You are on page 1of 7

Những yếu tố góp phần xây dựng nên nhân cách?

Yếu tố di truyền

Có cơ sở vững vàng khẳng định rằng nhiều đặc điểm nhân cách được di truyền trong đó có thể kể
đến:
Những khía cạnh về tâm thần, thần kinh và hướng ngoại của Eysenck (riêng về sự hướng ngoại bắt
nguồn từ công trình của Jung).
Năm yếu tố thần kinh, hướng ngoại, sự cởi mở trước cái mới, tính dễ thích nghi và sự tận tâm của
McCrae và Costa.
Ba tính cách gồm tính đa cảm, tính năng động và tính hoà đồng.
Hơn nữa nét tiêu biểu về sự tìm kiếm cảm giác của Zuckerman trước tiên bị ảnh hưởng bởi yếu tố
di truyền. Như vậy cách tiếp cận nét tiêu biểu tập trung vào sự ảnh hưởng của tính di truyền vẫn rất
quan trọng ngày nay và có thể trở thành phạm vi phát triển nhanh nhất trong nghiên cứu nhân cách. Cái
còn lại cần được xác định chính xác là có bao nhiêu yếu tố di truyền, đặc điểm hay tính cách. 16 theo
Cattell, 3 theo Eysenck, 5 theo McCrae và Costa, 3 theo Plomin và Buss hay chưa được xác định như
một số nhà lý luận khác? Nghiên cứu trong tương lai về di truyền học hành vi có thể cung cấp them
nhiều khía cạnh nữa về nhân cách được hình thành bởi các yếu tố di truyền.
Không quan trọng có bao nhiêu đặc điểm, cũng không quan trọng khi đề xuất mạnh mẽ nhất về cách
tiếp cận di truyền học lập luận rằng nhân cách có thể được giải thích đầy đủ và trọn vẹn bởi tính di
truyền. Cái chúng ta thừa hưởng là những cái có, không phải số phận, xu hướng hay điều chắc chắn.
Liệu khuynh hướng di truyền từng được nhận thức rõ phụ thuộc vào những điều kiện môi trường sống
và xã hội đặc biệt là của thời kỳ thơ ấu.
Yếu tố môi trường sống
Tất cả các nhà lý luận về nhân cách mà chúng ta đã thảo luận thừa nhận tầm quan trọng của môi
trường xã hội. Alder nói về tác động của trật tự sinh, lập luận rằng nhân cách bị ảnh hưởng bởi vị trí
của chúng ta trong gia định trong quan hệ với anh chị em ruột. Chúng ta được thấy nhiều hoàn cảnh gia
đình và xã hội khác nhau tuỳ theo độ chênh lệch tuổi giữa các anh chị em ruột hoặc việc có anh chị em
ruột hay không. Theo quan điểm của Adler, những môi trường gia đình khác nhau này có thể tạo ra
nhiều nhân cách khác nhau.
Horney tin rằng văn hoá và thời đại mà chúng ta được nuôi nấng cho thấy tác động của nó chẳng
hạn như tác động mà bà ghi chép được trong chứng loạn thần kinh chức năng được di truyền bởi những
bệnh nhân Đức và Mỹ. Bà cũng chỉ ra các môi trường xã hội khác nhau rõ nét mà những cậu bé và cô
bé bộc lộ. Bà đã nói về sự lép vế của những cô bé lớn lên trong những nền văn hoá đàn ông chi phối.
Bà gợi ý rằng phụ nữ được nuôi dưỡng trong nền văn hoá mẫu hệ có thể có lòng tự trọng cao hơn và
các đặc điểm nhân cách khác.
Fromm tán thành ảnh hưởng của những sức mạnh và sự kiện lịch sử loan hơn như là hình thái xã hội
mà một dân tộc xây dựng. Mỗi thời đại trong lịch sử - dù là Trung Cổ hay Khai sang, Phong trào cải
cách tin lành hoặc Cách mạng công nghiệp chẳng hạn – đóng góp cho việc hình thành nhân cách khác
nhau hoặc các đặc điểm tính cách thích hợp với nhu cầu của thời đại đó.
Ngay cả Allport và Cattell những người mở đầu cách tiếp cận đặc tính cho nghiên cứu nhân cách
cũng đồng ý về tầm quan trọng của môi trường. Allport nhận thấy rằng mặc dù di truyền học cung cấp
nguyên liệu thô cơ sở cho nhân cách chính môi trường xã hội nhào nặn nguyên liệu ấy thành sản phẩm
cuối cùng. Cattell lập luận rằng tính di truyền quan trọng hơn cho một số yếu tố nhân cách so với
những yếu tố khác nhưng những yếu tố môi trường có ảnh hưởng cuối cùng tới tất cả mọi yếu tố ở một
mức độ nhất định.
Tám giai đoạn của Erikson về sự phát triển tâm lý mang mang tính bẩm sinh nhưng môi trường xác
định những cách thức trong đó các giai đoạn có cơ sở di truyền được thực hiện. Ông tin rằng những
sức mạnh lịch sử và xã hội ảnh hưởng sự hình thành cái tôi cá nhân. Maslow và Rogers cho rằng sự tự
thực hiện mang tính bẩm sinh nhưng thừa nhận rằng yếu tố môi trường có thể kiềm chế hoặc thúc đẩy
nhu cầu tự thực hiện.
Các sự kiện xã hội quy mô lớn như là chiến tranh và suy thoái kinh tế có thể hạn chế sự lựa chọn cuộc
sống và ảnh hưởng đến sự hình thành ý thức về cá tính. Những thay đổi về cuộc sống bình thường hơn
(bị bệnh, ly dị và thay đổi nghề nghiệp) cũng có thể ảnh hưởng đến nhân cách.
Cuối cùng, nguồn gốc dân tộc và điều chúng ta thuộc dân tộc đa số hay thiểu số cũng góp phần xác
định nhân cách. Chúng ta thấy những ví dụ về sự khác nhau dân tộc trong những biến số như sự tìm
kiếm cảm giác, nơi kiểm soát, và nhu cầu thành đạt. Chúng ta cũng biết rằng thành viên của các nhóm
thiểu số phát triển tính đồng nhất dân tộc cũng như cái tôi cá nhân và phải thích nghi với cả hai nền văn
hoá. Thành công của sự thích nghi này ảnh hưởng nhân cách và thể chất tâm lý. Vì tất cả những lý do
này không thể chối bỏ tác động của những sức mạnh xã hội và môi trường khác nhau tới nhân cách.
Cách thức đáng kể nhất mà tác động này được thể hiện đó là thông qua học tập.
Yếu tố nhà trường
Chứng cứ rất rõ ràng về việc học tập đóng vai trò chủ yếu ảnh hưởng đến hầu như mọi khía cạnh
của hành vi. Tất cả những ảnh hưởng môi trường và xã hội hình thành nhân cách tác động tới hành vi
thông qua việc học tập. Ngay cả những khía cạnh nhân cách được thừa hưởng cũng có thể bị thay đổi,
phá vỡ, ngăn chặn hoặc để cho phát triển bởi quá trình học tập. Skinner (trên cơ sở công trình của
Watson và Pavlov trước đó) đã cho chúng ta biết giá trị của sự củng cố tích cực, sự tiếp cận liên tục,
hành vi siêu việt và nhiều biến số học tập khác như là sự tích luỹ những câu trả lời được học.
Bandura đưa ý tưởng rằng chúng ta học hỏi từ những mô hình quan sát (học tập quan sát) và thông qua
nhiều việc trao thưởng khác nhau. Đối với Rotter, việc trao thưởng là chìa khoá. Ông lập luận rằng
động cơ chính của chúng ta là tối đa hoá việc củng cố tích cực. Bandura và Rotter đồng ý với Skinner
rằng đa số các hành vi là được học và di truyền chỉ đóng vai trò hạn chế.
Chúng ta đã bàn nhiều khía cạnh của nhân cách có bằng chứng khoa học để chỉ ra rằng chúng được
học tập chẳng hạn như nhu cầu của McClelland về thành đạt (vốn được đề xuất bởi Murray). Hơn nữa,
nghiên cứu đã chứng minh bằng tài liệu rằng việc học tập ảnh hưởng đến tính hiệu quả của bản thân
(Bandura), trọng tâm kiểm soát (Rotter), và sự không tự lực được học (Seligman). Những quan niệm
này dường như có liên quan đến một khái niệm rộng hơn: mức độ kiểm soát. Những người tin rằng họ
kiểm soát cuộc sống của mình thường có mức độ hiệu quả cao, có điểm nội tại về kiểm soát và không
đặc trưng cho sự không tự lực (bao hàm việc thiếu kiểm soát). Trong thuật ngữ của Seligman những
người tin rằng họ trong trạng thái kiểm soát thường lạc quan hơn là bi quan.
Kiểm soát là có ích cho nhiều khía cạnh của cuộc sống và đại diện cho một trong những phát triển
lý thú nhất về nghiên cứu nhân cách trong những năm gần đây. Một mức độ kiểm soát cao có liên quan
đến những cơ chế đối phó tốt hơn, ít tác động áp lực hơn, có sức khoẻ thể chất và tinh thần tốt hơn và
kỹ năng xã hội và tính đại chúng lớn hơn. Dù với bất cứ cái tên nào – tính tự hiệu quả, điểm nội tại về
kiểm soát hay tính lạc quan - kiểm soát được xác định bởi những yếu tố môi trường và xã hội. Điều
này được học trong thời kỳ thơ ấu và trưởng thành mặc dù nó có thể thay đổi trong cuộc sống sau này.
Chúng ta thấy rằng các hành vi cha mẹ đặc thù có thể giúp cho sự trưởng thành cảm giác trong tình
trạng kiểm soát của trẻ. Như vậy khái niệm kiểm soát mang khía cạnh học tập của nhân cách và cách
cư xử của cha mẹ là hết sức quan trọng đối với nó.
Yếu tố cha mẹ
Mặc dù là nhà lý luận đầu tiên nhấn mạnh sự ảnh hưởng của cha mẹ tới sự hình thành nhân cách,
Freud đã được tán đồng bởi hầu hết các nhà lý luận. Hãy nhắc lại rằng Alder tập trung vào những hậu
quả đối với một đứa trẻ có cảm giác vô ích hay bị hắt hủi bởi cha mẹ. Sự hắt hủi như vậy có thể dẫn
đến tình trạng không an toàn làm cho một người cáu giận và thiếu lòng tự trọng. Horney viết từ chính
kinh nghiệm thực tế của bà về việc thiếu hơi ấm và sự yêu mến của cha mẹ có thể huỷ hoại sự an toàn
của một đứa trẻ và dẫn đến những cảm giác bất lực. Fromm lập luận rằng trong mối liên hệ đầu tiên
với cha mẹ nếu đứa trẻ càng độc lập thì sau này nó càng trở nên mất thăng bằng.
Allport và Cattell, những người có công trình dựa trên tầm quan trọng của những đặc điểm tính cách
cũng tổ chức lại yếu tố cha mẹ trong hình thành nhân cách. Allport cho rằng quan hệ của đứa trẻ với
mẹ là nguồn đầu tiên của sự yêu mến và an toàn, điều kiện tiên quyết cho việc phát triển nhân cách sau
này. Cattell thấy thời thơ ấu như là giai đoạn hình thành chính với cách cư xử của cha mẹ và anh chị
em ruột tạo thành tính cách của trẻ. Erikson tin rằng quan hệ của đứa trẻ với mẹ trong năm đầu tiên là
sống còn trong việc phát triển thái độ tin cậy. Maslow giải thích về việc quan trọng như thế nào đối
với cha mẹ khi đáp ứng nhu cầu an toàn và tâm lý của con mình trong hai năm đầu sau khi sinh. Rogers
nói đến trách nhiệm của cha mẹ trong việc trao cho con mình cái nhìn tích cực không điều kiện.
Chúng ta cung đã thấy nhiều ví dụ về việc cách cư xử của cha mẹ có thể xác định những khía cạnh
đặc thù về nhân cách như thế nào chẳng hạn như nhu cầu thành đạt, sự hiệu quả (tính hữu dụng), nơi
kiểm soát, và tình trạng không tự lo liệu được hay sự lạc quan. Cách cư xử của cha mẹ có thể ảnh
hưởng chủ yếu đến những đặc tính thừa hưởng như việc tìm kiếm cảm giác chẳng hạn. Bạn có thể dễ
dàng tưởng tượng làm thế nào những cha mẹ không lo lắng hoặc hay phạt có thể kiềm chế sự xuất hiện
cảu những đặc tính di truyền như sự hướng ngoại, tính xã hội, tính dễ mến hay sự cởi với những điều
mới mẻ.
Sự xem xét lại nghiên cứu về quan hệ giữa những kinh nghiệm thời thơ ấu với bệnh học tâm lý của
tuổi trưởng thành chỉ rõ rằng thời thơ ấu của những người lớn trầm cảm và cáu kỉnh có liên quan đến
việc nuôi dưỡng con cái không thích hợp. Các bậc cha mẹ của họ được cho là xa lánh và ngược đãi
hơn và ít chăm sóc và tình cảm hơn so với cha mẹ của những người lớn có ít vấn đề hơn (Brewin,
Andrews, và Gotlib, 1993). Một nghiên cứu về hơn 100 người mẹ phân loại họ dựa trên những yếu tố
về tính đa cảm và tính dễ chịu. Những người mẹ đặc trưng bởi những xúc cảm tiêu cực và không dễ
chịu thì con của họ có điểm cao hơn về tính kháng cự, sự cáu giận, không vâng lời và những vấn đề về
hành vi khác so với con của những người mẹ không có những phẩm chất xúc cảm tiêu cực (Kochanska,
Clark, và Goldman, 1997).
Điều gì xảy ra khi cha mẹ không là những người chăm sóc chủ yếu, đó chính là khi cha mẹ chia xẻ
những trách nhiệm với những người làm công việc chăm sóc ban ngày, bạn bè hoặc thành viên gia đình
khi họ phải làm việc xa nhà? Trong cuộc điều tra quốc gia hơn 15.000 trẻ em từ 3 đến 12 tuổi không
phát hiện bất kể vấn đề gì đáng kể về hành vi hoặc lòng tự trọng khi người mẹ có những công việc xa
nhà. Những nhà nghiên cứu kết luận rằng việc chăm sóc bởi những người khác với mẹ của trẻ không có
bất cứ tác động tiêu cực nào tới nhưng biến số nghiên cứu (Harvey, 1999).
Phòng thí nghiệm duy nhất về thế giới thực trong đó những vấn đề về những người chăm sóc thay thế
được khảo sát đó là nơi chăm sóc trẻ tập thể (nhà trẻ) tại khu định cư ở Israel. Trong tình huống đó,
những người mẹ rất chú tâm đến nhu cầu của con mình khi chúng mới được vài tháng tuổi. Sau đó
trách nhiệm chăm sóc trẻ được giao phó cho những người chăm sóc chuyên nghiệp. Những đứa trẻ
được những cha mẹ chăm sóc thay thế này quan tâm nhiều hơn so với cha mẹ của mình.
Nhìn chung những đứa trẻ sống tập trung tỏ ra thích nghi tốt và bảo đảm chúng có môis quan hệ an
toàn với cha mẹ của chúng trong thời thơ ấu. Thực vậy, điểm mạnh của sự ràng buộc là cái báo trước
rõ nét nhất về những đứa trẻ sẽ trở thành vượt trội, độc lập và sự thành đạt định hướng. Tuy nhiên
những nơi ngủ như doanh trại (chẳng hạn như trại hè hay trường nội trú) trong thời thơ ấu có thể dẫn
đến sự hình thành một nhân cách cáu kỉnh, thận trọng, dứt khoát hơn. Những người lớn được nuôi
dưỡng trong nơi tập trung do không thể liên hệ với cha mẹ hoặc người chăm sóc của họ tỏ ra nội tâm,
khả năng kết bạn hạn chế, và độ mạnh xúc cảm giảm sút trong mối quan hệ giữa các cá nhân (Aviezer,
Van Ijzendoorn, Sage và Schuegel, 1994).
Một cuộc tranh cãi lớn nổ ra vào cuối những năm 1990 khi người ta gợi ý rằng thái độ và cách cư
xử của cha mẹ không có tác động kéo dài tới nhân cách của trẻ bên ngoài (Harris, 1995, 1998). Theo
tư tưởng này, vốn trước tiên bị ngờ vực, những đứa trẻ cùng tuổi có ảnh hưởng tới nhân cách của trẻ
nhiều hơn là cha mẹ. Những đứa trẻ lĩnh hội cách cư xử, thái độ, giá trị và nét đặc trưng từ các bạn
cùng lớp và bạn với nỗ lực có được sự chấp nhận và chấp thuận của chúng.
Những người đề xuất quan điểm này không hoàn toàn phủ nhận ảnh hưởng của cha mẹ tới nhân các
của con cái mình. Cái họ còn bàn cãi đó là tư tưởng cho rằng ảnh hưởng của cha mẹ được duy trì
ngoài môi trường gia đình. “Cha mẹ ảnh hưởng đến hành vi của trẻ, tất nhiên họ có ảnh hưởng nhưng
chỉ trong phạm vi nhất định, đặc biệt gia đình. Khi những đứa trẻ ra ngoài chúng từ bỏ các hành vi
chúng thường có ở nhà. Chúng che giấu hành vi này như thể chiếc áo len mà mẹ chúng bắt mặc”
(Harris, trích dẫn trong Sleek. 1998, trang 9).
Chỉ có một sự ủng hộ khiêm tốn dành cho đề xuất này từ nghiên cứu 839 cặp sinh đôi trong giai
đoạn cuối của tuổi trưởng thành. Kết quả chỉ ra rằng những cặp sinh đôi có nhiều bạn chung sẽ có cùng
nhiều đặc điểm nhân cách hơn so với những người có ít bạn chung hơn. Điều này giúp nhận định là
chính những người bạn có ảnh hưởng lớn hơn tới nhân cách của trẻ so với môi trường gia đình
(Loehlin, 1997).
Những nhà nghiên cứu tán thành tầm quan trọng của yếu tố di truyền đối với nhân cách cũng cố gắng
bác bỏ và làm giảm giá trị tác động của cha mẹ, đề xuất rằng môi trường gia đình đóng góp rất nhỏ cho
nhân cách (Matthews và Deary, 1998). Dù sự tranh cãi này có thể được giải quyết như thế nào - nhân
cách được xác định bởi cha mẹ, bạn cùng lớp, gen hay sự kết hợp của các yếu tố - điều này dẫn chúng
ta tới một câu hỏi khác. Liệu nhân cách được xác định sớm bởi những ảnh hưởng này hay nó có thể bị
thay đổi sau này? Câu hỏi này đưa chúng ta tới xem xét yếu tố phát triển.
Yếu tố phát triển
Freud tin rằng nhân cách được hình thành và xác định vào lúc 5 tuổi và khó có thể thay đổi bất cứ
khía cạnh nào của nhân cách sau đó. Chúng ta chấp nhận rằng những năm thời thơ ấu là rất quan trọng
cho sự hình thành nhân cách, nhưng cũng rất tõ ràng rằng nhân cách tiếp tục phát triển sau thời kỳ thơ
ấu, có thể suốt cả quãng đời. Những nhà lý luận như Cattell, Allport, Erikson và Murray cho rằng thời
thơ ấu quan trọng nhưng đồng ý rằng nhân cách có thể được thay đổi trong những năm sau. Một số nhà
lý luận cho rằng sự phát triển nhân cách tiếp tục được duy trì trong thời kỳ niên thiếu. Jung, Maslow,
Erikson và Cattell lưu ý rằng thời trung niên là thời kỳ thay đổi nhân cách rõ nét.
Vấn đề là nhân cách của chúng ta tiếp tục thay đổi và phát triển bao lâu? Liệu cái tôi của bạn vào
tuổi 20 cho biết bạn sẽ như thế nào vào tuổi 40? Như với tất cả những câu hỏi liên quan đến nhân
cách, câu hỏi này đã trở thành một câu hỏi đặc biệt phức tạp. Có lẽ đó thậm chí không phải là một câu
hỏi đáng đặt ra.
Có thể không làm bạn ngạc nhiên khi biết rằng bằng chứng thực nghiệm chứng minh nhiều quan
điểm khác nhau (xem Matthews và Deary, 1998). Vậy nhân cách có thay đổi không? Có. Nhân cách có
bền vững không? Có thể có. Nhưng nếu chúng ta phải trau chuốt câu hỏi và hỏi liệu một số đặc điểm
nhân cách ổn định trong một khoảng thời gian trong khi những đặc điểm khác thay đổi, và rồi chúng ta
có thể sẽ trả lời được với từ có tuyệt đối.
Cái xuất hiện rõ nét từ nghiên cứu là cơ sở của chúng ta về sự kéo dài những thiên hướng nhân cách
(chẳng hạn như những đặc tính được mô tả bởi mô hình năm yếu tố của McCrae và Costa) được giữ ổn
định nhiều năm. Có chứng cứ rằng những đặc tính cơ bản này và khả năng dường như được kéo dài từ
tuổi 30. Nghiên cứu chỉ ra rằng những yếu tố về chứng loạn thần kinh chức năng, sự hướng ngoại và
cởi mở suy giảm dần từ tuổi học đường cho tới tuổi trung niên, trong khi đó những yếu tố như tính dễ
mến và sự tận tâm tăng dần với tuổi tác. Những so sánh chéo về văn hoá đã cho thấy tính ổn định trong
một số nước như Hoa Kỳ, Đức, Ý, Bồ Đào Nha, Croatia, và Hàn Quốc (Costa và McCrae, 1997;
McCrae và al., 1999).
Cái gì gây ra sự thay đổi nhân cách tuổi trưởng thành? Những nhà lý luận ủng hộ ảnh hưởng quan
trọng hơn của các yếu tố di truyền đưa ra giả thuyết rằng mọi thay đổi nhân cách đều độc lập với
những yếu tố môi trường. Những nhà lý luận khác tin rằng câu trả lời được bắt nguồn từ những ảnh
hưởng môi trường và xã hội và trong những thích nghi chúng ta có trước những ảnh hưởng ấy. Những
thay đổi trong hoàn cảnh kinh tế, việc rời bỏ trường học, xây dựng gia đình và đảm nhận vai trò cha
mẹ, ly di, mất việc hoặc việc thăng chức, khủng hoảng tuổi trung niên, cha mẹ cao tuổi tất cả mang lại
những vấn đề mà người lớn phải điều chỉnh. Hai nghiên cứu theo chiều dọc về phụ nữ xem xét yếu tố
xã hội của phong trào giải phóng phụ nữ vào những năm 70 và tác động của nó từ những năm trung học
cho tới tuổi trung niên. Nhiều điểm tăng quan trọng đã được nhận thấy trong khoảng thời gian này liên
quan đến những đặc tính nhân cách về tính ưu thế, tự công nhận, sự thấu cảm, sự thành đạt và sự tự lập.
Trong khi đó việc tôn trọng nguyên tắc hay chuẩn mực được nhận thấy giảm (Agronick và Duncan,
1998; Robert và Helson, 1997).
Tất cả những thách thức cá nhân và văn hoá như vậy để lại dấu vết cho nhân cách. Một nhà lý luận
đương đại đã đưa ra ý kiến rằng nhân cách có thể được mô tả theo ba cấp độ để giải thích sự phát
triển liên tục trong tuổi trưởng thành. Các cấp độ này bao gồm những đặc điểm tâm tính, những mối
quan tâm cá nhân và quá trình sống (McAdams, 1994).
Những đặc điểm tâm tính là những đặc tính di truyền như theo kiểu được McCrae và Costa nói tới,
những đặc tính điểm nhân cách này được nhận thấy ổn định và tương đối không thay đổi từ tuổi 30 trở
đi. Những mối quan tâm cá nhân bao gồm cảm giác ý thức, kế hoạch và mục tiêu chẳng hạn cái mà
chúng ta muốn, làm thế nào để chúng ta đạt được điều đó và chúng ta cảm nhận như thế nào về những
người chúng ta tiếp xúc trong cuộc sống. Những cảm giác, kế hoạch và mục đích này thường thay đổi
trong quãng đời như là kết quả của những ảnh hưởng khác nhau mà chúng ta phải đối mặt như những ví
dụ đã được nêu trên. Tất cả những tình huống này có thể muốn nói đến những thay đổi trong cảm giác
và ý định của chúng ta, tuy nhiên những đặc điểm tâm tính cơ bản (chẳng hạn như cấp độ cơ sở về tính
dễ bị kích thích hay hướng ngoại) mà chúng ta sử dụng chúng để đối mặt với những tình huống trong
cuộc sống này thì tương đối không thay đổi.
Cấp độ thứ ba, quá trình sống, bao hàm việc hình thành cái tôi, có được cái riêng và tìm được một
mục tiêu thống nhất trong cuộc sống. Chúng ta liên tục viết lên câu chuyện cuộc sống của mình, làm
chúng ta trở thành ai và chungs ta phù hợp với thế giới như thế nào. Cũng như những mối quan tâm cá
nhân, quá trình sống thay đổi tuỷ theo những đòi hỏi của môi trường và xã hội. Khi là người lớn chúng
ta thêm vào và viết lại quá trình sống với từng giai đoạn của cuộc sống với những nhu cầu, thách thức
và cơ hội khác nhau. Tóm lại quan điểm này cho rằng những đặc điểm tâm tính cơ bản phân chia nhân
cách là bất biến trong khi đó những phán xét có ý thức của chúng ta về chúng ta là ai và chúng ta mong
muốn là như thế nào thay đổi. Ý tưởng này dẫn đến một yế tố khác mà những nhà lý luận đã xem xét đó
là sự ý thức.
Yếu tố ý thức
Hầu hết tất cả các học thuyết về nhân cách mà chúng ta đã mô tả đề cập rõ ràng hoặc hàm ý đến các
quá trình ý thức (nhận thức). Ngay cả Freud và Jung, những người tập trung vào vô thức, cũng đã viết
về một cảm giác ego hay nhận thức lĩnh hội từ ý nghĩ, cảm giác và ký ức cho phép chúng ta tương tác
với thế giới thực. Thông qua ego chúng ta có thể lĩnh hội những kích thích và rồi sau đó hồi tưởng lại
hình ảnh về chúng. Jung viết về tính chức năng lý tính, việc có những nhận định và đánh giá có ý thức
từ những kinh nghiệm của chúng ta. Alder mô tả con người như là những sinh vật có lý tính và ý thức
có khả năng lập kế hoạch và định hướng cuộc sống. Chúng ta xác định rõ hy vọng, kế hoạch, giấc mơ
và sự hài lòng sau này. Như những nhà lý luận đã sử dụng thuật ngữ, chúng ta liệu trước một cách có ý
thức những sự kiện trong tương lai.
Allport tin rằng những người không dễ bị kích thích sẽ vận hành theo lý tính và nhận thức, họ có ý
thức và kiểm soát về những sức mạnh làm động cơ thúc đẩy mình. Rogers nghĩ rằng con người là
những sinh vật lý tính nguyên thuỷ, bị điểu chỉnh bởi lĩnh hội có ý thức về bản thân họ và thế giới kinh
nghiệm. Maslow cũng thừa nhận vai trò của nhận thức; ông đề xuất nhu cầu nhận thức để biết và hiểu.
Kelly đã có một học thuyết hoàn chỉnh nhất dựa trên những yếu tố nhận thức. Ông lập luận một cách
thuyết phục rằng chúng ta tạo dựng những quan niệm về môi trường và những người xung quanh chúng
ta cũng và rằng chúng ta dự đoán (đề phòng) về chúng dựa trên những quan niệm này. Chúng ta xây
dựng những giả thuyết về thế giới xã hội của chúng ta và kiểm chứng chúng trên thực tế kinh nghiệm
của mình. Trên cơ sở những bằng chứng hàng ngày, sẽ khó từ chối rằng con người phân tích, dự báo và
lường trước những người khác xử sự như thế nào rồi thay đổi hoặc thích nghi hành vi của mình cho
hợp lý.
Bandura tin rằng con người với khả năng học hỏi qua hình mẫu và trao thưởng. Để làm vậy chúng ta
cần có thể tiên đoán trước và đánh giá đúng những hậu quả của những hành động mà chúng ta quan sát
được ở những người khác. Chúng ta hình dung hoặc tưởng tượng kết quả hoặc phần thưởng từ việc cư
xử giống với cách mà hình mẫu cư xử, mặc dầu vậy chúng ta chẳng bao giờ có thể tự bản thân mình
cảm thấy những hậu quả này. Rogers nhận định rằng chúng ta tự lĩnh hội như những sinh vật có ý thức
có khả năng ảnh hưởng những sự kiện. Chúng ta tạo dựng những trông đợi có ý thức về phần thưởng để
có thể tuân theo một hành vi nào đó, và đánh giá đánh giá việc cư xử như vậy sẽ mang lại những phần
thưởng nhất định. Như vậy có sự chấp thuận rộng rãi về việc sự ý thức tồn tại và ảnh hưởng tới nhân
cách. Tuy nhiên rất ít nhất trí về vai trò, thậm chí sự tồn tại của ảnh hưởng khác, sự ảnh hưởng của vô
thức.
Yếu tố vô thức
Sigmund Freud đã dẫn chúng ta đến thế giới vô thức, nơi chôn cất tối tăm những sợ hãi và xung đột
mơ hồ nhất, những thế lực ảnh hưởng đến suy nghĩ và ứng xử có ý thức. Nhiều nhà tâm lý tìm thấy
chứng cứ ủng hộ khải niệm của Freud cho rằng suy nghĩ và trí nhớ được nén lại trong vô thức và sự
nén lại này (cũng như những cơ chế tự vệ khác) có thể hoạt động ở cấp độ vô thức. Song song với
phong trào nhận thức trong tâm lý học không chỉ có lợi ích cho những quá trình nhận thức mà cả những
lợi ích được đổi mới trong vô thức. Nghiên cứu mới đây khẳng định rằng tính vô thức là một sức mạnh
tiềm tang, thậm chí còn có ảnh hưởng lớn hơn những gì Freud đã nhận định. Tuy nhiên sự miêu tả hiện
đại về tính vô thức không giống như cách nhìn của Freud. Những nhà nghiên cứu đương đại tập trung
vào quá trình nhận thức vô thức và mô tả chúng lý tính hơn và xúc cảm hơn.
Tính vô thức lý tính thường được tham chiếu đến như là không ý thức, để phân biệt với tính vô thức
của Freud, kho chứa tối tăm những mong muốn và ham muốn bị đè nén như Freud gọi. Một phương
pháp nghiên cứu tính không ý thức bao gồm cả sự hoạt hoá tiềm thức trong đó những kích thích được
bày tỏ cho những khách thể ở dưới mức độ nhận thức của họ và hành vi cũng có thể được kích hoạt bởi
những kích thích này. Kết luận hiển nhiên được rút ra từ nghiên cứu này là con người có thể bị ảnh
hưởng bởi những kích thích mà họ không nhìn hoặc nghe thấy. Chúng ta cũng đã thảo luận tại Chương 2
về “mẹ và tôi là một” nghiên cứu về việc làm thế nào những giới thiệu tiềm thức về những kích thích
ảnh hưởng tới những phản ứng nhận thức cũng như xúc cảm (Silverman và Weinberger, 1985). Những
kích thích tiềm thức có giá trị chữa bệnh mặc dù những khách thể không có ý thức nhận thức về những
thông điệp hiện tại. Như vậy tính vô thức có thể được hợp từ cả lý tính và cảm xúc.
Mặc dầu tính vô thức là chủ đề nghiên cứu liên tục trong tâm lý học ngày nay, nhưng nhiều nhà lý
luận nhân cách theo Freud lờ đi điều này. Chúng ta có thể đề xuất rằng tính vô thức xúc cảm như Freud
hình dung – ý tưởng bắt đầu báo hiệu sự khởi đầu chính thức của nghiên cứu nhân cách - vẫn còn là
yếu tố ít được hiểu nhất và vẫn còn thần bí và khó có thể hiểu được cũng như thời đại của Freud.
Nguồn: tamlyhoc.net
Edited, Formatted and Converted by Lửa
Hanoi, 25/08/2007

You might also like