You are on page 1of 3

Câu 1: Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C. Mác và Ph.

Ăngghen
thực hiện. Những nội dung chủ yếu V.I. Lênin bổ sung và phát triển triết học Mác.
Thực chất của cuộc cách mạng trong triết học
Khắc phục sự đối lập giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử triết học,
tạo nên sự thống nhất hữu cơ không thể tách rời là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trước khi triết
học Mác ra đời thì nhìn chung luôn có sự tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng:
• Ở Hy Lạp cổ đại đã có sự thống nhất nhất định giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng,
điển hình trong triết học của Hêraclít, nhưng nhìn chung còn ở trình độ thấp. Cả chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng đều còn thô sơ, chất phác.
• Các nhà duy vật từ thời Phục hưng đến Cận đại đã có nhiều công lao trong việc giải thích tự
nhiên, xã hội, tư duy, nhưng chủ nghĩa duy vật của họ vẫn mang tính siêu hình, máy móc. Như
vậy, thế giới quan duy vật vẫn tách rời khỏi phép biện chứng.
• Triết học cổ điển Đức, Hêghen đã đối lập phép biện chứng với phương pháp siêu hình, nhưng
phép biện chứng của Hêghen lại dựa trên nền thế giới quan duy tâm, nghĩa là thế giới quan duy
vật vẫn tách rời khỏi phép biện chứng.
• Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc,
nhưng đó cũng là chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc, nghĩa là thế giới quan duy vật này vẫn
tách rời khỏi phép biện chứng.
Trong triết học Mác, chủ nghĩa duy vật thống nhất hữu cơ với phép biện chứng, còn phép biện
chứng được đặt trên nền thế giới quan duy vật. Do vậy, chủ nghĩa duy vật của Mác là chủ nghĩa
duy vật biện chứng, còn phép biện chứng trong triết học là biện chứng duy vật. Đồng thời cả
chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học Mác đều được Mác nâng lên một trình độ
mới về chất với các giai đoạn trước kia.
Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất trong cuộc cách mạng trong
triết học do Mác và Ăngghen thực hiện.
• Chủ nghĩa duy vật trước Mác đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của xã hội,
của khoa học và triết học. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật chưa
triệt để, nghĩa là mới duy vật trong giải thích tự nhiên, nhưng còn duy tâm trong giải thích lĩnh
vực lịch sử, xã hội, tinh thần. Cho nên chưa thể đuổi được chủ nghĩa duy tâm ra khỏi “nơi ẩn
chứa cuối cùng của nó” là lĩnh vực xã hội.
• Triết học của Mác đã giải thích không chỉ thế giới tự nhiên mà cả lĩnh vực lịch sử, xã hội, tư
tưởng. Do vậy, lần đầu tiên trong lịch sử triết học của nhân loại, với quan điểm duy vật lịch sử,
triết học Mác đã chấm dứt toàn bộ cái nhìn duy tâm, phiến diện về xã hội. Xã hội, lịch sử, tư
tưởng lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã được giải thích một cách khách quan, khoa học.
Chính vì vậy, V.I.Lênin đã khẳng định, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu khoa
học vĩ đại nhất của khoa học, cũng vì vậy, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng là biểu
hiện vĩ đại nhất trong lịch sử triết học do Mác và Ăngghen thực hiện.
Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác và
Ăngghen đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học và hoạt động thực tiễn của con người.
• Triết học trước Mác nói chung, triết học duy vật trước Mác nói riêng, nhìn chung đều chỉ là
giải thích thế giới mà chưa đề ra được con đường, biện pháp đúng đắn để cải tạo thế giới. Cũng
có các đại biểu triết học muốn cải tạo thế giới nhưng lại muốn nhờ vào các lực lượng siêu nhiên,
thần bí, hoặc ý thức, tinh thần. Chưa một đại biểu nào hiểu được vai trò của thực tiễn đối với
hoạt động cải tạo thế giới.
• Triết học Mác không chỉ giải thích thế giới mà quan trọng hơn là còn đề ra con đường, biện
pháp, cách thức để cải tạo thế giới. Đặc biệt, triết học Mác chỉ ra rằng con người muốn cải tạo
thế giới phải bằng và thông qua hoạt động thực tiễn. Có thể nói lần đầu tiên trong lịch sử triết
học, triết học Mác đã gắn bó mật thiết với hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người là
cơ sở, động lực, mục đích của triết học Mác.
Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, triết học
Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.
• Trước khi triết học Mác ra đời thì triết học hoặc là bao trùm lên các khoa học hoặc bị hòa tan
vào khoa học hoặc một ngành học khoa nào đó. Chẳng hạn:
- Ở triết học phương Đông cổ, trung đại, triết học thường ẩn giấu đằng sau các học thuyết về xã
hội, thế giới, con người, chính trị, đạo đức...
- Ở Hy Lạp cổ đại, triết học được coi là khoa học của các khoa học...
- Thời Trung cổ ở châu Âu, triết học được coi là bộ môn của Thần học, có nhiệm vụ chứng
minh cho sự tồn tại của Chúa trời, Thượng đế.
- Thời Cận đại phương Tây, triết học được coi là Mêtaphisica – cái nền của “cây thế giới quan”
- Triết học Cổ điển Đức là quay trở lại quan điểm cho rằng triết học là khoa học của các khoa
học.
• Quan hệ giữa triết học và khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng tác động lẫn nhau.
- Triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất cho các khoa học cụ
thể, còn các khoa học cụ thể cung cấp vật liệu, tài liệu, thông số khoa học cho triết học khái
quát. Ngay tiền đề khoa học tự nhiên cho sự ra đời của triết học Mác đã chứng minh cho mối
quan hệ biện chứng này.
- Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác và Ăngghen đã luận giải đúng đắn vấn đề thực tiễn và
đưa phạm trù thực tiễn là lý luận nhận thức; khẳng định thực tiễn không chỉ là cơ sở, động lực
của nhận thức, mục đích của nhận thức mà còn là tiêu chuẩn của chân lý. Đặt cơ sở khoa học để
xây dựng lý luận nhận thức duy vật biện chứng, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa
học để cải tạo thế giới. Đồng thời, đặt ra cơ sở khoa học cho các môn khoa học cụ thể ra đời và
phát triển.
Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong lĩnh vực triết học do Mác và Ăngghen thực hiện
Với cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện đã làm cho triết học
thay đổi vị trí, vai trò, chức năng trong mối quan hệ với thực tiễn cải tạo thế giới của con người,
cũng như trong mối quan hệ với các khoa học cụ thể khác. Triết học Mác đã trở thành thế giới
quan khoa học của giai cấp công nhân. Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung và triết
học Mác nói riêng với phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong
trào từ trình độ tự phát lên tự giác.
Cuộc cách mạng trong triết học Mác và Ăngghen thực hiện đã tạo ra cơ sở khoa học cho
chủ nghĩa xã hội không tưởng có cơ sở thành khoa học. Bởi chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ rõ
cơ sở cho tồn tại và phát triển của lịch sử xã hội là tồn tại xã hội, cái cơ bản quyết định sự vận
động và phát triển của xã hội đó chính là sản xuất vật chất, mặt khác chủ thể của quá trình sản
xuất đó chính là giai cấp công nhân – “lực lượng vật chất của triết học Mác”.
Nhờ sự khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội mà triết học Mác
lại trở thành thế giới quan, phương pháp luận chung, cần thiết cho sự phát triển tiếp tục của các
khoa học, cho hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người, đặc biệt là giai cấp công nhân,
cho lực lượng tiến bộ của nhân loại trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, xã hội, con người.
Triết học mác-xít là cơ sở lý luận khoa học cho chiến lược và sách lược cách mạng của giai
cấp vô sản, là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa xét lại, cơ
hội, giáo điều...
Như vậy, lịch sử triết học Mác đã chứng minh toàn bộ quan điểm của Mác và Ăngghen là
kết quả nghiên cứu trung thực của nhiều năm; tính chân lý và cách mạng của nó không có gì
đáng nghi ngờ. Triết học Mác, ngay từ khi mới ra đời, đã biểu hiện ra không phải là những điều
cứng nhắc, mà là kim chỉ nam cho hành động. Đó là một học thuyết sinh động, luôn luôn phát
triển một cách sáng tạo trong mối liên hệ hữu cơ với thực tiễn và các khoa học khác.

Dưới đây là một số nội dung chủ yếu mà Lenin đã đề xuất và phát triển trong lĩnh vực
triết học Mác:
Chủ nghĩa về Nhà nước:
Lenin đã mở rộng quan điểm của Mác về Nhà nước và quản lý xã hội chủ nghĩa. Ông giữ vững
quan điểm về sự quan trọng của việc lãnh đạo bởi một đảng cộng sản vanguard trong quá trình
xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc tự quyết của các dân tộc:
Lenin nâng cao vai trò của tự quyết dân tộc và đề xuất chủ nghĩa tự quyết như một nguyên tắc
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ông nhấn mạnh quan trọng của việc hỗ trợ quyền tự quyết
dân tộc và chống lại bất kỳ hình thức đánh bại nào từ phía các nước đế quốc.
Cải cách xã hội chủ nghĩa:
Lenin đưa ra những ý kiến mới về cách tổ chức và quản lý xã hội chủ nghĩa, bao gồm sự tập
trung vào chủ nghĩa thị trường mới trong giai đoạn chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa
xã hội chủ nghĩa.
Làm thế nào xã hội chủ nghĩa có thể thắng lợi ở các quốc gia phát triển kém:
Lenin đã phát triển những quan điểm mới về việc làm thế nào xã hội chủ nghĩa có thể thắng lợi
ở các quốc gia phát triển kém, bằng cách tận dụng những tình hình và điều kiện cụ thể của từng
quốc gia.
Những ý kiến này của Lenin đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin và đã
đóng góp vào lý thuyết cộng sản và cách mạng xã hội chủ nghĩa.

You might also like