You are on page 1of 11

BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 2 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Môn học: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
Giảng viên phụ trách: LÊ HỮU TRUNG
Giảng viên chính, Thạc sỹ Quản lý nhà nước,
Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh
2.1. NGUỒN GỐC RA ĐỜI CỦA PHÁP LUẬT
Ở thời kỳ cộng sản nguyên thủy, là thời kỳ không có Nhà nước và do đó cũng không có
pháp luật. Để điều chỉnh hành vi con người, trong xã hội chỉ có những quy tắc xử sự
giữa các con người với nhau. [2]
Các quy tắc xử sự đó được hình thành một cách tự phát, dần dần trở thành thói quen
và tồn tại trong đời sống xã hội dưới các hình thức như: phong tục, tập quán, tín điều
tôn giáo.
Và được đảm bảo thực hiện bằng sự tự giác của mỗi người và bằng uy tín của các thủ
lĩnh cộng đồng. [3]
Thuyết phục là phương pháp cơ bản áp dụng đối với người vi phạm.
Đôi khi có sử dụng biện pháp cưỡng chế nhưng không phải là chế tài bắt buộc. [4]
Chính nhờ những quy tắc này mà trật tự xã hội
được duy trì cho đến khi nó không còn phù hợp.

Xã hội phát triển, xuất hiện chế độ tư hữu,


phân chia giai cấp, mâu thuẩn giai cấp

Những nguyên nhân làm xuất hiện Nhà nước


cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời pháp luật [5]
Nhà nước Pháp luật

Xã hội phát triển, xuất hiện chế độ tư hữu,


phân chia giai cấp, mâu thuẩn giai cấp [6]
Khi Nhà nước xuất hiện, pháp luật được hình thành bằng hai con đường:
Một là Nhà nước thừa nhận các quy tắc phong tục tập quán sẵn có phù hợp với lợi ích
của giai cấp thống trị và chuyển hóa thành pháp luật. [7]
Hai là Nhà nước ban hành những quy phạm mới thể hiện trong các văn bản chính thức
của Nhà nước Văn bản quy phạm pháp luật. [8]
Như vậy: “Pháp luật là sản phẩm của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, là những hiện
tượng lịch sử xã hội, chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong điều kiện xã hội có giai cấp
và đấu tranh giai cấp.” [9]
2.2. KHÁI NIỆM VÀ NHỮNG THUỘC TÍNH CỦA PHÁP LUẬT
2.2.1. Khái niệm pháp luật
Theo C. Mác: Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị xã hội.
Từ đó, V.I. Lênin đã phát triển một cách sáng tạo và khoa học: [10]

-Biên tập: Lê Hữu Trung, Giảng viên chính, Thạc sỹ Quản lý nhà nước, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM. 1/11
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 2 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022

Theo V.I. Lênin: “Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị xã hội, nhưng phải dựa trên
trình độ phát triển của nền kinh tế, nếu không thì ý chí ấy chỉ là ý chí suông mà thôi, hay
là không khác nào quả đấm đấm vào không khí”. [11]
Như vậy: “Pháp luật là tổng hợp các quy phạm pháp luật nằm trong hệ thống pháp luật
của một quốc gia, là hệ thống các quy tắc xử sự chung, mang tính bắt buộc chung, thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực
hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước”. [12]
2.2.2. Những thuộc tính của pháp luật
1. Tính quy phạm phổ biến
Tính quy phạm là tính khuôn mẫu, quy tắc, phương thức, cách thức xử sự chung, gọi là
Quy phạm xã hội.
Nhưng pháp luật khác với các quy phạm xã hội khác ở chỗ là: [13]
Tính quy phạm của pháp luật mang tính phổ biến chung, có tính bắt buộc chung đối với
mọi người.
Pháp luật còn có tính bao quát hơn, khái quát hơn,
được áp dụng nhiều lần trong không gian (lãnh thổ) và thời gian rộng lớn,
và chỉ bị đình chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy
bỏ hoặc đã hết hạn hiệu lực. [14]
2. Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức
Là sự thể hiện nội dung của pháp luật dưới những hình thức nhất định.
Nội dung của pháp luật phải được quy định rõ ràng, chính xác, chặt chẽ;
khái quát trong các khoản, điểm của điều luật, trong các điều luật, trong một văn bản
quy phạm pháp luật và toàn bộ hệ thống pháp luật. [15]
Tính xác định chặt chẽ còn thể hiện cả ở hình thức thể hiện câu chữ, văn phạm.
Cụ thể là nội dung của pháp luật cần phải diễn đạt bằng ngôn ngữ pháp lý rõ ràng, chính
xác, cụ thể, dễ hiểu theo một nghĩa và có khả năng áp dụng trực tiếp. [16]
NGHIÊM CẤM TUYỆT ĐỐI
KHÔNG ĐƯỢC VIẾT, VẼ BẬY
LÊN TƯỜNG, BÀN, GHẾ, .V.V… [17]
CẤM VIẾT, VẼ BẬY
LÊN TƯỜNG, BÀN, GHÊ

CẤM VIẾT, VẼ LÊN TƯỜNG,


BÀN, GHẾ. [18]
Nội dung của pháp luật còn phải được thể hiện trong các hình thức xác định. Đó là các
văn bản quy phạm pháp luật có tên gọi được pháp luật quy định chặt chẽ.
[như: Hiến pháp, bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị quyết, lệnh, nghị định, quyết định, thông
tư, .v.v...] [19]
Tính xác định về mặt hình thức của pháp luật còn được thể hiện thông qua những hình
thức bên ngoài của văn bản quy phạm pháp luật (được gọi là Thể thức của văn bản quy
phạm pháp luật),
(Ví dụ như: khổ giấy, canh lề, tên cơ quan, tiêu ngữ, tên văn bản, số ký hiệu văn bản,
ngày tháng năm ban hành, đóng dấu…)

-Biên tập: Lê Hữu Trung, Giảng viên chính, Thạc sỹ Quản lý nhà nước, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM. 2/11
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 2 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022

và khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phải tuân thủ theo những trình tự, thủ
tục và thẩm quyền do pháp luật quy định. [20]
3. Tính cưỡng chế
Pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và được Nhà nước bảo đảm thực hiện
thống nhất bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Cưỡng chế là thuộc tính thể hiện bản chất của pháp luật.
Cưỡng chế là cần thiết khách quan, nhằm bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thi
hành nghiêm chỉnh, thống nhất. [21]
Đồng thời, nếu ai không thực hiện hoặc không tuân theo các quy định của pháp luật, thì
tùy theo mức độ vi phạm mà Nhà nước áp dụng các biện pháp tác động phù hợp (biện
pháp về tư tưởng, tổ chức, kể cả biện pháp cưỡng chế khi cần thiết). [22]
2.3. BẢN CHẤT CỦA PHÁP LUẬT
2.3.1. Tính giai cấp của pháp luật
Tính giai cấp của pháp luật biểu hiện ở các điểm sau: [23]
+ Pháp luật là sự biểu thị ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị.
Giai cấp thống trị thông qua nhà nước để thể chế hóa ý chí và lợi ích của giai cấp mình
một cách tập trung thống nhất thành ý chí chung của Nhà nước bằng cách ban hành
pháp luật để bắt buộc mọi người phải tuân theo. [24]
+ Pháp luật là một bộ phận thuộc về kiến trúc thượng tầng của một hình thái kinh
tế – xã hội.
Vì vậy, nội dung ý chí của giai cấp thống trị thể hiện trong pháp luật được quy định khách
quan bởi kết cấu hạ tầng (cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội). [25]
Mặt khác, pháp luật lại chịu ảnh hưởng và tác động đến bộ phận khác của kiến trúc
thượng tầng, đó là Nhà nước.
Đồng thời, pháp luật cũng tác động mạnh mẽ tới kết cấu hạ tầng. [26]
+ Pháp luật là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp.
Giai cấp thống trị sử dụng pháp luật để: thực hiện quyền lực Nhà nước, củng cố địa vị
thống trị xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, [27]
áp đặt ý chí của giai cấp thống trị đối với toàn xã hội,
điều chỉnh các quan hệ xã hội, thiết lập trật tự xã hội mới theo một mục tiêu, phù hợp
với ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị. [28]
2.3.2. Pháp luật mang tính xã hội
Pháp luật phải xuất phát từ những yêu cầu khách quan của điều kiện và trình độ phát
triển kinh tế - xã hội, trình độ phát triển của con người. [29]
2.3.3. Pháp luật mang tính dân tộc
Nếu pháp luật được ban hành dựa trên cơ sở kết hợp ý chí của giai cấp thống trị với
những giá trị của dân tộc, thì pháp luật ấy sẽ phát huy đầy đủ sức mạnh hiệu lực của
nó. [30]
2.3.4. Pháp luật mang tính kế thừa
Hệ thống pháp luật phải là hệ thống mở, sẵn sàng tiếp nhận, kế thừa những thành tựu
của nền văn minh, văn hóa pháp lý của nhân loại, đó là sự kết hợp những quy tắc truyền
thống đã có với những cái mới. [31]
2.3.5. Pháp luật mang tính sáng tạo

-Biên tập: Lê Hữu Trung, Giảng viên chính, Thạc sỹ Quản lý nhà nước, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM. 3/11
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 2 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022

Pháp luật có khả năng sáng tạo ra xu thế phát triển mới của xã hội, thúc đẩy việc thiết
lập các hình thức quan hệ xã hội mới và các mô hình tổ chức mới của đời sống xã hội.
[32]
2.4. HÌNH THỨC CỦA PHÁP LUẬT
2.4.1. Khái niệm hình thức của pháp luật
Là cách thức biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật, và để xác định ranh giới tồn tại của
pháp luật trong hệ thống các quy phạm xã hội, đồng thời đó cũng là phương thức tồn
tại, dạng tồn tại thực tế của pháp luật. [33]
Hình thức pháp luật phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau
[như; điều kiện lịch sử cụ thể, đặc điểm cụ thể của mỗi thời đại, của từng xã hội, của
mỗi một quốc gia] mà mỗi Nhà nước sẽ tiếp thu và thừa nhận hình thức pháp luật này
hay hình thức pháp luật khác. [34]
Khoa học pháp lý phân thành hai hình thức:
2.4.2. Hình thức bên trong của pháp luật
Hình thức bên trong của pháp luật được xem xét dưới các yếu tố cấu thành của hệ
thống pháp luật, bao gồm 4 yếu tố: [35]
[1]. Các nguyên tắc chung
Các nguyên tắc này được vận dụng như những phương châm chỉ đạo chung trong quá
trình áp dụng pháp luật.
Như: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; Xét xử công khai; [36]
[2]. Ngành luật
Là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội nhất định
với những phương pháp điều chỉnh nhất định.
Đối tượng điều chỉnh (lĩnh vực quan hệ xã hội được pháp luật tác động đến)
và phương pháp điều chỉnh
là hai cơ sở cơ bản để phân biệt ngành luật này với ngành luật khác. [37]
[3]. Chế định pháp luật
Là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại trong cùng
một ngành luật.
Ví dụ: Trong Bộ luật Dân sự có các chế định như: chế định về quyền sở hữu tài sản,
chế định về quyền sở hữu trí tuệ, chế định về quyền thừa kế, … [38]
[4]. Quy phạm pháp luật
Là quy tắc xử sự chung, mang tính bắt buộc chung, do Nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận, và đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. [39]
2.4.3. Hình thức bên ngoài của pháp luật
Là sự thể hiện ra bên ngoài của pháp luật, còn được gọi là nguồn (source) của pháp
luật.
Có 3 hình thức bên ngoài cơ bản là: [40]
1. Tập quán pháp
Là những quy tắc xử sự được hình thành và lưu truyền trong xã hội, phù hợp với lợi ích
của giai cấp thống trị và được NN thừa nhận, chúng trở thành những quy tắc xử sự
chung và được Nhà nước đảm bảo thực hiện. [41]
2. Tiền lệ pháp

-Biên tập: Lê Hữu Trung, Giảng viên chính, Thạc sỹ Quản lý nhà nước, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM. 4/11
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 2 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022

Là các văn bản của Tòa án tối cao thừa nhận là khuôn mẫu để các Tòa án giải quyết
những vụ việc tương tự.
[Do không có quy định pháp luật hoặc các quy định pháp luật đã lạc hậu]. [42]
3. Văn bản quy phạm pháp luật
Là văn bản do các cơ quan nhà nước, hoặc nhà chức trách ban hành theo thẩm quyền,
hình thức, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định, trong đó quy định những quy tắc xử
sự chung.
Văn bản quy phạm pháp luật là nguồn chủ yếu của pháp luật hiện đại. [43]
2.5. QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ CÁC HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI KHÁC
2.5.1. Pháp luật và kinh tế
Pháp luật là một thiết chế thuộc về kiến trúc thượng tầng xã hội, do đó, pháp luật bị chi
phối và quy định bởi cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. [44]
Trong mối quan hệ này, các điều kiện kinh tế, tiền đề kinh tế không chỉ là nguyên nhân
trực tiếp quyết định sự ra đời của pháp luật, mà còn quyết định đối với toàn bộ nội dung,
sự tồn tại và phát triển của pháp luật.
Pháp luật trước tiên phụ thuộc vào kinh tế thể hiện ở các mặt: [45]
- Tính chất của các quan hệ kinh tế, cơ chế kinh tế quyết định tính chất của các quan
hệ pháp luật, phạm vi, đối tượng, mức độ và phương pháp điều chỉnh của pháp luật.
- Cơ cấu kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định cơ cấu của hệ thống pháp luật.
- Các tổ chức thực thi pháp luật và thiết chế pháp lý (thủ tục pháp lý) chịu ảnh hưởng
quyết định của chế độ kinh tế. [46]
Tuy nhiên, pháp luật không phản ánh một cách thụ động các quan hệ kinh tế, mà nó
còn tác động ngược trở lại đối với kinh tế.
Sự tác động này có 2 mặt: [47]
+ Tác động tích cực:
Nếu pháp luật được xây dựng phù hợp với các quy luật kinh tế - xã hội, thì nó sẽ thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế, cách thức tổ chức và vận hành của toàn bộ nền kinh
tế cũng như cơ cấu bên trong của nền kinh tế. [48]
+ Tác động tiêu cực:
Nếu pháp luật được xây dựng không phù hợp với các quy luật kinh tế - xã hội, thì nó sẽ
kìm hãm sự phát triển của toàn bộ hoặc một trong các yếu tố hợp thành của hệ thống
kinh tế. [49]
2.5.2. Pháp luật và chính trị
Pháp luật luôn phản ánh các mục tiêu và những yêu cầu chính trị của giai cấp cầm
quyền.
Đồng thời, pháp luật là hình thức biểu hiện của chính trị, ghi nhận yêu cầu, nội dung
chính trị của giai cấp cầm quyền. [50]
Theo đó, pháp luật vừa là biện pháp, vừa là phương tiện để thực hiện mục tiêu chính trị
của giai cấp cầm quyền.
Mối liên hệ giữa pháp luật và chính trị được thể hiện tập trung trong mối liên hệ giữa
đường lối, chính sách của đảng cầm quyền và pháp luật của Nhà nước, đó là: [51]
- Đường lối chính trị của đảng cầm quyền là linh hồn của pháp luật, có ý nghĩa chỉ đạo
trong việc xây dựng pháp luật, tuyên truyền giáo dục pháp luật và thực hiện pháp luật.

-Biên tập: Lê Hữu Trung, Giảng viên chính, Thạc sỹ Quản lý nhà nước, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM. 5/11
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 2 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022

- Pháp luật là phương tiện để thể chế hóa và biến đường lối, chính sách của đảng cầm
quyền thành hiện thực, trở thành ý chí chung, ý chí của Nhà nước. [52]
- Ngoài ra, trong khi thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, pháp luật còn chịu ảnh
hưởng nhất định bởi đường lối chính trị của các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội.
[53]
2.5.3. Pháp luật và Nhà nước
Nhà nước và pháp luật là 2 thiết chế thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng và tác động qua lại chặt chẽ với nhau.
• Nhà nước và pháp luật đều là phương tiện của quyền lực,
cùng phát sinh, tồn tại, phát triển và tiêu vong. [54]
• Tuy nhiên, Nhà nước và pháp luật vẫn là hai hiện tượng xã hội khác nhau.
• Nếu Nhà nước là tổ chức của quyền lực chính trị, thì pháp luật là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, tức là các quy tắc xử sự mang tính chất
xã hội.
Mối quan hệ giữa Nhà nước với pháp luật chủ yếu thể hiện ở chỗ: [55]
- Quyền lực nhà nước phải dựa trên cơ sở pháp luật, được thực hiện thông qua pháp luật
và bị hạn chế bởi chính pháp luật.
Trong mối quan hệ đó, không thể coi Nhà nước cao hơn pháp luật mà cần thấy sự lệ
thuộc vào nhau giữa Nhà nước và pháp luật.
Nhà nước là bộ máy mà giai cấp thống trị sử dụng nó để thực hiện mục tiêu quyền lực.
[56]
• Còn pháp luật là công cụ mà Nhà nước sử dụng để củng cố quyền lực thống trị và bảo
vệ lợi ích của giai cấp thống trị, để thực hiện quản lý xã hội và để điều chỉnh các quan
hệ xã hội.
Do đó, Nhà nước phụ thuộc vào pháp luật và không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật. [57]
Ngược lại, pháp luật cũng phụ thuộc vào Nhà nước:
• Pháp luật không thể tồn tại nếu thiếu Nhà nước.
• Pháp luật chỉ có thể được thực hiện trong đời sống xã hội khi có sự bảo đảm của Nhà
nước. [58]
2.5.4. Pháp luật và các tổ chức (chính trị - xã hội – đoàn thể)
Pháp luật đặt cơ sở tiền đề, hành lang pháp lý và những điều kiện hỗ trợ của Nhà nước
cho việc thành lập, tổ chức và hoạt động của các tổ chức. [59]
Vì vậy, các tổ chức đó phải được thành lập, tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật, không được vi phạm pháp luật.
Ngược lại, các tổ chức có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ Nhà nước trong việc thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. [60]
2.5.5. Pháp luật và các quy phạm xã hội khác
Sinh viên tự nghiên cứPháp luật tác động mạnh mẽ đến các quy phạm xã hội. Pháp
luật có nội dung tiến bộ sẽ ảnh hưởng tích cực đến các quy phạm xã hội và các quan
hệ xã hội.
Pháp luật là ý chí chung của Nhà nước, vì vậy quy phạm của các tổ chức xã hội phải
phục tùng ý chí chung và không được trái với pháp luật. [61]
2.5.6. Pháp luật và đạo đức

-Biên tập: Lê Hữu Trung, Giảng viên chính, Thạc sỹ Quản lý nhà nước, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM. 6/11
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 2 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022

Pháp luật không những kế thừa và thấm nhuần các giá trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp
của xã hội mà còn tạo ra cách cư xử giữa người với người trên cơ sở đạo đức mới.
Ngược lại, đạo đức là hàng rào ngăn cản một cách có hiệu nghiệm đối với những hành
vi vi phạm pháp luật. [62]
2.5.7. Pháp luật và tôn giáo
Pháp luật các quốc gia đều quy định mọi người không phân biệt tôn giáo đều có nghĩa
vụ tuân thủ pháp luật.
Pháp luật rất tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của các tôn giáo, đồng thời cũng kiên
quyết trừng trị những kẻ lợi dụng tôn giáo để chống lại Nhà nước, để gieo rắc mê tín dị
đoan, làm rối loạn trật tự xã hội. [63]
2.6. PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
2.6.1. Khái niệm Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam
[Sau đây gọi là Pháp luật Việt Nam] [64]
“Pháp luật Việt Nam là hệ thống các quy tắc xử sự chung, mang tính bắt buộc chung,
thể hiện ý chí và lợi ích của giai cấp công nhân, nông dân và nhân dân lao động, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Nhà nước Việt Nam ban hành và đảm
bảo thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế.” [65]
Pháp luật Việt Nam đang ngày càng phát triển và hoàn thiện,
được quy định bởi cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới,
là công cụ chủ yếu để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm mục đích xây dựng một xã
hội mới – Xã hội chủ nghĩa. [66]
2.6.2. Bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thể hiện ở những đặc điểm cơ bản sau: [67]
1. Pháp luật Việt Nam thể hiện nguyện vọng chung của mọi tầng lớp nhân dân, mang
bản chất vì lợi ích của giai cấp công nhân, nông dân và toàn thể nhân dân lao động cho
nên nội dung mang tính nhân dân, nhân đạo sâu sắc. [68]
Thể hiện:
 Pháp luật Việt Nam tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người lao động trở thành người
chủ của xã hội mới, ghi nhận rộng rải các quyền tự do, dân chủ cho công dân, [69]
 đăng tải các nhu cầu nội tại của con người, của các tầng lớp xã hội khác nhau,
 và bảo đảm thực hiện các quyền đó theo đúng quy định của pháp luật.
Cho nên pháp luật Việt Nam là pháp luật thật sự dân chủ. [70]
2. Pháp luật Việt Nam là một hệ thống quy tắc xử sự có tính thống nhất nội tại cao và
có quan hệ qua lại chặt chẽ với các quy phạm xã hội khác trong chủ nghĩa xã hội.
3. Pháp luật Việt Nam được pháp điển hóa thành các đạo luật và được phân chia thành
các ngành luật, không công nhận tiền lệ, tập tục, tập quán là nguồn của pháp luật. [71]
4. Pháp luật Việt Nam do Nhà nước Việt Nam ban hành và đảm bảo thực hiện chủ yếu
bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế khi thật sự cần thiết. [72]
5. Pháp luật Việt Nam có quan hệ mật thiết với đường lối, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Đường lối, chính sách của Đảng là linh hồn và là kim chỉ nam cho việc xây dựng, ban
hành, thực hiện cũng như không ngừng hoàn thiện pháp luật. [73]
6. Pháp luật Việt Nam là hình thức nhận, phản ánh và được củng cố dưới dạng các
công thức, khuôn mẫu chính xác những đòi hỏi khách quan của xã hội. [74]

-Biên tập: Lê Hữu Trung, Giảng viên chính, Thạc sỹ Quản lý nhà nước, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM. 7/11
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 2 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022

7. Pháp luật Việt Nam có quan hệ chặt chẽ với chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa,
được xây dựng trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, kết hợp lợi ích chung và lợi ích của
mỗi thành viên trong cộng đồng, là cơ sở cho việc thể hiện ý chí của nhân dân. [75]
8. Pháp luật Việt Nam có phạm vi điều chỉnh rộng. (điều chỉnh tất cả các lĩnh vực của
đời sống kinh tế – xã hội) [76]
- Ngoài tính giai cấp, pháp luật Việt Nam còn mang tính xã hội, có nghĩa là ở một mức
độ nào đó, trong những hoàn cảnh, giai đoạn nào đó, pháp luật Việt Nam còn thể hiện
ý và chí lợi ích của các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội. [77]
2.6.3. Vai trò của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Vai trò của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện tập trung ở các mặt chính sau
đây: [78]
2.6.3.1. Vai trò của pháp luật Việt Nam đối với kinh tế
Là sự biểu hiện về mặt pháp lý các quan hệ sản xuất thành một hệ thống các quan hệ
pháp luật tạo nên trật tự pháp luật về kinh tế cho một Nhà nước. [79]
Trong cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, pháp luật trước hết tồn tại
vì kinh tế, sinh ra trực tiếp từ những đòi hỏi của các quan hệ kinh tế.
Chỉ trong mối quan hệ không tách rời đó, pháp luật đến lượt mình mới trở thành phương
tiện quản lý của Nhà nước. [80]
Pháp luật trước hết phải tạo lập các “khung” hay “hàng lang pháp lý” để cho mọi thành
phần kinh tế bình đẳng trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đồng thời, Nhà nước là chủ thể quản lý cũng dựa vào “chuẩn mực pháp lý” đó mà điều
khiển toàn bộ các hoạt động của nền kinh tế. [81]
Các quan hệ kinh tế thị trường rất đa dạng, phong phú, năng động và phức tạp, nẩy
sinh nhu cầu điều chỉnh để loại bỏ các yếu tố ngẫu nhiên, tùy tiện, ngăn ngừa rối loạn,
khủng hoảng, thiết lập trật tự ổn định.
Một trong những phương tiện điều chỉnh hữu hiệu là pháp luật. [82]
Bằng sự điều chỉnh của pháp luật mà tạo ra môi trường thuận lợi, tin cậy và chính thức
cho sự tồn tại và phát triển các quan hệ kinh tế,
thể chế hóa và hoàn thiện cơ chế quản lý về mặt tổ chức và hoạt động, làm cho nó có
hiệu lực thực thi trong quy mô toàn xã hội. [83]
2.6.3.2. Vai trò của pháp luật Việt Nam đối với xã hội
Pháp luật là phương tiện không thể thiếu để đảm bảo và bảo vệ cho sự tồn tại và ổn
định của một xã hội.
Các vấn đề xã hội (như lợi ích, an toàn tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm, tự
do, bình đẳng và công bằng, ...) đều gắn liền với sự điều chỉnh của pháp luật. [84]
Một mặt, pháp luật ghi nhận và thể chế hóa các quyền con người, quyền công dân và
đảm bảo về mặt pháp lý cho các quyền đó được thực hiện.
Mặt khác, bằng sự ghi nhận một cách chính thức bằng phương tiện pháp luật  con
người có điều kiện bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. [85]
2.6.3.3. Vai trò của pháp luật Việt Nam đối với hệ thống chính trị - xã hội
Đối với vai trò lãnh đạo của Đảng:
Pháp luật là phương tiện để thể chế hóa và chuyển tải đường lối, chính sách của Đảng
vào cuộc sống. [86]
-Đối với Nhà nước:

-Biên tập: Lê Hữu Trung, Giảng viên chính, Thạc sỹ Quản lý nhà nước, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM. 8/11
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 2 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022

1. Pháp luật là công cụ quyền lực của quản lý nhà nước, là phương tiện quản lý có hiệu
lực đối với mọi mặt của đời sống xã hội.
Với tư cách là công cụ quản lý, [87]
- Trước hết, pháp luật quy định rõ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động, quyền hạn và
nghĩa vụ, các chế độ, thể lệ, quy chế làm việc của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức, nhằm bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu quả cao; [88]
- Thứ hai, pháp luật là chuẩn mực để ban hành các quyết định quản lý;
- Thứ ba, pháp luật củng cố và bảo vệ các quyền, tự do và nghĩa vụ công dân. [89]
2. Pháp luật là cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của chính sách, là sự ghi
nhận về mặt pháp lý trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân công dân. [90]
- Đối với các tổ chức chính trị - xã hội:
- Pháp luật là cơ sở pháp lý đảm bảo cho Nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước,
quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội của mình.
- Pháp luật thể chế và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. [91]
- Đối với toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội:
* Pháp luật là phương tiện thiết lập các nguyên tắc quan trọng nhất về tổ chức và hoạt
động của toàn bộ hệ thống, bảo đảm cho hệ thống hoạt động nhịp nhàng, ăn khớp.
* Pháp luật là thước đo về tính hợp pháp, hợp chính trị của mọi yếu tố và của tất cả các
thành viên hoạt động trong hệ thống đó. [92]
2.6.3.4. Vai trò của pháp luật Việt Nam đối với đạo đức
Các nguyên tắc căn bản của đạo đức được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật
vì vậy giữa đạo đức và pháp luật có sự đan xen về mặt nội dung.
Do vậy, pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo vệ và phát triển đạo đức xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ tính công bằng, chủ nghĩa nhân đạo, tự do, lòng tin, lương tâm con người. [93]
2.6.3.5. Vai trò của pháp luật Việt Nam đối với tư tưởng
Pháp luật là phương tiện đăng tải thế giới quan, các tư tưởng và các giá trị của nhân
loại. Do đó, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc củng cố và nâng cao nhận thức
tư tưởng của con người dưới chủ nghĩa xã hội. [94]
2.6.4. Chức năng của pháp luật Việt Nam
2.6.4.1. Khái niệm Chức năng của pháp luật Việt Nam
Là những phương diện, mặt tác động chủ yếu, đặc thù của pháp luật bằng con đường
Nhà nước lên các quan hệ xã hội. 6[95]
2.6.4.2. Phân loại chức năng của pháp luật Việt Nam
Pháp luật Việt Nam có 3 chức năng cơ bản sau:
1.Chức năng điều chỉnh; 2.Chức năng bảo vệ; 3.Chức năng giáo dục. [96]
1. Chức năng điều chỉnh của pháp luật
Là sự tác động trực tiếp của pháp luật tới các quan hệ xã hội và tạo lập hành lang pháp
lý để hướng cho các hoạt động của các chủ thể pháp luật theo đúng quy định của Nhà
nước để nhằm thực hiện pháp luật.
Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội theo hai hướng chính: [97]
- Một mặt, pháp luật chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính chất chủ yếu, điển
hình và phổ biến.

-Biên tập: Lê Hữu Trung, Giảng viên chính, Thạc sỹ Quản lý nhà nước, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM. 9/11
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 2 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022

- Mặt khác, pháp luật phải bảo đảm, tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển theo
định hướng phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị và phù hợp với quy luật vận động
khách quan của các quan hệ xã hội. [98]
Chức năng điều chỉnh của pháp luật được thực hiện thông qua các hình thức:
Quy định, cho phép, ngăn cấm, gợi ý,
hoặc quy định quyền và nghĩa vụ qua lại giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật.
[99]
2. Chức năng bảo vệ của pháp luật
Là bảo đảm cho các quan hệ xã hội đã được xác lập trong sự quản lý của Nhà nước
không bị xâm hại bất luận từ hướng nào.
Nói cách khác, chức năng bảo vệ của pháp luật là công cụ bảo vệ các quan hệ xã hội
do nó điều chỉnh. [100]
Khi có hành vi vi phạm pháp luật (xâm phạm tới các quan hệ xã hội đã được pháp luật
điều chỉnh) thì sẽ bị cơ quan Nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng các
biện pháp cưỡng chế ghi trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật. [101]
3. Chức năng giáo dục của pháp luật (tác động vào ý thức con người)
Được thực hiện thông qua sự tác động của pháp luật lên ý thức, nhận thức, tình cảm
và tâm lý con người.
Từ đó, pháp luật có thể hướng con người đến những hành vi, những cách xử sự phù
hợp với các quy tắc xử sự chung đã được quy định trong pháp luật. [102]
Để pháp luật phát huy hết vai trò, chức năng của nó, đòi hỏi mọi cán bộ, công chức,
viên chức và mọi công dân phải tích cực tìm hiểu và nắm vững pháp luật.
“Tìm hiểu và nắm vững pháp luật vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ và trách nhiệm của
mọi công dân.” [103]
Điều đó đặt ra một nhiệm vụ quan trọng đối với Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể là phải
quan tâm thường xuyên tổ chức thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
cho tất cả thành viên của cơ quan, tổ chức và mọi tầng lớp nhân dân. [104]
2.6.5. Giá trị xã hội của pháp luật Việt Nam
2.6.5.1. Khái niệm giá trị xã hội của pháp luật Việt Nam
Giá trị xã hội của pháp luật là ích lợi của pháp luật đối với xã hội. [105]
Ích lợi của pháp luật chính là phương tiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo đảm
cho các quan hệ xã hội tồn tại và phát triển đúng quy luật, phù hợp với sự tiến bộ xã
hội.
Vì vậy, một hệ thống các quy phạm pháp luật được ban hành đúng đắn, kịp thời sẽ là
một hệ thống các “máy điều chỉnh” hành vi ứng xử của con người đúng quy luật, phù
hợp với sự tiến bộ xã hội. [106]
2.6.5.2. Các giá trị xã hội cơ bản của pháp luật Việt Nam
Pháp luật với thuộc tính cơ bản là tính quy phạm, pháp luật tác động đến xã hội bằng
giá trị đăng tải các thông tin.
Giá trị thông tin của pháp luật thường thông qua các kênh sau đây để đi đến với con
người và xã hội: [107]
+Thông qua các văn bản chính thức đăng trên sách báo và các phương tiện thông tin
đại chúng;
+Thông qua hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật;

-Biên tập: Lê Hữu Trung, Giảng viên chính, Thạc sỹ Quản lý nhà nước, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM. 10/11
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 2 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022

+Thông qua hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật;
+ Thông qua sự hiểu biết và hành vi hợp pháp của những người xung quanh như gia
đình, bạn bè, cơ quan, đoàn thể, khu dân cư; [108]
+ Mặt khác, giá trị thông tin của pháp luật còn phải kể đến vai trò thông tin của quá trình
áp dụng pháp luật.
Bằng việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc cụ thể xảy ra trong đời sống hàng
ngày mà thông báo chính thức của Nhà nước về các mô hình của hành vi sẽ đọng lại
một cách đậm nét trong ý thức của con người. [109]
Các kênh nói trên có những mức độ thông tin khác nhau về số lượng, độ chính xác,...
Vì vậy, sử dụng tổ hợp tất cả các kênh trong việc phát huy giá trị thông tin của pháp luật
là nhu cầu của xã hội./.
HẾT CHƯƠNG 2. [110]

-Biên tập: Lê Hữu Trung, Giảng viên chính, Thạc sỹ Quản lý nhà nước, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM. 11/11

You might also like