Professional Documents
Culture Documents
LỜI NÓI Đ Ầ U
NỘI DUNG
I . Đặc điểm
4
L I . Đường biến
Ì .2. Đường hàng không 6
2. C ơ sở vật chất kĩ t h u ậ t x
C H U Y Ê N C H Ỏ Đ Ư Ờ N G BIỂN V À Đ Ư Ờ N G H À N G K H Ô N G Q U Ố C T Ế
ì. Trách nhiệm của người chuyên chở đường biển theo công ước Brucxen
1924 27
2. Trách nhiệm của người chuyên chở đường biển được qui đữnh trong các
3. Trách nhiệm của người chuyên chở đường biển được qui đữnh trong
4. Những sửa đổi chủ yếu của công ước Hamburg 1978 so vối công ước
Brucxen 1924 48
ì
5. Trách nhiệm của người chuyên chở được qui định trong Luật quản lý an
Ì. Trách nhiệm của người chuyên chỏ hàng không theo công ước Vác-sa-va 1929
2. Nhũng sửa đổi công ước Vác-sa-va về trách nhiệm của người chuyên chở
N G Ư Ờ I C H U Y Ê N CHỞ
Nam
2. Qui định về trách nhiệm của người chuyên chở hàng không Việt Nam đối
theo l u ậ t V i ệ t N a m
1. M ộ t số giải pháp và kiến nghị góp phần hoàn thiện những qui định về
2. M ộ t số giải pháp và kiến nghi góp phần hoàn thiện những q u i định về
KẾT LUẬN
li
L Ờ I NÓI Đ Ầ U
giá hàng hoa trong mua bán quốc tế. Vận tải hàng không ( V T H K ) tuy chứ
chiếm một số lượng hàng hoa vận chuyển quốc tế khoảng I % nhưng lại chiếm
từ 20 tới 3 0 % trị giá hàng hoa trong mua bán quốc tế.
Các phương thức vận tải khác như vận tải đường sắt, ô tô ... chứ chiếm
một tỳ lệ nhỏ đối với vân chuyển quốc tế. Do vậy, vận tải đường biển và
đường hàng không giữ một vị trí cực kì quan trọng đối với vận chuyển quốc tê
và nó sẽ càng quan trọng hơn với đối với một thế giới đứng trước một xu thế
hội nhập khu. vực và toàn cầu k h i m à các quan hệ và trao đổi quốc tế ngày
Vì vậy, việc nghiên cứu về vận tải đường biển và đường hàng không-
hai phương thức vận tải chủ yếu đáp úng nhu cầu buôn bán và giao lưu quốc tế
2. M ụ c đích c ủ a đề tài
- Nghiên cứu, phán tích những vấn đề cơ bản về chuyên chở hàng hoa xuất
- Nghiên cứu các qui định liên quan đến trách nhiệm của người chuyên c h ở
- Nghiên cứu xem xét các qui định của V i ệ t N a m về trách nhiệm của người
chuyên chở đường biển và đường hàng không trên cơ sở đó tìm ra nhũng nét
tương đồng khác biệt và có cơ sở để hoàn thiện hơn nữa Luật hàng khống và
Đ ề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề chủ yếu có liên quan tói
chuyên chở hàng hoa xuất nhập khẩu bằng đường biển và đường hàng không
như:
Ì
- Những vấn đề cơ bản về vận tải bằng đường biển và đường hàng không.
quá trình hình thành và phát triển của các Công ước qui tắc quốc tế về vận tái
- Trách nhiệm của người chuyên chở đường biển và đường hàng không
quốc tế;
- Trách nhiệm của người chuyên chở đường biển và hàng không theo qui
- Trên cơ sở trình bầy, rút ra được các điểm giống và khác nhau giữa các
qui tắc tắc quốc tế cũng nhu những nét tương đựng và khác biệt giữa luật hàng
hải Việt Nam và các Công ước quốc tế về qui định trách nhiệm của người
chuyên chở.
pháp hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn
thông qua các tài liệu và việc tìm hiểu trực tiếp các công ty vận tải giao nhận
- Vận dụng các quan điểm, đường lối, chính sách phát triển kinh tế của
Đảng và nhà nước đối với nền kinh tế thị trường để làm sáng tỏ vấn đề nghiên
cứu.
hàng không;
- Nghiền cứu, phân tích những vấn đề cơ bản về vận tải đường biển và
đường hàng không quốc tế như vai trò, quá trình phát triển, cơ sở vật chất chủ
yếu của vãn tải đường biển và đường hàng không quôc tế •;
- Trình bầy và phân tích một cách có hệ thống quá trình hình thành và
phát triển của những qui định liên quan đến trách nhiệm của người chuyên c h ở
- Trình bầy và phân tích trách nhiệm của người chuyên chở được q u i
định trong hàng loạt các Công ước quốc tế cũng như luật hàng hải và hàng
2
không dân dụng Việt Nam . Trên cơ sở đó so sánh phan tích, để tìm ra những
điểm tương đồng và khác biệt, giúp chúng ta hiểu rõ hơn hiện trạng của luật
pháp Việt Nam về hàng hải và hàng không, nhằm hoàn thiện hơn nữa các bộ
luật này trên con đường tiến tới khu vực hoa và toàn cầu hoa.
6. K ế t c ấ u c ủ a đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luân, tài liệu tham khảo, đề tài được chia làm ĩ
chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về vận tải đường biển và đường hàng
không;
Chương 2. Những nội dung cơ bản về trách nhiệm của người chuyên chở
Chương 3. Trách nhiệm của người chuyên chở theo luật Hàng hải, hàng
không
3
CHƯƠNG 1. NHỮNG VÂN Đ Ể cơ BẢN VỀ VẬN TẢI Đ Ư Ờ N G BIÊN
VÀ ĐƯỜNG H À N G K H Ô N G
I. Đ Ặ C ĐIỂM V À C ơ SỞ VẬT C H Á T KĨ THUẬT
ỉ. Đ ặ c điểm
Vận tải đường biển ra đời rất sớm, có thể nói nó ra đời và phái triển
cùng với sự ra đời và phát triển của loài người. Ngay khi các phương thức vân
tải đường sắt và hàng không chưa ra đời thì vận tải biển đã được sử đụng một
cách rất phổ biến. Sự phát triển của vận tải ô tô, vận tải hàng không, vận tải
đường sắt và đường ống sau này không nhũng không làm giảm vai trò của
vận tải đường- biển, thậm chí nó càng khệng định vai trò của vận tải đường
biển và tạo điêu kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển của vận tải đường biển.
Cho đến nay, vận tải đường biển không còn là phương thức vận tải duy
nhất, tuy vậy, nó vẫn vận chuyển hầu hết số lượng hàng hoa và là phương
thức vận tải g i ữ vị trí số Ì đối với vận chuyển quốc tế về hàng hoa. Nguyên
nhãn là do vận tải đường biển có một số đặc điểm đặc biệt so với các phương
Các tuyến đường trong vận tải đường biển hầu hết là các tuyến đường tự
nhiên, đó chính là mặt biển. Trừ các công trình được xây dựng trên biển và
ven biển như phao, cảng, hải đăng... các tuyến đường biển là vốn có.
Năng lực vận tải của đường biển lất lớn do năng xuất trong vận tải biển
lớn và đặc biệt là tầu biển rất lớn. V ậ n tải ô tô chỉ có khả năng chuyên chở
trên dưới 20 tấn m ộ t chuyến, m á y bay vận tải lớn nhất thế giới ngày nay như
B47-400 chỉ có khả năng chuyên chở Ì lo tấn một chuyến, tầu hoa cũng chỉ có
khả năng chuyên c h ở tít 4 cho tới 6 nghìn tấn. V ớ i tầu biển, tầu cỡ nhỏ và
trung bình cũng có khả năng chuyên chở từ 6 đến 12 nghìn tấn, những tầu lớn
có khả nâng chuyên chở hàng trăm nghìn tấn, thậm chí tấu Sea W i l d Giant có
khả năng chở 564 nghìn tấn một chuyến. Đây là l ợ i thế hơn hện của vạn tải
4
đường biển so với các phương thức vận tải khác, nhờ trọng tải lớn m à giá
thành vận tải thấp do đó có điều kiện vận chuyển được những mặt hàng trị giá
cước vận tải đường biển khoảng 0,7USD/kg, trong khi đó cước V T H K k h o ả n g
5 5USD/kg. Cước vận tải đường biển cũng thấp hơn cước vận tải đường sắt
khoảng 2 lần và thấp hon so với cước vận tải ô tô khoảng 4 lần. Cước vận tải
đường biển thấp do tầu biển lớn, quãng đường vận chuyển đài, năng suất trong
vận tải đường biển cao và các tuyến đường biển là tỏ nhiên, hầu như không
phải xây dỏng. Đây là ưu thế lất lớn của vận tải đường biển. N h ờ cước thấp
m à những loại hàng trị giá thấp nhu than, quặng, nguyên liệu, dầu mỏ, nước
ngọt mới có thể buôn bán được làm cho buôn bán quốc tế phái triển và các
độ và rủi ro trong quá trình vận chuyển. So với các loại công cụ vận tải khác
thì tầu biển có tốc độ vận chuyển thấp nhất. Nếu so sánh trên một tuyến đường
500km, máy bay chỉ bay hết Ì giờ, tầu hoa đi hết 8 giờ, ó tô đi hết 10 giờ thì
tầu biển đi hết khoảng 27 giờ. Điều này làm cho vận tải đường biển không
thích hợp với những mặt hàng thời vụ, mau hỏng, dễ thối, hàng đòi hỏi phải
giao ngay như cứu trợ khẩn cấp, thuốc chữa bệnh.
Một nhược điểm nữa của vận tải đường biển là vận tải đường biển gặp
nhiều rủi ro. Các đe doa m à tầu thường gặp trong hành trình rít nhiều như mắc
cạn, kẹt, đắm chìm, cháy, lửa, nổ, đẫm, va cháy, lốc biển, sóng thần, cướp
biển... thường gây thiệt hại rất lớn cho hàng hoa trong quá trình vận chuyển.
Nguyên nhân là do tầu lớn, lại hoạt động dài ngày trên biển rất dễ dàng gặp
rủi ro, hơn nữa, tốc độ tầu lại thấp, chỉ khoảng 16 đến 20 hải lí/ giờ, vì thế khi
gặp phải sỏ cố tầu thường không phản ứng kịp. D o vậy, hàng hoa vận chuyển
bằng đường biển phải thường xuyên được mua bảo h i ể m m ộ t cách kịp thời, để
khi xẩy ra tổn thất thì được bồi thường, đảm bảo k h ả năng tài chính và sỏ ổn
5
1.2. Đường Hàng không
So với vận tải đường biển thì V T H K ra đời rất muộn. Vận tải đường
biển đã phát triển từ thế kỉ thứ 5 trước công nguyên thì V T H K c h o đến đáu thế
kỉ thứ 20 mới bắt đầu hình thành và phát triển. T u y nhiên nó lại phát triển hết
sức mau chóng do sự phát triển của khoa học và công nghố, cũng như nhu cẩu
đòi hỏi của thời gian ngắn và tốc độ cao của sự phát triển văn minh và công
nghiốp. Cho đến ngày nay thì V T H K chỉ đứng thứ 2 sau vận tải đường biển
đối với vận chuyển quốc tế về hàng hoa. T u y chỉ chiếm khoảng Ì % số lượng
hàng hoa vận chuyển trong mua bán quốc tế nhưng lại chiếm tới hơn 2 0 % trị
giá hàng hoa vận chuyển. Đ ố i với vận chuyển quốc tế về hành khách thì
đương nhiên V T H K chiếm i m thế tuyốt đối so với tất cả các phương thức vận
tải.
V T H K cỏ một số đặc điểm chủ yếu sau đây:
Tuyến đường vận chuyển là không trung, chủ yếu là đường thẳng.
V T H K c ó ưu thế hơn hẳn các phương thức vận tải khác là bay ở trên không với
độ cao khoảng từ 9 đến 12 km, không bị lố thuộc và địa hình gồ ghề của của
trái đất do đó khoảng cách vận chuyển của m á y bay có thể coi là đường thảng
nối giữa hai điểm cất hạ cánh của m á y bay trừ khi cất hạ cánh hay m á y bay
phải chuyển tải qua nhiều sân bay trung chuyển. Vì vậy khoảng cách trong
chuyên chở bằng đường hàng không thường ngắn hơn so với các phương thức
Tốc độ của m á y bay cao nhất. So với tất cả các phương tải, m á y bay có
tốc độ cao nhất, quãng đường vận chuyển ngắn nhất, vì vậy V T H K c ó thời gian
vận chuyển ngắn nhất. Điều này đ e m lại ưu t h ế rất l ố n cho vận tải hàng
không, nó rất thích hợp với vận chuyển hành khách, hàng hoa yêu cầu giao
ngay, hàng mau hỏng, đẽ thối, thuốc chữa bốnh, sách báo, hàng cứu trợ khẩn
cấp.
V T H K luôn đòi h ỏ i sử dụng công nghố cao. Do tốc độ cao và chủ yếu
chỉ chuyên chở hành khách và hàng hoa có giá trị cao, hàng đòi hỏi giao ngay
hàng cứu trợ khẩn cấp do vậy, V T H K đòi h ỏ i độ an toàn tuyốt đối trong quá
6
trình vận chuyển. V T H K không cho phép sai sót do tính nghiêm trọng của tai
nan huy diệt, vì thếV T H K đòi hỏi những tiêu chuẩn khắt khe về công nghệ, kĩ
thuật. Có thể nói, V T H K luôn ứng dụng một cách triệt để và thường xuyên đổi
mới kĩ thuật và công nghệ tiên tiến. Hãng Boing k h i thiết kếm á y bay B767 đã
trang bị cho m á y bay những máy tính mửnh nhất để có khả năng tính trước và
V T H K cung cấp các dịch vụ cao hơn hẳn so với các phương thức vận tải
khác, và được đơn giản hoa về chứng từ và thủ tục do m á y bay bay thẳng, tốc
V T H K an toàn nhất. So với các phương thức vận tải khác thì V T H K ít
tổn thất do thời gian vận tải ngắn, trang thiết bị phục vụ vận tải hiện đửi nhất,
má)' bay lửi bay ở độ cao trên 9 kin, trên tầng điện li, nên trừ lúc cất hử cánh,
máy bay hầu như không bị tác động bởi các điều kiện thiên nhiên như sét.
Cước hàng không cao nhất đo chi phí trang thiết bị, chi phí san bay, chi
phí khấu hao m á y bay, chi phí địch vụ... cao (xem 1.1). Do cước cao nên
VTHKbị hửn chếđối với vận chuyển những mặt hàng trị giá thấp, nguyên
liệu, sản phẩm nông nghiệp. Vì vậy, k h i buôn bán bằng đường hàng không,
người ta phải lựa chọn những mặt hàng phù hợp. V T H K chỉ phù hợp với
những mặt hàng trị giá lớn hay những mặt hàng k h i vận chuyển người ta ít
quan tâm đến chi phí vận chuyển như hàng đòi hỏi giao ngay, hàng cứu trợ
khẩn cấp.
V T H K bị hửn chế đối với hàng cồng kềnh, k h ố i lượng lớn do m á y bay
nhỏ, cước cao. M á y bay vận tải thông dụng lớn nhất thế giới ngày nay cung
chỉ chở ] 10 tấn hàng m ộ t chuyến, thông thường, m á y bay chỉ có thể chuyên
chở được 60 tấn hàng, m á y bay chở khách kết hợp với chỏ- hàng thì chỉ có thể
chuyên chở được tối đa 10 tấn hàng. So với tầu biển với khả năng c h ở hàng
ngàn tấn thì sức chở của m á y bay gần như không đáng kể.
7
V T H K đòi hỏi khả năng đầu tư lớn về cơ sở vật chất kĩ thuật cho m á y
hay, sân bay, đào tạo nhân lực cũng như... do vậy các nước đang phái triển,
các nước nghèo gặp lất nhiều khó khăn đối với sự phát triển của V T H K
(không có vốn để mua máy bay, xây dựng săn bay, mua sắm Hang thiết bị,
Tầu biển là mờt công cụ nổi, có đờng cơ hoặc không có đờng cơ. K h i
nói đến tầu biển người ta nói tới hai loại chính là tầu buôn và tầu quân sự. Đ ề
tài này chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề có liên quan tới tầu buôn.
Tầu buôn là tầu biển được sử dụng vào các mục đích kinh tế trong hàng
hải. Tầu buôn gồm nhiều loại khác nhau như tầu buôn chở khách, tầu đánh cá,
tầu thể thao, nghiên cứu khoa học, tầu chở hàng... T u y nhiên, trong các loại kể
trên tầu buôn chở hàng chiếm gần 9 0 % , khoảng 1 0 % là các loại tầu còn lại.
Do vậy, khi nói tới tầu buôn, chủ yếu chúng ta nói tới tầu chở hàng hoa.
Các loại tầu buôn dù khác nhau nhưng vẫn có thông sô kĩ thuật như
nhau là tên táu, chủ tầu, cờ tầu, n ă m đóng tầu, m ó n nước, kích thước, trọng
lượng, trọng tải, dung tích. Các thông số này cho chúng ta biết những thông
tin quan trọng về mờt con tầu như người sở hữu con tầu, quốc tịch tầu, khả
năng chuyên chở của tầu, khả năng ra vào các cảng và các khu vực trên thê giới
cũng như chất lượng của tầuũ Điều này giúp cho người kinh doanh khai thác
tầu cũng như người thuê tầu cân nhắc, lựa chọn k h i mua cũng như thuê tầu.
Căn cứ vào các chỉ tiêu khác nhau, tầu buôn được chia thành các loại
Căn cứ vào công đụng tầu buồm gồm: Tầu c h ở hàng khô gồm: Tầu chở
hàng bách hoa, tầu container, tầu chở hàng khô k h ố i lượng lớn. Tầu chở hàng
lỏng: gồm tầu chở dầu, nước ngọt, hoa chất ỏ thể lỏng, khí đốt. N h ó m tầu c h ở
hàng lỏng thường có trọng tải và dung tích lớn.Tầu chở hàng đặc biệt như tầu
chở súc vật, tầu chở hàng đông lạnh, tầu chở ô tô du lịch...
8
Căn cứ vào các đặc trưng khác, tầu biển gồm có: Tầu một boong, nhiều
boong, tầu treo cờ thường, tầu treo cờ phương tiện, tầu động cơ hơi nước, tàu
động cơ diezen, tầu lớn, tầu nhỏ, tầu trung bình, tầu cấp hạng cao, tẩu cấp
Cảng biển là nơi ra vào, neo đốu của tầu biển, là nơi phục vụ tầu và
hàng hoa, là đẩu m ố i giao thông quan trọng của đất nước. cảng có 2 chức
năng chính:
- M ộ t là phục vụ tầu biển: Cảng là nơi ra vào neo đốu của tầu, là nơi cung
cấp các dịch vụ đưa đón tầu ra vào, lái dắt, cung ứng, vệ sinh, sửa chữa tầu.
- Phục vụ hàng hoa: Cảng phải làm nhiệm vụ xếp dỡ, giao nhốn, chuyển
tải, bảo quản, lưu kho, tái chế, đóng gói, phán phối hàng hoa xuất nhốp khẩu.
là nơi bắt đầu, tiếp tục, kết thúc quá trình vốn tải và làm thủ tục xuất nhốp
khẩu cho hàng hoa.
Đ ể phục vụ tầu và hàng, cảng cần phải có các trang thiết bị như:
- Trang thiết bị phục vụ tầu như: Cầu tầu, luồng lạch, ke, đốp chắn sóng,
- Trang thiết bị phục vụ vốn chuyển xếp d ỡ hàng hoa như: Cần cẩu, xe
nâng hàng, máy b ơ m hút hàng l ờ i , hàng lỏng, băng chuyền, ô tô... phục vụ
- C ơ sở vốt chất kĩ thuốt phục vụ bảo quản, lưu kho hàng hóa gồm hệ
thống kho, bãi cảng, kho ngoại quan, bể chứa, CY, CFS...
- Thiết bị phục vụ việc điều hành, quản lí tầu bè, hàng hoa như hệ thống
Đ ể đánh giá phân loại cảng, người ta thường dùng các chỉ tiêu như: độ
sâu, số cầu tầu, số lượng tầu và hàng thông qua cảng trong m ộ t năm, số tầu
biển có thể xếp d ỡ trong cùng m ộ t khoảng thòi gian, khả năng xếp đỡ của
cảng trong một ngày, diện tích và sức lưu kho bãi của cảng, c h i phí xếp d ỡ
khả năng phối kết hợp giữa các phương thức vốn tải, chi phí xếp d ở ...
9
Việt Nam hiện nay có khoảng 60 cảng biển lớn nhỏ, với tổng chiều dài
của các cầu cảng khoảng I 1.400 m. Hàng năm các cảng biển Việt Nam xếp
dỡ khoảng 45 triệu tấn hàng hoa. Ngành hàng hải Việt Nam đang đầu tư x â y
dựng các cảng nước sâu, các cảng chuyên dụng và các càng đầu mối giao lưu
thương mại hàng hải quốc t ế và khu vực nhằm ngày càng tăng khả năng phục
Hệ thông cảng biển Việt Nam hiện nay được chia làm 4 khu vực là
miền Bừc, miền Trung, miền Nam và Đ ồ n g bằng sông Cửu Long.
- K h u vực phía Bừc từ Quảng Ninh đến Ninh bình, gồm cảng: Quảng
Ninh, Hải Phòng, Diêm Điền, trong đó cảng Hải Phòng là cảng lớn nhát. có
chiều dài cầu cảng 2.576m và diện tích kho bãi là 52.052m2, hàng năm có thế
xếp dỡ 5 đến 5,5 triệu tấn hàng hoa và có các khu vực xếp dỡ containei như
Vật Cách, Chùa Vẽ. Hiện tại cảng Hải Phòng chỉ có khá năng tiếp nhận tầu từ
6 đến 7000 tấn với m ơ n nước không quá 9m. Ngành hàng hải đang tiên hành
cải tạo, xây dựng, nâng cấp để cảng H ả i Phòng có khả năng t iếp nhận tẩu
10.000 tấn, cảng Cái Lân- Quảng N i n h có khả năng tiếp nhận tầu 30.000 tấn.
- K h u vực miền Trung từ Thanh Hoa đến Bình thuận: K h u vực này gồm
các cảng Cửa Lò- Nghệ an; Xuân Hải- H à Tĩnh; cảng Gianh- Quảng Bình;
Thuận An-Huế; Tiên Sa-Sông Hàn- Đ à Nang; Sa Kì- Quảng Ngãi; Nha Trang,
Ba Ngòi, Hòn Khói, Đ ầ m M ơ n - Khánh Hoa; Q u i Nhơn, Thị Nại- Bình Định.
Một số cảng đang được xây dựng như Chân mây, Dung quất, Văn phong, Cửu
Việt, Vũng Áng, Thạch Khê, Liên chiểu. Hiện tại ở miền Trung, hệ thống
cảng Đ à nang có qui m ô lớn nhất, với 10 cầu bến có tổng chiều dài 1.1 lòm, 6
- K h u vực phía Nam bừt đầu từ Đ ồ n g nai đến V ũ n g Táu gồm 2 nhóm
cảng chính: N h ó m cảng Thành phố H ồ Chí M i n h , gồm khoảng 20 cảng đang
khai thác thuộc 15 đơn vị chủ quản, trong đó 3 cảng lớn nhất thuộc là Sài G ò n
thuộc Vinalines, Tân cảng thuộc quân đội, Bến Nghé thuộc thành phố H ồ Chí
Minh. Ba cảng này chiếm tới 9 0 % k h ố i lượng hàng hoa thông qua thông qua
10
Cảng Sài Gòn được xay đựng từ năm 1863, gồm 3 khu xếp d ỡ là N h à
rồng, Khánh hội, Tan thuận có 15 cẩu tầu tổng chiều dài 2.597m, 27 k h o với
tổng diện tích 66.610m2 và 222.569m2 bãi hàng. cảng Sài Gòn có công suấl
xếp dỡ 15 triệu tấn/năm, có thể tiếp nhãn một lúc 30 tầu, m ơ n nước I2m, dài
230m. Tíìn càng có I 260m cáu trìu, m ỗ i năm xếp đử khoảng 4.5 triệu tấn. chủ
yếu là hàng container. Bến nghé là một cảng container hiện đai với tổng chiều
dài cầu tầu là 820m với 5 bãi container, tổng diện tích 8 ha, hàng năm có thể
N h ó m cảng Đ ồ n g bằng sông Cửu Long, gồm các cảng Cần Thơ, Mĩ
Tho, Đ ồ n g Tháp, Hòn Chông ... trong đó cảng Cần Thơ đóng vai trò quan
trọng hơn cả. Cảng Cần Thơ nằm trên sông Hâu có cầu cảng dài 144rn, có thể
Tù nay đến 2010, Việt Nam sẽ có 114 cảng, với 61 cảng tổng hợp và
53 cảng chuyên dụng, đảm bảo xếp khoảng 190 triệu tấn hàng một năm.
2.2. Co sở vật chất kĩ thuật của vận tải đường hàng không
Căn cứ vào đửi tượng chuyên chở, m á y bay được chia thành: M á y bay
chở hàng, máy bay chở khách và máy bay kết hợp chở cả hàng hoa và hành
khách. M á y bay chở khách là loại máy bay chuyên dụng chở khách, nhưng
cũng chở một sử ít hàng hoa. Loại này có nhược điểm là chỉ chở được một
khửi lượng hàng hoa rất nhỏ, tuy nhiên lại có ưu điểm là có tần suất lớn và
cước tương d ử i thấp. M á y bay chở hàng là loại m á y bay chuyên dụng chở
hàng. Ư u điểm của loại m á y bay này là có khả năng chuyên c h ở được một sử
lượng hàng lớn trên một chuyến nhưng lại có nhược điểm là tần suất bay thấp
và vì thế cước tương đửi cao. M á y bay chở kết hợp là loại m á y bay được thiết
kế để chuyên chở cả hàng hoa và hành khách. Loại này có ưu điểm là có thể
dễ dàng điều chỉnh sử lượng hàng hoa và hành khách trên m ộ t chuyến bay.
li
Căn cứ vào Nước sản xuất, máy bay được chia ra làm m á y bay cùa Nga,
Mĩ, châu  u và của các nước khác. M á y được sản xuất tại Nga gồm: Y A K A ,
1L, TU, AN...; m á y bay được sản xuất tại Mĩ gồm: Boing, MD...; m á y bay
được sản xuất tại châu  u gồm: Airbus, Concord, Porker, ATR. .. Mĩ là nước
sản xuất tói khoảng 6 4 % m á y bay dan dụng trên toàn thế giới, châu  u chiếm
khoảng 3 0 % , còn lại là Nga và các nước khác, vì thế ngày nay, m á y bay dân
dụng được sử dụng nen thế giúi chủ yếu của Mĩ và chau Âu.
Trước n ă m 1998, Việt Nam chúng ta còn sử dụng rất nhiều m á y bay
của Nga như TU134, AN, Y A K A , IL. Sau sự kiện tai nạn m á y bay tại C ă m pu
chia 1998, Việt Nam đã không cho phép sự dụng m á y bay của Liên X ô cũ để
chuyên chở nữa. Hiện nay, cả 3 hãng hàng không ở V i ệ t Nam (Vietnam
Airlines, Paciíic Airlines, Vasco, không tính SFC vì nó chỉ bay phục vụ quịc
máy bay của Vietnam Airlines và Pacific Airlines thì chỉ có 6 chiếc sở hữu
của Việt Nam , còn lai 18 chiếc phải thuê của nước ngoài để khai thác.
HỮU
ì Viet 19 6 (4 ATR 72 và 2 13 (10 A320-214S,
Nam Airlines F O L K E R 70S) 3B767-300S)
2 Pacitic Airlines 2 khống 2 (1B737-200, IB27
200)
3 Vasco 3 3 (2 AN-2, 1 AN-30,
1 KING-AIR)
Cảng hàng không là m ộ t tổ hợp công trình bao g ồ m sân bay, nhà ga và
mm hít mmtoi)mm iMh mệt tim Mtì »w*> mm w Am» ttort I N hm
đi và đến, thực hiện dịch vụ vận chuyển hàng không. Sân bay là m ộ t phần xác
12
định trên mặt đất hoặc trên mặt nước được xây dựng để đảm bảo cho láu bay
Chức năng về mặt chính trị, ngoại giao; chức năng vổ mặt quốc phòng an
Chức năng quản lý hành chính: Cảng hàng không là đơn vị thay mặt
nhà nước tổ chức hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành
tại địa bàn của cảng hàng không đó. Đây là chức năng quan trọng nhất của
Chức năng vận chuyển: Cảng hàng không là một khâu trong dây
chuyền vện tíu hành khách; là trung (ốm trung chuyển hành khách, hàng hoa
của quốc gia và khu vực; là đắu m ố i trong qui hoạch giao thông chung của
mỗi quốc gia và khu vực; là nơi giao điểm của các loại hình giao thông khác
Chức năng thương mại, cung ứng dịch vụ: cảng hàng không là một tổ
hợp kinh tế - kỹ thuật - dịch vụ cung ứng các dịch vụ hàng không và các dịch
vại công cộng; quản lý và trực tiếp cung ứng một số dịch vụ thương mại.
Các khu vực chính của một cảng hàng không gồm: Đ ư ờ n g cất hạ cánh,
đường lăn của máy bay, sân đỗ máy bay, nhà ga, đài chỉ huy cất hạ cánh, khu
vực sân đỗ ô tô và đường giao thông thuộc cảng, khu vực hạn chế tại cảng
hàng không, nhà ga...
Nhà ga (Terminal) là m ộ t trọng điểm khai thác thương mại của bất cứ
cảng hàng không nào. Đây là nơi diễn ra rất nhiều các hoạt động liên quan
đến tất cả các đắu mối, đơn vị và là nơi cung ứng các dịch vụ hàng không
chính về hành khách, hành lý và hàng hoa. Ngoài ra đ a y còn là nơi thực hiện
các thủ tục quản lý nhà nước liên quan đến quá trình phục vụ bay như thủ tục
xuất nhập cảnh, hải quan, kiểm tra y tế, k i ể m dịch động thực vật....
13
Tại một cảng hàng không nói chung, để đảm bảo cho quá trình phục vụ
được diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, tránh sự chổng chéo nhà ga thường được
Ga hành khách là nơi chỉ diễn ra các hoạt động liên quan đến hành
khách sử dụng dịch vụ hàng không nhu làm thủ tục về hàng không, hái quan,
thủ tục xuất nhập cảnh cho khách. Ga hàng hoa là nơi chỉ diễn ra các hoạt
động liên quan đến viồc làm thủ tục đối với hàng hoa vận chuyển qua đường
hàng không. Ga hàng hoa gồm:
Ga hàng hoa xuất: gồm ga hàng hoa xuất quốc tế và ga hàng hoa xuất nội
địa.
Ga hàng hoa nhập: gồm gí) hàng hoa nhập quốc tế và ga hàng hoa nhập
nội địa.
Ga hàng hoa lưu kho, hàng trung chuyển quốc tế hoặc nội địa.
Khu vực hạn chế tại cảng hàng không được hiểu là khu vực chịu sự
kiểm soát của lực lượng an ninh hàng không. Tất cả m ọ i hành khách, hành lý,
hàng hoa... muốn đưa vào khu vực này đều phải qua k i ể m tra và phải tuân thủ
Khu vực hạn chế là các khu vực có tẩm quan trọng đặc biồt của một
cảng hàng không vì nó có liên quan trực tiếp tới an ninh, an toàn hàng không.
Tuy theo qui định của từng cảng hàng không, các khu vực này có thể là khác
nhau tại các cảng hàng không khác nhau nhưng nhìn chung nó thường là các
khu vực như đường băng, sân đỗ máy bay, các phòng chờ dành cho khách
chuẩn bị ra máy bay, các bãi tập kết hành lý, hàng hoa chuẩn bị đưa lên m á y
bay...
Tại Viồt Nam , các sân bay, cảng hàng không hiồn có, trước đây đều
được xây dựng với mục đích quân sự, nay được phép chuyển sang khai thác về
thương mại. Theo qui định của Nhà nước ta thì tất cả các sân bay, cảng hàng
không của Viồt Nam hiồn nay vẫn là các sân bay "dùng chung", tức là các
sân bay, cảng hàng không đều được sử dụng với hai chức năng: sân bay quân
sự và sân bay dân dụng. Tuy vào tình hình cụ thể của từng giai đoạn m à sân
14
hay, cảng hàng không hiện có sẽ khai thác với mục đích quân sự hay dan dụng
là chính.
Các sân bay, cẳng hàng không tại Việt Nam đều thuộc sở hữu cún nhà
nước và chịu sự quản lý thống nhất của nhà nước. Hiện nay Cục hàng không
dân dụng Việt Nam đang là cơ quan thay mặt nhà nước thống nhất quản lý hệ
thác, sử dụng. Những sân bay này đưậc phán theo khu vực địa lý, hình thành
nên 3 cụm cảng hàng không, với các sân bay quốc tế là trung tâm.
Cụm cảng hàng không, sân bay miền Bắc gồm trang tâm là sân bay
quốc tế Nội Bài, Hà N ộ i và các sân bay vệ tinh là Điện Biên, N à Sản, Cát Bi,
Vinh.
Cụm cảng hàng không, sân bay miền Trung gồm trung tâm là sân bay
quốc tế Đ à Nang và các sân bay vệ tinh như Pleiku, Nha Trang, Phú Bài, Qui
Nhơn.
Cụm cảng hàng không sân bay miền Nam, gồm trung tâm là sân bay
quốc tế Tân Sơn Nhất và các sân bay vệ tinh như Liên Khương (Đà Lạt), Buôn
Các sân bay ở phía Bắc phần lớn đưậc hình thành trên cơ sỏ' những sân
bay đưậc xây đựng từ trước năm 1954; các sân bay miền Nam và miền Trung
chủ yếu đưậc xây dựng trước năm 1975; các sân bay vệ tinh phần lớn đưậc
xây dựng nhằm mục tiêu quan sự nên vị trí thường không phù hập với
V T H K d â n dụng.
phố Đ à Nang. Ba sân bay này đưậc xếp vào hạng sân bay đạt tiêu chuẩn quốc
tế, tuy nhiên khả năng phục vụ của cả 3 sân bay này đều rất hạn chế về cả số
lưậng vân chuyển lẫn chất lưậng phục vụ, cần phải nâng cấp.
15
Doanh thu trong ngành hàng không, như chúng ta biết, chủ yếu có được
từ doanh thu từ các dịch vụ quốc tế, nên đây là 3 sân bay được đầu tư liu tiên
bay sẽ được m ở rộng cả cánh phía Bắc và phía Nam do tỷp đoàn JTCA Nhạt
Bản đảm nhỷn. N ă m 1998, N ộ i Bài đã có khả năng tiếp nhân một năm 2,5
triệu hành khách và 30.000 tấn hàng hoa, đến năm 2000, con số này dự tính
Những năm đầu thế kỷ 21, sân bay N ộ i Bài cần sẽ cần được đáu tư
khoảng 50 triệu USD, để nâng khả năng tiếp nhỷn khoảng 6 triệu hành khách
và 70.000 tấn hàng hoa vào năm 2005 sau đó sẽ đầu tư nâng cấp để tới năm
2010, N ộ i Bài có khả năng tiếp nhỷn từ 9 đến 10 triệu .hành khách và khoáng
Là cửa ngõ giao lưu quan trọng không chỉ đối với vùng tam giác kinh tê
Hồ Chí Minh, Đ ồ n g Nai, Bà Rịa-Vũng Tầu m à còn đối với cả Tây Nguyên và
Đổng Bằng sông cửu Long. Hoạt động ở sân bay này được đánh giá là sôi
động, nhộn nhịp nhất trong số các cảng hàng không, san bay trong cả nước.
Hơn 20 hãng hàng không nước ngoài đang khai thác các chuyến bay thường lệ
và ngày càng tăng tần xuất bay nối liền thành p h ố H ồ Chí M i n h với các thành
Hiện nay, cảng hàng không Tân Sơn Nhất có khả năng tiếp nhỷn 3,5
triệu hành khách và 40 nghìn tấn hàng hoa một năm. Trong những năm 1991 -
1995, tốc độ tăng trưởng của sân bay này là khoảng 3 5 % đối với hành khách
Tân Sơn Nhất đang được đầu tư 200 triệu USD đề nang cấp và tăng
công suất của nó lên 8 đến l o triệu khách vào đầu thế kỷ 21 này.
16
Hiện tại Đ ã nang là sân bay nhỏ nhất trong số 3 sân bay quốc tê của
Việt Nam .
Khi nhà máy lọc dầu Dung Quất và cảng Chân Mây, cũng như nhiều
khu công nghiệp được đưa vào khai thác vào đầu năm 2000 thì sân bay Đà
Nang sẽ trở thành sân bay rất nhộn nhịp. Tnrớc mắt, sân bay Đà Nang cần đầu
li. QUA TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA VẬN TẢI ĐƯỜNG BIỂN VÀ HÀNG KHÔNG
1. Đường biển
Vận tải đường biển gắn liền với sự hình thành và phát triển của nhân
loại. Ngay từ cổ đại, con người đã sống nhờ vào biển cả, từ tìm kiếm thức ăn
cho đến sử dụng biển để đi lại từ hòn đảo này tới hòn đảo khác, và dùng
đưòng biển để tìm kiếm các lục địa mới. Tuy nhiên vận tải đường biển chỉ
phát triển mạnh khi lực lượng sản xuất của nhân loại phát triển mạnh.
Đến thế kỉ thứ l o trước công nguyên, buôn bán bằng đường biển đã bắt
đầu phát triển ở khu vực Địa trang hải, đi qua biển Hồng hải tới  n Độ, đội
thương thuyền của H i lạp không chỉ hoạt động ở vùng biển Đen, ở bờ phía
đông Địa trang hải m à đã vươn ra cả Đ ạ i Tây Dương.
Đến thế kỉ thứ 4 sau công nguyên, do sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế các nước Trang Á và Tiểu Á đã khai thông con đường buôn bán bằng
tăng cường buôn bán bằng đường biển, họ không dừng lại ở vùng biển Ban He
m à đã vươn tới cả vùng Địa trung hải. T h ế kỉ 14-15, là thời kì phát triển mạnh
mẽ của lực lượng sản xuột phong kiến, quá trình đô thị hoa và quá trình hình
thành rác trung tam buôn bán diễn ra mạnh mẽ, ở Châu  u hình thành 2 trung
tâm lớn là Italia và Tây bắc Âu, ngoài ra buôn bán ở vùng biển Bắc của nước
Nga cũng rột phát triển; ở châu Á hình thành các trang lớn ở Trung quốc, Â n độ
và Ả lập. Giai đoạn này, này tầu đội tầu buồn được phát mạnh và hoàn thiện.
Cuối thế kỉ 15, đầu thế kỉ 16, thông qua đường biển, người ta đã tìm ra
châu Mĩ, đây là một đóng góp quan trọng trong việc m ở lộng thị trường, m ở
rộng buôn bán và giao lưu quốc tế bằng đường biển. Thời kì này, vận tải
đường biển phát triển mạnh, đội tầu phát triển nhanh về số lượng và chột
lượng. Tốc độ tầu lớn hơn, các trang thiết bị hàng hải'tốt hơn, la bàn là một
công cụ đi biển quan trọng đã được hoàn thiện vào thời kì này; các tuyến
đường hàng hải cũng được mở rộng, số lượng hàng hoa chuyên chở được tăng
Việc sử dụng tầu động cơ hơi nước vào đầu thế kỉ 19, tầu động cơ
diezen vào cuối thế kỉ 19 và việc sử dụng container và tầu container vào những
năm 60 của thế kỉ 20 đã tạo nên 3 cuộc cách mạng trong lĩnh vực vận tải.
Không chỉ có vậy, vật liệu đóng tầu không còn là gỗ nữa m à sắt thép đã trở
thành vật liệu chính cho các con tầu, vì thế các con tầu đã lớn hơn, tốc độ cao
hơn, an toàn hơn. Thời kì này, khoa học và công nghệ phát triển mạnh, vì thế
Nhìn chung sự phát triển của vận tải đường biển, đặc biệt là giai đoạn
Sự phát triển của tầu biển về số lượng, dung tích, trọng tải, tốc độ độ
hiện đại.
Hoạt động của đội tầu phát triển về cả qui m ô và luồng tuyến, tạo thành
một mạng lưới giao thông vận tải đường biển dày đặc khắp thế giới
18
Số lượng hàng hoa vận tải bằng đường biển ngày m ộ i tăng lên mau
khả năng thông qua của tầu, hàng hóa và ngày càng xuất hiện nhiều cảng
chuyên dụng.
Vận tải đường biển là phương thặc vận tải có vị trí quan trọng đối với
việc vận chuyển, đặc biệt là vận tải quốc tế, nó vận chuyển tuyệt đại đa số
So với các phương thặc vận tải khác thì V T H K l à một ngành vận tải còn
rất non trẻ, nếu vận tải đường biển đã hình thành và phát triển từ thế kỷ thặ 5
trước công nguyền thì vận tải đường không mới chỉ ra đòi và phát triển từ
những năm đầu của thế kỷ 20. Tuy nhiên m ơ ước có thể bay trên trời như chim
của ông cha ta đã có từ lâu đời. Từ những ước m ơ tưởng chừng như không thể
thực hiện được, con người đần đã chinh phục được khoảng không vô tận.
Người đầu tiên có công đặt nền móng cho việc nghiên cặu chế tạo máy
bay là nhà hoa sỹ, vật lý thiền tài Leonardo Devinci (1452-1519). Ô n g đã
nghiên cặu về chuyển động bay của chim, dựa trên nguyên tắc đó, ông đã thiết
sáng chế ra khí cầu hydro và khí nóng. N ă m 1809, tại Anh, George Caylay đã
bay thử mẫu máy bay một lớp cánh quạt không có người lái và thí nghiệm
trong một nhà máy kín, chạy bằng 2 cánh quạt, động cơ hơi nước. N ó bay
được khoảng 40m. N ă m 1852-1855, tại Pháp, Henri Giffard sáng chế ra khinh
khí cầu điều khiển được hướng, sử dụng động cơ 3HP, bay cao được 183m.
N ă m 1852, Francois Letur chế tạo ra đù điều khiển được. N ă m 1868, tại Pháp,
Le Bris sáng chế ra tầu lượn đầu tiên, có thể lên tới độ cao 9 I m trong vài phút
N ă m 1891-1896, tại Đặc, Otto Lilien Thai, phát m i n h ra chiếc tầu có thể vừa
19
bay, vừa lượn bằng tre, mây và bìa giấy tạo ra tiền đề đẫn đến thành công cua
anh em nhà Wright. Sau đó, ông chết do một tai nạn khi dang bay lượn tiên
bầu trời. N ă m 1896, Langley, giáo sư đại học Washington chê tạo ra máy bay
dùng hơi nước. N ă m 1897, tại Đức, Wolfert sáng chế ra khí cầu dùng động cơ
xăng, điều khiển được. Sau đó, ông chết vì tai nạn k h i đang thử nghiệm. N ă m
1900, tại Đức, Zeppelin đã chế tạo ra khí cầu có 2 động cơ xăng I5HP, v ỏ
bằng nhôm cứng gọi là Z l . N ă m 1906, Z l được cỹi tiến thành Z4, sử dụng 2
động cơ xăng 85HP, trong thời gian 1911-19)3, các khinh khí cầu đã chở
N ă m 1903, tại Mỹ, anh em nhà W i ight đã chế tạo được m á y bay 2 tầng,
cánh gỗ, động cơ xăng 12HP. Hai anh em nhà Wright được coi là những người
đầu tiên trong lịch sử chế tạo ra động cơ bay m à ngày nay chúng ta gọi là máy bay.
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, 1914-1918 đã thúc đẩy sự phát triển
của ngành vận tỹi hàng không ( V T H K ) phục vụ nhu cầu vận tỹi quán sự,
ngành hàng không đã bắt đầu phát triển và đạt được nhiều thành tựu về thời
N ă m 1927, tại Mỹ, Charles Linberght đã bay trên máy bay cánh quạt
N ă m 1941, nước Đ ứ c đã chế tạo thành công m á y bay quân sự phỹn lực
Me 262A. Giai đoạn 1936-1945, do sự bức bách của nhu cầu quan sự nên
V T H K phát triển mạnh. Tuy vậy, trước chiến tranh thế giới thứ 2, V T H K chỉ
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, V T H K có những bước tiến lớn do những
thành tựu khoa học kỹ thuật đã đạt được trong cuộc cạnh tranh k i ể m soát
khoỹng không và đặc biệt là V T H K bắt đầu chuyển sang phục vụ các mục
đích dân sự, đây là tiền để cho V T H K phát triển cỹ chiều rộng lẫn chiêu sâu.
triển của nó được thể hiện qua một số mặt sau đây:
20
+ Đ ộ n g cơ máy bay được cải tiến, ngày càng hiện đại có sức đấy lớn
hơn. Đ ầ u tiên là động cơ piston, sau đó là động cơ tua bin cánh quạt, và ngày
+ Vật liệu chế tạo máy bay cũng thay đổi: Ngày nay người ta dung
composit để chế tạo khung máy bay, vừa nhẹ vừa bền hơn nhiều lán so với vật
liệu truyền thủng là gỗ, nhôm và thép. Điều này cho phép giảm được trọng
lượng của m á y bay, tăng dọng tải hàng hoa và hành khách chuyên chở.
+ M á y tính điện tử và công nghệ thông tin hiện đại được áp dụng trong
điều khiển bay cả trên không và mặt đất.
Nhờ áp dụng công nghệ mới, vật liệu m ớ i cho nên m á y bay, công cụ
chính của V T H K bền hơn, có sức chứa lớn hơn, tủc độ cao hơn và an toàn
- Đ ủ i tượng chuyên chở đa dạng và khủi lượng vận tải ngày càng tăng lên:
Những n ă m trước chiến tranh thế giới thứ 2, V T H K chủ yếu phục vụ
nhu cầu vận tải quân sự. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, dù sự phát triển của
V T H K vẫn không xa rời các mục tiêu quân sự, xong hàng hoa và hành khách
ngày càng được vận chuyển nhiều hơn và cho đến nay, chiến tranh lạnh đã
kết thúc thì vận tải hàng hoa và hành khách là mục tiêu chính của phái triển
VTHK.
1960 cho đến nay, ngành hàng không đã tăng 20 lần tính theo tấn kin thực
hiện, trong khi đó tổng sản phẩm quủc nội của thế giới chỉ tăng chỉ tăng 3,7%.
Các hãng hàng không châu Á-Thái Bình Dương có mức độ tăng trưởng cao
nhất so với các khu vực khác với tủc độ tăng trung bình 8,5% đôi vói hành
khách và 1 0 % đủi với hàng hoa, và d ự báo vẫn tiếp tục tăng trưởng ở mức cao
nhất ở thế kỷ 21. N ă m 1945, m ớ i có 9 triệu hành khách đi lại trên các chuyến
bay thương mại, chỉ chiếm 0,5% dân sủ thế giới lúc bấy giờ. N ă m 1987,
ngành hàng không dân dụng quủc tế lần đầu tiên đạt tới con sủ Ì tỉ lượt hành
khách/năm. N ă m 1994, sủ hành khách đi m á y bay dân dụng đã đạt tới con sủ
1,3 tỉ người tương đương với khoảng 2 5 % dãn sủ thế giới. Trong hơn 50 n ă m
21
qua, ngành hàng không dan dụng đã chuyên chở chở được 25 tỉ lượt người, 36
nghìn tỉ hành khách lem, (tức là bằng chở một hành khách lên mặt trời và về
120.000 lần) và 350 triệu tấn hàng hoa, bằng trọng tải của I triệu máy bay
Boing 747-200. Tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành hàng không thê giểi
Những năm trưểc kia, do chi phí V T H K quá cao, vì thế V T H K chỉ chủ yêu
phục vụ những hành khách công vụ và vận chuyển thư tín cũng như những loại
hàng hoa có giá trị cao. Ngày nay, đối tượng vận chuyển của V T H K chủ yêu
là khách du lịch, thương nhân và hơn 4 0 % hàng hoa của M ỹ có giá trị từ 0 đến
- Số lượng m á y bay, sân bay và các hãng hàng không tăng lên.
Nhu cầu vận tải hàng hoa và hành khách ngày càng tăng, do đó số
lượng m á y bay vận tải cũng ngày càng tâng lên. T ừ chỗ sử dụng và cải tạo
máy bay quân sự để chuyên chở hàng hoa và hành khách thì ngày nay m á y
bay vận tải chủ yếu là các máy bay được đóng mểi, hiện đại hơn, sức chở lển
hơn và phù họp hơn vểi vận tải hàng hoa, hành khách.
Nguồn. Outlnok -Boing 1995 và Thông tin hàng không số ỉ8 năm 1998
Nhìn chung, trong những n ă m vừa qua, V T H K dân dụng đã đạt được
những thành tựu rất quan trọng về cồng nghệ chế tạo m á y bay, các dịch vụ
22
cũng như số lượng hành khách, hàng hoa chuyên chở ngày càng tăng. Theo
Oullook-Boing 1995 thì toàn thế giới hiện nay có khoảng 360 hãng hàng
không, 6000 sân bay. Số máy bay khai thác hàng năm khoảng I 1.500 chiếc và
hàng năm, ngành hàng không trên toàn thế giới đã đ e m lại thu nhập 700 tỉ
quốc tế về hàng không như I A T A , ICAO... cũng như sự ra đời của hàng loai
các Công ước, nghễ đễnh thư, hiệp đễnh về hàng không quốc tế.
Tháng 10 năm 1954, việc tiếp quản sân bay gia lâm, H à nội từ tay quân
viễn chinh Pháp được coi là sự kiện m ở đầu cho sự phát triển của hàng không
Việt Nam . Ngày 15/1/1956, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nghễ đễnh
666TTg, thành lập cục hàng không dãn dụng Việt Nam trực thuộc Bộ quốc
phòng. Ngành hàng không dan dụng Việt Nam chính thức ra đời và phát triển.
Qua trình hình thành và phát triển của V T H K Việt Nam có thể chia ra
làm 3 giai đoạn chủ yếu sau đây: Giai đoạn l , từ năm 1956 đến năm 1975:
Nhìn chung, cơ sở vật chất kỹ thuật của hàng không Việt Nam thời kỳ này
còn rất nghèo nàn, ngành hàng không chủ yếu phục vụ nhu cầu vận tải quân
sự. Giai đoạn 2, từ n ă m 1976 đến năm 1989: Ngày 11/2/1976, Chính phủ ban
hành nghễ đễnh 28CP thành lập Tổng cục hàng không dân dụng V i ệ t Nam
trực thuộc Quân uy trung ương và Bộ quốc phòng. Thực chất đay là m ộ t đơn
vễ quân đội làm nhiệm vụ kinh tế.Trong thời kỳ này, ngoài m á y bay của Liên
xô cũ sản xuất, ta còn thu được một số m á y bay của M ỹ như DC6 DC4 DC3.
Về vận tải nội đễa, ta đã m ở rộng dường bay tới hầu hết các tỉnh ngoài trục
chính là H à nội, Đ à Nang, Tân Sơn nhất. về vận tải quốc tế, trước năm 1975
ta m ớ i chỉ bay tới Lào, Trang Quốc, thì giai đoạn này ta đã m ở đường bay tới
bay quốc tế là N ộ i Bài, Đ à Nang, Tân Sơn nhít nằm ở trung tâm của cả 3 miền
Bắc-Tnmg-Nam. Giai đoạn 3, từ năm 1990 đến nay: V T H K dân đụng đã tách
ra khỏi Bộ quốc phòng. Tháng 5 năm 1996, Tổng công ty hàng khôno Việt
23
Nam đã được thành lập, trực thuộc Chính phủ, bao gồm 20 đơn vị thành viên.
chóng.
Về đội bay, từ chỗ chụ có 5 máy bay cũ của Pháp để lại năm 1954, và
máy bay của Liên xô cũ đã hết hạn sử dụng. Đ ế n nay hàng không Việt Nam
đã có một đội máy bay hiện đại gồm máy bay của những hãng hàng không
nổi tiếng nhất thế giới như A T R 72, Aiibus, Boing, Folker. về đường bay,
hiện nay Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống gồm 24 đường bay nội
địa và 22 đường bay quốc tế tới hầu hết các điểm của đất nước và tới hầu hết
Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, năm 1956, chúng ta chụ mới có hiệp
định song phương với Trung quốc, hiện nay, V i ệ t Nam đã ký hiệp định song
phương với 40 nước trên thế giới. Việt Nam đã tham gia I C A O năm 1980,
đây là tổ chức hàng không quan trọng nhất trong lĩnh vực hàng không dân
dụng năm ] 980.
Trong lĩnh vực liên doanh, hàng không V i ệ t Nam đã có hàng chục liên
doanh với nước ngoài trong đo có 6 liên doanh đang triển khai có hiệu quả.
Số lượng hành khách và hàng hoa vận chuyển những năm gần đây tăng
Đ ể đáp ứng yêu cầu phát triển về VTHKtăng lên không ngừng và tạo ra
cơ sở pháp lý để điều chụnh những vấn đề có liên quan đến vận chuyển hàng
không dân dụng nhằm đảm bảo an toàn cho hành khách và khai thác có hiệu
quả các tiềm năng về hàng không, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, m ở
rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, V i ệ t Nam đã ban hành luật hàng không dân
dụng V i ệ t Nam n ă m 1991 và luật sửa đổi luật hàng không dân dụng V i ệ t
Nam 1995.
24
C H Ư Ơ N G 2. NHỮNG NỘI DUNG c ơ BẢN VỀ T R Á C H NHIỆM CỦA NGƯỜI
Trong những năm vừa qua, số lượng vận chuyển ngày một tăng nhanh.
Sô lượng hàng hoa mua bán quốc tế ngày nay khoảng 4 tỉ tấn một năm, cứ
(rong vòng l o năm thì số lượng hàng hoa vận chuyển quốc tế l ạ i tăng gấp
khoảng 2 lần.
Vận tải đường biển chuyên chở hơn 80 % số lượng và khoảng 6 4 % trị
gia hàng hoa trong mua bán quốc tế. V T H K t u y chỉ chuyên chở một số lượng
khoảng Ì % nhưng lại chiếm khoảng 20 đến 30 trị giá hàng hóa trong mua bán
quốc tế. Vì thế, vận tải đường biển và hàng không là hai phương thức vận tải
giữ vị trí rất hàng đầu đối vẩi việc chuyên chở hàng hoa quốc tế. Điều này
cũng có nghĩa là người chuyên chở đường biển và đường hàng không có một
vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng đối vói mua bán quốc tế, vì họ chính là
người chịu trách nhiệm nhận 4 tỉ tấn hàng hóa một năm từ người xuất khẩu ờ
nưẩc đi và giao cho người nhập khẩu ở nưẩc đến. Nói theo một nghĩa nào đó
thì số phận hàng hoa và vận mệnh của các doanh nghiệp, tương lai của buôn
bán quốc tế nằm trong tay và tuy thuộc vào người chuyên chở nói chung,
người chuyên chở đường biển và đường hàng không nói riêng.
Chính vì điều này, m à nhũng qui định liên quan đến người chuyên chở,
đặc biệt là trách nhiệm của người chuyên chở luôn là vấn đề được quan tâm
của các nưẩc, đặc biệt là những nưẩc có biển và ngành hàng hải phát triển.
Trong quá trình phát triển ngành hàng hải của nưẩc mình các nưẩc đều ban
hành bộ luật hàng hải, trong đó trách nhiệm của người chuyên chở bao g i ờ
Đ ố i vẩi vận chuyển quốc tế, do đặc điểm là hàng hoa được vận chuyển
qua biên giẩi của hai hay nhiều nưẩc, do vậy, đòi hỏi phải có những qui định
chung, thống nhất giữa nưẩc này vẩi nưẩc khác mang tính quốc tế, vì thế đã
xuất hiện nhiều điều ưẩc quốc tế như các Công ưẩc, nghị định thư, hiệp định
quốc tế về hàng không và hàng hải. Sự ra đời của các Công ưẩc quốc tế nhằm
25
mục tiêu c h ủ y ế u là q u i định và q u ố c t ế hoa trách n h i ệ m c ủ a người chuyên
mạnh, sô lượng hàng hoa vận c h u y ế n ngày càng (ăng lên. Đ e trách x u hướng
qui định trách n h i ệ m m ữ t cách (uy tiện của người chuyên chở, mặt khác, de có
khoản nào b u ữ c các nước t h a m g i a q u i tắc phải t h i hành nên không có nước
thể lệ về vận đơn đường biển". C ô n g ước này còn g ọ i là q u i tắc H a g u e 1924 vì
Bản sửa đ ổ i t h ứ nhất là nghị định thư V i s b y 1968. Nghị định thư V i s b y .
Bản sửa đ ổ i t h ứ h a i là nghị định thư SDR, n ă m 1979. Nghị định thư
26
qui định trong Công ước Brucxen 1924 và đồng Frăng vàng, được qui định
khác biệt căn bản nào đối với Công ước về trách nhiệm của người chuyên chỏ.
nó không sửa đổi được những nội dung chủ yếu của Công ước, không đáp ứng
được mẩc tiêu sửa đổi của những người xuất nhập khẩu, ngân hàng và nhũng
Liền hiệp quốc đã ban hành "Công ước của Liên hiệp quốc về chuyên chở
hàng hoa bằng đường biển", còn g ọ i là Công ước Hamburg hay qui tắc
Hamburg năm 1978 đo được kí kết tại Hamburg của Đ ứ c 1978. Công ước này
đã khắc phẩc được những nhược điểm của Công ước Brucxen và tạo nên sự
bình đẳng về mặt quyền lợi giữa người chuyền chở và người chủ hàng. Tuy
nhiên, Công ước Hamburg sau 14 năm kể từ ngày kí kết mới có hiệu lực
(tháng 11/1992). N h ư vậy, trên thế giới ngày nay song song tổn tại hai hệ
thống Công ước quốc tế về vận chuyển hàng hoa bằng đường biển.
Brucxen 1924
1.1. Thời hạn trách nhiệm, cơ sở trách nhiệm và giói hạn trách
Là trách nhiệm của người chuyên chở đối v ớ i hành hoa về mặt thời
gian và không gian. Điều l ệ của Công ước Brucxen 1924 q u i định "Thời gian
chuyên chở hcìng hoa gồm thời gian từ lúc chất hàng xuống tầu đến lúc dỡ
Như vậy về mặt thời gian và không gian, người chuyên c h ở chịu trách
nhiệm đối với hàng hoa kể từ khi hàng hóa được xếp lên tầu ở cảng đi cho đến
khi hàng hoa được d ỡ ra khỏi tầu ở cảng đến. C ó nghía là người chuyên chở
chỉ chịu trách nhiệm đối với hàng hoa k h i hàng hoa ỏ trên tầu, ở trên mặt
nước, chứ không chịu trách nhiệm đối v ố i hàng hoa k h i hàng hoa ở trên cảng
27
đi hay cảng đến. Nói rõ hơn, người chuyên chỏ chịu trách nhiệm đối với hàng
hoa kể từ khi móc cẩu của tầu móc vào kiện hàng ở cảng xếp hàng cho tới khi
móc cẩu của tầu tuột khỏi kiện hàng ở cảng d ỡ hàng với điều kiện hàng hon
được đật xuống cảng một cách an toàn. Điều này có nghĩa là người chuyên
chở bắt đầu chịu trách nhiệm đối với hàng hoa khi móc cẩu của tàu móc vào
kiện hàng ở cảng xếp và tiếp tục chịu trách nhiệm đối với hàng hoa ở trong
quá trình vận chuyển và hết trách nhiệm đối với hàng hoa khi hàng hoa đã
được đật lên cầu cảng ở cảng dỡ hàng một cách an toàn, trách nhiệm này gọi
là trách nhiệm từ móc cẩu tới m ó c cẩu hay từ cần cẩu tới cần cẩu. Nếu khi d ỡ
hàng ở cảng đến m à hàng hoa bị tuột khỏi m ó c cẩu và rơi xuống biển hay
xuống cầu cảng dẫn đến tổn thất thì người chuyên chở phải chịu trách nhiệm
bồi thường, chứ không phải hàng hoa cứ tuột khỏi m ó c cẩu ở cảng d ỡ In người
Trong trường hợp lô hàng gồm nhiều kiện hàng thì, người chuyên chở
chỉ chịu trách nhiệm đối với kiện hàng nào đã được m ó c cẩu móc vào để xếp
lên tầu chưa phải chịu trách nhiệm đổi với những kiện hàng còn ở trên bò' chưa
được xếp lên tầu. K h i dỡ hàng ra khỏi tầu ở cảng đến, người chuyên chở chỉ
hết trách nhiệm đối với những kiện hàng đã được d ỡ ra khỏi tầu, những kiện
còn ở trên tầu người chuyên chở vẫn phải chịu trách nhiệm. Không phải cứ
xếp lên tầu một kiện thì người chuyên chở phải chịu trách nhiệm với tất cả các
kiện còn ở trên bờ và cứ dỡ được m ộ t kiện an toàn ra khỏi tầu thì người
chuyên chở đã hết trách nhiệm với những kiện còn ở trên tầu. C ó thể m ô tả
thời hạn trách nhiệm của người chuyên chở theo Công ước Brucxen bằng sơ
đồ sau:
Người chuyên chở chịu trách nhẹm đối với hàng hoatítmóc cẩn đến móc cẩu
X i r
28
- Ca sở trách nhiệm
Theo Công ước Brucxen 1924, người chuyên chở chịu trách nhiệm bồi
thường khi hàng hoa bị mất mát hoặc hư hại trong quá trình vận chuyển. Như
vạy, cơ sở bồi thường của người chuyên chở là mất mát, hư hại. Trên cơ sở đó,
Công ước qui định những trách nhiệm m à người chuyên chở phái chịu và
những miễn trách m à người chuyên chở được hưởng. Đây là căn cứ để xem
xét người chuyên chở có phắi chịu trách nhiệm bồi thường hay không khi
hàng hoa bị mất mát hư hại trong quá trình vận chuyển.
Theo Công ước Brucxen 1924, người chuyên chở cỏ 3 trách nhiệm lốt
thiểu.
Trách nhiệm thứ nhất là trách nhiệm cung cấp tầu đủ khắ năng đi biển.
Tầu đủ khắ năng đi biển là tầu phắi đạt được 3 yêu cầu tối thiểu. Yêu cầu đầu
tiên là tầu phắi bền chắc, kín nước, chịu được sóng gió bình thường như những
tầu cùng loại. Yêu cầu thứ 2 là tầu phắi được biên chế đẩy đủ về thúy thủ,
được trang bị và cung ứng đầy đủ vềnhiên liệu cho hành trình. Thông thường,
một con tầu được biên chế đầy đủ phắi đủ thúy thủ vềsố lượng và đắm bắo về
chất lượng. Nhìn chung các nước trên thế giới đều qui định rằng, trên một con
tầu, ngoài những người khác ra thì bắt buộc phắi có những người sau đây:
Thuyền trưởng, thuyền phó nhất, máy trưởng, m á y phó, sĩ quan điện đài và
đầu bếp. Tuy nhiên, việc qui định phẩm chất của từng người thì các nước lại
qui định không giống nhau. Nước A n h qui định rằng, thuyề n trưởng trên
những tầu cắm cờ anh phắi mang quốc tịch A n h và bằng thuyền trưởng phắi
do Chính phủ hoàng gia A n h cấp. Panama lại qui định là thuyền trưởng đi trên
những tầu cắm cờ Panam chỉ cần có bằng thuyề n trưởng do Panama cấp.
Malta lại qui định rằng, thuyền trưởng đi trên những tầu cắm cờ Malta chỉ cần
có bằng thuyền trưởng hợp lệ, tuy nhiên, Malta lại quị định là đầu bếp đi trên
những tầu cắm cờ Malta thì phắi có bằng cấp và có thâm niên công tác trên
biển ít nhấp là 2 tháng. Yêu cầu thứ 3 là tầu phắi thích hợp với việc chuyên
chở hàng hóa. Tức là tầu phắi phù hợp với việc chuyên c h ở mặt hàng được
thuê chở. Ví dụ thuê chở nước ngọt thì tầu phắi là tầu c h ở nước ngọt, nếu là
29
tẩu chở hoa chất là không thích hợp; hay thuê tầu chở hàng đông lạnh thì tẩu
phải là tầu chở hàng đông lạnh, tầu phải có hầm lạnh và máy lạnh hoạt động
Trách nhiệm thứ 2 của người chuyên chở là trách nhiệm xếp d ỡ báo
quản hàng hoa trong suốt quá trình chuyên chở. Điều 3, khoản 2 của Công ước
qui định như sau "người chuyên chở phải tiến hành một cách thích hợp và cẩn
thọn việc chất, chuyển dịch, xếp, chuyên chở, chăm sóc và dỡ những hàng hoa
được chuyên chở". Trách nhiêm này gọi là trách nhiệm xếp đỡ, bảo quản hàng
hoa trong suốt quá trình chuyên chở hay còn gọi là trách nhiệm thương mại
của người chuyên chở, trách nhiệm thương mại này bắt đầu từ kin ĩ hàng hoa
bất đầu được xếp lên tầu kết thúc khi hàng hoa được d ỡ xong ra khỏi tầu.
Trách nhiệm thứ 3 là trách nhiệm cấp vọn đơn đường biển. Điều 3,
khoản 3 của Công ước Bmcxen 1924 qui định rằng "sau khi tiếp nhọn và nhọn
trách nhiệm về hàng hoa, người chuyên chở hoặc thuyề n trưởng, hoặc đại lí
của người chuyền chở, theo yêu cầu của người gửi hàng phải cấp phát cho họ
một vọn đơn". N h ư vọy, cấp vọn đơn cho nguôi gửi hàng là trách nhiệm của
người chuyên chở hoặc người thay mặt cho người chuyên chở. Việc cấp vọn
đơn như thế nào là tuy thuộc vào yêu cầu của người gửi hàng. K h i cấp vọn
đơn, người gửi hàng thường yêu cầu cấp một bộ vọn đơn. M ộ t bộ vọn don có
thể gồm nhiề u bản nhưng tối thiểu là 3 bản chính và các bản phụ. K h i cấp vọn
đơn, ngoài những chi tiết khác, vọn đơn phải gồm những nội dung như:
m ã hiệu được i n ở bên ngoài hàng hoa đối với những loại hàng không có bao
bì và in ở trên bao bì hàng hoa đối với loại hàng có bao bì;
+ M ô tả hàng hoa.
Mục đích của việc ghi kí m ã hiệu, số lượng, trọng lượng và m ô tả hàng
hóa là nhằm tạo diều kiện thuọn lợi cho việc giao nhọn hàng hoa ở nơi đến
trách nhầm lẫn thiếu hụt, vì trên tầu thường xếp hàng hoa của nhiều chủ hàng
khác nhau và có nhiều loại hàng hoa trông rất giống nhau.
30
Công ước Brucxen 1924 qui định người chuyên chở được hưởng 17
trường hợp miễn trách. Đ ó là: Người chuyên chở và tầu không chịu (rách
nhiệm về mất mát, hư hỏng hàng hoa do tầu không đủ khả năng đi biển trừ khi
việc đó là do người chuyên chở thiếu sự mân cán thích đáng; hành vi sơ suất
hay khuyết điểm của thuyền trưởng, thúy thủ, hoa tiêu hay người giúp việc
cho người chuyền chở trong việc vận hành hay quản trị tầu; cháy, trừ khi do
lồi lẩm thực sự hay hành động đồng phạm của người chuyên chở gay ra;
những tai hoa nguy hiểm hoặc tai nạn trên biển hay trên sông nước; thiên tai:
hành động chiến tranh; hành động thù địch; bắt g i ữ hay câu thúc của vua
chúa, chính quyền hay nhân dân hoặc áp dụng các biện pháp tư pháp; hạn chế
vì cấm địch; hành vi hay thiếu sót của người gửi hàng hay chủ hàng, của đại lí
hay đại diện của họ; đình công hay bế xưởng, đình chỉ hay cản trở lao động bộ
phận hay tocìn bộ không kể vì lí đo gì; bạo động hay nổi loạn; cứu trợ hay m ư u
toan cứu trợ sinh mệnh và tài sản ở trên biển; hao hụt thể tích hay trọng lượng
hoặc bất kì mất mát hư hỏng nào khác xẩy ra do ẩn tì, đặc tính hay khuyết tạt
của hàng hoa; thiếu sót về bao bì; thiếu sót hay sự không chính xác về m ã hiệu
hàng hoa; nhũng ẩn tì không phát hiện được dù đã có sự cần mẫn thích đáng-
mọi nguyên nhân khác không phải do l ồ i lầm thực sự hay sự tham gia của
người chuyên chở cũng như không phải do sơ suất hay lồi lầm của noười đại lí
hay người làm công của người chuyên chở.
Như vậy, theo Công ước, người chuyên chở chỉ phải chịu 3 trách nhiệm
Những trách nhiệm được qui định trong Công ước là những trách nhiệm
tối thiểu vì nó quá đương nhiên, dù có q u i định hay không q u i định thì người
chuyên chở vẫn luôn phải có trách nhiệm n h u vậy. Đ ố i v ớ i trách nhiệm thứ
nhất, là trách nhiệm cung cấp tầu đủ khả năng đi biên, điều này quá hiển
nhiên vì người chuyên chở nhận hàng chuyên chở để lấy cước chẳng lẽ lại
không phải cung cấp tầu đủ khả năng đi biển, tất nhiên không thể sử đụng tầu
không thể đi biển để chuyên chở hàng hoa. V ớ i trách nhiệm thứ 2, trách
nhiệm xếp d ỡ bảo quản hàng hoa trong suốt quá trình chuyên chở điều này
31
cũng đương nhiên, vì tầu không thể không có trách nhiệm đối với việc xép dỡ
hàng hoa và bảo quản hàng hoa được vì không có sự chí dẫn của tầu việc xép
dỡ hàng không thể thực hiện được, (rên tầu lại chỉ có người của tẩu m à không
có chủ hàng đi kèm, mặt khác đối với tầu chợ, chi phí xếp d ỡ đã được tính
trong cước thì trách nhiệm và chi phí xếp dỡ là thuậc về tầu. V ớ i trách nhiệm
thứ 3 là trách nhiệm cấp vận đơn đường biển, điều này là điều bắt buậc vì tầu
nhận hàng hoa thì phải chứng nhận là đã nhận hàng như thế nào và vào lúc
nào, mặt khác nữa tầu thường nhận chuyên chở mật khối lượng và trị giá
chuyên chở rất lớn thì việc cấp mật bậ vận đơn bằng giấy là điều không càn
phải CỐ gắng gì cả.
D ù không qui định thì người chuyên chở vẫn phải có trách nhiệm như
vậy, tuy nhiên vẫn phải qui định vì những qui định này có giá trị như mật lời
tuyên bố chính thức lại được ghi nhận bằng văn bản, nó có giá trị bắt buậc
phải thi hành dù muốn hay không muốn; mặt khác, sự công bố công khai tạo
Những miễn trách của người chuyên chở được qui định trong Công ước
Bi ucxen 1924 đã tạo nên sự không bình đẳng về mặt quyền lợi giữa chủ tầu và
chủ hàng. Người chuyên chở chỉ có 3 trách nhiệm tối thiểu, nhưng lại được
hưởng 17 miễn trách tối đa. Điều này chứng tổ Công ước đã ra đòi trong điều
kiện thế lực của chủ tầu mạnh hơn thế lực của chủ hàng, phù hợp với câu nói
"ngoại thương đi sau cờ tầu". Như vậy, theo Công ước Brucxen 1924, hầu hết
các trường hợp tổn thất về hàng hoa chủ hàng đều phải chịu, trừ khi chứng
minh được rằng tổn thất ấy thuậc 3 trách nhiệm và không thuậc 17 miễn trách.
người chuyên chở phải b ồ i thường cho m ậ t kiện hàng hay m ậ t đơn vị hàng
hoa nếu tính chất và trị giá của hàng hoa không được kê khai và ghi trên vận
32
Như vậy, k h i nói tới giới hạn trách nhiệm người ta nói tới hai trường
hợp, trường hợp có kê khai tính chất, trị giá và trường hợp không kê khai tính
I khoán 5, Công ước qui định, trong mọi trường hợp người chuyên chở không
phải bồi thường một số tiền lớn hơn 100 bảng A n h cho một kiện hay cho mội
Trong trường hợp tính chất và trị giá của hàng hoa đã được kê khai thì
tổn thất hàng hoa nhu thế nào, người chuyên chở phải bồi thường như thế, tỏc
là bồi thường theo trị giá của hàng hoa. Nói cách khác là giới hạn trách nhiệm
của người chuyên chở trong trường hợp này là trị giá của hàng hoa, hay cũng
có thể nói là khi tính chất và trị giá đã kê khai và được người chuyên chở chấp
thuận bằng cách ghi trên vận đơn thì không có giới hạn (rách nhiệm đối với
người chuyên chở, vì k h i nói tới giới hạn trách nhiệm là muốn nói tới một số
tiền bồi thường nhỏ hơn tổn thất thực tế của hàng hoa, nếu đã bồi thường tới
trị giá của hàng hoa thì không còn tổn tại khái niệm giới hạn nữa.
1.2. Trách nhiệm của người chuyên chở đối vói việc giao hàng ở cảng
đến
Người chuyên chở có nghĩa vít giao hàng hoa ở cảng đến cho người
nhận hàng xuất trình vận đơn và bộ chỏng từ nhận hàng hợp lệ. Người chuyên
Người chuyên chở đã giao hàng phù hợp với vận đơn m à người nhận
hàng xuất trình, hay nói cách khác là đã giao hàng theo vận đơn-
Không có một thông báo nào về những mất mát hư hỏng hoặc tính chất
chung của những mất mát hư hỏng ấy gửi cho người chuyên chở hay đại lí của
người chuyên chở tại cảng dỡ hàng trước hoặc vào lúc chuyển hàng san" tay
người có quyền nhận hàng theo hợp đồng chuyên chở hoặc trong vòng 3 ngày
kể từ lúc giao hàng.
33
1.3. Trách nhiệm giúp người nhận hàng kiểm tra, kiểm đếm hàng
hoa khi bị tổn thất.
Trong trường hợp hàng hoa bị tổn thất hay nghi ngờ là có tổn thất,
người chuyên chở phải tạo m ọ i điều kiện thuận lợi để người nhận hàng hoa có
thể kiểm tra, kiểm đếm hàng hoa và lập các biên bản cần thiết để xác định tính
chất, nguyên nhân, mức độ và trách nhiệm đối vỡi tổn thất. Người chuyên chở
có nghĩa vụ phải kí vào các biên bản để xác nhận tình trạng tổn thất. Các biên
bản đó là biên bản hàng thiếu, nếu hàng bị mất mát hay thiếu hụt; biên bản
hàng bị hư hỏng đổ vỡ nếu hàng bị hư hỏng đỗ vỡ; trong trường hợp nghi ngờ
là hàng hoa bị tổn thất thì người chuyên chở có nghĩa vụ chấp nhận và kí xác
1.4. Trách nhiệm cấp vận don dã xếp hàng hoặc ghi bổ sung lên vận
dơn chưa xếp hàng.
Trong trường hợp, người chuyên chở đã nhận hàng hoa nhưng lại chưa
xếp hàng lên tầu do chưa có tầu hay chưa làm xong thủ tục để xếp hàng, hoặc
chưa đủ hàng để xếp đẩy lên tầu thì người chuyên chở hoặc người đại điện của
người chuyên chở chỉ có thể cấp cho người gửi hàng một vận đơn chưa xếp
hàng hay vận đơn nhận hàng để chờ xếp lên tầu.
Theo hợp đồng mua bán, người xuất khẩu phải thanh toán bằng vận đơn
đã xếp hàng do họ bán hàng bằng các hợp đồng FOB, CFR, CIF, vì thế họ yêu
cầu người chuyên chở cấp cho họ vận đơn đã xếp hàng sau k h i hàng hoa đã
được xếp lên tầu. Vì vậy, sau k h i hàng họa đã được xếp lên tầu, người chuyên
chở có trách nhiệm phải cấp cho người gửi hàng m ộ t vận đơn đã xếp hàng và
thu hồi lại vận đơn chưa xếp hàng đã kí phát từ trưỡc. Đ ể không phải kí phát
một vận đơn khác, người chuyên chở có thể ghi bổ sung lên trên vận đơn chưa
xếp hàng tên tầu và ngày tháng hàng hoa được xếp lên tàu. M ộ t vận đơn chưa
xếp hàng được ghi bổ sung như vậy sẽ chở thành vận đơn đã xếp hàng.
1.5. Trách nhiệm của người chuyên chỏ đôi vói các họp đồng tự nguyện
Công ưỡc không ngăn cản người chuyên c h ỏ thoa thuận riêng vỡi người
34
gửi hàng về trách nhiệm cùa mình, miễn là những trách nhiệm đó không thấp
hay ít hơn những trách nhiệm đã được qui định trong Công ƯỚC.
Người chuyên chở hay người thay mặt người chuyên chở có thể (hoa
thuận với người gửi hàng về một giới hạn bồi thường cao hơn 100 GBP cho
một kiện hàng hay một đơn vị hàng hóa. Nhưng không được thoa thuận một
sầ tiền bồi thường nhỏ hơn 100 GBP đã được ấn định trong Công ước.
Về thời hạn trách nhiệm của người chuyên chở cũng vậy, người chuyên
chở có thể thoa thuận với người gửi hàng về việc chịu trách nhiệm đôi với
hàng hoa trước khi hàng hoa được xếp lên tầu và sau khi hàng hoa được dỡ ra
khỏi tầu. Tức là người chuyên chở có thể chịu trách nhiệm đầi với hàng hoa từ
kho đến kho chứ không nhất thiết chỉ chịu trách nhiệm đầi với hàng hoa kể từ
khi hàng hoa được xếp lên tầu cho đến khi hàng hóa được dỡ ra khỏi tẩu.
1.6. Trách nhiệm của nguôi chuyên chỏ đôi vói những loại hàng dặc
Hàng nguy hiểm đầi với tầu và hành trình, nếu k h i xếp lên tầu người
chuyên chở không biết thì người chuyên chở có nghĩa vụ đưa hàng đó lên bờ
vào bất kì lúc nào ở bất cứ nơi nào không cần là cảng dỡ hàng để đảm bảo an
toàn cho tầu. Trong trường hợp cần thiết người chuyên chở có thể tiêu huy
hoặc làm mất tác hại của loại hàng hoa đó m à không phải bồi thường gì cả.
Người gửi hàng hoàn toàn phải chịu trách nhiệm về những tổn thất và chi phí
do hậu quả trực tiếp hay gián tiếp của việc gửi loại hàng nguy hiểm đó.
Trong trường hợp người chuyên chở chấp nhận chuyên chở hàng nguy
hiểm, nhưng sau đó hàng đó trở thành đe doa nguy hiểm đầi với tầu và hàng
hoa khác chở trên tầu thì người chuyên chở cũng được tự ý hành động như đưa
lên bờ, tiêu huy hay làm mất tác hại của hàng nguy hiểm m à không phải chịu
Đ ầ i với hàng riêng biệt, tức là không phải là những loại hàng mua bán
thông thường, người chuyên chở được phép tự do thoa thuận về trách nhiệm,
miễn trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm, thậm chí những qui định này hoàn
toàn trái với qui định của Công ước, miễn là những qui định đó không trái với
35
với trật tự công cộng. Tuy nhiên trong trường hợp này, người chuyên chớ
không được cấp phát bất kì mội vận đơn nào cả, những thoa thuận như vây
phải được ghi trên một biên lai và biên lai này phải là một chứng từ không lưu
Do những hạn chế của Công ước Brucxen 1924 về trách nhiệm, miễn
trách nhiệm, giới hạn trách nhiệm ... Công ước đã được sửa đầi hai lần bằng
hai nghị định thu. Nghị định thư thứ nhất là nghị định thư Visby 1968, nghị
2.1. Nhũng sửa đổi của nghị định thu Visby 1968 đỏi vói Công ước
Những sửa đầi bầ sung của nghị định thư v i s b y đối với Công ước tập
trung chủ yếu vào giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở.
Theo nghị định thư Visby, giới hạn bồi thường của người chuyên chở
đối với hàng hoa là 10.000 Fr vàng đối với m ộ t kiện hay đơn vị hàng hoa,
hoặc 30 Fr vàng đối với một kilôgam cả bì. Frăng vàng là đồng Frăng có hàm
Như vậy, nghị định thư Visby đã có một số khác biệt đối với Công ước
Brucxen. Thứ nhất, số tiền bồi thường đối với m ộ t kiện hàng hay một đơn vị
hàng hoa đã tăng lên từ 100 GBP (bằng khoảng 200 USD), lên đến 10.000 Fr
(bằng khoảng 800 USD). T h ứ 2, đồng tiền bồi thường là Fiăng vàng chứ
không phải là GBP như trước, mặt khác, Công ước chỉ nói là Bảng vàng chứ
không nói là h à m lượng vàng của một Bảng là bao nhiêu dãn đến tình trạng là
sau khi chế độ bản vị vàng bị xoa bỏ, tiền giấy của A n h bị thả nầi thì việc qui
đầi ra đầng tiền địa phương của các quốc gia k h i bồi thương rất tuy tiền không
có sự thống nhất, đồng Frăng vàng đã được cố định một h à m lượng vàng nhất
định. Khác biệt thứ 3 là, ngoài qui định giới hạn b ồ i thường đối với kiện, nghị
định thư Visby còn qui định giới hạn bồi thường đối với kilôgam và cho phép
người nhận hàng được lựa chọn cách bồi thường lớn hơn.
36
Một điểm khác biệt nữa của nghị định thư Visby đối với Công ước là
nghị định thư nói rõ cách tính trị giá hàng hoa khi bồi thường trong trường hợp
tính chất và trị giá đã được kê khai trên vận đơn vào trước lúc giao hàng là căn
cứ vào trị giá hàng hoa trao đổi thị trường hiện tại hay tham khọo trị giá bình
thường của nhũng loại hàng hoa cùng loại. Điều này Công ước Brucxen không
nói tới.
Không chỉ qui định giới hạn trách nhiệm đối với hàng ròi, nghị định thư
Visby còn qui định giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở đối container,
pallet, những qui định này trong Công ước Brucxen không có. Theo nghị định
thư Visby, nếu hàng hoa được đóng trong các container hay pallet, nếu không
kê khai số kiện ở bền trong thì một container hay pallet được coi là một kiện
hay một đơn vị để xét bồi thường, nếu có kê khai số kiện hay sô đơn vị trong
container hay pallet thì số kê khai đó chính là số đơn vị để xét bồi thường.
Nghị định thư Visby, không chỉ qui định giới hạn trách nhiệm của
người chuyên chở m à còn qui định cọ giới hạn trách nhiệm của nguôi làm thuê
hay đại lí của người chuyên chở, điều này cũng không được qui định trong
Công ước Bnicxen 1924. Theo nghị định thư v i s b y , người làm thuê hay đại lí
của người chuyên chở cũng được hưởng các giới hạn trách nhiệm như là người
chuyên chở, nếu như họ không tự kí các hợp đồng độc lập m à chi làm theo
2.2. Những sửa đổi của nghị định thư SDR đôi vói Công ước
Sửa đổi duy nhất của nghị định SDR đối với Công ước về trách nhiệm
của người chuyên chở là sửa đổi giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở.
Theo nghị định thư SDR, giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở đối với
hàng hoa là 666,67 SDR trên một kiện hay m ộ t đơn vị hàng hoa, hoặc 2 SDR
Thực chất thì nghị định thư SDR không có sửa đổi gì so với nghị định
thư Visby m à chỉ thay đổi đổng tiền b ồ i thường từ Prăng vàng thành SDR. và
qui đổi từ 10.000 Frăng vàng ra 666,67 SDR, và 30 Prăng vàng thành 2 SDR.
3. Trách n h i ệ m của nguôi chuyên chỏ được q u i định theo C ô n g ước
Hambtirg 1978
Như đã nói, Công ước Biucxen 1924 ngay từ khi ra đời đã gây nhiều
tranh cãi do những qui định của Công ước nghiêng về bảo vệ quyền lợi cua
chủ tầu, đặc biệt là những qui định về miễn trách cho người chuyên chở và
giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở. Theo Công ước, người chuyên
chở được hưởng 17 miễn trách không phải bồi thường nếu hàng hoa bị tỗn
thất, trong đó có những miễn trách hết sức vô lí như miễn trách miễn trách v ề
lỗi về điều khiển và quản lí tầu, gọi là l ỗ i hàng vận, tức là người chuyên c h ở
được miễn trách nhiệm khi hàng hoa bị tỗn thất do người chuyên chở mắc l ỗ i
trong việc điều khiển tẩu hay quản lí những người ở trên táu. Điều này In
không thể chấp nhận được vì người chuyên chở nhân hàng hoa chuyên chở để
lấy cước nhưng lại không chiu trách nhiệm đối với hàng hoa khi có lỗi về điều
khiển và quản lí tầu. Nguyên nhan sâu xa của qui định này là Công ướcrađời
từ năm 1924, m à thực chất là được viết từ trước năm 1924, lúc đó các con tầu
cũng như các phương tiện thông tin còn rất lạc hậu, chủ tầu có tầu nhung lại
không trực tiếp điều khiển tầu m à thuê thuyền trưởng. Chủ tầu ở trên bờ
không có cách nào để k i ể m soát hoạt động của người ở trên tầu vì thế phải qui
định miễn trách cho chủ tầu (tức là miễn trách cho người chuyên chở).
Nói như vậy thì việc miễn trách cho chủ tầu về l ỗ i hàng vận từ những
năm 1924 là có cơ sở, nhưng ngày nay, các con tầu được trang bị hết sức hiện
đại, đặc biệt là phương tiện thông t i n liên lạc có thể giúp chủ tầu hoàn toàn
kiểm soát hoạt động của con tầu cũng như hành động của những người trên
tầu, và miễn trách này đã trỏ nên không phù hợp nữa. Theo thống kê thì 9 0 %
các vụ tỗn thất chung đểu do việc điều khiển tầu hay quản lí tầu gây nên và
đáng ra 9 0 % các vụ tỗn thất chung chủ tầu đều phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm thì nó lại được phân bỗ cho chủ hàng. Ngoài m i ễ n trách này, chủ tầu
còn được hưởng 16 trường hợp m i ễ n trách khác nữa, vì thế tỗn thất về hàng
hoa trong hầu hết các trường hợp đều do chủ hàng phải tự gánh chịu.
38
Mặt khác, người chuyên chở chỉ phải chịu trách nhiệm đối với hàng
hoa kể từ khi xếp hàng lên tầu cho tới khi d ỡ hàng ra khỏi tầu. C ó nghĩa là,
hàng hoa phải được giao cho người chuyên chở tại lan can tầu, điều này không
phù hợp nếu hàng hoa được giao cho người chuyền chở trong đữt liền (theo
phương thức gửi từ cửa tới cửa đang phát triển), và không còn phù hợp khi vân
tải công ten nơ phát triển, các công ten nơ luôn được giao cho người chuyên
chở tại những điểm vận tải công ten nơ trong đữt liền do thể tích và trọng tải
công ten nơ quá lớn không thể giao ở tại cầu tầu hay lan can tầu do việc kiểm
tra và thông quan hàng hoa sẽ làm tắc nghẽn cầu tầu.
K h i sửa đổi Công ước bằng 2 nghị định thư, người ta đã có ý định bổ
sung và sửa đổi những nội dung chủ yếu về trách nhiệm của Công ước, nhưng
do sức ép của giới chủ tầu do đó ý định sửa đổi đã không thực hiện được và
việc sửa đổi chỉ tập trang ở đồng tiền bồi thuồng và số tiền bồi thường như đã
Với sự phát triển của hàng hải và thương mại quốc tế, các tương quan
về cung và cầu trong lĩnh vực hàng hải đã thay đổi, Ngoại thương không còn
đi sau cờ tầu nữa m à số tầu năm xó không có hàng để chở ngày càng tăng lên,
mặt khác để thúc đẩy sự phát triển của hàng hải và thương mại quốc tế thì cần
phải tạo ra sự cân bằng về mặt quyền lợi giữa một bên là chủ tầu và một bên là
chủ hàng. Do vậy, liên hiệp quốc đã ban hành q u i tắc Hamburg (Công ước
Hamburg), nhằm tạo ra một nguồn luật quốc tế m ớ i về chuyên chở hàng hoa
bằng đường biển thay thế cho Công ước ồracxen 1924. Công ước Hamburg đã
3.1. Thời hạn trách nhiệm, cơ sở trách nhiệm giói hạn trách nhiệm
- Thời hạn trách nhiệm
Theo Công ước, người chuyên chở chịu trách nhiệm đối với hàng hoa
kể từ k h i người chuyên chở nhận hàng ở cảng đi tới k h i người chuyên chở giao
39
Nhận hàng là người chuyên chở nhận hàng từ người gửi hàng, hay mội
người làm thay người gửi hàng hoặc một cơ quan thứ 3 nếu luật pháp hay thê
lệ của cảng gửi hàng qui định là phải giao hàng thông qua người đó để gửi đi.
Người chuyên chở được coi là giao hàng k h i họ đã giao hàng cho người
nhận hàng hay đã giao cho một người thứ 3 nếu luật pháp hay thể lệ ở cảng đó
qui định là phải giao hàng cho người thứ 3 hoặc người chuyên chỏ' đã đặt hàng
hoa dưụi quyền định đoạt của người nhận hàng theo đúng vụi hợp đồng hoặc
luật pháp hoặc tập quán của ngành kinh doanh có liên quan được áp dụng ở
cảng dỡ.
NtỊUòi chuyên chở chịu trách nhiệm đôi vói hàng hoa lừ khi nhận
hàng ở cảng gùi hàng tói khi giao hàng ở cảng dỡ hànq
- Cơ sỏ trách nhiệm
Theo Công ưục, người chuyên chở có trách nhiệm bồi thường k h i hàng
hoa bị mất mát hư hại hoặc giao chậm nếu sự việc gây ra mất mát hư hại và
giao chậm xẩy ra trong thời hạn trách nhiệm của người chuyên chở.
Hàng được coi là giao chạm nếu giao sau thời hạn giao hàng hoặc đáng
lí phải giao hàng. Thời hạn giao hàng là thời hạn ghi trong hợp đồng. Thời hạn
đáng lí phải giao hàng là thời hạn m à bất cứ người chuyên chở m ã n cán nào
cũng giao hàng vào ngày đó, nếu sau ngày đó m à vẫn chưa giao hàng thì gọi
là giao chậm. Q u i định này được áp dụng k h i trên hợp đồng người ta không
Nếu sau ngày giao hàng hoặc đáng lí phải giao hàng 60 ngày m à hàng
hoa không được giao thì hàng hoa được c o i là mất và người chủ hàng có
quyền khiếu nại đối vụi hàng hoa bị mất. V à như vậy, khái niệm giao chậm có
nghĩa là không giao hàng trong vòng 60 ngày kể từ ngày giao hàng ghi trong
40
hợp đồng hoặc ngày đáng lí phải giao hàng, quá 60 ngày, hàng hoa được coi là
Công ước Hambuig qui định giới hạn trách nhiệm của người chuyên
giới hạn ở một số tiền là 835SDR đối với một kiện hay một đơn vị hàng hoa
Đ ồ n g SDR nói ở đây là đồng tiền của quĩ tiền tệ quốc tế gọi là quyền
lút vốn đặc biệt. K h i bồi thường có thậ đổi ra đồng tiền quốc gia của một nước
theo tỉ giá vào ngày quyết án hoặc một ngày do các bên thoa thuận. Đ ố i với
nhũng nước là thành viên của quĩ tiền tệ quốc tế thì việc qui đổi ra đồng tiền
quốc gia căn cứ vào qui định của quĩ tiền tệ quốc tế, đối với các quốc gia khác
Đ ố i với các nước m à luật pháp không cho phép sử dụng đồng SDR thì
có thậ áp dụng giới hạn trách nhiệm là 12.500 fr vàng đối với một đơn vị hàng
+ Đối với giao chậm: Trách nhiệm, của người chuyền chở được giới hạn
ở một số tiền bằng 2,5 lần tiền cước của số hàng giao chậm nhưng không vượt
quá tổng số tiền cước của cả lô hàng theo hợp đồng. Có nghĩa là, nếu hàng hoa
bị giao chậm thì người chuyên chở phải bồi thường cho chủ hàng một số tiền
bằng 2,5 lần tiền cước của số hàng giao chậm, nhưng tổng số tiền bồi thường
của người chuyên chở trong trường hợp giao chậm không lớn hơn tiền cước
của lô hàng theo hợp đồng , tức là nếu có giao chậm cả lô hàng thì số tiền bồi
thường cũng chỉ bằng số tiền cước m à thôi chứ không phải bằng 2,5 lần tiền
cước của cả lô hàng. M ụ c đích của qui định này là chỉ buộc người chuyên chở
Nếu hàng hoa được đóng trong các container và pallet thì cách tính đon
41
Nếu người gửi hàng có kê khai số kiện và số đơn vị được xếp trong
container hay pallet thì số đơn vị được xét bồi thường bằng số kê khai nếu vỏ
container hay pallet của chủ tầu. Nếu vỏ container hay pallet của chú hàng (hì
số đơn vị được xét bồi thường bằng số kê khai cộng với một. Như vậy, ở đáy
vỏ container hay pallet được coi là một đơn vị để xét bồi thường. Ví dứ:
Chủ hàng giao cho người chuyên chở một một container 40 feet trong
đó xếp 20 kiện hàng. Nếu người gửi hàng không kê khai trên vân đơn số kiện
ở bên trong container k h i giao hàng cho người chuyên chở thì đơn vị được xét
bồi thường ở đây là Ì (cả container được coi là một đơn vị). Nếu khi giao
container cho người chuyên chở, người gửi hàng đã ghi trên vận đơn số kiện
hàng được xếp trong container thì có 2 trường hợp xẩy ra. T h ứ nhất, container
là của người chuyên chở thì số dơn vị được xét bồi thường là 20. Thứ 2,
container là của người gửi hàng thì số đơn vị để xét bồi thường là 20 cộng với
3.2. Trách nhiệm của người chuyên chở đối vói việc giao hàng ở cảng
đến
Người chuyên chở có nghĩa vứ giao hàng hoa ở cảng đến cho người
nhận hàng xuất trình vận đơn và bộ chứng từ nhận hàng hợp lệ. Người chuyên
Người chuyên chở đã giao hàng phù hợp với vận đơn m à người nhộn
hàng xuất trình, hay nói cách khác là đã giao hàng theo vận đơn;
Không có một thông báo nào về những mất mát hư hỏng hoặc tính chất
chung của những mất mát hư hỏng ấy gửi cho người chuyên chở hay đại lí của
người chuyên chở chậm nhất là vào ngày làm việc đầu tiên tiếp theo sau ngày
hàng được chuyển giao cho người nhận hàng hoặc trong vòng 15 ngày liên tức
tính từ ngày hàng được chuyển giao cho người nhân hàng. (Công ước Brucxen
1924 và các nghị định thưVisby 1968 và SDR 1979 qui định thông báo ngay
vào lúc giao hàng hoặc sau 3 ngày kể từ ngày giao hàng)
42
T r o n g v ò n g h a i n ă m k ể t ừ n g à y g i a o m ộ t . p h ầ n h a y toàn b ộ h à n g n i n
vờ vác nghi định thưVừby 1968 và SDR 1979 qui định là ì năm)
3.3. Trách nhiệm giúp người nhận hàng kiểm tra, kiêm dèm hảng
b ả n đ ó là biên b ả n h à n g t h i ế u , n ế u h à n g bị m ấ t m á t h a y t h i ế u h ụ t ; biên b ả n
h à n g bị h ư h ỏ n g đ ổ v ỡ n ế u h à n g bị h ư h ỏ n g đ ỗ v ỡ ; t r o n g t r ư ờ n g h ợ p n g h i n g ờ
là h à n g h o a bị t ổ n thất thì n g ư ờ i c h u y ê n c h ở c ó n g h ĩ a v ụ c h ấ p n h ậ n v à kí x á c
T r o n g trường h ợ p , n g ư ờ i c h u y ê n c h ở đ ã n h ậ n h à n g h o a n h u n g l ạ i c h u a
x ế p h à n g lên t ẩ u d o c h ư a c ó t ầ u h a y c h ư a l à m x o n g t h ủ t ụ c đ ể x ế p h à n g , h o ặ c
c h ư a đ ủ h à n g đ ể x ế p đ ầ y lên t ầ u thì n g ư ờ i c h u y ê n c h ở h o ặ c n g ư ờ i đ ạ i d i ệ n c ủ a
n g ư ờ i c h u y ê n c h ở chỉ c ó t h ể c ấ p c h o n g ư ờ i g ử i h à n g m ộ t v ậ n đ ơ n c h ư a x ế p
h à n g h a y v ậ n đ ơ n n h ậ n h à n g đ ể c h ờ x ế p lên t ầ u .
T h e o h ợ p đ ồ n g m u a b á n m à n g ư ờ i x u ấ t k h ẩ u p h ả i t h a n h toán b ằ n g v ậ n
đ ơ n đ ã x ế p h à n g thì h ọ c ó t h ể y ê u c ầ u n g ư ờ i c h u y ê n c h ở c ấ p c h o h ọ v ậ n đ ơ n
đ ã x ế p h à n g . V ì v ậ y , s a u k h i h à n g h o a đ ã đ ư ợ c x ế p lên t ầ u , n g ư ờ i c h u y ê n c h ở
c ó trách n h i ệ m p h ả i c ấ p c h o n g ư ờ i g ử i h à n g m ộ t v ậ n đ ơ n đ ã x ế p h à n g v à t h u
h ổ i l ạ i v ậ n đ ơ n c h ư a x ế p h à n g đ ã kí p h á t t ừ trước. Đ ể k h ô n g p h ả i kí phát m ộ i
v â n đ ơ n k h á c , n g ư ờ i c h u y ê n c h ở c ó t h ể g h i b ổ s u n g lên trên v ậ n đ ơ n c h ư a x ế p
43
hàng được ghi bổ sung như vậy sẽ chở thành vận đơn đã xếp hàng. (giống như
gửi hàng về trách nhiệm của mình, miễn là những trách nhiệm đó không thấp
hay ít hơn những trách nhiệm đã được qui định trong Công ước.
Người chuyên chở hay người thay mặt người chuyên chở có thể thoa
thuận với người gửi hàng về mốt giới hạn b ồ i thường cao hơn 835 SDR cho
mốt kiện hàng hay mốt đơn vị hàng hóa, hay hơn 2,5 SDR cho mốt kilôgam,
hoặc bồi thường mốt số tiền lốn hơn 2,5 lần tiền cước của số hàng giao chậm,
nhưng không được phép thoa thuận mốt số tiền b ồ i thường nhỏ hơn những sô
tiền bồi thường được qui định trong Công ước đã nói ở trên. (giống như Công
3.6. Trách nhiệm của người chuyên chở đối vói những loại hàng đặc
biệt và hàng nguy hiểm.
Người chuyên chở phải yêu cầu người gửi hàng ghi rõ kí m ã hiệu đối
Hàng nguy hiểm đối với tầu và hành trình, nếu k h i xếp lên tầu người
chuyên chở không biết thì người chuyên chở có nghĩa vụ đua hàng đó lên bờ
vào bất kì lúc nào ỏ bất cứ nơi nào không cần là cảng dỡ hàng để đảm bảo an
toàn cho tầu. Trong trường hợp cần thiết người chuyên chở có thể tiêu huy
hocặc làm mất tác hại của loại hàng hoa đó m à không phải b ồ i thường gì cả.
Người gửi hàng hoàn toàn phải chịu trách nhiệm về những t ổ n thất và chi pin'
do hậu quả trực tiếp hay gián tiếp của việc gửi loại hàng nguy hiểm đó.
Trong trường hợp người chuyên chở chấp nhãn chuyên c h ở hàng nguy
hiểm nhưng sau đó hàng đó trở thành đe đoa nguy hiểm đối với tầu và hàn°
hoa khác chở trên tầu thì nguôi chuyên chở cũng được tự ý hành đống như đưa
lên bờ, tiêu huy hay làm mất tác hại của hàng nguy hiểm m à không phải chịu
44
trách nhiệm gì. (giống như Công ước Bìm xen 1924, nhưng không có qui dinh
đối với hàng tiêne, biệt như Công ước Brucxen 1924).
3.7. Trách nhiệm của nguôi chuyên chở đối vói hàng xép trên
boong (điều 9)
Người chuyên chở chịu trách nhiệm đối với hàng hoa xếp trên boong
như chịu trách nhiệm đối với hàng hoa xếp trong hổm tàu, với điều kiện là
việc xếp hàng trên boong phải được sự đồng ý của người gửi hàng hay phù hợp
Khi hàng xếp trên boong thì người chuyên chở có nghĩa vụ phải ghi rõ
vào vận đơn, nếu không ghi rõ trong vận đơn thì người chuyên chở có trách
nhiệm chúng minh rằng đã có sự thoa thuận giểa chủ hàng và người chuyên
chở về việc hàng hoa được xếp trên boong tầu. Tuy nhiên, đối với người thứ 3,
và kể cả người nhận hàng, thì sự chứng minh là hàng hoa được phép xếp trên
boong m à không ghi chú như vậy trên vận đơn là không có giá trị. Nếu hàng
chở trên boong m à không được sự đồng ý của người gửi hàng thì người
chuyên chở không được hưởng giới hạn bồi thường theo qui định của Côn"
ước Hamburg 1978, (Công ước Brucxen không thừa nhận hàng hoa xếp trên
boong là hàng hoa, nên hàng xếp trên boong không thuộc phạm vi điêu chỉnh
3.8. Trách nhiệm cửa người chuyên chở đối vói súc vật sống (điều 5,
khoản 5)
Người chuyên chở phải chịu trách nhiệm đối với súc vật sống như đối
với hàng hoa, trừ trường hợp súc vật bị tổn thất do nhểng r ủ i ro đặc biệt như
nội tì, ẩntì.(Công ước Brucxen không thừa. nhận súc vật sống là hàng hoa chơ
3.9. Trách nhiệm ghi bảo lưu trên vận đon (điều 16)
Người chuyên chở có nghĩa vụ ghi vào vận đơn k h i kí phát một điều
khoản bảo lưu xác định nhểng điểm không chính xác, nhểng cơ sở của sự nghi
ngờ về nhểng chi tiết và tính chất chung, nhểng kí hiệu chủ yếu, số kiện hoặc
số chiếc, trọng lượng hoặc số lượng hàng hoa do người gửi hàng ghi k h i lập
45
vận đơn, nếu cho rằng nó không phản án).' đúng vối thực tế hàng hoa được xếp
lên tầu.
Nếu người chuyên chở không ghi vào vân đơn tình trạng bên ngoài cùa
hàng hoa và không có bảo lưu gì trên vận đơn thì coi như người chuyên chở đã
ghi vào trong vận đơn là tình trạng bên ngoài của hàng hoa tốt và hàng hoa
được giao cho người chuyên chở giống như trên vận đơn. Tuy nhiên, người
chuyên chở có quyền chứng minh ngược lại, song điều này rất khó thực hiện
và sự chứng minh này chỉ có giá trị gội hàng chứ không có giá trị đối với
người nhận hàng và người thứ 3 mua lại hàng hoa của người nhập khẩu. (qui
định này không có trong Công ước Brucxen 1924, Công ước Brunei! chỉ qui
dinh là: ...Người chuyên chở, thuyên trường hay đợi lí của người chuyền chở
không buộc phải ké hay ghi trên vận đơn những mã hiệu, số hiệu, số lượng hay
trọng lượng mã họ có cơ sở hợp lí để nghi ngờ là không thể hiện dùng hàng
trao. Có nghĩa là Công ước Brucxen chỉ không cho phép người lập vận dơn
dược điền vào vận đơn những nội dung mà người chuyên chở hay người thay
m
t họ không đổng ý)
3.10. Trách nhiệm của người chuyên chỏ và người chuyên chở thực
Người chuyên chở là bất kì người nào, chính mình hay trên danh nghĩa
của mình kí kết m ộ t hợp đồng chuyên chở hàng hoa bằng đường biển với
Người chuyên chở thực sự là bất kì người nào được người chuyền chở
uy thác thực hiện việc chuyên chở hàng hoặc m ộ t phần việc chuyên c h ở hàng
đó, kể cả bất kì được giao cho thực hiện việc uy thác đó.
Trong trường hợp, người chuyên chở uy thác cho người chuyên chỏ thực
sự thực hiện m ộ t phần hay tất cả việc chuyên chở thì người chuyên chở vẫn
phải chịu trách nhiệm v ớ i toàn bộ việc chuyên chở theo qui định của Công
ước. Tức là, dù người chuyên chở thực sự tiến hành việc chuyên c h ở hàng hoa
thì người chuyên chở vẫn phải chịu trách nhiệm về hàng hoa đối với chủ hàng.
46
Người chuyên chở thực sự cũng phải chịu trách nhiệm về hàng hoa như
người chuyên chở đoạn m à họ thực hiện vận chuyển. Điều này có nghìn la
những qui định về trách nhiệm của Công ước áp dụng đối với người chuyên
chỏ thì cũng đưổc áp dụng đối với người chuyên chở thực sự.
Người chuyên chở và người chuyên chở thực sự có thể cùng chịu trách
nhiệm đối với hàng hoa. Trong trường hổp này, trách nhiệm của họ là có liền
đới với nhau và liêng biệt. Điều này có nghĩa là người chuyên chở và người
chuyên chở thực sự có thể cùng bồi thường cho chủ hàng một cách riêng biệt,
tuy nhiên tổng số tiền bồi thường m à cả hai người cùng bổi thường không lớn
hơn giới hạn trách nhiệm đã qui định trong Công ước Hamburg, và nếu chỉ có
một người đã tiến hành bồi thường đầy đủ cho chủ hàng rồi thì nguôi đó có
thể đưổc đòi bồi thường người chuyên chở còn lại phần trách nhiệm của người
đó. (Công ước Brucxen chưa nói gì tới người chuyên chỏ thực sự mà chỉ nói
3.11. Trách nhiệm của người chuyên chở trong trường họp chấp
Thư bảo đảm là thư đưổc người gửi hàng gửi cho người chuyên chở,
trong đó cam kết sẽ bồi thường cho người chuyên chở khi hàng hóa bị tổn thất
do những nguyên nhân m à người chuyên chở định g h i bảo lưu trên vận đơn
nhưng lại không ghi. M ụ c đích cam đoan bồi thường của người gửi hàng là đê
người chuyên chở không ghi chú bảo lưu trên vận đơn m à cấp vận đơn hoàn
hảo trong trường hổp hàng giao bị nghi ngờ là có thể bị tổn thất.
K h i chấp nhận thư bảo đảm của người gửi hàng, trách nhiệm của người
chuyên chở vẫn không thay đổi theo Công ước đối với người nhận hàng, người
thứ 3 m à chỉ có gia trị n ộ i bộ giữa người chuyên chở với người gửi hàng. Có
nghĩa là, hàng hoa bị tổn thất do những nguyên nhân m à người chuyên chở
định ghi bảo lưu trên vận đơn nhưng r ồ i không ghi vì có thư bảo đảm thì người
chuyên chở vẫn phải b ồ i thường cho người nhận hàng, dù sau này người
chuyên chở có đòi bồi thường đưổc người gửi hàng hay không.
47
Nếu người chuyên chở lại cố tình nhận thư bảo đảm nhằm mục đích lừa
gạt một người thứ 3 thì họ không được hưởng giới hạn b ồ i thường theo Cóng
ước. {Công ước Brucxen 1924 chưa có qui định về thư bảo đảm).
3.12. Trách nhiệm chủng minh lỗi (phụ kiện của Công ước)
Trách nhiệm chứng minh l ẩ i là trách nhiệm chứng minh tổn thất thuộc
về ai khi có tổn thất xẩy ra. Theo phụ kiện thoa thuận chung của hội nghị liên
Hiệp Quốc về chuyên chở hàng hoa bằng đường biển được ghi trong Công ước
Hamburg 1978 thì trách nhiệm của người chuyên chở theo Công ước này được
xác lập trên cơ sở nguyên tắc lẩi lầm hoặc sơ suất suy đoán. Điều này có
nghĩa là trách nhiệm chứng minh (lẩi ) thuộc về người chuyên chở.
Trách nhiệm chứng minh lẩi thuộc về người chuyên chở tức là k h i đi
nhận hàng m à thấy hàng hoa bị tổn thất thì người nhận hàng sẽ đòi người
chuyên chở phải bồi thường, người chuyên chở (chứ không phải người đi nhận
hàng) muốn thoát trách nhiệm không phải b ồ i thường thì phải chứng minh
rằng mình không có lẩi, hoặc l ẩ i về tổn thất về hàng hoa là thuộc về người
khác hay do thiên tai, tai nạn bất ngờ. (Công ước Brucxen 1924 qui định trách
Công ước B r u c x e n 1924 và các nghị định thư sửa đổi n ă m 1968 và 1979
Công ước Hamburg n ă m 1978 ra đời và có hiệu lực đã làm thay đổi rất
căn bản những chế định pháp luật về hàng hải, nó đem lại sự bình đẳng về
quyền lợi giữa chủ tầu và chủ hàng. Đ ố i với chủ hàng, Công ước như là một
cứu tinh vì nó đã góp phần đ e m lại cho họ sự bình đẳng về mặt quyền lợi cũng
như nghĩa vụ đối với chủ tầu m à từ Công ước Brucxen trở về trước họ chưa
bao giờ có được. Ngược lại, chủ tầu lại cho rằng đây là m ộ t sự xáo trộn hàng
hải thế giới, là sự quấy phá cán cân thăng bằng trong hệ thống luật lệ hàng hải
toàn cầu m à thế giới đã đạt được thông qua hai qui tắc Hague và V i s b y (Công
ước B m c x e n l 9 2 4 và nghị định thư Visby 1968). Các h ộ i bảo trợ chủ tầu (P
anđ ì Club) thì bắn tiếng nói rằng, chủ tẩu hội viên nào chấp nhận vận chuyển
hàng hoa bằng đường biển với các điều kiện có l ợ i hơn cho chủ hàng so vói
48
qui tắc Hague và Visby thì khiếu nại của họ sẽ không được bù đắp. Thái độ
của các hội chủ tầu cũng không giông nhau: M ộ t số hội có xu hướng cho hội
viên của mình chấp nhận Công ước Hamburg trong những trường hợp đặc biệt
song phải đóng thêm hội phí, tuy vậy, hầu hết các hội đều thống nhất là ể đâu
qui tắc này bắt buộc phải áp đụng (luật quốc gia qui định) thì ể đó các hội
viên được phép áp dụng và được hội chấp nhận bảo hiểm, trong trường hợp hội
viên tự nguyện thì hội không chịu trách nhiệm bảo hiểm.
Nhìn chung, Công ước Hamburg với Công ước Brucxen và các nghị thư
Theo Công ước Brucxen 1924 và các nghị định thư sửa đổi Công ước thì
người chuyền chể chịu trách nhiệm đối với hàng hoa k h i hàng được xếp lên
tầu đến khi hàng được dỡ ra khỏi tầu, đối với Công ước Hamburg, trách nhiệm
của người chuyên chể bắt đẩu kể từ k h i họ nhận hàng ở cảng đi cho đến khi họ
giao hàng xong ể cảng đến. N h ư vậy, với Công ước Hamburg, người chuyên
chể phải chịu trách nhiệm đối với hàng hoa kể từ k h i họ nhận hàng hoa ể cảng
đi cho tới k h i họ giao xong hàng cho người nhận hàng ể cảng đến người
chuyên chể m ớ i hết trách nhiệm, trong k h i đó theo Công ước Brucxen cũng
như hai nghị định thư sửa đổi thì người chuyên chể chỉ phải chịu trách nhiệm
đối với hàng hoa kể từ k h i hàng đã được xếp iên tầu và hết trách nhiệm k h i
C ó thể m ô tả sự khác nhau về thời hạn trách nhiệm của người chuyên
Thòi hạn trách nhiệm của người chuyên chở theo Công ước Hamburg
49
- Cơ sở trách nhiệm
Theo Công ước Brucxen 1924, người chuyên chở chỉ chịu trách nhiệm
bồi thường trong trường hợp hàng hoa bị mất mát hư hại. Đ ố i với Công ước
Hamburg, người chuyền chở, ngoài việc chịu trách nhiệm bồi thường trong
trường hợp hàng hoa bị mất mát hư hại, người chuyên chở còn phải chịu trách
Công ước Brucxen 1924 qui định cho người chuyên chở được hưởng 17
miễn trách nhiệm. Ngược lại, Công ước Hamburg đã xoa sạch 17 miễn trách
nhiệm của người chuyên chở được qui định trong Công ước Bincxen, chỉ để
lại mựt trường hợp miễn trách nhiệm duy nhất là cháy nếu không phải đo l ỗ i
Có thể coi việc xoa bỏ 17 miễn trách của người chuyên chở là sự khác
nhau căn bản giữa căn bản giữa Công ước Hamburg và Công ước Brucxen vì
thế Công ước Hamburg được coi là Công ước tiến bự và là Công ước của chủ
hàng nếu coi Công ước Brucxen là Công ước của chủ tầu.
Công ước Brucxen và 2 nghị định thư sửa đổi chỉ qui định giới hạn trách
nhiệm của người chuyên chở trong trường hợp hàng hoa bị mất mát hư hại.
Công ước Hamburg qui định giới hạn trách nhiệm đối với hàng hoa cả trong
trường hợp giao chậm. về số tiền, Công ước Brucxen q u i định là 100 Bảng
Anh, nghị định thư n ă m 1968 là 10.000 fr vàng cho m ự t kiện, hoặc 30 fr vàng
cho mựt k i lô găm, nghị định thư năm 1979 là 666,67 SDR cho mựt kiện, hoặc
2 SDR cho mựt k i lô găm. Công ước Hamburg đã nâng giới hạn trách nhiệm
lên đối với kiện là 835 SDR và đối v ớ i k i lô g ă m là 2,5 SDR. Công ước
Hamburg còn q u i định giới hạn trách nhiệm của ngươi chuyên chở trong
trường hợp giao chậm là 2,5 lần tiền cướo của số hàng giao chậm.
khi đó Công ước Brucxen và hai nghị định thư sửa đổi chưa đề cập tói m à
50
quan niệm là container luôn luôn do người chuyên chỏi cung cấp. Thực tê ngày
nay, theo cách gửi hàng nguyên, người gửi hàng có thể dùng contniner cún
mình hoặc thuê của công ty container để đóng hàng. Nếu không tính vó
container là một kiện hay đơn vị để xét bồi thường thì người gửi hàng bị thiệt.
Vì thê Công ước Hamburg mới qui định vỏ container được coi là một đơn vị
hàng hoa để xél bổi thường.
- Trách nhiêm của người chuyên chở đối với hànq hoa xếp trên boong
Công ước Hamburg qui định trách nhiệm của người chuyên chở đằi với
hàng hoa xếp trên boong và súc vật sằng, trong khi đó Công ước Brucxen hai
nghị định thư sửa đổi Công ước Brucxen lại không qui định. Bằng định nghĩa
"hàng hóa gồm của cải, đồ vật, hàng hoa, vật phẩm bất kì loại nào, trừ súc vật
sằng và hàng hóa theo hợp hợp đồng chuyên chở được khai là chở trên boong
và thực tế được chuyên chở trên boong", Công ước Brucxen không coi hàng
hoa xếp trên boong và súc vật sằng là hàng hoa, vì thế qui định của Công ước
Brucxen không gồm những qui định với hàng xếp trên boong.
- Trách nhiệm của người chuyên chở theo hợp đồng và người chuyên
Công ước Bmcxen chỉ để cập tới trách nhiệm của người chuyên chở,
không qui định trách nhiệm của người chuyên chở thực sự. Nói chính xác hơn,
Công ước Bincxen chỉ đưa ra một khái niệm về người chuyên chở và người
chuyên chở theo Công ước Bracxen ở đây vừa là người chuyên chở vừa là
người chuyên chở thực sự. Nguyên nhân là, trước những năm 1924, người
chuyên chở thường trực tiếp quan hệ và kí hợp đồng với chủ hàng và trực tiếp
dùng tầu của mình để chuyên chở hàng hoa, vì thế người chủ tầu vừa là người
chuyên chở kí hợp đồng vừa là người chuyên chở thực sự. Thương mại và hàng
hải càng phát triển thì càng xuất hiện nhiều hình thức vận tải. Người chuyên
chở không chỉ trực tiếp chuyên chở hàng từng đoạn hay tất cả các đoạn m à họ
chịu trách nhiệm tổ chức chuyên chở hàng hoa và chịu trách nhiệm với chủ
hàng ở cả những đoạn họ không vận chuyển. Từ đó xuất hiện những người kí
51
hợp đổng vận chuyển với chủ hàng, và chịu trách nhiệm thực hiện hợp đồng
vận tải, nhưng không thực sự chuyên chở hàng hoa hay không chuyên chở
hàng hoa tiên tất cả các đoạn vận tải m à đi thuê người khác chuyên chở những
đoạn m à mình không có khả năng vận chuyển. Vì thế đã xuất hiện khái niệm
người chuyên chở (người chuyên theo hợp đổng) và người chuyên chở thực sự
(người thực sự chuyên chở theo uy thác của người chuyên chở theo hứp đồng).
- Trách nhiệm cửa người chuyên chở trong trường hợp chấp nhận
định trong Công ước Brucxen 1924 và các nghị định thư sửa đổi Công ước
Brucxen 1924.
Theo Công ước Brucxen 1924, k h i hàng hoa bị tổn thất, người chủ hàng
muốn đòi b ồ i thường thì hứ phải chứng minh rằng người chuyên chò mắc l ỗ i
và l ỗ i này thuộc trách nhiệm của người chuyền chở và không thuộc phạm v i
của 17 miễn trách nhiệm. N h ư vậy, trách nhiệm chứng minh l ỗ i theo Công ước
Brucxen thuộc về chủ hàng, điều này làm chủ hàng gập rất nhiều khó khăn
trong việc đòi b ổ i thường vì việc chứng m i n h chủ tầu có l ỗ i trong quá trình
vận chuyển là điều không đơn giản. Công ước Hamburg đã chuyển nghĩa vụ
chứng minh l ỗ i từ chủ hàng sang người chuyên chở. Nghĩa là, theo Công ước
Hambuig, k h i đi nhận hàng, nếu thấy hàng hoa bị tổn thất hay giao chậm thì
chủ hàng sẽ đòi người chuyên chở bồi thường, người chuyên chở muốn không
phải bồi thường thì phải chứng m i n h rằng mình không có lỗi.
5. Trách nhiệm của nguôi chuyên chở được qui định trong Luật
quản lý an toàn quốc tế (ISM code)
Đ ể đảm bảo an toàn hàng hải và ô nhiễm môi truồng do tầu biển gây ra,
bộ luật quản lí an toàn quốc tế đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày Ì
tháng 7 n ă m 1998 đ ố i v ớ i tầu chở dầu, hoa chất, khí hoa lỏng, tầu chở hàng
rời... có cung tích dưới 500 G R T và sẽ có hiệu lực đối v ớ i tầu khác từ Ì tháng
7 năm 2002.
52
Bộ luật này được soạn thảo trên tinh thần của Công ước quốc tê về an
toàn sinh mạng trên biển 1974 (Solas 1974) và các tiêu chuẩn quản lý chất
phải xây dựng các n ộ i qui, qui trình, qui phạm khai thác, quản lý tầu và
thuyền viên, đề ra nhiệm vụ rõ ràng cho từng người, những thao tác cụ thể khi
có sự cố tai nạn xẩy ra ... dưới dạng văn bản pháp qui đối với toàn công ty
Nhũng văn bản này sẽ tạo thành một hệ thống quản lý chất lượng khai
thác tầu gọi là QMS. Các thanh tra viên sẽ kiểm tra giấy chứng nhận chất
lượng QMS. M ộ t k h i đã được cấp giấy chứng nhận thoa m ã n các yêu cầu nói
trên thì chủ tầu sẽ được miễn trách nhiệm đối với các tổn thất do sự cố, tai nạn
xẩy ra. Ngược lại, nếu không có giấy chứng nhận QMS và không chứng minh
được việc đã thực hiện các yêu cầu của bộ luật I M S thì chủ tầu phải chịu trách
nhiệm.
Trong hành trình, người chuyên chừ phải để trên tầu các bộ luật cần
thiết, trong đó phải có bộ luật I M S và tầu thường xuyên phải có 2 giấy chứng
nhận theo qui định của IMS, đó là giấy chứng nhận quản lý an toàn SMC (Safe
Như vậy, theo IMS, trách nhiệm của người chuyên chừ nặng nề hơn
Việc chuyên chừ hàng hoa và hành khách bằng đường hành không quốc
tế được thực hiện trên cơ sừ các Công ước, q u i tắc quốc tế về vận tải hàng
không. Cho đến nay, Cồng ước để thống nhất m ộ t số q u i tắc liên quan tới
international transport by air), được ký tại Vác- sa- va 1929, gói tắt là Công
ước Vác- sa-va 1929 vẫn là Cồng ước quốc tế chủ yếu về vận tải hàng không.
Công ước Vác - sa - va năm 1929 được chia làm 5 chương, gồm 41 điều
khoản khác nhau. Chương Ì gồm khái n i ệ m và phạm v i áp dụng Công ước-
chương 2 g ồ m những nội dung liên quan đến chứng từ vận chuyển, vé hành
53
khách, hành lý và phiếu gửi hàng; chương 3 gồm nhũng nội dung liên quan
đến trách nhiệm của người chuyên chở; chương 4 gồm những qui định liên
quan đến chuyên chở hỗn hợp; chương 5 gồm những qui định chung về (ham
Tuy nhiên, để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói
chung và sự phát triển của thương mại và hàng không nói riêng, Công ước đã
được bổ sung, sửa đổi nhiều lắn. Những Công ước, nghị định thư sửa đổi chủ
yếu là:
Nghị định thít sửa đổi Câng ước để thống nhất một số qui tắc liên quan
certain rules relating to the international carriage by air). Nghị định này ký tại
Hague 28/9/55, nền gọi tắt là nghị định thư Hague 1955.
Công ước để bổ sung Công ước Vác- sa- va để thống nhất một số qui
tắc liên quan tới vận tải hàng không quốc tế được thực hiện bởi mội người
khác không phải là người chuyên chở theo hợp đồng (The convention
contracting carrier). Công ước này được ký kết tại Guadalạịara ngày
Hiệp định liên quan tới giới ỈIỢÌÌ của Công ưóc Vác- sa- va và nghị định
and the Hague protocol). Hiệp định này được thông qua tại Montreal
Nghị định thư sửa đổi Công ước quốc tế để thống nhít một số qui tắc
liên quan tới vận chuyển hàng không quốc tế ký tại Vác- sa- vơ ngày
12/10/1929 được sửa đổi b ở i nghị định thư Hague 28/9/1995 (Protocol to
54
định thư này được ký tại thành phố Guatemala 8/3/1971, nên gọi tắt là nghị
Nghị định thư sửa đổi Công ước Vác- sa- va ] 929 (protocol to amend
carríage bay air signed át Warsaw ôn 12 October 1929). Nghị định thư này
được ký kết tại Montreal ngày 25/9/1975 nên gọi tắt là nghị định thư Montreal
1975 số 1.
Nghị định thư sửa đổi Công ước Vác- sa-va 1929 đã được sửa đổi bằng
nghị định thư Hague 1955 (Protocol to amend the convention foi the
Waisaw ôn 12 October 1929). Nghị định thư này được ký kết tại Mon trên ì
ngày 25/9/75, nên gọi tắt là nghị định thư Montreal 1975, bản số 2.
Nghị định thư sửa đổi Công ước để thống nhất một số qui tắc liên quan
tới V T H K q u ố c tế ký tại Vác- sa- va 12/10/1929 đã được sửa đổi bởi các nghị
định thư tại Hague ngày 28/9/1955 và tại thành p h ố Guatemala ngày 8/3/1971
(protocol to amend the convention for the uniíication of certain rules relating
Guatemala City ôn 8 March 1971). Nghị định thư này được ký kết tại
Montreal 25/9/75, nên gọi tắt là nghị định thư Montrreal n ă m 1975, bản số 3.
Nghị định thư sửa đổi Công ước quốc tế để thống nhất một số qui tắc
liên quan tới vận chuyển hàng không quốc tế được ký kết tại Vác- sa- va
12/10/1929 đã được sửa đ ổ i bởi nghị định thư Hague ngày 28/9/19455
(protocol to amend the convention for the uniíication o f certain lules relating
55
định thư này được ký kết tại Montreal 25/9/75, nên gọi tai là nghị định thư
Các Công ước. hiệp định, nghị định thư... chủ yếu sửa d ổ i bổ sung giới
hạn trách nhiệm bồi thường của người chuyên chở hàng không đối v ớ i (ni nạn
về hành khách, thiệt hại về hàng hoa, hành lý và thòi hạn thông báo tổn thất,
Vác - sa - va 1929
1.1. Thỏi hạn trách nhiệm, cơ sở trách nhiệm, giói hạn trách nhiệm
- Thời hạn trách nhiệm
Theo Công ước Vác - sa - va, người chuyên chở phải chịu trách nhiệm
đối với hàng hoa trong quá trình vận chuyặn bằng m á y bay. [24] Vận chuyặn
bằng máy bay bao gồm giai đoạn m à hàng hoa nằm trong sự bảo quán của
người chuyên chở hàng không ở trong cảng hàng không, ở trong m á y bay,
hoặc ở bất cứ nơi nào nếu máy bay phải hạ cánh ngoài cảng hàng không.
Vận chuyặn bằng máy bay không m ở rộng tới bất kỳ việc vận chuyặn
nào bằng đường bộ, đường biặn hoặc đường sông tiến hành ngoài cảng hàng
không. Tuy nhiên, nếu việc vận chuyặn như vậy xẩy ra trong khi thực hiện hợp
đồng vận chuyặn bằng máy bay nhằm mục đích lấy hàng, giao hoặc chuyặn
tải hàng thì thiệt hại được coi là kết quả của sự kiện xẩy ra trong quá trình vận
N h ư vậy, về cơ bản, người chuyên chở hàng không chỉ phải chịu trách
nhiệm đối với hàng hoa k h i hàng hoa ở trong m á y bay, trong sân bay. Trong
trường hợp m á y bay buộc phải hạ cánh ngoài cảng hàng không nhằm đảm bảo
an toàn cho hành trình như đặ khắc phục m ộ t sự cố, hay do tai nạn m à m á y
bay buộc phải hạ cánh thì người chuyên chở hàng không còn phải chịu trách
nhiệm đối với hàng hoa k h i hàng hoa ỏ bên ngoài m á y bay, ngoài cảng hàng
Người chuyên chở hàng không không phải chịu trách nhiệm đối với
hàng hoa ở đoạn vận chuyặn đường bộ đường biặn hay đường sông. T u y
56
nhiên, nếu vận chuyển đường bộ, đường biển hay đường sông là nhằm thực
hiện hợp đồng vân chuyển hàng không như lấy hàng, giao hàng, chuyển tải
hàng hoa thì người vận chuyển vãn phải chịu trách nhiệm đối với hàng hoa ớ
những đoạn vận chuyển này. Phải qui định như vậy vì, người chuyên chử hàng
không cũng có thể cung cấp dịch vụ vận chuyển từ cửa tới cửa. K h i đã cung
cấp dịch vụ vận chuyển từ cửa tới cửa thì đương nhiên người vân chuyển hàng
không phải đảm nhận việc vận chuyển từ nơi nhận hàng ra sần bay xuất phát
và từ sân bay cuối cùng tới nơi giao hàng bằng các phương tiện vận tải đường
biển, đường bộ, đường sông. Lí do là vì nơi có hàng không thể luôn luôn ử gần
cảng hàng không được. Vì vậy, trong trường hợp này, Công ước phải mử rộng
phạm v i điều chỉnh, hay nói cụ thể hơn là qui định người chuyên chử hàng
không phải chịu trách nhiệm đối với hàng hoa với cả quá trình vận chuyển
bằng các phương thức vận tải không phải là hàng không.
Theo Công ước Vác - sa - va 1929, người chuyên c h ử phải chịu trách
nhiệm về thiệt hại trong trường hợp mất mát, thiếu hụt, hư hỏng hàng hoa xẩy
Người chuyên chử cũng phải chịu trách nhiệm về thiệt hại xẩy ra do
chậm trong quá trình vận chuyển hàng hoa bằng m á y bay.
Tuy nhiên, người chuyên chử không phải chịu trách nhiệm nếu anh ta
chứng minh được rằng anh ta và đại lý cua anh ta đã áp dụng m ọ i biện pháp
cần thiết để tránh thiệt hại hoặc đã không thể áp dụng được những biện pháp
Người chuyên c h ử cũng không phải chịu trách nhiệm b ồ i thường nếu
chỉ huy hoặc vận hành m á y bay hoặc trong m ọ i phương điện khác m à anh
ta và đại lý của anh ta đã áp dụng m ọ i biện pháp cần thiết nhưng thiệt h ạ i
57
Như vậy, theo Công ước Vác - sa - va, người chuyên chở hàng không
phải chịu trách nhiệm bồi thường trong hai trường hợp: Hàng hoa bị mất mái
hư hại và hàng hoa bị giao chậm trong thời hạn trách nhiệm của người chuyên chở.
Tuy nhiên Công ước miễn trách nhiệm không phải b ồ i thường cho
người chuyên chở trong trường hợp khi tổn thất của hàng hoa là do lỗi trong
việc hoa tiêu, chỉ huy hoắc vận hành máy bay hoắc dong trường hợp người
chuyên chở hay người thay mắt họ đã cố gắng hết sức trong khả năng cổ thể
- Giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở hàng không
N h ư đã nói ở phần đường biển, giới hạn trách nhiệm của người chuyên
chờ là số tiền lớn nhất m à người chuyên chở phải bồi thường cho m ộ t đơn vị
hàng hoa trong trường hợp tính chất và trị giá của hàng hoa không được kê
Theo Công ước Vác - sa - va 1929, trách nhiệm của người chuyên c h ở
được giói hạn ở một khoản 250 frăng/kg trừ phi người gửi hàng đã có tờ kê
khai đắc biệt trị giá ở nơi giao hàng, vào lúc hàng hoa được giao cho người
chuyên chở và một khoản phí bổ sung nếu người chuyên chở yêu cầu.
Trong trường hợp trị giá hàng hoa đã được kê khai trên vận đơn thì giới
hạn trách nhiệm của người chuyên chở là. trị giá kê khai trên vận đơn.
Nếu trị giá hàng hoa m à người gửi hàng kê khai trên vận đơn lớn hơn
giá trị thực tế của hàng hoa lúc giao hàng thì người chuyên chở chỉ phải b ồ i
thường tới giá trị của hàng hoa lúc giao hàng nếu họ chứng m i n h được như vậy.
65,5mg vàng, độ tinh khiết 900/1000. Khoản tiền này có thể đổi ra bất kỳ
Trong trường hợp người chuyên chở cố ý gây tổn thất cho hàng hoa thì
1.2. Trách nhiệm yêu cẩu lập vận đơn và chấp nhận vận đon hàng
không (Điều 5, điều 7)
N g ư ờ i chuyên c h ở có trách nhiệm yêu cầu người gửi hàng lập và giao
58
cho mình giấy gửi hàng hàng không cùng với hàng hoa. Người gửi hàng có
quyền yêu càu người vân chuyển chấp nhân vận đơn hàng không do mình lập.
N h ư vậy, người lập vận đơn là người gửi hàng. Người gửi hàng lạp vân
đơn theo yêu cầu của người vận chuyển và họ có quyền yêu cầu người vận
Người gửi hàng cũng có thể yêu cầu người vận chuyển lập vận đơn hàng
không, tuy nhiên, dù người vận chuyển lập vận đơn thì người gửi hàng vẫn
phải chịu trách nhiệm về những n ộ i dung đã đưức người vận chuyển ghi trên
vận đơn, và người vận chuyển đưức coi như là thay mặt người gửi hàng để lập
vận đơn, trừ khi người gửi hàng chứng minh đưức ngưức lại.
Vận đơn hàng không do người gửi hàng lập gồm 3 bản chính. M ộ t bộ
vận đơn thường gồm từ 9 đến 14 bản trong đó bao g i ờ cũng có 3 bản chính
(oiiginal), số các bản còn lại g ọ i là bản phụ, số lưứng bản phụ sẽ càng nhiều
nếu có nhiêu người chuyên chỏ' tham gia vận chuyển. Bản chính là những bản
vận đơn đầy đủ, nó gồm 2 mặt, mặt trước gồm các cột mục để trống để khi lập
vận đơn thì điền vào, mặt sau là những qui định về vận chuyển do các hãng
hàng không in sẵn. Các bản phụ là những bản vận đơn không đầy đủ, nó chỉ
gồm những n ộ i dung để trống ở mặt trước, mặt sau để trống. Các bản chính
đưức giao cho người chuyên chở, người nhận hàng và người gửi hàng.
Người chuyên chở có trách nhiệm yêu cầu người gửi hàng lập các giấy
gửi hàng riêng rẽ k h i có trên một kiện hàng. Tức là k h i gửi nhiêu kiện hàng thì
người gửi hàng phải lập vận đơn cho các kiện hàng khác nhau, m ỗ i kiện hàng
lập một vận đơn, không lập m ộ t vận đơn chung cho tất cả các kiện hàng.
Người chuyên chở nhận hàng m à không có vận đơn thì người chuyên
chở không đưức hưởng những giới hạn trách nhiệm theo qui định của Công
ước Vác - sa - va 1929. C ó nghĩa là, nếu khi nhận hàng m à không có vận đon
hàng không thì người chuyên chở vẫn phải chịu trách nhiệm về hàng hoa như
Công ước q u i định, nhưng không đưức hưởng những miễn trách và giới hạn số
59
1.3. Trách nhiệm kí vận đơn (điểu 6)
Theo Công ước Vác - sa - va thì bản vận đơn chính thứ nhất được dành
cho người chuyên chỏ và do người gửi hàng kí, bản vận đơn chính số 2 dành
cho người nhận hàng và do người chuyên chở và người gửi hàng cùng kí, bản
vận đơn chính số 3 dành cho gửi hàng và giao cho người gửi hàng sau k h i
nhận hàng. N h ư vậy, người vận chuyển phải kí vào 2 trong số 3 bản vận đơn
chính (trong đó bản thứ 2, dành cho người nhận hàng được kí chung cùng với
nguôi gửi hàng). Những bản vận đơn chính người chuyên chở cần kí là những
bản vận đơn dành cho người nhận hàng, người nhận hàng, riêng bản vận đơn
số Ì dành cho mình thì người vận chuyển không phải kí.
Thời điểm kí vận đơn đối với người chuyên chở là vào lúc nhận hàng.
Nguời chuyên chở có thể kí vận đơn bằng tay hay đóng dấu. Mạc dù cũng
giống như vận tải đường biển là vận đơn thường được kí vào thòi điểm người
chuyên chở nhận hàng, nhưng trong vận tải đường biển thì nhận hàng có thể là
hàng đã được xếp lên tầu, cũng có thể là chưa được xếp lên tầu và như vậy thì
vận đơn được cấp trong vận tải đường biển có thể là vận đon đã xếp hoừc chưa
xếp. Trong vận tải hàng không, nhận hàng luôn luôn có nghĩa là hàng chưa
được xếp lên tầu, vì trong V T H K h à n g hoa không bao g i ờ được xếp lên máy
bay vào ngay k h i nhân hàng đo đừc thù của vận tải hàng không, ngay hàng gửi
nhanh cũng chỉ được xếp lên táu sau 3 tiếng kể từ k h i giao hàng cho người
chuyên chở hàng không. Vì vậy, vận đơn hàng không có thể nói luôn luôn là
vận đơn chưa xếp hàng. K h ẳ n g định điều này rất có ý nghĩa về mừt thực
tiễn, vì lâu nay chúng ta vẫn có thói. quen thoa thuận thanh toán bằng
chứng từ đã xếp.
- N g ư ờ i chuyên chở có nghĩa vụ giao hàng hoa ở sân bay đến cho người
nhận hàng xuất trình vận đơn hàng không và bộ chứng tít nhận hàng hợp lệ.
Người chuyên chở được coi là đã hoàn thành nhiệm vít giao hàng nếu:
+ N g ư ờ i chuyên chở đã giao hàng phù hợp với vận đơn hàng không m à
người nhận hàng xuất trình, hay nói cách khác là đã giao hàng theo vãn đơn;
60
+ Không có m ộ i thông báo nào về những mất mái hư hỏng hoặc tính
chất chung của những mất mát hu' hỏng ấy gửi cho người chuyên chở hay đại
lí của người chuyên chở lại sân bay d ỡ hàng vào lúc chuyển giao hàng cho
người có quyền nhận hàng trong vòng 3 ngày kể tù từ ngày giao hàng đối với
+ Không có khiếu kiứn gì của người nhận hàng trong vòng 2 năm kể tù
ngày máy bay đến địa điểm đến hay kể từ ngày m á y bay đáng lẽ phải đến
- Người chuyên chở cũng có trách nhiứm giao hàng cho người gửi hàng
ở sân bay đi hoặc sân bay đến hoặc ở bất kì một nơi nào m à m á y bay hạ cánh
theo yêu cầu của người gửi hàng, và cũng theo yêu cầu của người gửi hàng thì
người chuyên chở có nghĩa vụ giao hàng cho một người không có tên trên vận
đơn hàng không. Tuy nhiên, người gửi hàng phải chịu m ọ i chi phí và trách
nhiứm đối với tổn thất do người vận chuyển phải thực hiứn các yêu cầu của họ.
Trong trường hợp không thể thực hiứn được các yêu cáu giao hàng nhu' trên thì
người chuyên chở phải thông báo ngay cho người gửi hàng biết, và người
chuyên chở sẽ không có nghĩa vụ phải thực hiứn các yêu cầu giao hàng cùa
người gửi hàng k h i hàng hoa đã được giao cho người nhận hàng.
1.5. Trách nhiệm tha hồi vận đon hàng không khi giao hàng (điền 12
khoản 3)
K h i giao hàng cho người nhận hàng, người chuyên c h ở phải thu h ồ i lại
bản vận đơn chính số 2. Nếu người chuyên chở không giao hàng m à không
thu h ồ i lại vận đơn thì người chuyên chở phải chịu m ọ i trách nhiứm và thiứt
hại nếu m ộ t người khác xuất trình vận đơn hợp l ứ đòi giao hàng. N h ư vậy, k h i
giao hàng cho người nhận hàng, người chuyên chở có nghĩa vụ phải thu h ồ i
vận đơn, bản số 2 từ người nhận hàng. Viức thu h ồ i vận đơn là bằng chứng là
người vận chuyển đã giao hàng cho người nhận hàng, và làm cho không một
người nào khác còn k h ả năng yêu cầu người chuyên chở giao hàng cho mình
nữa. Nếu người chuyên chở không thu Hồi vận đơn thì sau này người chuyên
61
chở sẽ phải chịu trách nhiệm nếu có một người khác đòi giao hàng vì họ có
Như đã trình bày ở phần trước, do sự phát triển của nền kinh tế thế giới
cũng như sự phát triển của thương mắi và hàng không, một số qui định cua
Công ước không còn phù hợp nữa. Vì vậy, hàng loắt các Công ước, qui tắc,
hiệp định, nghị định thu đã ra đời sau đó nhằm sửa đổi, bổ sung Công ước như
nghị định thư Hague 1955, Công ước Guadalazara 1961, hiệp định Montreal
1966, nghị định thư Guatemala 1971 và 4 nghị định thư Montreal năm 1975.
Trong thực tế, hầu hết các điều khoản của Công ước đã được bổ sung và
sửa đổi. Song, những sửa đổi lắi tập trang vào các điều khoản liên quan đến
hành khách và hành lý, không thuộc phắm vi của đềtài này.
Những thay đổi chính liên quan đến hàng hoa là các điều khoán qui
định về trách nhiệm, miễn trách nhiệm và giới hắn trách nhiệm của người
chuyên chở.
2.1. Những bổ sung, sửa đổi của nghị định thưHague 1955
Theo nghị định thư Hague 1955, người chuyên chở không được miễn trách
đối với nhũng tổn thất về hàng hoa do lỗi trongviệc hoa tiêu, chỉ huy và điều
Nhưng nghị định thư Hague 1955 lắi miễn cho người chuyên chở miễn
trách nhiệm k h i mất mát, hư hắi hàng hoa do hậu quả của nội tỳ, ẩn tỳ và
phẩm chất của hàng hoa chuyên chở ( M ụ c xu, nghị định thư Hague).
2.2. Những bổ sung, sửa đôi của Công ước Guadalazara 1961
Công ước Guadalajara 1961 đã đềcập tới trách nhiệm của người chuyên
chở theo hợp đồng và người chuyên chở thực sự m à Công ước Vác - sa - va
Theo Công ước Guadalắjara thì người chuyên chở theo hợp đồng là
người ký m ộ t hợp đồng vận chuyển được điêu chỉnh bằng Công ước Vác - sa -
62
va 1929 với người gửi hàng hay với người thay mặt người gửi hàng (mục I .
khoản b).
Người chuyên chở thực sự là một người khác, không phải là người
chuyên chỏ theo hợp đồng, thực hiện toàn bộ hay một phần hợp đồng vận
người chuyên chở theo hợp đồng đều phải chịu trách nhiệm thực hiện hợp
đồng. Nhưng k h i bao gồm cả vận chuyển kế tiếp thì người chuyên chở theo
hợp đồng có trách nhiệm đối với toàn bộ quá trình vân tải, người chuyên chở
thực sự chỉ có trách nhiệm đối vối phần thực hiện của anh ta.
K h i khiếu nối, người nhận hàng có thể lựa chọn khiếu nối từng người
chuyên chở thực sự hoặc khiếu nối người chuyên chở theo hợp đồng.
2.3. Nhũng bổ sung, sửa đổi của nghị định thư Guatemala 1971
Nghị định thư Guatemala 1971 đã q u i định chi tiết hơn cách tính trọng
Theo nghị định thư Guatemala, trong trường hợp hàng hoa bị mất mát
hư hối hoặc giao chậm một phần thì trọng lượng được xem xét để xác định số
tiền m à người chuyên chở phải chịu trách nhiệm b ổ i thường là trọng lượng của
Nhưng nếu phần hàng hoa bị mất mát hư hối hay giao chậm lối ảnh
hưởng tới giá trị của các kiện khác ghi trong cùng một vận đơn hàng không thì
toàn bộ trọng lượng của một kiện hay nhiều kiện khác ấy cũng được xem xét
và giới hốn trách nhiệm của người chuyên chở (mục V U I , khoản 2b). Điều này
không được qui định trong Công ước Vác - sa - va cũng như nghị định thư và
2.4. Nhũng bổ sung, sửa đổi cửa các nghị định thư Montrcal 1975
Các nghị định thư Montrẹal 1975, số 1,2,3,4 q u i định m ộ t số điểm khác
sau đây:
- Giới hốn trách nhiệm được thể hiện bằng đồng SDR c h ứ không phải là
đồng Prăng như Công ước Vác - sa - va 1929. G i ớ i hốn trách nhiệm của người
63
chuyên chở theo nghị định thư số I đối với hàng hoa là 17 SDR/kg.
- V ớ i những nước không phải thành viên quĩ tiền tệ quốc tế thì có thể
đổi đồng SDR ra tiền tệ quốc gia khi bồi thường. Nếu luật quốc gia không cho
phép như vậy thì có thể sử đụng giới hạn trách nhiệm là 250 Frăng vàng/kg
- Tăng thêm những miễn trách sau đây cho người chuyên chở hàng
+ Thiếu sót trong đóng gói hàng hoa do người chuyên chở, người phục
+ Hành động do chính quyền nhân dân thực hiện có liên tới X N K và
quá cảnh.
64
C H Ư Ơ N G 3. TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI CHUYÊN CHỞ THEO
Các Công ước quốc tế về hàng hải ra đời nhằm tạo ra nguồn luật quốc tê
để giải quyết những tranh phát sinh có liên quan đến việc vận chuyển hàng
hoa... bằng đường biển, tránh những xung đột pháp luật đo qui định của luật
Nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt những nước tham gia Công ước và
những nước có ngành hàng hải phát triển, để những qui định quốc gia và quốc
tế không có sự xung đột hở đã qui định. trong luật quốc gia của mình những
nội đung tương tự như Công ước đó là những nước úc, Ý, Â n Đ ộ , Anh, Bồ
Đào Nha, Na uy, Mĩ... và Pháp thì qui định giống nguyên văn Công ước.
Việt Nam là một trong số những nước chưa gia nhập Công ước Bi ucxen
1924 cũng Công ước Hamburg 1978, tuy nhiên, chúng ta đã sử đụng những
qui định về trách nhiệm của người chuyên chở được qui định trong các Công
ước quốc tế để qui định trách nhiệm của người chuyên chở đường biển trong
Bộ luật hàng hải V i ệ t Nam được Quốc H ộ i nước Cộng H o a X ã Hội Chủ
tháng Ì n ă m 1991.
Bộ luật hàng hải V i ệ t N a m được áp dụng đối với những quan hệ pháp
luật phát sinh từ các hoạt động liên quan đến việc sử dụng tầu biển vào các
•
mục đích kinh tế, nghiên cứu khoa hởc, kĩ thuật, văn hoa, thể thao, xã hội và
công vụ N h à nước.
65
Bộ luật hàng hải Việt Nam gồm 18 chương, 224 điều:
- Chương VI. Hợp đổng vận chuyển hành khách và hành lí,
hải Việt N a m
2.1. Thòi hạn trách nhiệm, cơ sở trách nhiệm, giói hạn trách nhiêm
đổi với hàng hoa
- Thời hạn trách nhiệm
M ụ c Ì, điều 108 của Luật hàng hải V i ệ t Nam q u i định về thời hạn
trách nhiệm của người chuyên chự như sau: " N g ư ờ i vận chuyển có trách
nhiệm chăm sóc chu đáo hàng hoa và chịu trách nhiệm về các tổn thất do hư
hỏng, mất mát hàng hoa từ khỉ nhận bốc hàng lên tầu cho đến k h i giao cho
người nhận hàng. N g ư ờ i vận chuyển có nghĩa vụ b ồ i thường tổn thất hàng hoa
nếu không chứng m i n h được rằng mình không có l ỗ i gây ra các tổn thất đó".
66
Như vậy, theo Luật hàng hải v i ệ t Nam (hì thời hạn trách nhiệm c ủ a
người chuyên chở Việt Nam lớn hơn thời hạn trách nhiệm của người chuyên
chở được qui định trong Công ước Brucxen 1924 vì theo Công ước Brucxen,
người chuyên chở chỉ chỉ chịu trách nhiệm đối với hàng hoa kể từ k h i bốc
hàng lên tầu cho tới k h i dỡ hàng ra khắi tầu, trong khi đó người chuyên chở
theo Luật hàng hải Việt Nam thì người chuyên chở phải chịu trách nhiệm đôi
với hàng hoa từ k h i bốc hàng lên tầu ở cảng đi cho tới k h i giao hàng cho
người nhận hàng, m à việc giao hàng có thể thực hiện ở cảng, cũng có thể thực
hiện ở một nơi nào khác như kho của người nhận hàng. v ề nội đung này, Công
ước Hamburg thì lại qui định thời hạn trách nhiệm của người chuyên chở bắt đầu
từ khi nhận hàng tại cảng đi cho tới khi giao xong hàng tại cảng đến.
Có thể so sánh thời hạn trách nhiệm của người chuyên chở theo luật
Hàng hải Việt Nam , Công ước Brucxen và Công ước Hamburg như sau:
- Cơ sở trách nhiệm
Theo mục Ì điều 108, Luật Hàng H ả i V i ệ t Nam, Người chuyên chở
chịu trách nhiệm về các tổn thất do hư hắng, mất mát hàng hoa. N h ư vậy cơ sở
trách nhiệm của người chuyên chở theo Luật Hàng Hải V i ệ t Nam là mất mát
hư hại, tức là người chuyên c h ở chỉ phải b ồ i thường trong trường hợp hàng hoa
bị mất mát hư hại. Q u i định này tương tự như Công ước Brucxen 1924 và
khác với Công ước Hamburg 1978. Công ước Hamburg 1978 q u i định người
chuyên chở phải b ồ i thường trong 3 trường hợp: M ấ t mát, hư hại, giao chậm.
67
- 3 trách nhiệm tối thiểu
Trách nhiệm thứ nhất: Cung cấp tầu đủ khả năng đi biển. Điều 67, Lu ạt
Hàng Hải Việt Nam qui định về trách nhiệm của người chuyên chở nhu sau
"Người vận chuyển có nghĩa vụ chăm sóc chu đáo để trước khi bắt dầu chuyến
đi, tầu có đủ khả năng đi biển; có thuyền bộ thích hữp; đưữc cung ứng đầy đủ
trang thiết bị và vật phẩm d ự trữ; các hầm hàng và hẩm lạnh và khu vực khác
dùng để vận chuyển hàng hoa có đủ các điều kiện nhận, vận chuyển và bảo
quản hàng hoa phù họp với tính chất của hàng hoa". Qui định này tuông tự
như điều 3 khoản ì của Công ước Brucxen 1924. Công ước Hamburg 1978
Trách nhiệm thứ 2: xếp dỡ, bảo quản hàng hoa. Điều 73, mục 2, Luật
Hàng Hải Việt Nam qui định là "người vận chuyển có nghĩa vụ chăm sóc chu
đáo tới việc bốc hàng, sắp xếp, chằng buộc và ngăn cách hàng hoa ở tiên tầu",
và điều 108, mục Ì qui định rằng "người vận chuyển có trách nhiệm chăm sóc
chu đáo hàng hoa và chịu trách nhiệm về các tổn thất do hư hỏng, mất mát
hàng hoa từ k h i nhận bốc lên tầu cho đến k h i giao cho người nhện hàng".
Điều 46, mục Ì cũng qui định rằng "Thuyền trưởng có nghĩa vụ quan tâm
thích đáng để hàng đưữc bốc lên tầu, sắp xếp và bảo quản trên tầu, dỡ khỏi tầu
một cách hữp lí, mặc dù các công việc này đã đưữc giao cho những người có
trách nhiệm thực hiện". Những điều này có nghĩa là người chuyên chở có
trách nhiệm đ ố i với việc xếp hàng lên tẩu ở cảng bốc hàng và dỡ hàng ra khỏi
tầu tai cảng d ỡ hàng và có trách nhiệm, chăm sóc bảo quản hàng hoa trong
suốt quá trình chuyên chở. Qui định này tương tự như Công ước Brucxen 1924
Trách nhiệm thứ 3: Cấp vận đơn đường biển. Điều 80 Luật Hàng H ả i
Việt Nam qui định "Theo yêu cầu của người giao hàng, người vận chuyển có
nghía vụ kí phát cho người giao hàng một bộ vận đơn". N h ư vậy, theo Luật
Hàng Hải V i ệ t N a m , N g ư ờ i chuyên chở có nghĩa vụ cấp (hay kí phát) vận đơn
cho người giao hàng. Q u i định này tương đương với q u i định của Công ước
68
Brucxen và Công ước Hamburg nhung chỉ khác ở chỗ các Công ước đều nói lõ
thời điểm cấp vận đơn, còn Luật Việt Nam thì không.
M ụ c 2, điều 108 của Luật hàng hải Việt Nam qui định như sau: "Người
vận chuyển được miễn hoàn toàn trách nhiệm nếu tổn thất hàng hoa xặy ra do:
+ Hành động, sự sơ suất hoặc sai' lầm của thuyền trưởng, thuyền viên
khác, hoa tiêu hocặc nhũng người làm công cho người vận chuyển trong việc
+ Hoa hoạn m à bản thân người vận chuyển không gây ra;
+ Chiến tranh;
+ Hành động bắt giữ hoặc các hành động cưỡng chế khác
+ Hành động hoặc sự sơ suất của ngươi giao hàng, chủ sở hữu hàng, đại
+ Đình công, đóng cửa xí nghiệp hoặc hành động tương tự khác làm
hạn chế hoàn toàn hoặc một phần công việc do bất cứ nguyên nhân nào;
+ Hành động cứu hoặc nhằm mục đích cứu tính mạng con người hoặc
+ Hao hụt về khối lượng, trọng lượng hoặc bất cứ mất mát, hư hỏng
nào khác của hàng hoa xặy ra do chất lượng, khuyết tật ặn hoặc khuyết tật
+ Hàng hoa không được; đánh dấu kí, m ã hiệu đúng q u i cách hoặc
hiện được, mặc dù đã thực hiện nhiệm vại m ộ t cách mẫn cán;
69
+ Bất kì nguyên nhân nho khác xẩy ra m à người vận chuyển không có
lỗi hoặc không đồng tình với việc gay ra tổn thất hoặc không phải do đại lí và
những người làm công khác cho người vân chuyển có lỗi hoặc sơ suất gây nên
tổn thất.
So với điều 4 của Công ước Biucxen 1924 thì mục 2 điều 108 của Luật
hàng hải Việt Nam chầ thiếu một miễn trách là miễn trách về tầu không đủ
khả năng đi biển nếu trước k h i và lúc bắt đầu hành trình, người chuyên chở đã
N h ư vậy, về cơ bản, những miễn trách cho người chuyên chở theo Luật
hàng hải Việt Nam tương tự như q u i định về miễn trách của Công ước
Brucxen 1924. Công ước Hamburg 1978 về cơ bản đã xóa bỏ đi các miễn
trường hợp chủng loại và giá trị của hàng hoa không được người giao hàng
khai báo tarớc k h i bốc hàng hoặc không được g h i rõ vào vận đơn, giấy gửi
hàng hoặc chứng từ vận chuyển hàng hòa tương đương thì người vận chuyển
hoặc tầu chầ có nghĩa vụ b ồ i thường mất mát, hư hỏng hàng hoa hoặc tổn thất
khác liên quan đến hàng hoa trong giới hạn tối đa tương đương với 10.000 ÍT
vàng cho m ỗ i kiện hoặc đơn vị hàng hoa qui ước (tức đồng fr vàng có hàm
găm trọng lượng cả bì của số hàng hoa bị mất mát hư hỏng tuy theo giá trị nào
là cao nhất".
Qui định này của Luật hàng hải V i ệ t Nam tương đương với qui định
của điều 2 của nghị định thư Visby 1968 chầ khác là Luật hàng hải V i ệ t Nam
chưa đề cập đến đơn vị xét bồi thường k h i hàng hoa được đóng trong các dụng
cụ vận tải như container và pallet trong k h i nghị định thư đã nói tới. Q u i định
2.2. Trách nhiệm của người chuyên chỏ đối với việc giao hàng ở cảng đến
Điều 93, Luật Hàng Hải Việt Nam qui định như sau " K h i tầu đến cảng
70
đích, người vận chuyển có nghĩa vụ trả hàng cho người nhận hàng hợp pháp
nào có ít nhất một bản vận đơn gốc". Người chuyên chở được coi là đã hoàn
+ Đ ã giao hàng cho người nhận hàng phù hợp với vận đơn về số lượng,
chủng loại, tình trạng, tức là đã giao hàng theo vận đơn.
+ Người nhận hàng không có thông báo bằng văn bản cho người
chuyên c h ữ về các mất mát, hư hững hàng hoa ngay k h i nhận hàng hoặc chậm
nhất là 3 ngày tính tít ngày nhận hàng nếu không thể phất hiện thiệt hại từ bên
ngoài.
+ Không có khiếu nại của người nhận hàng về hàng hoa trong vòng ]
năm kể từ ngày trả hàng hoặc lẽ ra phải trả hàng cho người nhận hàng.
Những q u i định này tương tự như Công ước Brucxen 1924, Công ước
Hamburg khác là thông báo tổn thất trong vòng Ì ngấy kể từ ngày nhận hàng
với tổn thất thấy rõ và 15 ngày đối với tổn thất không thấy rõ, hơn nữa thời
hạn khiếu nại theo Công ước Hamburg là 2 n ă m chứ không phải là Ì năm.
2.3. Trách nhiệm tạo điều kiện cho người nhận hàng giám định hàng
hoa và thanh toán chỉ phí giám định
Điểu 95, khoản Ì, Luật Hàng H ả i Việt Nam q u i định: "Trước k h i trả
hàng, người nhận hàng và người vận chuyển đều có thể yêu cầu giám định
hàng hoa".
N h ư vậy, trước k h i trả hàng, người nhận hàng có quyền yêu cầu người
chuyên chở tiến hành giám định hàng hoa, người chủ hàng phải trả chi phí
giám định nếu họ yêu cầu. Tuy nhiên, người chủ hàng sẽ không phải trả chi
phí giám định nếu tổn thất về hàng hoa thuộc trách nhiệm của người chuyên
chở, tức là tổn thất về hàng hoa do l ỗ i của người chuyên chở, thuộc các trách
nhiệm, không thuộc các miễn trách nhiệm. N g ư ờ i chuyên chở cũng phải chịu
phí giám định dù người nhận hàng yêu cầu giám định nếu người chuyên chở
không chứng m i n h được rằng hàng hoa bị mất mát hư hững ngoài phạm v i
lì
Qui định này không giống các Công ước quốc tế, nhưng nội dung cơ
bản thì tương tự như nhau, Công ưức Brucxen và Công ước Hamburg-điều 19.
khoản 4 qui định lằng: Trong trường hợp hàng hoa bị tổn thất hay nghi ngừ là
có tổn thất thì người chuyên chờ phải tạo m ọ i điều kiện thuần lợi để người
nhần hàng có thể kiểm tra, kiểm đếm hàng hóa và lầp các biên bản cẩn thiết.
Điều 80, Luầt Hàng Hải Việt Nam qui định lằng: "Theo yêu cầu của
người giao hàng, người vần chuyển có nghĩa vụ kí phát cho người giao hàng
một bộ vần đơn". Điều 81, Luầt Hàng Hải Việt Nam lại qui định rằng: "Vần
đơn là bằng chứng về việc người vần chuyển đã nhân lên tầu...". N h ư vầy, theo
tinh thần của Luầt Hàng Hải Việt Nam , vần đơn được cấp sẽ luôn luôn là vân
đơn đã xếp hàng, tức là khi có hàng vần đơn trong tay thì tức là hàng hoa đã
được xếp lên tẩu. Qui định theo Luầt Hàng H ả i Việt Nam chưa hợp lí ở điều
này, vì hàng hoá có thể được giao cho người chuyền chở không phải tại tầu m à
có thể giao ở trên đất liền như ở trong kho, ở bãi để container ... đặc biệt là
trong các trường hợp người chuyên chở cung cấp dịch vụ vần chuyển từ cửa
tới cửa, vần đơn được cấp trong các trường hợp này chưa thể là vần đơn đã
xếp, vầy thì khẳng định vần đơn là bằng chứng của việc hàng đã được nhần
Các Công ước đều không qui định theo kiểu này, m à nói rằng: Người
chuyên chở sau k h i đã thực sự nhần hàng để chở thì phải cấp vần đon cho
người giao hàng theo yêu cầu của họ, và nếu vần đơn là vần đơn chưa xếp
hàng thì sau k h i hàng đã xếp phải cấp cho người giao hàng vần đơn đã xếp
hàng hoặc g h i bổ sung lên vần đơn chưa xếp hàng các n ộ i dung cần thiết như
tên tầu và ngày tháng hàng hoa được xếp lên tầu để vần đơn chưa xếp trở
thành vần đơn đã xếp theo yêu cầu của người giao hàng.
2.5. Trách nhiệm của người chuyên chở theo các họp đồng tụ nguyện
Điều 112, mục Ì, Luầt Hàng Hải V i ệ t Nam q u i định "trong trường hợp
hàng hoế. được vần chuyển bằng vần đơn, thì m ọ i thoa thuần nhằm mục đích
giảm các nghĩa vụ và trách nhiệm của người vần chuyển ... đều không có giá
72
trị". Cũng điều 112, nhưng mục 2 nói rằng "Các bên tham gia hợp đổng chỉ có
quyền thoa thuận về việc giảm trách nhiệm của người vận chuyển ... trong các
trường hợp liên quan đến: Quãng thời gian từ khi nhận hàng đến trước khi bốc
hàng và quãng thời gian từ khi kết thúc dỡ hàng đến khi trả xong hàng; Vận
chuyển súc vật sống; Vận chuyển hàng hoa trên boong Iheo hợp đựng".
N h ư vậy, Luật Hàng Hải Việt Nam chỉ cấm người chuyên chở không
được giảm đi trách nhiệm của mình như đã qui định, nhưng không cấm người
chuyên chở tự nguyện tăng cường trách nhiệm của mình, tức là người chuyên
chở có thể tự nguyện thoa thuận với người giao hàng chịu nhiều trách nhiêm
hơn theo qui định của Luật Hải. Tuy nhiên, trong 3 trường hợp, thứ nhất là
trước k h i xếp hàng lên tầu và sau k h i dã dô hàng xong ra khỏi tầu, thứ hai là
vận chuyển súc vật sống và thứ 3 là hàng hoa vận chuyển trên boong thì người
chuyên chở có thể thoa thuận riêng về trách nhiệm của mình với người giao
hàng những trách nhiệm trái với những trách nhiệm m à Luật đã qui định, tức
là có thể nhận nhiều hoặc ít trách nhiệm hơn so với qui định của Luật.
Những qui định này của Luật Hàng H ả i Việt Nam không hoàn toàn
giống các Công ước. Công ước Brucxen thì nói rằng, những qui định làm giảm
trách nhiệm so với Công ước là không có giá trị, có nghĩa là người chuyên chở
chỉ có thể tăng trách nhiệm chứ không thể giảm trách nhiệm- qui định này
giống Luật Việt Nam , tuy nhiên, Công ước không nói tới việc người chuyên
chở có thể được giảm trách nhiệm trong 3 trường hợp vừa nói trên, nhưng
Công ước Brucxen ngay từ đầu lại nói lằng, Công ước không áp dụng đối với
hàng xếp trên boong và súc vật sống, về thời hạn trách nhiệm thì người chuyên
chở cũng chỉ chịu trách nhiệm đối với hàng hoa kể từ khi hàng được bốc lên
tầu cho tới khi hàng được dỡ ra khỏi tầu. T ó m lại, ở đây Công ước Brucxen và Luật
Việt Nam có nội dung như nhau, nhưng qui định cụ thể thì không giống nhau.
Đ ố i với Công ước H a m h m g thì khác, Công ước không cho phép người
chuyên chở giảm trách nhiệm, m à chỉ chó phép tăng trách nhiệm, điều này thì
giống Luật V i ệ t N a m , tuy nhiên Công ước Hamburg lại áp dụng đối với hàng
xếp trên boong và súc vật sống, vì thế, đối v ớ i hàng xếp trên boong và súc vật
73
sống người chuyên chở chỉ có thể tăng chứ không (hể giảm trách nhiệm bằng
hợp đồng tự nguyện theo Công ước, mặt khác, về thời hạn trách nhiệm, Công
ước Hamburg qui định, người chuyên chở chịu trách nhiệm đối với hàng hoa
tủ khi nhận hàng ở cảng bốc hàng tới k h i giao hàng cho người nhân hàng ở
cảng d ỡ hàng, vì vậy, kể tủ khi nhận hàng ở cảng đi cho tới k h i giao hàng ở
cảng đến, người chuyên chở không thể giảm trách nhiệm của mình. Như vây.
nội dung này Công ước Hamburg và Luật v i ệ t Nam khác nhau.
2.6. Trách nhiệm của người chuyên chở đôi với hàng dặc biệt, hàng
nguy hiểm
Điều 79, Luật Hàng H ả i V i ệ t Nam qui định "người vận chuyển có
quyền đỡ khỏi tầu, huy bỏ hoặc làm mất khả năng gây hại của hàng hoa dễ
nổ, dễ cháy hoặc hàng hoa nguy hiểm khác m à không phải bồi thường và vãn
được thu đủ cước nếu số hàng đó đã được khai báo sai hoặc do người vận
chuyển không được thông báo trước và cũng không thể nhãn biết về những
đặc tính nguy hiểm về hàng hoa khi bốc hàng qua sự hiểu biết thông thường...
Trong trường hợp người vận chuyển đã nhận bốc lên tầu những hàng
hoa nguy hiểm, mặc đù đã được thông báo trước hoặc đã nhận biết tính chất
nguy hiểm của hàng hoa đó qua sự hiểu biết nghiệp vụ thông thường và đã
thực hiện các biện pháp bảo quản theo đúng qui định, nhưng k h i hàng hoa đó
đe doa sự an toàn của tầu, người và hàng hoa trên tầu, thì người vận chuyển
cũng có quyền dỡ khỏi tầu, huy bỏ hoặc làm mất khả năng gây hại của hàng
hoa m à không phải b ồ i thường". Điều này, Luật Việt Nam và các Công ước
2.7. Trách nhiệm của nguôi chuyên chỏ đối vói hàng xếp trên boong
và súc vật sông
Không có điều khoản nào của Luật Hàng H ả i V i ệ t Nam qui định cụ thể
trách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hoa xếp trên boong và súc vật
sống. Tuy không q u i định trách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng
nhưng điều 112 mục 3 lại nói về hàng xếp trên boong và súc vật sống như sau:
"Các bên tham gia hợp đổng vận chuyển chỉ có quyền thoa thuận về việc giảm
74
trách nhiệm của người vận chuyển khác với qui định tại mục I điều này trong
các trường hợp liên quan đến: Vận chuyển súc vật sống; vận chuyển hàng hoa
trên boong theo hợp đồng". Có thể hiểu những qui định này như sau: Nêu
hàng hoa được vận chuyển bằng vận đơn, thì những qui định của Luật không
áp dụng đối với hàng hoa xếp trên boong và súc vật sống, như vậy, trách
nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hoa xếp trên boong không giống
như trách nhiệm cua người chuyên chở được qui định theo Luật Hàng Hải, m à
trách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hoa xếp trên boong như thế
nho là do người chuyên chở thoa thuận với người giao hàng.
Cách qui định của Luật Việt Nam về điều này có thể nói tương tấ như
Công ước Brucxen nhưng khác với Công ước Hamburg. N h ư đã nói, Phạm vi
điều chỉnh của Công ước Hamburg gồm cả hàng xếp trên boong và súc vật sống.
quyền ghi chú vào vận đơn nhận xét của mình về tình trạng bên ngoài hoặc
Người vận chuyển có quyền từ chối ghi vào vân đơn sấ m ô tả về hàng
hoa, nếu có đủ căn cứ nghi ngờ tính chính xác về l ờ i khai báo của người giao
hàng ở thời điểm bốc hàng hoặc k h i không có điều kiện xác minh
Người vận chuyển có quyền từ chối g h i vào vận đơn kí, m ã hiệu hàng
hoa, nếu chúng chưa được đánh dấu rõ ràng trên từng kiện hàng hoặc bao bì
Nếu hàng hoa đã được đóng gói trước k h i giao hàng cho người vân
chuyển, thì người vận chuyển có quyền ghi vào vận đơn là không biết rõ n ộ i
dung bên trong". N h ư vậy, theo Luật Hàng H ả i V i ệ t Nam , người chuyên chở
có trách nhiệm hay nói cách khác là có quyền g h i chú xấu, không thừa nhận
những n ộ i dung m à người gia<2 hàng ghi k h i lập vận đơn k h i có căn cứ chắc
chắn hay nghi ngờ, hay thấc sấ không biết rồ. L à m như vậy gọi là bảo lưu
hay ghi bảo lưu trên vận đơn, nhằm tránh phải b ồ i thường với những tổn thất
75
Qui định của Luật Hàng Hải việt Nam tuy không hoàn toàn giống các
Công ước, tuy nhiên, về tinh thần thì qui định của Luật Hàng Hải Việt Nam
và các Công ước về trách nhiệm ghi bảo lưu là tương tự như nhau.
nghĩa vụ bồi thường tổn thất hàng hoá, nếu không chứng minh đưộc rằng mình
không có lỗi gây ra các tổn thất đó". Như vậy, theo Luật Hàng Hải Việt Nam
thì trách nhiệm chứng minh lỗi thuộc về người chuyên chở. Người nhận hàng
thấy hàng hoa bị mất là đòi người chuyên chở phải bồi thường, người chuyên
chở muốn thoát trách nhiệm bồi thường phải chứng minh rằng mình không có
lỗi. (Qui định này của Luật hàng hải Việt Nam giống với qui định của Công
ước Hamburg 1978 và khác với Công ước Brucxen 1924 và các nghị định thư
Có thể nói, về cơ bản, những qui định của Luật Hàng Hải Việt Nam
tương tự như những qui định của Công ước Biucxen ] 924 đưộc sửa đổi bải
nghị định thư Visby 1968, đó là những nội dung về thời hạn trách nhiệm, cơ
sở trách nhiệm, miễn trách nhiệm, giới hạn trách nhiệm, trách nhiệm giao
hàng ở cảng đến, trách nhiệm của người chuyên chở đối với các hộp đồng tự
nguyện, trách nhiệm kiểm tra kiểm đếm hàng hoa ở cảng đến khi hàng bị tổn
thất, trách nhiệm đối với hàng nguy hiểm và hàng đặc biệt, trách nhiệm đối
Những qui định của Công ước Hamburg về cơ bản chưa đưộc ghi nhận
trong Luật Hàng Hải Việt Nam , nguyên nhân là do Luật Hàng Hải Việt Nam
đưộc Quốc H ộ i nước Cộng Hoa X ã H ộ i Chủ Nghĩa Việt Nam ban hành tháng
6 năm 1990 và có hiệu lực tháng Ì năm 1991, trong k h i đó Công ước
Hamburg 1978 đến tháng 12 năm 1992 mới có hiệu lực. Thực tế, Công ước
Hamburg dù đã có hiệu lực 8 năm nay nhưng việc áp dụng Công ước
Hamburg trên thế giới ngày nay vẫn chưa phổ biến và việc áp dụng Công ước
Brucxen đưộc sửa đổi bằng nghị định thu Visby vẫn là một hiện thực không
76
li. T R Á C H NHIỆM CỦA NGƯỜI C H U Y Ê N CHỞ H À N G K H Ô N G
Đ ể có cơ sở pháp lý liền quan đến hàng không dân dụng nhằm đảm bảo
an toàn hàng không, khai thác một cách có hiệu quả các tiềm năng về hàng
không, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, mở rộng giao lưu và hợp lác quốc
tế - ngày 26 tháng 12 năm 1991 Quốc hội nước Cộng Hoa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam khoa HI, kỳ họp thứ lo, đã thông qua Luạt Hàng Không Dân Dụng
Việt Nam. Luạt hàng không dấn dụng Việt Nam đã được công bố theo lệnh
số 63/LTC ngày 4 tháng ] năm 1992 của Chủ tịch nước và có hiệu lực ngày I
Đ ể tạo điều kiện thuạn lợi hơn nữa cho sự phát triển của ngành hàng
không và quản lý tốt hơn vùng trời chủ quyền quốc gia, Luạt hàng không Việl
Nam đã được sửa đổi bởi luạt sửa đổi luạt hàng không dan dụng Việt Nam
20/4/1995.
Luạt Hàng không đản dụng Việt Nam qui định nhũng quan hệ pháp lý
có liên quan tới những hoạt động nhằm sử đụng tầu bay vào mục đích vạn
chuyển hành khách, hành lý, hàng hoa bìm kiện, bưu phẩm và hoạt động các
hoạt động kinh tế khác, phục vụ nghiên cứu khoa học, hoạt động văn hoa, thể
thao, y tế, tìm kiếm- cứu nguy và các hoạt động dân dụng khác, nhằm đảm
bảo an toàn hàng không, khai thác có hiệu quả các tiềm năng về hàng không.
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, mở rộng giao hai và hợp tác quốc tế.
Luật hàng không dân dụng Việt Nơm gồm lo chương, no điêu:
- Chương VU: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về hợp đồng;
77
- Chương IX: xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp;
Trách nhiệm của người chuyên chở hàng không Việt Nam được qui
2.1. Thỏi hạn trách nhiệm, co sở (rách nhiệm, giói hạn trách nhiệm
Người chuyên chở chịu trách nhiệm đối với hàng hoa hành lý trong quá
Điều 75, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam qui định: Quá trình vận
chuyển hàng hoa bằng tộu bay được tính từ thời điểm người gửi hàng giao
hàng hoa cho người vận chuyển tói thời điểm người vận chuyển trả hàng hoa
Theo luật hàng không dan dụng Việt Nam thì người chuyên chở phải
chịu trách nhiệm đối với hàng hoa kể từ k h i nhân hàng từ người gửi hàng cho
tới khi người chuyên chở giao hàng cho người có quyền nhận hàng, như vậy,
trách nhiệm của người chuyền chở hàng không được qui định theo Luật Hàng
không dân dụng Việt Nam về mặt thời gian và không gian lớn hơn l ất nhiều
so với các Công ước quốc tế về vận tải hàng không, bởi vì nơi nhận hàng và
nơi giao hàng nếu không qui định rõ thì nó có thể ở cảng hàng không, cũng có
thể ở một nơi khác như kho đi và kho đến chẳng hạn. Suy ra rằng, theo Luật
Hàng không dân dụng Việt Nam thì nguôi chuyên chở hàng không có thể
phải chịu trách nhiệm đối với hàng hoa từ kho đi cho tới kho đến, trong khi đó
các Công ước quốc tế về hàng không chỉ qui định trách nhiệm của người
chuyên che/ hàng không đối với hàng hoa k h i hàng hoa ở trong máy bay, ở
trong sân bay trong trường hợp m á y bay buộc phải hạ cánh ngoài cảng hàng
không thì mới ở bất kì nơi nào nếu máy bay buộc phải hạ cánh ngoài cảng
78
hàng không. Qui định như Luật Hàng không v i ệ t Nam ở điều này rất phù hợp
với xu hướng giao hàng từ cửa đến cửa ngày nay nhưng như vậy người chuyên
chở hàng không phải chịu trách nhiệm đối với hàng hoa ở cá những đoạn vạn
chuyển ở hai đầu sân bay đi và đến, trong khi đó thì các Công ước quốc tế về
hàng không lại loại trừ quá trình vận chuyển hàng hoa ở đoạn vận chuyển
đường bủ, đường biển, đường sông ra ngoài khái niệm V T H K t i ờ các trường
Luật hàng không dân dụng Việt Nam điều 74 và 77 qui định về cơ sở
trách nhiệm của người chuyên chở như sau: Người chuyên chở chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do mất mát, thiếu hụt hoặc hư hỏng hàng hoa trong
trường hợp chậm trễ, nếu không chứng minh được rằng nhân viên hoặc đại lý
của mình đã áp dụng mọi biện pháp để tránh thiệt hại hoặc không thể áp dụng
Người chuyên chở được miễn trách nhiệm trong những trường hợp
trong nhũng trường hợp sau: (điều 74, luật hàng không dân dụng Việt Nơm )
- Đặc tính tự nhiên hoặc khuyết tật vốn có của hàng hoa;
- Do hành đủng bắt g i ữ hoặc hành đủng cưỡng chế khác của nhà chức
- Do lỗi của người gửi hàng, người nhận hàng hoặc đo lỗi của người áp
tải được người gửi hoặc người nhận cử đi kèm theo hàng hoa.
Luật Hàng không dân dụng Việt Nam tương tự như các Công ước quốc tế về
vận tải hàng không, chỉ khác là.qui định nhiều hơn 3 miễn trách nhiệm đó là
miễn trách về: Đ ặ c tính tự nhiên hoặc khuyết tật v ố n có của hàng hoa, miễn
trách về hành đủng bắt g i ữ hoặc hành đủng cưỡng chế khác của nhà chức
trách hoặc toa án đối với hàng hoa và miễn trách về xung đủt vũ trang được
79
qui đinh trong Luật Hàng không dân dụng Việt Nam nhưng không có trong
Điều 76, luật Hàng không dân dụng Việt Nam qui định như sau:
+ Nếu hàng hoa và hành lý đã được kê khai trị giá thì bồi (hường (heo
+ Nếu giá trị kê khai lớn hơn trị giá thực tế thì căn cứ vào trị giá thực tế.
Nếu không kê khai trị giá thì bồi thường theo giá trị thiệt hại thực tế của
+ Mức b ồ i thường thiệt hại của người chuyên c h ở trong các trường
hợp đã nói ở trên không vượt quá giới'hạn trách nhiệm dân sự của người
chuyên chở.
+ Nếu không xác định đirợc giá trị thiệt hại thực tế, thì mức bồi thường
được tính tới giới hạn trách nhiệm dân sự của người chuyên chở.
+ G i ớ i hạn trách nhiệm dân sự của người chuyên chở được qui định
như sau:
+ Đ ố i vối hàng hoa và hành lý ký gửi: Giới hạn trách nhiệm của người
+ Ngoài mức bổi thường nói tại điều này, người vận chuyắn phải hoàn
lại người gửi hàng cước phí, phụ phí vận chuyắn số hàng hoa và hành lý ký gửi
bị thiệt hại.
Về cơ bản, những qui định của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam
về giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở hàng không phù hợp với qui
định của các Công ước, qui tắc quốc tế về vận tải hàng không. Thực chất,
những qui định về giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở hàng không của
Luật Hàng không dân dụng Việt Nam đối với hàng hoa là những qui định của
nghĩa vụ giao vận đơn và cung cấp vận đơn cho người vân chuyắn giấy tò, tài
80
liệu và thông tin cẩn thiết khác về hàng hoa".
Người gửi hàng phải ghi rõ ràng, chính xác vào vện đơn tên hàng, trọng
lượng, số lượng, kích thước, qui cách đóng gói và đặc tính khác của hàng hoa
Người vân chuyển có quyền kiểm tra sự đúng đắn của việc kê khai".
Như vậy, cũng giống như các Công ước qui định, người gửi hàng có
nghĩa vở lập vận đơn và chịu trách nhiệm về những nội dung ghi trên vận đon.
Người chuyên chở có quyền hay có trách nhiệm yêu cẩu người gửi hàng lộp
vận đơn. Tuy nhiên, Luật Hàng không dân dởng Việt Nam không qui định rõ
vận đơn gồm bao nhiêu bản, do ai kí và kí vào lúc nào người chuyên chở có
thể lập vận đơn thay người gửi hàng hay không. N ộ i dung này các Công ước
quốc tế qui định tỉ mỉ hơn. Trong thực tế thực hành tại các cảng hàng không
Việt Nam chúng ta cũng thực hiện giống như các Công ước quốc tế qui định.
2.3. Trách nhiệm giao hàng
Điều 59, Luật Hàng không dãn dởng Việt Nam qui định: "Theo hợp
đồng vận chuyển hàng hoa giữa người chuyên chở và người gửi hàng, người
vận chuyển có nghĩa vở vận chuyển hàng hoa đã thoa thuận trong hợp đồng
tới địa điểm đến và trả hàng hoa cho người có quyền nhận". Như vậy, người
vận chuyển có nghĩa vở phải giao hàng cho người nhận hàng ở địa điểm đến.
Người vận chuyển coi như đã hoàn thành việc giao hàng nếu: Đ ã trả hàng hoa
cho người có quyền nhận hàng; không có khiếu nại trong vòng 14 ngày đối
với thiếu hởt hư hỏng hàng hoa và 21 ngày đối với mất mát hàng hoa kể từ
ngày trả hàng, 21 ngày đối với chậm trễ kể từ ngày giao hàng; hoặc sau một
năm kể từ ngày hàng hoa và hành lí được vận chuyển đến địa điểm đến hoặc
đáng lí phải được vận chuyển tới địa điểm đến m à không có ai kiện nguôi
chuyên chở. Cách qui định này của Luật Hàng không dân dởng Việt Nam về
cơ bản tương tự như các Công ước quốc tế về vận tải hàng không, tuy nhiên về
chi tiết thì không hoàn toàn giống nhau. Thứ nhất, luật của Việt Nam không
nói tới việc giao hàng cở thể cho người có chứng từ gì m à chỉ nói là giao hàng
tại điểm đến cho người có quyền nhận hàng, và vì vậy, cũng không nói rằng
người chuyên chở phải thu hồi lại vận đơn k h i giao hàng như các Công ước
81
quốc tế qui định. Mặt khác, ngày khiếu nại của các Công ước quốc tế và Luật
Việt Nam qui định không giống nhau. Công ước Vác - sa - va thì qui định là ĩ
ngày, 7 ngày và 14 ngày; nghị định thư Hague thì qui định là 7 ngày, 14 ngày
và 21 ngày. Luật Việt Nam thì qui định là 14 ngày, 21 ngày và 21 ngày.
Người chuyền chở không những có trách nhiệm giao hàng cho người
nhạn tại địa điểm đến m à còn có nghĩa vụ giao hàng cho người gửi hàng nếu
họ xuất trình vận đơn tại nơi gửi hàng, nơi hàng đến, tại bất kì nơi hạ cánh nào
trong hành trình, hoặc giao hàng cho mảt người nhận hàng khác tại nơi đến
hoặc nơi khác trong hành trình. Như vậy, theo Luật Hàng không v i ệ t Nam thì
người chuyền chở không nhem? có nghĩa vụ giao hàng cho người có quyền
nhận hàng tại nơi đến m à còn có nghĩa vụ giao hàng cho mảt người bất kì theo
yêu cầu của người gửi hàng nếu họ xuất trình vận đơn. Tuy nhiên, người
chuyên chở không có nghĩa vụ giao hàng theo yêu cầu của người gửi hàng nếu
Về nải dung này, Luật Việt Nam và các Công ước qui định như nhau.
N h ư đã trình bầy ở chương 2, những qui định về trách nhiệm của người
chuyên chở đường biển và đường hàng không Việt Nam về cơ bản tương tự
như Công ước quốc tế về vận tải biển và hàng không. Điều này có nghĩa là
chúng ta muốn luật của nước mình có những q u i định ngang tầm với những
qui định quốc tế. Thậm chí, ỏ' mảt số n ả i dung, luật Hàng hải và Hàng không
Việt Nam còn qui định trách nhiệm của-người chuyên chở cao hơn các Công
ước quốc tế hiện hành. Tuy nhiên, cũng còn mảt số điểm luật Việt Nam cần
phải sửa đổi để những qui định, đặc biệt là những qui định về trách nhiệm của
người chuyên chở được rõ ràng và phù hợp hơn với các q u i định quốc tế gần
đây, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho sự phát triển của ngành hàng hải và
hàng không V i ệ t Nam nói riêng và quá trình khu vực và toàn cầu hoa của
Việt Nam nói chung. Trên tinh thần như vậy, chúng tôi mạnh dạn đưa ra m ả t
82
số giải pháp và kiến nghị, hi vọng góp phần hoàn thiện hơn nữa những qui
định về trách nhiệm của người chuyên chở theo luật hàng hải Việt Nam . Do
những qui định về trách nhiệm của người chuyên chở hàng không theo luật
hàng không dân dụng Việt Nam hiện nay về cơ bản phù hợp với thông l ệ
quốc tế. Khác nữa, hàng hoa vận chuyển bằng đường hàng không của Việt
Nam chưa lớn, nên nhũng giải pháp kiến nghị ở đà)' chủ yếu tập trung vào.
nhũng qui định về trách nhiệm của người chuyên chở đường biển.
định về trách nhiêm của người chuyên c h ở (tường biển theo luật hàng hải
Việt Nam
Luật Hàng hải V i ệ t Nam qui định "người chuyên chở phải chịu trách
nhiệm đối với hàng hoa kể từ khi nhận bốc hàng lên tầu cho tới khi giao hàng
cho người nhận hàng". Qui định như vậy làm cho trách nhiệm của người
chuyên chở đường biển Việt Nam lớn hơn trách nhiệm của nguôi chuyên chở
được qui định trong các Công ước ở đầu đến, còn ở đẩu đi thì tương tự như
Công ước Biucxen và các nghị định thư sửa đổi, nhưng lại hẹp hơn Công ước
Hamburg 1978. Như vậy, cách qui định như thế không phù hợp với mựt Công
ước quốc tế nào đang có hiệu lực ngày nay, điều này không phù hợp với tiến
trình h ự i nhập, khu vực và toàn cầu hoa của v i ệ t Nam . Mặt khác, qui định
như vậy là chưa rõ ràng: Trách nhiệm của người chuyên chở cho tới khi giao
hàng cho người nhận hàng có thể được hiểu điểm giao hàng ở cảng đến ngay
khi dỡ hàng ra khỏi tầu (giống Công ước Brucxen và các nghị định thư sửa
đổi), nếu giao tại cảng đến; có thể là CY hay CFS nếu khi giao hàng tại bãi để
container hay trạm giao hàng lẻ (giống Công ước Hamburg 1978); lại cũng có
thể hiểu là kho của người nhận hàng nếu giao tới tận kho (giống Công ước của
Liên hiệp quốc n ă m 1980 về vận tải đa phương thức). Cách qui định như vậy
khó hiểu và khó áp dụng. Tại sao lại qui định ở đầu đi thì người chuyên chở
chỉ phải chịu trách nhiệm kể từ khi nhận bốc hàng lên tầu m à không qui định
luôn là người chuyên chở phải chịu trách nhiệm từ k h i nhận hàng từ nguôi
83
nhận hàng cho phù hợp với Công ước của Liên hiệp quốc về vận tải đa phương
thức để phù hợp với xu thế giao hàng từ cửa tới cửa đang lất phát triển ngày
nay, hay qui định là người chuyên chỏ phải chịu trách nhiệm đối với hàng kê
từ khi nhận hàng ở cảng đi như Công ước Hamburg năm 1978-Công ước quốc
tế gỡn đây nhất về vận tải đường biển, cho phù hợp với vận tải container đang
ngày càng phát triển.
Tại đỡu đến, nếu hiểu là người chuyên chở chỉ chịu trách nhiệm cho đến
khi dỡ hàng ra khỏi tàu thì trách nhiệm của người chuyên chở quá hẹp về mặt
không gian (giống Công ước Brucxen), không phù hợp với vận tải container và
vận tải từ cửa đến cửa đang phát triển. Nếu hiểu là người chuyên chở phải chịu
trách nhiệm cho đến k h i giao hàng được cho người nhận hàng tại kho đến của
người nhận hàng thì trách nhiệm của người chuyên chở đường biển lại quá
rộng theo luật V i ệ t Nam , điều này tuy rất hấp dãn người gửi hàng, tuy nhiên
chưa thật phù hợp với người chuyên chờ Việt Nam k h i hệ thống đại lí và chi
nhánh của họ ở nước ngoài còn chưa thật phát triển và bản thân Công ước
Hamburg 1978 là Công ước được coi là tiến bộ nhất về vận tải đường biển
cũng chưa dám quị định như thế. Qui định như thế nào là thích hợp? theo
chúng tôi về thời hạn trách nhiệm của người chuyên chở đường biển, luật
hàng hải Việt Nam nên qui định là: Người chuyên chở phải chịu trách nhiệm
đối với hàng hoa kể từ k h i nhận hàng ở cảng gửi hàng cho tơi k h i giao hàng
cho người nhận hàng ở cảng dỡ hàng. Điều này phù hợp với thông lệ quốc tế,
phù hợp với xu thế phát triển của vân tải container cũng như khả năng của
nhiệm b ồ i thường trong trường hợp hàng hoa bị mất mát h u hại. Như vậy về
điều này, luật hàng hải V i ệ t Natp qui định tương tự như Công ước Brucxen và
các nghị định thư sửa đổi. Tuy nhiên, q u i định như thế là chưa phù hợp. Công
ước Brucxen 1924 ra đời từ những năm 20 của thế kỉ 20, k h i đó tỡu chuyên
chở hàng hoa còn rất lạc hậu hậu và vì thế m à hành trình của con tỡu lệ thuộc
84
rất nhiều vào các điều kiện thiên nhiên, nên việc giao hàng chậm rất có thể
xẩy ra. Ngày nay, tình hình đã thay đổi rất nhiều so với những năm 20 của thê
kỉ 20: Tầu rất hiện đại, tốc độ cao hơn, phương tiện thông tin liên lạc và dự
báo khí tượng thúy văn rất chính xác và kởp thời, tầu hoàn toàn có khả năng
đảm bảo giao hàng đúng thời hạn và vì vậy hoàn toàn có thể qui đởnh là, người
chuyên chở không những chỉ chởu trácH nhiệm b ồ i thường trong hai trường
hợp là mất mát và hư hại m à phải bồi thường trong cả trường hợp giao chậm.
Qui đởnh như vậy không những không gây khó khăn cho chủ tầu hay liu ái gì
chủ hàng m à làm cho tầu phải cố gắng hơn để thực hiện giao hàng đúng thời
hạn, cái m à người chuyên chở hoàn toàn có thể làm được nếu cố gắng. Mặt
khác, ngày nay, trong điều kiện cạnh tranh rất quyết liệt của các hãng tầu trên
thế giới, thì việc luật hàng hải Việt Nam quí đởnh trách nhiệm bồi thường tổn
thất trong trường hợp giao chậm làm cho đội tầu việt Nam trở nên có sức
hấp dẫn hon với chủ hàng, tăng sức cạnh tranh lành mạnh bằng việc cung cấp
các dởch vụ hoàn hảo m à không cần phải giảm cước phí. Không ngừng nang
cao uy tín của đội tầu việt Nam trên trường quốc tế, không ngừng phát triển
đội tầu buôn trong nước. Vì vậy, nên sửa thời hạn trách nhiệm của người
chuyên chở được qui đởnh trong luật hàng hải Việt Nam từ "người chuyên chở
phải chởu trách nhiệm bồi thường trong trường họp hàng hóa bở mất mát hư hại
thành người chuyên chở phải chởu trách nhiệm đối với hàng hoa trong trường
chuyên chở có 3 trách nhiệm là cung cấp tầu đủ khả năng đi biển: xếp, dỡ và
chăm sóc bảo quản hàng hoa. Đây là các trách nhiệm hết sức tối thiểu như đã
phân tích ở phần trước là dù không qui đởnh thì đương nhiên người chuyên
chở vẫn phải có tối thiểu 3 tráqh nhiệm trên, như vậy trong thực tế không cần
quở đởnh và không nên chỉ qui đởnh cho người chuyên chở có ít trách nhiệm
như vậy m à phải qui đởnh nhiều hơn hay qui đởnh theo cách khác.
85
- 16 miễn trách tối đa: Luật Hàng hải Việt Nam qui định người chuyên
chở được hưởng 16 miễn trách. Số lượng miễn trách như vậy là quá nhiều, mặt
khác, như đã nói ở phân trước, có nhũng miễn trách lại hết sức vô lí là miễn
trách về l ỗ i hàng vận hay miễn trách về việc điều hành tầu và quản lí tầu.
Người chuyên chở nhận hàng chở để lủy cước m à lại không phải bồi thường
khi hàng hoa bị tổn thủt do thuyền trưởng, thúy thủ, hoa tiêu, người làm công
cho người chuyên chở mắc lỗi trong việc điều hành tầu và quản lí tầu thì quá
vô lí. Điều qui định này cách đây vài chục năm còn có thể chủp nhận được,
khi chủ tàu ở trên bờ không có khả năng kiểm soát hành trình của con tầu và
hành động của những người ở trên tầu do trình độ thông tin liên lạc còn lạc
hậu. Ngày nay, vẫn qui định như vậy thì không còn phù hợp nữa. Trước hết sự
không phù hợp ở chỗ, đã kinh doanh khai thác tầu để lủy cước thì phải có khả
năng kiểm soát việc đi lại của con tầu cũng như phải có khả năng quản lý thúy
thủ đoàn, không chịu trách nhiệm về tổn thủt hàng hoa đối với chủ hàng trong
việc điều khiển tầu và quản lý tầu thì rủt vồ lý. M ặ t khác, ngày nay, phương
tiện liên lạc rủt hiện đại, người chuyên chở hoàn toàn có khả năng kiểm soát
từng bước đi và từng hành động của con- người trên tầu thì không có lý do gì
T ó m lại việc qui định cho người chuyên chở trách nhiệm t ố i thiểu và
miễn trách nhiệm tối đa theo luật Hàng hải Việt Nam không còn phù hợp nữa.
Chúng tôi kiến nghị sửa đ ổ i luật hàng h ả i v i ệ t Nam về qui định này theo
hướng: Không qui định trách nhiệm và miễn trách nhiệm m à qui định là người
có lỗi đối với tổn thủt của hàng hoa thì người đó phải chịu trách nhiệm. Tức là
nền tảng trách nhiệm của người chuyên chở được dựa trên nguyên tắc suy
đoán lỗi chứ không dựa trên việc qui định trách nhiệm t ố i thiểu và miễn trách
tối đa.
chuyên chở đường biển đối với mủt mát hư hại là 10.000 Fr vàng/ kiện hay
đơn vị hàng hoa hoặc 30 Fr vàng cho một k g hàng hóa bị tổn thủt.
86
Qui định này có một số hạn chế. Thứ nhất, giới hạn trách nhiệm cun
người chuyên chở như vây quá thấp. 10.000 Fr vàng chỉ tương đương với
khoảng 927 USD, m à một đơn vị hàng hoa có thể là một container hàng hon.
Một container hàng hoa có thể chứa đến 27 tấn hàng đối với container 40 fee(
và 18 tấn hàng đối với cotainer 20 feet, thì trị giá bồi thường 927 USD là
nay các Công ước quốc tế có xu hướng không dùng nọa. Luật Hàng hải của
các nước thường qui định bồi thường bằng đồng tiền nước họ. Luật Hàng hải
Việt Nam không có lý do gì để qui định đồng tiền bồi thường không phải là
đồng tiền của nước mình, cũng không phải là một đồng tiền được áp đụng phổ
trách nhiệm là luật Việt Nam không qui định cách tính đơn vị hàng hoa để
xét bồi thường. Điều này đẫn đến việc không biết có bao nhiêu đơn vị để xét
bồi thường. Tất nhiên, người đòi bồi thường sẽ tính ra được một số đơn vị lốn,
còn ngươi phải bồi thường sẽ tính ra được một số đơn vị bồi thường nhỏ hơn.
Luật Hàng hải V i ệ t Nam cũng không qui định giới hạn trách nhiệm của
người chuyên chở đối với container, điều này rất không phù hợp với vận tải
Vấn đề giới hạn trách nhiệm bồi thường của người chuyên chở trong
trường hợp giao chậm trong luật Hàng hải V i ệ t Nam cũng chưa được nhắc tới.
Nguyên nhân là do cơ sở trách nhiệm của người chuyên chở theo luật hàng hải
Về điểm này, theo chúng tôi, luật Hàng hải v i ệ t Nam cần qui định giới
hạn trách nhiệm của người chuyên chở V i ệ t Nam trong cả trường hợp giao
chậm; đưa ra cách tính đơn vị hàng hoa và giới hạn trách nhiệm của nguôi
chuyên chở đối với container và nâng cao giới hạn trách nhiệm của người
chuyên chở đối với kiện hàng hay đơn vị hàng hoa tương tít như Công ước
Hamburg 1978.
87
7.5. Về trách nhiệm của nguôi chuyên chở đối vói việc cấp vận đon
đã xếp hàng
Như đã nói ở phần trước, luật Hàng hải Việt Nam qui định rằng, vân
đơn là bằng chứng của việc người chuyên chở đã xếp hàng lên tầu. Điều này
có nghĩa là người chuyên chở Việt Nam chỉ cấp vận đơn khi hàng hoa đã
được xếp lên tầu, hay nói cách khác là theo luật hàng hải Việt Nam , chúng ta
chi sử đụng loổi vận đơn đã xếp và không dùng loổi vận đơn chưa xếp hàng.
Qui định như vậy vừa không rõ ràng, vừa không phù hợp. Chúng ta đều biết
rằng, ngày nay khi gửi hàng qua người giao nhận, người gom hàng, người đổi
lý hàng hoa đều được giao ở đất liền, không giao lên tầu. Mặt khác nhu cầu
vận tải từ cửa tới cửa và vận tải đa phương thức ngày càng tăng, vì vậy m à việc
cấp vận đơn chưa xếp hàng ngày càng trở nên phổ biến. Trong khi đó luật của
chúng ta lổi chỉ nói tới một loổi vận đơn đã xếp hàng, m à không hề nói tới vận
đơn chưa xếp haynhận để xếp. Các Công ước quốc tế như Công ước Brucxen
1924 và Hamburg 1978 đều nói tói hai loổi vân đơn đã xếp và nhận để xếp.
Với nội dung này, theo chúng tôi, để phù hợp vói vận tải container, vận
tải từ cửa tới cửa, giao hàng thông qua người đổi lý, người giao nhận, người
gom hàng đang ngày càng phổ biến, luật Hàng hải Việt Nam nên qui định
như sau: Nếu k h i nhận hàng m à người chuyên chở chỉ cấp vận đơn chưa xếp
hàng thì người chuyên chở có nghĩa vụ cấp vân đơn đã xếp hàng cho người gửi
hàng sau k h i hàng hoa đã được xếp lên .tầu thay cho qui định cũ là "vãn đơn
là bằng chứng của việc người chuyên chở đã nhận hàng lên tầu".
1.6. Về trách nhiệm cửa người chuyên chở đối vói hàng xếp trên
Luật Hàng hải v i ệ t Nam không qui định trách nhiệm của người chuyên
chở đối với hàng hoa xếp trên boong và súc vật sống, m à cho phép người
chuyên chở được tự đo thoa thuận với người gửi hàng về trách nhiệm của mình
đối với hàng hoa xếp trên boong và súc vật sống. Hiện nay, hàng hoa ngày
càng được vân chuyển nhiều bằng container nên việc xếp hàng (container)
trên boong là chuyện thông thường, nhu cầu buôn bán, vận chuyển súc vật
88
sống cũng ngày càng tăng lên, tầu ngày càng hiện đại, vì thế việc vân chuyển
súc vật sống thuận lợi và ít rủi ro hơn. Vì vậy, luật Hàng hải v i ệ t Nam nên
đưa qui định về trách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hoa xếp trên
boong và súc vật sống, để việc vận chuyển hàng xếp trên boong và súc vật
sống có chuẩn mực như những loại hàng hoa thông thường, không nên bặ ngặ
vấn đề này để tuy người chuyên chở và người gửi hàng tự thoa thuận vói nhau.
1.7. Về trách nhiệm cửa nguôi chuyên chở đổi vói việc chấp nhậu thu
bảo đảm
Luật Hàng hải Việt Nam không có qui định đối với thư báo đảm, do
đó nếu không giao hàng thật hoàn hảo thì người gửi hàng sẽ không thanh toán
hoặc khó khăn trong việc thanh toán tiền hàng. Trong thực tế việc giao hàng
hoàn hảo là một điều không thể thực hiện được, ví dụ: Vận chuyển hàng
nghìn thùng dầu cọ từ Phú thọ tới Hải Phòng để giao cho người chuyên chờ
chỉ có thể thực hiện bằng đường sắt hoặc đường ô tô. Trong quá trình vận
chuyển đường bộ, chắc chắn các thùng dầu cọ sẽ bị va đập, bị móp, méo. Tuy
nhiên điều này không làm ảnh hưởng gì đến chất lượng hàng giao, nhưng nếu
người chuyên chở cứ ghi lên trên vận đơn là 100 thùng bị méo, bị bẹp thì
người xuất khẩu không thanh toán được tiền hàng. Song nếu không ghi gì bảo
lưu lên trên vận đơn thì người chuyên chở không yên tâm khi kí phát vận đơn.
Điều này dãn đến một ý nghĩ là cần phải có một sự thoa hiệp giữa người
chuyên chở với người gửi hàng để người gửi hàng có vận đơn hoàn hảo còn
người chuyên chở yên tâm nếu hàng hoa bị tổn thất do những điều mình dự
đoán, định ghi lên vận đơn nhưng lại không ghi thì còn đòi được người chuyên
chở. Với ý nghĩ như vậy thì luật hàng hải Việt Nam nên đưa qui định về trách
nhiệm của người chuyên chở với việc chấp nhận thư bảo đảm, nhưng qui định
rõ thư bảo đảm chỉ có giá trị nội bộ giữa người chuyên chở với người gửi
hàng.
1.9. Về trách nhiệm của người chuyên chỏ thực sụ và người chuyên
chỏ theo họp dồng.
Luật Hàng hải Việt Nam không có qui định về trách nhiệm của người
89
chuyên chở và người chuyên chở thực sự m à chi qui định về trách nhiệm cun
người chuyên chở nói chung, hay nói cách khác là luật Việt Nam chí nói tới
một loại người chuyên chở, hay mới chỉ quan tâm tới người chuyên chở thực
sự chuyên chở hàng hoa tức là người chuyên chở thực sự. Ngày nay do nhu
cẩu vận chuyển từ cửa tới cửa, nhu cầu tạo ra một đầu m ữ i vận chuyển duy
nhất, vì thế việc vận chuyển hàng hoa thường được thực hiện bởi những người
thầu vận tải (ngươi chuyên chở theo hợp đồng), họ có thể có hoặc không có
phương tiện vận tải nhưng đứng ra (ổ chức vạn chuyển hòng hoa, kí kế! hợp
đổng vận tải với chủ hàng và chịu trách nhiệm thực hiện hợp đồng vận tải. Vì
vậy, luật Hàng hải Việt Nam cần phải có qui định về trách nhiệm cùa người
chuyên chở thực sự và người chuyên chở theo hợp đồng cho phù hợp với sự
được qui định trong IMS. M ộ t trong những nguyên nhân là luật Việt Nam
được ban hành năm 1990 và có hiệu lực 1/1/1991, khi m à I M S chưa được ban
hành. Đ ả m bảo an toàn hàng hải là một nội dung rất quan trọng liên quan đến
trách nhiệm của người chuyên chở về việc cung cấp một con tầu đủ khả năng
đi biển và khả năng khắc phục sự cữ trong hành trình. Vì vậy, rất cần thiết
phải đưa những nội dung chủ yếu của IMS vào luật Hàng Việt Nam , phán qui
định trách nhiệm của người chuyên chở. Cụ thể, có thể qui định như sau: Chủ
tầu và hãng tầu phải tìm cách làm cho tầu đáp ứng được yêu cầu của bộ luật
IMS. K h i có yêu cầu, chủ tầu phải cung cấp bản sao của chứng từ phù hợp
(DÓC) và giấy chứng nhận quản lý an toàn (SMC) cho người thuê tầu. Trừ k h i
có những qui định khác trong hợp đồng thuê tầu, chủ tầu phải chịu trách
nhiệm về mít mát, hư hỏng, CỊỊÌ phí, hoặc chậm trễ phát sinh từ từ việc không
90
2. M ộ t sô giải pháp và kiên nghị góp phần hoàn thiện n h ữ n g q u i
định về trách n h i ệ m của nguôi chuyên c h ở hàng không theo luật hàng
Những qui định về trách nhiệm của người chuyên chở hàng không dược
qui định trong luật hàng không dân đụng Việt Nam 1992 về cơ bản tương tự
như các Công ước và qui tắc quốc tế về vận tải hàng không.
Có hai nội dung cần sấa đổi và hoàn thiện đối với luật hàng không dẫn
đụng Việt Nam . Thứ nhất, về thời hạn trách nhiệm của người chuyên chở, luật
hàng không Việt Nam qui định trách nhiệm của người chuyên chở đôi với
hàng hoa kể từ khi nhận hàng tới k h i người chuyên chở giao hàng. Qui định
về trách nhiệm của người chuyên chở hàng không về mặt thời gian và không
gian như vậy vừa quá rộng lại vừa không rõ ràng. N h ư đã nói, nơi nhận hàng
và nơi giao hàng có thể là cảng hàng không, có thể là một nơi nào khác và
cũng có thể là kho của người giao nhận hàng. Trong trường hợp phải chịu
trách nhiệm đ ố i với hàng hoa từ kho đến kho thì trách nhiệm của người
chuyên chở hàng rộng, điều này chưa hoàn toàn phù hợp với điều kiện của
Việt Nam , khi cơ sở hạ tầng đường sắt, đường ô tô của Việt Nam còn rất lạc
hậu, gây khó khăn cho người chuyên chở hàng không với việc giao hàng từ
cấa tới cấa. M ặ t khác các Công ước quốc tế về V T H K đ ề u qui định thời hạn
trách nhiệm của người chuyên chở hàng không từ san bay tới sân bay. Vì thế
luật hàng không dân đụng v i ệ t Nam cũng nên qui định là người chuyên chở
hàng không chỉ phải chịu trách nhiệm đối với hàng hoa như Công ước Vác - sa
- va đã q u i định là: Người chuyên chở hàng không chịu trách nhiệm đối với
Thứ 2, luật hàng không V i ệ t Nam q u i định 4 miễn trách cho người
chuyên chở. X u hướng ngày nay, k h i q u i định trách nhiệm của người chuyên
chở, các Công ước quốc tế thường không q u i định m ộ t số trách nhiệm và một
số miễn trách nhiệm cho người chuyên chở, vì điều này dẫn đến l ấ t nhiều
tranh chấp k h i thực hành, bởi vì k h i có tổn thất xẩy ra, muốn qui kết trách
nhiệm cho người chuyên chở, người ta cứ phải xem điều đó có thuộc trách
91
n h i ệ m và ngoài m i ễ n trách c ủ a người chuyên c h ở h a y không. T r a n h c h ấ p sẽ
không.
hàng không nên d ự a trên nguyên tắc s u y đoán l ỗ i . T ứ c là, t ổ n thất về hàng h o a
92
KẾT LUẬN
Vận tải đường biển và đường hàng không là những vấn đề lất quan
trọng đôi với mua bán quốc tế vì hai phương thức này vận chuyển hầu hêl
hàng hoa trao đổi giữa các nước. Đây là một lĩnh vực được nhiều người, nhiều
tổ chức quan tâm cả về mặt lý luận và thực tiện và cũng đang được Nhà nước
Thông qua kết cấu và nội dung của đề tài, tác giả đã tập hợp, phân tích,
- Những vấn đề cơ bản của ngành vận tải đường biển và dường hàng
không thế giới nêu bật vai trò, triển vọng phát triển của nó trong vận tải
quốc tế.
- Chú trọng trình bầy, phân tích cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật
phục vụ vận tải hàng hoa, nhất là hàng hoa X N K bằng đường biển và đường
hàng không. Đây là lĩnh vực nguôi kinh doanh hàng không cũng như người
quản lý ngành rất quan tâm
- Hệ thống hoa những vấn đề lý luận chung về chuyên chở hàng hoa xuất
nhập khẩu bằng đường hàng không.
- Đ ặ c biệt đề tài tập trang nghiên cứu, phân tích và trình bầy những nội
dung cơ bản về trách nhiệm của người chuyên chở đường biển cũng như trách
nhiệm của người chuyên chỏ- hàng không đối với hàng hoa xuất nhập khẩu.
- Trên cơ sỏ' nghiên cứu trách nhiệm của người chuyên chở dược qui
định trong các Công ước, qui tắc quốc tế, đề tài đã xem xét nghiên cứu và trình
bầy những nội dung về trách nhiệm của người chuyên chở theo Luật Hàng Hải
và Luật Hàng không dân dụng Việt Nam . Đ ồ n g thòi, đề tài đã phân tích so
sánh và chỉ rõ các điểm tương đồng và khác biệt giữa các qui định của Luật
Việt Nam với các Công ước quốc tế về trách nhiệm của người chuyên chở.
Điều này giúp chúng ta có cơ sở để hình dung và hiểu rõ hơn các qui định
mang tính luật pháp của Việt Nam góp phần hoàn thiện hơn nữa Luật hàng hải
và hàng không của V i ệ t Nam trên con đường hội nhập khu vực và toàn cầu.
93
TÀI LIỆU T H A M K H Ả O
I. Những qui định pháp Ì ít ẠÌ cún Việt Nam và Công ước quốc lê về giao
2. Hệ thống các văn bản pháp luật về hàng không dan dụng. N X B Thống kê
Hà nội 1999.
3. Bộ Luật hàng hải Việt Nam . N X B Chính trị quốc gia 1993.
4. Các Công ước quốc tế về vận tải và hàng hải. N X B Giao thông vặn tải
1999.
5. Các Công ước quốc tế về hàng không dan đụng.
6. Một số điểm cơ bản trong luật hàng hải và thương mại. Ban khoa học xã
Nội, 12/1999.
li. Bộ luật quản lý an toàn quốc tế (bộ luật IMS), Cục Đăng Kiểm Việt Nam
1997.
94