You are on page 1of 7

Yêu cầu chung khi làm bài tiểu luận:

Phần 1: Các nhóm SV đọc, dịch và hiểu về chủ đề được giao. Trình bày chủ đề được
giao trên giấy A4, đóng quyển và nô ̣p Bài tiểu luâ ̣n cho GVGD tại Phòng 409-TN + file
Power Point để báo cáo seminar trước lớp). (7 điểm)
Phần 2: Tìm các tài liê ̣u liên quan tới chủ đề được giao (càng nhiều càng tốt), bao
gồm cả tài liê ̣u tiếng Anh và tiếng Viê ̣t (các file dưới định dạng Word, pdf, Powerpoint,
video…) và địa chỉ links các trang Web (có thể lưu vào 1 file Word riêng các địa chỉ website
này).
Toàn bô ̣ tài liê ̣u tham khảo tìm được và bài Tiểu luâ ̣n nô ̣p vào thư mục tương ứng của
nhóm theo link: https://drive.google.com/drive/folders/1-
tT0Upl9skSiRoGE85skaYQj5hglrbux
(3 điểm)
Tên file word Bài tiểu luâ ̣n đă ̣t theo quy định: Tên nhóm_Bài tiểu luâ ̣n ĐTYS
VD: Nhóm 1_Bài tiểu luâ ̣n Điê ̣n tử y sinh học
Bố cục trình bày bài tiểu luâ ̣n:
a) Bố cục theo trình tự sau
oTrang bìa (Biểu mẫu 01)
oBản phân công nhiê ̣m vụ từng thành viên trong nhóm
oMục lục (Có đánh số trang)
oĐặt vấn đề hoặc Lời nói đầu
oNội dung của Bài tiểu luâ ̣n
oKết luận, hướng phát triển
oTài liê ̣u tham khảo
b) Nội dung của Bài tiểu luâ ̣n
oChỉ gồm các kiến thức liên quan trực tiếp và phù hợp với đề tài.
oĐảm bảo tính độc lập và thể hiện được kiến thức của người làm.
oCác phần, mục và tiểu mục được đánh bằng nhóm các số cách nhau một dấu chấm,
theo trình tự: Nhóm đầu tiên là chỉ số phần, nhóm thứ hai là chỉ số mục, nhóm thứ ba
là chỉ số tiểu mục. Các chủ đề nhỏ hơn tiểu mục được đánh theo chữ cái a), b), c),
vv...
oCác biểu đồ, đồ thị, hình vẽ phải đánh số thứ tự (Bảng 1, hoặc Hình 1, vv...). Các số
liệu phải có đơn vị tính.
c) In ấn
o In trên một mặt giấy khổ A. Lề trái 2,5 cm, lề phải 2 cm, trên và dưới 1,5 cm, dãn
dòng 1.3 line (Multiple at 1.3). Kiểu chữ “Times New Roman” cỡ chữ: 13.
o Đóng thành 01 quyển, bìa mềm.
o Nếu viết tay phải sạch sẽ, rõ ràng, không được nhờ người khác chép hộ.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP – ĐH THÁI


NGUYÊN
KHOA ĐIỆN TỬ
******

BÀI TIỂU LUẬN


ĐIỆN TỬ Y SINH HỌC
Đề tài: Ultrasonic Imaging Systems (Part II)
ThS. Phạm Duy
GV hướng dẫn:
Khánh

Bô ̣ môn: Kỹ thuâ ̣t điêṇ tử

Nhóm
02
thực hiên:
̣
Lớp:
54KĐT.01

Thái Nguyên - 11/2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP – ĐH THÁI NGUYÊN
KHOA ĐIỆN TỬ
******

BÀI TIỂU LUẬN

Đề tài tiểu luâ ̣n: Ultrasonic Imaging Systems (Part II)
Học phần : Điê ̣n tử y sinh học
Bô ̣ môn: Kỹ thuâ ̣t điê ̣n tử

1. Sinh viên : Ngô Văn Tiến Đạt MSSV : K185520207006


2. Sinh viên : Hoàng Văn Chiến MSSV :K185520207056
3. Sinh viên :Nguyễn Công Đôn MSSV :K185520207007
4. Sinh viên :Nguyễn Duy Đức MSSV :K185520207008
Yêu cầu của đề tài: Tìm hiểu về hệ thống hình ảnh siêu âm

Giáo viên chấm GV hướng dẫn


1. Hệ thống hình ảnh siêu âm thời gian thực
Một trong những yếu tố hạn chế nghiêm trọng trong quét B là khoảng thời gian cần
thiết để hoàn thành một quá trình quét. Điều này dẫn đến hình ảnh bị nhòe và biến dạng do
chuyển động của các cơ quan, cũng như gây nhàm chán cho người điều khiển. Việc loại bỏ
hiện tượng chuyển động là quan trọng trong quét B thông thường nhưng cũng rất quan trọng
nếu các khu vực chuyển động nhanh như buồng tim muốn được nhìn thấy. Các kỹ thuật quét
nhanh đã được phát triển để đáp ứng những nhu cầu này. Các phương pháp tiếp cận được sử
dụng bao gồm chuyển động vật lý nhanh của một đầu dò duy nhất. Ngoài ra, có thể sử dụng
các phương pháp điện tử sử dụng dãy đầu dò có thể được kích hoạt theo trình tự hoặc theo
nhóm. Trong các hệ thống này, thao tác điện tử cho phép chùm tia được quét nhanh qua khu
vực quan tâm. Cuối cùng, các thiết bị trong đó một loạt các đầu dò được kết hợp với chuyển
động cơ giới hóa, cũng đã được giới thiệu. Các thiết bị này được gọi là máy quét thời gian
thực vì có độ trễ thời gian không đáng kể giữa đầu vào của dữ liệu và đầu ra của dữ liệu đã
xử lý trong các hệ thống như vậy.
Do đó, hệ thống thời gian thực có các đặc điểm sau:
 Khả năng nghiên cứu cấu trúc trong chuyển động - điều này rất quan trọng đối với
cấu trúc tim và thai nhi.
 Trong quá trình quan sát, có thể dễ dàng lựa chọn mặt phẳng quét vì hình ảnh tiếng
vọng xuất hiện ngay lập tức trên màn hình.
1.1.1. Yêu cầu của hệ thống hình ảnh siêu âm thời gian thực
Các yêu cầu chính của hệ thống hình ảnh siêu âm là: độ phân giải cao, phạm vi xa,
trường nhìn phù hợp, tốc độ khung hình đủ cao và độ phát hiện cao. Tuy nhiên, độ phân giải
cao hoặc khả năng của hệ thống để phân giải các kích thước không gian tốt là một yêu cầu
chính về hiệu suất. Độ phân giải 1–3 mm ở cả ba chiều không gian là mong muốn cho một
số nghiên cứu chẩn đoán như phát hiện sớm các khối u hoặc các tình trạng bệnh lý khác. Độ
phân giải độ sâu (độ phân giải dọc theo trục) thường được điều chỉnh bởi độ rộng xung đầu
dò và quá trình lọc tiếp theo. Thời gian truyền sóng trên quãng đường 2 mm là 2,67 ms. Do
đó, độ rộng xung trong phạm vi này sẽ cung cấp độ phân giải độ sâu mong muốn. Độ phân
giải bên (độ phân giải dọc theo đường kính chùm tia pháp tuyến đối với trục) bị chi phối bởi
các cân nhắc về nhiễu xạ.
Phạm vi độ sâu yêu cầu thay đổi đáng kể đối với các nghiên cứu giải phẫu khác
nhau. Ví dụ, khoảng 25-30 cm là mong muốn cho các nghiên cứu về bụng và sản khoa. Đối
với các nghiên cứu về tim, khoảng cách từ thành ngực đến thành sau tim từ 15 cm trở lên.
Trong các cơ quan bề ngoài như vú, tuyến giáp, động mạch cảnh và động mạch đùi và trong
các nghiên cứu ở trẻ sơ sinh, phạm vi độ sâu là 3–10 cm. Mỗi phạm vi độ sâu này đòi hỏi
những cân nhắc khác nhau đáng kể liên quan đến sự hấp thụ của mô, phản xạ đặc điểm và
những thay đổi nhỏ trong trở kháng âm của mô. Nói chung máy thu có độ nhạy cao với dải
động rộng hơn, tần số kích thích thấp và công suất truyền cao giúp mở rộng phạm vi. Lấy
nét thường là cần thiết để đạt được độ phân giải tốt ở độ sâu lớn hơn.
Trường nhìn phải đủ lớn để hiển thị toàn bộ khu vực được kiểm tra và cung cấp chế
độ xem phối cảnh hữu ích về cơ quan quan tâm. Khi xem các cấu trúc bề ngoài nhỏ như
tuyến giáp, một trường khoảng 5 cm ¥ 5 cm có thể bao phủ vùng mong muốn. Đối với hình
ảnh tim, quét khu vực thích hợp hơn quét tuyến tính vì một cấu trúc lớn được xem qua một
cửa sổ nhỏ. Một góc 60 ° là đủ để xem đồng thời hầu hết các trái tim. Trong các nghiên cứu
về bụng, mặc dù trường nhìn là vấn đề thuận tiện cho người vận hành, nhưng khu vực được
xem ít nhất phải là 100 cm2. Rất khó để xem các cấu trúc gần bề mặt khi sử dụng quét khu
vực vì chúng nằm trong đỉnh của khu vực. Do đó, mảng hai chiều được sử dụng để nghiên
cứu vùng bụng.
Trong các hệ thống hình ảnh thời gian thực, tốc độ khung hình (tốc độ hình ảnh được
lặp lại) phải đủ nhanh để giải quyết các chuyển động quan trọng và để có được hình ảnh mà
không bị nhòe không mong muốn. Hầu hết các yêu cầu này đều được đáp ứng với tốc độ
khung hình khoảng 30 khung hình / s. Điều này cũng đáp ứng các yêu cầu về hiển thị không
bị nhấp nháy và tương thích với các định dạng truyền hình tiêu chuẩn. Đối với một số nghiên
cứu đặc biệt, tốc độ khung hình lớn hơn thường được yêu cầu cho chế độ thu thập dữ liệu.
Các khung hình này sau đó sẽ được lưu trữ và phát lại ở khoảng 30 khung hình / s để cung
cấp bản trình bày chuyển động chậm.
Tính phát hiện là khả năng của một hệ thống hình ảnh để nắm bắt, xử lý và hiển thị
một cách hiệu quả dải tín hiệu động rất rộng có thể giúp phát hiện hình ảnh, tổn thương hoặc
cấu trúc hoặc quá trình bất thường khác. Khả năng phát hiện hệ thống kém thể hiện ở chất
lượng hình ảnh hoặc chất lượng hình ảnh thiếu trung thực, thường thấy rõ trong các màn
hình trực quan của hình ảnh siêu âm.
1.1.2. Máy quét lĩnh vực cơ khí
Quét cơ học của một đầu dò duy nhất đại diện cho một kỹ thuật chi phí thấp để mở
rộng hiệu suất của hệ thống được quét thủ công để đạt được trường xem hai chiều trong thời
gian thực. Trên thực tế, sự đơn giản của máy quét khu vực thời gian thực cơ học khiến nó trở
thành một thiết bị hấp dẫn cho các ứng dụng y tế. Một số hình thức quét cơ học điều khiển
bằng động cơ của một đầu dò duy nhất đã được sử dụng để đạt được hình ảnh hai chiều theo
thời gian thực của tim, bụng và mắt.
Schuette và cộng sự. (1976) đã phát triển một hệ thống quét khu vực (Hình 23.17) sử
dụng một đầu dò siêu âm duy nhất (2,25 MHz) thông qua một góc có thể lập trình từ 0 đến
25 độ. Tốc độ quét khu vực có thể thay đổi từ 0 đến 40 lần quét mỗi giây và độ tuyến tính
của quá trình quét đạt được bằng cách lập trình điện tử của vị trí đầu dò để khớp với dạng
sóng tam giác.

Hình 1. 1: Các chi tiết của máy quét cơ học với một đầu dò duy nhất (sau
Schuette và cộng sự, 1976)
Bộ chuyển đổi trong máy quét được điều khiển bởi động cơ điều khiển DC hiệu suất
cao, quán tính thấp. Động cơ này kết hợp phần ứng rôto rỗng mang lại cả quán tính thấp và
điện cảm thấp, là những tính năng cần thiết để khởi động và dừng nhanh và theo dõi chính
xác các tín hiệu servo nhanh. Vị trí góc của đầu dò được xác định bằng quang điện từ một
đĩa chức năng sin được gắn ở phía sau trục động cơ. Do đó, hệ thống kết hợp nhiều ưu điểm
của một mảng quét điện tử khẩu độ nhỏ, trong khi vẫn tương thích với hầu hết các thiết bị
siêu âm tim một chiều.
Holm và cộng sự (1975) đã chế tạo một máy quét cơ học bao gồm một bánh xe quay
(Hình 23.18), trên đó được gắn bốn đầu dò 2 MHz không tập trung giống hệt nhau với
đường kính 2 cm. Các đầu dò được đặt xuyên tâm ở các khoảng cách 90 ° với mặt trước của
chúng ở ngoại vi của bánh xe. Bánh xe được dẫn động thông qua cáp Bowden và xích bằng
động cơ không đồng bộ. Máy quét xoay có thể được sử dụng cầm tay hoặc gắn trên một tay
quét thông thường. Với 4 vòng / s của bánh xe chuyển đổi, 16 khung hình / s được hiển thị
để hình ảnh khu vực 50 ° được tạo ra trong thời gian thực. Với mỗi đầu dò quét qua 90 °
trong 1/16 giây, khu vực 50 ° được quét trong quá trình tạo ra 69,4 xung cho 69 dòng trong
mỗi khung hình hoặc 1,38 dòng / độ.
Hình 1. 2: Cấu tạo của máy quét kiểu đầu dò quay (sau Holm và cộng sự, 1975)
Bằng cách quét siêu áp đặt một số khu vực, có thể thu được một bản quét hình thang
diện tích lớn. Điều này đạt được bằng cách kết hợp giữa máy quét thời gian thực và máy
quét hỗn hợp. Hình 23.19 cho thấy mặt cắt của dụng cụ quét hình thang cơ học. Ba đầu dò
indvi-dual lấy nét quay theo một đường trung gian ngắn. Mỗi đầu dò bao phủ một khu vực
60° hoặc 110°. Bộ nhớ khớp nối được định hình ở phía bên trái của dụng cụ sao cho có thể
lấy được các hình chiếu theo chiều dọc của màng dưới.

Hình 1. 3 : Ba đầu dò gắn trên ba bánh xe riêng biệt để có trường nhìn lớn hơn

You might also like