch lập căn cứ ở Nghệ Tĩnh cũng không thực hiện được.
Năm 1909, Lê Võ ra Bấc liên hệ với các đồng chí chưa bị bắt để tiếp
tục vận động thanh niên xuất dương. Song Lê Võ bị ốm kéo dài nên phải ở
lại Đại Đồng, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh dưỡng bệnh tới 6 tháng trời
mới bình phục.
Cuối năm 1910, Lê Võ ra Hà Nội để liên lạc với các đồng chí. Ông
không thể ngờ có một kẻ phản bội đã bám theo ông, ngầm báo với Pháp lập
mưu bắt ông ở phố Hoàn Kiếm, Hà Nội. Chúng giải ông về Nghệ An, giam
ở nhà lao Vinh. Tổng đốc Nghệ An Đoàn Đình Nhân thân hành hỏi cung và
tra tấn ông. Song ông kiên trinh sắt đá không hề khai ra đồng chí của mình
Lê Võ bị nhà cầm quyền Pháp và Nam triều ở Nghệ An kết án tử
hình. Toàn quyền Albert Sarraut giảm án tử hình đầy ông ra Côn Đảo.
Ông bị tù 15 năm ở Côn Đảo, năm 1926 được ân xá, bị an trí ở Hà
Tĩnh.
Năm 1927 ông đi khẩn hoang mở trang trại ở Công Khanh, huyện
Nghi Xuân. Song những năm hoạt động bí mật và tù đầy đã làm sức khỏe
ông suy giảm.
Đầu năm 1941 thì ông bị xuất huyết dạ dày, ông mất ngày 12 tháng 3
năm Tân Tỵ (Bảo Đại thứ 6-8/4/1941) thọ 68 tuổi.
N' TRANG LƠNG
N'Trang Lơng tên thực là N'Trang, vợ là Lơng, phong tục người Mơ
Nông gọi tên vợ sau tên chồng, nên gọi là N'Trang Lơng, Ama Trang
Lơng, Pu Trang Lơng, gốc bộ lạc Biệt. Ông sinh năm 1870 "đầu làng" của
làng M' Nông. Vừa đứng lên đánh Pháp, N'Trang Lơng đã tập hợp được
chung quanh mình nhiều "đầu làng", tù trưởng trong và ngoài dân tộc
M'Nông.
Theo Henri Bernard và một số tác giả khác trong những năm nổ ra
cuộc khởi nghĩa, đồng bào M'Nong chỉ có khoảng 3 000 người sống trên
cao nguyên. Ngay từ khi mới phát động khởi nghĩa, N'Trang Lơng rất chú
trọng đến công tác tuyên truyền. Trong bài thơ kêu gọi dân tộc M'Nông
khởi nghĩa có đoạn:
Dân M'Nông ơi! Vùng lên đi
Con gái đánh bằng chày giã gạo,
Con trai cầm dao găm, giáo mác,
Tất cả giơ lên như bông lau lách,
Giết cho được tên Hăng ri mét đồn trưởng đồn Bát mô ra...
Hưởng ứng lời kêu gọi của thủ lĩnh N'Trang Lơng, nhân dân
M'Nông, XTiêng dân tộc anh em ở Tây Nguyên đã xiết chặt đội ngũ theo
thủ lĩnh N'Trang Lơng bền bỉ chống Pháp suốt từ năm 1912 đến năm 1935
và đã thực hiện được mục tiêu giết tên Hăng ri mét. Phong trào phát triển
rộng rãi tới hầu hết các buôn làng M'Nông, XTiêng. Ông chia nghĩa quân
làm hai lực lượng: Lực lượng tập trung, cơ động và chiến đấu tại chỗ. Ông
còn tổ chức một lực lượng đặc biệt làm nhiệm vụ tuyên truyền và thám báo
(Bal Ty Lah Bôn Lan). N'Trang Lơng trực tiếp chỉ huy 150 tay súng, gồm
những nghĩa quân Biệt, Nông đóng tại căn cứ Bu Siết, Bu Luk. Thủ lĩnh
Amprad, chỉ huy nghĩa quân R'Hong, Biệt tại căn cứ Dak Huich. Thủ lĩnh
B'Heng Reng chỉ huy nghĩa quân Bunor ở căn cứ Bupa Man... Khi tác
chiến các thủ lĩnh tác chiến độc lập hoặc phối hợp với các thủ lĩnh khác,
hoặc do N'Trang Lơng điều động. Khi truyền lệnh từ thủ lĩnh N'Trang
Lơng đến các thủ lĩnh địa phương các buôn làng về lệnh chiến đấu, giao
lương, tiếp tế đều có hiệu lệnh riêng theo truyền thống của người M'Nong.
N'Trang Lơng rất coi trọng công tác này, ông đã cùng vợ, con và viên đội
Bal Ty Lah đến buôn Tauch là một buôn có tên Rad làm tay sai đắc lực cho
tên Henri Matre, tên Rad đe dọa buộc đồng bào phải phục tùng tên Henri
Matre. Sau khi N'Trang Lơng đến, dân làng đã theo nghĩa quân.
N'Trang Lơng còn tổ chức hậu cần, cứu thương rất chu đáo ở từng
khu vực và riêng từng trận đánh.
Nghĩa quân N'Trang Lơng mở đầu trận đánh vào đồn Bou Pustra đầu
năm 1912, chỉ huy sở của quân Pháp đặt ở chân núi Nam Lyr. Quân Pháp bị
thất bại hoàn toàn.
Trong 2 mùa khô 1912 - 1914 nghĩa quân N'Trang Lơng liên tiếp bẻ
gẫy các cuộc hành quân của quân Pháp vào các đơn vị quân đồn trú Pháp
và các đoàn khảo sát vũ trang tìm cách xâm nhập vào Tây Nguyên.
Đầu tháng 8/1914, lợi dụng việc tên Hăngrimet chỉ huy đồn Bumêra
bày trò đầu thú, ngày 2/8/1914 N'Trang Lơng bố trí người trá hàng, dụ
Hăngrimét, chỉ huy đồn Bumêra đến Buno. Tại đây, bất thình lình N'Trang
Lơng xông vào giết chết Hăng ri mét tên xâm lược có nợ máu với nhân
dân M'Nong. 40 tên lính khố xanh đi theo cũng bị diệt hết. Thừa thắng, tới
4/8, nghĩa quân lại đột nhập vào đồn Bumêra tiêu diệt số lính còn lại trong
đồn và phóng hỏa đốt đồn.
Từ đó thanh thế của N'Trang Lơng vang dội khắp miền Nam Tây
Nguyên, người gia nhập nghĩa quân càng đông.
Cuộc chiến đấu của nghĩa quân N'Trang Lơng trong giai đoạn này rất
quyết liệt và cũng vô cùng dũng cảm, và đã giành được nhiều thắng lợi
quan trọng gây cho quân Pháp nhiều tổn thất. Cuộc chiến đấu kiên cường
dũng cảm của nghĩa quân N'Trang Lơng khiến giặc Pháp phải thừa nhận:
"Tất cả đều quyết tâm một lần nữa đánh đuổi chúng ra ra khỏi Cao nguyên
M'Nông".
Trong trận quyết chiến ngày 23/5/1935 NTrang Lơng bị trọng
thương, bị bắt và hy sinh ngày 25/6/1935, chấm dứt cuộc khởi nghĩa chống
Pháp của đồng bào M'Nông Tây Nguyên kéo dài 23 năm.
HOÀNG TRỌNG MẬU
Hoàng Trọng Mậu tên thật là Nguyễn Đức Công, tự là Báu Thụ, cũng
gọi là Trần Báu Thụ, sinh năm 1874, quê ở làng Cẩm Trường, nay là xã
Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Hoàng Trọng Mậu là con trai
thứ tư trong gia đình cụ Cử Tân. Ông thông minh và đã đậu Đầu xứ nên
còn gọi là Đầu xứ Công.
Tháng 2 năm 1908 Hoàng Trọng Mậu được Ngư Hải Đặng Thái Thân
trao cho thư kêu gọi Đông du của Phan Bội Châu từ Nhật Bản gửi về.
Tháng 4/1908 ông tức khắc từ bỏ cử nghiệp, đem hết của riêng mình
từ giã vợ và bốn con lên đường sang Nhật. Hoàng Trọng Mậu được vào
học trường Đồng Văn thư viện. Ông vào học chậm nửa năm, song ông
nghiên cứu các sách chữ Nhật thuộc các môn khoa học, không thòi giờ nào
nghỉ ngơi, ông lại chú ý nghiên cứu các sách về quân sự và còn tập luyện.
Ông tham gia Công Hiến hội với cương vị ủy viên Bộ văn thư.
Song Chính phủ Nhật thông đồng với thực dân Pháp ở Đông Dương,
giải tán phong trào Đông du, trục xuất Phan Bội Châu và lưu học sinh Việt
Nam. Hoàng Trọng Mậu về Trung Quốc tiếp tục học tập, nghiên cứu.
Đầu năm 1909 nghe tin trong nước cuộc khởi nghĩa Yên Thế của
Hoàng Hoa Thám được phục hồi, Phan Bội Châu giao cho ông chuẩn bị
lực lượng về nước tiếp ứng.
Khoảng đầu tháng 3 năm 1912, Phan Bội Châu tuyên bố giải tán hội
Duy tân, thành lập một tổ chức cách mạng mang tên "Việt Nam Quang
Phục hội". Bộ Chấp hành có mười ủy viên, Hoàng Trọng Mậu được cử làm
ủy viên trưởng phụ trách Quân vụ. Ông cùng với Nguyễn Thức Đường (tức
Trần Hữu Lực) được ủy nhiệm viết lời "Tuyền cáo của Việt Nam Quang
Phục hội". Ông viết ba chương cuốn "Việt Nam Quang Phục quân sách
lược", hai chương đầu do Phan Bội Châu viết. Hoàng Trọng Mậu còn tham
gia chọn Quốc kỳ và quân kỳ. Quốc kỳ hình ngũ tinh liên châu (hai chuỗi
năm ngôi sao), nền vàng, sao đỏ làm Quốc kỳ, nền đỏ sao trắng làm quân
kỳ. Vàng là thể hiện giống người nước ta; đỏ là thể hiện nước ta ở phương
Nam thuộc hỏa, hỏa sắc đỏ. Sắc trắng thuộc về kim giữa việc sát phạt cho
nên chọn làm quân kỳ. Việt Nam Quang Phục Hội in Quân dụng phiếu ký
tên Phan Bội Châu và Hoàng Trọng Mậu.
Việt Nam Quang Phục hội không được sự ủng hộ của chính quyền
Quảng Đông nên gặp nhiều khó khăn trong hoạt động, thiếu thốn tài chính,
giấy tờ tùy thân hợp pháp. Trong khi đó thì ở trong nước, sau vụ Phạm
Văn Tráng và Nguyễn Khắc Cần ném tạc đạn ở khách sạn ''Con Gà vàng",
giặc Pháp điên cuồng khủng bố tổ chức Việt Nam Quang Phục hội ở trong
nước, bắt và phá vỡ nhiều cơ sở.
Ngày 19/1/1914, Phan Bội Châu và Mai Lão Bạng bị chính quyền
Quảng Đông bắt giam. Đứng trước khó khăn chồng chất đó, Hoàng Trọng
Mậu vẫn kiên trì liên kết với đảng cách mạng Trung Hoa, tổ chức lực
lượng quân cách mạng về nước đánh Pháp.
Ông chủ trương sang Thái Lan để chuẩn bị vũ khí, tiền bạc cho các
trận đánh tiếp theo. Việc đi này rất nguy hiểm vì mật thám Pháp và chính
quyền của Long Tế Quang bủa lưới bắt các nhà cách mạng Việt Nam ở
khắp nơi. Song ông vẫn kiên quyết đi, xuất phát từ Ung Châu đến Hương
Cảng đợi tầu đi Thái Lan thì các ông bị cảnh sát Anh bắt giao cho cảnh sát
Pháp giải về giam ở Hỏa Lò, Hà Nội. Trong nhà tù, Hoàng Trọng Mậu vẫn
lạc quan ngâm thơ:
"Thiên niên cố quốc quyên đề thảm;
Vạn lý cô thần hạc khiếu ai"
Tạm dịch:
"Nghìn năm nước cũ quyên kêu thảm;
Muôn dặm tôi xa hạc khóc thương"
Thực dân Pháp tra tấn dã man, rồi lại mua chuộc, ông vẫn hiên ngang
bất khuất, chúng kết án tử hình ông với tội danh: "Việt cảnh quán thông,
mưu đồ phản nghịch" (Vượt biên ra liên hệ với nước ngoài để mưu đồ
phản nghịch) và xử bắn vào ngày 20 tháng 12 năm Ất Dậu (22/01/1916) tại
trường bắn Bạch Mai (Hà Nội).
NGUYỄN KHẮC CẦN
Nguyễn Khắc Cần tức Nguyễn Văn Túy, quê ở xã Yên Viên, huyện
Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc Hà Nội. Ông là hội viên Việt Nam
Quang phục hội. Mùa đông năm Nhâm Tý (1913), Nguyễn Khắc Cần sang
Trung Quốc nhận mệnh lệnh của Trung ương Việt Nam Quang Phục hội thi
hành bản án tử hình đối với tên trùm thực dân Abbert Sarraut và các tên tay
sai đầu sỏ Hoàng Trọng Phu, Nguyễn Duy Hàn.
Ngày 25/4/1913, Nguyễn Khắc Cần và Nguyễn Văn Thụy điều tra
biết bọn sĩ quan Pháp thường tụ tập ăn uống ở khách sạn Hotel tại đường
Paulbert, nay là phố Tràng Tiền. Nguyễn Văn Thụy cảnh giới Nguyễn
Khắc Cần liệng bom vào, giết chết hai trung tá Pháp là Monggơra và
Sapuy (Chapuis) chết tại chỗ, một số tên Pháp và tay sai người Việt bị
thương(1). Thi hành xong bản án lợi dụng lúc bọn giặc đang hoảng loạn, la
hét, hai chiến sĩ ung dung đi bộ trên đường rồi lên một chiếc xe tay kéo
nhanh qua Gia Lâm về Yên Viên. Hai anh em ẩn náu ở Yên Viên, vài hôm
thấy giặc không lùng sục, Nguyễn Khắc Cần và Phạm Văn Thụy được lệnh
trở về Trung Quốc nhận nhiệm vụ mới. Trên đường đi, ngày 7/5/1913, hai
ông vừa từ trên ga xe lửa bước xuống một ga xép thì bị lính kín áp tới lục
soát. Vì trong người hai ông có một số giấy tờ khả nghi, nên chúng bắt cả
2 người giải về Hà Nội.
Sau hành động ỉàm kinh hoàng giặc Pháp và bọn Việt gian bán nước
ở Thái Bình và Hà Nội, giặc Pháp điên cuồng khủng bố các cơ sở Việt
Nam Quang Phục hội ở trong nước. Chúng bắt cả những người chúng nghi
ngờ có liên quan đến phong trào Đông du và vụ Hà Thành đầu độc. Tại các
tỉnh Bắc Kỳ, các nhà tù chật ních các chiến sĩ cách mạng. Tổng số chiến sĩ
Việt Nam Quang phục hội ở Hà Nội và những người có liên quan lên tới
254 người. Tất cả những người bị bắt đều bị chúng tra tấn dã man để ỉấy
khẩu cung.
Ngày 5/9/1913, Hội đồng Đề hình Pháp họp mở phiên tòa tra hỏi 84
người trong số 254 người được coi là liên quan. Chúng xử tử 7 người với
tội danh: âm mưu ám sát hoặc đồng lõa ám sát là: Nguyễn Khắc Cần, Phạm
Văn Tráng, Phạm Đệ Quý, Vũ Ngọc Thịnh, Phạm Hoàng Khuê (Quế) Phạm
Hoàng Triết, Phạm Văn Tiên - người ám sát chủ đồn điền Đặng Vũ Hành
ngày 25/5/1913. Lương Văn Phúc bị kết tội đồng mưu trong vụ ném bom ở
Thái Bình chỉ bị kết án khổ sai chung thân vì mới 18 tuổi. 8 người bị lưu
đày trong đó có ông Tư Diếc ở Quan Nhân, 5 người phát phối, 2 người bị
kết án 5 năm, 11 án khổ sai hữu hạn, 5 án cầm cố, 9 án tù từ 20 tháng đến 2
năm.
Nguyễn Khắc Cần, Phạm Văn Tráng và các đồng chí của hai ông tuy
chưa đạt được mục tiêu mà Trung ương Việt Nam Quang Phục hội đề ra,
đế quốc Pháp khủng bố, lực lượng Việt Nam Quang Phục hội bị thiệt hại
nặng nề nhưng đã thức tỉnh lòng yêu nước của đồng bào Hà Nội cũng như
đồng bào cả nước.
(1) Sách "Nhân Chính trên những chặng đường lịch sử”, Nxb Chính trị quốc gia viết quả
bom (lựu đạn) do Nguyễn Khắc Cần ném là do ông Tư Diếc (Nguyễn Vãn Diếc) ở làng Mọc Quan
Nhân chế tạo, giặc Pháp bắt ông đày đi Côn Đảo.
Sách Việt Nam nghĩa liệt sử, Đặng Đoàn Bằng viết "Hiệp sĩ Nguyễn Khắc Cần" viết quả tạc
đạn ném ở khách sạn Hà Nội là do Hán Minh (?) ném nhầm vào quan binh Pháp. Pháp truy nã ráo
riết người đảng, bọn chó săn cũng đề phòng rất nghiêm ngặt, nên ông không thục hiện được kế
hoạch của mình. Ông lại cùng Nguyễn Thế Trung định ra ngoại quốc. Đến Lạng Sơn thì gặp phải
người Pháp, nên cả hai bị bắt. Nguyễn Khắc Cần muốn cho Hán Minh chạy thoái cho nên mới nhận
với người Pháp chính ông là người ném tạc đạn ở khách sạn. Vì vậv ông bị giết cùng Nguyền Thế
Trung.
NGUYỄN THẠC CHI
Nguyễn Thạc Chi còn có các tên là Hai Thạc, Nguyễn Quýnh Chi,
Nguyễn Trọng Thường, Nguyễn Trung Thường, Nguyễn Trọng Thạc,
Nguyễn Mạnh Hiếu, tự là Thường Sinh. Ông là con thứ hai quan Bắc Kỳ
Hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật, quê ở làng Xuân Đào,
xã Xuân Dục huyện Mỹ Hào tỉnh Hải Dương, nay là xã Xuân Dục, huyện
Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông là người trầm tĩnh, khoan hòa, học rộng,
nghe nhiều. Khi cha ở Trung Quốc, anh trai là Nguyễn Tuyển bị đày ra Côn
Đảo, Nguyễn Thạc Chi còn ở tuổi thiếu niên, phải theo người nhà đi trốn
tránh. Vào tuổi thanh niên, ông cùng chú là Nguyễn Thiện Kế sang Trung
Quốc Đông du và quyên tiền cho thanh niên du học. Nguyễn Thạc Chi
cùng chú thường xuyên Hoa - Việt đi về để vận động và đưa thanh niên
Bắc Kỳ sang Trung Quốc du học.
Mùa thu năm 1912 Nguyễn Thạc Chi dự Hội nghị với Phan Bội
Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Lương Ngọc Quyến, Mai Lão Bạng, Hoàng
Trọng Mậu... thành lập Việt Nam Quang Phục hội. Hội nghị phân công
Nguyễn Thạc Chi làm nhiệm vụ vận động cách mạng ở trong nước.
Năm 1912 Nguyễn Thạc Chi cùng Nguyễn Hải Thần đem 6 quả tạc
đạn, 300 đồng Đông Dương theo đường Lạng Sơn đánh vào Bắc Kỳ với
nhiệm vụ giết tên Toàn quyền Abbert Sauaut; phá khoa thi Hương ờ
trường thi Nam Định (11/1912). Việc không thành ông phải quay trở về
Trung Quốc.
Năm 1916 chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Những người
lãnh đạo Việt Nam Quang Phục hội nắm lấy cơ hội đó yêu các đại sứ Đức
ở Xiêm giúp vũ khí, tiền bạc cho Việt Nam đánh Pháp. Nguyễn Thạc Chi
cùng Nguyễn Thượng Hiền sang Xiêm liên lạc với công sứ Đức - Áo giúp
đỡ Việt Nam đánh Pháp. Việc chưa có kết quả, hai ông trở về Trung Quốc.
Sau đó ít lâu ông nhận nhiệm vụ về nước tập hợp những người cùng
chí hướng chống Pháp. Ông dự Đại hội ở nhà ông Lý trưởng xã Đồng
Trung tục gọi là làng Chuôm, nay thuộc xã Việt Hưng, huyện Mỹ Hào, tỉnh
Hưng Yên gần ga Xuân Đào thì bị giặc Pháp bao vây làng rồi ập vào bắt.
Nguyễn Thạc Chi bị đế quốc Pháp kết án tù chung thân đầy ra giam ở nhà
tù Côn Đảo.
Cuộc nổi dậy chống chế độ nhà tù đế quốc nổ ra vào 14 giờ ngày
14/2/1918, tức là ngày mùng 4 tết năm Mậu Ngọ, Nguyễn Thạc Chi cùng
Phạm Cao Chẩm lãnh đạo 89 tù nhân banh II dùng búa đập chết tên giám
ngục Simon và 2 tên lính mã tà. Nguyễn Thạc Chi còn hô mọi người cướp
súng của lính gác, nhưng tên hạ sĩ quan là Larmierrier phản kích kịp thời.
Lát sau tên quản đốc Andouard dẫn lính đến chi viện. Hắn ra lệnh cho lính
xả súng vào đám đông và truy sát tận tuyệt. Nguyễn Thạc Chi và Phạm Cao
Chẩm cùng 89 người bị chúng giết chết.
Nguyễn Thạc Chi không những chỉ là một nhà cách mạng kiên
cường, mà còn là một nhà thơ, nhà giáo dục. Đến nay gia phả còn chép một
số thơ của ông, con cháu nội ngoại cũng thuộc nhiều thơ của ông như: Thơ
từ Côn Đảo gửi về, Bài ca chúc Cha thượng thọ, Năm bài ca Luân lý.
THÁI PHIÊN
Thái Phiên hiệu Nam Xương, sinh năm 1882 quê ở làng Nghi An,
huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Ông sống và làm việc ở Đà Nẵng từ
nhỏ. Ông là người yêu nước thiết tha, tính tình cương trực, căm thù giặc
Pháp cướp nước và bè lũ Việt gian tay sai của giặc Pháp
Tháng 5/1905, Thái Phiên cùng với Tiểu La Nguyễn Thành,
Đỗ Đăng Tuyển tham gia thành lập Duy tân hội. Ông trở thành một yếu
nhân của Duy tân hội ở Quảng Nam, hoạt động có nhiều hiệu quả, được
Phan Bội Châu tin cẩn. Thái Phiên cũng như Trần Cao Vân, Lê Ngung,
Phan Thành Tài đều là những yếu nhân của phái Duy Tân với xu hướng
Duy Tân tự cường rồi mới "dần mưu tính việc khác".
Từ năm 1909 trở đi, nhất là sau khi Đỗ Đăng Tuyển một yếu nhân
của Duy Tân hội ở Quảng Nam bị bắt thì một mình Thái Phiên phải lo gây
dựng lại tổ chức Duy tân hội ở Quảng Nam, đồng thời bắt liên lạc vói Lê
Ngung để gây dựng lại tổ chức Duy tân hội ở tỉnh Quảng Ngãi.
Chủ trương của Phan Bội Châu chuyển Duy tân hội sang tổ chức Việt
Nam Quang Phục hội. Năm 1914, Thái Phiên cùng Lê Ngung tổ chức một
cuộc họp các nhà yêu nước tại Trung Kỳ tại thành phố Đà Nẵng. Thái
Phiên và Trần Cao Vân nhiều lần cử người sang Trung Quốc, Xiêm La để
đặt kế hoạch phối hợp.
Sau cuộc tiếp xúc với vua Duy Tân, Thái Phiên, Trần Cao Vân triệu
tập các yếu nhân Việt Nam Quang Phục hội ở các tỉnh Trung Kỳ họp Đại
hội lần thứ hai vào trung tuần tháng 3 năm Bính Thìn (1916) tại nhà một
đảng viên ở chợ Cầu Cháy làng Xuân Yên, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi. Đại hội kiểm điểm lực lượng cách mạng quyết định kế hoạch khởi
nghĩa với danh nghĩa: "Việt Nam quân Chính phủ".
Ngay sau khi nhận được mệnh lệnh của vua Duy Tân, Thái Phiên,
Trần Cao Vân thông báo cho các ủy viên ủy ban khởi nghĩa quyết định vào
giờ Tý ngày 2 tháng 5 năm Bính Thìn, tức 1 giờ sáng ngày 3 tháng 5 năm
1916. Mật hiệu khởi nghĩa là "Năm Thìn, tháng Tỵ”. Tại Huế, Thái Phiên,
Trần Cao Vân bị mất liên lạc với các trại lính, nhưng vẫn quyết định điều
động thuyền đến bến Thương Bạc rước vua Duy Tân ra lãnh đạo cuộc
khởi nghĩa. Vụ mưu khởi nghĩa không thực hiện được, vì không nổ được
pháo lệnh, không đốt được lửa trên đèo Hải Vân, nên các nơi đều phải rút.
Chỉ riêng ở phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, dân binh dù không có lệnh, vẫn
bao vây tòa Đại lý Pháp, phá kho thu được hai khẩu súng trường rồi kéo
vào phủ đường, nhưng tri phủ đã bỏ trốn. Ngay ngày hôm sau giặc Pháp
thẳng tay đàn áp, chém giết nghĩa quân, hầu hết các thủ lĩnh nghĩa quân
đều bị bắt. Tại Quảng Ngãi, Lê Ngung tự tử trước khi bị bắt vây mà chúng
vẫn chặt đầu ông đem bêu. Các ông Nguyễn Thụy, Trần Thân, Võ Cầu, Mai
Tuấn, Hứa Thọ đều bị chém. Ở Quảng Nam số người bị chém lên đến
hàng trăm. Thái Phiên, Trần Cao Vân rước vua ra khỏi thành, định đưa về
Nam Ngãi. Nhưng ngày hôm sau vua tôi mệt nhọc vào nghỉ ở chùa Ngũ
Phong thì giặc Pháp ập vào bắt.
Ngày 17 tháng 5 năm 1916, giặc Pháp chém các ông Thái Phiên, Trần
Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu ở An Hòa (Huế), cách kinh
thành không đầy 1 cây số. Chúng chôn hai ông Thái Phiên, Trần Cao Vân
một hố. Sau một nữ đồng chí là Trịnh Thị Hưng (hay Hương) bí mật dời
hài cốt từ nơi xử án về an táng tại khu rừng gần chùa Châu Lâm ở Kinh
thành Huế.
VUA DUY TÂN
Năm 1907 vua Thành Thái yêu nước bị giặc Pháp phế truất đầy ra
Vũng Tầu. Hoàng tử Vĩnh San khi đó mới lên 8 tuổi được thực dân Pháp
đưa lên làm vua, đặt niên hiệu là Duy Tân, vì chúng hy vọng nhà vua ít tuổi
chỉ ngồi làm bù nhìn. Sọng trái với sự mong đợi của chúng, vua Duy Tân
bẩm tính thông minh, giỏi đối đáp, có lòng yêu nước từ nhỏ.
Biết được những thông tin đó, các nhà lãnh đạo Việt Nam Quang
Phục hội ở Trung Kỳ là Thái Phiên, Trần Cao Vân đã thực hiện bằng mọi
cách tiếp xúc với nhà vua. Kết quả vua Duy Tân nhận lời tham gia cuộc
khởi nghĩa. Đầu năm 1914, Thái Phiên triệu tập cuộc họp các yếu nhân của
Việt Nam Quang Phục hội của 5 tỉnh miền Trung quyết định khởi nghĩa.
Vua Duy Tân báo cho Thái Phiên, Trần Cao Vân biết là đến hết ngày
10/5/1916 thì 2500 lính mộ tập trung ở Huế sẽ phải sang Pháp, nên phải
khởi sự ngay. Thái Phiên, Trần Cao Vân quyết định khởi nghĩa vào tối
ngày mùng 3 rạng ngày mùng 4 tháng 5/ 1916 ở 5 tỉnh. Song các nhà lãnh
đạo cuộc khởi nghĩa không biết rằng quân Pháp đã biết cuộc khởi nghĩa từ
2 ngày trước nên đã có kế hoạch ngăn chặn. Kẻ địch khẩn trương nhưng bí
mật đối phó, ra lệnh giới nghiêm ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Huế tước vũ
khí của lính khố xanh, cho lính Pháp, lính khố đỏ tuần phòng nghiêm ngặt.
Theo lời hẹn trước của Thái Phiên và Trần Cao Vân, vua Duy Tân cải trang
như người bình dân: đầu chít khăn đen, mặc áo ngắn màu đỏ, quần vải
trắng, chân đi đất, cùng bốn thị vệ tin cậy ra khỏi thành. Kế hoạch bị lộ,
quân Pháp kịp thời đối phó, nhiều cánh quân khởi nghĩa chưa xuất phát đã
bị bao vây, bị bắt. Vua và tùy tùng đi về hướng Tây - Nam Thừa Thiên,
song vì có kẻ làm phản nên cả đoàn Khâm sứ Charles buộc triều đình Huế
khép vua vào tội: "Vua một nước dưới quyền bảo hộ của Pháp đang chiến
đấu với kẻ thù là Đức mà khởi loạn chống lại Pháp là phản bội, phải tội tử
hình". Song bọn cầm quyền Pháp vẫn thuyết phục Duy Tân làm vua bù
nhìn cho chúng. Khâm sứ Trung Kỳ điện ra Hà Nội mời Toàn quyền Đông
Dương vào thuyết phục. Nhà vua vẫn trả lời: "Nếu ông buộc tôi tiếp tục ở
lại ngôi vị Hoàng đế An Nam. Ông cần xem tôi như một vị hoàng đế đã
trưởng thành. Tôi không cần cả Hội đồng Phụ chính lẫn lời khuyên của
ông. Tôi sẽ điều hành công việc của đất nước tôi trên cơ sở như các quốc
gia khác, trong đó có nước Pháp".
Bọn cầm quyền Pháp giao cho Thượng thư bộ Hộ là Hồ Đắc Trung
thi hành án tử hình. Ông Trung bàn với các quan không nên tử hình vua,
triều đình tán thành, làm vãn bản cứu vua. Nhờ đó vua Duy Tân chỉ bị đưa
đi đày ở đảo Reunion ở Ấn Độ Dương.
Năm 1936 mặt trận Bình Dân Pháp do Đảng Cộng sản và các đảng
cánh tả ở Pháp thành lập, lập Chính phủ thực hiện nhiều cải cách như
phóng thích tù chính trị ở chính quốc và các thuộc địa. Cựu hoàng Duy Tân
nắm lấy thời cơ đề cập đến quyền tự chủ của đất nước. Nhà vua dự cuộc
mít tinh do Mặt trận Bình dân tổ chức tại cảng La Pointe des Galets, phát
biểu tại diễn đàn, phía sau là lá cờ đỏ búa liềm. Ông yêu cầu Bộ trưởng
Thuộc địa trả tự do cho ông, chuyển ông về sống tại Paris. Song yêu cầu
này không được Chính phủ Pháp đáp ứng. Do bị sức ép của giai cấp tư sản
và các thế lực cánh hữu cùng những biến động do phát xít Đức và Chủ
nghĩa phát xít Ý gây ra, Mặt trận Bình dân phải tự giải tán, Chính phủ Bình
dân đổ. Giấc mơ của cựu hoàng Duy Tân về độc lập dân tộc cũng bị dập
tắt. Năm 1939, đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ. Ngày 18/6/1940, vua
Duy Tân nghe được bản Hiệu triệu của Đờ Gôn người đứng đầu phe kháng
chiến. Trong 2 năm sau, vua Duy Tân liên lạc được với tổ chức Pháp Tự do
ở trong vùng, và bị chính quyền thân Đức bắt giam một tháng. Mùa thu
năm 1942, phái Đờ Gôn chiếm được đảo Reunion, để thoát khỏi đảo, nhà
vua đăng lính và làm điện báo viên trên tầu Léoperd. Do có sự can thiệp
của Đờ Gôn ngày 18/6/1945, nhà vua được đưa về Paris. Tại đây nhà vua
có các cuộc đi thăm Việt kiều, thăm lính thợ bị giam ở Kelarman... Nhà vua
luôn luôn đả kích các lỗi lầm của Pháp ở Đông Dương... Quan điểm yêu
nước của nhà vua đi ngược với âm mưu sử dụng nhà vua vào mục đích
xâm lược Việt Nam. Vì vậy chúng đưa ông sang sư đoàn 9 bộ binh đóng ở
Đức để chuẩn bị sang Viễn Đông tham chiến. Tại đây các hoạt động nhằm
mượn đường quân sự trở về nước của nhà vua quá lộ liễu, bọn Pháp
chuyển nhà vua qua trung đoàn thiết giáp cũng đóng ở Đức để cách ly.
Ngày 29/10/1945, Đờ Gôn ký Nghị định đặc cách cho vua Duy Tân lên cấp
tiểu đoàn trưởng. Ngày 14/12/1945, Đờ Gôn gặp nhà vua. Nhưng vua Duy
Tân sau cuộc gặp đó đã tuyên bố rằng Chính phủ Pháp đã công nhận nền
độc lập của Việt Nam, chờ cơ hội để ký kết việc thống nhất ba kỳ, viện trợ
kinh tế và quân sự, cũng như giúp Việt Nam về phương diện ngoại giao và
quốc phòng. Nhà vua không biết ngày 3/12/1945 bộ Thuộc địa Pháp đã ký
Quyết định số 7312/102 trả Hoàng tử Vĩnh San về lại đảo Reunion, tiếp tục
cuộc sống lưu đày từ năm 1916. Ngày 24/12/1945, vua Duy Tân rời Paris
bằng chiếc máy bay Lockheed Lodester kiểu C60 và chiều 26/12/1945 trên
chặng đường thứ hai từ Ford Lamy hướng về Bangui, phi cơ hết xăng (?)
phải hạ cánh khẩn cấp xuống vùng đồi ở làng Bossakô và máy bay vỡ nát
bốc cháy. Vua Duy Tân, hành khách và cả phi hành đoàn đều chết. Như
vậy việc vua Duy Tân trên đường về đảo Reunion từ biệt vợ con để trở lại
Paris chuẩn bị về "cầm cờ tái chiếm Việt Nam cho Pháp" không hề có.
Trước sau vua Duy Tân vẫn là người yêu nước, chống Pháp.
LÊ ĐÌNH DƯƠNG
Lê Đình Dương quán làng Đông Mỹ (Na Kham có sách viết là La
Kham), tổng Khương Thượng (Gò Nổi, Phù Kỳ), huyện Diên Phước, phủ
Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, nay thuộc xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam. Ông là con Thượng thư Tổng đốc Hà - An (Hà Nội - Hưng
Yên) Lê Đình Đĩnh. Lê Đình Dương là y sĩ, ông là anh em ruột với y khoa
bác sĩ Lê Đình Thám, bác sĩ Lê Đình Kiền, bác sĩ Lê Đình Củng, thạc sĩ y
khoa Lê Đình Quy.
Lê Đình Dương tham gia tổ chức Việt Nam Quang Phục hội ở tỉnh
Quảng Ngãi ngay từ khi mới thành lập. Ông cùng với Lê Ngung, Nguyễn
Súy là yếu nhân của Việt Nam Quang Phục hội ở Quảng Ngãi. Lê Đình
Dương còn là một trong những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở các tỉnh
miền Nam Trung Kỳ trong Đại chiến thế giới lần thứ nhất.
Tháng 9/1915, Thái Phiên triệu tập các nhà lãnh đạo Việt Nam Quang
Phục hội ở Trung Kỳ họp Đại hội lần thứ nhất tại Huế để thảo luận kế
hoạch bạo động. Tại cuộc họp này, Lê Đình Dương và Nguyễn Thụy tìm
gặp, tiếp xúc với viên trung tá người Đức là Harmaudes chỉ huy đội lính Lê
dương đóng ở Bình Đài (đồn Mang Cá) để vận động hưởng ứng cuộc khởi
nghĩa. Nhờ cố đạo Bàn Gốc cũng là người trong tổ chức Việt Nam Quang
Phục hội làm môi giới, Lê Đình Dương và Nguyễn Thụy đã thỏa thuận
được với thiếu tá Harmandes khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, họ sẽ hưởng ứng.
Ông cũng thuyết phục được các đội trưởng người Việt dưới quyền
Harmandes như Đoàn Văn Còn, Nguyễn Đình Trứ, Hà Lại, Đào Duy Phong
nhận làm hậu thuẫn cho cuộc khởi nghĩa. Trong đó Nguyễn Đình Trứ, Hà
Lại sẽ cùng Phạm Thành Chương chỉ huy công phá trấn Bình Đài. Không
bao lâu, trung tá Harmaudes được thăng hàm đại tá, Tổng chỉ huy quân đội
toàn miền Trung đã lên kế hoạch lấy cớ đi phát lương để ngầm cổ vũ tân
cựu binh người Việt hưởng ứng khởi nghĩa. Nhờ có sự vận động tích cực
của Lê Đình Dương và các ông Phan Thành Tài, Trương Bá Huy, Đỗ Tự
nên lực lượng khởi nghĩa ở Quảng Nam mạnh hơn các tỉnh. Đến trước
ngày khởi nghĩa, tỉnh Quảng Nam đã vận động được khoảng 80% lính tập
tham gia. Chỉ tính riêng ở tổng Phước Lợi, phủ Tam Kỳ đến trước ngày
khởi nghĩa đã có 240 Phục Quốc quân, 200 tân binh. Các ông còn vận động
đổng bào dân tộc thiểu số ở vùng núi Phú Túc, Bà Nà ở Hòa Vang và Nước
Hai ở Trà Mi để xây dựng khu căn cứ. Lê Đình Dương đã đóng góp phần
tích cực vào công việc chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa ở tỉnh Quảng Ngãi.
Song cuộc khởi nghĩa bị bại lộ không thực hiện được, chỉ riêng ở phủ
Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, dân binh dù không có hiệu lệnh vẫn bao vây tòa
đại lý Pháp, phá kho thu được một số đạn và 2 khẩu súng trường rồi kéo
vào phủ đường nhưng cũng như đại lý Pháp, tri phủ đã bỏ trốn. Ngay đêm
đó Phục Quốc quân và dân binh rút lui. Tại Huế, vua Duy Tân, Thái Phiên,
Trần Cao Vân và hầu hết các thủ lĩnh đều bị bắt, bị giết hại. Lê Đình
Dương cũng bị giặc bắt. Chúng dùng đủ cực hình tra tấn ông, song không
moi được ở ông lời khai báo nào. Giặc đày ông lên nhà lao Buôn Ma Thuột
ông vẫn kiên cường đấu tranh.
LÊ NGUNG
Lê Ngung còn gọi là Tú Ngung vì ông đỗ tú tài, quê ở tỉnh Quảng
Ngãi. Năm 1908 các thủ lĩnh Duy tân hội phát động phong trào "chống
thuế" "xin xâu" ở Quảng Nam, Quảng Ngãi thì hầu hết các yếu nhân của
Duy tân hội người bị xử chém, người bị đày ải ở các nhà tù. Tuy nhiên ở
Quảng Nam vẫn còn Thái Phiên, ở Quảng Ngãi vẫn còn Lê Ngung. Vì vậy
từ năm 1909, Thái Phiên cùng Lê Ngung thường xuyên gặp gỡ nhau để
phục hồi phong trào.
Việt Nam Quang Phục hội được thành lập thay thế Duy tân hội, và
phát triển về nước một cách nhanh chóng. Lê Ngung có nhiều đóng góp
vào sự trưởng thành của tổ chức Việt Nam Quang Phục hội các tỉnh Nam
Trung Bộ và cùng với Thái Phiên trở thành thủ lĩnh của tổ chức này.
Đầu năm 1914, Lê Ngung đã cùng Thái Phiên tổ chức một cuộc họp
mặt các nhà yêu nước ở Trung Kỳ tại Đà Nẵng. Hội nghị nhất trí phải gấp
rút khởi nghĩa, nên đã phân công người chuẩn bị lực lượng, xây dựng căn
cứ ở các tỉnh từ Quảng Bình trở vào. Trong số các thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa
thì Lê Ngung là người nôn nóng khởi nghĩa nhất. Ông cho rằng Thế chiến
thứ nhất nổ ra, Đức đánh Pháp, Pháp phải rút lực lượng ở Đông Dương về
phòng thủ là cơ hội tốt nhất để khởi nghĩa đánh Pháp. Tháng 8 năm 1914,
khi Đức bắt đầu tiến quân đánh vào nước Pháp, ông đã viết thư gửi Thái
Phiên nói rõ: "Ngày Đức - Pháp đánh nhau chính là thời cơ độc lập của
nước Việt Nam". Nhưng đề nghị của Lê Ngung không được Thái Phiên và
các nhà lãnh đạo khác chấp nhận, vì cho rằng lực lượng khởi nghĩa chưa
mạnh, lực lượng quân sự của Pháp chưa thật suy yếu.
Trước tình hình chiến tranh xảy ra ngày càng ác liệt, tháng 01 năm
1915 Lê Ngung lại viết thư lần thứ hai đề nghị tiến hành khởi nghĩa. Tuy
nhiên Thái Phiên và các nhân vật chủ chốt khác vẫn chưa đồng ý vì lực
lượng quân Pháp còn mạnh, lực lượng vũ trang ở các tỉnh vẫn chưa phát
triển đều.
Lần thứ ba, ngày 3 tháng 7 năm 1915 Lê Ngung biết được tin, quân
Đức đang tiến đến gần Paris, Chính phủ Pháp phải rút một bộ phận quân
đội viễn chinh ở Đông Dương về bảo vệ nước Pháp. Lê Ngung lại gửi thư
cho Thái Phiên và gửi ra nước ngoài cho Phan Bội Châu thúc giục khẩn
thiết: "Thời hồ, thời hồ, thời bất tái lai! Kim trì bất phấn cô đãi hà thời?”
(Thời cơ! thời cơ! Thời cơ không trở lại. Ngày nay không phấn đấu đợi
đến lúc nào?).
Lần này thì Thái Phiên và các đồng chí chấp nhận và quyết định
triệu tập Hội nghị các nhà yêu nước các tỉnh miền Nam Trung Kỳ tại Huế
để bàn định. Kế hoạch được lập ra, nhưng lại bị bại lộ từ hai ngày trước,
mà ủy ban khởi nghĩa không hề biết. Kết quả là toàn bộ ủy ban khởi nghĩa
và vua Duy Tân bị bắt.
Giặc Pháp bắt được hầu hết các ủy viên ủy ban khởi nghĩa và nhiều
binh lính, dân binh ở Quảng Ngãi. Lê Ngung bị bao vây, chiến đấu tới
cùng rồi uống thuốc độc để sẵn trong người tự tử. Tuy vậy giặc vẫn lập
Tòa án kết án ông ''Lục thi trảm niên", nghĩa là dù chết rồi vẫn đem thi hài
ra chém bêu đầu ở làng Cam Lê cùng 13 đồng chí của ông. Các thủ lĩnh
khác như Nguyễn Thụy, Trần Thiểm (Thêm), Võ Cần, Mai Tuấn, Hứa Thọ
bị bắt và bị chém đầu. Phạm Cao Chẩm cùng nhiều binh lính người Việt bị
đày đi Côn Đảo, Châu Doãn Địch và 25 người khác bị đày ở nhà lao Thái
Nguyên.
NGUYỄN THỤY
Nguyễn Thụy còn có tên là Nguyễn Sụy, sinh năm Canh Thân (1880),
quê tại thôn Hổ Tiếu, xã Tư Nghĩa Hạ, nay là ấp Hố Thanh, xã Tư Nguyên,
huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Ông xuất thân từ một gia đình bá hộ nổi
tiếng trong vùng. Ông là người thông minh, giao du rộng, tính tình khảng
khái, cương trực.
Nguyễn Thụy đỗ cử nhân Hán học khoa Quý Mão (1903) tại trường
thi Bình Định. Ông cũng giỏi chữ Quốc ngữ, học rộng, đọc nhiều tân thư
của Trung Quốc, giao du với bạn bè ở nhiều tỉnh, tính tình khảng khái,
cương trực và rất trung hiếu. Mặc dù thi đỗ cử nhân, bạn bè rủ ra làm việc
nhưng ông đều từ chối, mà nói: "Nước có đạo, nên ra làm quan, nước vô
đạo nên ở ẩn".
Để góp phần truyền bá lòng yêu nước trong nhân dân, ông làm giáo
viên dạy chữ Quốc ngữ ở trường Vạn Tường. Cũng trong thời gian dạy
học, ông hưởng ứng phong trào Duy tân do Phan Bội Châu sáng lập. Ông
cắt tóc ngắn, bắt học trò cũng cắt tóc ngắn và thường ra Hà Nội mua sách
Tân thư về đọc. Đầu năm 1908 phong trào "khất thuế" "xin xâu" của nhân
dân huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam lan nhanh khắp tỉnh rồi lan sang tỉnh
Quảng Ngãi.
Tháng 3/1908, Nguyễn Thụy cùng với Nguyễn Bá Loan (ấm Loan)
và Lê Khiết đứng ra vận động phong trào chống Pháp như ở Quảng Nam
dưới chiêu bài "xin khất thuế". Cử nhân Nguyễn Thụy làm tân thơ khích lệ
đồng bào đấu tranh. Thơ của ông được hàng vạn đồng bào học thuộc lòng
cùng đồng thanh ca vang như sấm dậy, khiến bọn Pháp và lũ tay sai run sợ,
chúng đóng chặt các cổng thành. Lực lượng nhân dân đến bao vây càng
đông, Nguyễn Thụy cùng ban lãnh đạo liền rút bớt lực lượng bao vây
thành, phân tán thành những nhóm nhỏ, đi lùng bắt bọn Việt gian, tay sai
của Pháp. Giặc Pháp bắt được hầu hết những người lãnh đạo phong trào
"xin xâu" như Cử Thụy, Cử Quảng, tú tài Phạm Cao Chẩm, Tú Huyên, đi
đày Côn Đảo. Sau khi mãn hạn tù, ông đã nhanh chóng trở thành yếu nhân
của Việt Nam Quang Phục hội ở Quảng Ngãi. Ông cùng Lê Ngung, Võ
Cầu, Mai Tuấn nhanh chóng phát triển tổ chức của hội ra toàn tỉnh.
Cuối năm 1915 Pháp thua Đức trong chiến tranh châu Âu, quân Đức
tấn công thủ đô Paris. Bọn Pháp ở Đông Dương ráo riết bắt lính, lính thợ
sang Paris làm bia đỡ đạn cho chúng, vơ vét tài nguyên ở Đông Dương
chở về nước phục vụ chiến tranh. Các ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, Lê
Ngung, Nguyễn Thụy... nhân cơ hội này mưu tính cuộc khởi nghĩa chống
Pháp. Hầu hết đồng bào, thân sĩ đều hưởng ứng, một phần ba người Việt
trong quân đội Pháp tình nguyện làm nội ứng cho quân khởi nghĩa. Cử
Thụy đã bí mật tổ chức nghĩa binh, vận động dân chúng quyên góp rất có
kết quả. Nhưng đại sự đã lộ ở Quảng Ngãi từ ngày 29 tháng 3 năm Bính
Thìn (chiều 1/5/1916). Việc bại lộ, Cử Thụy lệnh cho các toán nghĩa đang
tiến về thành Quảng Ngãi rút lui để bảo toàn lực lượng. Nghĩa quân bỏ lại
nhiều gươm giáo Trong mấy ngày liền, lính Pháp và bọn tay sai tầm nã
khắp nơi bắt trên 100 đảng viên Việt Nam Quang Phục hội đầy đi Côn Đảo.
Tri phủ Tư Nghĩa Nguyễn Mậu dẫn tổng lý, tập binh bao vây, đóng tại nhà
Cử Thụy, bắt mẹ ông làm con tin, kê khai tài sản, tầm nã Cử Thụy gắt gao.
Thương mẹ và để giặc không bắt thêm các đồng chí, đêm hôm ấy Cử Thụy
lẻn về nhà tắm rửa sạch sẽ. Ngay 5 giờ sáng chúng giải ông về tỉnh. Dọc
đường ông nằm trong võng vén màn cho đồng bào xem mặt.
Ngày 10 tháng 5 năm 1916 (tức ngày 9 tháng 4 năm Binh Thìn) giặc
Pháp và bọn tay sai Nam triều đưa Cử Thụy, Lê Triết, Trần Thân, Mai
Tuấn, Hứa Thọ và một số đồng chí ra cửa bắc thành Quảng Ngãi chém
đầu. Đồng bào, đồng chí bí mật quyên góp làm lễ truy điệu và để tang ông.
PHAN THÀNH TÀI
Phan Thành Tài, hiệu Đức Đạt sinh năm 1869 người làng Bảo An,
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Phan Thành Tài rất nhiệt huyết với Tân
học do Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp chủ trương. Năm 1906 Trần Quý
Cáp được bổ nhiệm làm giáo thụ phủ Thăng Bình. Theo Tiểu sử Trần Quý
Cáp viết: "... Đến nơi (Thăng Bình), Tiên sinh mở lớp Tân học ngay trong
trường giáo, rước thày về dạy chữ Pháp, chữ Quốc ngữ, học trò xa gần đến
học có hơn đôi trăm người".
Cùng với trường Thăng Bình, ở Quảng Nam còn có nhiều trường
nữa, trong đó có hai trường lớn, nổi tiếng là trường Diên Phong mở tại
Phong Thử huyện Điện Bàn (sau dời về Phước Bình). Giáo sư của trường
có Tiến sĩ Trần Quý Cáp, cử nhân Phan Thúc Duyên, Mai Ái và Phan
Thành Tài. Ông Tài là người tổ chức, quản lý và là giáo viên chính của
trường. Trường Diên Phong cũng như các trường ở Quảng Nam, Quảng
Ngãi... chỉ tồn tại đến năm 1908 khi phần lớn cán bộ giảng dạy của trường
như Trần Quý Cáp, Phan Thành Tài, tham gia lãnh đạo phong trào chống
thuế bị bắt. Trần Quý Cáp bị xử chém, Phan Thành Tài bị bắt đi đày...
Sau khi ra tù Phan Thành Tài lại bí mật cùng các đồng chí hội họp để
thành lập tổ chức yêu nước chống Pháp mới. Năm 1912, Việt Nam Quang
Phục hội thành lập ở tỉnh Quảng Đông phát triển về trong nước. Quảng
Nam là nơi có phong trào mạnh thì Phan Thành Tài lại tham gia và trở
thành một yếu nhân trong tổ chức này. Chiến tranh lần thứ nhất bùng nổ,
Đức đánh. Pháp phải rút bớt lực lượng quân đội Pháp ở Đông Dương, bắt
lính khố đỏ, lính thợ người Việt sang Pháp đánh Đức. Trước tình thế đó,
những người đứng đầu tổ chức Việt Nam Quang Phục hội ở Trung Kỳ
muốn nhân cơ hội này tổ chức lực lượng vũ trang đánh đổ Pháp.
Tháng 9 năm 1915 tại cuộc họp ban Lãnh đạo Việt Nam Quang Phục
hội toàn Trung Kỳ. Dự cuộc họp có Thái Phiên, Trần Cao Vân, Đỗ Tự,
Phan Thành Tài, Lê Đình Dương, Lê Ngung, Nguyễn Thụy, Võ Văn Trứ để
bàn việc khởi nghĩa và thống nhất mời vua Duy Tân tham gia.
Sau cuộc tiếp xúc giữa vua Duy Tân với Thái Phiên và Trần Cao Vân
vào ngày 12 tháng 3 năm Bính Thìn (1916) nhà vua nhận lời tham gia cuộc
khởi nghĩa. Từ đó Phan Thành Tài luôn luôn ở bên cạnh Thái Phiên, Trần
Cao Vân cùng vạch phương hướng hành động, chỉ đạo cho các tỉnh tích
cực chuẩn bị cuộc khởi nghĩa.
Trong một cuộc Hội nghị của Việt Nam Quang Phục hội Trung Kỳ đã
quyết định bầu ủy ban khởi nghĩa có Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan
Thành Tài, Lê Ngung, Đỗ Tự và Nguyễn Thụy. Theo Việt Nam Pháp thuộc
sử của Phan Khoang thì Phan Thành Tài được cử làm Nam - Nghĩa kinh
lược. Ông được ủy ban khởi nghĩa giao nhiệm vụ chỉ huy nghĩa quân đánh
chiếm tỉnh Quảng Nam nơi có căn cứ để đón vua Duy Tân. Khi cuộc khởi
nghĩa thất bại, quân Pháp và quân Nam triều chiếm đóng làng Bảo An, tàn
sát dân chúng, đốt phá nhà cửa. Chúng đe dọa nếu Phan Thành Tài không
về hàng thì chúng giết cả làng. Thương dân, ông tự về làng cho chúng bắt.
Giặc Pháp xử tử ông vào ngày 9 tháng 7 năm 1916.
LÊ CHÂU HÀN
Lê Châu Hàn còn có tên là Lê Cảnh Thái hay Ấm Hàn (có tư liệu viết
là Hàng) và em là Lê Châu Nam, còn có tên là Lê Cảnh Vạn hay Viên
Thông con cụ Lê Hữu Khánh làm quan tới Quang lộc Tự khanh, Triều liệt
đại phu Đông các đại học sĩ, quê ở làng Mỹ Thị, huyện Diên Phước, sau
thuộc xã Hòa Long, huyện Hòa Vang, nay thuộc khối Đa Mỹ Tây, phường
Bảo Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Lê Châu Hàn đỗ tú
tài dưới triều vua Thành Thái, song ông là người yêu nước, thiếu thời đã
cùng em là Lê Châu Nam (tức Lê Cảnh Vạn) gia nhập tổ chức Việt Nam
Quang Phục hội, hoạt động tại các tỉnh Nam Trung Kỳ do hai ông Thái
Phiên, Trần Cao Vân lãnh đạo. Hai ông Hàn, Nam trở thành những yếu
nhân của tổ chức Việt Nam Quang Phục ở Nam Trung Kỳ.
Đầu năm 1914, Thái Phiên cùng với Lê Ngung một người yêu nước
ở tỉnh Quảng Ngãi tổ chức cuộc họp mặt các nhà yêu nước ở Trung Kỳ tại
Đà Nẵng. Lê Châu Hàn, Lê Châu Nam cũng dự hội nghị đó. Hội nghị nhất
trí phải chuẩn bị khởi nghĩa. Hai ông có cha làm quan to trong triều, có cơ
hội gần gũi vua Duy Tân một ông vua yêu nước, nên được Thái Phiên và
Trần Cao Vân giao cho tiếp xúc. Sau mấy lần trò chuyện với anh em họ
Lê, vua Duy Tân hưởng ứng cuộc khởi nghĩa, giao cho hai ông bố trí cho
nhà vua gặp hai nhà cách mạng Thái Phiên, Trần Cao Vân.
Lê Châu Hàn đã bố trí cuộc gặp gỡ đó một cách an toàn ở Cửa Tùng,
nhà vua đã tán thành và tham gia cuộc khởi nghĩa.
Song cuộc khởi nghĩa thất bại, hầu hết các nhà lãnh đạo Việt Nam
Quang Phục hội ở Nam Trung Kỳ trong đó có Lê Châu Hàn, Lê Châu Nam
bị bắt. Các ông Thái Phiên, Trần Cao Vân bị xử chém. Vua Duy Tân đưa đi
đày, Lê Châu Hàn, Lê Châu Nam nhờ có thế lực của cha nên chỉ bị giam ở
nhà tù 10 năm thoát khỏi án tử hình.
LÊ CHÂU NAM
Lê Châu Nam còn có tên là Lê Cảnh Vận, Lê Cảnh Thông. Ông là
con quan Triều liệt đại phu Lê Hữu Khánh, là em trai Lê Châu Hàn. Ông
sinh ra trong một gia đình cự tộc họ Lê ở Quảng Nam - Đà Nẵng.
Mặc dù là con quan đại thần, nhưng trước nạn đất nước bị giặc Pháp
thống trị, cả dân tộc bị trói buộc trong vòng nô lệ, ông đã cùng với người
anh trai là Lê Châu Hàn gia nhập tổ chức Việt Nam Quang Phục hội Trung
Kỳ do Thái Phiên, Trần Cao Vân khởi xướng. Nhờ uy tín của cha từng là
thày dạy học cho vua Thành Thái và vua Duy Tân khi còn là Hoàng tử, nên
ông có dịp thân cận với nhà vua. Hai thủ lĩnh Thái Phiên, Trần Cao Vân
giao phó đặc trách công tác tư tưởng cách mạng với vua Duy Tân. Nhà vua
yêu nước đã hưởng ứng và trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa Bính
Thìn (1916). Lê Châu Nam được tham đự bàn cơ mun hành động với các
ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, Lê Ngung, Lê Cơ, Nguyễn Sụy (Nguyễn
Thụy), Phan Thành Tài, Lê Đình Dương, Lê Châu Hàn, Tôn Thất Đề,
Nguyễn Quang Siêu. Ông được giao cho giữ mối liên lạc giữa nhà vua và
ban lãnh đạo khởi nghĩa.
Cuộc khởi nghĩa vào ngày mùng 3 tháng giêng năm Bính Thìn quyết
định khởi sự vào 9 giờ đêm hôm đó. Song do sự phản bội của những tên
Việt gian bán nước mà cuộc khởi nghĩa bị lộ, giặc Pháp đã kịp thời đối
phó. Các ông thấy đã đến giờ mà không thấy súng thần công nổ làm hiệu
lệnh thì bỗng nhiên giặc Pháp kéo đến, đồng thời nghe tiếng kêu khói ở
trong cung vang động. Thái Phiên biết đại sự đã đổ vỡ, ông Thái Phiên bèn
bảo Lê Châu Nam qua bến Ngự báo hung tin. Nhà vua nghe xong thở dài:
"Thôi việc như rứa thì hay rứa, chừ thày đi tìm mời thày phó" (tức Thái
Phiên đến nhận mệnh). Ông vội ra đi và liền ngay sau đó, ông lại đến gặp
lại nhà vua với hai thị vệ thân tín là Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu
phò vua Duy Tân xuất bôn. Chính ông là người cõng vua Duy Tân băng
thành trong đêm khởi nghĩa năm Bính Thìn (1916). VI thế ông bị giặc Pháp
bắt cùng vói các ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Thành Tài, Tôn Thất
Đề, Nguyễn Quang Siêu. Tất cả đều bị kết án tử hình, hành quyết vào ngày
17 tháng 5 năm 1916. Riêng ông may mắn thoát chết nhờ uy thế của thân
phụ và Thượng thư Bộ Hình Hồ Đắc Trung mà chỉ bị án tù 10 năm, nhưng
thực dân Pháp giam giữ ông tới vài chục năm mới thả. Ông trở về thì
phong trào Việt Minh đang lên cao, ông tích cực hoạt động và tham gia
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Đêm 1 tháng 8 năm Giáp Thìn
(1946) ông bị chết một cách thê thảm. Ông được táng ở nghĩa địa Lê tộc
cùng với cha mẹ, anh là Lê Cảnh Hàn tại phường Bắc Mỹ An, quận Sơn
Trà, thành phố Đà Nẵng.
TÀI LIỆU BIÊN SOẠN CHÍNH

Sách lịch sử:


- Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1894
- Việt sử cương mục tiết yếu
- Đại Nam thực lục chính biên, tập 34, 35, NXB Khoa học xã hội, 1974.
- Công văn tấu tập, ký hiệu A545, Thư viện Khoa học xã hội.
- Hà Nội thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trần Quốc
Vượng chủ biên, NXB Quân đội Nhân dân.
- Hội đồng lịch sử Hà Bắc: Lịch sử Hà Bắc tập I.
- Ban nghiên cứu lịch sử Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh, Những mẩu chuyện và thời
niên thiếu của Bác Hồ, NXB Sự thật, 1985.
- Lịch sử 80 năm chống Pháp.
- Hà Nam nhân vật lịch sử và văn hóa
- Trần Văn Giầu: Chống xâm lăng quyển I, II, NXB Xây dựng, Hà Nội
1956
- Tôn Quang Phiệt: Phan Bội Châu và một giai đoạn lịch sử chống Pháp
của nhân dân Việt Nam, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1958.
- Dương Kinh Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử, tập I, NXB Khoa
học xã hội.
- Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu Phước: Khởi nghĩa Trương Định, NXB
Thành phố Hồ Chí Minh, 1989.
- Phan Trần Chúc - Lê Quế: Nguyễn Tri Phương, NXB Quốc Văn, Hà Nội,
1946.
- Ban liên lạc Cựu chiến binh Việt Nam ở Cămpuchia thời kỳ 1945- 1954:
Quân tình nguyện Việt Nam ở Cămpuchia thời kỳ 1945-1954.
- Phan Khoang: Việt Nam Pháp thuộc sử, Sài Gòn 1974.
- Đào Đăng Vỹ: Nguyễn Tri Phương, Bộ Văn hóa - Giáo dục và thanh niên,
Sài Gòn, 1974.
- Phạm Văn Sơn: Quân dân Việt Nam chống Tây xâm, Sài Gòn, 1963.
- Nguyễn Văn Hầu: Cuộc khởi nghĩa Bẩy Thưa, Tân Sinh, Sài Gòn, 1956.

Sách Văn học:


- Phan Bội Châu toàn tập, nxb Thuận Hóa
- Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, NXB Văn học, Hà Nội, 1970.
- Thơ văn yêu nước Nam Bộ.
- Dương Quảng Hàm: Văn học sử yếu, nha Học chính Đông Pháp, Hà Nội,
1943.
- Đại Nam chính biên liệt truyện, Quốc sử quán triều Nguyễn
- Phan Bội Châu niên biểu
- Truyện Trương Định
- Ông Nghè, ông Cống triều Nguyễn
- Sơn Nam: Bến Nghé xưa, NXB Trẻ 1997.
- Trần Văn Giáp: Lược truyện các tác gia Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1971.
- Phạm Phú Thứ với tư tưởng Canh tân, NXB Đà Nẵng, 1995.
- Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập II, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1969.
- Nhóm Trà Lĩnh: Đặng Huy Trứ: Con người và tác phẩm, NXB Thành phố
Hồ Chí Minh, 1990.
- Kỳ Xuyên Văn Sao, bản dịch của Lê Thước.
- Văn học yêu nước cách mạng Hà Nam Ninh.
- Phạm Thận Duật toàn tập, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000.
- Danh nhân Thái Bình.
- Các nhà khoa bảng Việt Nam.
- Vè Thái Bình.
- Vũ Ngọc Khánh: Giai thoại ông đồ, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2002.

Địa chí:
- Địa chí Bến Tre

Sách tiếng Pháp:


- André Massen: "Hà Nội, giai đoạn 1873 - 1888".
- Dulleman: Cuộc chiến tranh chống cướp bóc
- Histoire militaire de l'Indochine Francais
- Parlin Histoire de la Cochindume
- Toboulel: Le geste francais en Indochine
- P.Vial: Les premièrè années de la Cochine (Những năm đầu ở Nam Kỳ).
- Annales de la, prapagagation de la Foi
- L'Amiral Dpéet la conquête du Ton Kin Dideb.
- Histoire militaire de l'Indochinoir
- Những người Pháp ở Bắc Kỳ và việc can thiệp của người Pháp.
- Xứ Bắc Kỳ và sự can thiệp của Pháp (bản dịch thư viện KHXH).

Sách tiếng Nga:


- K.Xtannhin Kêvich: Vòng quanh thế giới trên lầu Coóc xin: Tuyển tập tác
phẩm, 1977.

Sách tiếng Trung Quốc:


- Dương sự thủy mạt: Bản dịch của trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
- Chiến tranh Trung - Pháp, quyển 7.

Báo cáo:
- Báo cáo của công sứ Thái Bình Ô e (Auer), hồ sơ số 71, 844, F6, 686,
Cục lưu trữ Trung ương.
- Simôni: Báo cáo gửi Toàn quyền Đông Dương.
- Thư tín chính trị (Contes pondances pliliquen) (Thư của De Vile gửi cho
Henririvière).

Tạp chí:
- Tạp chí Nghiên cứu lịch sử các số 3/1977; Số 2/1990, số 4/1994, số
6/2000.
- Tạp chí Xưa và nay số 223 tháng 1/2004; số 223/2005.
- Tạp chí Toàn cảnh số 5/1999.

Gia phả:
- Gia phả họ Lê Xuân ở Rạch Giá.

You might also like