You are on page 1of 17

V.I.

LÊNIN BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN


CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
(Kỷ niệm 150 năm Ngày sinh V.I.Lênin (22/4/1870 – 22/4/2020))

Đặng Hữu Toàn(*)

Chúng ta đều biết, V.I.Lênin (1870 – 1942) không chỉ là người vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng vào việc giải
quyết những vấn đề của cách mạng vô sản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa
và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội của cộng đồng nhân loại trên phạm vi
toàn thế giới, mà còn là người bảo vệ vững chắc lý luận này trước sự tấn
công, xuyên tạc của kẻ thù của nó dưới mọi hình thức, chiêu bài. Hơn thế nữa,
ông còn là người có đóng góp lớn lao vào sự phát triển lý luận của chủ nghĩa
Mác nói chung, triết học Mác nói riêng, đưa lý luận này sang một giai đoạn
phát triển mới và làm cho chủ nghĩa Mác, triết học Mác trở thành chủ nghĩa
Mác – Lênin, triết học Mác – Lênin. Và, một trong những cống hiến nổi bật
nhất trong đó là việc ông bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng –
cơ sở lý luận nền tảng của chủ nghĩa Mác, triết học Mác.
Thật vậy, từ những tác phẩm đầu tay cho đến những tác phẩm cuối đời,
V.I.Lênin luôn dành hết tâm huyết và công sức lao động khoa học cho việc
bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, triết học Mác nói chung, chủ nghĩa duy
vật biện chứng nói riêng với rất nhiều tác phẩm, trong nhiều lĩnh vực khoa
học và thể hiện, thực hiện những cống hiến lớn lao đó trong lý luận và thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên lĩnh vực triết học, trong một tác phẩm
lớn đầu tay của mình – Những người bạn dân là thế nào… (1894), V.I.Lênin
đã không chỉ vạch trần bản chất giả danh “người bạn của dân” của các nhà
dân túy Nga, mà còn kịch liệt phê phán quan điểm duy tâm chủ quan về lịch
sử của họ từ lập trường duy vật biện chứng. Trong cuộc đấu tranh quyết liệt
này, ông không chỉ bảo vệ triết học Mác, chủ nghĩa duy vật biện chứng khỏi

(*)
Phó Giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
2
sự xuyên tạc của các nhà dân túy Nga, mà còn phát triển, làm phong phú thêm
quan niệm duy vật về lịch sử, nhất là lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của
C.Mác. Không chỉ thế, trong tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn đích thực
của chủ nghĩa Mác cách mạng, là văn kiện mácxít mang tính cương lĩnh này,
từ quan điểm biện chứng duy vật, V.I.Lênin còn khẳng định rằng, tiến trình
của lịch sử nhân loại mà C.Mác đã vạch ra từ học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội được quyết định bởi những quy luật phát triển khách quan và động lực
chủ yếu cho sự phát triển của xã hội là quần chúng nhân dân, là các giai cấp
mà cuộc đấu tranh của họ quyết định sự phát triển của xã hội.
Trong một tác phẩm lớn khác, được viết trong những năm đang diễn ra
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất – Bút ký triết học (1914 – 1915), rất nhiều
vấn đề triết học đã được V.I.Lênin tập trung nghiên cứu nhằm đáp ứng nhu
cầu nhận thức giai đoạn độc quyền nhà nước của chủ nghĩa tư bản và giải
quyết những vấn đề cấp bách của thực tiễn cách mạng vô sản. Trong tác phẩm
này, V.I.Lênin dành sự quan tâm đặc biệt không chỉ cho việc khẳng định sức
sống và giá trị lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mà còn nghiên cứu
một cách hết sức tỉ mỉ, thấu đáo phép biện chứng, nhất là phép biện chứng
trong triết học Hêghen, để tiếp tục khai thác cái “hạt nhân hợp lý” của triết
học này và làm phong phú thêm chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng do
C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng.
Với mục đích phát triển chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng duy vật
của triết học Mác, trong Bút ký triết học, V.I.Lênin đã tập trung luận giải
những quy luật và phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng,
lịch sử hình thành và phát triển của chúng, ý nghĩa và vai trò của chúng đối
với các khoa học xã hội và khoa học tự nhiên, tính chất biện chứng của sự
phát triển khoa học và kỹ thuật. Theo ông, “kế tục sự nghiệp của Hêghen và
của Mác phải là sự xây dựng một cách biện chứng lịch sử của tư tưởng loài
người, của khoa học và kỹ thuật”( 1). Và, khi luận giải quy luật về sự thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập – quy luật mà chỉ có xuất phát từ nó,

1
() V.I.Lênin. Toàn tập, t.29. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.156.
3
mới có thể hiểu được các quy luật và phạm trù khác của chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng, V.I.Lênin đã khẳng định: “Sự phân đôi của cái thống nhất
và sự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó, … đó là thực chất (một trong
những “bản chất”, một trong những đặc trưng hay đặc điểm cơ bản, nếu
không phải là đặc điểm hay đặc trưng cơ bản nhất của phép biện chứng”( 2).
Từ khẳng định này, ông đã đưa thêm vào triết học Mác một trong những định
nghĩa kinh điển về phép biện chứng: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện
chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập”; và cho rằng, nắm
vững học thuyết (quy luật) này có nghĩa là “nắm được hạt nhân của phép biện
chứng”(3), nắm vững phép biện chứng là nắm được lý luận duy nhất đúng về
sự phát triển, bởi nó “cho ta chìa khóa của “sự tự vận động” của tất thảy mọi
cái đang tồn tại” và giúp ta làm rõ những yếu tố phổ biến “trong tất cả các
hiện tượng và quá trình của giới tự nhiên (kể cả tinh thần và xã hội”) để trên
cơ sở đó, tìm ra “những quy luật chung của vận động của thế giới và tư duy(4).
Thêm nữa, cũng trong Bút ký triết học, khi luận giải việc áp dụng chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng với tư cách lý luận duy nhất đúng đắn về sự
phát triển vào quá trình nhận thức, V.I.Lênin còn cho rằng, công việc này đã
được Hêghen thực hiện dưới hình thức duy tâm, còn C.Mác thì thực hiện nó
dưới hình thức duy vật; rằng, “trong “Tư bản”, Mác áp dụng lôgíc, phép biện
chứng và lý luận nhận thức (không cần ba từ: đó là cùng một cái duy nhất)
của chủ nghĩa duy vật vào một khoa học duy nhất”(5). Và, khi luận giải mối
tương quan giữa phép biện chứng, lôgíc học và lý luận nhận thức trong triết
học Mác, V.I.Lênin đã chỉ rõ những lĩnh vực tri thức mà lý luận nhận thức
phải dựa vào đó để khai thác tư liệu – đó là lịch sử triết học, lịch sử khoa học,
nhất là khoa học tự nhiên, lịch sử tư duy, lịch sử tâm – sinh lý,… Theo ông,
chính sự phát triển của triết học, của khoa học tự nhiên đã chứng thực tính
chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử mà
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng.
2
() V.I.Lênin. Sđd., t.29, tr.378.
3
() V.I.Lênin. Sđd., t.29, tr.240.
4
() V.I.Lênin. Sđd., t.29, tr.379, 184.
5
() V.I.Lênin. Sđd., t.29, tr.359 - 360.
4
Kỷ niệm 150 năm Ngày sinh V.I.Lênin (22/4/1870 – 22/4/2016), nói đến
những cống hiến lớn lao của ông trong việc bảo vệ và phát triển triết học Mác
nói chung, chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng chúng ta không thể không
nói đến cống hiến được coi là lớn lao nhất của ông trong một giai đoạn hết
sức đặc biệt – giai đoạn mà chủ nghĩa Mác, triết học Mác lâm vào “một cuộc
khủng hoảng vô cùng trầm trọng” vào những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế
kỷ XX. Trong những năm này, mặc dù bận rộn với công việc chuẩn bị cho
cách mạng vô sản Nga, V.I.Lênin vẫn xác định việc bảo vệ và phát triển triết
học Mác, chủ nghĩa duy vật biện chứng là nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp
bách hơn bao giờ hết. Thực hiện nhiệm vụ này, ông đã viết và cho xuất bản
một tác phẩm được coi là một trong những tác phẩm kinh điển tiêu biểu nhất
của triết học Mác – Lênin, Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán (đúng hơn là Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa phê phán kinh nghiệm) mà
ở đó, để bảo vệ và phát triển triết học Mác, chủ nghĩa duy vật biện chứng ông
đã luận giải rất nhiều vấn đề, từ vấn đề cơ bản của triết học, lý luận nhận
thức duy vật biện chứng, quan điểm của triết học Mác về chân lý và tiêu
chuẩn của chân lý đến mối quan hệ biện chứng giữa triết học và khoa học tự
nhiên, giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tính
đảng của triết học, v.v..
Do vậy, nhân Kỷ niệm 150 năm Ngày sinh V.I.Lênin, trong bài viết
này, chúng tôi tập trung nói về cống hiến đó của V.I.Lênin.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán được V.I.Lênin
viết từ tháng 2 đến tháng 10 năm 1908 trong một bối cảnh lịch sử hết sức đặc
biệt. Đó là thời kỳ sau thất bại của cuộc Cách mạng Nga lần thứ nhất (1905 –
1907). Khi đó, thế giới quan duy vật biện chứng đang phải hứng chịu một
cuộc tấn công quyết liệt của thế giới quan duy tâm thần bí. Lợi dụng sự thất
bại của Cách mạng Nga, các tư tưởng gia của giai cấp tư sản ra sức xuyên tạc,
bóp méo và tầm thường hóa chủ nghĩa Mác và lý luận cách mạng của C.Mác,
Ph.Ăngghen nói chung, triết học Mác nói riêng. Chúng lớn tiếng ca ngợi thế
giới quan duy tâm thần bí và cố gắng phục hồi tôn giáo nhằm biện hộ về
5
phương diện tư tưởng cho các thế lực phản cách mạng và sử dụng các giáo lý
tôn giáo để làm cho giai cấp vô sản xa rời đấu tranh cách mạng.
Trong lĩnh vực triết học, chiếm địa vị thống trị khi đó là những hình
thức của chủ nghĩa duy tâm cực đoan. Chúng tiến hành “phê phán” chủ nghĩa
Mác và những nguyên lý nền tảng của triết học Mác nhằm phủ nhận tính quy
luật trong quá trình phát triển của tự nhiên và của xã hội, phủ nhận khả năng
nhận thức thế giới của con người. Cội nguồn xuất phát của chúng là khuynh
hướng triết học được gọi là triết học “kinh nghiệm phê phán”, “chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán” hay chủ nghĩa Makhơ – khuynh hướng triết học được
phổ biến rộng rãi ở châu Âu cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX do nhà triết
học, nhà vật lý học người Áo – E.MaKhơ và nhà triết học Đức – R.Avênariút
khởi xướng.
Không bao lâu sau khi xuất hiện, chủ nghĩa Makhơ đã trở thành một
trào lưu triết học phổ biến ở châu Âu. Nhiều nhà khoa học có tên tuổi, như
H.Poanhcarê, A.Anhstanh,… đã rơi vào ảnh hưởng của nó. Một số nhà tư
tưởng dân chủ - xã hội vốn tự xưng là “học trò của Mác” đã coi chủ nghĩa
Makhơ là “tột đỉnh của khoa học”, là cái “thay thế” triết học Mác. Các nhà tư
tưởng theo chủ nghĩa cơ hội trong Quốc tế II (C.Cauxki, Ph.Átlơ,…) đã sử
dụng chủ nghĩa Makhơ để “xét lại” các nguyên lý nền tảng của triết học Mác,
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và coi nhận thức luận của Makhơ là cái “bổ
sung” cho chủ nghĩa Mác. Khi đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng với tư cách
triết học khoa học, theo V.I.Lênin, “đâu đâu cũng bị bọn họ ruồng bỏ” và tất
cả các trào lưu tư sản trong Đảng dân chủ - xã hội đều “chống lại chủ nghĩa
duy vật triết học”, đi theo khuynh hướng “triết học phê phán”(6).
Chủ nghĩa Makhơ cũng nhận được sự tán đồng của không ít các nhà tư
tưởng và trí thức trong Đảng Công nhân xã hội – dân chủ Nga. Họ đã lợi dụng
chủ nghĩa này để “xét lại” chủ nghĩa duy vật biện chứng, “xét lại” đường lối
chiến lược, sách lược của các đảng vô sản, mưu toan biến chủ nghĩa xã hội
thành một thứ tôn giáo mới, triệt phá cơ sở lý luận và tinh thần đấu tranh cách

6
() V.I.Lênin. Sđd., t.47, tr.176.
6
mạng của giai cấp vô sản. Ở nước Nga khi đó đã xuất hiện “xu hướng ngày
càng ngả về triết học duy tâm” và lấy chủ nghĩa duy tâm thần bí “che đậy tinh
thần phản cách mạng”, phủ nhận tính khách quan, tính quy luật của cách
mạng xã hội, giải thích các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội theo tinh
thần của chủ nghĩa duy tâm triết học(7). Do sự nhận thức chủ nghĩa Mác, triết
học Mác “một cách hết sức phiến diện, hết sức kỳ quặc”, bóp méo, xuyên tạc
những nguyên lý nền tảng của triết học Mác theo tinh thần của chủ nghĩa
Makhơ, họ đã không hiểu được biện chứng của sự phát triển lịch sử, không
tìm thấy và cũng “không hiểu được tiêu chuẩn mácxít” cho việc giải quyết
những vấn đề thực tiễn(8).
Trong bối cảnh đó, với sự tấn công quyết liệt của chủ nghĩa Makhơ vào
những nguyên lý nền tảng của triết học duy vật biện chứng, với xu hướng
phục hồi triết học duy tâm, chủ nghĩa Mác, triết học Mác lại một lần nữa lâm
vào khủng hoảng, và như V.I.Lênin thừa nhận, đó là “một cuộc khủng hoảng
vô cùng trầm trọng bên trong chủ nghĩa Mác”, cuộc khủng hoảng mà trong
những điều kiện như thế, càng khiến cho “sự tan rã trong nội bộ chủ nghĩa
Mác đang trở nên đặc biệt nguy hiểm”. Bởi vậy, nhiệm vụ cấp bách nhất của
những người mácxít trong lúc này, theo V.I.Lênin, là phải hiểu rõ “tính chất
sâu sắc của cuộc khủng hoảng mà chủ nghĩa Mác đang trải qua”, phải nhận
thức được “sự tất yếu phải khắc phục cuộc khủng hoảng ấy để bảo vệ những
cơ sở lý luận và những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác đang bị những
phe đối lập nguy hiểm và trực diện nhất xuyên tạc bằng cách gieo rắc ảnh
hưởng tư sản vào “những bạn đường” khác nhau của chủ nghĩa Mác”. Và hơn
nữa, để bảo vệ những cơ sở, những nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Mác –
bảo vệ chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, V.I.Lênin khẳng định, những
người mácxít phải có “một hành động quyết liệt”, “một cuộc đấu tranh kiên
quyết, ngoan cường” chống lại chủ nghĩa Makhơ và mọi biến tướng của nó –

7
() Xem: V.I.Lênin. Sđd., t.41, tr.11 - 12.
8
() Xem: V.I.Lênin. Sđd., t.20, tr.103.
7
đó là “nhiệm vụ thời đại (chúng tôi nhấn mạnh – Đ.H.T)của những người
mácxít, nhiệm vụ hiểu theo nghĩa trực tiếp và chính xác nhất của chữ đó”(9).
Xuất phát từ quan niệm của Ph.Ăngghen – cứ sau mỗi phát minh mang
ý nghĩa đánh dấu thời đại, ngay cả khi đó là một phát minh trong khoa học tự
nhiên, thì chủ nghĩa duy vật tất yếu phải thay đổi hình thức của mình( 10),
trong bối cảnh lịch sử mới và khi mà một cuộc cách mạng đã bắt đầu diễn ra
trong khoa học tự nhiên, V.I.Lênin cho rằng, giờ đây, việc nghiên cứu chủ
nghĩa duy vật biện chững cũng cần phải gắn với những phát minh mới nhất
trong khoa học tự nhiên. Theo ông, chính sự phát triển của vật lý học và của
các khoa học tự nhiên khác đang đặt ra hàng loạt vấn đề triết học mới mà triết
học duy tâm không thể giải đáp được một cách khoa học. Những vấn đề triết
học mới đó là những vấn đề mà chủ nghĩa duy vật biện chứng cần phải giải
quyết. Nó phải khái quát hóa về mặt triết học tất cả những gì quan trọng nhất
mà khoa học tự nhiên đã đem lại trong thời kỳ sau C.Mác và Ph.Ăngghen để
mang lại một hình thức mới cho chủ nghĩa duy vật của các ông. Chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán đã ra đời trong bối cảnh đặc biệt
đó và có một ý nghĩa đặc biệt to lớn trong việc bảo vệ và tiếp tục phát triển
triết học Mác.
Trong tác phẩm này, để bảo vệ tính cách mạng và khoa học của triết
học Mác, của chủ nghĩa duy vật biện chứng, V.I.Lênin đã tiến hành phê phán
một cách toàn diện và triệt để mọi mưu toan “xét lại” chủ nghĩa Mác nhằm
bóp méo, xuyên tạc những nguyên lý nền tảng của triết học Mác. Ông còn
trình bày một cách rõ ràng và phát triển thêm những vấn đề cơ bản của triết
học Mác: Tính thống nhất vật chất của thế giới, tính khách quan của các quy
luật phát triển của tự nhiên và xã hội,… Đập lại luận điệu của Makhơ và
những nhà triết học tư sản khác theo chủ nghĩa Makhơ – những người cho
rằng triết học của họ mới là triết học mới nhất, “duy nhất khoa học”,
V.I.Lênin đã chỉ rõ, thứ triết học ấy về thực chất chỉ là một thứ chủ nghĩa duy
tâm cũ rích được núp dưới một chiêu bài mới. Dưới cái nhãn hiệu kỳ quặc đến
9
() Xem: V.I.Lênin. Sđd., t.20, tr.103 - 105.
10
() Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.409.
8
khó hiểu – “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, đúng hơn là “chủ nghĩa phê
phán kinh nghiệm” chủ nghĩa Makhơ chẳng qua chỉ là sự phục hồi lại và phần
nào đó “tô hồng” thêm thứ triết học bảo vệ chủ nghĩa ngu dân – triết học
Béccơli. Rằng, xuất phát điểm của “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” và triết
học Béccơli cũng chỉ là một – chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Thứ triết học duy
tâm chủ quan đó, theo V.I.Lênin, cần phải phê phán và bác bỏ. Và, khi bác bỏ
chủ nghĩa Makhơ, trước hết V.I.Lênin đã đặt ra cho những kẻ theo chủ nghĩa
Makhơ ở Nga và Tây Âu một câu hỏi mà đối với họ là hoàn toàn bế tắc: “Giới
tự nhiên có tồn tại trước loài người không?”. Một khi chủ nghĩa Makhơ cho
rằng sự vật, hiện tượng chỉ là những “phức hợp cảm giác” thì, V.I.Lênin
khẳng định, dù muốn hay không, nó cũng tất yếu dẫn đến một quan niệm hết
sức phi lý là: Thế giới, giới tự nhiên và cả con người chỉ tồn tại trong những
cảm giác của con người, trong cảm giác của bản thân nhà triết học. Rằng, toàn
bộ lý luận của Makhơ và những người theo chủ nghĩa Makhơ – cái lý luận coi
“vật thể là những phức hợp cảm giác” hay là một “phức hợp yếu tố, trong đó
cái tâm lý đồng nhất với cái vật lý”…, chẳng qua chỉ là “một chủ nghĩa ngu
dân triết học” – chủ nghĩa duy tâm chủ quan “được phát triển đến chỗ vô
lý”(11).
Tiếp tục bác bỏ chủ nghĩa Makhơ, V.I.Lênin lại đặt ra cho những người
theo chủ nghĩa Makhơ một câu hỏi nữa mà đối với họ còn bế tắc hơn: “Con
người có suy nghĩ bằng óc không?”. Thứ triết học cho rằng “óc của chúng ta
không phải là nơi ở, là trụ sở của tư duy”, không phải là “kẻ sáng tạo ra tư
duy”, hay “tư duy không phải là người cư trú trong óc”, không phải là “chủ
nhân của óc”, không phải là “một sản phẩm”, “một chức năng sinh lý” của óc,
như V.I.Lênin quả quyết, chẳng qua chỉ là thứ triết hộc duy tâm chủ nghĩa.
Nó trái ngược với khoa học tự nhiên – khoa học vốn “kiên quyết chủ trương
rằng tư tưởng là một chức năng của óc, rằng cảm giác, tức là hình ảnh của thế
giới bên ngoài, tồn tại trong chúng ta, do tác động của vật vào các giác quan
của chúng ta gây nên”. Nó cũng chỉ là một thứ triết học “kinh viện thuần túy

11
() V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.85.
9
và tối mù”, thứ triết học “không có óc”, mâu thuẫn với khoa học tự nhiên hiện
đại và thực tiễn hàng ngày(12).
Khi chỉ rõ nguồn gốc duy tâm của chủ nghĩa Makhơ, V.I.Lênin đồng
thời bóc trần tính chất phản cách mạng trong việc sử dụng chủ nghĩa Makhơ
để “xét lại” chủ nghĩa Mác của các nhà xã hội – dân chủ Nga, khi họ chủ
trương phát triển “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”; vạch rõ thực chất duy
tâm, phản mácxít trong “chủ nghĩa kinh nghiệm nhất nguyên” của Bôgđanốp,
“chủ nghĩa kinh nghiệm tượng trưng” của Iuskêvích,…
Thông qua cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa Makhơ và những trào lưu
triết học theo khuynh hướng này ở Nga, V.I.Lênin đã triệt để bảo vệ triết học
Mác, chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phát triển quan niệm của C.Mác và
Ph.Ăngghen về khái niệm vật chất, ông đã đưa ra một định nghĩa kinh điển về
khái niệm vật chất để tổng kết toàn bộ lịch sử đấu tranh của chủ nghĩa duy vật
chống chủ nghĩa duy tâm và thuyết siêu hình, tổng kết những phát minh mới
nhất của khoa học tự nhiên hiện đại. Ông viết: “Vật chất là một phạm trù triết
học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác”(13). Và, khi xem xét vật chất trong mối liên hệ của nó
với vận động, ông nhấn mạnh rằng, thực tại khách quan là vật chất đang vận
động. Theo đó, về phương diện nhận thức luận, vật chất là thực tại khách
quan, tồn tại độc lập đối với ý thức của con người và được ý thức của con
người phản ánh(14). Với định nghĩa đó, V.I.Lênin đã làm cho quan niệm của
triết học duy tâm hiện đại về “tính chất tinh thần” của tồn tại, về cái gọi là
“vật chất tiêu tan mất” và biến thành năng lượng – một “thực thể phi vật
chất”,… hoàn toàn phá sản.
Để chống lại sự đòi hỏi “hết sức vô lý” của những người theo chủ nghĩa
Makhơ đối với triết học Mác, chủ nghĩa duy vật biện chứng – phải đưa ra một
định nghĩa về vật chất mà không được nhắc lại rằng vật chất, giới tự nhiên,

12
() Xem: V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.96 - 105.
13
() V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.151.
14
() V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.322.
10
tồn tại là cái có trước, còn tinh thần, ý thức, cảm giác là cái có sau, -
V.I.Lênin khẳng định “đó là những khái niệm rộng đến cùng cực, rộng nhất,
mà cho đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt qua được”, và do đó,
“chỉ có bịp bợm hay ngu xuẩn đến cực độ mới có thể đòi hỏi cho hai “loạt”
khái niệm rộng đến cùng cực đó, một định nghĩa nào khác, ngoài “sự lặp lại
giản đơn”: cái này hay cái kia phải được coi là có trước”( 15). Để bảo vệ quan
niệm của Ph.Ăngghen về vấn đề cơ bản của triết học trước những mưu toan
của triết học duy tâm hiện đại nhằm bác bỏ quan niệm đó, phủ nhận sự đối lập
vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối giữa vật chất và ý thức,
V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt
đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: Trong trường hợp này, chỉ giới hạn
trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước và cái gì
là cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối
lập đó là tương đối”(16).
Khi tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại chủ nghĩa duy tâm
chủ quan và thuyết bất khả tri trong triết học duy tâm hiện đại, V.I.Lênin đã
khẳng định quan niệm của triết học Mác về tính có thể nhận thức được của
thế giới và phát triển thêm nhận thức luận duy vật biện chứng đó bằng học
thuyết về sự phản ánh. Ông khẳng định, với tư cách sản phẩm cao nhất của
vật chất, là chức năng của bộ óc con người, tư duy, ý thức là sự phản ánh thế
giới bên ngoài; rằng, “cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan”, nó bao hàm một nội dung khách quan và nội dung khách quan này
trong cảm giác của chúng ta, trong ý thức của chúng ta, không phụ thuộc vào
con người, vào loài người là chân lý khách quan. Khi coi chân lý khách quan
đó là một quá trình phát triển phức tạp và mâu thuẫn của tri thức, V.I.Lênin
đã nhấn mạnh tính độc lập, tính khách quan trong nội dung của những tri thức
đối với chủ thể nhận thức và khẳng định rằng nhận thức của con người là quá
trình phát triển của chân lý tương đối thành chân lý tuyệt đối. Ông viết: “Theo
bản chất của nó, tư duy của con người có thể cung cấp và đang cung cấp cho
15
() V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.172.
16
() V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.173.
11
chúng ta chân lý tuyệt đối mà chân lý này chỉ là tổng số những chân lý tương
đối. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học lại đem thêm những hạt mới vào
cái tổng số ấy của chân lý tuyệt đối, nhưng những giới hạn chân lý của mọi
định lý khoa học đều là tương đối, khi thì mở rộng ra, khi thì thu hẹp lại, tùy
theo sự tăng tiến của tri thức”(17). Với quan niệm đó, V.I.Lênin khẳng định
rằng, đối với chủ nghĩa duy vật biện chứng, “giữa chân lý tương đối và chân
lý tuyệt đối có ranh giới không thể vượt qua được”; rằng, “những giới hạn của
sự nhận thức gần đúng của chúng ta so với chân lý khách quan, tuyệt đối, đều
là những giới hạn có điều kiện về mặt lịch sử, nhưng bản thân sự tồn tại của
chân lý đó, là vô điều kiện, cũng như việc chúng ta đang tiến đến gần chân lý
đó là vô điều kiện”(18). Nói khác đi, trong quan niệm của ông, nhận thức của
con người là một quá trình không ngừng, nó vận động và phát triển theo
hướng đi lên, từ chỗ không biết đến biết, từ những hiểu biết không đầy đủ và
không chính xác đến những hiểu biết đầy đủ và chính xác hơn,…, từ chân lý
tương đối đến chân lý tuyệt đối.
Cũng với quan niệm đó, khi bác bỏ quan điểm siêu hình về nhận thức,
V.I.Lênin đã chỉ rõ quá trình phát triển phức tạp, biện chứng của nhận thức và
khẳng định rằng phép biện chứng chính là lý luận nhận thức của chủ nghĩa
Mác. Hơn nữa, từ đó ông đã đưa ra một luận điểm mang ý nghĩa phương
pháp luận sâu sắc: “Trong lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả những lĩnh
vực khác của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng, nghĩa là đừng giả
định rằng nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn, mà phải phân
tích xem sự hiểu biết nảy sinh ra từ sự không hiểu biết như thế nào, sự hiểu
biết không đầy đủ và không chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn
như thế nào”(19).
Những luận điểm đó của V.I.Lênin là cơ sở khoa học sâu sắc để nghiên
cứu lý luận một cách sáng tạo và là vũ khí sắc bén để chống lại mọi luận điểm
sai trái của chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa giáo điều. Theo đó, với tư cách là

17
() V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.158.
18
() V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.159.
19
() V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.117.
12
một chân lý khách quan, được thực tiễn lịch sử toàn thế giới xác nhận, những
nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Mác cần phải được phát triển một cách sáng
tạo hơn nữa, phải được cụ thể hóa, làm phong phú thêm cho phù hợp với
những tài liệu mới của khoa học và của thực tiễn mới, đồng thời không thể coi
đó là những cái bất di bất dịch, tuyệt đối đúng trong mọi trường hợp mà
chúng ta chỉ còn biết cách học thuộc lòng, vận dụng nguyên xi. Theo đó, tính
lôgíc, tính triệt để của chủ nghĩa duy vật biện chứng là cái cần được khẳng
định: “Trong cái triết học ấy của chủ nghĩa Mác, đúc bằng một khối thép duy
nhất, người ta không thể vứt bỏ một tiền đề cơ bản nào, một phần chủ yếu
nào, mà không xa rời chân lý khách quan, không rơi vào sự dối trá của giai
cấp tư sản phản động”(20).
Bảo vệ và phát triển một cách sáng tạo nhận thức luận duy vật biện
chứng, V.I.Lênin đã chỉ rõ vị trí, vai trò và ý nghĩa của thực tiễn trong quá
trình nhận thức. Ông khẳng định thực tiễn là cơ sở, là mục đích và là động lực
chủ yếu của nhận thức. Rằng, “quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là
quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”(21). Không chỉ là cơ
sở, mục đích và động lực của nhận thức, thực tiễn còn là tiêu chuẩn của chân
lý và là cái tốt nhất để bác bỏ mọi hình thức của chủ nghĩa duy tâm và thuyết
bất khả tri, của mọi sự bịa đặt và nhầm lẫn. Ông viết: “Tiêu chuẩn thực tiễn,
xét về thực chất, không bao giờ có thể xác nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn
toàn một biểu tượng nào đó của con người… Tiêu chuẩn đó cũng khá “không
xác định” để không cho phép các hiểu biết của con người trở thành một cái
“tuyệt đối”; đồng thời nó cũng khá xác định để có thể tiến hành đấu tranh
quyết liệt chống tất cả các thứ chủ nghĩa duy tâm và bất khả tri”( 22). Chỉ rõ
tiêu chuẩn thực tiễn của nhận thức vừa mang tính tương đối, vừa mang tính
tuyệt đối, V.I.Lênin đồng thời khẳng định: Nếu cái mà thực tiễn của chúng ta
xác nhận là chân lý khách quan, “duy nhất, cuối cùng”, thì con đường duy
nhất dẫn đến chân lý đó là con đường của khoa học được xây dựng trên cơ sở

20
() V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.404.
21
() V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.167.
22
() V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.168.
13
của quan niệm duy vật biện chứng. Những luận chứng sâu sắc của V.I.Lênin
về khả năng nhận thức một cách khách quan các quy luật phát triển của tự
nhiên và xã hội đã đem lại cho chúng ta niềm tin vào sức mạnh to lớn của lý
tính con người, vào khả năng cải tạo thế giới của con người.
Chứng kiến cuộc cách mạng thực sự diễn ra trong khoa học tự nhiên
cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, mở đầu bằng việc phát hiện ra tia Rơghen
(1895), hiện tượng phóng xạ (1896), điện tử (1897), v.v., để bảo vệ chủ nghĩa
Mác, bảo vệ triết học duy vật biện chứng trước sự tấn công quyết liệt của chủ
nghĩa duy tâm và triết học tự sản hiện đại đủ màu sắc trong việc lợi dụng
những thành tự khoa học tự nhiên đó, V.I.Lênin đã tiến hành một công việc
khoa học nghiêm túc – tổng kết và khái quát hóa về mặt triết học những phát
minh khoa học vĩ đại đó.
V.I.Lênin cho rằng, những phát minh khoa học vĩ đại đó đã cho thấy
tính chất hạn chế của bức tranh vật lý mà đến lúc đó, người ta đã vẽ lên về thế
giới và buộc người ta phải xem xét lại hàng loạt khái niệm do vật lý học cổ
điển đưa ra trước đó. Song, với lập trường duy tâm hay duy vật tự phát, không
tự giác và siêu hình khi đồng nhất một cách máy móc vật chất với tư cách một
phạm trù triết học với những khái niệm nhất định về cấu trúc vật chất, thì khi
những khái niệm ấy thay đổi một cách căn bản, các nhà vật lý học hiện đại đã
hoàn toàn sai lầm khi coi đó là “sự tiêu tan” của vật chất, phủ nhận tính khách
quan của khoa học và coi mục đích của khoa học chỉ là sự mô tả hiện tượng
đơn thuần. Theo ông, chủ nghĩa duy tâm hiện đại đã lợi dụng cuộc cách mạng
đó trong vật lý học nhằm gạt bỏ chủ nghĩa duy vật ra khỏi khoa học tự nhiên,
buộc vật lý học phải giải thích những phát minh mới ấy theo tinh thần của
nhận thức luận duy tâm và trên cơ sở điều hòa khoa học với tôn giáo. Vạch rõ
nguồn gốc nhận thức luận của chủ nghĩa duy tâm “vật lý học” là ở chỗ đã
tuyệt đối hóa vai trò của toán học trong khoa học, cũng như các nguyên tắc
của thuyết tương đối, nguyên tắc tính tương đối của tri thức nhân loại,
V.I.Lênin khẳng định: “Thực chất của cuộc khủng hoảng của vật lý học hiện
đại là ở sự đảo lộn của những quy luật cũ và những nguyên lý cơ bản, ở sự gạt
14
bỏ thực tại khách quan ở bên ngoài ý thức, tức là ở sự thay thế chủ nghĩa duy
vật bằng chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri”(23).
Không chỉ làm rõ thực chất đó của cuộc khủng hoảng trong vật lý học,
V.I.Lênin còn chỉ ra con đường thoát khỏi cuộc khủng hoảng đó là các nhà
khoa học cần phải chuyển qua và đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Rằng, chỉ có đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chúng ta mới có thể hiểu được một cách đúng đắn những phát
minh mới của khoa học; chỉ với phép biện chứng duy vật, chúng ta mới có thể
nhận thức sâu sắc về tính gần đúng, tính tương đối của tri thức của chúng ta
về cấu trúc và về những đặc tính của vật chất. Phép biện chứng đó cho thấy
trong tự nhiên không có những giới hạn tuyệt đối và luôn diễn ra sự chuyển
hóa từ trạng thái này sang trạng thái khác của vật chất đang vận động, vật chất
ấy, tự nhiên ấy là vô cùng, vô tận. “Điện tử cũng vô cùng tận như nguyên tử;
tự nhiên là vô tận, nhưng nó lại tồn tại một cách vô tận; và chỉ có thừa nhận
một cách tuyệt đối, vô điều kiện như vậy sự tồn tại của tự nhiên ở ngoài ý
thức và cảm giác của con người, thì mới phân biệt được chủ nghĩa duy vật
biện chứng với thuyết bất khả tri tương đối luận và chủ nghĩa duy tâm”( 24).
Và, để làm sáng tỏ luận điểm quan trọng, mang ý nghĩa phương pháp luận
này, V.I.Lênin đã xem xét nhiều vấn đề khác có liên quan tới nó. Đó là vấn đề
tính đa dạng về chất của vật chất và các hình thức tồn tại cơ bản, các hình
thức vận động của nó, vấn đề tính thực tại khách quan của không gian và thời
gian – phương thức tồn tại cơ bản của vật chất, nguyên lý về mối liên hệ nhân
quả,…
Để bảo vệ và mang lại cho triết học Mác, cho chủ nghĩa duy vật biên
chứng một hình thức phát triển mới trong thời đại bùng nổ của cách mạng xã
hội, V.I.Lênin còn làm rõ sự khác biệt, tính chất đối lập giữa quan niệm duy
vật về lịch sử của C.Mác và Ph.Ăngghen với học thuyết duy tâm của
Bôgđanốp về tính đồng nhất giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội, chỉ ra tính chất phản khoa học trong ý đồ thay thế những quy luật
23
() V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.318.
24
() V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.323 - 324.
15
phát triển đặc thù của xã hội bằng “thuyết duy năng xã hội”, những quy luật
sinh học và những quy luật khác của khoa học tự nhiên mà Makhơ và những
môn đệ của ông ta tiến hành. Với những lập luận khoa học sắc bén để bảo vệ
và phát triển quan niệm của triết học Mác, của chủ nghĩa duy vật biện chứng
về các vấn đề này, V.I.Lênin khẳng định rằng, thứ “xã hội học” đó của trường
phái Makhơ ở Nga không có gì khác với nguyên bản của nó ở Makhơ, mục
đích cuối cùng của nó là nhằm phủ nhận nhận thức khoa học về các quy luật
phát triển của tự nhiên và xã hội. Lý luận đó, như sau này V.I.Lênin khẳng
định, chỉ là “một trò chơi, một mớ hỗn độn giả khoa học”, là “sự nhạo báng…
đối với lôgíc và lịch sử”, và “nỗi thất vọng về khả năng phân tích hiện tại một
cách khoa học, thái độ từ bỏ khoa học, ý đồ bất chấp mọi sự khái quát, lẩn
trốn mọi “quy luật” của sự phát triển lịch sử và hòng lấy cây để che rừng: đó
là ý nghĩa giai cấp của thứ chủ nghĩa hoài nghi thịnh hành của giai cấp tư sản,
của thứ triết học kinh viện chết cứng và cằn cỗi”(25). Cùng với việc phê phán
đó, V.I.Lênin đồng thời khẳng định triết học Mác là sự thống nhất không thể
tách rời giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ông
cũng đã phát triển thêm những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, đặc biệt là luận điểm về vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức
xã hội, luận điểm về tính tất yếu khách quan của cách mạng xã hội.
Cùng với việc phê phán triết học duy tâm hiện đại mưu toan sử dụng
chủ nghĩa Makhơ để “xét lại” chủ nghĩa Mác, triết học Mác, V.I.Lênin cũng
kiên quyết bảo vệ và làm phong phú thêm nguyên tắc mácxít về tính đảng của
khoa học, tính đảng của triết học. Trên cơ sở phân tích cuộc đấu tranh giữa
hai đường lối duy vật và duy tâm trong lịch sử triết học, kể cả trong triết học
hiện đại, ông khẳng định sự phát triển của các tư tưởng triết học luôn gắn liền
một cách hữu cơ với thực tiễn đấu tranh chính trị, đấu tranh giai cấp, và do
đó, trong đấu tranh cách mạng, giai cấp vô sản không thể không bảo vệ và
phát triển sáng tạo thế giới quan khoa học của mình – chủ nghĩa duy vật biện
chứng.

25
() V.I.Lênin. Sđd., t.25, tr.44, 52.
16
Có thể nói, việc giải quyết một cách triệt để, có luận cứ khoa học và
được chứng thực bằng thực tiễn tất cả những vấn đề cơ bản đó của triết học,
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán xứng đáng được coi là
một mẫu mực về sự bảo vệ và phát triển sáng tạo triết học Mác, nói chung,
chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng nói riêng,
đánh dấu một giai đoạn mới, giai đoạn Lênin trong lịch sử triết học mácxít, và
giờ đây, tác phẩm vĩ đại này vẫn giữ nguyên vai trò định hướng và ý nghĩa
phương pháp luận của nó.
Triết học Mác, chủ nghĩa duy vật biện chứng với sự bảo vệ và phát
triển sáng tạo của V.I.Lênin đã trở thành triết học Mác – Lênin. Với sự bảo vệ
và phát triển này, V.I.Lênin cũng đã góp phần lớn lao mà không nhà lý luận
mác xít nào có thể so sánh được trong việc giữ gìn và nâng cao giá trị lịch sử
và ý nghĩa thời đại vốn có của triết học Mác, của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Và, triết học Mác – Lênin, chủ nghĩa duy vật biện chứng vẫn là một
trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác – Lênin với tư cách nền tảng
lý luận và kim chỉ nam cho hành động của các Đảng Cộng sản và Công nhân
toàn thế giới. Thế nhưng, sau sự tan vỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu, chủ nghĩa Mác – Lênin, triết học Mác – Lênin, lại một lần
nữa rơi vào khủng hoảng. Sự khủng hoảng này làm cho yêu cầu phát triển chủ
nghĩa Mác – Lênin, triết học Mác – Lênin càng trở nên cấp bách. Thực tiễn
đấu tranh bảo vệ những thành quả mà chủ nghĩa xã hội đã giành được, nhất là
công cuộc đấu tranh để đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vượt qua
thách thức to lớn hiện nay và tiếp tục đổi mới để tiến lên, đòi hỏi các Đảng
Cộng sản và Công nhân, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam, phải nắm
vững lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trước hết, phải thấm nhuần thế giới
quan duy vật và phương pháp biện chứng khoa học của nó. Đương nhiên,
những vấn đề của chủ nghĩa xã hội do quá trình đổi mới đặt ra không thể giải
quyết được chỉ bằng lý luận triết học và bản thân tư duy triết học cũng cần
phải được đổi mới để phát triển. Việc tìm giải pháp cho những vấn đề của chủ
nghĩa xã hội, cũng như việc bổ sung và phát triển lý luận triết học của chủ
17
nghĩa Mác – Lênin phải được thực hiện thông qua tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn. Đến lượt mình, việc tổng kết thực tiễn lại phải được thực hiện theo
phương pháp khoa học mácxít mà V.I.Lênin, khi bảo vệ và phát triển sáng tạo
triết học Mác, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đưa ra.

You might also like