Professional Documents
Culture Documents
ĐỀ TÀI
Sự ra đời và phát triển của Internet đã tạo ra những tác động to lớn tới mọi mặt của
nền kinh tế, xã hội. Một trong những hoạt động kinh tế quan trọng nhất được phát triển
trên nền tảng này chính là hoạt động thương mại điện tử (TMĐT). Quyền sở hữu trí tuệ
có vai trò quan trọng trong TMĐT trên nhiều góc độ.
Thứ nhất gần đây mọi hoạt động diễn ra trên internet đều liên quan đến hành vi sao
chép và các nội dung được bảo vệ bởi quyền tác giả, dưới dạng các sản phẩm thông tin và
giải trí đa dạng, cấu thành các đối tượng có giá trị của TMĐT.
Thứ hai, nhãn hiệu hàng hóa với chức năng chỉ dẫn nguồn gốc trở nên biết sức của
thiết trong không gian mạng. Khi việc lựa chọn hàng hóa và dịch vụ của khách hàng phụ
thuộc chủ yếu vào độ tin cậy của các nguồn cung cấp những hàng hóa và dịch vụ này.
Thứ ba, hệ thống TMĐT được vận hành trên một nền tăng bao gồm nhiều đối tượng
có thể được bảo hộ bởi quyền SHTT. Các vấn đề pháp lý gắn với quyền SHTT cũng ẩn
chứa nhiều rủi ro và đe dọa tới hoạt động TMĐT.
Chính vì lý do này nhóm đã chọn đề tài “Quyền sở hữu trí tuệ trong Thương mại điện
tử” để nghiên cứu.
1
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ trong
giao dịch Thương mại điện tử
1. Quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT
1.1. Quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT
Theo khoản 1 điều 4 Luật sở hữu trí tuệ, Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá
nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
Đặc điểm:
Phạm vi: Hoạt động kinh doanh xuyên quốc gia.
Bản chất: Buôn bán mọi lĩnh vực hợp pháp.
Chủ thể tham gia: Xuất hiện thêm các bên trung gian là các nhà cung cấp dịch vụ
internet hay những người tạo ra môi trường cho các hoạt động TMĐT.
Đối tượng: Các hàng hóa vô hình hoặc hữu hình.
Bản chất mỗi tài sản sở hữu trí tuệ là một tài sản mà chủ sở hữu có thể buôn bán, trao
đổi với người khác dưới dạng bằng sáng chế (patent) hay cấp giấy phép sử dụng (license)
mà không cần kèm theo hàng hóa hay dịch vụ. Trong nhiều trường hợp tài sản sở hữu trí
tuệ là thành phần giá trị chính của việc giao dịch. Trong nền thương mại điện tử chúng ta
2
có những công ty dịch vụ Internet cung cấp phần mềm, mạng lưới, chip vi mạch, đường
truyền, bộ chuyển mạch… và những công ty khai thác Internet vào mục đích thương mại
thể hiện trên mỗi thương hiệu trực tuyến. Ở đây, chúng ta thấy bản thân các tài sản sở
hữu trí tuệ là đối tượng giao dịch của thương mại điện tử.
Vì vậy việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đồng nghĩa với việc bảo đảm an toàn cho các
hoạt động thương mại điện tử. Bất cứ hình thức xâm phạm nào đến các quyền sở hữu trí
tuệ trong thương mại điện tử như đánh cắp thương hiệu hay cướp lấy tên miền đều làm
cho việc kinh doanh của công ty bị tổn hại.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là nhằm đảm bảo cho người sáng tạo có thể khai thác giá
trị kinh tế từ các sản phẩm sáng tạo của mình để bù đắp lại công lao sáng tạo. Việc bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ luôn gắn với thời hạn bảo hộ. Ví dụ tác phẩm điện ảnh được bảo
hộ 50 năm, thiết kế bố trí mạch tích hợp có thời hạn bảo hộ là 10 năm.
Hết thời hạn này, các sáng tạo trở thành tài sản chung của nhân loại và tất cả mọi
người có thể khai thác, sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả thù lao cho người sáng
tạo.
Để được bảo hộ, sáng chế đó phải thỏa mãn các điều kiện tại Điều 58 Luật này:
3
- Có tính mới
- Có trình độ sáng tạo
- Có khả năng áp dụng công nghiệp
Nếu tuân thủ được các điều kiện này thì sáng chế đó sẽ được cấp Bằng độc quyền
sáng chế.
Ngoài ra đối tượng này còn có thể được bảo hộ bằng hình thức cấp Bằng độc quyền
giải pháp hữu ích nếu không phải là hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện sau
đây:
- Có tính mới;
- Có khả năng áp dụng công nghiệp.
2.2.2. Bản quyền (Quyền tác giả)
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005 thì Quyền tác giả là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Đối tượng
quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên
quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
Chương 2: Pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT và quốc tế
1. Việt Nam
Theo thống kê của Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (TMĐT và KTS), tổng mức
xử phạt vi phạm hành chính liên quan tới hàng giả, hàng nhái, hàng xâm phạm quyền
SHTT trên môi trường internet trong năm 2015 là 3,5 tỷ đồng, năm 2016 là 4,5 tỷ đồng,
năm 2017 gần 6 tỷ đồng và năm 2018 là trên 7 tỷ đồng, trong đó Cục TMĐT và KTS đã
4
thực hiện thanh tra tại 2 đơn vị và kiểm tra 8 đơn vị và tiến hành xử phạt vi phạm hành
chính với tổng mức xử phạt gần 430 triệu đồng.
Từ đầu năm 2020 đến nay, Cục TMĐT và KTS đã phối hợp với Cục Cạnh tranh và
Bảo vệ người tiêu dùng trực tiếp tiến hành kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính 02
đơn vị với tổng mức phạt 42 triệu đồng.
2. Quốc tế
Tại Trung Quốc, Luật TMĐT mới được quốc hội Trung Quốc thông qua năm 2018
đặc biệt chú trọng việc bảo vệ quyền SHTT. Theo đó, theo Điều 31 của Đạo luật này
buộc các nhà điều hành nền tảng TMĐT phải ghi lại và bảo quản thông tin hàng hóa và
dịch vụ cũng như thông tin giao dịch được công bố trên nền tảng và đảm bảo tính toàn
vẹn, tính bảo mật và tính sẵn có của thông tin. Thời hạn lưu trữ của thông tin hàng hóa,
dịch vụ và thông tin giao dịch ít nhất là ba năm kể từ ngày hoàn thành giao dịch… Điều
này nhằm đảm bảo rằng các chủ sở hữu quyền SHTT có cơ sở để dễ dàng thực thi các
quyền của mình khi bị xâm phạm.
Ngoài ra, chế đối với các hành vi xâm phạm cũng rất nghiêm khắc. Theo quy định tại
Điều 84, nếu nhà điều hành nền tảng TMĐT vi phạm và không thực hiện các biện pháp
cần thiết theo quy định của pháp luật để chống lại hành vi xâm phạm quyền SHTT của
người điều hành trên nền tảng sẽ bị phạt từ 50 nghìn NDT (khoảng 170 Triệu đồng) đến
500 nghìn NDT (khoảng 1,7 tỷ đồng). Trường hợp nghiêm trọng có thể bị phạt đến 2
triệu NDT (khoảng 7 tỷ đồng).
Tại Ấn Độ, Đạo luật chính sách TMĐT quốc gia vừa được thông qua hồi đầu năm
2020. Theo đó, những người tham gia sàn TMĐT sẽ được yêu cầu thực hiện các biện
pháp sau: Đối với người bán phải cung cấp cam kết với nền tảng về tính xác thực của sản
phẩm họ đang bán và sản phẩm tương tự cho người tiêu dùng.
Chủ sở hữu nhãn hiệu thương mại (là những người sở hữu quyền SHTT) sẽ được cung
cấp tùy chọn để tự đăng ký với các nền tảng TMĐT. Bất cứ khi nào một sản phẩm được
đánh dấu thương mại được tải lên để bán trên nền tảng, nền tảng sẽ thông báo cho chủ sở
hữu nhãn hiệu thương mại và chính chủ…
Trong trường hợp chủ sàn TMĐT nhận được khiếu nại về một sản phẩm là hàng giả,
hàng nhái, tương tự sẽ được chuyển đến chủ sở hữu nhãn hiệu thương mại trong vòng 12
giờ. Nếu chủ sở hữu của một nhãn hiệu thương mại thông báo cho nền tảng về việc sản
phẩm đang được bán trên nền tảng bị làm giả, nó sẽ thông báo cho người bán và nếu
5
người bán không thể để cung cấp bằng chứng rằng sản phẩm là chính hãng, nó sẽ gỡ bỏ
danh sách của nó và thông báo cho Chủ sở hữu nhãn hiệu theo quy định của pháp luật.
Còn tại liên minh Châu Âu (EU), các quốc gia thành viên đã ký 2 biên bản ghi nhớ
liên quan đến hàng giả và vi phạm quyền SHTT là Biên bản ghi nhớ (MoU) năm 2011 về
buôn bán hàng giả trên internet và Biên bản ghi nhớ năm 2018 về quảng cáo trực tuyến
và quyền SHTT. Đây được cho là là một công cụ hữu ích trong việc giải quyết nạn buôn
bán hàng giả trực tuyến và ngăn chặn vi phạm quyền SHTT.
Theo đó, Biên bản ghi nhớ cung cấp các thủ tục thông báo và gỡ bỏ trong đó chủ sở
hữu quyền có khả năng thông báo cho nền tảng trực tuyến về việc người bán tham gia
vào việc bán hàng giả. Các nền tảng trực tuyến phải đảm bảo rằng danh sách được xóa và
vô hiệu hóa khỏi nền tảng một lần, khi xác minh, thông báo đã được coi là hợp lệ…
Chương 3: Đánh giá thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng trong giải quyết
các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT
1. Đánh giá thực trạng pháp luật
Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0, với trí tuệ nhân tạo,
sản xuất thông minh… Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, bên
cạnh thị trường truyền thống, hoạt động kinh doanh diễn ra ngày càng nhiều trong môi
trường TMĐT nó mang lại rất nhiều lợi ích, tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức bày bán
các sản phẩm, dịch vụ trên cơ sở quyền sở hữu trí tuệ và quyền cấp giấy phép sử dụng, ví
dụ như: băng nhạc, phim ảnh, phần mềm, bản vẽ thiết kế, giáo trình đào tạo… giúp con
người tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí. Nhưng môi trường kinh doanh này cũng phải
đối mặt với nhiều thách thức, trong đó có vấn đề bảo hộ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
Trong nền TMĐT, chúng ta có những công ty dịch vụ Internet cung cấp phần mềm,
mạng lưới, chip vi mạch, đường truyền, bộ chuyển mạch…; những công ty khai thác
Internet vào mục đích thương mại thể hiện trên mỗi thương hiệu trực tuyến. Có thể nói,
bản thân các tài sản sở hữu trí tuệ là đối tượng giao dịch của TMĐT, vì vậy việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ đồng nghĩa với việc bảo đảm an toàn cho các hoạt động TMĐT. Bất
cứ hình thức xâm phạm nào đến các quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT đều làm cho việc
kinh doanh của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân bị tổn hại về mặt lợi ích.
6
Thực tế, hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT có thể chia thành các
dạng hành vi sau: Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong môi trường TMĐT, cạnh tranh
không lành mạnh liên quan tới tên miền, quảng cáo hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ. Có thể xác định được hành vi xâm phạm, nhưng việc xử lý xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ không đơn giản do hiện còn một số khó khăn, vướng mắc. Điển hình như hành vi
vi phạm quyền tác giả, do đặc tính vô hình của quyền tác giả, trong khi đó phạm vi của
Internet là vô hạn nên các trang web thường xuyên đưa những ấn phẩm, sách báo, truyện,
phim ảnh… lên mạng Internet để rao bán dù không được cho phép của chủ thể quyền.
Đối với những sản phẩm mang quyền sở hữu công nghiệp cũng tương tự như vậy.
Cái khó ở đây là: Khó trong xác định tổ chức, cá nhân vi phạm; khó trong thu thập
chứng cứ, xác định giá trị hàng hóa xâm phạm... Không ít trường hợp các cơ quan chức
năng nhận được thông tin, đến địa điểm được quảng cáo trên mạng để xử lý thì không tìm
thấy. Bởi lẽ TMĐT là một thị trường quá mở, điều đó khiến người tham gia cũng khó có
thể phân biệt đâu là đối tượng giả, đối tượng thật, đâu là thông tin chính gốc, đâu là thông
tin làm nhái. Nó chính là kẽ hở cho các đối tượng vi phạm bản quyền và tác quyền, vi
phạm quyền sở hữu công nghiệp mà nhiều nhất là nhãn hiệu và tên thương mại.
2.2. Thách thức về nhận thức của tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch quyền
sở hữu trí tuệ trong TMĐT
Có một thực tế là nhận thức về quyền sở hữu trí tuệ của các doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân khi tham gia giao dịch TMĐT còn hạn chế. Một trong những vụ việc thực tiễn nổi
tiếng như một lời cảnh tỉnh đầu tiên cho các doanh nghiệp về tầm quan trọng của việc bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT, đó là vụ tranh chấp tên miền của thương hiệu Cà
phê Trung Nguyên xảy ra vào những năm đầu thế kỷ XXI.
2.3. Thách thức về chính sách, pháp luật quy định về quyền sở hữu trí tuệ
trong TMĐT
Kể từ Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội thông qua năm 2005 (Luật Sở hữu trí tuệ số
50/2005/QH11) và tiếp đó là Luật Sở hữu trí tuệ số 36/2009/QH12, đã có không ít vấn đề
về sở hữu trí tuệ đã được đề cập. Cùng với đó, năm 2013, Nghị định số 99/2013/NĐ-CP
về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp được ban
hành và tại Điều 10 của Nghị định đã quy định về xử lý hành vi xâm phạm quyền trên
Internet.
7
Tiếp đó là Thông tư liên tịch số 14/2016/TTLT-BTTTT-BKHCN giữa Bộ Khoa học
và Công nghệ và Bộ Thông tin và Truyền thông hướng dẫn trình tự, thủ tục thay đổi, thu
hồi tên miền vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ... Đặc biệt, năm 2019, Luật Sở hữu trí
tuệ số 42/2019/QH14 đã chú trọng hơn đến vấn đề sở hữu trí tuệ trong môi trường
TMĐT. Tuy nhiên, những quy định trong bộ Luật vẫn chưa chú trọng sâu đến việc bảo hộ
sở hữu trí tuệ trong TMĐT theo cách nào, trình tự thủ tục ra làm sao, các chế tài áp dụng
cho vấn đề này như thế nào.
8
dịch vụ giám định sở hữu trí tuệ và dịch vụ tư vấn pháp luật về bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ.
9
TÀI LIỆU THAM KHẢO
10