Professional Documents
Culture Documents
Ôn tập
Mã vạch DNA như một công cụ mới để truy xuất nguồn gốc thực phẩm
Andrea Galimberti đến, Fabrizio De Mattia đến, Alessia Losa đến, Ilaria Bruni đến, Silvia Federici đến, Maurizio
Casiraghi đến,
Stefano Martellos b, Massimo Labra đến,⁎
đế
n
Đại học Milano-Bicocca, ZooPlantLab, Khoa Công nghệ sinh h ọc và Khoa h ọc sinh h ọc, Piazza della Scienza 2, 20126 Milan, Ý
b Đại học Trieste, Khoa Khoa học Đời sống, qua L. Giorgieri 10, 34127 Trieste, Ý
a t i s ô ei nf
trừu tượng
hoặc là
An toàn và chấ t lượng thực phẩm ngày nay đang là mố i quan tâm hàng đầ u. Bất kỳ trường hợp biến tướng thực
Lịch sử bài viế
t:
Nhận ngày 4 tháng 5 năm 2012 phẩm nào, nhấ t là khi được báo chí đưa tin đều gây ảnh hưởng lớn đế n dư luận. Ngày càng có nhiề u nhu cầ u
Được chấ p nhận ngày 14 tháng 9 đố i với việc cải tiế n các biện pháp kiểm soát chất lượng, do đó đềcập đế n việc nghiên cứ u khoa học nhằ m phát
năm 2012 triển các công c ụ phân tử đáng tin cậy để phân tích thực phẩm. Mã vạch DNA là một hệ thố ng dự a trên phân tử
Có sẵn trực tuyế n ngày 2 tháng 10 được sử dụng rộng rãi, có thể xác định các đặc điểm sinh học và được sử dụng để xác đ ịnh c ả nguyên liệ u thô và
năm 2012
thực phẩm đã qua chếbiế n. Trong tổng quan này, kết quả của một sốnghiên cứ u được phân tích nghiêm túc,
nhằ m khai thác hiệu quả của mã vạch DNA trong khả năng truy xuấ t nguồ n gốc thực phẩm, và xác định một số
Từ khóa:
Mã vạch DNA thực tiễn tố t nhấ t trong việc áp dụng mã vạch DNA trong toàn bộ quy trình công nghiệp.
An toàn thực © 2012 Elsevier Ltd. Mọi quyền được bảo
phẩm Truy xuấ t lưu.
nguồ n gố c thực
phẩm Nguyên
liệu
Gian lận thương mại
Nhận dạng loài
Nội dung
1. Giới thiệu55..................................................................................................................................................................................................................................
2. Từ cách tiếp cận dựa trên phân tử đố i với DNA mã vạch56..........................................................................................................................................................
3. Mã vạch DNA để xác định và ch ứng nh ận thực ph ẩm t ươi số ng vật chấ t57..................................................................................................................................
3.1. Truy xuất nguồn gố c thủy sản và CÁ BOL57.................................................................................................................................................................................
3.2. Mã vạch DNA và truy xuấ t nguồ n gố c thịt: vấ n đềcủa việc thiế u date58.........................................................................................................................
3.3. Mã vạch DNA của các sản phẩm sữa: một tiề m năng ứng dụng58....................................................................................................................................
3.4. Mã vạch DNA của thức ăn được thực v ật58 .......................................................................................................................................................................
4. Mã vạch DNA như một công c ụ truy xuấ t nguồ n gố c trong công nghiệp thực phẩm xử lý59.......................................................................................................
4.1. Tính toàn vẹn của DNA trong công nghiệp th ực ph ẩm quy trình59 .................................................................................................................................
4.2. Đặc điểm của thức ăn hỗn hợp sản phẩm59 ......................................................................................................................................................................
5. An toàn thực phẩm và thương mại lừa đ ảo60...............................................................................................................................................................................
6. Kết luận 60.................................................................................................................................................................................................................................................
Tài liệu tham khảo 61................................................................................................................................................................................................................
1. Giới thiệu bảo quản và nâng cao các đặc tính cảm quan của sản phẩm. Việc kiểm
soát chất lượng được thực hiện bằng các thử nghiệm khác nhau trong
Nguyên liệu thô chấ t lượng cao là yế u tốcơ bản để sản xuấ t thực phòng thí nghiệm, là điểm khởi đầu bắ t buộc cho một hệ thống truy
phẩm với đầ y đủ giá trị dinh dưỡng và hương vị mong muố n xuất nguồn gốc thực phẩm thích hợp. Các chính phủ có các hướng dẫn
(Konczak & Roulle, 2011; Pereira, Barros, Carvalho và Ferreira, 2011). quốc gia khác nhau vềsản xuất và bảo quản thực phẩm (ví dụ: xem các
Ngành công nghiệp thực phẩm đã phát triển một sốquy trình công khuyến nghị của Tổ chức Y tếThếgiới— www.who.int/foodsafety/fs_
nghệ (ví dụ như lọc vi mô, xử lý siêu nhiệt) và công nghệ sinh học (ví dụ: quản lý / infosan / en / hoặc các quy định như EC / 178/2002 của Châu
lên men) để Âu), trong khi việc xác định các thử nghiệm nào nên được sử dụng để
đánh giá chất lượng và an toàn thực phẩm là trách nhiệm của một sốcơ
⁎ Đồng tác giả. ĐT .: +39 02 64483472; fax: +39 02 64483450. quan độc lập, chẳng hạn như Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược
Địa chỉ email: massimo.labra@unimib.it (M. Labra). phẩm Hoa Kỳ,
0963-9969 / $ - xem vấ n đềphía trước © 2012 Elsevier Ltd. Mọi quyề
n được bảo lưu.
http://dx.doi.org/10.1016/j.foodres.2012.09.036
A. Galimberti và cộng sự. / Food Research International 50 (2013)
5 55–63
và Cơ quan An toàn Thực phẩm Châu Âu. Nhu cầ u vềcác hệ thố ng các khía cạnh khác nhau, bao gồm sốlượng biến thể di truyền của các loài
truy xuấ t nguồ n gố c thực phẩm đáng tin cậy đã gi ải quyế t các phân giải, thời gian cần thiết để phân tích, tỷ lệ chi phí / hiệu quả và
nghiên cứu khoa học, do đó t ạo ra các cách tiế p cận phân tích khác chuyên môn của các phòng thí nghiệm. Hơn nữa, các công nghệ bộ gen đòi
nhau cho vấ n đề(Bottero & Dalmasso, 2011; Fajardo, Gonzàlez, hỏi DNA chất lượng cao để hoạt động thành công vì
Rojas, Garcìa, & Martìn, 2010; Hellberg & Morrisey, 2011; Mafra,
Ferreira và Oliveira, 2008). Việc xác nhận tính xác thực của thực
phẩm chủ yế u dựa vào việc phân tích các proteinvà / hoặc trình tự
DNA. Các phương pháp dựa trên protein bao gồm các xét nghiệm miễn
dịch, kỹ thuật điện di và sắc ký như HPLC và TLC (Fügel, Carle, &
Schieber, 2005; Kurtz, Leitenberger, Carle, & Schieber, 2010). Mặc
dù có hiệu quả trong việc kiểm tra các sản phẩm tươi, nhưng các ph ương
pháp tiếp cận dựa trên protein có hiệu quả thấ p khi áp dụng để phân
tích các loại thực phẩm đã qua chếbiến nhiều. Trong những trường hợp
này, các phương pháp dựa trên DNA có hiệu quả hơn và cũng có thể
được áp dụng cho các nền thực phẩm khác nhau (Lockley & Bardsley,
2000; Mafra và cộng sự, 2008 ). Hơn nữa, DNA có nhiề u thông tin
hơn protein và cũng có thể được chiế t xuấ t dễ dàng khi có các vế t
nhỏ của vật liệu hữu cơ (Hellberg & Morrisey, 2011).
Nhờ những tiế n bộ gần đây trong sinh học phân tử, dấ u hiệu DNA đã
trở thành công cụ hiệu quả nhấ t trong phân tích DNA của giố ng cây
trồ ng và động vật, và cũng được sử dụng để theo dõi nguyên liệu thô
trong các quy trình công nghi ệp thực ph ẩm ( Kumar, Gupta, Misra,
Cách, & Pandey, 2009; Mafra và c ộng s ự, 2008; Woolfe & Primrose,
2004). Mục đích của bài đánh giá hiện tại là tóm tắ t hiện đại vềviệc sử
dụng mã vạch DNA như một công cụ phổ quát để truy xuấ t nguồ n
gố c thực phẩm.
2. Từ các phương pháp tiếp cận dựa trên phân tử đến mã vạch
DNA
Nói chung, các phương pháp dựa trên DNA sử dụng trình tự
DNA cụ thể làm điểm đánh dấ u và có thể được chia thành i) các dấ u
hiệu dựa trên lai ghép, và
ii) Đánh dấu dựa trên phản ứng chuỗi polymerase (PCR). Trong các
phương pháp dựa trên lai ghép, DNA pro-les đặc biệt của loài được phát
hiện bằng cách lai DNA được tiêu hóa bởi các enzym giới hạn, và so
sánh nó với các mẫu dò được đánh dấu (các đoạn DNA có nguồn gốc
hoặc trình tự đã biế t). Các phương pháp dựa trên PCR liên quan đến
việc khuếch đại các locus đích bằng cách sử dụng các đoạn mồi đặc biệt
hoặc tùy ý, và một enzym DNA polymerase. Các mảnh vỡ sau đó đ ược
phân tách theo phương pháp điện di, và các mẫu dải được phát hiện
bằng các phương pháp nhuộm khác nhau, chẳng hạn như chụp tự động.
Các phương pháp dựa trên PCR cực kỳ nhạy, thường nhanh hơn các
công nghệ khác và được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp và công nghệ
vườn thú (Doulaty Baneh và cộng sự, 2007; Grassi, Labra, & Minuto,
2006; Labra và cộng sự, Năm 2004; Bờm, Tanwar, Girish,& Dixit, 2006;
Teletchea, Maudet, & Hänni, 2005). Các chỉ thị phân tử liên tục như vậy vì
RAPD, AFLP, cũng như các biến thể của chúng (tức là ISSR, SSAP,
SAMPL) đã được sử dụng thành công trong việc mô tả các loại nguyên
liệu thô khác nhau (Chuang, Lur, Hwu, & Chang, 2011; Fajardo và cộng
sự, 2010; Mafra và cộng sự, 2008; Nijman và cộng sự, 2003). Trong
những năm gần đây, điện di gel gradient biến tính PCR (PCR-DGGE)
đã được sử dụng phần lớn trong lĩnh vực truy xuất nguồn gốc và an toàn
thực phẩm để xác định đặc tính của vi khuẩn và nấm men trong các sản
phẩm lên men (Dalmacio, Angeles, Larcia, Balolong, & Estacio, 2011;
Muyzer,De Waal, & Uitterlinden, 1993; Peres, Barlet, Loiseau, &
Montet, 2007; Zhengvà cộng sự, 2012). Bằng cách sử dụng kỹ thuật này,
thành phần cơ quan vi mô được xác định dựa trên mô hình di chuyển
của các đoạn PCR thuộc các vùng gen cụ thể như 16S và 26S rDNA ( El
Sheikha và cộng sự, 2009). PCR-DGGE cũng đã được sử dụngđể giám sát
sự ô nhiễm vi khuẩn trong các sản phẩm thực phẩm nh ư đồuống lên
men (Hosseini, Hippe, Denner, Kollegger, & Haslberger, 2012) và de fi ne
nguồn gốc của nguyên liệu thô bắt đầu từ các đặc điểm của cộng đồng
nấm men hoặc vi khuẩn của nó như trong trường hợp trái cây (El
Sheikha, Bouvet, & Montet, 2011; El Sheikha, Durand, Sarter, Okullo, &
Montet, 2012; El Sheikha, Métayer, & Montet, 2011) và fi sh (Le Nguyen,
Ha, Dijoux, Loiseauet, & Montet, 2008; Montet, Le Nguyen, & El
Sheikha, 2008).
Việc lựa chọn cách tiế p cận phân tử phù hợp nhấ t phụ thuộc vào
A. Galimberti và cộng sự. / Food Research International 50 (2013)
hiệu quả có thể bị tiêu cực khi không bị cản trở55–63 bởi DNA bị thay gen plastidial, chẳng hạn như rpoB, rpoC1 và rbcL được bảo tồn nhiều 5
đổi hoặc bị phân mảnh (Hellberg & Morrisey, 2011; Meusnier và nhất hoặc một phần của matK, cho thấy tốc độ tiến hóa nhanh, đã được
cộng sự, 2008; Pafundo, Agrimonti, Maestri và Marmiroli, đềxuất làm vùng mã vạch ( Shaw, Lickey, Schilling & Small, 2007). Các
2007). chất đệm intergenic như trnH-psbA,
Đố i với các hệ thố ng dựa trên trình tự, hiện nay, đa hình
Nucleotide đơn (SNP) và lặp lại trình t ự đơn giản (SSR), được sử
dụng phầ n lớn vì mức độ đa hình cao và kh ả năng tái t ạo cao
(Kumar và cộng sự, 2009 ). Những cách tiế p cận này được sử
dụng cả trong việc xác định giố ng cây trồ ng ( Labra và cộng sự,
2003; Pasqualone, Lotti, & Blanco, 1999) và giố ng vật nuôi
(Nijman và cộng sự, 2003), và để ngăn chặn các hoạt động
thương mại gian lận ( Chuang et al., 2011). Tuy nhiên, với tính
chấ t đặc trưng loài cao, nh ững cách tiế p cận này yêu cầ u quyề n
truy cập vào trình tự DNA chính xác của các sinh v ật (ví d ụ:
chủng / giố ng hoặc sinh thái), và ứng dụng của chúng thường bị
giới hạn ở một đơn vị phân loại đơn lẻ hoặc các đơn vị phân loại
có liên quan chặt chẽ.
Thiế u cả tiêu chuẩn hóa và tính phổ biế n là vấ n đềcó liên quan
nhấ t của các phương pháp tiế p cận dựa trên DNA. Năm 2003,
một hệ thố ng nhận dạng mới, mã vạch DNA, được phát triển bởi
các nhà nghiên cứu tại Đại học Guelph (Canada). Cách tiế p cận
này dựa trên việc phân tích sự biế n đổi trong vùng tiêu chuẩn của
bộ gen được gọi là "mã vạch DNA" ( Hebert, Ratnasingham, &
deWaard, 2003). Cách tiế p cận này tỏ ra hữu ích trong việc giải
quyế t các vấ n đềphân loại trong một sốứng dụng lý thuyế t và thực
tiễn (Hollingsworth, Graham, & Little, 2011; Rasmussen,
Morrissey, & Hebert, 2009; Valentini, Pompanon,& Taberlet,
2009). Trongtheo nghĩa chặt chẽ, mã vạch DNA không ph ải là
hoàn toàn đổi mới, bởi vì các ph ương pháp nhận dạng phân tử đã
được sử dụng. Tuy nhiên, nó có lợi thếlà kế t hợp ba đổi mới
quan trọng: phân tử hóa các quy trình nhận dạng (tức là điề u tra
sự biế n đổi DNA để phân biệt giữa các đơn vị phân loại), tiêu
chuẩn hóa quy trình (từ thu thập mẫu đế n phân tích đầ u ra phân
tử) và máy tính hóa ( tức là sự chuyển v ị không th ừa của dữ li ệu
bằ ng tin học) (Casiraghi, Labra, Ferri, Galimberti, & De Mattia,
2010).
Tên mã vạch DNA fi ám chỉ cách th ức một tia hồ ng ngoại
máy quét nhận dạng riêng một sản phẩm bằ ng cách sử dụng các
sọc đen của Mã sản phẩm chung (UPC). Một mã vạch DNA lý
tưởng yêu cầ u hai đặc điểm cơ bản: phạm vi phân loại cao và độ
phân giải cao ( Hebert và cộng sự, 2003 ). Mức độ bao phủ phân
loại cao (còn được g ọi là 'tính phổ quát') đềcập đế n sự khuế ch
đại chính xác của vùng gen được chọn làm mã vạch DNA trong
bảng phân loại rộng nhấ t. Mặt khác tay, độ phân giải cao đảm bảo
tính đồng nhất
phân loại, dựa trên sự khác biệt giữa các đặc hiệu trong trình tự mã
vạch DNA. Vềnguyên tắc chung, các vùng mã vạch DNA phải có độ
biến thiên interpeci cao và độ biến thiên intraspeci thấ p.
Phần cuối 5 của gen cox1 ti thể được gợi ý bởi Hebert và cộng sự.
(2003) làm vùng mã vạch DNA tiêu chuẩn cho các siêu thị. Khu vực
này không đảm bảo một giải pháp phân loại hoàn chỉnh, nhưng nó
hứa hẹn sự gần gũi (Hebert & Gregory, 2005). Dựa trên kết quả sơ
bộ vềkhả năng phân biệt cox1, các mẫu vật đã được xác định chính
xác ở cấp độ loài với tỷ lệ thành công dao động từ 98 đến 100% ở
chim (Hebert, Stoeckle, Zemlak và Francis, 2004), fi sh (Ward,
Zemlak, Innes, Last, & Hebert, 2005), và trong một sốnhóm động
vật khác (Ferri và cộng sự, 2009; Galimberti, Martinoli, Russo,
Mncedda, & Casiraghi, 2010; Galimberti và cộng sự, 2012;
Hajibabaei và cộng sự, 2006). Ngày nay, vùng này được coi là mã
vạch DNA phổ biến cho các metazoans và được sử dụng để phân biệt
tốt hơn các đơn vị phân loại có liên quan chặt chẽ với nhau
(xemUthicke, Byrne, & Conand, 2010; Wong và cộng sự, 2011 ), hoặc
để xác định các sinh vật từ các bộ phận của chúng, và cả t ừ các dấu
vế t của vật liệu sinh học (Dawnay, Ogden, McEwing, Carvalho &
Thorpe, 2007; Shokralla, Ca sĩ, & Hajibabaei, 2010; Vargas và cộng
sự, 2009). Ở thực vật trên cạn, DNA ty thể có tốc độ thay thếchậm
hơn so với meta-zoans và cho thấy sự tái tổ hợp nội phân tử ( Máy
cắ t cỏ, Touzet, Gummow, Delph, & Palmer, 2007), do đó hạn chếđộ
phân giải của nó trong định danh. Nghiên cứu vềmột chất tương tự
của cox1 ở thực vật trên cạn đã tập trung vào bộ gen plastid. Một số
atpF-atpH và psbK-psbI cũng đã được thử nghiệm, vì tốc độ tiến hóa gai, là
nhanh của chúng (Fazekas và cộng sự, 2008, 2009). Năm 2009, Nhóm
công tác về Nhà máy CBoL (Consortium for the Barcode of Life)
(Hollingsworth và cộng sự, 2009), đềxuất sử dụng kết hợp 2 locus của
rbcL và matK làm vùng lõi-mã vạch, vì tốc độ thu hồi đơn giản của rbcL
và độ phân giải cao của matK. Thật không may, matK lại khó khuếch
đại bằng cách sử dụng một cặp mồi duy nhất ( Dunning & Savolainen,
2010). Ngược lại, mặc dù độ phân giải hạn chếcủa nó, rbcL ít có vấn đề
hơn vềkhả năng khuếch đại, sắ p xếp trình tự và liên kết, và cung cấp
một xương sống hữu ích trong việc tạo ra các bộ dữ liệu mã vạch DNA
thực vật (De Mattia và cộng sự, 2012 ). Trong sốcác trình tự khác, bộ
đệm giữa gen trnH-psbA dễ dàng khuếch đại và có sự biến đổi di truyền
cao giữa các đơn vị phân loại có liên quan chặt chẽ ( Bruni và cộng sự,
2010; Kress và cộng sự, Năm 2010; Shaw và cộng sự, 2007). Vùng ITS
hạt nhân cũng được chỉ định là vùng mã vạch DNA bổ sung ( Li và cộng
sự, 2011). Mặc dù vẫn còn tranh luận vềhiệu quả của những dấu hiệu
này, đặc biệt là khi người dùng đang xử lý các đơn vị phân loại có liên
quan chặt chẽ, mã vạch DNA cho thấy kế t quả nhất quán khi được sử
dụng để xác định các mẫu vật chưa biế t dựa trên việc so sánh với các
trình tự tham chiếu (Burgess và cộng sự, 2011; De Mattia và cộng sự,
2012).
Mặc dù cách tiế p cận phân tử vềcơ sở mã vạch DNA không phải là
mới đối với khoa học, sức mạnh của phương pháp này dựa vào s ự s ẵn có
của một nền tảng quốc tế. BOLD (Cơ sở dữ liệu mã vạch sự sống), được
điều phối bởi Dự án Mã vạch sự sống Quốc tế(iBOL), là một kho lưu
trữ, hỗ trợ việc thu thập mã vạch DNA, với mục đích t ạo ra một th ư viện
tham khảo cho tấ t cả các loài sống (Ratnasingham & Hebert, 2007).
BOLD được sử dụngđể liên hệ mã vạch DNA nhất định với cả mẫu vật đã
được xác nhận và các chuỗi mã vạch DNA khác thuộc cùng một đ ơn v ị
phân loại giống nhau hoặc khác nhau. Nền tảng này bao gồm một số
thành phần, trong đó công cụ Công cụ định danh (BOLD-IDS) là một
trong những thành phần hữu ích nhất. BOLD-IDS cung cấp một công
cụ xác định loài chấp nhận trình tự mã vạch DNA và trả vềphân loại
phân loại cho cấp độ loài bất cứ khi nào có thể. Động cơ này giả định
nhận dạng loài chính xác cho sự khác biệt vềgen lên đến 99%. Bất kỳ
nhà nghiên cứu nào cũng có thể sử dụng BOLD-IDS và, nếu hồsơ tham
chiếu vềmột mẫu vật không xác định có sẵn trong cơ sở dữ liệu, hệ
thống sẽ cung cấp thông tin nhận dạng ở cấp bậc loài hoặc danh sách
các đơn vị phân loại liên quan đến mẫu vật đó. BOLD là một nguồn
đáng tin cậy cho cả mục đích tìm kiếm lại và cho các ứng dụng thực tế ,
Việc nhận dạng các sinh vật là cơ bản để đảm bảo các tiêu chuẩn chất
lượng cao cho ngành công nghiệp thực phẩm và thị trường ( Myers,
2011; Novak, Gruber-Gréger và Lukas, 2007). Mã vạch DNA có hiệu
quả trong việc chứng nhận cả nguồn gốc và chất lượng của nguyên liệu
thô, và để phát hiện các tạp nhiễm (ví dụ như do trộn các s ản phẩm t ừ
các đơn vị phân loại khác nhau) xảy ra trong chuỗi thực phẩm công
nghiệp. Tuy nhiên, hiệu suất của nó bị ảnh hưởng mạnh bởi sự biến đổi
phân tử của các sinh vật và mức độ phân giải cao đạt được khi một sinh
vật có tính đa hình trong phân tử thấp, làm cho nó dễ phân biệt với các
đơn vị liên quan chặt chẽ (Casiraghi và cộng sự, 2010; Hebert và cộng
sự, 2003).
Một yếu tốquan trọng khác có thể là sự sẵn có của các vị trí chất
lượng cao của các chuỗi tham chiếu. Vì lý do này, một sốlượng lớn trình
tự mã vạch DNA từ động vật và thực vật (bao gồm cả các loài nuôi) đã
được gửi trong suốt 10 năm qua cho cả cơ sở dữ liệu NCBI và BOLD
(www.barcodeo fl ife.org), theo các dòng hướng dẫn do Nhóm Công tác
Cơ sở dữ liệu cung cấp (http: // mã vạch.
si.edu/PDF/DWG_data_standards-Final.pdf).
Mã vạch DNA đã được chứng minh là đặc biệt hiệu quả trong việc
truy xuất nguồn gốc của hải sản ( Becker, Hanner và Steinke, 2011).
Thuật ngữ "hải sản" thường được sử dụng để chỉ các dạng sống dưới
nước có thể ăn được, bao gồm fi sh, nhuyễn thể, động vật giáp xác và da
có sẵn trên thị trường dưới dạng toàn bộ sinh vật, hoặc dưới dạng nguồn gốc” đáng tin cậy.
sản phẩm đã qua chếbiế n. Các loài hải sản thường được xác định
theo khu vực xuấ t xứ của chúng và theo một sốmô tả hình thái
học. Tuy nhiên, nhu cầ u thủy sản ngày càng tăng và sự toàn cầ u
hóa của thị trường đã khiế n việc kiểm soát cả các tuyế n đường
thương mại và các hệ thố ng chếbiế n công nghiệp (như hệ thố ng
bảo quản, cấ p đông, sấ y khô) trở nên khó khăn hơn. Ngoài ra, một
sốloài mới đã được giới thi ệu trên thị trường. Đôi khi, những “sinh
vật mới” này có cùng tên thương mại với các sinh vật trước đây trên
thị trường, nhưng không tương ứng với cùng một loài. Chúng cũng
có thể có các giá trị dinh dưỡng khác nhau và / hoặc có khả năng
kháng nguyên (Barbuto và cộng sự, 2010).
Mã vạch DNA thành công khi áp dụng cho thủy sản vì:
(1) so với các nguồ n động vật khác (ví dụ như trâu bò, cừu, dê,
ngựa), sốlượng loài nhiề u hơn, do đó hiệu quả của kỹ thuật này
được nâng cao; (2) các phương pháp tiế p cận nhận dạng cổ điển
không hữu ích trong nhiề u trường hợp, đặc biệt là đố i với thực
phẩm đã qua chếbiế n;
(3) ở hải sản nhiề u hơn so với các nhóm số ng khác, nhận dạng
phân tử có thể đi xa hơn cấ p độ loài, cho phép trong một sốtrường
hợp xác định được các giố ng địa phương và do đó xác định được
nguồ n gố c của một sản phẩm nhấ t định.
Một sốnhà nghiên cứu đã thảo luận vềtiềm năng của mã vạch
DNA như một công cụ pháp y để truy tìm nguồn gốc của fi sh ăn được
(xem ví dụ Barbuto và cộng sự, 2010; Smith, McVeagh, & Steinke,
2008; Yancy và cộng sự, 2008 ). Vùng cox1 cho thấy khả năng phân
biệt tốt trong việc xác định các loài (98% các loài biển được khảo sát
và 93% các loài nước ngọt đã được xác định thành công, Khu vực,
Hanner & Hebert, 2009). Các kế t quả thành công cũng thu được bắt
đầu từ một phần nhỏ nguyên liệu tươi hoặc đã qua chếbiến bằng cách
sử dụng một sốtổ hợp mồi phổ biến (xemSteinke & Hanner, 2011).
Cho đến nay, hơn 70.000 chuỗi mã vạch từ 8300 loài (26% tổng
số) đã được lưu trữ trong khuôn khổ của một nghiên cứu hợp tác liên
quốc gia: Sáng kiến Mã vạch Sự sống Cá (FISH-BOL—www. fi
shbol.org). FISH-BOL đại diện cho một trong những nguồn tài
nguyên toàn diện nhất để phân tích fi sh và các sản phẩm thủy
sảnLà(Wt aalr., d2009 ). Hình thành trong 2004, FISH-BOL liên
quan đế n hàng trăm của các nhà nghiên cứu, với mục đích thu được
hồsơ mã vạch DNA tham chiếu cho tấ t cả các loài trên thếgiới. Dữ
liệu FISH-BOL có sẵn dưới dạng tài nguyên công khai dưới dạng cơ sở
dữ liệu điện tử, chứa trình tự mã vạch DNA (hầu hết được cung cấp
miễn phí), hình ảnh của các mẫu tham chiếu và một sốchi tiết lấy
mẫu. Dữ liệu FISH-BOL cũng được lưu trữ và sắ p xếp trong hệ thống
BOLD (Mã vạch của dữ liệu cuộc sống) (Ratnasingham & Hebert,
2007).
Mã vạch DNA được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ
đềxuất để xác thực các sản phẩm thương mại dựa trên fi sh ( Yancy và
cộng sự, 2008). Đặc biệt, FDA Hoa Kỳ đã lên kếhoạch đưa dữ liệu mã
vạch DNA vào Bách khoa toàn thư vềcá theo quy định, để giúp điều
tra vềviệc gắn nhãn sai và thay thếloài fi sh.
Mã vạch DNA cũng đã được chứng minh hiệu quả trong việc theo
dõi hải sản sau quá trình chếbiến công nghiệp. Một sốloài chỉ yêu
cầu một quy trình chính, chẳng hạn như đông lạnh tươi sống để phân
phối cho các nhà bán lẻ và cửa hàng phục vụ thực phẩm tươi sống, do
đó việc bảo tồn các đặc điểm hình thái hữu ích cho việc xác định chính
xác. Tuy nhiên, khi yêu cầu một quy trình sản xuất phức tạp (ví dụ
như các sản phẩm ướp lạnh, đông lạnh và đóng hộp cho ngành bán lẻ
và ăn uống), hoặc trong trường hợp fi sh được bán theo bộ phận (ví dụ
như bít tết, khối, surimi, fi sh que và fi ns) , các quy trình nh ận dạng
cổ điển không hiệu quả và mã vạch DNA có thể hữu ích để thu được
một mã nhận dạng.
Mặc dù hiệu quả đã được chứng minh của nó, một sốnghiên cứu về
việc áp dụng mã vạch DNA trên các loại hải sản khác đã được thực
hiện (ví dụ như cua: Haye, Segovia, Vera, Gallardo và Gallardo-
Escàrate, 2012, holothurians: Uthicke và cộng sự, 2010, tôm hùm:
Naro-Maciel và cộng sự, 2011). Hơn nữa, phương pháp mã vạch DNA
dựa trên cox1 không phải là những cách thích hợp để xác định một số
sinh vật, chẳng hạn như động vật chân bụng ( Meyer & Paulay, 2005).
Cần có nhiều nghiên cứu sâu rộng hơn để xác định khả năng sử dụng
kỹ thuật này trên tấ t cả các loại thủy sản như một “công cụ truy xuất
3.2. Mã vạch DNA và truy xuất nguồn gốc thịt: vấn đềthiếu dữ liệu
một phương pháp đáng tin cậy để kiểm soát tính xác thực của loại th ực
phẩm này, bởi vì một trình tự đích cụ thể (ví dụ: 12S rRNA, 16S rRNA,
Thịt thường phải tuân theo chuỗi sản xuấ t và phân phố i dài, đòi
cytb) có thể được phát hiện trong các chấ t nền có chứa một nhóm DNA
hỏi hệ thố ng truy xuấ t nguồ n gố c thích hợp. Các bệnh lý liên quan
bộ gen không đồng nhất, chẳng hạn như sữa (Mafra và cộng sự, 2008).
đế n thịt làm thực phẩm (ví dụ: BSE, u gia cầ m), và các bệnh lý sai
Trong sốcác ứng dụng của các công cụ phân tử này, có khả năng phát
lầm của một sốnhà sản xuấ t, đã nâng cao nhận thức của cộng đồ ng
hiện sự tạp nhiễm của sữa có giá trị cao hơn bởi sữa bò không được khai
vềnguồ n gố c và chấ t lượng của thịt. Do đó, việc xác định các phương
báo hoặc sự bỏ sót của một loại sữa đã được công bố.Liên quan đến đặc
pháp chính xác và đáng tin c ậy để xác đ ịnh thành phầ n của thịt thực
điểm của nguồn gốc và chất lượng sữa, một ứng dụng thú vị của mã vạch
phẩm là cầ n thiế t, bên cạnh việc sử dụng các nhãn không cung cấ p
DNA đã được mô tả gần đây. RbcL plastidial - dấu hiệu phổ biến nhất
đủ bảo đảm vềnội dung thực tếcủa sản phẩm. Những phương pháp
để mã vạch DNA thực vật - được tìm thấy có thể phát hiện dấu vế t của
mới này sẽ bảo vệ cả người tiêu dùng và nhà sản xuấ t khỏi gian lận,
các đoạn DNA thực vật có nguồn gốc từ thức ăn trong sữa bò tươi và
cũng như bảo vệ động vật khỏi bị khai thác quá mức hoặc buôn bán
trong các phân đoạn của nó (Nemeth và cộng sự, 2004; Ponzoni và
bấ t hợp pháp (Manel, Berthier, & Luikart, 2002). Một loạt các
cộng sự, 2009Điều này mở ra triển vọng mới cho việc truy xuất nguồn
phương pháp tiế p cận dựa trên DNA để xác định nguồ n gốc thịt-ity,
gốc sữa và các sản phẩm từ sữa nói chung. Nhìn chung, để có được một
chẳng hạn như PCR-RFLP, PCR xác định loài và xác định trình t ự PCR,
đặc tính chính xác vềchất lượng của các sản phẩm sữa, một phương
đã được phát triển ( Mane và cộng sự, 2006; Teletchea và cộng sự,
pháp phân tử đa cấp là cần thiết. Đặc biệt, các kỹ thuật giống mã vạch
2005). Những cách tiế p cận này liên quan đế n việc sử dụng ty thể
DNA rấ t hữu ích trong việc cung cấp đặc tính đáng tin cậy của thành
khác với các chấ t đánh dấ u hạt nhân. Gầ n đây,Teletchea, Bernillon,
phần sữa tươi nguyên liệu, trong khi các phương pháp tiếp cận khác như
Duffraisse, Laudet và Hänni (2008) đã đềxuấ t một phương pháp
PCR-DGGE có thể hữu ích để đánh giá thành phần vi sinh vật và xuất
dựa trên microarray, sử dụng các đầ u dò có nguồ n gố c từ
xứ của các sản phẩm sữa đã qua chếbiến (Arcuri, El Sheikha, Rychlik,
cytochrome b, như một công cụ để xác định các loài động v ật có
Piro-Métayer, & Montet, 2013; Borelli, Ferreira, Lacerda, Franco, &
xương số ng thương mại và có nguy cơ tuyệt chủng trong cả thực
Rosa, 2006; Coppola, Blaiotta, Ercolini, & Muskets, 2001; Kẹo,
phẩm và mẫu thịt pháp y. Vùng cytochrome b thể hiện sự đa dạng
Alessandria, Rantsiou, Bertolino và Cocolin, Năm 2010; Ercolini,
giữa các xen kẽ lớn và độ đa dạng trong tếbào thấ p, cũng như các
2004; Ercolini, Frisso, Mauriello, Salvatore và Coppola,
vùng kích thích được bảo tồ n, do đó là một ứng cử viên điển hình
2008).
như vùng mã vạch DNA. Việc lựa chọn cyt b thay vì cox1 ch ủ yế u là
do các lý do thực tế . Vài nghìn trình tự cyt b được lưu trữ trong cơ sở
3.4. Mã vạch DNA của thực vật ăn được
dữ liệu công cộng cho một loạt các loài động v ật có vú ăn được, trong
khi chỉ có một sốtrình tự cox1 có sẵn trong BOLD và GenBank. Tuy
Thực vật là một yế u tốthiế t yế u trong chếđộ ăn uố ng của con
nhiên, mặc dù thiế u dữ liệu, kỹ thuật mã vạch DNA dựa trên cox1 có
người, cả trực tiếp (ngũ cố c là cơ sở của tháp lương thực, tiếp theo là
thể được coi là một phương pháp đáng tin cậy để truy xuấ t nguồ n
rau quả) và gián tiế p (sản phẩm thực vật được sử dụng để làm thức
gố c của thịt động vật có vú (xem Cai và cộng sự, 2011; Francis và
ăn cho gia súc). Hơn nữa, một sốthực vật được sử dụng làm phụ gia
cộng sự, 2010; Luo và cộng sự, 2011 ). Tương tự, đố i với các sản
thực phẩm (ví dụ như đậu nành). Thông tin nh ận d ạng đáng tin c ậy
phẩm thịt gia cầ m, mã vạch DNA dựa trên cox1 có hiệu quả trong
của các loài cây trồ ng, cũng như nguồ n gố c và khả năng xác định
việc nhận dạng (Hebert và cộng sự, 2004), nhưng việc sử dụng nó
nguồ n gốc của chúng, là những yế u tốquan trọng trong lĩnh vực an
trong bố i cảnh truy xuấ t nguồ n gố c thịt vẫn còn hạn chế .
toàn thực phẩm. Trong 20 năm qua, một sốphương pháp PCR đã
Khi áp dụng cho thị trường thịt, các mối quan hệ giữa DNA
được thử nghiệm trên một sốgiố ng cây trồ ng, chẳng hạn như lúa,
trình tự mã vạch và tên loài cần được đánh giá nghiêm túc, bởi vì tên
ngô, lúa miế n, lúa mạch, lúa mạch đen (Pasqualone và cộng sự,
thương mại của một sản phẩm thịt có thể đềcập đến các đơn vị phân tử
1999; Ren, Zhu, Warndorff, Bucheli, & Shu, 2006; Salem và cộng
khác nhau (cái gọi là Đơn vị phân loại hoạt động phân tử, hoặc MOTU,
sự, 2007; Terzi và cộng sự, 2005 ). Những phương pháp này hữu ích
Casiraghi và cộng sự, 2010 ). Ví dụ,Ludt, Schroeder, Rottmann và
cho cả nhà sản xuấ t, những người quan tâm đế nbảo vệ và chứng nhận
Kuehn (2004) cho thấy rõ ràng các khác biệt phân tử nhất quán trong
cây trồng của họ ( De Mattia, Imazio, Grassi và Labra, Năm 2008;
loài Cervus elaphus. Do đó, thịt hươu nên được xác định bằng hai trình
Labra và cộng sự, 2003; Ren và cộng sự, 2006 ), và người tiêu dùng,
tự DNA khác nhau tương ứng với Cervus canadensis (xuất hiện ở châu
những người quan tâm đế n chấ t lượng và nguồ n gốc thực phẩm của
Á và Bắ c Mỹ) và C. elaphus (sống ở châu Âu). Một tình huống tương tự
họ. Sự phổ biế n ngày càng tăng của cây trồ ng biến đổi gen (GM) đã
cũng xảy ra ở các loài chim như trong trường hợp của giống gà tây Anh
làm tăng thêm nhu cầ u vềcác kỹ thuật phân tử để theo dõi các gen
và Mỹ (Meleagris gallopavo) cho thấy sự khác biệt nhất quán vềgen
chuyển (Auer, 2003). Trong gầ n đâynhiều năm, một chip microarray
(Kỳ lạ, Tốt hơn, & Hill, 2003).
DNA đa hợp để nhận dạng đồng thời các GMO, dựa trên các quy định
Cũng có một sốtrường hợp các loài hoặc giống có DNA pro fi le
của các quốc gia khác nhau, đã được phát triển ( Leimanis và cộng sự,
giống nhau. Trong trường hợp này, phương pháp mã vạch DNA sẽ
2006; Nikolic, Taski-Ajdukovic, Jevtic, & Marinkovic, 2009), cũng
không thể trả lại mã nhận dạng chính xác, do đó không thể theo dõi một
như các hệ thố ng tương tự dành cho việc xác định các loài thực vật
sốsản phẩm thịt. Hiện tượng này, do sự lai tạo, tạo ra sự xâm nhập di
truyền, là hiện tượng phổ biến trong chăn nuôi. Gia súc, nơi nhiều và giố ng cây trồng (Agrimonti, Vietina, Pafundo, & Marmiroli, 2011;
giống được bắt nguồn từ các sự kiện lai tạo (xem Kikkawa và cộng sự, Xie, McNally, Li, Leung và Zhu, 2006). Tuy nhiên, như đã thảo luận
2003; Nijman và cộng sự, 2003; Verkaar và cộng sự, 2003 ), là một ví trước, các phương pháp phân tử này có một hạn chếchung là ở thành
dụ điển hình. phốcó nhiều loài đặc trưng của chúng. Do quá trình toàn cầu hóa, ngày
càng có nhiều thực vật có nguồn gốc từ các khu vực khác nhau trên thế
3.3. Mã vạch DNA của các sản phẩm sữa: một ứng dụng tiềm năng giới được cung cấp cho người tiêu dùng, nhưng không có công cụ phổ
biến và đáng tin cậy để nhận dạng chúng. Mã vạch DNA có thể là một
Các sản phẩm từ sữa thường được coi là thực phẩm làm từ sữa của giải pháp thay thếđáng tin cậy cho các phương pháp tiế p cận mã hóa
động vật có vú. Do sự liên quan đế n kinh tế , nguy cơ dị ứng và các DNA trong nhận dạng thực vật, với tỷ lệ hiệu quả / chi phí cao hơn. Trên
thực hành tôn giáo liên quan đế n loại sản phẩm này, việc phát triển thực tế, mã vạch DNA không đòi hỏi kiến thức sâu rộng vềbộ gen của
các kỹ thuật để đánh giá tính xác thực và sự tạp nhiễm của thực mỗi sinh vật, dựa trên việc sử dụng một hoặc một vài dấu hiệu phổ quát
phẩm có nguồ n gố c từ sữa là một vấ n đềquan trọng hàng đầ u (Hollingsworth và cộng sự, 2011).
Ngày nay, nghiên cứu vềmã vạch DNA trong lĩnh vực thực vật học là
(Mafra và cộng sự, 2008). Việc sử dụng các công cụ phân tử để xác
chuyển từ phân tích hiệu suấ t của các điểm đánh dấ u khác nhau
định đặc tính và theo dõi các sản phẩm sữa đang được nhiề u người
sang các ứng dụng thực tếhơn. Trong sốcác loại thực vật có thể ăn
chấ p nhận (Ponzoni, Mastromauro, Gianì, & Breviary, 2009) ngay
được, phương pháp này đã được sử dụng để theo dõi các lo ại gia v ị
cả khi không có nghiên cứu nào dựa trên cách tiế p cận mã vạch DNA
(De Mattia và cộng sự, 2011 ). Tiế ng nói của các chi Mentha,
nghiêm ngặt. Tuy nhiên, PCR xác định loài đã được chứng minh là
Ocimum, Origanum, Salvia, Thymus và Rosmarinus đ ược phân
tích bằng cách sử dụng vùng mã v ạch lõi (matK + rbcL), và b ộ
đệm xen kẽ trnH-psbA. Với mã vạch DNA, hầ u hết các loại gia vị
phổ biến có thể được xác định, ngoại trừ kinh giới và oregano,
thuộc cùng một chi
Rau kinh giới, có sự đa dạng trong phân tử cao hơn so với giữa các phân định động vật hoặc
tử, do một sốtrường hợp lai tạp.
Mã vạch DNA đã cho thấy hiệu suất cao trong việc phân biệt các loài
húng quế: matK và trnH-psbA có thể phân biệt húng quếthương mại
(Ocimum basilicum L) với các loài Ocimum khác, cũng như các giống
húng quếkhác nhau.
Mã vạch DNA cũng được sử dụng để điề u tra mố i quan hệ di
truyề n giữa cây hoang dã và cây trồ ng, cũng như nguồ n gố c của
chúng. Nicolè và cộng sự. (2011) đã sử dụng mã vạch DNA trên
mầ m đậu (Phaseolus vulgaris L.) quan sát các ki ểu đ ơn b ội riêng
biệt cho các giố ng đậu tương ứng với các khu vực Mesoamerican
hoặc Andean. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng nêu rõ các giới hạn
của phương pháp tiế p cận trong việc giải quyế t các mố i quan hệ di
truyề n giữa các chủng tộc và các giố ng có quan hệ chặt chẽ.
Bruni và cộng sự. (2010)hiệu quả của mã vạch DNA trong việc tách
chất độc ra khỏi các loài ăn được, chứng minh sự khác biệt phân tử rõ
ràng giữa các loài trồng trọt thuộc các chi được đánh giá Solanum
(Solanum tuberosum L., nhóm Solanum lycopersicum L.) và Prunus
(Prunus armeniaca L., Prunus avium L ., Prunus cerasus L., Prunus
domestica L.) và các thành phần độc hại của chúng. Nghiên cứu này gợi
ý rằng mã vạch DNA có thể được sử dụng để phân biệt các loài ăn được
với các đồng loại không ăn được hoặc độc hại của chúng ( Jaakola,
Suokas và Häggman, 2010).
Các giới hạn của việc áp dụng các điểm đánh dấ u mã vạch phổ
quát là rõ ràng ở cấ p độ giống cây trồng, nơi khả năng biế n đổi gen
bị hạn chếvà có những biế n chứng do các sự kiện lai tạo. Để vượt
qua những giới hạn này, Kane và Cronk (2008) đã đềxuấ t phương
pháp siêu mã vạch, dựa trên trình tự của toàn bộ bộ gen plastidial,
thu được các phầ n lớn của bộ gen nhân. Sự kế t hợp này cung cấ p đủ
thông tin để chứng minh sự đa dạng di truyề n dưới cấ p độ loài, phân
biệt con lai với dòng thuầ n, do đó nó nhạy hơn nhiề u so với mã vạch
DNA truyề n thố ng (Nock và cộng sự, 2011; Parks, Cronn, & Liston,
2009; Steele & Pires, 2011). Kane và Cronk (2008) hiệu quả của
siêu mã vạch trên cây ca cao (Theobroma cacao L.), và tìm thấ y một
sốSNP của plastidial và hạt nhân, rấ t hữu ích để xác định các giố ng
cây trồng khác nhau. Kỹ thuật này có triển vọng, nhưng khó áp dụng
trên quy mô lớn do chi phí cao và thành phốquá nhiề u loài.
Ngày nay, không có giới hạn kỹ thuật nào đối với việc áp dụng mã
vạch DNA để truy xuất nguồn gốc nguyên liệu thực vật. Tuy nhiên, sự
đa dạng di truyền giảm ở cấp độ giống cây trồng thường đòi hỏi phải sử
dụng các phần lớn bộ gen, hiện có tỷ lệ chi phí / hiệu quả quá cao để
được sử dụng rộng rãi. Hơn nữa, cách tiếp cận này trái với phương pháp
mã vạch DNA cơ bản, vốn chỉ yêu cầu phân tích các vùng DNA ngắn và
phổ quát.
Một hệ thố ng truy xuấ t nguồ n gốc “lý tưởng” sẽ tuân theo “lịch
sử” của một sản phẩm từ nguồ n gốc đến thời điểm nó được sử dụng,
có tính đến tất cả các bước chuyển đổi và thương mại hóa. Hệ thố ng
xác định nguồ n gố c và xác định phân tử được phát triển để hoạt
động trên nguyên liệu thô. Tuy nhiên, hạt, trái cây và các bộ phận
động thực vật khác nhau được biế n đổi trong thực phẩm với hình
dạng, mùi vị và mùi đặc trưng thông qua vật lý (tức là đun nóng,
đun sôi, bức xạ UV) hoặc hóa học (tức là bổ sung chấ t bảo quản thực
phẩm, chấ t tạo ngọt nhân tạo ) các phương pháp điề u trị, có thể làm
thay đổi cấu trúc DNA. Vì lý do này, việc áp dụng các kỹ thuật nhận
dạng dựa trên DNA (trong đó có mã vạch DNA) trên các mặt hàng
đã được biế n đổi có thể không hiệu quả vì mức độ suy thoái DNA và
sự hiện diện đồ ng thời của một sốbộ gen thuộc các sinh vật khác
nhau.
4.1. Tính toàn vẹn của DNA trong quá trình công nghiệp thực phẩm
DNA thường có khả năng chống lại các quy trình công nghiệp hơn
các phân tử khác, chẳng hạn như protein ( Martinez và cộng sự, 2003 ),
và phương pháp in DNA có thể được sử dụng thành công trong việc xác
nguyên liệu thực vật, ngay cả khi ở những vế t nhỏ ( Bottero & nghìn trình tự mỗi lần chạy, tương ứng với toàn bộ hỗn hợp các phân
Dalmasso, 2011; Costa, Mafra, Amaral, & Oliveira, 2010; Kesmen, tử DNA được chiế t xuất từ chất nề
n. Cách tiếp cận này cho phép xác
Sahin, & Yetim, 2007; Mane, Mendiratta, & Tiwari, 2009; Martin và định tất cả các nguyên liệu thô,
cộng sự, 2009; Soares, Mafra, Amaral và Oliveira, 2010). Tuy nhiên,
quá trình chếbiến thực phẩm gây ra các biến đổi hóa học và vật lý, sự
suy thoái và phân mảnh là những tác động phổ biến nhất (Bauer,
Weller, Hammes, & Hertel, 2003). Tính toàn vẹn của DNA phần lớn
nhờ vào hiệu quả của các phương pháp luận phân tử (Hellberg &
Morrisey, 2011; Meusnier et al., 2008; Pafundo và cộng sự, 2007).
Mã vạch DNA có thể có hai ưu điểm nếu so sánh với các phương pháp
in dấu DNA: i) nó đòi hỏi sự khuếch đại của một đoạn DNA ngắn (do
đó có nguy cơ phân mảnh thấp hơn), và ii) nó dựa trên ti thể hoặc
plastid - bộ gen ial (được bảo quản nhiều hơn trong quá trình xử lý).
Aslan, Hamill, Sweeney, Reardon và Mullen (2009) cho thấy rằng
DNA nhân được bảo quản ít hơn so với lạp thể trong thịt nấu chín.
Việc phân tích các vùng mtDNA khác nhau có thể có hiệu quả trong
việc xác định thịt bò, cừu và lợn ngay cả sau khi luộc, nấu chắc chắn
hoặc chiên (Arslan, Ilhak, & Caliciogiu, 2006; Aslan và cộng sự, Năm
2009; Mane và cộng sự, 2009). Trình tự cox1 hoàn chỉnh thu được từ
các sản phẩm hun khói như cá tuyết, cá tuyế t, cá thu, cá hồi và cá ngừ
(Smith và cộng sự, 2008). Một sốđỉnh cao đã được chứng minh trong
việc thu được mã vạch DNA có chiều dài đầy đủ từ fi sh đóng hộp;
trong những trường hợp này, việc sử dụng các chuỗi mã vạch ngắn
hơn được coi là một lựa chọn phù hợp, khi chỉ giới hạn ở mục đích truy
nguyên nguồn gốc (Rasmussen và cộng sự, 2009). Tương tự như
mtDNA, bộ gen plastid được bảo tồn trong hầu hết các thực phẩm chế
biến có nguồn gốc từ thực vật. Mã vạch DNA được sử dụng để xác định
các loài thơm khác nhau sau khi sấy khô và cắt nhỏ trong công nghiệp
(De Mattia và cộng sự, 2011). Các điểm đánh dấu mã vạch DNA cũng
được sử dụng hiệu quả để xác định trà thương mại (Stoeckle và cộng
sự, 2011), các loài trái cây trong sữa chua (Knight, Ortola-Vidal,
Schnerr, Rojmyr và Lysholm, 2007), và bã trái cây (ví dụ chuối) trong
nước trái cây, nước xay nhuyễn, sôcôla, bánh quy, v.v. (Sakai và cộng
sự, 2010). Do đó, phương pháp mã vạch DNA có thể được sử dụng để
phân tích các nền thực phẩm khác nhau, những hạn chếchính của nó
là: i) mức độ suy thoái của DNA; tiih) và phát triển các ph ương pháp
đáng tin cậy để tách chiết DNA, và iii) tính hiệu quả của các phương
pháp mã vạch khác nhau (Hellberg & Morrisey, 2011).
4.2. Đặc điểm của các sản phẩm thực phẩm hỗn hợp