You are on page 1of 54

LỜI MỞ ĐẦU

Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành
tựu to lớn do quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đem lại. Việt Nam đang
từ một nước nông nghiệp lạc hậu chuyển đổi mạnh mẽ để theo kịp xu thế phát
triển chung của toàn thế giới hiện nay. Điều đó được thể hiện ở tỷ lệ tăng trưởng
của Việt Nam trong những năm gần đây khá cao và ổn định, đời sống nhân dân
được cải thiển rõ rệt, tỷ lệ người nghèo giảm xuống… Để có được những thành
tựu này không thể không kể đến những đóng góp của hệ thống doanh nghiệp
Việt Nam, lực lượng chủ chốt của quá trình Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước.
Giai đoạn vừa qua đánh dấu sự thay đổi khá mạnh mẽ của các doanh nghiệp
Việt Nam cả về số lượng và chất lượng. Giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Trong 20
năm đổi mới do Đảng ta đã đề xướng và lãnh đạo, doanh nghiệp Nhà nước là đối
tượng được Đảng đặc biệt quan tâm và thực hiện nhiều biện pháp để nâng cao
hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh.
Vì doanh nghiệp Nhà nước chính là cánh tay phải, là lực lượng vật chất
quan trọng và là công cụ điều tiết vĩ mô nèn kinh tế. Kêt quả của quá trình đổi
mới, nâng cao hiệu quả ở doanh nghiệp Nhà nước đã có những chuyển biến và
đạt được những thành quả của hệ thống doanh nghiệp ngày càng phát triển mạnh
mẽ hiện nay.
Hiện nay, khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
WTO, các doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội để tiếp tục phát triển hơn nữa
nhưng cũng có những thách thức lớn mà các doanh nghiệp phải đương đầu. Chỉ
có thực hiện tốt công tác đầu tư phát triển trong doanh nghiệp mới làm cho các
doanh nghiệp có đủ sức mạnh để tồn tại và phát triển.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc tìm hiều hoạt động đầu tư phát triển
trong doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam hiện nay, em

1
đã nghiên cứu đề tài: “Tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp Nhà
nước, Thực trạng và giải pháp”.
Em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thu Hà đã giúp đỡ em rất nhiều
trong quá trình hoàn thiền bài đề án này.

2
Chương I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRONG DOANH NGHIỆP

I. Lý luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp


1. Khái niệm
1.1 Doanh nghiệp
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động
kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Theo luật doanh nghiệp của Việt Nam, Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiệnc ác hoạt động kinh doanh- tức
là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi.
Có thể nói doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế quốc dân, sự phát
triển mạnh mẽ của mỗi tế bào tạo nên sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Chức năng của doanh nghiệp là thực hiện một số khâu của quá trình tái sản
xuất xã hội, sản xuất ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của xã hội với những
nguồn lực hiện có nhằm đáp ứng nhu cầu hàng hoá, phục vụ cho nhu cầu của thị
trường và Quốc tế.
Các Doanh nghiệp ở Viêt Nam bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước, công ty
cổ phần, công ty liên doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh,
công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân.
Các doanh nghiệp hoạt động vì các mục đích, mục tiêu riêng. Trong kinh
doanh thì mục tiêu kinh tế là quyết định còn mục tiêu xã hội thường được đặt ra
đối với các tổ chức kinh tế thuộc Nhà nước.

3
1.2 Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp

Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của hoạt động đầu tư, là việc chi dung
vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra
những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ
năng…), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp là hoạt động sử dụng vốn cùng các
nguồn lực khác trong hiện tại nhằm duy trì sự hoạt động và làm tăng thêm tài
sản của doanh nghiệp, tạo thêm việc làm và nâng cao đời sống các thành viên
trong đơn vị.
Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp khác với việc đầu tư vào các hoạt
động tài chính. Đầu tư tài chính là hoạt động đầu tư trong đó người có tiền bỏ
tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị trường
vốn để hưởng lãi suất nhất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính
phủ…) hoặc lợi nhuận tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty
phát hành (mua cổ phiếu…). Như vậy đầu tư tài chính không trực tiếp làm tăng
tài sản cho chủ đầu tư. Trong khi về bản chất hoạt động đầu tư phát triển là hoạt
động tạo ra các giá trị tăng thêm vì mục tiêu phát triển bền vững. Đầu tư phát
triển trong doanh nghiệp nhằm tối thiểu chi phí, tối đa lợi nhuận, nâng cao khả
năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực…
2. Tầm quan trọng của hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Từ bản chất của doanh nghiệp ta thấy rằng đầu tư quyết định sư ra đời, tồn
tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Để tạo dựng cơ sở vật chất cho sự ra đời
của bất cứ doanh nghiệp nàp cũng phải xây dựng văn phòng, nhà xưởng, mua
sắm thiết bị, lắp đặt máy móc… Trong quá trình hoạt động cơ sở vật chất này bị
hư hỏng, hao mòn, doanh nghiệp phải bỏ chi phí để sửa chữa. Đáp ứng nhu cầu
của thị trường và thích nghi với quá trình đổi mới phát triển của khoa học kỹ
thuật, các doanh nghiệp phải đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật, quy trình công
nghệ. Tất cả các hoạt động đó đều là hoạt động đầu tư phát triển.

4
Quá trình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp có những vai trò quan trọng
đến hoạt động sản xuất kinh doanh cảu doanh nghiệp được thể hiện qua các mặt
sau:
Đầu tư phát triển có vai trò rất quan trọng. Đối với nền kinh tế nói chung,
hay đứng trên giác độ vĩ mô đầu tư có tác dụng:
- Tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.
- Làm tăng trưởng kinh tế.
- Làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Thúc đẩy đổi mới, phát triển khoa học công nghệ của một quốc gia và của
cả doanh nghiệp.
Còn đứng trên giác độ vi mô, đối với doanh nghiệp:
- Đầu tư phát triển tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp, xã hội liên tục phát triển, nền kinh tế toàn cầu nói chung, nền kinh tế
mỗi quốc gia nói riêng cũng vì thế mà không ngừng vận động phát triển.
Với xu thế hội nhập kinh tế hiện nay thì thị trường ngày càng trở lên sôi
động, nhu cầu của con người ngày càng phát triển đòi hỏi tiêu dùng nhiều hơn
những hàng hoá có chất lượng cao hơn, mẫu mã phải đẹp, đa dạng và phong
phú. Vì thế mà các doanh nghiệp, các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho thị
trường muốn tồn tại được thì phải đáp ứng nhu cầu đó của dân cư. Muốn như
vậy nhà sản xuất phải tiến hành đầu tư phát triển sản xuất. Ngày càng có nhiều
doanh nghiệp tham gia vào thị trường, muốn cho doanh nghiệp của mình có chỗ
đứng, có khả năng chiếm lĩnh thị trường thì phải tiến hành đầu tư vì chỉ có đầu
tư phát triển đổi mới sản xuất thì doanh nghiệp mới có những sản phẩm mới, sản
phẩm, dịch vụ có chất lượng tốt hơn có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm
khác tương tự trên thị trường. Từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp, tạo cho nền kinh tế không ngừng vận động phát triển.
- Đầu tư phát triển tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm.
Như ta biết nhu cầu của con người, xã hội ngày càng gia tăng. Để tạo ra
những sản phẩm- dịch vụ có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu

5
dung, các doanh nghiệp phải thay đổi dây truyền công nghệ, nâng cao năng lực
của nguồn nhân lực. Đầu tư trong doanh nghiệp bao gồm: Đầu tư vào lao động
và đầu tư vào tài sản cố định hay dự trứ… Khi đầu tư đổi mới tài sản cố định
nghĩa là đổi mới các dây truyền sản xuất mới trên cơ sở kỹ thuật công nghệ hiện
đại hơn, giúp tăng năng suất và tăng các sản phẩm mới. đáp ứng nhu cầu đổi
mới xu hướng tiêu dung và đa dạng của người tiêu dùng . Bên cạnh đó là đầu tư
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ta biết các công nghệ mới, kỹ thuật cao
đòi hỏi người vận hành nó phải có một trình độ nhất định. Đầu tư phát triển
nguồn nhân lực tạo ra một đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng
tiếp thu và vận dụng các công nghệ mới, thay đổi cơ chế tổ chức quản lý để hoạt
động của doanh nghiệp thật sự có hiệu quả. Khi đã tiến hành đầu tư đổi mới sản
phẩm sản xuất ra vừa có mẫu mã mới đa dạng, hấp dẫn người tiêu dung mà cả
chất lượng của sản phẩm cũng được gia tăng mà giá thành sản phẩm lại hạ
xuống.
- Đầu tư phát triển tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận.
Không có doanh nghiệp nào tíên hành sản xuất kinh doanh lại không đặt
mục tiêu về lợi nhuận vì lợi nhuận chính là động lực để các nhà đầu tư, các
doanh nghiệp bỏ vốn ra thực hiên đầu tư. Không chỉ mong muốn có lợi nhuận
mà họ còn mong muốn tiền của họ không ngừng gia tăng lên, tức là quy mô lợi
nhuận ngày càng được mở rộng.
Hoạt động đầu tư của mỗi doạnh nghiệp chính là hoạt động nhằm thực hiện
chiến lước sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với mục tiệu đạt được lợi
nhuận mà doanh nghiệp đề ra. Khi lợi nhuận ngày càng cao thì lợi ích càng lớn
càng kích thích đầu tư thêm và ngược lại.
Ta biết lợi nhuận được quy mô bới doanh thu và chi phí theo công thức:
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí
Doanh thu có lớn hay không lại phụ thuộc vào quà trình đầu tư của doanh
nghiệp. Nếu đầu tư mang lại hiệu quả cao thì doanh thu sẽ nhiều. Như vậy đầu

6
tư đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, tăng lợi
nhuận
- Đầu tư góp phần đổi mới công nghệ, trình độ khoa học kỹ thuật trong sản
xuất sản phẩm của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn luôn chú trọng đến
việc đổi mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh của mình. Và một trong các công
việc đầu tư của doanh nghiệp là đầu tư vào tài sản cố định. Điều này có nghĩa là
doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy mọc thiết bị, đổi mới công nghệ nhằm
nâng cao năng suất, đổi mới sản phẩm cả về chủng loại về mẫu mã và chất
lượng… Bất cứ hoạt động nghiên cứu triển khai các công trình khoa học công
nghệ mới hay mua sắm các công nghệ mới thì đều phải sử dụng vốn hay đúng
hơn là phải tiến hành đầu tư.
Như vậy có thể thấy dưới sự phát triển như vũ bão của các cuộc cánh mạng
khoa học công nghệ, mỗi doanh nghiệp đều nhận thấy vai trò của đầu tư cho
công nghệ cũng như hiện dại hoá máy móc thiết bị trong quá trình sản xuất. Hay
nói cách khác đầu tư góp phần đổi mới công nghệ trình độ khoa học kỹ thuật.
- Đầu tư phát triển góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đầu tư vào lao động bao gồm những hoạt động như đầu tư và đào cán bộ
quản lý, tay nghề công nhân, các chi phí để tái sản xuất. Nâng cao chất lượng,
sản phẩm dịch vụ, đa dạng hoá các sản phẩm đầu ra. Điều này chỉ thực hiện
được thông qua đổi mới, thay đổi dây truyền sản xuất kinh doanh mới. Nhưng
khi thay đổi các dây truyền này đòi hỏi đội ngũ nhân lực cũngphải có trình độ
tương ứng với công nghệ mới đó, phải hiệu và biết cách vận hành công nghệ
mới. Có như vậy hoạt động của doanh nghiệp mới có hiệu quả. Doanh nghiệp
nào trong quá trình hoạt động của mình cũng đều cần có đội ngũ lao động có
trình độ, kỹ năng. Trình độ, kỹ năng của người lao động ảnh hưởng tới quá trình
sản xuất kinh doanh cho phép tạo ra các sản phẩm chất lượng cao đáp ứng đòi
hỏi của người tiêu dùng. Cùng với điều kiện sản xuất như nhau nhưng lao động
có trình độ sẽ tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt hơn, đảm bảo cạnh tranh.

7
3. Vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Nguồn vốn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích luỹ được thể hiện dưới
dạng giá trị được chuyển hoá thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của
xã hội. Đây là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho
đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của Nhà nước và của xã hội.
Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay
tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất
xã hội. Điều này đã được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị Mác- Lênin và
kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trên góc độ vi mô, nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp bao gồm hai
nguồn chính là nguồn vốn nội bộ doanh nghiệp và nguồn vốn bên ngoài doanh
nghiệp.
Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp:
Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp được hình thành từ nội bộ doanh
nghiệp bao gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận giữ lại, phần khấu hao hàng năm và
huy động bằng các công cụ chứng khoán.
- Nguồn vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp được thành lập, bao giờ chủ
doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định. Nguồn vốn này có thể
do một người, hay một nhóm người tham gia góp vốn tuỳ thuộc vào từng loại
hình của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp đều phải có một lượng vốn ban đầu
mới có thể thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Bước đầu dùng
để đầu tư cho các tài sản cố định cần thiết như nhà xưởng, văn phòng, máy móc
thiết bị cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp.
- Nguồn vốn từ lợi nhuận giữ lại: là bộ phần lợi nhuận được sử dụng để tái
đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đã đi
vào hoạt động dựa trên nguồn vốn góp ban đầu để mua sắm máy móc thiết bị…
tiến hành thực hiện công việc đầu tư sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận. Trong
thời gian đầu khi mà doanh nghiệp mới đi vào hoạt động thì hầu hết lợi nhuận
của doanh nghiệp đều được giữ lại để tiến hành tái đầu tư mở rộng doanh nghiệp

8
và nâng cao vị trí của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đã hoạt động trong một
thời gian dài thì để ngày càng nâng cao vị thế và mở rộng sự ảnh hưởng chiếm
lĩnh thị trường thì mỗi doanh nghiệp không ngừng đầu tư thay đổi công nghệ
cũng như nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng sản phẩm.
Hoạt động này được thực hiện chính là do phần lợi nhuận giữ lại của doanh
nghiệp.
- Nguồn vốn từ phần khấu hao hàng năm: Khi doanh nghiệp đi vào hoạt
động đều xây dựng nhà cửa, văn phòng, mua sắm máy móc thiết bị… Những
trang thiết bị hình thành nên phần tài sản hữu hình của doanh nghiệp. Những tài
sản này không phải tồn tại mãi mãi mà có chu kỳ hoạt động cũng như có thời
gian sống của riêng nó. Mỗi một loại tài sản lại có một thời gian sử dụng nhất
định do nó chịu sự ảnh hưởng của hao mòn hữu hình và cả hao mòn vô hình của
các tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới. Mà mỗi tài sản này có giá trị
không nhỏ, doanh nghiệp không thể chỉ trong một lúc mà có thể mua sắm, thay
thế mới những tài sản đó. Vì vậy trong mỗi chu kỳ hoạt động của mình doanh
nghiệp đều tính khấu hao để vào quỹ khấu hao tài sản cố định để chuẩn bị cho
sự thay thế khi cần thiết các tài sản cố định đó. Hàng năm, phần khấu hao này
đều được để riêng vào quỹ riêng nhưng không phải để ứ đọng mà nó làm thành
một phần trong nguồn vốn dung để tiến hành tái sản xuất của mỗi doanh nghiệp.
- Nguồn vốn huy động bằng cách thông qua các công cụ chứng khoán:
Nguồn vốn này chính là nguồn vốn được hình thành bằng cách phát hành cổ
phiếu của các doanh nghiệp cổ phần. Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông đối với một phần vốn cổ phần của tổ
chức phát hành. Hay nói cách khác công ty phát hành cổ phiếu để huy động vốn,
số vốn cần huy động được chia làm các phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phẩn và
cổ phiếu chính là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối
với một công ty cổ phần. Cổ phiếu thì gồm có cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu
tiên.

9
+ Cổ phiếu thường: là loại cổ phiếu thông dụng nhất, đồng thời là chứng
khoán quan trọng nhất được trao đổi, mua bán trên thị trường chứng khoán.
+ Cổ phiếu ưu tiên: là cổ phiếu phát hành kèm theo một số điều kiện ưu
tiên cho nhà đầu tư sở hữu nó.
Nguồn vốn bên trong của doanh nghiệp có ưu điểm là đảm bảo tính độc
lập, chủ động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không bị phụ thuộc vào chủ nợ,
hạn chế được những rủi ro về tín dụng. Nhưng trong nhiều trường hợp, nếu chỉ
dựa vào nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp sẽ làm hạn chế quy mô đầu tư.
Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp:
Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp được hình thành từ: nguồn vốn tín
dụng ngân hàng, nguồn vốn tín dụng thương mại, nguồn vốn từ phát hành trái
phiếu công ty.
- Nguồn vốn tín dụng ngân hàng: Đây là một trong những nguồn vốn quan
trọng nhất của doanh nghiệp. Hiện nay, có thể nói không có một doanh nghiệp
nào không muốn vay vốn ngân hàng, không sử dụng tín dụng ngân hang hoặc tín
dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thị trường.
Để tiến hành hoạt động đầu tư, tái sản xuất, và đầu tư mới doanh nghiệp cần
phải có một lượng vốn đầu tư rất lớn trong khi đó nguồn vốn bên trong nội bộ
doanh nghiệp không thể huy động đáp ứng đủ nhu cầu đó. Nếu doanh nghiệp
không tiến hành đầu tư thì sẽ ảnh hưởng đến vị trí cũng như sự tồn tại của doanh
nghiệp đó trên thị trường, do thị trương hiện nay là thị trường tự do cạnh tranh
nếu không đổi mới doanh nghiệp sẽ bị tụt hậu và phá sản. Khi này thì nguồn vốn
tín dụng vay vốn ngân hàng sẽ đáp ứng cho nhu cầu vốn còn thiếu của doanh
nghiệp. Để có được nguồn vốn này thì doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện
bảo đảm tín dụng của ngân hang, các điều kiện bảo đảm tiền vay, sự kiểm soát
của các ngân hàng đối với việc sử dụng vốn đi vay của doanh nghiệp. Và phải
chú ý đến việc đây là nguồn vốn vay phải trả lãi của doanh nghiệp. Lãi vay
chính là một yếu tố làm phát sinh chi phí.

10
- Vốn tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp,
được biển hiện dưới hình thức mua bán chịu, xuất hiện do sự tách biệt giữa sản
xuất và tiêu dùng. Nguồn vốn này giúp cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt
động sản xuất, kinh doanh của mình ngay cả khi chưa chuẩn bị được đầy đủ vốn
để mua sắm đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh đó. Điều này làm giảm
đáng kể nhu cầu vốn trong doanh nghiệp. Tạo cơ hội cho doanh nghiệp tập trung
vốn cho những lĩnh vực khác, các khâu khác.
- Phát hành trái phiếu công ty: Trái phiếu là công cụ nợ do các cơ quan
công quyền, các công ty đang hoạt động phát hành nhằm huy động vốn trên thị
trường trong đó các trái chủ được cam kết sẽ thanh toán cả gốc và lãi trong một
thời hạn nhất định. Trái phiếu lá loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp
pháp của người sở hữu với một phần nợ của tổ chức phát hành. Về bản chất trái
phiếu chính là một hình thức vay nợ của doanh nghiệp. Trái phiếu doanh nghiệp
bao gồm trái phiếu có đảm bảo và trái phiếu không đảm bảo.
4. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp bao gồm nhiều nội dung
khác nhau. Tuỳ theo mục đích doanh nghiệp và các cách tiếp cận khác nhau ta
sẽ có các hình thức đầu tư phát triển khác nhau.
Theo khái niệm, nội dung của đầu tư phát triển bao gồm:
- Đầu tư vào tài sản vật chất
+ Đầu tư xây dựng cơ bản.(đầu tư tài sản cố định)
+ Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ.
- Đầu tư vào tài sản vô hình
+ Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
+ Đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai các hoạt động khao
học và công nghệ.
+ Đầu tư vào hoạt động nghiên cứu thị trường.
+ Đầu tư vào bí quyết công nghệ.

11
+ Đầu tư cho các hoạt động marketing, xúc tiến hỗn hợp, củng cố uy tín,
thương hiệu
+ Đầu tư vào các tài sản vô hình khác.
4.1 Đầu tư vào tài sản vật chất
Tài sản vật chất (hữu hình) là những tài sản có hịnh thái vật chất cụ thể, có
thể tham gia vào một hay một số chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp.
Tài sản hữu hình được chia thành hai loại là tài sản lưu động có thời gian
luân chuyển ngắn hạn và tài sản cố định hữu hình có giá trị lớn và thời dian hoạt
động lâu dài.
Tài sản cố định hữu hình thường chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng tài
sản của doanh nghiệp đồng thời có ý nghĩa rất quan trọng. Nó tác động trực tiếp
đối với đối tượng sản xuất để tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp. Vì vậy đầu tư
vào tài snả cố định hữu hình trong doanh nghiệp là mục tiêu trước mắt và lâu dài
cho quá trình tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp.
Tài sản vật chất của doanh nghiệp được dung thường xuyên vào quá trình
sản xuất kinh doanh, trực tiếp chế tạo ra các loại sản phẩm cho doanh nghiệp
hoặc gián tiếp tạo ra các sản phẩm đó. Nó được khấu hao thường xuyên vào sản
phẩm của doanh nghiệp.
Đầu tư vào tài sản vật chất bao gồm đầu tư cho tài sản cố định và đầu tư
hàng tồn trữ.
4.1.1 Đầu tư vào tài sản cố định (đầu tư xây dựng cơ bản)
Đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo tài sản
cố định của doanh nghiệp, là sự bỏ vốn ra để xây dựng nhà máy, cơ sở hạ tầng
và mua sắm thiết bị và các tài sản đủ tiêu chuẩn là TSCĐ của các đơn vị sản
xuất kinh doanh làm tăng thực sự tài sản sản xuất.
Đầu tư XDCB bao gồm các hoạt động chính như xây lắp và mua sắm máy
móc thiết bị. Trong doanh nghiệp, đặc biệt là trong doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh, để các hoạt động diễn ra bình thường đều cần xây dựng nhà xưởng, kho
tang, các công trình kiến trúc, mua và lắp đặt trên nền bệ các máy móc thiết bị…

12
Hoạt động đầu tư XDCB đòi hỏi vốn lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng
vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp. Vốn đầu tư XDCB là toàn bộ chi phí
dành cho việc tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng cho doanh nghiệp.
Nó bao gồm các khoản chi phí cho khảo sát, thiết kế và xây lắp nhà của kiến
trúc, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc và một số phát sinh khác trong quá
trình tái sản xuất tài sản cố định.
Hoạt động đầu tư vào tài sản cố định có những nội dung chính:
- Đầu tư vào nhà xưởng, vật kiến trúc
- Đầu tư vào máy móc thiết bị
- Đầu tư vào phương tiện vận tải, phương tiện truyền dẫn.
* Đầu tư vào nhà xưởng, vật kiến trúc
Nhà xưởng, vật kiến trúc (các văn phòng làm việc và phòng nghỉ ngơi) là
những hạng mục công trình lớn và quan trọng nhất của bất kỳ doanh nghiệp nào.
Trong bất kỳ một dự án nào, muốn thực hiện được dây chuyền sản xuất thì phải
có một cái khung, một vỏ bọc thật tốt. Đó là nhà cửa, nhà xưởng, vật kiến trúc.
Nhà xưởng, vật kiến trúc không những là nơi bảo vệ của cải, trang thiết bị máy
móc được lắp đặt trong đó, mà nó còn là nơi để thực hiện sản xuất sản phẩm
(nhà xưởng) hay tái sản xuất lại sức lao động (vật kiến trúc). Vì vậy, đầu tư vào
nhà xưởng, vật kiến trúc là hoạt động thực sự quan trọng, được tiến hành và
hoàn thành sớm nhất trong một dự án đầu tư.
Lượng vốn cho hoạt đồng này là tương đối lớn cho dù quy mô sản xuất của
doanh nghiệp là lớn hay nhỏ, nên trong quá trình thi công xây dựng cần giám sát
chặt chẽ để đảm bảo an toàn, ổn định cho hết chu ký của dự án.
* Đầu tư vào máy móc thiết bị
Đầu tư vào máy móc thiết bị là phần quan trọng nhất của hoạt động đầu
tư.Có máy móc thiết bị đầy đủ và chất lượng thì dự án mới đi vào thực hiện
được. Máy móc thiết bị phải phù hợp với tính chất của dây chuyền sản xuất,
phải phù hợp với đặc điểm của sản phẩm. Máy móc thiết bị trực tiếp quyết định
công suất của nhà máy cũng như chất lượng mẫu mã của sản phẩm tạo ra. Máy

13
móc thiết bị sử dụng không phù hợp thì sẽ ảnh hưởng đến đặc tính của sản phẩm
tạo ra, chất lượng của sản phẩm không đảm bảo, sản phẩm có thể không bán
được trên thị trường, doanh nghiêp thất bại và có thể bị đào thải khỏi thị trường.
Do hậu quả nghiêm trọng như vậy và do lượng vốn bỏ ra đối với hoạt động này
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn đầu tư mà việc lựa chọn máy móc thiết bị
được sử dụng trong các doanh nghiệp là vấn đề tiên quyết, là xương sống của
một dự án đầu tư, là mối quan tâm hàng đầu của các chủ đầu tư.
* Đầu tư vào phương tiện vận tải
Phương tiện vận tải là những bộ phận có thể nói là trung gian cầu nối giữa
nơi cung cấp nguyên, nhiên vật liệu; cung cấp đầu vào cho sản xuất tới nơi sản
xuất sản phẩm và cầu nối giữa nơi sản xuất sản phẩm và nơi tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài ra còn dùng để chuyên chở cán bộ công nhân viên… Vì vậy mà việc đầu
tư vào phương tiện vận tải là hết sức cần thiết.
Lượng vốn dành cho hoạt động đầu tư phương tiện vận tải mặc dù không
chiếm tỷ trọng lớn nhưng tuỳ theo quy mô và đặc tính của sản xuất của từng
doanh nghiệp mà cũng cần phải đầu tư đúng mức, hợp lý để tránh tình trạng thất
thoát, lãng phí nguồn vốn và đem lại hiệu quả kinh tế cao.
4.1.2 Đầu tư vào hàng tồn trữ
Hàng tồn trữ là sự ngưng đọng tạm thời của sản phẩm hoá xã hội trong quá
trình vận động từ sản xuất đến tiêu dung, được giữ lại để bán và tiêu dùng sau
này. Hàng tồn trữ trong doanh nghiệp là toàn bộ nguyên nhiên vật liệu, bán
thành phẩm và sản phẩm hoàn thành được tồn trữ trong doanh nghiệp.
Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp, quy mô và cơ cấu các mặt hang tồn
trữ cũng khác nhau. Như nguyên vật liệu là bộ phận hang tồn trữ không thể thiếu
của doanh nghiệp sản xuất nhưng lại không có trong doanh nghiệp thương mại.
Hàng tồn trữ có vai trò rất quan trọng do: Một mặt, dự trữ vật tư không đủ
mức cần thiết sẽ có nguy cơ làm cho sản xuất của doanh nghiệp bị gián đoạn,
mặt khác, dự trữ quá nhiều dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn, không có lợi cho
doanh nghiệp. Do vậy, xác định quy mô đầu tư hang tồn trữ tối ưu cho doanh

14
nghiệp là rất cần thiết. Hàng tồn trữ phải đảm bảo vừa đủ cho quá trình sản xuất
của doanh nghiệp được liên tục, vừa hợp lý để nâng cao hiệu quả dự trữ, giảm
vốn ngưng đọng, làm tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư vào hang tồn trữ bao gồm các nội dung:
- Đầu tư vào nguyên vật liệu
- Đầu tư vào bán thành phẩm và sản phẩm hoàn thành.
* Đầu tư vào nguyên vật liệu (NVL)
Nguyên vật liệu là một bộ phận hàng tồn trữ không thể thiếu của doanh
nghiệp sản xuất nhưng lại không có trong doanh nghiệp thương mại dịch vụ.
Trong doanh nghiệp sản xuất, NVL là nguồn đầu vào cho quá trình sản xuất.
Muốn sản phẩm tạo ra đúng quy cách, mẫu mã, chất lượng thì NVL phải tốt,
phải đúng các tiêu chuẩn đã đặt sẵn tuỳ theo đặc tính của sản phẩm lựa chọn.
Tồn trữ NVL giúp cho dây chuyền sản xuất được diễn ra liên tục. Do có một tầm
quan trọng như vậy nên NVL cần được đầu tư một cách cẩn thận và hợp lý.
Đầu tư cẩn thận: NVL có thể được mua từ nơi cung cấp trong nước hoặc
phải nhập khẩu từ nước ngoài về. NVL bao gồm nguyên vật liệu chính và
nguyên vật liệu phụ. Trên thị trường hiện nay cũng có rất nhiều loại NVL có thể
thay thế được cho nhau. Vì vậy khi mua hay nhập NVL cần phải cẩn thận lựa
chọn những NVL có đặc tính và chất lượng phù hợp với chất lượng sản phẩm
của dự án. Chất lượng NVL được đánh giá qua các tiêu chuẩn, cấp hạng, các chỉ
tiêu cơ lý hoá và các thiết bị đo tương ứng để kiểm tra. Vì vậy, đầu tư vào NVL
cũng cần kèm theo đầu tư vào nhân lực – những người có khả năng am hiểu về
NVL để lựa chọn đúng và hiệu quả.
Đầu tư hợp lý: Bất kỳ một dây chuyền sản xuất nào muốn tạo ra sản phẩm
cũng cần phải có đầu vào là NVL. Tuy nhiên sử dụng bao nhiêu là tiết kiệm
nhưng lại đảm bảo được chất và số lượng sản phẩm mà mục tiêu dự án đặt ra?
NVL sử dụng không hết có thể được cho vào kho để chờ đợt sản xuất tiếp theo
nhưng nếu không biết cách xử lý bảo quản có thể làm cho NVL bị hư hỏng và

15
không sử dụng được nữa. Đầu tư vào NVL chính là phải xem xét mức sử dụng
hiệu quả, mức sử dụng hợp lý nhất để tránh lãng phí tiền vốn.
* Đầu tư vào bán thành phẩm và sản phẩm hoàn thành
Đối với những doanh nghiệp thuộc loại sản xuất phức tạp theo kiểu chế
biến liên tục, sản phẩm hoàn thành trong quy trình công nghệ trải qua nhiều
bước (giai đoạn chế biến ) nối tiếp nhau theo một trình tự nhất định, mỗi bước
tạo ra một loại bán thành phẩm và bán thành phẩm của bước trước là đối tượng
(hay là nguyên liệu) chế biến của bước sau, cuối cùng tạo ra sản phẩm hoàn
thành. Sản phẩm sau khi hoàn thành có thể được đem đi tiêu thụ hoặc đem vào
kho tồn trữ tuỳ theo chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp. Sản phẩm
được nhập kho cũng đóng một vai trò nhất định trong chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp :
- Giúp cho sản xuất xảy ra liên tục
- Giúp cho doanh nghiệp đối phó được với những đơn đặt hàng đột xuất
- Chủ động trên thị trường vì luôn có một lượng hàng sẵn sàng được cung
ứng nếu sản phẩm đem bán trên thị trường thiếu.
- Giúp cho doanh nghiệp có thể thực hiện được một số chiến lược kinh
doanh khác.
Còn đối với các doanh nghiệp thương mại thì công tác dự trữ các sản phẩm
nhằm đáp ứng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là hoạt động quan
trọng nhất không thể thiếu. Chỉ khi có hang dự trữ các doanh nghiệp mới có thể
tiến hành hoạt động. Khối lượng dự trữ chính xác, hợp lý giúp cho doanh nghiệp
hoạt động một cách có hiệu quả đạt được lợi ích cao nhất.
4.2 Đầu tư vào tài sản vô hình
Tài sản vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định
được giá trị và do các doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong hoạt dộng sản xuất
kinh doanh, có thể phân chia thành các loại sau:
+ Quyền sử dụng đất
+ Quyền phát hành

16
+ Bản quyền, bằng sáng chế
+ Nhãn hiệu hang hoá
+ Giấy phép và giấy nhượng quyền
+ Phần mềm máy vi tính
+ Tài sản vô hình khác như: quyền đặc nhượng, quyền thuê nhà, quyền sử
dụng hợp đồng, công thức và cách pha chế, kiểu mẫu, thiết kế…
Tài sản vô hình có hình thái vật chất không rõ rang, rất khó để đánh giá
chính xác giá trị của một tài sản vô hình vì nó không tồn tại dưới dạng vật chất
có thể cân, đo, đong đếm dễ dàng.
Hiện nay nền kinh tế vận động theo nền kinh tế thị trường với xu thế tự do
hoá cạnh tranh, xu thế htương mại tự do, xu thế toàn cầu hoá… Tạo điều kiện
cho sự gia nhập của nhiều doanh nghiệp mới. Nên mỗi doanh nghiệp muốn tồn
tại, phát triển phải tiếp tục hoàn thiện mình hơn nữa để tạo chỗ đứng vững chắc
trên thị trường.
Hoạt động đầu tư tài sản vô hình bao gồm các nội dung sau:
- Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Đầu tư nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ
- Đầu tư cho hoạt động marketing, xúc tiến hỗn hợp, củng cố uy tín,
thương hiệu
- Đầu tư vào hoạt động nghiên cứu thị trường
- Đầu tư vào bí quyết công nghệ
- Đầu tư vào các tài sản vô hình khác
4.2.1 Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế và doanh
nghiệp. Chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao mới đảm bảo cho các doanh
nghiệp dành thắng lợi trong cạnh tranh. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực tạo ra
cho doanh nghiệp một đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao. Hoạt động đầu tư
này rất quan trọng vì chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao mới tạo cho doanh
nghiệp cơ hội ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ mới nhằm tăng năng

17
suất, nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó nguồn
nhân lực có chất lượng cao cũng cho phép công tác tổ chức, quản lý hoạt động
của doanh nghiệp trở nên khoa học và hiệu quả hơn.

18
Như vậy, Bất cứ một loại hình doanh nghiệp nào đều phải quan tâm đến lao
động trong quá trình đầu tư của mình. Việc quan tâm đến lao động trong doanh
nghiệp không chỉ về mặt số lượng mà cần quan tâm cả mặt chất lượng. Số lượng
lao động ảnh hưởng đến quy mô sản xuất của doanh nghiệp, còn chất lượng lao
động ảnh hưởng đến cường độ lao động , năng suất lao động.Việc tăng chất
lượng lao động chỉ băng cách đầu tư cho y tế , giáo dục đào tạo, dạy nghề ..Từ
đó nâng cao thể lực, trình độ, tay nghề của người lao động .
Trong điều kiện hiện nay nhiều doanh nghiệp coi việc đầu tư phát triển
nguồn nhân lực là chiến lược canh tranh. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp
bao gồm: Cán bộ quản lí, công nhân sản xuất và cán bộ nghiên cứu khoa học.
Đối với từng loại phải có chính sách đào tạo riêng nhưng đều phải liên tục được
tu dưỡng rèn luyện nghiên cứu học tập để nâng cao kinh nghiệm, trình độ tay
nghề.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bắt đầu từ khâu
tuyển người lao động. Đây là cơ sở để có được lực lượng lao động tốt, bởi vậy
khâu tuyển người đòi hỏi cần phải rất khắt khe cẩn thận nhất. Tuyển người hiện
nay đòi hỏi phải đạt được các yêu cầu như: Trình độ văn hoá, ngoại ngữ, trình
độ vi tính… Tiếp đến là quá trình nâng cao khả năng lao động của người lao
động thường xuyên. Trong điều kiện đổi mới hiện nay rất nhiều công nghệ hiện
đại đã và đang được ứng dụng trong các loại hình doanh nghiệp nước ta. Vì vậy
việc đào tạo lao động là yêu cầu vô cùng quan trọng. Cuối cùng là việc khen
thưởng tổ chức các hoạt động về tinh thần giúp người lao động hăng say trong
công việc từ đó nâng cao năng suất lao động. Các hinh thức khen thưởng đang
được thực hiện ở các doanh nghiệp các cá nhân thành viên có thanh tích tốt đều
được thưởng xứng đáng góp phần nâng cao trong xí nghiệp , công ty , các cuộc
thi các cá nhân …Nhờ có chính sách đào tạo lao động nhiều doanh nghiệp đã đạt
được những thanh công to lớn , góp phần không nhỏ trong chiến lược sản xuất
kinh doanh cũng như chiến lược cạnh tranh của mình.

19
Việc trả lương đúng cho người lao động cũng chính là hoạt động đầu tư
phát triển. Vì việc trả lượng đúng sẽ gián tiếp thúc đẩy cho các cá nhân người
lao động có tiềm lực về thu nhập được trả đúng tự nâng cao trình độ của mình để
có được các mức lương cao hơn.
4.2.2 Đầu tư nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ
Cùng với đà phát triển của cơ chế thị trường hiện nay, nhu cầu của con
người càng đa dạng, đòi hỏi cao không những về mặt số lượng mà còn về mặt
chất lượng. Doanh nghiệp muốn có một chỗ đững vững chắc trên thị trường và
nâng cao khả năng với các doanh nghiệp khác thì doanh nghiệp phải không
ngừng cải tiến, đổi mới sản phẩm, đổi mới phương thức sản xuất, đổi mới công
nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm. Hoạt động đàu tư nghiên cứu khoa học
là thực sự quan trọng, đóng vai trò quyết định sự sống còn của doanh nghiệp.
Bởi vì chỉ có công nghệ mới giúp cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh
tranh trong sản xuất kinh doanh, đảm bảo sức mạnh và vị trí cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường hiện tại cũng như tương lai.
Đầu tư nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ có thể là đầu tư nghiên
cứu công nghệ mới hoặc là đầu tư mua sắm công nghệ từ nước ngoài. Đầu tư
nghiên cứu hoặc mua công nghệ đòi hỏi một lượng vốn lớn và độ rủi ro cao.
Công nghệ được sử dụng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm tạo ra.
Các chương trình và dự án nghiên cứu và triển khai gắn chặt với chiến lược kịnh
doanh giúp các doanh nghiệp đạt được các mục tiêu ngắn hạn cũng như các mục
tiêu dài hạn vềk inh tế cũng như các ảnh hưởng khác. Vì vậy, đầu tư vào khoa
học công nghệ cần phải đầu tư một cách cẩn trọng. Hiện nay khả năng đầu tư
cho hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học và công nghệ của doanh
nghiệp Việt Nam còn khá khiêm tốn. Cùng với đà phát triển của kinh tế đất
nước và doanh nghiệp, trong tương lai tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư này sẽ
càng tăng, tương ứng với nhu cầu và khả năng của doanh nghiệp
4.2.3 Đầu tư vào hoạt động nghiên cứu thị trường

20
Thứ nhất là: đầu tư cho việc nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp trước
hết là nghiên cứu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Có thể nói cạnh tranh là một đặc tính cơ bản nhất của thị trường của doanh
nghiệp, sẽ không có thị trường nếu không có cạnh tranh, trong môi trường cạnh
tranh hoàn hảo mục tiêu của doanh nghiệp, người tiêu dùng là tối đa hoá lợi
nhuận và sự tiện ích của chính mình, khả năng cạnh tranh là nguồn năng lượng
thiết yếu để doanh nghiệp tiếp tục vững bước trên con đường hội nhập kinh tế.
Thực tế cho thấy doanh nghiệp kinh doanh thành công thực hiện các kĩ năng
cạnh tranh rất thuần thục, nó tạo thành phương pháp cạnh tranh đặc trưng doanh
nghiệp
Các kĩ năng này tập trung vào:
- Tạo lập và phát triển uy tín doanh nghiệp
- Coi trọng chiến lược mở rông thị trương
- Xây dựng và thực hiện đổi mới sản phẩm , mẫu mã
- Luôn tìm cách giảm chi phí sản xuất
- Sách lược tiêu thụ sản phẩm khôn khéo
Thứ hai là: khi nghiên cứu thị trường trong đầu tư tài sản vô hình của
doanh nghiệp ta cần phải nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng.
Nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng là nghiên cứu các cá nhân đưa ra
quyết định thế nào đối với việc chi tiêu các nguồn tài nguyên có thẻ sử dụng của
họ trong các hạng mục liên quan đến sự tiêu dùng. Qua việc nghiên cứu hành vi
người tiêu dùng sẽ cung cấp cho các nhà sản xuất những thông tin quan trọng để
họ lên kế hoạch sản xuất thiết kế cải tiến và từ đó xây dựng chiến lược
Maketing lập ra những mảng thị trường mới cho một sản phẩm riêng hay một
loại sản phẩm. Nghiên cứu hành vi người tiêu dùng được tiến hành bởi các tổ
chức Maketing riêng biệt.
Thấy được tầm quan trọng và cần thiết của việc nghiên cứu hành vi người
tiêu dùng, các doanh nghiệp đang đầu tư một cách thích đáng cho việc nghiên
cứu. Việc nghiên cứu thành công giúp doanh nghiệp có chiến lược sản xuất kinh

21
doanh đúng hướng, tiêu thụ nhanh sản phẩm quay vòng vốn nhanh thúc đẩy nền
kinh tế phát triển.
4.2.4 Đầu tư vào bí quyết công nghệ
Ngoài máy móc thiệt bị thì bí quyết công nghệ là một phần quan trọng của
công nghệ. Hiện nay các doanh nghiệp mới chỉ quan tâm đến việc mua sắm, đổi
mới dây chuyền công nghệ mà không chú ý đến việc đầu tư cho bí quyết công
nghệ. Trong khi đó bí quyêt công nghệ có vai trò rất quan trọng. Nó có chứa
đựng trong tất cả các khâu, các công đoạn của quá trình sản xuất như tổ chức
hợp lý hoá, điều hành sản xuất, hệ thống tài chính kế toán, khách hang, thị
trường tiêu thụ sản phẩm, đào tạo và thông tin, lập kế hoạch cải tiến công nghệ,
sử lý môi trường…
Các công nghệ hiện đại cao thì bí quyết công nghệ lại càng trở lên quan
trọng bởi vì mỗi công nghệ đều có cách thức vận hành riêng và có bí quyết sao
cho công nghệ hoạt động đạt hiệu quả nhất. Chính vì thế bí quyết công nghệ
đóng vai trò quan trọng nó là nhân tố mà các doạnh nghiệp cần phải quan tâm và
đầu tư hơn nữa.
4.2.5 Đầu tư vào hoạt động Marketing, xúc tiến thương mại, củng cố uy
tín, thương hiệu
Hoạt động marketing là một trong những hoạt động quan trọng của doanh
nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh,
hoạt động trong môi trường kinh tế chịu ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô của
môi trường đó, nhưng đồng thời hoạt động của các doanh nghiệp cũng tác động
ngược trở lại môi trường. Quá trình trao đổi tác động đó ngày càng diễn ra
thường xuyên, liên tục, với quy mô càng lớn. Chỉ có marketing mới có vai trò
quyết định và điều phối sự kết nối với thị trường, có nghĩa là đảm bảo cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp hướng theo thị trường, biết lấy thị trường –
nhu cầu và ước muốn của khách hàng làm chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi
quyết định kinh doanh. Như vậy đầu tư vào hoạt động marketing, doanh nghiệp

22
sẽ tăng cường được vị thế của mình, ngoài ra doanh nghiệp còn xác định được
các bước đi tiếp theo trong kế hoạch chiến lược của mình.
Hoạt động đầu tư cho hoạt động marketing bao gồm:
- Đầu tư cho hoạt động quảng cáo: Theo quan điểm của nhà quản lý, quảng
cáo là phương sách có tính chất chiến lược để đạt được hoặc duy trì một lợi thế
cạnh tranh trên thị trường. Trong nhiều trường hợp, đầu tư cho quảng cáo là một
sự đầu tư dài hạn.
- Xúc tiến thương mại. Trong xu thế kinh tế toàn cầu hiện nay, quan hệ
kinh tế giữa các doanh nghiệp, các quốc gia ngày càng trở lên mật thiết. Để phát
triển, doanh nghiệp cần phải có những biện pháp để thúc đẩy hoạt động thương
mại trên những thị trường rộng lớn hơn bằng các.
- Xây dựng thương hiệu. Khi hoạt động các doanh nghiệp để tồn tại và phát
triển thì phải không ngừng đổi mới nâng cao chất lượng của chính doanh nghiệp
mình. Mỗi doanh nghiệp phải chiếm được một thị phần nhât định trong tổng
cung của toàn nền kinh tế về sản phẩm của mình. Để nâng cao thị phần đó,
quảng bá hình ảnh của mình, nâng cao sự ảnh hưởng của doanh nghiệp mình
cũng như mở rộng được thị trường tiêu thụ thì các doanh nghiệp phải xây dựng
tốt nhất thương hiệu của doanh nghiệp mình. Vì thương hiệu chính là bước tiếp
cận đầu tiên của thị trường, của người tiêu dung với doanh nghiệp
Đầu tư cho các hoạt động marketing cần chiếm một tỷ trọng hợp lý trong
tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp.

23
Chương II:
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đặc biệt là những năm gần
đây giai đoạn 2000- 2005, Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) ngày càng giữ một
vai trò vô cùng quan trọng trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá- xã
hội:
Vai trò kinh tế: DNNN giúp khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị
trường; đảm nhận các lĩnh vực sản xuất-kinh doanh có tính chiến lược đối với sự
phát triển kinh tế-xã hội đòi hỏi vốn đầu tư lớn vượt quá khả năng của tư nhân;
tham gia vào những lĩnh vực khoa học-công nghệ mũi nhọn, có hệ số rủi ro cao;
tham gia vào một số ngành có lợi thế cạnh tranh.
Vai trò chính trị: Một là, DNNN nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng
liên quan đến an ninh, quốc phòng quốc gia. Hai là, DNNN tham gia chiếm giữ
một số vị trí thiết yếu, quan trọng (tuỳ theo từng thời kỳ phát triển kinh tế) để
chủ động định hướng xã hội, làm đối trọng trong phát triển hội nhập kinh tế
quốc tế.
Vai trò xã hội: DNNN gánh vác chức năng và vai trò xã hội và khác biệt so
với các loại hình doanh nghiệp khác, những ngành ở những địa bàn khó khăn có
ý nghĩa chính trị-xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư, đảm bảo cân bằng về
đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hoá công
cộng thiết yếu.
Có được những kết quả như vậy là do hiệu quả của hoạt đông đổi mới hệ
thống DNNN đem lại. Chính vì vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng về
sự đổi mới kéo theo hiệu quả của hoạt động đầu đầu tư trong hệ thống DNNN là
rất cần thiết, góp phần đưa ra một cánh nhìn tồng quan về các DNNN Việt Nam
hiên nay.

24
I. Các vấn đề cơ bản về doanh nghiệp Nhà nước
1. Đặc điểm của DNNN trong nền kinh tế thị thường.
DNNN là các cơ sở kinh doanh do nhà nước sở hữư hoàn toàn hoặc một
phần. Quyền sở hữu thuộc về nhà nước là dặc trưng cơ bản nhất, phân biệt
DNNN với các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân. Đặc trưng này quy định sự
kiểm soát của chính phủ bao gồm quyền chủ đạo và quyền can thiệp vào hoạt
động kinh doanh. Do vậy, người quản lý DNNN không có quyền linh hoạt đối
phó với những điều kiện thay đổi của thị trướng so vơi doanh nghiệp tư nhân.
Cụ thể: Bị chính phủ yêu cầu phải mua hàng hoá sản xuất trong nước, do vậy
làm tăng chí phí đầu vào, do công viên chức trong nhà nước nhân số, luôn ổn
định cố định nên khó có khả năng thay thế đầu vào về nguồn lao động của mình
cho phù hợp với hoàn cảnh bên ngoài.
Mặt khác do quyền sở hữu thuộc về nhà nước, là tổ chức không rõ ràng của
nhiệm vụ được giao cho các DNNN, trong khi các công ty của khu vực tư nhân
lấy lợi nhuận làm mục đích bao trùm thì các DNNN phải hướng vào các mục
tiêu khác.
Có thể là các DNNN buộc phải thoả mãn yêu cầu tiêu dùng trong nước với giá
ưu đãi, phải đáp ứng các tiêu chuẩn dịch vụ nào đó ở bất kỳ đâu do nhà nước
yêu cầu, cũng có thể bị yêu cầu chỉ được vay vốn từ một số định chế cho vay
nào đó hoặc từ những nguồn cho vay trong nước nào đó. Do đó cũng có thể phải
đầu tư phù hợp với kế hoạch quốc gia hoặc phải hy sinh lợi nhuận để thực hiện
những mục tiêu xã hội.
Bên cạnh đó, sự kiểm soát lỏng lẻo trong khu vực DNNN do sở hữu nhà
nước (đôi lúc mang nghĩa vô chủ), vì thế mỗi công nhân, người lao động thường
không có mối liên hệ lợi ích đối với DNNN, vì không thấy sự ảnh hưởng nhiều
vì thế không có cá nhân nào thấy cần phải có sự giám sát, điều hành, quản lý.

25
2. Sự cần thiết của DNNN trong nền kinh tế thị trường
Theo sự phân tích trên, DNNN gần như hoạt động kém hiệu quả so với
hoạt động của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường. Tuy vậy, nó
vẫn tồn tại và vận động, phát triển trong nền kinh tế.
Ngoài lý do tạo cho chính phủ “một quả đấm mạnh” để giải quyết các vấn
đề kinh tế xã hội to lớn trong những giai đoạn đặc biệt như cạnh tranh, khủng
hoảng kinh tế…sự tồn tại và phát triển các DNNN chủ yếu còn do các mục tiêu
phi thương mại của chính phủ nhằm điều tiết đời sống kinh tế xã hội. Đó là mục
tiêu ngăn chặn ngăn chặn độc quyền của khu vực tư nhân trong một ngành công
nghiệp nào đó có khả năng gây thiêt hại chung cho xã hội. Đó là mục tiêu phân
phối lại thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm và cung cấp hàng hoá cho
những thiệt hại kinh tế.
Sản xuất những hàng hoá và dịch vụ mà sản phẩm của chúng được tiêu
dùng mang tính xã hội không thương mại hoá như giao thông đường thuỷ,
những công trình kiến trúc mang tính lịch sử, bảo vệ phong cảnh thiên nhiên…
Những sản phẩm náy được coi là thuộc về cộng đồng, chính phủ phải chi phí
đảm bảo giao thông đường thuỷ, bảo tồn các di tích lịch sử và phong canh thiên
nhiên, khu vực tư nhân không thể cung cấp vì nó không có quyền sở hữu chúng,
vì vậy DNNN phải đảm nhiệm.
Chính phủ phải luôn có trách nhiệm trước những ngành thuộc kết cấu hạ
tầng, tạo cơ sở cho sự phát triển toàn bộ nền kinh tế trong đó có khu vực tư
nhân, sản xuất những hàng hoá này đòi hỏi cũng lớn, vốn thu hồi chậm nên
không hấp dân cư, các khu vực tư nhân. Chính vì phái đảm nhận việc cung cấp
những loại hàng hoá này nên thu nhập tài chính của DNNN thường được đánh
giá thấp hơn thu nhập thực tế, vì không tính đến những lợi ích bên ngoài doanh
nghiệp.
3. Cơ chế kích thích các DNNN
Về cơ chế kích thích để nâng cao hiệu quả của các DNNN:

26
- Trong các doanh nghiệp tư nhân với mục tiêu ưư tiên là lợi nhuận dài hạn
thì việc tìm ra được cơ chế kích thích không khó bằng trong DNNN. Lợi nhuận
cao thường gắn với lợi ích, thành tích mà cán bộ quản lý, công nhân được
hưởng. Bởi vậy do cạnh tranh khốc liệt và quyền lợi được hưởng trực tiêp do lợi
nhuận đem lại khiến cho doanh nghiệp tư nhân coi đó là cơ chế kích thich trực
thiếp và có hiệu quả. Song, đối với DNNN thì cơ chế kích thích đấy đôi khi
không rõ ràng so với doanh nghiệp tư nhân. Bởi do, ngoài mục tiêu lợi nhuận thì
những mục tiêu phi thương mại, mục tiêu xã hội. Mặt khác, cơ chể canh tranh
giữa các DNNN không khốc liệt như giữa khu vực tư nhân. Do đó hạn chế tính
sáng tạo trách nhiệm của các nhà quản lý, làm cho họ ỉ lại, thụ động, kém năng
lực quản lý.
Bên cạnh đó do quyền sở hữu trong doanh nghiệp nằm trong tay họ (họ chỉ
nắm quyền quản lý mà thôi) cho nên việc làm giàu cho bản thân các nhà quản lý
không hấp dẫn so với tham vọng chính trị của họ. Do đó cơ chế kích thích của
DNNN còn hạn chế rất nhiều.
4. Chế độ trách nhiệm
Chế độ trách nhiệm của DNNN ít nhất gồm ba khâu:
Thứ nhất: Sự phân quyền và trách nhiệm giữa các ngành của chính phủ có
thẩm quyền đối với DNNN (sự phân quyền).
Thứ hai: Đó là hệ thống thông tin trong hệ thống tồn tại mỗi thành viên
phải có trách nhiệm báo cáo một cách độc lập và thích hợp, chính xác.
Hệ thống trách nhiệm bao gồm 3 loại thành phần:
- Ban quản trị của DNNN- những người chuyên điều hành hoạt động của
doanh nghiệp - là những người am hiểu những vấn đề và những yêu cầu của sự
điều hành trong khu vực riêng của họ.
- Là chính phủ - quyết định các mục tiêu dài hạn và mục tiêu phi thương
mại.
Thứ 3: là quốc hội-đại diện cho quyền lợi của công nhân quyết định tối
hậu về ngân sách và chi ngân sách.

27
Do vây, 3 hệ thống này hoạt động theo đúng quyền hạn, trách nhiệm của
nó, tránh sự hoạt động quá quyền hạn và bộ phận của nó. Hoạt động do quyền
hạn chồng chéo đẫn đến sự rối loạn trong điều hành.
II. Tình hình các doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2001-2005
So với tất cả các giai đoạn trước đây, có thể khẳng định giai đoạn từ 2001-
2005 là giai đoạn đánh dấu sự thay đổi rõ nét nhất các DNNN và hoạt động của
chúng. Trong giai đoạn này, DNNN đã được đổi mới theo các hướng chủ yếu
sau:
1. Giảm doanh nghiệp Nhà nước 100% vốn Nhà nước
Số DNNN 100% vốn Nhà nước

5759
6000 5363
4845 4596
5000 4086
4000
3000
2000 Số DNNN 100% vốn Nhà nước
1000
0
2001 2002 2003 2004 2005
Năm

2. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước- con đường dài phía trước
2.1) Tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (CPH DNNN)
Bảng 1: Số lượng các DNNN đã Cổ phần hoá
Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Số lượng 254 212 140 198 481 830 724
Cộng dồn 370 582 722 920 1.401 2.231 2.955
Kế hoạch
Số lượng 400 450 500 600 700 767 338
Cộng dồn 565 1.015 1.515 2.115 2.815 3.582 3.920
Thực hiện kế 65,49 57,34 48,25 43,55 49,7 62,3 75,38
hoạch về số lượng
Nguồn: ThS Phạm Tuấn Anh: CPHDNNN giai đoạn 2001-2005,tạp chí
Con số và Sự kiện số 1+2/2006 và các bài có liên quan

28
2.2) Mô hình công ty cổ phần nhà nước – “bình mới, rượu cũ”
Cơ chế hoạt động của mô hình CTCPNN còn chưa thống nhất và bất cập.
Một số DNNN sau khi CPH có tình trạng hiểu sai và làm sai mô hình CTCP,
nhiều doanh nghiệp vẫn hoạt động “y như trước”, mô hình tổ chức, tư duy, công
nghệ, quản lý và triết lý kinh doanh dập theo bài bản của DNNN.
Khi chuyển sang CTCPNN nhiều cán bộ vẫn còn dè dặt trong cung cách
kinh doanh, nhiều cán bộ không đáp ứng được yêu cầu trong môi trường kinh
doanh mới theo luật mới quy định.
3. Từ sắp xếp lại các Tổng công ty đến hình thành các tập đoàn kinh
doanh
3.1. Sắp xếp lại các Tổng công ty – hai cách đánh giá trái ngược
Đến nay đang tồn tại cả hai đánh giá rất khác biệt về mô hình TCTNN.
Thứ nhất: các đánh giá khả quan. Nhiều tổng giám đốc các TCTNN -
những người trực tiếp điều hành hoạt động của các TCTNN cho rằng TCTNN
đã:
Thể hiện vai trò nòng cốt, chủ lực, xương sống của nền kinh tế biểu hiện ở
việc huy động năng lực sản xuất cao, cung cấp các sản phẩm trọng yếu để xuất
khẩu và phục vụ nền kinh tế, không để xảy ra sốt hàng, sốt giá hoặc ứ đọng sản
phẩm. Là đầu mối xuất khẩu chính, thu về nguồn ngoại tệ lớn góp phần cân đối
ngoại tệ và duy trì sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Có nhiều biện pháp bảo
toàn và phát triển vốn. Từng đơn vị đã có vốn để dầu tư chiều sâu đổi mới công
nghệ, mở rộng sản xuất. Hỗ trợ chi viện có hiệu quả doanh nghiệp vượt qua khó
khăn.
Thứ hai: các đánh giá của những người bên ngoài TCTNN đều là đánh giá
không mấy khả quan.
Các kết quả đạt được còn khá khiêm tốn so với mục tiêu đề ra khi thành lập
TCTNN. Không thực hiện được mục tiêu từng bước xoá bỏ chế độ bộ và cấp
hành chính chủ quan và sự phân biệt doanh nghiệp trung ương và địa phương.
Năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của các TCTNN

29
còn thấp. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị thành viên ở không ít
TCTNN còn rời rạc, chưa tạo lập được thực thể kinh tế thống nhất bằng cơ chế,
tổ chức và điều hành. Một số tổng công ty chưa thực hiên tốt vai trò của mình
trong bảo đảm cân đối kịp thời nhu cầu của một số mặt hàng thiết yếu trong sản
xuất và đời sống; Chưa làm tốt chức năng thị trường, không đủ thực lực làm
công cụ điều hành cũng như đầu tư hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn cho các doanh
nghiệp thành viên. Các TCTNN được thành lập khá dàn trải, chưa tập trung vào
các ngành, lĩnh vực then chốt. Tiêu chí thành lập TCTNN không được tôn trọng.
Ngành nào, lĩnh vực nào cũng cố thành lập cho được chí ít 1 tỏng công ty. Quy
mô vốn nhỏ: Bình quân 3.900 tỷ/1 tổng công ty, 5/17 tổng công ty có mức vốn
dưới 1.000 tỷ.
3.2. Hình thành mô hình các tập đoàn kinh doanh ở nước ta
Đến cuối giai đoạn 2001-2005, Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ
chúng ta đã chuyển đổi 47 TCTNN độc lập có quy mô lớn sang hoạt động theo
mô hình tập đoàn kinh doanh với kiểu tổ chức công ty mẹ - công ty con. Ví mô
hình này còn đang trong giai đoạn thử nghiệm nên chưa có đánh giá cụ thể.
4. Giao, bán, khoán và cho thuê DNNN
Đến tận năm 1999 Chính phủ mới ban hành nghị định về giao, bán, khoán,
cho thuê DNNN số 103/199/CĐ-CP đến nay cũng chỉ có 359 DNNN được giao,
bán, khoán và cho thuê.
Những hạn chế trong những năm gần đây trong các doanh nghiệp Nhà
nước:
- Chất lượng của một số dự án quy hoạch chưa cao, chưa có tầm nhìn xa,
quy hoạch chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chưa theo kịp với quá trình thay
đổi của các yếu tố khách quan. Các dự báo tác động của yếu tố bên ngoài như thị
trường thế giới, tiến bộ công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia, doanh nghiệp
và sản phẩm… nên tính định hướng cho doanh nghiệp còn hạn chế. Tính cục bộ,
xu hướng khép kín trong quy hoạch đã gây nên sự lãng phí các nguồn lực do sự
phát triển chồng chéo dư thừa công suất… hoặc tạo ra độc quyền trong ngành,

30
sử dụng quy hoạch để cản trở thành phần kinh tế khác tham gia. Quy hoạch
thường xuyên chưa được cập nhập, bổ xung và điều chỉnh kịp thời, do đó có một
số quy hoạch tỏ ra lạc hậu với tình hình thực tế, không đáp ứng nhu cầu, không
đủ căn cứ để xây dựng kế hoạch.
- Tình trạng đầu tư dàn trải chưa được khắc phục có hiêu quả. Trong những
năm qua mặc dù đã có nhưng tiến bộ nêu trên nhưng tình trạng trong bố trí kế
hoạch đầu tư bằng nguồn ngân sách các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố vẫn
chưa được khắc phục triệt để. Tình trạng này được tích tụ từ nhiều năm trước
đây, gây lãng phí lớn dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Một số bộ ngành địa phương
vẫn chưa chấp hành đúng quy định về quản lý đầu tư và xây dưng, bố trí vốn
cho một số công trình, dự án chưa đủ thủ tục về đầu tư.
- Tình hình thất thoát lãng phí còn lớn dẫn đến hậu quả đầu tư chưa cao
đang là vấn đề bức xúc. Qua các kết quả kiểm tra như trên ta thấy việc quản lý
vốn, đặc biệt là nguồn vốn ngân sách, còn rất yếu kém, thiếu sót dẫn đến tình
trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả.
- Hiệu quả sủ dụng vốn đầu tư chưa cao nhất là vốn ngân sách nhà nước.
Cơ cấu đầu tư còn nhiều điểm chưa hợp lý
- Việc giải ngân chậm, nhất là các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu
chính phủ, công trái giáo dục đã làm chậm đưa các công trình đi vào sử dụng.
Mới chỉ chú ý đến đầu tư nhằm phát triển năng lực sản xuất mà chưa chú ý đến
đầu ra sản xuất, công nghệ sử dụng, cơ sở hạ tầng…dẫn đến sản phẩm chất
lượng còn thấp, khả năng cạnh tranh chưa cao.
- Sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển, vốn nhà nước kém hiệu quả, cơ
chế quản lý không chặt chẽ dẫn đến tình trạng nợ nần, kém hiệu quả của doanh
nghiệp nhà nước.
- Tình hình nợ khối lượng các công trình xây dựng cơ bản hoàn thành do
chưa có vốn thanh toán diễn ra ở một số bộ, địa phương đang là vấn đề bức xúc.

31
III. Thực trạng đầu tư phát triển trong doanh nghiệp Nhà nước
1. Hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong doanh nghiệp nhà nước
Vốn đầu tư là một nguồn lực quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triển. Vì
vậy việc sử dụng vốn trong các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một khâu
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt và
thu hút các nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển.
Kinh tế Nhà nước mà nòng cốt là các DNNN đóng góp khoảng 39 % tổng
sản phẩm trong nước. Đến nay, DNNN đang nắm giữ 75% tài sản cố định của
quốc gia, 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% tổng vốn đầu tư nhà nước,
60% tổng lượng tín dụng ngân hàng trong nước, hơn 70% tổng vốn vay nước
ngoài.
Cơ cấu nguồn vốn phản ánh thành phần, tỷ trọng từng nguồn chiếm trong
tổng nguồn vốn doanh nghiệp tại một thời điểm. Vì vậy vai trò của giám đốc tài
chính doanh nghiệp là xây dựng một cơ cấu nguồn vốn tối ưu sẽ đáp ứng được
những mục tiêu quan trọng như: Tối thiểu hoá chi phí sử dụng vốn, tối đa hoá
giá trị doanh nghiệp, kết hợp hài hoà giưa các nguồn vốn và đảm bảo an toàn tài
chính doanh nghiệp.
Thực tế hiện nay khi đi sâu vào nghiên cứu xem xét công tác quản lí vốn
của doanh nghiệp việc tạo lập vốn và sử dụng vốn trong các DNNN nhìn chung
chưa hiệu quả còn nhiều bất hợp lí như cơ cấu nguồn vốn, vốn vay và vốn chiêm
dụng chiếm tỷ lệ quá lớn vốn chủ sở hữu ảnh hương không nhiều đến hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn chưa đạt hiệu quả như mong
muốn. Các chỉ tiêu sinh lời thấp.

32
Vốn đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp

160
Khu vực doanh nghiệp
140
Nhà nước và có vốn Nhà
120 nước
100
Khu vực doanh nghiệp
Tỷ đồng 80
ngoài Nhà nước
60
40
20 Khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài
0
2001 2002 2003 2004

Tuy DNNN đóng góp nhiều trong GDP nhưng nó vẫn không tương xứng
với vốn được đầu tư. Nguyên nhân là việc tạo lập, quản lí sử dụng vốn chưa hiệu
quả. Chưa xây dựng một cơ cấu nguồn vốn hợp lí ,tối đa hoá giá trị của doanh
nghiệp, chưa khai thác triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp.Việc sử dụng
vốn đầu tư dàn trải, bố trí vốn phân tán gây thất thoát lãng phí vốn đầu tư…
2. Thực trạng đầu tư tài sản vốn vật chất
Giai đoạn từ thập kỷ 80 trở lại đây đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ trong
chính sách đầu tư vào tài sản vốn vật chất. Theo đó, nhà nước chỉ quản lý ở tầm
vĩ mô, tạo cơ chế huy động và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia
đầu tư, thực hiên chiến lược mở cửa, hội nhập kinh tế. Tuy nhiên thực tế là trong

33
giai đoạn này, đầu tư của nhà nước vào khu vực kinh tế quốc doanh vẫn tiếp tục
giữ tỷ trọng cao và tăng lên khá nhiều so với các thành phần kinh tế khác, mặc
dù xu hướng đóng góp của khu vực này cho GDP lại đang có xu hướng giảm đi,
điều đó được thể hiên dưới bảng sau:
Cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế và tỷ trọng của từng khu vực trong GDP
Cơ cấu đầu tư (%) Cơ cấu GDP (%)
Năm 1995 2000 2003 1995 2000 2003
Khu vực nhà nước 42,0 57,5 56,5 40,2 38,5 38,3
Khu vực ngoài quốc doanh 27,6 23,8 26,7 53,5 48,2 47,8
Khu vực có vốn đầu tư 30,4 18,7 16,8 6,3 11,4 14,0
nước ngoài
Như vậy, nhìn chung để đóng góp vào GDP, khu vực kinh tế nhà nước
ngày càng cần mức đầu tư cao hơn. Điều đó được lý giải bới nhiều nguyên nhân:
Trước hết là trong cơ cấu đầu tư có sự mất cân đối thể hiện trong hai
chương trình đầu tư quốc gia giai đoạn 1996-2000, 2001-2005.
Thứ hai là tình trạng thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng diễn ra khá
phổ biến, gây ra thiệt hại to lớn cho nhà nước, bức xúc cho toàn xã hội.
Năm 2002 2003 2004 2005
Số dự án được thanh tra 17 14 19 31
Tổng đầu tư 9385 8.193 16.65 17.3
Tổng mức vốn được thanh tra (tỷ
đồng) 6.407 6.45 11.647 12.622
Thầt thoát và lãng phí (Tỷ đồng) 817 1.235 2.135 2070
tỷ lệ TTLP (%) 13,6 19,1 18,33 16,4

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do:


 Thứ nhất: do cơ chế chính sách liên quan đến đầu tư còn chưa dầy đủ,
thiếu sự đồng bộ.
 Thứ hai: chưa phân định rõ quyền lợi và trách nhiệm của từng người.
 Thứ ba: công tác kiểm tra giám sát các công trình không chặt chẽ. Đặc
biệt là đối với các công trình sử dụng NSNN.

34
 Thứ tư: Do phẩm chất năng lực của các nhà đầu tư và các nhà quản lý còn
yếu kém.tư tưởng trục lợi cho bản thân ,coi thường pháp luật.
 Thứ năm: Cơ cấu đầu tư không hợp lý, đầu tư dàn trải không theo quy
hoạch kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
 Thứ sáu: Các văn bản pháp luật chậm sửa đổi bổ sung, thiếu tính chặt chẽ,
không đồng bộ như chính sách giải phóng mặt bằng, luật đấu thấu…
Thứ ba là vấn đề nợ xây dựng cơ bản, một bài toán chưa có lời giải.
3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp nhà nước
Sự thành công hay thất bại của DNNN do nhiều yếu tố tạo nên, có cả khách
quan và chủ quan. Trong số đó có nguyên nhân cơ bản là về nguồn nhân lực.
Theo số liệu thống kê giai đoạn 2001-2005, số lao động trong DNNN có xu
hướng giảm đi sau 5 năm, nhưng không nhiều, tỉ lệ giảm đi sau 5 năm là 2,3%
và bình quân giảm 0,3% /năm.
2001 2002 2003 2004 2005
Số DNNN 5355 5363 4845 4596 4086
Số lao động DNNN 2.114.324 2.259.858 2.264.942 2.249.902 2.040.859
(người)
Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
Bên cạnh đó, số vốn tính trên lao động của DNNN có sự tăng lên mạnh mẽ.
Điều đó đồng nghĩa với điều kiện làm việc cũng như trình độ của cán bộ và công
nhân viên trong hệ thống DNNN đã được cải thiện phần nào, đời sống của họ
cũng được nâng lên ít nhiều. Song, điều đáng nói là hoạt động đầu tư cho nguồn
nhân lực của khu vực DNNN chưa thể sánh được khu vực DN có vốn đầu tư
nước ngoài, kéo theo đó là sự giảm khả năng cạnh tranh với của các DNNN với
các khu vực DN khác do không thu hút được nhân tài vào làm việc.

35
Vốn tính trên lao động năm 2000 và 2003

450
450
400
350
300 280
250 200 2000
Triệu đồng 180
200
2003
150
100
50 70
50
0
DNNN FDI DNTN

Như vậy, chúng ta thấy rằng giai đoạn năm 2001 - 2005 hoạt đông đầu tư
phát triển cho nguồn nhân lực có tăng nhưng vẫn còn rất nhiều điều hạn chế, dẫn
đến việc chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng kịp với xu thế phát triển hiện
nay của đất nước.
Tuy nhiên, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề ở nước ta hiện đang ở mức
thấp, chiếm khoảng 20%. Trong khi đó, các ngành công nghiệp mũi nhọn, công
nghệ cao như tin học, tự động hóa, cơ điện tử, chế biến xuất khẩu... đều đòi hỏi
lao động qua đào tạo nghề là trên 70%, trong đó trên 35% cần có trình độ trung
cấp trở lên. Đạt được mức này thì các doanh nghiệp mới đủ sức cạnh tranh trên
thị trường. Hiện cả nước có gần 600 trường và trung tâm dạy nghề. Tuy nhiên,
chúng ta thấy rằng mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển nhưng số lượng trường
và trung tâm dạy nghề vẫn còn ít, quy mô đào tạo nhỏ, chưa đáp ứng được nhu
cầu thực tế đặt ra.
Mặt khác, điều kiện đãi ngộ của các DNNN vẫn chưa thoả đáng không đảm
bảo cho người lao động phát huy hết khả năng của mình. Vấn đề này mặc dù đã
nói nhiều, sửa nhiều song bệnh không chú ý đãi ngộ thoả đáng cho người lao
động vẫn là bệnh trầm kha, khó có thể giải quyết nổi.

36
4. Đầu tư vào nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ.
Giai đoạn những năm gần đây từ 2001 – 2005, bản thân các DNNN đã có
sự hiểu biết hơn về tầm quan trọng cho hoạt động đầu tư vào lính vực KHCN.
Điều đó đã dẫn đến sự thay đổi đáng kể trong việc tăng năng suất lao động ở các
DNNN.

Tăng năng suất ở Doanh nghiệp

8.2
9
8
7 5.5
5 5.3
6
5
Phần trăm (%)
4
3
2
1
0
DNNN CPH DNTN FDI

Dựa vào biểu đồ trên, chúng ta có thể thấy năng suất lao động của khu vực
DNNN có tăng nhưng còn chưa bằng được các khu vực khác, đặc biệt là khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài FDI. Điều đó sẽ gây trở ngại rất lớn cho các
DNNN trong việc cạnh tranh với các khu vực khác. Một phần là do trình độ của
cán bộ công nhân viên còn thấp, phần còn lại là do sự chậm chạp trong khâu đổi
mới công nghệ hay có đổi mới nhưng chưa đi đúng hướng chưa đem lại hiệu quả
như mong đợi.
Trong số DN hiện nay, hoạt động đầu tư vào nghiên cứu phát triển khoa
học công nghệ tập trung chủ yếu ở các tổng công ty nhà nước và các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp. Tuy nhiên có rát ít tổng công ty
đầu tư cho nghiên cứu KHCN vượt quá 0.25% tổng doanh thu trong khi đó ở các
nước khác tỷ lệ này thường là 5-6%. Đồng thời đội ngũ cán bộ thực hiện nghiên
cứu KHCN chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng.
Trong tổng số 7.580 DN sản xuất công nghiệp được điều tra, chỉ có 293
DN có đầu tư cho nghiên cứu khoa học (NCKH) và đổi mới công nghệ (ĐMCN)
trong số này có 107 DN nhà nước, 64 DN ngoài quốc doanh và 14 DN đầu tư

37
nước ngoài. Như vậy số DN có đầu tư cho NCKH chỉ chiếm tỷ lệ 2,44% tổng số
doanh nghiệp công nghiệp trong cả nước.
Số lượng doanh nghiệp đầu tư KHCN qua các kỳ điều tra
2000 2002 2004
DN Tỷ trọng (%) DN Tỷ trọng (%) DN Tỷ trọng (%)
Chung 372 7,53 444 6,14 293 3,86
DNNN 250 16,74 224 16,36 181 14,75
Ngoài quốc 85 3,31 156 3,43 80 1,79
doanh
ĐTNN 37 4,21 64 4,87 32 1,69
Như vậy có thể thấy tỷ trọng đầu tư của DNNN vào KHCN luôn cao hơn
so với hai khu vực còn lại. Bởi lẽ đó, DNNN hay cụ thể hơn là các tổng công ty
nhà nước sẽ giữ vai trò vô cùng quan trọng, là đội ngũ tiên phong đi đầu trong
việc thúc đẩy và áp dụng KHCN vào mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội.
5. Đầu tư vào tài sản trí tuệ
Hiện nay đầu tư vào tài sản trí tuệ bao gồm:
- Tự đầu tư nghiên cứu đê tạo ra các sáng chế giải pháp hữu ích hoặc mua
lại công nghệ kèm với sáng chế và giải pháp hữu ích. Xu hướng của các doanh
nghiệp là thường mua công nghệ đi kèm với chuyển giao các sáng chế và giải
pháp hữu ích, còn việc tự nghiên cứu chủ yếu được thực hiện ở quy mô quốc
gia, trong các viện nghiên cứu, trung tâm khoa học hay các trường đại học. Do
đó đối với hoạt động đầu tư này doanh nghiệp chưa có sự đầu tư đúng mức và
chủ động.
- Đầu tư vào bản quyền và các quyền cận kề trong lĩnh vực in ấn, giải trí,
phát thanh truyền hình. Thực chất của hoạt động này là việc xây dựng và thực
hiện và các quyền sở hữu tác phẩm, văn chương, nghệ thuật khoa học. Giá trị
của nó được biểu hiện khi bán quyền sở hữu này cho người khác. Nói chung
hoạt động đầu tư này đòi hỏi nhiều thời gian và chất xám và nó thường được đề
cập đến với tư cách cá nhân hơn là các tổ chức doanh nghiệp.

38
- Đầu tư nhãn hiệu thương mại. Đây là kết quả của một loạt các yếu tố
được đầu tư từ tài sản hữu hình như chất lượng sản phẩm, đặc tính nổi trội của
sản phẩm. Do đó tốn rất nhiều thời gian và công sức, kết quả của nó là sự tổng
hợp của các yếu tố. Một nhãn hiệu như cocacola, bưởi năm roi…chỉ có thể được
công chúng biết đến và tin cậy khi nó tạo được ấn tượng tốt trong lòng khách
hàng.
6. Đầu tư vào thương hiệu
Một trong những từ xuất hiện nhiều trên các phương tiện thông tin đại
chúng trong những năm gần đây là thương hiệu. Thương hiệu đã trở thành mối
quan tâm không chỉ của doanh nghiệp mà còn cả của nhà quản lý và dư luận
XH. Hiện nay khái niệm thương hiệu chưa có khái niệm thống nhất nhưng nó
được khẳng định là tài sản vô hình của doanh nghiệp. Thương hiệu chắc chắn
không chỉ dành cho các nhà kinh doanh hàng hoá tiêu dùng. Một nhà kinh
doanh, một doanh nghiệp cho dù đang kinh doanh ở lĩnh vực nào thì cũng cần
phải xây dựng thương hiệu cho mình. Hàng trăm tỷ đô la đang đổ ra trên thế giới
mỗi năm đầu tư cho thương hiệu có cả những doanh nghiệp sản xuất từ cây kim
sợi chỉ cho tới những doanh nghiệp sản xuất máy bay. Một khoản đầu tư cho
thương hiệu hiệu quả là điều nên làm cho dù có thể đánh đổi bởi lợi nhuận.
Bản chất của thương hiệu là nhãn hiệu được thương mại hoá. Thương hiệu
bao gồm: biểu tượng của công ty, biểu tượng, khẩu hiệu, tông màu, địa chỉ liên
lạc và kể cả mùi vị đặc trưng… có nhiều loại đầu tư vào thương hiệu như đầu tư
vào thương hiệu: doanh nghiệp, gia đình, cá nhân, tập đoàn, và nhà nước.
IV. Đánh giá ưu, nhược điểm của hoạt động đầu tư phát triển trong Doanh
nghiệp Nhà nước
1. Các kết quả tích cực
Thứ nhất, khái quát nhất có thể thấy giai đoạn 2001-2005 là giai đoạn
DNNN vẫn có các đóng góp đáng kể cho sự phát triển của đất nước.
Kinh tế nhà nước (mà nòng cốt là các DNNN) đóng góp khoảng 39% tổng
sản phẩm trong nước. Đến nay, DNNN đang nắm giữ 75% tài sản cố định ưuốc

39
gia, 20% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% tổng vốn đầu tư nhà nước,
60% tổng lượng tín dụng ngân hàng trong nước, hơn 70% tổng vốn vay nước
ngoài, trên 90% các doanh nghiệp Việt Nam tham gia hợp tác đầu tư với nước
ngoài
Tổng sản phẩm trong nước theo giá hiên hành (đơn vị: tỷ đồng)
TT Đối tượng 2001 2002 2003 2004 2005
1 Tổng số 481.295 535.762 613.443 715.307 837.858
2 Kinh tế nhà nước 184.836 205.602 239.736 279.704 321.942
3 Kinh tế ngoài nhà 230.427 256.413 284.963 327.347 382.743
nước
4 Có vốn đầu tư 66.212 73.697 88.744 108.256 133.173
nước ngoài
1 Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
2 Kinh tế nhà nước 38,40 38,38 39,08 39,10 38,42
3 Kinh tế ngoài nhà 47,84 47,86 46,45 45,77 45,69
nước
4 Có vốn đầu tư 13,76 13,76 14,47 15,13 15,89
nước ngoài
Nguồn: Niên giám thống kê 2004, Nxb Thống kê 2005, Biểu 28, Trang 72 và
Niên giám thống kê 2005, Nxb thống kê 2006, Biểu 25, trang 62
Thứ hai, chỉ số tăng trưỏng của DNNN hàng năm của thời kỳ 2001-2004
đạt khoảng tử 7 đến 8%.

40
Tổng sản phẩm trong nước theo giá cố định năm 1994
TT Đối tượng 2001 2002 2003 2004 Sơ bộ
2005
Số tuyệt đối (tỉ đồng)
1 Tổng số 292.535 313.247 336.242 362.435 392.989
2 Kinh tế nhà nước 119.824 128.343 138.160 148.865 159.822
3 Kinh tế ngoài nhà 140.978 150.898 160.496 171.659 185.723
nước
4 Có vốn đầu tư nước 31.733 34.006 37.584 41.911 47.444
ngoài
Chỉ số phát triển
1 Tổng số 106,89 107,08 107,34 107,79 108,43
2 Kinh tế nhà nước 107,44 107,11 107,65 107,75 107,36
3 Kinh tế ngoài nhà 106,36 107,04 106,36 106,95 108,19
nước
4 Có vốn đầu tư nước 107,21 107,16 110,52 111,51 113,20
ngoài
Nguồn: Niên giám thống kê 2004,Nxb Thống kê 2005,Biểu 30,trang 76 và Niên
giám Thống kê 2005,Nxb Thống kê 2006,Biểu 27, trang 66
Thứ ba, quy mô của DNNN được điều chỉnh theo hướng ngày càng tăng,
xóa bỏ dần các DNNN quy mô nhỏ, tăng dần tỷ trọng DNNN có quy mô vừa và
lớn.
Thứ tư, vốn của nhà nước tại các DNNN được bảo toàn và có tăng them.
2. Các hạn chế chủ yếu
2.1 Quy mô DNNN còn quá nhỏ bé
Các công ty nhà nước (trừ tổng công ty) chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ.
Một số DNNN có quy mô vốn rất nhỏ. Nguồn vốn cho kinh doanh của các
DNNN thiếu, khả năng thanh toán thấp, nguồn vốn tự bổ sung từ lợi nhuận sau
thuế hàng năm ít. Việc huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu doanh
nghiệp, tín phiếu hoặc nhận vốn góp liên doanh rất hạn hẹp, các DNNN chỉ

41
“thiếu” vốn ngân sách nhà nước cấp. Quy mô lao động trong một số DNNN vẫn
thấp.
2.2 Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thấp, chi phí sản xuất, giá
thành cao
- DNNN chưa tạo ra được các sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế do mẫu mã thiết kế ít, chất lượng sản phẩm không cao.
- Chi phí sản xuất cao do co nghệ lạc hậu, không đồng bộ, đầu tư kém hiệu
quả, công suất hoạt động thấp.
- Chi phí đầu vào, chi phí sản xuất cao, bộ máy quản lý cồng kềnh, kém
năng động làm cho tổng chi phí tăng cao làm cho giá thành cao. Hầu hết các sản
phẩm của DNNN đều có mức giá cao hơn giá các mặt hàng cùng loại trong khu
vực. Điều này ảnh hưởng rất lớn, tạo thế bất lợi rất lớn trong cạnh tranh về giá.
- Bên cạnh đó, cũng có một số rất ít sản phẩm có chi phí sản xuất thấp hơn
nước ngoài song do không am hiểu tính quy luật cũng như các luật lệ giá cả thị
trường nên các nhà quản trị đã tự đẩy các doanh nghiệp xuất khẩu của ta vào thế
bị kiện về vi phạm luật chống phá giá.
2.3 Hiệu quả kinh doanh thấp
Theo số liệu thống kê, số DNNN có lãi chiếm tới 77,2% song có tới 40%
có mức lãi chỉ ngang bằng hoặc nhỉnh không đáng kể so với mức lãi suất đi vay
từ ngân hàng; nếu tính cả giá đất vào phí và cắt đi khoản ưu tiên, ưu đãi của nhà
nước thì nhiều DNNN thua lỗ chứ không phải là có lãi. Còn nhiều DNNN để
xảy ra tình trạng kinh doanh bị lỗ mất hết vốn. Hệ thống ngân hàng ước tính
DNNN chiếm khoảng 80% tổng nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Tỷ trọng
DNNN thực sự có hiệu quả và có thể đứng vững trong quá trình hội nhập chỉ
khoảng 21%. Nhiều doanh nghiệp có lãi và hoà là nhờ chính sách xoá nợ, lãi
suất ưu đãi, cho lại thuế, xoá thuế nợ đọng, trợ cấp xuất khẩu của Chính phủ
Nợ của các DNNN chiếm một con số rất lớn khoảng 30% GDP. Các chỉ
tiêu đánh giá mức độ nợ của DNNN.

42
TT Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003
1 Số lượng DNNN 5.759 5.355 5.175 4.800
2 Vốn nhà nước tại DN (tỷ đồng) 173.000 189.293
3 Tổng số nợ(tỷ đồng) 190.000 193.176 286.875 304.563
4 Chỉ số phát triển nợ hàng năm(%) 100,00 101,67 148,50 106,17
5 Tỉ suất nợ trên vốn nhà nước(%) 165,82 160,90

2.4 Đóng góp của DNNN vào Ngân sách giảm dần
Số liệu thống kê cho thấy đóng góp của DNNN trong GDP không ổn định
và dao động trong khoảng 33%-44%, thu ngân sách nhà nước từ DNNN có xu
hướng giảm dần, từ trên 35% giảm xuống còn khoảng dưới 21%. Sự sụt giảm
này là rất lớn. Nếu so sánh với mức vốn đầu tư xã hội của khu vực kinh tế nhà
nước vẫn cao nhất so với các loại hình doanh nghiệp khác (chiếm trên 53% tổng
số vốn đầu tư xã hội) thì mới thấy đóng góp của DNNN có xu hướng giảm mạnh
so với vốn đầu tư vào kinh doanh
2.5 Các vấn đề xã hội
Lao động thiếu việc làm, dôi dư nhiều, khoảng 20-40% lao động trực tiếp
ở các DNNN thiếu việc làm. Không ít doanh nghiệp tuỳ tiên tăng biên chế gián
tiếp. Tiền công của người lao động nhận được chưa tương xứng với công sức họ
bỏ ra. Tiền lương của tuyệt đại bộ phận người lao động ở các DNNN thấp hơn
nhiều so với các doanh nghiệp nước ngoài và cũng thấp hơn so với các doanh
nghiệp dân doanh.
Cho đến nay, không ít DNNN vi phạm pháp luật như buôn lậu, gian lận,
thương mại, lãng phí, tham nhũng, trốn thuế,… Không ít những người đã từng
có chức, có quyền ở DNNN liên quan đến các vụ án tham nhũng, hối lộ, cố ý
làm trái…
Chương III:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

43
1. Đối với bản thân Doanh nghiệp Nhà nước
Tiêp tục chuyển đổi sở hữu, tái cơ cấu bằng nhiều biện pháp: cổ phần hoá,
bán, khoán, cho thuê hoặc giải thể. Cần xác định phạm vi và tiêu chí cụ thể các
DNNN 100% vốn nhà nước, Nhà nước chiếm cổ phần chi phối.
- Xây dựng các liên kết kinh tế, kỹ thuật giữa các DNNN với các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm phát huy sức mạnh, khai thác lợi thế,
khắc phục yếu kém trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Trong điều kiện hội nhập kinh tế DNNN phải chủ động tìm hiểu , xác
định những lợi thế và thách thức đối với mình đề ra những kế hoạch phát triển
cho riêng mình để có thể tự tồn tại và phát triển được.
- Xây dựng chiến lược kinh doanh, chiến lược sản phẩm, thương hiệu…
từng bước nâng cao năng lực quản trị trong các DNNN. Bên cạnh đó, các
DNNN cũng cần đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, đổi mới công nghệ,
áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến.
- Cần có bước chỉnh trang DNNN theo hướng DN hiện đại trong thời đại
ngày nay tăng tốc độ chứ không chỉ là tăng qui mô, tăng hàm lượng chất xám
chứ không chỉ là tăng kinh nghiệm, tăng nguyên liệu.
- Nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm đi đôi với cắt giảm chi
phí nhằm hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm bằng nhiều biện pháp là
một trong những yếu tố “quyết định” khả năng cạnh tranh của mỗi DNNN.
- Xây dựng và phát triển các tập đoàn kinh tế mạnh, làm “trụ cột” và tạo thế
chủ động trong hội nhập.
- Đổi mới tổ chức quản lý, áp dụng các phương pháp quản lý tiên tiến, tăng
cường kỹ năng kinh doanh hiện đại, khả năng tiếp cận và phát triển thị trường,
khả năng bán hàng …
- Tăng cường nhận thức của người chủ, người lao động cũng như người
quản lý về cổ phần hóa và cơ chế hoạt động, cũng như những kiến thức cơ bản
về kinh tế thị trường, đảm bảo hệ thống thông tin trong nội bộ doanh nghiệp, để

44
từ đó tổ chức và quản lý đúng đắn hoạt động của công ty sao cho đạt hiệu quả
cao nhất.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu nhu cầu thị trường, tổ chức tốt hệ thống
thông tin thị trường, lựa chọn cơ cấu sản phẩm và chiến lược sản phẩm đáp ứng
được nhu cầu thị trường. Tăng cường và nâng cao chất lượng của công tác
quảng cáo tiếp thị, xây dựng, thương hiệu, nhãn mác sản phẩm.
- Từng bước đổi mới trang bị kỹ thuật và công nghệ có tính đến quy mô
của doanh nghiệp, để nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành,
nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm đáp ứng các yếu cầu hội nhập của nền
kinh tế.
- Tham gia thị trường chứng khoán, tạo điều kiện thuận lợi trong thu hút
vốn và cũng tạo áp lực, buộc các nhà quản lý và người lao động phải phấn đấu
nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty cổ phần.
- Thường xuyên nâng cao chất lượng đội ngũ những người lao động và
quản lý, có chính sách phân phối lợi ích hợp lý đối với các thành phần bên trong
công ty cổ phần, qua đó tạo động lực cho họ quan tâm đến hiệu quả hoạt động
của công ty cổ phần.
Để làm được điều này cần có lộ trình đào tạo, thu hút, sử dụng nhân tài
trong kinh doanh. Đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh trong các DNNN, các tập
đoàn kinh tế phải thực sự nhà nghề, vừa đảm bảo yêu cầu đạo đức, văn hoá
truyền thống của con người ở đơn vị mà còn biết chăm lo lợi ích cộng đồng
2. Đối với công ty cổ phần
- Hoàn thiện mối quan hệ trong tổ chức điều hành giữa Đại hội cổ đông,
Giám đốc điều hành và Ban kiểm soát: Trước hết phải xác định rõ và thực hiện
đúng quyền hạn và trách nhiệm giữa Hội đồng quản trị và Ban giám đốc, tăng
cường đào tạo, nâng cao sự hiểu biết và trình độ quản lý công ty cổ phần của các
nhà quản trị. Phát huy vai trò của Đại hội cổ đông trong tổ chức, điều hành công
ty cổ phần. Giải quyết triệt để những vướng mắc liên quan đến quyền lợi vật
chất của người lao động cũng như tư tưởng và tâm lý về “chế độ biên chế suốt

45
đời” không còn phù hợp. Đồng thời có cơ chế chính sách phù hợp đối với cán bộ
quản lý cũ khi họ không còn nắm giữ những chức vụ cũng như các trường hợp
tiếp tục đảm nhiệm các chức vụ mới.
- Nhóm giải pháp về các vấn đề khác liên quan đến tổ chức điều hành công
ty cổ phần: Đầu tiên phải giải quyết những vấn đề tồn tại từ chính khâu xây
dựng và thông qua điều lệ, tạo thuận lợi cho tổ chức và điều hành công ty cổ
phần. Thứ hai là lựa chọn cơ cấu hội đồng quản trị có tính đại diện cao, uy tín.
Đảm bảo thể chế dân chủ minh bạch, công khai trong tổ chức điều hành. Kiểm
soát được chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập. Và phải định rõ chức
năng nhiệm vụ của bộ phận tài chính. Trước mắt cần chủ động vận dụng những
luật và quy định hiện có về kế toán tài chính để tạo lập chính sách tài chính công
khai, minh bạch đúng quy định pháp lý, nhanh chóng tham gia thị trường chứng
khoán nếu đủ điều kiện, vừa tạo thuận lợi trong thu hút vốn, vừa phải thực hiện
công khai tài chính, vừa tạo sức ép cho bộ máy quản lý điều hành hoạt động có
hiệu quả hơn. Có cơ chế rõ ràng công khai về thành lập và phân phối các quỹ,
thiết lập và cải thiện mối quan hệ với khách hàng và các tổ chức tín dụng.
3. Đối với nhà nước
3.1 Đẩy nhanh việc sắp xếp và đổi mới DNNN:
- Tiếp tục sửa đổi, đổi mới Luật Doanh nghiệp nhà nước theo hướng xây
dựng một Luật Doanh nghiệp thống nhất. Đảm bảo môi trường kinh doanh và
hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Quan hệ
sở hữu và quản lý của Nhà nước đối với các DNNN trở nên rõ ràng, minh bạch
hơn. Muốn vậy, cần đưa các loại hình doanh nghiệp hoạt động theo hướng là
một doanh nghiệp chung
- Thực hiện sắp xếp lại theo phương án tổng thể: Củng cố các doanh nghiệp
độc quyền tự nhiên, các doanh nghiệp tham gia thực hiện các cân đối lớn của
nền kinh tế, thực hiện nhiệm vụ chính trị, quốc phòng, an ninh, công nghệ cao
có lợi thế cạnh tranh quốc tế tạo thực lực cho Nhà nước, giảm mạnh các doanh
nghiệp cạnh tranh.

46
- Đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê DNNN
- Xây dựng các biện pháp giảm nợ và có biện pháp xử lý nợ.
- Xây dựng, phát triển một số tập đoàn kinh tế với nòng cốt là các DNNN.
Các tập đoàn kinh tế phải đáp ứng được về cả quy mô, về sở hữu, về ngành nghề
lĩnh vực kinh doanh và về cả cơ cấu tổ chức theo nguyên tắc kinh tế thị trường.
3.2 Đổi mới phương thức quản lý nhà nước về kinh tế 
- Việc đổi mới phương thức quản lý này thể hiện ở việc đổi mới các quan
hệ sau: Đổi mới quan hệ đối với cơ quan quản lý nhà nước tạo môi trường kinh
doanh ổn định và lành mạnh và đổi mới quan hệ của các cơ quan chức năng. 
3.2.1. Cải cách bộ máy quản lý trong nội bộ doanh nghiệp 
Đi đôi với việc cải tiến cơ chế quản lý cần thiết phải đào tạo lại đội ngũ cán
bộ quản lý hiện có để thích ứng với việc quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. 
- Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính nhằm nâng cao quyền tự chủ tài
chính cho các DNNN: Thực hiện tốt công tác tạo lập, huy động, quản lý và sử
dụng vốn. 
+ Tạo lập, huy động vốn: Nhà nước phải có những chính sách tín dụng ,
chính sách đảm bảo vốn và nâng cao huy động vốn nước ngoài thông qua các
hình thức liên doanh, liên kết và các hình thức thu hút vốn khác.
+ Quản lý và sử dụng vốn: Ban hành cơ chế đầu tư cho doanh nghiệp, xác
định rõ quyền tự quyết của doanh nghiệp. DN sẽ tự bổ xung nguồn vốn kinh
doanh Nhà nước chỉ hộ trợ phần nào. Đồng thời xác định rõ quyền sở hữu tài sản
của doanh nghiệp, bỏ sự can thiệp của cơ quan nhà nước đối với các vấn đề tài
sản của doanh nghiệp. Xây dựng cơ chế xử lý linh hoạt gắn với tự chịu trách
nhiệm của doanh nghiệp đối với việc thanh lý, nhượng bán tài sản, xử lý tổn thất
về tài sản của doanh nghiệp.
+ Quản lý doanh thu, chi phí: Mở rộng quyền của người quản lý và điều
hành DN quyết định chi phí. Xây dựng và ban hành cơ chế kiểm soát chi phí của
các DN

47
+ Phân phối lợi nhuận một cách hiệu quả cho các hệ thống quỹ của doanh
nghiệp và nộp về Nhà nước. Đồng thời cải cách chế độ tiền lương cho người lao
động
3.2.2 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức hoạt động của DNNN trong cơ chế
KTTT 
- Thành lập công ty TNHH một thành viên: Quá trình chuyển đổi này sẽ tạo
môi trường pháp lý bình đẳng tiến tới việc các doanh nghiêp hoạt động theo luật
thống nhất. Bằng việc chuyển đổi và những tác động tích cực, các doanh nghiệp
sẽ kinh doanh hiệu quả hơn, nâng cao được sức cạnh tranh của mình, đáp ứng
được yêu cầu hội nhập của khu vực và quốc tế. 
- Thành lập tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước sẽ giúp thực
hiện quản lý thống nhất các nguồn vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, nâng
cao hiệu quả, bảo toàn và phát triển nguồn vốn nhà nước; Phân định rõ quản lý
nhà nước và quyền tự chủ sản xuất 
- Kinh doanh của doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước không can thiếp
trực tiếp vào hoạt động sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp; Chuyển từ cơ
chế cấp vốn trực tiếp cho doanh nghiệp sang hình thức đầu tư vốn vào doanh
nghiệp, tiến tới xóa bỏ việc cấp vốn từ NSNN đối với DNNN không cần nắm
giữ 100% vốn; Đẩy nhanh quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN và thúc đẩy thị
trường vốn và thị trường chứng khoán phát triển. 
- Hoàn thiện cơ chế tài chính trong mô hình tổng công ty: Đẩy mạnh viêc
sắp xếp, kiện toàn Tổng công ty nhà nước và thành lập tập đoàn kinh tế trong
một số lĩnh vực then chốt nhất của nền kinh tế mà ta có điều kiện, có thế mạnh,
có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. 
3.2.3 Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường
Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, trong đó đẩy nhanh quá trình phát
triển thị trường dịch vụ tài chính, thị trường lao động, thị trường bất động sản.
Đây là môi trường trực tiếp giúp DN chuyển đổi cơ chế kinh doanh thúc đẩy
DNNN nâng cao năng lực cạnh tranh

48
3.2.4 Giải pháp đổi mới cơ chế quản lý đầu tư sử dụng vốn nhà nước
  Vốn nhà nước – dễ bị coi là “của chùa”- vì vậy phải làm rõ trách nhiệm,
quyền hạn của các chủ thể trực tiếp tham gia quản lý, sử dụng nguồn vốn đầu tư
này.
 - Các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan này thực hiện chức năng
quản lý nhà nước thông qua xây dựng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, các cơ
chế chính sách, thanh tra, kiểm tra. 
- Chủ đầu tư: Đối với mọi trường hợp phải đồng thời là đơn vị khai thác,
vận hành, sử dụng dự án đầu tư khi hoàn thành.
- Những biện pháp tổng thể:
+ Phân công, phân cấp rõ ràng, xây dựng chế độ trách nhiệm của các chủ
thể tham gia các giai đoạn của dự án. Thực hiện quản lý dự án trong mọi giai
đoạn, từ giai đoạn lập - duyệt – quyêt định dự án đầu tư đến khi dự án hoàn
thành kết thúc đưa vào sử dụng.
+ Xây dựng mới, bổ sung, sửa đổi các quy định liên quan của pháp luật
hiện hành: Xây dựng và sớm thông qua luật qui hoạch, luật quản lý đầu tư sử
dụng vốn nhà nước và các quy định chế tài cụ thể chi tiết đủ mạnh, đủ sức răn
đe, bổ sung sửa đổi các qui định pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo.... cho phù
hợp với thực tế, xoá bỏ cơ chế chống khép kín, thực hiện cơ chế công khai minh
bạch, cơ chế cạnh tranh cho phù hợp với xu thế hội nhập và các quy định của
các tổ chức quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập.
+ Phát triển, khuyến khích hình thức tín dụng đầu tư thay cho hình thức cấp
phát đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội có khả năng
thu hồi vốn.
+ Đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý chi phí đầu tư xây dựng theo các định
mức kinh tế - kỹ thuật tổng hợp. Chuyển hình thức giá xây dựng theo khu vực

49
sang hình thức xác định giá xây dựng theo công trình xây dựng thực tế phù hợp
với yêu cầu riêng và với yếu tố khách quan của thị trường.
+ Tăng cường vai trò giám sát, tư vấn phản biện của các tổ chức chính trị -
xã hội, của cộng đồng đối với các dự án lớn, quan trọng ở trung ương và địa
phương.

50
KÊT LUẬN

Như ta đã thấy, đầu tư phát triển có vai trò hết sức quan trọng đối với sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việc sử dụng hiệu quả nguồn
vốn đầu tư và các nguồn lực mang tính quyết định đến sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và đối với mỗi doanh nghiệp nói riêng. Các doanh nghiệp muốn
phát triển, cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác trong nước cũng như
nước ngoài thì phải không ngừng tiến hành đầu tư phát triển để nâng cao hiệu
quả hoạt động. Nhất là đối với các doanh nghiệp Nhà nước, công cụ điều tiết vĩ
mô nền kinh tế của Nhà nước. Đưa nền kinh tế đất nước phát triển theo nền kinh
tế thị trường đinh hướng Xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của Nhà nước trong
công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Do trình độ hiểu biết còn hạn chế nên đề án không tránh khỏi những thiếu
sót, em rất mong nhận được sự thông cảm và góp ý sửa đổi của cô để bài viết
của em được hoàn thiện hơn nữa.

51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình “Kinh tế đầu tư”- PGS,TS Từ Quang Phương.


2. Giáo trình “Lý thuyết Hạch toán kế toán”
3. Giáo trình “Kinh tế phát triển”
4. Giáo trình “Lập dự án đầu tư”.
5. Tạp chí nghiên cứu kinh tế.
6. Tạp chí lao động và xã hội.
7. Tạp chí kinh tế và phát triển.
8. Trang web “mpi.gov.vn”
9. Trang web “Saovangdatviet.com.vn“
10. Trang web “vietnamnet.com.vn“

52
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................1
Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
DOANH NGHIỆP...............................................................................................3
I. Lý luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp....................................3
1. Khái niệm......................................................................................................3
1.1 Doanh nghiệp..........................................................................................3
1.2 Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.....................................................4
2. Tầm quan trọng của hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp...........4
3. Vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.....................................................8
Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp:.....................................................................8
4. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp..........................................................11
4.1 Đầu tư vào tài sản vật chất...................................................................12
4.2 Đầu tư vào tài sản vô hình....................................................................16
Chương II:THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC......................................................................................23
I. Các vấn đề cơ bản về doanh nghiệp Nhà nước................................................24
1. Đặc điểm của DNNN trong nền kinh tế thị thường.....................................24
2. Sự cần thiết của DNNN trong nền kinh tế thị trường..................................25
3. Cơ chế kích thích các DNNN......................................................................25
4. Chế độ trách nhiệm......................................................................................26
II. Tình hình các doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2001-2005.........................27
1. Giảm doanh nghiệp Nhà nước 100% vốn Nhà nước.............................27
2. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước- con đường dài phía trước...............27
2.1) Tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (CPH DNNN)...............27
2.2) Mô hình công ty cổ phần nhà nước – “bình mới, rượu cũ”................28
3. Từ sắp xếp lại các Tổng công ty đến hình thành các tập đoàn kinh doanh. 28
3.1. Sắp xếp lại các Tổng công ty – hai cách đánh giá trái ngược.............28
3.2. Hình thành mô hình các tập đoàn kinh doanh ở nước ta.....................29
4. Giao, bán, khoán và cho thuê DNNN..........................................................29
III. Thực trạng đầu tư phát triển trong doanh nghiệp Nhà nước.........................31
1. Hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong doanh nghiệp nhà nước.......................31
2. Thực trạng đầu tư tài sản vốn vật chất........................................................32

53
3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp nhà nước................34
5. Đầu tư vào tài sản trí tuệ.............................................................................37
6. Đầu tư vào thương hiệu...............................................................................38
IV. Đánh giá ưu, nhược điểm của hoạt động đầu tư phát triển trong Doanh
nghiệp Nhà nước.................................................................................................38
1. Các kết quả tích cực....................................................................................38
2. Các hạn chế chủ yếu....................................................................................40
2.1 Quy mô DNNN còn quá nhỏ bé.............................................................40
2.2 Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thấp, chi phí sản xuất, giá
thành cao.....................................................................................................41
2.3 Hiệu quả kinh doanh thấp.....................................................................41
2.4 Đóng góp của DNNN vào Ngân sách giảm dần....................................42
2.5 Các vấn đề xã hội..................................................................................42
Chương III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.............................43
1. Đối với bản thân Doanh nghiệp Nhà nước......................................................43
2. Đối với công ty cổ phần..................................................................................44
3. Đối với nhà nước.............................................................................................45
3.1 Đẩy nhanh việc sắp xếp và đổi mới DNNN:.............................................45
3.2 Đổi mới phương thức quản lý nhà nước về kinh tế...................................46
3.2.1. Cải cách bộ máy quản lý trong nội bộ doanh nghiệp.......................46
3.2.2 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức hoạt động của DNNN trong cơ chế KTTT
.....................................................................................................................47
3.2.3 Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường...........................................47
3.2.4 Giải pháp đổi mới cơ chế quản lý đầu tư sử dụng vốn nhà nước  
KÊT LUẬN........................................................................................................50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................51

54

You might also like