You are on page 1of 33

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

Biên soạn: GS.TSKH Đỗ Đức Thái (Chủ biên), GS.TS Nguyễn Minh Thuyết,
PGS.TS Nguyễn Văn Khánh, PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà, PGS.TS Mai Sĩ Tuấn,
PGS.TS Hồ Sĩ Đàm, PGS.TS Lê Huy Hoàng và một số thành viên Ban soạn
thảo CTGDPT 2018

NHẬP MÔN KHOA HỌC TỰ NHIÊN


VÀ CÔNG NGHỆ
CHƢƠNG 4: GIÁO DỤC KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ CÔNG NGHỆ

HÀ NỘI – 2019
CHƢƠNG 4

GIÁO DỤC KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ CÔNG NGHỆ

§7. KHÁI QUÁT VỀ CHƢƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG 2018

I. Bối cảnh, quan điểm xây dựng Chƣơng trình giáo dục phổ thông 2018

1. Bối cảnh xây dựng Chƣơng trình giáo dục phổ thông 2018

Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành được ban hành theo Nghị quyết
số 40/2000/QH10 ngày 09/12/2000 của Quốc hội là một bước tiến so với ba lần cải
cách giáo dục trước đó và đã hoàn thành tốt nhiệm vụ lịch sử của một giai đoạn khá
dài của đất nước. Kết quả giáo dục trong gần 20 năm qua nói chung và kết quả
những kì thi quốc tế mà học sinh Việt Nam tham gia như các kì thi Olympic Toán, Vật
lí, Hoá học, Sinh học cấp trung học phổ thông, các kì thi học sinh giỏi cấp tiểu học khu
vực châu Á và Đông Nam Á và kì sát hạch cuối cấp trung học cơ sở theo Chương
trình PISA năm 2015 đã chứng tỏ tác động tích cực của chương trình hiện hành
trong giáo dục thế hệ trẻ.

Tuy nhiên, đất nước và nhân loại đã bước sang một giai đoạn phát triển mới
với những yêu cầu mới về phát triển nguồn nhân lực, phát triển con người.

Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nước ta đã thoát khỏi tình trạng
kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Tuy
nhiên, những thành tựu về kinh tế của nước ta chưa vững chắc, chất lượng nguồn
nhân lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao, môi trường văn hoá còn tồn tại
nhiều hạn chế, chưa hội đủ các nhân tố để phát triển nhanh và bền vững.

Cũng trong khoảng thời gian trước và sau khi nước ta tiến hành đổi mới, thế
giới chứng kiến những biến đổi sâu sắc về mọi mặt. Các cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ ba và lần thứ tư nối tiếp nhau ra đời, kinh tế tri thức phát triển mạnh
đem lại cơ hội phát triển vượt bậc, đồng thời cũng đặt ra những thách thức không
nhỏ đối với mỗi quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển.
Mặt khác, những biến đổi về khí hậu, tình trạng cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi
trường, mất cân bằng sinh thái và những biến động về chính trị, xã hội cũng đặt ra
những thách thức có tính toàn cầu. Để bảo đảm phát triển bền vững, nhiều quốc gia
đã không ngừng đổi mới Chương trình giáo dục phổ thông nói riêng, giáo dục đào
tạo nói chung để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trang bị cho các thế hệ tương
lai nền tảng văn hoá vững chắc và năng lực thích ứng cao trước mọi biến động của
thiên nhiên và xã hội. Đổi mới giáo dục đã trở thành nhu cầu cấp thiết và xu thế
mang tính toàn cầu.

Chính trong bối cảnh đó, ngày 04/11/2013, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) đã thông qua Nghị quyết số
29-NQ/TW (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 29) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Quan điểm chỉ đạo
đổi mới giáo dục của Nghị quyết 29 là: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ
yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
Học đi đôi với hành; lí luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo
dục gia đình và giáo dục xã hội”. Tư tưởng này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát
triển giáo dục trên thế giới hiện nay.

Để thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương, ngày 28/11/2014, Quốc hội đã
ban hành Nghị quyết số 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa
Giáo dục phổ thông (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 88). Căn cứ vào Nghị quyết 88
của Quốc hội, ngày 27/3/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
404/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa Giáo dục phổ
thông (sau đây gọi tắt là Quyết định 404).

Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạođã tổ chức xây dựng Chương trình giáo dục phổ
thông 2018 theo đúng các quy định của pháp luật: tổng kết, đánh giá chương trình,
sách giáo khoa hiện hành và việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa hiện hành
nhằm xác định những ưu điểm cần kế thừa và những hạn chế, bất cập cần khắc phục;
nghiên cứu bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá trong nước và quốc tế; tổ
chức tập huấn về lí luận và kinh nghiệm trong nước, nước ngoài về xây dựng Chương
trình Giáo dục phổ thông; biên soạn và tổ chức lấy ý kiến các cơ sở giáo dục, các
chuyên gia giáo dục, các tầng lớp nhân dân về dự thảo Chương trình Giáo dục phổ
thông; tổ chức dạy thực nghiệm và thẩm định Chương trình Giáo dục phổ thông.
Ngày 26/12/2018, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kí Thông tư số
32/2018/TT-BGDĐT ban hành Chương trình Giáo dục phổ thông, bao gồm Chương
trình tổng thể (khung chương trình) và 27 chương trình môn học, hoạt động giáo
dục.

2. Quan điểm xây dựng Chƣơng trình Giáo dục phổ thông 2018

Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được xây dựng dựa trên những quan
điểm như sau:

2.1. Vai trò của Chương trình Giáo dục phổ thông

– Chương trình giáo dục phổ thông là văn bản quy phạm pháp luật được ban
hành theo quy định của Luật Giáo dục và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan
để điều chỉnh hành vi của các cơ quan nhà nước, các cơ sở giáo dục, cán bộ quản lí
giáo dục, giáo viên, học sinh và các tổ chức, cá nhân khác trong lĩnh vực Giáo dục
phổ thông; làm căn cứ để tổ chức công tác giáo dục, quản lí và giám sát chất lượng
Giáo dục phổ thông.

– Mặt khác, Chương trình giáo dục phổ thông cũng là cam kết của Nhà nước
bảo đảm các điều kiện thực hiện chương trình để người học đạt được các yêu cầu về
phẩm chất chủ yếu và năng lực cốt lõi quy định trong chương trình, đúng như yêu
cầu được nêu trong Nghị quyết 29 của Trung ương Đảng: “Trên cơ sở mục tiêu đổi
mới giáo dục và đào tạo, cần xác định rõ và công khai mục tiêu, chuẩn đầu ra của
từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và chuyên ngành đào tạo. Coi đó là
cam kết bảo đảm chất lượng của cả hệ thống và từng cơ sở giáo dục và đào tạo; là
căn cứ giám sát, đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo”.

2.2. Căn cứ xây dựng Chương trình Giáo dục phổ thông

Chương trình giáo dục phổ thông được xây dựng dựa trên những căn cứ sau đây:

– Căn cứ chính trị và pháp lí: quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Việt Nam về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Luật Giáo dục,
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật
khác liên quan;
– Căn cứ thực tiễn: nhu cầu phát triển của đất nước; kinh nghiệm xây dựng
và thực hiện các Chương trình giáo dục phổ thông đã có của Việt Nam; quyền của
thanh niên, thiếu niên và nhi đồng;

– Căn cứ lí luận: những tiến bộ của thời đại về khoa học – công nghệ và xã
hội; đặc điểm con người, văn hoá Việt Nam, các giá trị truyền thống của dân tộc và
những giá trị chung của nhân loại; thành tựu nghiên cứu về khoa học giáo dục và
kinh nghiệm xây dựng chương trình theo mô hình phát triển năng lực của những
nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.

2.3. Định hướng của Chương trình Giáo dục phổ thông

– Mục tiêu giáo dục: bảo đảm phát triển phẩm chất và năng lực người học.

– Nội dung giáo dục: giáo dục những kiến thức cơ bản, thiết thực, hiện đại;
hài hoà đức, trí, thể, mĩ; chú trọng thực hành, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn
đề trong học tập và đời sống; tích hợp cao ở các lớp học dưới, phân hoá dần ở các
lớp học trên.

– Phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục: áp dụng các phương
pháp, hình thức tổ chức giáo dục phát huy tính chủ động và tiềm năng của mỗi học
sinh, các phương pháp kiểm tra, đánh giá phù hợp với mục tiêu giáo dục và phương
pháp giáo dục để đạt được mục tiêu đó.

2.4. Tính hệ thống của Chương trình Giáo dục phổ thông

– Chương trình bảo đảm kết nối chặt chẽ giữa các lớp học, cấp học
với nhau.

– Chương trình bảo đảm liên thông với chương trình Giáo dục mầm non,
chương trình Giáo dục nghề nghiệp và chương trình Giáo dục đại học.

2.5. Tính mở của Chương trình Giáo dục phổ thông

– Chương trình bảo đảm định hướng thống nhất và những nội dung giáo dục
cốt lõi, bắt buộc đối với học sinh toàn quốc, đồng thời trao quyền chủ động và trách
nhiệm cho địa phương và nhà trường trong việc lựa chọn, bổ sung một số nội dung
giáo dục và triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp với đối tượng giáo dục và điều
kiện của địa phương, của cơ sở giáo dục, góp phần bảo đảm kết nối hoạt động của
nhà trường với gia đình, chính quyền và xã hội.

– Chương trình chỉ quy định những nguyên tắc, định hướng chung về yêu cầu
cần đạt về phẩm chất và năng lực của học sinh, nội dung giáo dục, phương pháp
giáo dục và phương pháp đánh giá kết quả giáo dục, không quy định quá chi tiết, để
tạo điều kiện cho tác giả sách giáo khoa và giáo viên phát huy tính chủ động, sáng
tạo trong thực hiện chương trình.

– Chương trình bảo đảm tính ổn định và khả năng phát triển trong quá trình
thực hiện cho phù hợp với tiến bộ khoa học – công nghệ và yêu cầu của thực tế. II.

II. Những điểm mới của Chƣơng trình giáo dục phổ thông 2018

1. Về mục tiêu giáo dục

Các văn kiện của Đảng và Nhà nước về đổi mới chương trình, sách giáo khoa
Giáo dục phổ thông như Nghị quyết 29, Nghị quyết 88 và Quyết định 404 đều xác định
mục tiêu đổi mới Chương trình Giáo dục phổ thông là góp phần chuyển nền giáo
dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện phẩm chất
và năng lực của người học. Nói một cách vắn tắt, nếu như một chương trình đặt
mục tiêu truyền thụ kiến thức đơn thuần trả lời cho câu hỏi: “Học xong chương
trình, học sinh BIẾT được những gì?” thì một chương trình đặt mục tiêu phát triển
phẩm chất và năng lực của người học sẽ phải trả lời được câu hỏi: “Học xong
chương trình, học sinh LÀM được những gì?”.

Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 được xây dựng theo định hướng:

- Phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh;

- Phát triển hài hòa đức, trí, thể, mĩ của học sinh;

- Đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân;

- Trở thành người lao động có văn hóa, cần cù, sáng tạo, người công dân có
trách nhiệm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời
đại toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới.

1.1. Phẩm chất và chƣơng trình giáo dục phát triển phẩm chất
a. Khái niệm phẩm chất

Trong tiếng Việt, phẩm chất được hiểu là “cái làm nên giá trị của người hay
1
vật” . Tâm lí học phân biệt phẩm chất tâm lí – “những đặc điểm thuộc tính tâm lí,
nói lên mặt đức (theo nghĩa rộng) của một nhân cách” với phẩm chất trí tuệ –
“những đặc điểm bảo đảm cho hoạt động nhận thức của một người đạt kết quả tốt,
bao gồm những phẩm chất của tri giác (óc quan sát), của trí nhớ (nhớ nhanh, chính
xác...), của tưởng tượng, tư duy, ngôn ngữ và chú ý. Trí thông minh là hiệu quả
tổng hợp của phẩm chất trí tuệ”2. Như vậy, đặt trong sự đối sánh với năng lực, khái
niệm phẩm chất nêu trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước về đổi mới chương
trình, sách giáo khoa Giáo dục phổ thông có nghĩa là đạo đức. Yêu cầu “phát triển
toàn diện cả về phẩm chất và năng lực” là sự tiếp nối truyền thống xây dựng con
người toàn diện có đức có tài, vừa hồng vừa chuyên của dân tộc.

Trong giáo dục cũng như trong đời sống, phẩm chất (đức) được đánh giá bằng
hành vi, còn năng lực (tài) được đánh giá bằng hiệu quả của hành động.

b. Yêu cầu cần đạt về phẩm chất và căn cứ xác định các yêu cầu cần đạt về
phẩm chất của người học trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018

Chương trình giáo dục phổ thông xác định mục tiêu hình thành và phát triển
cho học sinh những phẩm chất chủ yếu sau: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung
thực, trách nhiệm.

Căn cứ để xác định các phẩm chất chủ yếu nói trên là những phẩm chất của
con người Việt Nam được nêu trong các văn kiện của Đảng về xây dựng văn hoá,
con người Việt Nam (cụ thể là Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 về xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị
quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 về xây dựng và phát triển văn hoá, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước).

Nghị quyết số 03 (thường gọi là Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII) xác
định năm nhóm phẩm chất của con người Việt Nam như sau: (1) Có tinh thần yêu
nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí
vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới
1
Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, 2005, tr.770.
2
Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 3, Nxb Từ
điển bách khoa, Hà Nội, 2003, tr.427.
trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội;
(2) Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung; (3) Có lối sống lành
mạnh, nếp sống vǎn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỉ cương
phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh
thái; (4) Lao động chǎm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kĩ thuật, sáng tạo, nǎng
suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội; (5) Thường xuyên học
tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mĩ và thể lực.

Từ năm nhóm nói trên, sau khi gộp một số đặc tính trùng nhau hoặc gần nhau
(cần kiệm, chăm chỉ và thường xuyên học tập, rèn luyện; đoàn kết và nhân nghĩa)
vào một từ khoá và chuyển sáng tạo sang phạm trù năng lực, có thể rút ra năm
phẩm chất như sau: yêu nước, nhân nghĩa, cần kiệm, trung thực, kỉ cương.

Nghị quyết số 33 khoá XI nêu ra bảy đặc tính của con người Việt Nam: yêu
nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Sau khi gộp một
số đặc tính trùng nhau hoặc gần nhau (nhân ái, nghĩa tình, đoàn kết) vào một từ
khoá và chuyển sáng tạo sang phạm trù năng lực, có thể rút ra bốn phẩm chất như
sau: yêu nước, nhân ái, trung thực, cần cù.

Có thể thấy những phẩm chất chủ yếu cần hình thành, phát triển cho học sinh
nêu trong dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông mới (yêu nước, nhân ái, chăm
chỉ, trung thực, trách nhiệm) phù hợp với yêu cầu xây dựng con người Việt Nam
trong hai nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm phẩm chất nói trên cũng là kết quả thực hiện Năm điều Bác Hồ dạy
thiếu niên, nhi đồng đã được quán triệt trong giáo dục nước ta từ hơn 50 năm nay.

c. Chương trình giáo dục phát triển phẩm chất của người học

Trong giáo dục, phẩm chất của người học được hình thành và phát triển bằng
hai con đường:

– Thông qua nội dung kiến thức của một số môn học. Ví dụ, tinh thần yêu
nước có thể được hun đúc thông qua nội dung của các môn Lịch sử, Giáo dục công
dân, Giáo dục quốc phòng và an ninh, Hoạt động trải nghiệm và một số nội dung
của các môn Ngữ văn, Địa lí, Sinh học... Phần lớn các môn học này cũng bồi dưỡng
cho học sinh lòng nhân ái, khoan dung, ý thức tôn trọng các nền văn hoá khác nhau,
tôn trọng sự khác biệt giữa mọi người.
– Thông qua phương pháp giáo dục. Ví dụ, tính chăm chỉ, thái độ trung thực
và tinh thần trách nhiệm từng bước được hình thành và phát triển thông qua lao
động học tập hằng ngày dưới sự hướng dẫn, rèn luyện của thầy cô. Tinh thần yêu
nước và lòng nhân ái cũng chỉ có thể hình thành và phát triển bền vững thông qua
các hoạt động thực tế.

1.2. Năng lực và chƣơng trình giáo dục phát triển năng lực

a. Khái niệm năng lực

Dựa vào kết quả nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài, Chương trình giáo
dục phổ thông tổng thể giải thích khái niệm năng lực như sau: “Năng lực là thuộc
tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn
luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc
tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại
hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể”.

Từ định nghĩa trên, có thể rút ra những đặc điểm chính của năng lực là:

– Năng lực là sự kết hợp giữa tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện
của người học.

– Năng lực là kết quả huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc
tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,...

– Năng lực được hình thành, phát triển thông qua hoạt động và thể hiện ở sự
thành công trong hoạt động thực tiễn.

b. Yêu cầu cần đạt về năng lực và căn cứ xác định yêu cầu cần đạt về năng
lực của người học

Chương trình giáo dục phổ thông mới hình thành và phát triển cho học sinh
những năng lực cốt lõi sau: (i) Những năng lực chung được hình thành, phát triển
thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục: năng lực tự chủ và tự học,
năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; (ii) Những
năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và
hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa
học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất.
Bên cạnh việc hình thành, phát triển các năng lực cốt lõi, Chương trình giáo
dục phổ thông còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng lực đặc biệt (năng khiếu)
của học sinh.

Căn cứ để xác định các năng lực cốt lõi trong Chương trình giáo dục phổ
thông mới là Chương trình giáo dục phổ thông của một số nước phát triển và một số
tài liệu giáo dục của các tổ chức quốc tế3.

Tài liệu của OECD đưa ra ba nhóm năng lực cốt lõi là: (i) Sử dụng có tính
tương tác các phương tiện thông tin và công cụ, bao gồm: khả năng sử dụng tương
tác ngôn ngữ, kí hiệu và văn bản; khả năng sử dụng tương tác tri thức và thông tin;
khả năng sử dụng tương tác các công nghệ; (ii) Tương tác trong các nhóm không
đồng nhất, bao gồm: Khả năng duy trì các mối quan hệ tốt với những người khác;
khả năng hợp tác; khả năng giải quyết các xung đột; (iii) Khả năng hành động tự
chủ, bao gồm: khả năng hành động trong các nhóm phức hợp; khả năng tổ chức và
thực hiện các kế hoạch về cuộc sống và dự án cá nhân; khả năng nhận thức các
quyền, lợi ích, giới hạn và nhu cầu cá nhân.

Đây là những năng lực chung mà tất cả các môn học và hoạt động giáo dục
đều cần và có thể hình thành, phát triển ở học sinh. Dựa vào bản chất của các nhóm
năng lực này, Chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam đã đặt lại tên và thay đổi
vị trí sắp xếp các năng lực cho phù hợp với quan niệm truyền thống: năng lực tự
chủ và tự học (năng lực thể hiện trong quan hệ với bản thân), năng lực giao tiếp và
hợp tác (năng lực thể hiện trong quan hệ với người khác), năng lực giải quyết vấn
đề và sáng tạo (năng lực thể hiện trong quan hệ với công việc).

Tài liệu của EU đưa ra tám năng lực cốt lõi: (i) Giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ;
(ii) Giao tiếp bằng tiếng nước ngoài; (iii) Năng lực toán học và năng lực trong khoa
học tự nhiên và công nghệ; (iv) Năng lực kĩ thuật số; (v) Năng lực học tập (học
cách học); (vi) Năng lực xã hội và công dân; (vii) Sáng kiến và tinh thần kinh
doanh; (viii) Ý thức văn hoá và khả năng biểu đạt văn hoá.

3
Chủ yếu là ba tài liệu sau: (i) The Definition and Selection of Key Competencies: Executive Summary (Xác định và
lựa chọn các năng lực cốt lõi: Tóm tắt) của OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, năm 2005); (ii) Key
Competencies for Lifelong Learning – A European Reference Framework (các năng lực cốt lõi để học tập suốt đời –
Khung tham chiếu châu Âu) của EU (Liên minh châu Âu, năm 2006); (iii) New Vision for Education: Unlocking the
Potential of Technology(Tầm nhìn mới về giáo dục: Mở khoá cho tiềm năng của công nghệ) của WEF (Diễn đàn
Kinh tế Thế giới, năm 2015).
EU đưa ra những năng lực này để xác định các lĩnh vực giáo dục và căn cứ
đánh giá kết quả giáo dục. Đây là những năng lực chuyên môn, mỗi năng lực gắn
với một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định.

Tài liệu của WEF đưa ra ba nhóm kĩ năng (Skills) của thế kỉ XXI là:
(i) Học vấn nền tảng (Foundational Literacies), bao gồm: học vấn nền tảng về đọc
viết, học vấn nền tảng về tính toán, học vấn nền tảng về khoa học, học vấn nền tảng
về công nghệ thông tin, học vấn nền tảng về tài chính, văn hoá nền tảng về công
dân và xã hội; (ii) Năng lực (Competencies), bao gồm: tư duy phản biện/giải quyết
vấn đề, sáng tạo, giao tiếp, hợp tác; (iii) Phẩm chất (Character Qualities), bao gồm:
ham tìm hiểu, sáng kiến, kiên trì/dũng cảm, ứng dụng, lãnh đạo, hiểu biết về xã hội
và văn hoá.

Tóm lại, có thể thấy ba năng lực chung và bảy năng lực chuyên môn mà
Chương trình giáo dục phổ thông mới của Việt Nam nêu ra về cơ bản phù hợp với
quan niệm và danh sách các năng lực cốt lõi được xác định trong các tài liệu đã dẫn
của OECD, EU và WEF.

c. Chương trình giáo dục phát triển năng lực của người học

Để phát triển năng lực của người học, Chương trình Giáo dục phổ thông thực
hiện các giải pháp sau: (i) Dạy học phân hoá để phát huy tốt nhất tiềm năng, sở
trường, phù hợp với sở thích, hứng thú của mỗi học sinh;
(ii) Dạy học thông qua các chủ đề, học phần, môn học tích hợp để giúp người học
rút ngắn quá trình huy động tổng hợp các nguồn lực thành năng lực; (iii) Dạy học
thông qua hoạt động tự học, thực hành, vận dụng của người học để hình thành, phát
triển vững chắc năng lực của người học qua hoạt động.

– Dạy học phân hoá:

Dạy học phân hoá là định hướng thiết kế nội dung và phương pháp giáo dục
phù hợp với đặc điểm tâm – sinh lí, khả năng, nhu cầu, hứng thú và định hướng
nghề nghiệp của các đối tượng học sinh khác nhau, nhằm phát triển tối đa tiềm năng
vốn có của mỗi học sinh.

Dạy học phân hoá là xu hướng chung của các nước. So với chương trình hiện
hành, chủ trương dạy học phân hoá trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 có
một số điểm khác như: thực hiện dạy học phân hoá ở tất cả các cấp học theo
phương châm tích hợp cao ở các lớp học, cấp học dưới; phân hoá dần ở các lớp học,
cấp học trên; áp dụng hình thức tự chọn thay cho hình thức phân ban; thực hiện yêu
cầu phân hoá cả trong mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục và đánh giá kết
quả giáo dục; chú trọng cả phân hoá trong (phân hoá vi mô) và phân hoá ngoài (phân
hoá vĩ mô).

Phân hoá trong thể hiện chủ yếu qua định hướng về phương pháp giáo dục,
nhấn mạnh tính tích cực hoá hoạt động của người học, khuyến khích học sinh tích
cực tham gia vào các hoạt động học tập, tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của
bản thân, và qua định hướng về đánh giá kết quả giáo dục, nhấn mạnh bảo đảm sự
tiến bộ của từng học sinh.

Phân hoá ngoài thể hiện ở các môn học tự chọn, các chủ đề, chuyên đề học tập
lựa chọn theo nguyện vọng và định hướng nghề nghiệp. Ở giai đoạn giáo dục cơ bản,
bên cạnh nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện giáo dục toàn diện và tích hợp, Chương
trình giáo dục phổ thông thiết kế một số môn học và hoạt động giáo dục theo các chủ
đề, tạo điều kiện cho học sinh lựa chọn những học phần hoặc chủ đề phù hợp với sở
thích và năng lực của bản thân. Ở giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, bên
cạnh một số môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc, học sinh được lựa chọn những
môn học và chuyên đề học tập phù hợp với nguyện vọng và định hướng nghề nghiệp
của mình.

– Dạy học tích hợp:

Dạy học tích hợp là định hướng thiết kế nội dung giáo dục giúp học sinh
phát triển khả năng huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau để giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong học tập và trong đời sống,
qua đó phát triển được các năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề.
Tính tích hợp thể hiện qua sự huy động, kết hợp, liên hệ các yếu tố có liên quan
với nhau của nhiều lĩnh vực, nhiều môn học để giải quyết có hiệu quả một vấn đề
và thường đạt được nhiều mục tiêu khác nhau.

Dạy học tích hợp là xu thế chung của Chương trình giáo dục phổ thông các
nước. So với chương trình hiện hành, chủ trương dạy học tích hợp trong Chương
trình Giáo dục phổ thông2018 có một số điểm khác như: tăng cường tích hợp nhiều
nội dung trong cùng một môn học; xây dựng một số môn học tích hợp mới ở các
cấp học, tinh thần chung là tích hợp cao ở các lớp học, cấp học dưới và phân hoá
dần ở các lớp học, cấp học trên; thực hiện dạy học tích hợp cả trong mục tiêu, nội
dung, phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục.

Ở cấp tiểu học, Chương trình giáo dục phổ thông mới tiếp tục xây dựng một
số môn học có tính tích hợp trên cơ sở phát triển các môn học tích hợp đã có như:
Tự nhiên và Xã hội, Lịch sử và Địa lí, Khoa học.

Ở cấp trung học cơ sở, Chương trình giáo dục phổ thông mới xây dựng hai
môn học mới có tính tích hợp là: (i) Khoa học tự nhiên (được hình thành chủ yếu từ
các ngành khoa học Vật lí, Hoá học, Sinh học, Khoa học Trái Đất); (ii) Lịch sử và
Địa lí (được hình thành chủ yếu từ các ngành khoa học Lịch sử, Địa lí).

Ở cả ba cấp học còn có một hoạt động giáo dục tích hợp là Hoạt động trải
nghiệm (tiểu học) và Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp (Trung học cơ sở và
Trung học phổ thông).

– Dạy học thông qua hoạt động tích cực của người học:

Đặc điểm chung của các phương pháp giáo dục được áp dụng trong Chương
trình Giáo dục phổ thông 2018 là tích cực hoá hoạt động của người học, trong đó giáo
viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho học sinh, tạo môi trường học tập
thân thiện và những tình huống có vấn đề để khuyến khích học sinh tích cực tham gia
vào các hoạt động học tập, tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân, rèn luyện
thói quen và khả năng tự học, phát huy tiềm năng và những kiến thức, kĩ năng đã tích
luỹ được để phát triển.

Các hoạt động học tập của học sinh bao gồm hoạt động khám phá vấn đề,
hoạt động luyện tập và hoạt động thực hành (ứngdụng những điều đã học để phát
hiện và giải quyết những vấn đề có thực trong đời sống) được tổ chức trong và
ngoài khuôn viên nhà trường, trong và ngoài giờ lên lớp thông qua một số hình thức
chủ yếu như học lí thuyết; thực hiện bài tập, thí nghiệm, trò chơi, đóng vai, dự án
nghiên cứu; tham gia seminar, tham quan, cắm trại, đọc sách; sinh hoạt tập thể, hoạt
động phục vụ cộng đồng. Tuỳ theo mục tiêu cụ thể và tính chất của hoạt động, học
sinh được tổ chức làm việc độc lập, làm việc theo nhóm hoặc làm việc chung cả
lớp. Dù làm việc độc lập, theo nhóm hay theo đơn vị lớp, mỗi học sinhđều được tạo
điều kiện để tự mình thực hiện nhiệm vụ học tập và trải nghiệm thực tế.

2. Về kế hoạch và nội dung giáo dục


2.1. Kế hoạch và nội dung giáo dục ở cấp tiểu học

a. Thời lượng giáo dục

Cấp tiểu học thực hiện dạy học 2 buổi/ngày, mỗi ngày bố trí không quá 7 tiết
học. Cơ sở giáo dục chỉ có điều kiện tổ chức dạy học 6 buổi/tuần không bố trí dạy
học các môn học tự chọn.

b. Các môn học và hoạt động giáo dục

– Các môn học và hoạt động giáo dụcbắt buộc: Tiếng Việt; Toán; Đạo đức;
Ngoại ngữ 1 (ở lớp 3, lớp 4, lớp 5); Tự nhiên và Xã hội (ở lớp 1, lớp 2, lớp 3); Lịch
sử và Địa lí (ở lớp 4, lớp 5); Khoa học (ở lớp 4, lớp 5); Tin học và Công nghệ (ở lớp
3, lớp 4, lớp 5); Giáo dục thể chất, Nghệ thuật, Hoạt động trải nghiệm (trong đó có
nội dung giáo dục của địa phương).

– Các môn học tự chọn (dạy ở những nơi có đủ điều kiện dạy học và cha mẹ học
sinh có nguyện vọng): Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 1 (dạy ở lớp 1, lớp 2).

2.2. Kế hoạch và nội dung giáo dục ở cấp trung học cơ sở

a. Thời lượng giáo dục

Cấp trung học cơ sở thực hiện dạy học 1 buổi/ngày, mỗi buổi không bố trí quá
5 tiết học. Khuyến khích các trường trung học cơ sở đủ điều kiện thực hiện dạy
học 2 buổi/ngày theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

b. Các môn học và hoạt động giáo dục

– Các môn học và hoạt động giáo dụcbắt buộc: Ngữ văn; Toán; Ngoại ngữ 1;
Giáo dục công dân; Lịch sử và Địa lí; Khoa học tự nhiên; Công nghệ; Tin học; Giáo
dục thể chất; Nghệ thuật; Hoạt động trải nghiệm; Nội dung giáo dục của địa
phương.

Các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc đều tích hợp nội dung giáo dục
hướng nghiệp; ở lớp 8 và lớp 9, các môn học Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật, Giáo
dục công dân,Hoạt động trải nghiệm và Nội dung giáo dục của địa phươngcó chủ đề
về nội dung giáo dục hướng nghiệp.

– Các môn học tự chọn: Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 2.
2.3. Kế hoạch và nội dung giáo dục ở cấp trung học phổ thông

a. Thời lượng giáo dục

Cấp trung học phổ thông thực hiện dạy học 1 buổi/ngày, mỗi buổi không bố
trí quá 5 tiết học. Khuyến khích các trường Trung học phổ thông đủ điều kiện thực
hiện dạy học 2 buổi/ngày theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

b. Các môn học và hoạt động giáo dục

– Các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc: Ngữ văn; Toán; Ngoại ngữ 1;
Giáo dục thể chất; Giáo dục quốc phòng và an ninh; Hoạt động trải nghiệm, hướng
nghiệp; Nội dung giáo dục của địa phương.

– Các môn học được lựa chọn theo định hướng nghề nghiệp:

+ Nhóm môn Khoa học xã hội: Lịch sử, Địa lí, Giáo dục kinh tế và pháp luật.

+ Nhóm môn Khoa học tự nhiên: Vật lí, Hoá học, Sinh học.

+ Nhóm môn Công nghệ và Nghệ thuật: Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật.

Học sinh chọn 5 môn học từ 3 nhóm môn học trên, mỗi nhóm chọn ít nhất 1
môn.

– Các chuyên đề học tập: Mỗi môn học Ngữ văn, Toán, Lịch sử, Địa lí, Giáo
dục kinh tế và pháp luật, Vật lí, Hoá học, Sinh học, Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật
có một số chuyên đề học tập tạo thành cụm chuyên đề học tập của môn học giúp
học sinh tăng cường kiến thức và kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức giải quyết
những vấn đề của thực tiễn, đáp ứng yêu cầu định hướng nghề nghiệp. Thời lượng
dành cho mỗi chuyên đề học tập từ 10 đến 15 tiết; tổng thời lượng dành cho cụm
chuyên đề học tập của một môn là 35 tiết. Ở mỗi lớp 10, 11, 12, học sinh chọn 3 cụm
chuyên đề học tập của 3 môn học phù hợp với nguyện vọng của bản thân và điều
kiện tổ chức của nhà trường.

Các trường có thể xây dựng các tổ hợp môn học từ 3 nhóm môn học và
chuyên đề học tập nói trên để vừa đáp ứng nhu cầu của người học vừa bảo đảm phù
hợp với điều kiện về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường.

– Các môn học tự chọn: Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 2.
3. Về phƣơng pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục

3.1. Phương pháp giáo dục

Các môn học và hoạt động giáo dục trong nhà trường áp dụng các phương
pháp tích cực hoá hoạt động của người học, trong đó giáo viên đóng vai trò tổ chức,
hướng dẫn hoạt động cho học sinh, tạo môi trường học tập thân thiện và những tình
huống có vấn đề để khuyến khích học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học
tập, tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân, rèn luyện thói quen và khả
năng tự học, phát huy tiềm năng và những kiến thức, kĩ năng đã tích luỹ được để
phát triển.

Các hoạt động học tập của học sinh bao gồm hoạt động khám phá vấn đề,
hoạt động luyện tập và hoạt động thực hành (ứng dụng những điều đã học để phát
hiện và giải quyết những vấn đề có thực trong đời sống), được thực hiện với sự hỗ
trợ của thiết bị dạy học tối thiểu, đồ dùng học tập và công cụ khác, đặc biệt là công
cụ tin học và các hệ thống tự động hoá của kĩ thuật số.

Các hoạt động học tập nói trên được tổ chức trong và ngoài khuôn viên nhà
trường, trong và ngoài giờ lên lớp thông qua một số hình thức chủ yếu sau: học lí
thuyết; thực hiện bài tập, thí nghiệm, trò chơi, đóng vai, dự án nghiên cứu; tham gia
xêmina, tham quan, cắm trại, đọc sách; sinh hoạt tập thể, hoạt động phục vụ cộng
đồng.

Tuỳ theo mục tiêu cụ thể và tính chất của hoạt động, học sinh được tổ chức
làm việc độc lập, làm việc theo nhóm hoặc làm việc chung cả lớp. Tuy nhiên, dù
làm việc độc lập, theo nhóm hay theo đơn vị lớp, mỗi học sinh đều phải được tạo
điều kiện để tự mình thực hiện nhiệm vụ học tập và trải nghiệm thực tế.

3.2. Đánh giá kết quả giáo dục

Ở Việt Nam, kết quả đánh giá chưa đạt được mục tiêu cung cấp thông tin cho
nhà quản lí và giáo viên để hướng dẫn và điều chỉnh các hoạt động dạy học. Giáo
viên và học sinh có xu hướng dạy và học để ứng phó với kì thi, chạy theo thành
tích, thay vì hướng đến việc đạt được mục tiêu giáo dục. Do đó, các kì thi và kiểm
tra đã tạo ra nhiều áp lực cho học sinh, giáo viên, cha mẹ học sinh và xã hội nói
chung.
Trong Chương trình giáo dục phổ thông mới, việc đánh giá học sinh sẽ có
những thay đổi căn bản. Căn cứ đánh giá là các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và
năng lực được quy định trong Chương trình tổng thể và Chương trình môn học,
hoạt động giáo dục. Việc đánh giá thường xuyên do giáo viên phụ trách môn học tổ
chức, dựa trên kết quả đánh giá của giáo viên, của phụ huynh học sinh, của bản thân
học sinh được đánh giá và của các học sinh khác trong tổ, trong lớp. Việc đánh giá
định kì do cơ sở giáo dục tổ chức để phục vụ công tác quản lí các hoạt động dạy
học, bảo đảm chất lượng ởcơ sở giáo dục và phục vụ công tác phát triển chương
trình. Việc đánh giá trên diện rộng ở cấp Quốc gia, cấp địa phương do tổ chức khảo
thí cấp Quốc gia hoặc cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức để phục vụ
công tác quản lí các hoạt động dạy học, bảo đảm chất lượng đánh giá kết quả giáo
dục ở cơ sở giáo dục, phục vụ công tác phát triển chương trình và nâng cao chất
lượng giáo dục.

Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể nêu rõ: “Bộ Giáo dục và
Đào tạo sẽ nghiên cứu từng bước áp dụng các thành tựu của khoa học đo lường,
đánh giá trong giáo dục và kinh nghiệm quốc tế vào việc nâng cao chất lượng đánh
giá kết quả giáo dục, xếp loại học sinh ở cơ sở giáo dục và sử dụng kết quả đánh giá
trên diện rộng làm công cụ kiểm soát chất lượng đánh giá ở cơ sở giáo dục, hỗ trợ
mục tiêu phát triển phẩm chất, năng lực người học của Chương trình giáo dục phổ
thông mới”.

§8. GIÁO DỤC KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ CÔNG NGHỆ

I. Đặc điểm của lĩnh vực giáo dục khoa học tự nhiên và công nghệ

Bên cạnh vai trò góp phần hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu và
năng lực chung cho học sinh, giáo dục khoa học tự nhiên và công nghệ có sứ mệnh
hình thành và phát triển thế giới quan khoa học ở học sinh; đóng vai trò chủ đạo
trong việc giáo dục học sinh tinh thần khách quan, tình yêu thiên nhiên, tôn trọng
các quy luật của tự nhiên để từ đó biết ứng xử với tự nhiên phù hợp với yêu cầu
phát triển bền vững xã hội và môi trường. Thông qua các hoạt động học tập của lĩnh
vực này, học sinh dần hình thành và phát triển năng lực khoa học tự nhiên và năng
lực công nghệ qua quan sát và thực nghiệm, năng lực vận dụng tổng hợp kiến thức,
kĩ năng để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
Giáo dục khoa học tự nhiên và công nghệ được thực hiện trong nhiều môn
học, cốt lõi là các môn Tự nhiên và Xã hội (lớp 1, lớp 2 và lớp 3); Khoa học (lớp 4
và lớp 5); Tin học và Công nghệ (lớp 3, lớp 4, lớp 5); Khoa học tự nhiên (trung học
cơ sở); Công nghệ; Tin học (trung học cơ sở); Vật lí, Hoá học, Sinh học, Công
nghệ, Tin học (trung học phổ thông); cùng với đó là Toán học (từ lớp 1 đến lớp 12).

Giáo dục khoa học tự nhiên và công nghệ được xây dựng và phát triển trên
nền tảng các khoa học toán học, tin học, vật lí, hoá học, sinh học và khoa học Trái
Đất. Đối tượng nghiên cứu của Khoa học tự nhiên là các sự vật, hiện tượng, quá
trình, các thuộc tính cơ bản về sự tồn tại, vận động của thế giới tự nhiên. Trong
Chương trình các môn thuộc lĩnh vực giáo dục khoa học tự nhiên và công nghệ, nội
dung giáo dục về những nguyên lí và khái niệm chung nhất của thế giới tự nhiên
được tích hợp theo nguyên lí của tự nhiên, đồng thời bảo đảm logic bên trong của
từng mạch nội dung.

Đối tượng nghiên cứu của Khoa học tự nhiên và Công nghệ gần gũi với đời
sống hằng ngày của học sinh. Bản thân các khoa học tự nhiên (và cả công nghệ) là
khoa học thực nghiệm. Vì vậy, thực hành, thí nghiệm trong phòng thực hành và
phòng học bộ môn, ở thực địa và các cơ sở sản xuất có vai trò, ý nghĩa quan trọng
và là hình thức dạy học đặc trưng của các môn học thuộc lĩnh vực giáo dục khoa
học tự nhiên và công nghệ. Thông qua việc tổ chức các hoạt động thực hành, thí
nghiệm, Giáo dục khoa học tự nhiên và công nghệ giúp học sinh khám phá thế giới
tự nhiên, phát triển nhận thức, tư duy logic và khả năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn.

Khoa học tự nhiên luôn đổi mới để đáp ứng yêu cầu của cuộc sống hiện đại.
Do vậy, giáo dục phổ thông phải liên tục cập nhật những thành tựu khoa học mới,
phản ánh được những tiến bộ của các ngành khoa học, công nghệ và kĩ thuật. Đặc
điểm này đòi hỏi chương trình về Giáo dục khoa học tự nhiên và công nghệ phải
tinh giản các nội dung có tính mô tả để tổ chức cho học sinh tìm hiểu, nhận thức các
kiến thức khoa học có tính nguyên lí, làm cơ sở cho quy trình ứng dụng khoa học
vào thực tiễn.

Cùng với sự trợ giúp của các môn Toán học và Tin học, Giáo dục khoa học
tự nhiên và công nghệ góp phần thúc đẩy giáo dục STEM – một trong những hướng
giáo dục đang được quan tâm phát triển trên thế giới cũng như ở Việt Nam, góp
phần đáp ứng yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực trẻ cho giai đoạn công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nước.

Trong chương trình giáo dục phổ thông, nội dung giáo dục khoa học tự nhiên
được phân chia theo hai giai đoạn.

– Giai đoạn giáo dục cơ bản

Chương trình giáo dục khoa học tự nhiên ở tiểu học tiếp cận một cách đơn
giản một số sự vật, hiện tượng phổ biến trong cuộc sống hằng ngày, giúp người học
có các nhận thức bước đầu về thế giới tự nhiên.

Ở trung học cơ sở, giáo dục khoa học tự nhiên được thực hiện chủ yếu thông
qua môn Khoa học tự nhiên với việc tích hợp các kiến thức, kĩ năng về vật lí, hoá
học và sinh học. Các kiến thức, kĩ năng này được tổ chức theo các mạch nội dung
(chất và sự biến đổi chất, vật sống, năng lượng và sự biến đổi, Trái Đất và bầu trời),
thể hiện các nguyên lí, quy luật chung của thế giới tự nhiên (tính cấu trúc, sự đa
dạng, sự tương tác, tính hệ thống, quy luật vận động và biến đổi), đồng thời từng
bước phản ánh vai trò của khoa học tự nhiên đối với sự phát triển xã hội và sự vận
dụng kiến thức, kĩ năng về khoa học tự nhiên trong sử dụng và khai thác tài nguyên
thiên nhiên một cách bền vững. Các nội dung này được sắp xếp chủ yếu theo logic
tuyến tính, có kết hợp một số nội dung đồng tâm nhằm hình thành nhận thức về thế
giới tự nhiên và khoa học tự nhiên, giúp học sinh bước đầu vận dụng được kiến
thức, kĩ năng đã học về khoa học tự nhiên trong đời sống.

– Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp

Giáo dục khoa học tự nhiên trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp
được thực hiện qua các môn học Vật lí, Hoá học và Sinh học ở cả ba lớp 10, 11 và
12. Đây là các môn học thuộc nhóm môn khoa học tự nhiên được học sinh lựa chọn
theo định hướng nghề nghiệp, sở thích và năng lực của bản thân. Chương trình mỗi
môn học giúp học sinh tiếp tục phát triển năng lực khoa học tự nhiên dưới các góc
độ đặc thù (vật lí, hóa học, sinh học); vừa bảo đảm phát triển tri thức và kĩ năng trên
nền tảng những năng lực chung và năng lực khoa học tự nhiên đã hình thành ở giai
đoạn giáo dục cơ bản, vừa đáp ứng yêu cầu định hướng vào một số ngành nghề cụ
thể.
II. Năng lực khoa học tự nhiên và công nghệ

1. Trước hết, Giáo dục khoa học tự nhiên và công nghệ hình thành và phát triển cho
học sinh năng lực khoa học tự nhiên, bao gồm các thành phần: nhận thức khoa học
tự nhiên; tìm hiểu tự nhiên; vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào thực tiễn.

2. Giáo dục khoa học tự nhiên và công nghệ hình thành và phát triển cho học sinh
năng lực công nghệ được thể hiện qua các hoạt động sau đây:

- Nhận thức công nghệ;

- Giao tiếp công nghệ;

- Sử dụng công nghệ;

- Đánh giá công nghệ;

- Thiết kế kĩ thuật.

Yêu cầu cần đạt về các năng lực nói trên đối với học sinh mỗi lớp học, cấp
học được quy định trong Chương trình môn Công nghệ và được thực hiện ở chương
trình của nhiều môn học, hoạt động giáo dục, phù hợp với đặc điểm của mỗi môn
học và hoạt động giáo dục, trong đó môn Công nghệ là chủ đạo.

3. Giáo dục khoa học tự nhiên và công nghệ hình thành và phát triển cho học sinh
năng lực tin học được thể hiện qua các hoạt động sau đây:

- Sử dụng và quản lí các phương tiện công nghệ thông tin và truyền thông;

- Ứng xử phù hợp trong môi trường số;

- Giải quyết vấn đề với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin và truyền thông;

- Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong học và tự học;

- Hoạt động hợp tác trong môi trường số.

Yêu cầu cần đạt về các năng lực nói trên đối với học sinh mỗi lớp học, cấp
học được quy định trong Chương trình môn Tin học và được thực hiện trong toàn
bộ các chương trình môn học, hoạt động giáo dục, phù hợp với đặc điểm của mỗi
môn học và hoạt động giáo dục, trong đó môn Tin học là chủ đạo.
4. Giáo dục khoa học tự nhiên và công nghệ hình thành và phát triển cho học sinh
năng lực tính toán được thể hiện qua các hoạt động sau đây:

- Nhận thức kiến thức toán học;

- Tư duy toán học;

- Vận dụng kiến thức, kĩ năng toán học.

Năng lực tính toán được hình thành, phát triển ở nhiều môn học, hoạt động
giáo dục, phù hợp với đặc điểm của mỗi môn học và hoạt động giáo dục. Biểu hiện
tập trung nhất của năng lực tính toán là năng lực toán học, được hình thành và phát
triển chủ yếu ở môn Toán. Yêu cầu cụ thể về năng lực toán học đối với học sinh
mỗi lớp học, cấp học được quy định trong Chương trình môn Toán.

II. Giáo dục công nghệ và Giáo dục tin học

1. Giáo dục công nghệ

Giáo dục công nghệ giúp học sinh học tập và làm việc hiệu quả trong môi
trường công nghệ ở gia đình, nhà trường và xã hội; hình thành và phát triển năng
lực hiểu biết, giao tiếp, sử dụng, đánh giá công nghệ và thiết kế kĩ thuật; góp phần
hình thành và phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp; chuẩn bị cho học sinh
các tri thức nền tảng để tiếp tục học lên, học nghề thuộc lĩnh vực công nghệ hoặc
tham gia cuộc sống lao động.

Cùng với các nội dung giáo dục khác, giáo dục công nghệ góp phần hình thành
và phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung. Với trọng tâm là
hình thành và phát triển năng lực thiết kế, giáo dục công nghệ có nhiều cơ hội và lợi
thế trong hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Bên cạnh
đó, giáo dục công nghệ còn góp phần hình thành và phát triển một số năng lực đặc
thù khác, như: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực tin học.

Giáo dục công nghệ được thực hiện thông qua nhiều môn học, trong đó cốt
lõi là phân môn Công nghệ trong môn Tin học và Công nghệ ở tiểu học và môn
Công nghệ ở trung học cơ sở, trung học phổ thông. Cùng với các môn Toán, Khoa
học tự nhiên và Tin học, môn Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc thực
hiện giáo dục STEM, một trong những xu hướng giáo dục đang được coi trọng ở
nhiều quốc gia trên thế giới và được quan tâm thích đáng trong đổi mới giáo dục
phổ thông của Việt Nam.

Trong chương trình giáo dục phổ thông, nội dung giáo dục công nghệ được
phân chia theo hai giai đoạn.

– Giai đoạn giáo dục cơ bản

Giáo dục công nghệ trang bị cho học sinh những hiểu biết, kĩ năng phổ thông,
cốt lõi về công nghệ; những tri thức và kĩ năng lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân.

Ở tiểu học, học sinh được khám phá thế giới kĩ thuật, công nghệ thông qua
các chủ đề đơn giản về công nghệ và đời sống, một số sản phẩm công nghệ trong
gia đình mà học sinh tiếp xúc hằng ngày, an toàn với công nghệ trong nhà; được trải
nghiệm thiết kế kĩ thuật, công nghệ thông qua các hoạt động thủ công kĩ thuật, lắp
ráp các mô hình kĩ thuật đơn giản.

Ở trung học cơ sở, học sinh được trang bị những tri thức về công nghệ trong
phạm vi gia đình; những nguyên lí cơ bản về các quá trình sản xuất chủ yếu; hiểu
biết ban đầu về tư duy thiết kế; phương pháp lựa chọn, trải nghiệm nghề cùng với
thông tin về các nghề nghiệp thuộc các lĩnh vực sản xuất chủ yếu thông qua các chủ
đề: Công nghệ trong gia đình; Nông - lâm nghiệp và thuỷ sản; Công nghiệp và thiết
kế kĩ thuật; Công nghệ và hướng nghiệp. Cuối cấp trung học cơ sở, ngoài các nội
dung cốt lõi mà tất cả học sinh đều phải học, học sinh được lựa chọn học các nội
dung khác nhau phù hợp với đặc điểm tâm – sinh lí và hứng thú của bản thân, phù
hợp với đặc điểm và điều kiện của mỗi địa phương.

– Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp

Giáo dục công nghệ tiếp tục củng cố và hoàn thiện những kết quả đã đạt được
trong giai đoạn giáo dục cơ bản, đồng thời trang bị cho học sinh những hiểu biết
tổng quan và định hướng nghề về công nghệ thông qua các nội dung về bản chất
của công nghệ; vai trò, ảnh hưởng của công nghệ với đời sống xã hội; mối quan hệ
giữa công nghệ với các lĩnh vực, môn học khác; một số lĩnh vực công nghệ phổ
biến.

Với tính chất định hướng nghề nghiệp, trong giai đoạn này, giáo dục công
nghệ được thiết kế thành hai nhánh riêng biệt gồm: Công nghệ định hướng công
nghiệp và Công nghệ định hướng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản (gọi tắt là định
hướng nông nghiệp). Cả hai định hướng này đều nhằm chuẩn bị cho học sinh tri
thức, năng lực nền tảng giúp học sinh thích ứng tốt nhất với đặc điểm, tính chất và
yêu cầu của các ngành nghề kĩ thuật, công nghệ mà học sinh lựa chọn theo học.

2. Giáo dục tin học

Giáo dục tin học đóng vai trò chủ đạo trong việc chuẩn bị cho học sinh khả
năng tìm kiếm, tiếp nhận, mở rộng tri thức và sáng tạo trong thời đại cách mạng
công nghiệp lần thứ tư và toàn cầu hoá; hỗ trợ đắc lực cho việc tự học của học sinh;
tạo cơ sở vững chắc cho việc ứng dụng công nghệ kĩ thuật số, phục vụ phát triển nội
dung kiến thức mới, triển khai phương thức giáo dục mới và hiện đại cho tất cả các
môn học.

Giáo dục tin học góp phần hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu và
năng lực cốt lõi cho học sinh, đặc biệt có ưu thế trong việc hình thành, phát triển
năng lực tin học với các năng lực thành phần sau: năng lực sử dụng và quản lí các
phương tiện công nghệ thông tin và truyền thông, năng lực ứng xử phù hợp trong
môi trường số, năng lực giải quyết vấn đề với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin và
truyền thông; năng lực ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong học và
tự học; năng lực hợp tác trong môi trường số.

Giáo dục tin học được thực hiện chủ yếu thông qua phân môn Tin học trong
môn Tin học và Công nghệ ở tiểu học, môn Tin học ở trung học cơ sở và trung học
phổ thông. Bên cạnh đó, ứng dụng tin học trong các môn học khác cũng góp phần
quan trọng vào giáo dục tin học.

Nội dung giáo dục tin học cung cấp cho học sinh ba mạch kiến thức: Học vấn
số hoá phổ thông, Công nghệ thông tin và truyền thông, Khoa học máy tính và được
phân chia theo hai giai đoạn.

– Giai đoạn giáo dục cơ bản

Tin học giúp học sinh hình thành và phát triển khả năng ứng dụng tin học;
bước đầu hình thành và phát triển tư duy giải quyết vấn đề với sự trợ giúp của máy
tính; hiểu và tuân theo các nguyên tắc cơ bản trong chia sẻ và trao đổi thông tin.
Ở tiểu học, chủ yếu học sinh học sử dụng các phần mềm đơn giản hỗ trợ học
tập, sử dụng thiết bị tin học tuân theo các nguyên tắc giữ gìn sức khoẻ, đồng thời
bước đầu được hình thành tư duy giải quyết vấn đề có sự hỗ trợ của máy tính.

Ở trung học cơ sở, học sinh tập trung học sử dụng, khai thác các phần mềm
thông dụng làm ra sản phẩm phục vụ học tập và đời sống; thực hành phát hiện và
giải quyết vấn đề một cách sáng tạo với sự hỗ trợ của công nghệ kĩ thuật số; tổ
chức, quản lí, tra cứu, tìm kiếm dữ liệu số hoá, đánh giá và lựa chọn thông tin.

– Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp

Môn Tin học có sự phân hoá sâu theo định hướng nghề nghiệp. Nội dung môn
Tin học ở giai đoạn này được tổ chức thành các nhóm chủ đề theo hai định hướng:
Tin học ứng dụng và Khoa học máy tính. Tuỳ theo sở thích và định hướng nghề
nghiệp của bản thân, học sinh được lựa chọn một trong hai định hướng nói trên thông
qua việc chọn nhóm chủ đề tương ứng.

Định hướng Tin học ứng dụng đáp ứng nhu cầu sử dụng máy tính như một
công cụ của công nghệ kĩ thuật số trong học tập và làm việc. Nội dung Tin học ứng
dụng tập trung vào những chủ đề sau: kết nối và sử dụng các thiết bị phần cứng, cài
đặt phần mềm trên các thiết bị thông dụng, sử dụng các phần mềm công cụ, khai thác
ứng dụng web, quản trị hệ thống ứng dụng.

Định hướng Khoa học máy tính đáp ứng mục đích đi sâu vào hệ thống máy
tính, chú trọng phát triển tư duy máy tính, khả năng tìm tòi, khám phá, phát triển
các phần mềm và dịch vụ trên máy tính. Các chủ đề Khoa học máy tính tập trung
trang bị cho học sinh nguyên lí biểu diễn và xử lí thông tin, kiến thức về thuật toán
và lập trình; một số nguyên tắc thiết kế mạng máy tính.

III. Giáo dục toán học


Giáo dục toán học góp phần hình thành và phát triển cho học sinh các phẩm
chất chủ yếu, năng lực chung và năng lực toán học – biểu hiện tập trung của năng
lực tính toán với những thành tố cốt lõi là: năng lực tư duy và lập luận toán học,
năng lực mô hình hoá toán học, năng lực giải quyết vấn đề toán học, năng lực giao
tiếp toán học, năng lực sử dụng các công cụ và phương tiện học toán; phát triển
kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, vận dụng
toán học vào thực tiễn. Giáo dục toán học tạo lập sự kết nối giữa các ý tưởng toán
học, giữa Toán học với thực tiễn, giữa Toán học với các môn học khác, đặc biệt với
các môn học thuộc lĩnh vực giáo dục STEM.
Giáo dục toán học được thực hiện ở nhiều môn học, hoạt động giáo dục như
Toán, Vật lí, Hoá học, Sinh học, Công nghệ, Tin học, Hoạt động trải nghiệm và
Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp,... trong đó Toán là môn học cốt lõi được học
bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 12.
Chương trình môn Toán được thiết kế theo cấu trúc tuyến tính kết hợp với
“đồng tâm xoáy ốc” (đồng tâm, mở rộng và nâng cao dần), xoay quanh và tích hợp
ba mạch kiến thức: Số, Đại số và Một số yếu tố giải tích; Hình học và Đo lường;
Thống kê và Xác suất. Nội dung môn Toán được phân chia theo hai giai đoạn.
– Giai đoạn giáo dục cơ bản
Môn Toán giúp học sinh nắm được một cách có hệ thống các khái niệm, nguyên
lí, quy tắc toán học cần thiết nhất cho tất cả mọi người, làm nền tảng cho việc học tập
ở các trình độ học tập tiếp theo hoặc có thể sử dụng trong cuộc sống hằng ngày.
– Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp
Chương trình môn Toán ở giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp giúp
cho học sinh có cái nhìn tương đối tổng quát về toán học, hiểu được vai trò và
những ứng dụng của toán học trong thực tiễn, những ngành nghề có liên quan đến
toán học để học sinh có cơ sở định hướng nghề nghiệp, cũng như có khả năng tự
mình tìm hiểu những vấn đề có liên quan đến toán học trong suốt cuộc đời.
§9. GIÁO DỤC STEM

STEM là viết tắt của Science (Khoa học), Technology (Công nghệ),
Engineering (Kĩ thuật) và Mathematic (Toán học).

Trong khoảng hai thập niên gần đây, Giáo dục STEM đã trở nên phổ biến ở
Mỹ và một số nước trên thế giới. Trong bối cảnh như thế, có hai câu hỏi bản chất
cần hiểu rõ:

- Giáo dục STEM là gì? Điểm mạnh và điểm hạn chế?

- Chương trình giáo dục phổ thông mới đề cập đến giáo dục STEM như thế
nào trên cơ sở tính đến trình độ và năng lực của đội ngũ giáo viên; cơ sở vật chất
của các nhà trường; điều kiện kinh tế-xã hội của các địa phương...?
I. Giáo dục STEM là gì?

STEM là một chương trình giảng dạy dựa trên ý tưởng trang bị cho người
học những kiến thức, kĩ năng liên quan đến (các lĩnh vực) khoa học, công nghệ, kỹ
thuật và toán học - theo cách tiếp cận liên môn (interdisciplinary) và người học có
thể áp dụng để giải quyết vấn đề trong cuộc sống hàng ngày. Thay vì dạy bốn môn
học như các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEM kết hợp chúng thành một mô hình
học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế.

Khoa học là nghiên cứu về thế giới tự nhiên, bao gồm các quy luật tự nhiên
liên quan đến vật lý, hóa học, sinh học và cách xử lí hoặc áp dụng các sự kiện,
nguyên lí, khái niệm và các quy ước liên quan đến những lĩnh vực này. Khoa học
bao gồm hai khía cạnh: hệ thống các kiến thức đã được tích lũy qua thời gian và
một quá trình nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra những kiến thức mới. Kiến thức
khoa học tạo ra các quy trình thiết kế kỹ thuật.

Công nghệ bao gồm toàn bộ hệ thống con người, tổ chức, kiến thức, quy
trình và thiết bị nhằm sáng tạo và vận hành các sản phẩm công nghệ. Trong suốt
lịch sử, con người đã tạo ra công nghệ để đáp ứng mong muốn và nhu cầu của họ.
Phần lớn công nghệ hiện đại là sản phẩm của khoa học và kỹ thuật, và các công cụ
công nghệ được sử dụng trong cả hai lĩnh vực.

Kỹ thuật bao gồm hai khía cạnh: một hệ thống các kiến thức về thiết kế và
sáng tạo các sản phẩm do con người tạo ra và một quy trình để giải quyết vấn đề.
Quy trình này là thiết kế dưới sự ràng buộc, trong đó sự ràng buộc đầu tiên là các
quy luật tự nhiên, hay khoa học. Những ràng buộc khác bao gồm thời gian, tiền bạc,
vật liệu sẵn có, nguồn nhân lực, các quy định về môi trường, khả năng sản xuất, và
khả năng phục hồi. Kỹ thuật sử dụng các khái niệm khoa học và toán học như là
các công cụ công nghệ.

Toán học nghiên cứu các mô hình và mối quan hệ giữa các đại lượng, các
con số và không gian. Không giống như trong khoa học, nơi bằng chứng thực
nghiệm được tìm kiếm để đảm bảo hoặc bác bỏ các khẳng định, các khẳng định
trong toán học được đảm bảo thông qua các luận cứ hợp lý dựa trên các tiên đề cơ
bản. Cùng với các khẳng định, các lập luận logic cũng là một phần của toán học
Như trong khoa học, kiến thức về toán học tiếp tục phát triển, nhưng không giống
như trong khoa học, kiến thức về toán học không bị đảo ngược, trừ khi các tiên đề
cơ bản bị thay đổi. Các mạch nội dung cơ bản của toán học ở nhà trường phổ thông
bao gồm số và số học, đại số, hàm số, hình học, thống kê và xác suất. Toán học
được sử dụng trong khoa học, kỹ thuật và công nghệ.

Có thể nói, Giáo dục STEM không hướng đến mục tiêu đào tạo để học sinh
trở thành những nhà toán học, nhà khoa học, kỹ sư hay những kỹ thuật viên mà chủ
yếu là trang bị cho học sinh kiến thức, kỹ năng để làm việc và phát triển trong thế
giới công nghệ hiện đại ngày nay. Giáo dục STEM tạo ra những con người có thể
đáp ứng được nhu cầu công việc của thế kỷ 21, đáp ứng sự phát triển kinh tế, xã hội
của quốc gia và có thể tác động tích cực đến sự thay đổi của nền kinh tế tri thức
trong bối cảnh toàn cầu hóa. “Giáo dục STEM là một cách tiếp cận liên ngành trong
quá trình học, trong đó các khái niệm học thuật mang tính nguyên tắc được lồng
ghép với các bài học trong thế giới thực, ở đó học sinh áp dụng các kiến thức trong
khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học vào các bối cảnh cụ thể, giúp kết nối
giữa trường học, cộng đồng, nơi làm việc và các tổ chức toàn cầu để từ đó phát triển
các năng lực trong lĩnh vực STEM và khả năng cạnh tranh trong nền kinh kế mới”
(Theo Hiệp hội các Giáo viên dạy khoa học Mỹ-NSTA).

Có thể nhìn các thành tố trong Giáo dục STEM dưới góc nhìn phát triển năng
lực của người học. Chẳng hạn, yếu tố “Kỹ thuật” trong Giáo dục STEM tạo ra năng
lực kỹ thuật của người học thể hiện qua khả năng giải quyết vấn đề nảy sinh trong
thực tiễn đời sống bằng cách thiết kế các đối tượng, hệ thống và xây dựng các quy
trình sản xuất để tạo ra chúng Hiểu một cách đơn giản là học sinh được trang bị kỹ
năng lực kỹ thuật thì sẽ có khả năng sản xuất ra đối tượng và hiểu được quy trình để
làm ra nó. Học sinh phải có khả năng phân tích, tổng hợp, kết hợp để biết cách làm
thế nào cân bằng các yếu tố liên quan (như khoa học, nghệ thuật, công nghệ, kỹ
thuật) nhằm có được một giải pháp tốt nhất trong thiết kế và xây dựng quy trình.
Ngoài ra học sinh còn có khả năng nhận ra nhu cầu và phản ứng của xã hội trong
những vấn đề liên quan đến kỹ thuật.

Những điểm mạnh của Giáo dục STEM có thể kể đến:

Thứ nhất: Giáo dục STEM là phương thức giáo dục tích hợp theo cách tiếp
cận liên môn (interdisciplinary) và thông qua thực hành, ứng dụng. Thay vì dạy bốn
môn học như các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEM kết hợp chúng thành một mô
hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế. Qua đó, học sinh vừa học được
kiến thức khoa học, vừa học được cách vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn. Giáo
dục STEM sẽ phá đi khoảng cách giữa hàn lâm và thực tiễn, tạo ra những con người
có năng lực làm việc “tức thì” trong môi trường làm việc có tính sáng tạo cao với
những công việc đòi hỏi trí óc của thế kỷ 21. Điều này phù hợp với cách tiếp cận
tích hợp trong Chương trình GDPT mới. Vì thế, tư tưởng này của Giáo dục STEM
đã được khai thác và đưa vào trong Chương trình GDPT mới.

Thứ hai: Giáo dục STEM đề cao đến việc hình thành và phát triển năng lực
giải quyết vấn đề cho người học. Trong mỗi bài học theo chủ đề STEM, học sinh
được đặt trước một tình huống có vấn đề thực tiễn cần giải quyết liên quan đến các
kiến thức khoa học . Để giải quyết vấn đề đó, học sinh phải tìm tòi, nghiên cứu
những kiến thức thuộc các môn học có liên quan đến vấn đề (qua sách giáo khoa,
học liệu, thiết bị thí nghiệm, thiết bị công nghệ) và sử dụng chúng để giải quyết vấn
đề đặt ra. Các kiến thức và kỹ năng này phải được tích hợp, lồng ghép và bổ trợ cho
nhau giúp học sinh không chỉ hiểu biết về nguyên lý mà còn có thể thực hành và tạo
ra được những sản phẩm trong cuộc sống hằng ngày. Tư tưởng này của Giáo dục
STEM cũng đã được khai thác và đưa vào trong Chương trình GDPT mới.

Thứ ba: Giáo dục STEM đề cao một phong cách học tập mới cho người học,
đó là phong cách học tập sáng tạo. Đặt người học vào vai trò của một nhà phát
minh, người học sẽ phải hiểu thực chất của các kiến thức được trang bị; phải biết
cách mở rộng kiến thức; phải biết cách sửa chữa, chế biến lại chúng cho phù hợp
với tình huống có vấn đề mà người học đang phải giải quyết. Sự thẩm thấu kiến
thức theo cách như vậy chính là một trong những định hướng màgiáo dục cần tiếp
cận. Tuy vậy, có thể thấy phương thức dạy học như trên là không hề dễ dàng ngay
cả đối với thế giới chứ không chỉ riêng trong điều kiện hiện nay của chúng ta.

II. Chƣơng trình giáo dục phổ thông mới đề cập đến giáo dục STEM nhƣ
thế nào?

Chương trình các môn khoa học tự nhiên trong Chương trình GDPT mới đã
quan tâm khai thác những điểm mạnh của giáo dục STEM, đề xuất những cơ hội để
tích hợp giáo dục STEM trong nội dung các môn học đó. Chúng ta nêu ra đây một
vài ví dụ cụ thể.

2.1. Các nội dung tích hợp giáo dục STEM trong chƣơng trình môn Hóa
học
Các kiến thức trong Hóa học đều có mối quan hệ hữu cơ với các môn học khác
như Toán học, Vật lí, Sinh học. Ví dụ: Cấu tạo nguyên tử, phương trình hóa học,
điều chế, thu khí, tính chất vật lí của các chất… có mối quan hệ đến kiến thức Toán
học, Vật lí; Các kiến thức về quang hợp, axit lipit, gluxit, protein… gắn liền với
kiến thức sinh học. Do đó, việc dạy học Hóa học bằng phương thức giáo dục tích
hợp theo cách tiếp cận liên môn là cần thiết. Bên cạnh đó, các kiến thức về phân
bón hóa học, ứng dụng của các chất… đều gắn kết với công nghệ; các bài học có
tích hợp giáo dục môi trường như chống ô nhiễm môi trường nước, hiệu ứng nhà
kính, mưa axit, dầu mỏ, nhiên liệu… đều liên quan đến việc giáo dục ý thức bảo vệ
môi trường, đến lĩnh vực kinh tế - xã hội. Thông qua mô hình STEM, HS được học
Hóa học trong một chỉnh thể có tích hợp với toán học, công nghệ, kỹ thuật và các
môn khoa học khác; không những thế HS còn được trải nghiệm, được tương tác với
xã hội, với các doanh nghiệp. Từ đó kích thích được sự hứng thú, tự tin, chủ động
trong học tập của HS; hình thành và phát triển các năng lực chung và năng lực đặc
thù học tập; tạo ra sản phẩm giáo dục đáp ứng với nhu cầu nguồn nhân lực hiện đại.

2.2. Các nội dung tích hợp giáo dục STEM trong chƣơng trình môn Công
nghệ

Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, môn Công nghệ phản ánh hai thành
phần là T (technology) và E (engineering) trong bốn thành phần của STEM. Vì vậy,
môn Công nghệ có vai trò quan trọng thể hiện tư tưởng giáo dục STEM trong
chương trình giáo dục phổ thông mới.

Sản phẩm, quá trình công nghệ môn học đề cập luôn mang tính tính hợp, gắn với
thực tiễn, liên hệ chặt chẽ với Toán học và Khoa học. Đặc điểm này là cơ sở để tăng
cường giáo dục STEM ngay trong dạy học môn Công nghệ dựa vào các hoạt động
thiết kế kĩ thuật, hoạt động nghiên cứu khoa khọc kĩ thuật.

Có sự tương đồng về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học giữa dạy học công
nghệ và giáo dục STEM. Đó là chú trọng vào hoạt động, thực hành, trải nghiệm và
định hướng sản phẩm. Đây cũng là cơ sở để triển khai dạy học nhiều nội dung công
nghệ tiếp cận STEM.

Giáo dục STEM trong môn Công nghệ được thực hiện thông qua dạy học các
chủ đề, mạch nội dung, chuyên đề học tập từ tiểu học tới trung học như mô hình
điện gió, mô hình điện mặt trời, ngôi nhà thông minh, các bài toán thiết kế kỹ thuật
và công nghệ, nghề nghiệp STEM; các dự án nghiên cứu thuộc các lĩnh vực kỹ
thuật cơ khí, hệ thống nhúng, robot và máy thông minh. Khi triển khai chương
trình, giáo dục STEM trong dạy học môn Công nghệ sẽ tiếp tục được mở rộng
thông qua dạy học các chủ đề liên môn giữa các môn học STEM.

2.3. Các nội dung tích hợp giáo dục STEM trong chƣơng trình môn Toán

Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, môn Toán phản ánh thành phần M
(mathematics) của STEM. Vì vậy, môn Toán có nhiều cơ hội thể hiện tư tưởng giáo
dục STEM trong chương trình giáo dục phổ thông mới.

Môn Toán là môn học công cụ, phục vụ trong việc dạy học các môn học khác
như Vật lí, Hoá học, Sinh học, Địa lí… Các kiến thức toán học được khai thác,
được sử dụng nhiều trong các môn học khác. Những khai thác có tính đa môn, tích
hợp như vậy vừa mang lại hiệu quả với các bộ môn vừa góp phần củng cố kiến thức
môn Toán, đồng thời góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực vận dụng toán học
vào thực tiễn.

Ví dụ: Khái niệm trọng tâm của tam giác được đề cập đến trong chương trình
lớp 7 (sau khi học sinh được học tính chất đồng quy của ba đường trung tuyến trong
một tam giác). Khái niệm véc tơ được giới thiệu ở chương trình lớp 10 và cũng ở đó
học sinh được biết tính chất tổng ba véc tơ xuất phát từ trọng tâm của tam giác đến
ba đỉnh của tam giác đó là bằng véc tơ không. Khái niệm lực (và véc tơ lực) được
giới thiệu trong chương trình Vật lý ở THCS. Những khai thác có tính đa môn, tích
hợp giữa giáo dục Toán học và giáo dục Vật lí sẽ giải quyết được đồng thời ba vấn
đề sau:

- Góp phần củng cố kiến thức môn Toán, giúp học sinh hiểu được ý nghĩa thực
tiễn (thông qua giáo dục Vật lí) của khái niệm trọng tâm của một hệ điểm - một
khái niệm khó đối với học sinh nếu chỉ tiếp cận thuần túy Toán học.

- Góp phần hiểu rõ và củng cố kiến thức Vật lí. Thay vì những phép tổng hợp
lực phức tạp, học sinh có thể vận dụng kiến thức Toán học để hiểu các kiến thức về
Vật lí.

- Góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực vận dụng Toán học vào thực tiễn,
đặc biệt vận dụng tổng hợp cả kiến thức về Toán học và Vật lí vào việc giải quyết
những vấn đề trong thực tiễn.
2.4. Các nội dung tích hợp giáo dục STEM trong chƣơng trình môn Tin
học
Khoa học máy tính yêu cầu và có liên quan rất nhiều đến sự hiểu biết, ứng
dụng, đánh giá các công nghệ của nhiều chuyên ngành khác nhau. Có thể nói tư duy
máy tính, các nguyên tắc cơ bản của tính toán, các cơ sở lý thuyết giải quyết vấn đề
dựa trên máy tính là chìa khóa dẫn đến thành công của các nhánh khoa học khác
như kĩ nghệ, kinh doanh và thương mại trong thế kỷ 21.
Trong giáo dục phổ thông, Tin học là môn học có nhiều cơ hội thể hiện tư
tưởng giáo dục STEM. Môn học này có nhiều điểm chung nhất với đồng thời tất cả
các thành phần của STEM là S (Science), T (Technology), E (Engineering), M
(Mathematics). Cụ thể là:
- Hướng kiến thức này dựa trên một hệ thống cơ sở lý luận toán học chặt chẽ,
logic và khoa học.
- Trọng tâm của Khoa học máy tính là "tư duy máy tính" lấy cơ sở lý luận
hàn lâm làm nền tảng kết hợp thực nghiệm và đánh giá, đo đạc số liệu một cách
khoa học.
- Lõi của Khoa học máy tính là phần kiến thức thiết kế, xây dựng, kiểm thử
và đánh giá các lập trình, một kỹ năng đòi hỏi quá trình tiêu chuẩn kỹ thuật.
III. Một vài khó khăn khi triển khai giáo dục STEM trong Chƣơng trình
GDPT mới
Thứ nhất: Rõ ràng rằng việc khai thác, áp dụng những điểm mạnh của Giáo
dục STEM là hết sức có lợi và cần thiết đối với giáo dục phổ thông của chúng ta.
Nhưng trong hoàn cảnh thực tế của đất nước về trình độ và năng lực của đội ngũ
cán bộ quản lý của giáo viên; cơ sở vật chất của các nhà trường; điều kiện kinh tế-
xã hội của các địa phương... thì điều đó lại trở nên không đơn giản. Đặc biệt, có hai
yếu tố cần xem xét:
- Đã chuẩn bị các văn bản cần thiết chỉ đạo triển khai giáo dục STEM ?
- Cán bộ quản lí các nhà trường phổ thông có thực sự quan tâm đến giáo
dục STEM hay không? Bởi nếu không thì có thể viện dẫn rất nhiều lí do để không
áp dụng.
Thứ hai: Vấn đề tích hợp và phát triển năng lực giải quyết vấn đề gắn với
thực tiễn là những vấn đề khó đối với giáo viên hiện nay. Tuy được nhấn mạnh
nhiều trong những năm qua, nhưng thực tế diễn ra ở nhà trường thì chưa được như
mong muốn. Có thể nói giáo dục STEM mới chỉ thực hiện được tại một số nhà
trường phổ thông dưới hình thức thu hút một số học sinh tham gia dự thi đề tài (hay
một sản phẩm nào đó), điển hình là kì thi Intel ISEP được tổ chức hàng năm.
Thứ ba: Kiểm tra đánh giá và thi cử cần tương thích với những tư tưởng cơ
bản của Giáo dục STEM. Tuy nhiên nếp nghĩ “thi gì học nấy” là một trở lực lớn
trong việc đưa Giáo dục STEM vào nhà trường phổ thông.

You might also like