Professional Documents
Culture Documents
Hoa Than Thanh Nhan Vat Ke Lai Truyen
Hoa Than Thanh Nhan Vat Ke Lai Truyen
I . Mở bài
Bước vào năm 1969, cuộc chiến khốc liệt và căng thằng hơn. Sau thất bại trong
chiến lược Chiến tranh cục bộ, quân Mỹ bắt đầu tiến hành chiến lược Việt Nam hóa chiến
tranh. Thực hiện chính sách này, Mỹ rút dần quân số trên chiến trường Đông Dương
và tăng cường chiêu mộ, bắt bớ người Việt Nam đi lính. Đồng thời, chúng tiến hành các
chiến lược bình định trên toàn miền Nam. Một không khí khủng bố vô cùng căng thẳng
bao trùm lên kháp miền lãnh thổ. Nhiệm vụ chiến đấu giải phóng miền Nam cũng đối mặt
với những khó khăn vô cùng lớn
II. Thân bài
Không để miền Nam đơn độc trong cuộc chiến đấu ác liệt với kẻ thù, quân và dân
miền Bắc gắng hết sức mình chi viện và cùng quân dân miền Nam anh dũng chiến đấu.
Tôi là một chiến sĩ lái xe. Cuối năm 1968, tôi được điều động về đại đội 1 ô-tô vận tải,
thuộc tiểu đoàn 59, trung đoàn 35, Đoàn 471, Bộ Tư lệnh Đoàn 559. Nhiệm vụ của đại đội
là vận chuyển những chuyến hàng vào chiến trường miền Nam. Không những đưa hàng
hóa đến tận chiến trường, phục vụ nhanh chóng và kịp thời cho cuộc chiến đấu, chúng tôi
còn phải cung ứng quân trang, quân dụng, thuốc men và những thứ cần thiết khác mà quân
và dân miền Nam đang cần.
Trong những năm khó khăn ấy, nhân dân miền Bắc đã dốc hết sức mình vì miền Nam
ruột thịt. Vì sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước mà bà con miền Bắc
đã không quản ngại gian khổ hy sinh. Từng lớp thanh niên đã hăng hái lên đường tham gia
chiến đấu. Ngày ra đi còn vẫy chào tạm biệt, hứa xong nhiệm vụ với tổ quốc mới trở
về.Bao nhiêu nông phẩm thu được, nhân dân chỉ giữ lại phần ít. Phần lớn còn lại gửi vào
miền Nam cho bà con và các chiến sĩ. Chính phủ còn nhận được sự hỗ trợ của các nước
anh em ủng hộ cuộc chiến.
Chúng tôi lên đường bất kể ngày đêm. Hễ có hàng là chúng tôi chạy. Từng đoàn xe
nối đuôi nhau xuôi ngược trên tuyến đường Trường Sơn, nhộn nhịp như mùa hội. Tấm
chân tình của nhân dân miền Bắc đối với quan và dân miền Nam thật nói sao cũng không
hết.Năm ấy, phát hiện tuyến đường huyết mạch Trường Sơn, quân Mỹ tiến hành đánh phá
ác liệt. Chúng rải thảm bom đạn nhằm ngăn chặn dòng tiếp viện. Con đường bị cày xới dữ
dội. Rất nhiều đồng đội của tôi đã hy sinh.
Những chiếc xe băng trong mưa bom bão đạn của kẻ thù không chiếc nào còn nguyên
vẹn. Khung cửa kính bị hơi bom ép vỡ. Đèn pha cũng bị cháy. Thùng xe lỗ rỗ vết bom.
Mui xe bị đánh bật quang mất từ bao giờ. Sau những chuyến đi trở về, xe của chúng tôi bị
biến dạng ghê gớm.
Thế nhưng, chúng tôi không hề nản lòng. Các đồng chí động viên nhắc nhở nhau cùng
hứa sẽ giữ vững tay lái, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Chúng phá đường thì ta
sửa. Chúng đánh ngày thì ta chạy đêm. Những đoàn xe lại nối đuôi nhau ra tiền
tuyến. Tuyến đường Trường Sơn như sợi chỉ thần kí nối liền miền Nam, miền Bắc. Nơi
đâu cũng nhộn nhịp bóng người. Có thể nói, mọi sức mạnh đều tập trung về đây để bảo vệ
tuyến đường, bảo vệ mạch máu của dân tộc.
Ngồi trong những chiếc xe không kính, cả bầu trời như đến gần với tôi. Dù trời không
có gió nhưng hề xe chạy thì gió cứ thế mà lùa vào ào ạt. Gió thổi xoát mặt, cay xè cả hai
mắt, thổi bồng mái tóc của chúng tôi. Cứ mỗi lần bước ra khỏi buồng lái là tóc tôi dựng
ngược hẳn lên như vừa được bôi một thứ keo dán tóc nào đó.Ban đêm xe chạy, sao sáng
vằng vặc trên trời cao, rõ ràng hết mức vì không bị kính che mờ. Những cánh chim trời
tinh nghịch cứ bay ngay buồng lái. Đôi khi chúng làm tôi hết hồn vì ngỡ bóng máy bay
của địch.
Sợ nhất là bụi đường. không có kính, bụi phun tóc trắng xóa như người già. Cả đầu tốc
lẫn mặt mũi của chúng tôi như trát mọt lớp phấn trắng. Chỉ còn hai con mắt là khác màu
thôi. Mỗi lần nghỉ ngơi, nhìn các chiến sĩ ai cũng bạc phết mà cười ngất ngây.Hết bụi thì
đến mưa. Mưa rừn trường Sơn đọt ngột và dữ dội lắm. Không hề báo trước, cơn mưa từ
đâu phía bên kia núi ào ào kéo đến trút nước lên đầu. Không có kính, nước mưa cứ thế mà
tuôn, mà xối vào. Ngồi trong xe mà tôi cứ ngỡ đang ở ngoài trời. Nhưng mưa cứ kệ mưa.
Xe chạy vẫn cứ chạy. Quần áo ướt rồi lại khô, cần chi phải nghỉ ngơi lôi thôi. Cuộc sống
như thế chúng tôi đã quen từ lâu, có chi mà quản ngại gió sương.
Vui nhất là những lần đồng đội khắp muôn phương cùng nhau hội tụ. Những đoàn xe
nối đuôi nhau mấy cây số. Chúng tôi bắt tay thân ái qua ô cửa kính vỡ, hỏi han và động
viên nhau. Tôi chúc mừng các anh đã hoàn thành nhiệm vụ trở về. Những chiến sĩ trở về
động viên và cầu chúc tôi may mắn.Những cuộc dừng chân giữa rừng kết nối biết bao trái
tim. Dù ở những đơn vị khác nhau, từ nhiều vùng quê của đất nước, nhưng gặp nhau ở
đây, chúng bếp lửa hồng, chung bữa cơm vui thì chúng tôi xem nhau là anh em đồng chí
cả.
Đường Trường Sơn dược xây dựng bằng sức người, bằng đôi bàn tay của hàng vạn
thanh niên yêu nước. Trên núi cao, dưới vực thẳm thách thức mọi tinh thần. Những con
dốc cao đến nỗi đứng dưới nhìn lên mỏi cả cổ. Tôi nhớ rất rõ lần chạy xe xuyên đêm vượt
dốc Pô Phiên vô cùng hiểm trở. Con dốc sừng sững thách thức các đồng chí lái xe đã từng
vận chuyển hàng hóa trên cung đường này.Đêm ấy trời mưa to, đường bị xói lở nhiều. Đại
đội trưởng lệnh chúng tôi dừng lại tìm nơi ẩn nấp. Đến đêm mai lại chạy tiếp. Nhưng
chúng tôi đang ở giữa vùng trống, không có nơi ẩn nấp an toàn cho cả đoàn xe. Lại thêm
trời cứ mưa thế này, đến đêm mai chưa chắc đã hết. Tôi khuyên đại đội trưởng cho đoàn
xe vượt dốc. Sau phút suy nghĩ, đại đội trưởng đồng ý.
Tôi lái xe đi đầu. Lấy hết bình tĩnh, tôi đạp mạnh chân ga. Chiếc xe lừ lừ chạy tới. Biết
mặt đất trơn, tôi có gắng giữ ga thật đều. Bánh xe bám chặt vào mặt đường giữ xe vững
chắc. Bỗng chiếc xe lắc lư dữ dội vì vấp phải rãnh sâu. Tôi đạp mạnh ga hơn cho xe vươt
qua nhưng không thể. Xe bị tuột ga rồi. Tôi đạp mạnh thắng để giữ xe lại nhưng mặt
đường như rải dầu trơn tuồn tuột. Đuôi xe lệch về một bên, đầu xe quay ngang. Phía sau là
con vực sau đến nghìn mét “Chắc chắn xe sẽ lao xuống vực”. Tôi nghĩ thế và thầm
mong có một sức mạnh nào đó nâng đỡ. Bỗng chiếc xe khựng lại. Tôi nghe tiếng đại đội
trưởng thét lớn: “cho xe lao lên mau!”.Tiếng thét làm tôi sực tỉnh. Tôi lấy hết sức đạp
mạnh chân ga. Bánh xe chà xát trên mặt đường đưa đầu xe từ từ quay lên, bùn đất văng
rào rào hai bên. Tiếng xe gầm thét dữ dội. Chiếc xe khựng lại rồi từ từ quay đầu lên dốc.
Tôi hít một hơi dài, nhấn ga thêm nữa, xoay vô lăng đều đều đưa xe lên. Cuối cùng, tôi
cũng đưa xe lên đến đỉnh dốc an toàn. Bước xuống xe, tôi thở phảo nhẹ nhòm.
Nhìn đại đội trưởng và các đồng đội mình mẩy đầy bùn đất tôi nghẹn ngào xúc động vô
cùng. Thì ra, khi thấy xe tôi trượt dốc, đại đội trưởng và các chiến sĩ đã vội đi tìm đá kê.
Mỗi người một hòn kê vào bánh xe. Hết hòn này đến hòn khác cho đến khi xe lên hẳn trên
dốc.
Đêm ấy, đoàn chúng tôi vượt dốc thành công nhờ mưu trí của đồng đội, kịp đưa xe về
nơi trú ẩn an toàn. Bình tĩnh, quả cảm, xử lý các tình huống mau lẹ, chính xác là những
yếu tố cần có ở người lính lái xe. Người lái xe mặt trận không chỉ bình tĩnh vững vàng
trong buồng lái, mà cần cả mưu lược, linh hoạt trong việc xử lý các tình huống trên thực
địa.
Có khi còn phải biết làm “tham mưu” đề xuất với chỉ huy cấp trên các phương án khai
thông khi tắc đường. Phải biết hợp đồng tác chiến với công binh, với bộ đội phòng không,
phải hiểu rõ thủ đoạn và quy luật hoạt động của kẻ địch trên trời dưới đất để đưa hàng tới
đích. Đó là lời dạy của đại đội trưởng mà tôi còn nhớ mãi cho tới bây giờ. Chiến tranh là
phải có hy sinh. Chúng tôi đã xác định điều mỗi khi lên đường. Người đồng đội thân nhất,
đã cùng tôi vào sinh ra tử bao nhiêu trận đã hy sinh. Anh ra đi như một người lính thật sự,
không hề hối tiếc.
Hôm ấy, sau một đêm vận chuyển, trên đường đi ra, trời sáng, đơn vị phải giấu xe che
mắt địch. Chiều, bọn thám báo đã “đánh hơi”, gọi máy bay ném bom. Dứt đợt oanh kích
của địch, ba đồng chí công binh gọi anh đi kiểm tra hiện trường. Tôi ngăn anh, để tôi đi
trước, nhưng anh không chịu. Đến nơi giấu xe, anh đụng bom bi vướng nổ. Quả bom hất
tung anh rơi xuống vực sâu. Anh ra đi, đồng đội vô cùng thương tiếc.
Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc chúng tôi khát khao giải phóng miền
Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành hiện thực,chỉ có một cách duy nhất là
vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách ngày càng tăng cao chúng tôi lại
càng quyết tâm chiến thắng.
Không thể nhớ hết bao nhiêu tình huống trên đường vận chuyển. Những chuyến xe lấy
đêm làm ngày vượt qua những bãi bom phá, bom từ trường, bom bi trong vòng lượn của
máy bay tiêm kích suốt ngày đêm lồng lộn xoi mói, oanh kích bắn phá các trọng điểm dọc
đường Trường Sơn.
Những quả đồi đất thành bột, vách đá thành vôi, những sông bùn, những vực thẳm
chồng chất xác xe cháy đổ. Dù kẻ thù rình rập, đường di nguy hiểm, dù có bao nhiêu hy
sinh đi chăng nữa nhưng không gì thể cản bước đoàn xe chạy tới.
III.Kết bài:
Xe vẫn chạy. Những đoàn xe nặng trĩu chuyến hàng vẫn ngày đêm chạy tới. Tất cả
vì miền Nam ruột thịt. Tất cả vì sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước của dân tộc.
Mỗi khi ngồi vào buồng lái, tôi lại nhớ đến các anh, nhớ đến nhiệm vụ thiêng liêng mà
nhắc mình giữ vững tay lái, sống và chiến đấu xứng đáng với những người đã mãi mãi ra
đi để bảo vệ đất mẹ thiêng liêng này..
Đề : Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa
Tôi vẫn nhớ nhà thơ Nguyễn Duy đã từng viết:
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”
Dường như trong kí ức tuổi thơ của bao đứa trẻ, những tháng năm vô lo vô nghĩ bên
người bà luôn là quãng thời gian êm đềm và thân thương nhất. Vượt qua bao sự thăng
trầm trong cuộc đời và sàng lọc của thời gian, những kỉ niệm mộc mộc ấy về bà vẫn đọng
lại trong miền nhớ của biết bao tâm hồn, nó đưa ta về với khoảng trời xưa cũ bình dị mà
an nhiên tự tại thuở niên thiếu. Với riêng tôi, có lẽ kỉ niệm về bà bên bếp lửa bập bùng
mỗi sớm mai luôn đi về trong cõi nhớ của tôi trên những chặng đường mà tôi trải qua. Nỗi
nhớ ấy lại càng cồn cào da diết hơn trong những năm tháng sống xa xứ, đón những đợt gió
tuyết nơi xứ sở Bạch Dương. Trong những phút giây tĩnh lặng,mỗi khi nhìn làn khói của
những ngôi nhà phía xa kia , cả một trời nhớ thương trong tôi lại ùa về , về bà về bếp lửa
hồng sưởi ấm cả tuổi thơ tôi, về hương vị quê nhà…
Theo dòng hoài niệm, kí ức đưa tôi về với những đêm đen của cái đói mòn đói mỏi
năm 1945. Ngôi làng nhỏ nơi tôi sinh sống , nhà nào cũng rơi vào cảnh đói thê thảm.
Trong những năm tháng cơ cực ấy , để giành giật lấy sự sống ngày một thoi thóp , bố tôi
phải lên phố xe thuê rạc cả người, dẫu vậy cũng chỉ đủ để rau cháo cầm hơi mà sống qua
ngày. Cái đói nghèo cùng cực của năm Ất Dậu ấy như một nỗi ám ảnh trong tâm hồn non
nớt của đứa trẻ bốn tuổi lúc đó. Chính mùi khói bếp của bà đã mang đến cho tôi những
hơi ấm , sự an lòng và xua đi cái mùi tử khí tràn ngập quanh ngõ xóm thôn nghèo. Thứ
hương thơm dung dị như nhen lên từ tình yêu nồng hậu của bà đã sưởi ấm cho tôi trong
suôt thuở thiếu thời để rồi sau này trên mỗi hành trình dài và rộng mà tôi qua , mùi khói
bếp ấy vẫn làm tôi cay cay sống mũi mỗi khi hồi tưởng lại. Những năm tháng sau đó khi
kháng chiến bùng nổ, bố mẹ tôi thoát ly gia đình đi làm cách mạng, lên đưởng theo tiếng
gọi của Tổ Quốc.
Suốt tám năm trời đằng đẵng tôi sống trong sự đùm bọc chở che của bà, bên bóng
dáng tảo tần của bà và bên bếp lửa hồng bà nhen lên mỗi sớm chiều. Những năm tháng
thơ bé ấy, bên cạnh bà cháu tôi , bên cạnh bếp lửa vẫn còn một nhân chứng mà tôi chẳng
thể nào quên đó là chim tu hú. Tiếng hót của nó nghe sao mà chơ vơ lạc lõng như khao
khát được che chở ấp iu đến vậy. Tiếng tu hú khắc khoải như xé tan cả khoảng không gian
mênh mông buồn vắng, thương con chim tu hú bất hạnh biết bao nhiêu tôi càng biết ơn và
trân trọng những ngày tháng tuổi thơ hạnh phúc được bà chăm chút , bảo bọc bấy nhiêu.
Bên bếp lửa bập bùng, tôi được nghe bà trải lòng về cuộc đời bà những tháng năm còn ở
Huế. Một cuộc đời đầy truân chuyên và cùng cực. Bà gửi những hi vọng , ước mong về
một tương lai tươi sáng hơn trong tôi. Rồi cũng ở bếp lửa nơi góc bếp,bà chăm tôi từng
bữa ăn giấc ngủ và là người thầy đầu tiên dạy tôi những bài học quý giá trong cuộc đời.
Những bài học làm người cao đẹp ấy đã trở thành một điểm tựa vững chắc chắp cánh cho
những giấc mơ cao đẹp trong cuộc đời . Thứ ánh lửa ấm áp nồng nàn ấy mang đến cho
tầm hồn tôi một sự an ủi trong những ngày tháng sống thiếu tình cảm của cha mẹ, bà như
điểm tựa tinh thần cho tôi vững bước.
Cuộc sống vẫn vậy, vẫn khắc nghiệt và luôn muốn thử thách bản lĩnh của con
người. Đến một ngày tiếng súng, tiếng bom của cuộc chiến tranh khắc nghiệt dội về làng
tôi. Trước họng súng và ngòi nổ hủy diệt của quân địch, ngôi làng tôi lúc đó là một đống
tro tàn, nhà cửa của mọi người đều hoàn toàn cháy rụi. Tôi biết lúc đó bà đang nuốt ngược
nỗi đau và nước mắt vào trong. Nơi chốn nương thân của hai bà cháu tôi không còn,
nhưng nghị lực và ý chí thép được tôi luyện trong những năm tháng bể dâu của cuộc đời
không cho phép bà tôi gục ngã buông xuôi. Bà cứng rắn dắt tôi vượt qua hoàn cảnh ngặt
nghèo. Tôi hiểu rằng những thiếu thốn, cơ cực mà tôi mới trải qua không thể nào đong
đếm được với những gian khó , nhọc nhằn và nỗi nhớ thương con nơi chiến trường đỏ lửa
đều phải nén lại vào trong của bà. Và rồi đâu rồi cũng vào đó , nhờ vào tình làng nghĩa
xóm mà bà cháu tôi cũng dựng được căn nhà nhỏ trên nền đất cũ năm nào. Bà đã nhóm
lên trong tôi ý chí và nghi lực sống trong cuộc đời này . Thật kì diệu bởi tôi tin rằng những
gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa hung tàn kia đã được hồi sinh trong bếp lửa của bà. Cứ thế
tuổi thơ tôi được bà che chở qua bao tháng năm. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen lên
ngọn lửa bền bỉ , trường tồn theo dọc thời gian của bếp lửa kia.
Tháng năm làm tôi lớn lên và trưởng thành, những hoài bão đưa bước chân tôi đến
với những chân trời xa nhưng chẳng thể nào tôi quên được ngọn lửa hồng nơi góc bếp bởi
nơi đó có tình yêu thương và đức hi sinh lặng thầm của người bà mà tôi dành cả cuộc đời
mình để biết ơn và trân trọng, cũng chính tại nơi đó bà nhen nhóm lên trong tôi những ước
mơ về một cuộc đời mới. Nếu những câu chuyện cổ tích là người bạn của bao tâm hồn thơ
bé, thì bà chính là người viết lên câu chuyện cổ tích giữa cuộc đời này cho riêng tôi.
Trong câu chuyện ấy là ánh lửa bập bùng sớm tối, là tình yêu nồng hậu của bà , là mùi nếp
mùi sắn thơm hương, của quê hương xứ sở , và luôn là nơi mà tôi thuộc về…
Đề: Đóng vai nhân vật ông Hai kể chuyện Làng
“Quê hương” – hai tiếng ấy mới thiêng liêng làm sao! Dẫu rằng tôi cùng bao
người khác nữa chỉ là những người nông dân chân lấm tay bùn, ngày ngày đầu tắt mặt
tối, bán mặt cho đất bán lưng cho trời thì chúng tôi cũng có quê hương của mình và rất
yêu nó. Sau Cách mạng tháng Tám, tình yêu quê hương của chúng tôi còn được mở
rộng ra, gắn kết, gắn liền với tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tôi cũng không
ngoại lệ. Ấy vậy mà có một lần, tình yêu làng, yêu nước của tôi đã bị đặt vào trong một
thử thách làm tôi mất ăn mất ngủ suốt mấy ngày liền
Trước khi kể về câu chuyện của mình, tôi nên giới thiệu về bản thân mình trước
chứ nhỉ? Tuy mọi người thường gọi tôi là ông Hai nhưng tên thật của tôi là Nguyễn Hai
Thu. Nhắc tới làng tôi, chắc mọi người đều biết tới rồi nhỉ, làng tôi có tinh thần kháng
chiến thế cơ mà! Làng tôi chính là làng Chợ Dầu thuộc huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh
đấy! Nhớ năm ấy cái lũ Pháp mất dạy chúng nó tràn sang xâm lược nước ta, tôi cũng
muốn ở lại sát cánh cùng các anh em giết chết cha chết mẹ chúng nó, ngặt nỗi dạo ấy
trái gió trở trời, cái chân của tôi đau nhức quá, hơn nữa nhà tôi còn có một đàn con
nheo nhóc, nên gia đình tôi buộc phải đi tản cư ở vùng đất Thắng theo chính sách của
cụ Hồ: tản cư là yêu nước.
Ở nơi tản cư, tôi cũng chẳng nhàn hạ tẹo nào. Gia đình tôi ăn bữa nay phải nghĩ
đến bữa mai, ăn năm nay phải nghĩ đến sang năm, rồi còn phải góp lương thực để
phục vụ kháng chiến nữa chứ, tính kiểu gì cũng không thấy đủ, vậy nên cả gia đình tôi
phải làm quần quật cả ngày. Ngày nào cũng vậy, hai tay chân tôi mỏi nhừ, tưởng như
không có sức mà bước, mà cầm, mà nắm, mà cử động nữa. Ấy thế mà cứ mỗi khi nằm
vật xuống giường, tôi lại vắt tay lên trán nghĩ về làng rồi lại tự tưởng tượng về những
công việc kháng chiến của làng: đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá,… Chỉ nghĩ đến
thôi là tôi cảm thấy mình như tràn trề sinh lực, phảng phất như tất cả mệt mỏi đều tan
biến hết. Chắc tối nay tôi sẽ lại sang nhà bác Thứ để khoe về làng mất! Ôi, làng của tôi
mới đáng tự hào làm sao!
Ở vùng đất Thắng này công việc ưa thích của tôi là xuống phòng thông tin nghe
lỏm tin tức mà người ta đọc trên báo. Không phải là tôi không biết đọc mà thực ra tôi
đã học qua một lớp bình dân học vụ rồi đấy, biết đọc, biết viết hẳn hoi ấy nhé, nhưng
mà chữ in này khó nhận mặt chữ, tôi chỉ đọc được bập bõm, câu được câu không, thật
là khổ tâm hết sức! May thay, hôm ấy tôi gặp trúng một anh chàng cao lớn, trên người
mặc bộ quân phục màu xanh lá cây nom rất đỏm dáng. Chắc hẳn là một anh dân quân
mới học, chữ nào chữ nấy đọc chậm rãi, to, rành rọt từng chữ. Bao nhiêu là tin hay,
nào thì có một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm
cắm quốc kì lên Tháp Rùa, rồi anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã
tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng, hay đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người mua
hàng đã bắt sống được một tên hai bốt Thao ngay giưax chợ. Lại còn bao tin đột kích
nữa, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, rồi còn kiếm được cả súng nữa. Tôi càng
nghe càng hăng say, càng mừng rơn, rồi bất chợt lại nghĩ đến làng: “Cái lũ Pháp tép
riu này mà đi qua làng mình nhất định sẽ bị đánh cho tơi bời rồi làng mình cũng được
lên báo cho mà xem.” Càng nghĩ tôi càng thấy đúng rồi cười thầm một mình.
Ra khỏi phòng thông tin, tôi rẽ vào quán dặn dò vợ mấy câu rồi đi thẳng ra lối
huyện cũ. Đi được một đoạn tôi gặp phải một tốp người tản cư mới ở dưới xuôi lên, tôi
vội tìm một quán gần đấy ngồi nghe ngóng tin tức. Tôi hỏi bọn họ:
Các ông, các bà ở đâu lên ta đấy ạ!
Một người đàn bà mau miệng trả lời:
Thưa ông, chúng cháu ở Gia Lâm lên đấy ạ. Đi bốn năm hôm mới lên đến đây, vất vả
quá!
Tôi hỏi thêm mấy câu về tình hình dưới xuôi, ai biết lại nghe được tin tức bọn giặc
rút giặc rút ở Bắc Ninh về qua chợ Dầu. Tôi đinh ninh làng mình phải giết được vài
thằng, nào ngờ một người đàn bà cho con bú lại nói cho tôi một tin dữ: cả làng Chợ
Dầu của tôi theo Tây. Tôi như bị sét đánh trúng, cả người cứng lại, đờ ra, tưởng như đã
ngừng thở. Phải một lúc lâu sau, tôi phản ứng kịp, run run hỏi lại, nhưng đáp án tôi
nhận được lại đập nát vụn chút hy vọng cuối cùng của tôi, họ khẳng định rằng bọn Tây
vào làng, cả làng tôi vác cờ thần ra đón, rồi cả thằng chánh Bệu khuân hết đồ đạc theo
giặc. Tôi thấy mắt mình nóng lên, nước mặt như chực trào ra, cổ họng như bị cái gì
chặn lại. Đắng ngắt! Bây giờ tôi chỉ có một ý nghĩ muốn về nhà trốn tránh hết thảy. Tôi
vội đứng dậy trả tiền trà, rồi vờ như không thèm để ý, vươn vai nói to rồi chuồn thẳng:
Hà, nắng gớm, về nào,…
Dù đã đi ra khỏi quán, tôi vẫn nghe tiếng lanh lảnh của người đàn bà nọ vọng ra:
Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm người ta còn thương. Cái giống
Việt gian bán nước thì cho mỗi đứa một nhát!
Về đến nhà, toàn thân tôi như bị rút cạn sức lực, nằm vật ra giường, đưa mắt nhìn
lũ trẻ nhà mình đang chơi ngoài cổng. Có lẽ chúng thấy tôi khác thường nên ngoan
ngoãn tránh đi. Tôi đau đớn, tủi hổ, nước mắt giàn rụa: “Ôi chao mấy đứa con số khổ
của tôi, chúng nó mới tí tuổi đầu mà đã ngoan hiểu chuyện như vậy, có làm nên tội
nên tình gì đâu mà bị người ta gán cho cái mác trẻ con làng Việt gian cơ chứ. Khốn
nạn, cái bọn này ăn cái gì mà đổ đốn, dám bán nước, phản bội Tổ quốc, phản bội cụ Hồ
muôn năm thế này hả trời.” Tức giận, tôi mắng ra lời luôn cho bõ tức.
Nhưng mắng xong rồi tôi mới ngờ ngợ như lời mình có gì đó không đúng. Mọi
người ở làng so với tôi còn có tinh thần kháng chiến hơn, quyết tâm ở lại sống chết với
giặc cơ mà! Mới nghĩ như vậy, tôi lạt gạt phắt đi ngay, không có lửa làm sao có khói,
người ta không có thù oán với mình thì đặt điều với mình để làm gì, huống chi tên
chánh Bệu đích thị là người làng mình rồi, không có sai. Chao ôi, nhục nhã chưa, cả
làng Việt gian!
Tối thấy vợ tôi về, có lẽ bà ấy cũng nghe tin rồi, bởi tôi thấy bà khang khác, cả người
uể oải, mặt cúi gằm xuống, đi thẳng vào trong nhà cất thúng rồi ra thềm ôm má nghĩ
ngợi. Thấy mẹ như vậy lũ trẻ cũng không dám đòi quà. Sự im lặng đáng sợ bao trùm
lên gian nhà nhỏ. Mãi khuya, vợ tôi mới chống gối đứng dậy, lẳng lặng xuống bếp đếm
tiền hàng như thường lệ. Lúc lâu sau bà mới nhỏ giọng gọi tôi, nhưng tôi cố tình tảng
lờ đi, thậm chí cong cáu gắt ngắt lời bà khi bà dường như định nhắc lại chuyện ban
sáng. Bà ấy nín bặt, lát sau mới khẽ khàng nói tiếp rằng người ta đồn nơi nay sẽ không
chứa những người làng Chợ Dầu nữa. Tôi lặng đi, không dám hé nửa lời, bởi tôi biết
hiện giờ tâm trạng tôi không tốt, nếu nói thêm câu gì nữa sẽ làm tổn thương tới bà ấy
mất. Nhìn gương mặt gầy gò, mới ngoài bốn mươi mà tưởng chừng như đã già đi cả
chục tuổi, những nếp nhăn, vết chân chim như ghi lại những tháng ngày vất vả khó
nhọc bà phải trải qua khi chung sống với tôi, tôi cũng thấy hổ thẹn lắm chứ! Nhưng
biết làm sao được, những lời nói ban sáng của mụ đàn bà nọ vẫn đeo bám, ám ảnh, dằn
vặt tôi mãi. Tôi trằn trọc mãi mà không tài nào ngủ được. Một đêm thức trắng!
Ba bốn ngày sau đó tôi luôn cảm thấy bất an lo sợ, không dám bước chân ra khỏi
nhà nửa bước dù chỉ là sang nhà bác Thứ, chỉ cần một đám đông túm tụm lại , hay
nghe tiếng cười nói xa xa, tôi cũng hoang mang, cho rằng người ta đang nói về “cái
chuyện ấy”, rồi chỉ loáng thoảng nghe được mấy tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông là tôi
lại lủi ra một góc nhà, nín thít. Đặc biệt là mụ chủ nhà, từ ngày xảy ra chuyện ấy, thỉnh
thoảng mụ lại chạy sang nói bóng nói gió, đâm chọt, chế giễu, dọa nạt gia đình tôi một
hồi. Hình như mụ ta lấy điều làm cho vợ chồng tôi khổ ngấm khổ ngầm là mụ thích.
Thậm chí có lần mụ còn đe dọa rằng ở đây người ta đồn rằng không chứa người làng
Chợ Dầu chúng tôi ở đây nữa. Tuy đây chỉ là việc do vợ tôi kể lại nhưng cũng làm tôi
khốn đốn, khổ sở một phen. Rời khỏi đây gia đình tôi biết đi đâu về đâu bây giờ, ai
người ta cho ở nhờ, ai người ta buôn bán với? “Hay là quay về làng…” vừa mới chớm
nghĩ như vậy, tôi lập tức phản đối ngay, về làng không phải là cam chịu cái mác Việt
gian, phản bội Tổ quốc, bỏ lại kháng chiến, cụ Hồ… Cuối cùng, phải gian nan lắm tôi
mới ra được quyết định: Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.
Quyết định thì như vậy nhưng cái tình yêu làng này đã ngấm vào máu thịt, là một
phần cơ thể của tôi rồi, đâu phải bảo thù là tôi thù ngay được, thế là tôi phải tìm thằng
Húc trò chuyện để để giải khuây. Khi tôi hỏi nó nhà ta ở đâu thì nó trả lời là làng Chợ
Dầu, khi tôi hỏi nó có muốn về làng không nó chỉ khe khẽ đáp: có. Vậy mà khi tôi hỏi
nó ủng hộ ai thì nó lại trả lời mạnh bạo và rành rọt: ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn
năm. Nghe câu trả lời của nó mà lòng tôi đau như cắt, bởi tâm sự của nó cũng là tâm
sự của tôi, nói với nó cũng là tôi đang tự giải tỏa lòng mình, như để mình lại minh oan
cho mình nữa. Tôi biết cái ý nghĩ mong có anh em đồng chí, cụ Hồ nghe được mà biết,
mà soi xét cho bố con tôi chỉ là ý nghĩ viển vông, nhưng tôi vẫn không nhịn được mà
nói chuyện với con. Chí ít, mỗi lần nói chuyện với con xong, lòng tôi cũng vơi đi mấy
phần.
Nhưng có một chuyện đã xảy ra khiến tảng đá trong lòng tôi biến mất hoàn toàn:
ông chủ tịch đã cho hay tin làng tôi được cải chính. Hôm ấy, ngài ấy xuất hiện trước
mặt tôi làm tôi sửng sốt, nhất thời không phản ứng kịp, mãi mới nhớ ra là phải mời
khách vào nhà. Thì ra ngài ấy muốn mời tôi cùng báo tin. Tôi chọn ngay ra bộ quần áo
sạch sẽ, tươm tất nhất mà cho dù là lễ Tết tôi cũng không nỡ diện để mặc vào, chỉnh
gọn gàng lại đầu tóc rồi cùng đi với ngài ấy. Mãi đến sẩm tối tôi mới về đến nhà. Vừa
chia quà cho các con xong, tôi sang ngay nhà bác Thứ và nhà chủ nhà khoe rằng ông
chủ tịch vừa lên cải chính cái tin làng tôi theo giặc là “sai sự mục đích”, thậm chí khoe
cả cái tin nhà tôi bị Tây đốt mất rồ. Mặc dù đối với người nông dân chúng tôi cái nhà là
quan trọng nhất nhưng tôi không ức chế nổi sự sung sướng của mình. Chỉ là một căn
nhà thôi, sau này chiến tranh kết thúc quay về xây dựng lại cũng được, chứ nếu danh
dự của làng bị mất thì đó sẽ là một vết nhơ mà kể cả qua bao nhiêu năm cũng không
xóa nhòa đi nổi.
Tôi tưởng câu chuyện nhỏ này chỉ có gia đình tôi và vài người xung quanh biết
nhưng không thể ngờ được nó lại được nhà văn Kim Lân – một nhà văn cùng quê với
tôi – viết thành một truyện ngắn đăng trên báo Văn nghệ và còn được đánh giá rất
cao. Nhà văn đã mượn truyện của tôi để khái quát thành tình cảm của người nông dân
của khắp mọi nơi trên mọi miền của Tổ quốc. Là người nông dân ai chẳng yêu nơi chôn
rau cắt rốn của mình, đất nước có giặc người nông dân khắp nơi đều đứng lên tham gia
kháng chiến. Đó là sự tin tưởng tuyệt đối vào Cách mạng.
Cuộc sống ngày hôm nay của chúng ta đang ngày càng trở nên tốt hơn, tất cả là
nhờ có Cách mạng. Chính vì vậy chúng ta càng phải cố gắng đem hết sức mình cống
hiến cho đất nước, cho quê hương để đất nước hết giặc, cuộc sống của người nông dân
sẽ được đổi mới hoàn toàn.
Đóng vai ông Sáu kể lại truyện Chiếc lược ngà
Đối với tôi hạnh phúc lớn nhất cả cuộc đời này là có được bé Thu- đứa con gái đầu
lòng của tôi. Dù đã xa con gần tám năm nhưng không ngày nào là tôi không nghĩ đến cái
ngày gia đình được đoàn tụ. Và cuối cùng cơ hội cũng đã đến với tôi khi tôi được về phép
trong ba ngày lòng tôi vui sướng khôn tả nghĩ đến cái cảnh đứa con gái yêu quí của mình
chạy lại ôm tôi vào lòng và được nó gọi một tiếng ba thì hạnh phúc biết bao.
Tôi đi kháng chiến chống Pháp từ khi đứa con đầu lòng và cũng là đứa con duy nhất
của tôi – bé Thu chưa đầy một tuổi. Suốt mấy năm kháng chiến, vợ có lên thăm tôi, nhưng
vì đường sá nguy hiểm nên không thể dắt con bé theo. Tôi chỉ được ngắm con qua tấm
ảnh nhỏ mà thôi.
Vậy là, trong suốt thời gian đó, hai ba con chúng tôi đã không được gặp nhau. Cho
đến khi được về phép, tôi được gặp lại con. Từ đằng xa, nhìn thấy một đứa bé độ tám tuổi,
tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đang chơi ở trước sân nhà, tôi đã đoán biết được
đó là Thu – con gái mình. Tôi không kịp chờ cho xuồng cập bến, nhảy xuống vui mừng
gọi con bé và đưa tay đón chờ con để được ôm con vào lòng cho thỏa nỗi nhớ mong. Thế
nhưng, ngược lại với sự vui mừng của tôi, con bé lúc đầu có vẻ ngạc nhiên, nó cứ đứng
đấy mà tròn mắt nhìn tôi. Sau đó, dường như nó thấy lạ, chắc nó đang phân vân tự hỏi
người xưng ba kia là ai. Rồi sau đó, Thu vụt chạy đi và kêu thét lên. Trước thái độ của
con, tôi cảm thấy rất buồn và đau đớn. Tôi cứ đứng sững lại đó, nhìn theo con. Có lẽ, lúc
ấy, nhìn tôi thật tội nghiệp, thật đáng thương!
Vì đường xa nên chúng tôi chỉ ở nhà được có ba ngày. Trong suốt ba ngày đó,
chúng tôi cố ý để con bé gọi tôi một tiếng ba. Nhưng không, nó rất cứng cỏi, gan lì, bướng
bỉnh. Dù có những lúc phải gọi tôi vào ăn cơm hay phải nhờ tôi chắt hộ nước nồi cơm, thì
nó vẫn nói trỏng và cố ý không gọi tôi lấy một tiếng ba. Tôi khổ tâm trước thái độ của con
bé.
Và điều mà tôi ân hận nhất, trong những ngày được ở bên con, đó là tôi đã lỡ đánh
vào mong và hét lên với con khi nó không chịu nhận miếng trứng cá mà tôi gắp cho nó.
Sau khi bị ba đánh, Thu chạy sang bà ngoại, và không biết ở đó, nó được bà kể cho nghe
chuyện gì, nhưng đến lúc nó về nhà, tôi thấy nó có vẻ khang khác.Sáng hôm đó, bà con
nội ngoại đến rất đông để chia tay chúng tôi. Tôi phải lo tiếp khách nên không chú ý được
đến con bé nhiều, con bé dường như cứ đứng hết nhìn mọi người rồi nhìn tôi. Không biết
lúc đó, nó đã nghĩ gì? Nhưng nhìn con bé có vẻ buồn, một vẻ buồn trông rất dễ thương với
một vẽ nghĩ ngợi sâu xa. Đến lúc, tôi phải lên đường, thấy nó đứng ở góc nhà, mặc dù rất
muốn ôm hôn từ biệt con để đi xa, nhưng tôi sợ nó sẽ phản ứng như lúc tôi về. Nên tôi
đành chỉ đứng nhìn con bé, nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Thế nhưng, ngược lại
với những gì tôi nghĩ. Con bé bỗng kêu thét lên: Ba…a…a…ba!, rồi sau tiếng kêu như xé
lòng đó, nó chạy xô tới, nhanh như sóc, ôm chặt lấy cổ tôi. Nó vừa ôm, vừa hôn tôi, vừa
khóc vừa giữ không cho tôi đi. Sau khi nó được mọi người giỗ dành, mới chịu buông để
tôi lên đường. Trước khi tôi đi, con bé đã không quên dặn ba mua cho một cây lược.
Sau đó chúng tôi trở lại chiến trường miền Đông, chúng tôi không phải đi tập kết
nữa. Một ngày, tôi đã tìm được một khúc ngà voi. Tôi muốn tự tay làm cho con gái bé
bỏng của mình một cây lược thật đẹp. Hằng ngày tôi tỉ mẩn cưa từng chiếc răng lược và
còn cẩn thận khắc lên đó những dòng chữ yêu thương dành tặng cho con. Tôi mong rằng,
chiến tranh kết thúc, mình sẽ được trở về, trao tận tay con bé món quà nhỏ ấy.
Nhưng rồi, một chuyện không may đã xảy ra với tôi. Một ngày cuối năm mươi tám
– trong một trận càn lớn của Mỹ – Ngụy, tôi đã bị thương nặng. Trước lúc lìa xa cõi đời,
tôi đã kịp đứa cho anh Ba – người bạn chiến đấu của mình cây lược ngà với hi vọng rằng
anh sẽ thay tôi trao tận tay cho con bé. Và dường như trong cơn hấp hối, tiếng anh Ba vẫn
văng vẳng bên tai tôi: “Tôi sẽ mang về trao tận tay cho cháu”.