Professional Documents
Culture Documents
Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo số 436/ BC- CP ngày 17/10/2016 của Chính phủ.
1. Những kết quả đạt được
Tính từ năm 2011 đến nay, tổng số doanh nghiệp đã được cổ phần hóa là
631 doanh nghiệp, với tổng giá trị doanh nghiệp thực tế 1.040.244 tỷ đồng, vốn
nhà nước thực tế 317.739 tỷ đồng.
- Trong thời kỳ thứ hai, cổ phần hoá được 3.273 doanh nghiệp, chiếm
82% tổng số, đặc biệt là thời kỳ 2003-2006 cổ phần hóa 2.649 doanh nghiệp,
chiếm 66,3% tổng số
- Trong 3 năm 2011 đến hết năm 2013 cổ phần hóa được 99 doanh nghiệp
(2011 được 12 doanh nghiệp, 2012 được 13 doanh nghiệp, năm 2013 được 74
doanh nghiệp). Đây hầu hết đều là các doanh nghiệp có quy mô lớn, phạm vi
hoạt động rộng, kinh doanh đa ngành, tài chính phức tạp. Đáng chú ý, theo báo
cáo mới nhất của Ban chỉ đạo đổi mới & PTDN, 9 tháng đầu năm 2014, đã cổ
phần hóa được 71 doanh nghiệp (gần bằng cả năm 2013 là 74 doanh nghiệp) và
đã công bố giá trị 123 doanh nghiệp, dự kiến cả năm sẽ cổ phần hóa khoảng 200
doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nhà nước đã giảm mạnh về số lượng, tập trung hơn vào
những ngành, lĩnh vực then chốt, cơ bản thực hiện được vai trò, nhiệm vụ được
giao, làm nòng cốt để kinh tế nhà nước định hướng điều tiết, ổn định kinh tế vĩ mô. Hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp sau cổ
phần hóa được nâng lên
- Tổng số doanh nghiệp cổ phần hóa tính đến hết năm 2016 là 4506
doanh nghiệp. Trong đó có 1 Tập đoàn kinh tế, 47 Tổng Công ty Nhà nước và
nhiều DNNN quy mô lớn, có ngành nghề kinh doanh quan trọng. Bên cạnh đó,
một số DNNN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, cung ứng sản phẩm , dịch vụ
công ích cũng được cổ phần hóa, bước đầu mang lại kết quả khả quan
- Số liệu báo cáo của các DNNN đã CPH giai đoạn 2011-2015 cũng cho
thấy, kết quả hoạt động kinh doanh của năm sau đều tăng hơn so với năm trước
CPH. Cụ thể: Vốn điều lệ tăng 72%; tổng tài sản tăng 39%; vốn chủ sở hữu tăng
60%; doanh thu tăng 29%; lợi nhuận trước thuế tăng 49%; nộp ngân sách tăng
27%; thu nhập bình quân của người lao động tăng 33%. (Nguyễn Duy Long,
Tạp chí Tài chính kỳ I, tháng 10/2016)
Các DNNN cổ phần hóa đã góp phần làm giảm gánh nặng của Nhà nước
phải bao cấp, bù lỗ hằng năm. Cùng với đó, trong quá trình cổ phần hóa, nợ xấu
của các DNNN cũng được xử lý một cách cơ bản; đồng thời, chấm dứt xu
hướng thành lập DNNN một cách tràn lan.
Một số ví dụ cụ thể về cổ phần hóa đạt hiệu quả
- Ở Cần Thơ: Ông La Minh Hồng, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng
Giám đốc Công ty Cổ phần thương nghiệp tổng hợp Cần Thơ, cho biết:
“Chuyển đổi hình thức hoạt động của công ty sang công ty cổ phần là bước đi
đúng đắn… qua 6 năm thực hiện CPH, tổng tài sản của công ty tăng 1,5 lần, vốn
điều lệ tăng từ 15 tỉ đồng lên 20 tỉ đồng, cổ tức năm 2006 là 4,5%/năm đến 2011
là 20%/năm, thu nhập cán bộ, công nhân viên tăng 10%/năm... CPH đã tạo điều
kiện cho công ty huy động nguồn vốn và mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh sang một số lĩnh vực. Chẳng hạn, đầu tư 30% vốn siêu thị Co.opMart
Cần Thơ, 35% vốn khách sạn Á Châu, đầu tư xây dựng khai thác chợ Ngã Sáu,
chợ Mái Dầm (Hậu Giang)...”. Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Cần Thơ, đến
nay, thành phố đã có 54 DN thực hiện CPH. Trong đó, 33 DN độc lập (có 2 DN
thuộc hệ Đảng), 21 đơn vị phụ thuộc DN (có 2 đơn vị thuộc hệ Đảng). Hiện có
6 công ty cổ phần tham gia giao dịch trên sàn chứng khoán. Ngoài ra còn có
Công ty Cổ phần Bến xe tàu phà Cần Thơ giao dịch trên sàn Upcom (thị trường
giao dịch cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm yết). Nhìn chung, sau khi
CPH hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DN được nâng lên, các chỉ tiêu chủ
yếu đều tăng trưởng khả quan.
- Tập đoàn Bảo Việt (tiền thân là Công ty bảo hiểm Việt Nam): Sau khi
tiến hành cổ phần hóa, tổng tài sản của Bảo Việt đã tăng gần gấp đôi, 28.441 tỷ
đồng năm 2007 so với 15.195 tỷ đồng năm 2006. Các năm tiếp theo 2008-
2016, tổng tài sản tiếp tục gia tăng và đạt 72.996 tỷ đồng vào cuối năm 2016.
Vốn chủ sở hữu trước và sau cổ phần hóa cũng thay đổi rõ rệt. Cụ thể là so với
1.895 tỷ đồng năm 2006, vốn chủ sở hữu năm 2007 tăng hơn 3 lần, đạt 7.822 tỷ
đồng vào năm 2007 và tăng trưởng theo từng năm trong giai đoạn 2008- 2016.
Tính đến năm 2016, giá trị vốn chủ sở hữu đạt 13.687 tỷ đồng. Sự gia tăng này
được phản ánh là nhờ sự tăng trưởng vượt trội của lợi nhuận những năm sau cổ
phần hóa so với những năm trước đó. 94 Nếu như lợi nhuận của Bảo Việt trong
giai đoạn 2001- 2006 cao nhất đạt 431 tỷ đồng vào năm 2006 thì chỉ một năm
sau cổ phần hóa, Tập đoàn đã thu được 733,85 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế.
2. Những hạn chế, tồn tại và vấn đề đặt ra cho cổ phần hóa DNNN
Hạn chế trước tiên của quá trình CPH các doanh nghiệp nhà nước đó là
chưa đạt được kế hoạch đã đề ra. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, so với kế
hoạch đặt ra cả cổ phần hóa và thoái vốn tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước
đều chậm, tỷ lệ đạt theo kế hoạch thấp . Nếu so sánh với kết hoạch đặt ra thì tiến
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhìn chung vẫn diễn ra chậm, giai
đoạn 2001 – 2010, số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa chỉ bằng 1/3 so với kết
hoạch đặt ra. Theo Đề án sắp xếp, đổi mới DNNN giai đoạn 2011 – 2015, đến
năm 2015 cổ phần hóa được 531 doanh nghiệp nhưng trong giai đoạn 2011 – ợc phát huy.
Ngược lại có nơi lạm dụng quy định của
pháp luật gây khó khăn cho công tác quản lý của Hội đồng quản trị, sự điều
hành của giám đốc. Nhiều nội dung của cơ chế, chính sách quản 69 lý công ty
cổ phần như: chính sách tiền lương, tiền thưởng… vẫn còn áp dụng như DNNN.
Ba là, các DNNN đã cổ phần hoá, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và việc
huy động vốn ngoài xã hội trong quá trình cổ phần hoá DNNN còn hạn chế do
chưa khuyến khích việc bán cổ phần ra bên ngoài. Chưa có doanh nghiệp nào
tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá. Tỷ lệ
chào bán ra công chúng thấp, Nhà nước vẫn giữ cổ phần chi phối làm các nhà
đầu tư chiến lược e ngại về khả năng khống chế DN sau đầu tư khiến các nhà
(2)
đầu tư không mặn mà , thêm vào đó khoản đặt cọc, ký quỹ cũng tăng lên thành
20% giá trị cổ phần đăng ký mua theo giá khởi điểm (cao hơn so với 10% quy
định trong Nghị định số 59/2011/NĐ-CP, ngày 18/7/2011, của Chính phủ, về
“Chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần”). Một số
lĩnh vực đặc thù (ví dụ như Công ty cổ phần Cảng Hải Phòng, hay Công ty cổ
phần Dược - Trang thiết bị y tế Bình Định) có quy định không bán vốn cho nhà
đầu tư nước ngoài và sau đó cũng không được chuyển nhượng cổ phần cho nhà y ban này bị thua
lỗ. Nếu không xử lý triệt để tồn tại
tài chính trước khi CPH, DNNN sẽ gặp nhiều khó khăn sau CPH (giải quyết
tranh chấp về tài sản, đất đai, lao động, trợ cấp, công nợ...). Đặc biệt trong giai
đoạn 2016 - 2020, hầu hết các DNNN thực hiện cơ cấu lại, CPH, thoái vốn đều
có quy mô khá lớn với các tổng công ty và tập đoàn có nhiều công ty con, công
ty liên kết, đóng vai trò “chủ lực, chủ đạo” của Nhà nước.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, kinh tế nước ta vẫn đang bị
những rào cản là những hạn chế kể trên làm chậm tiến độ phát triển, những
hạn chế ấy xảy ra được giải thích bởi những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, về tư duy, không ít ý kiến cho rằng doanh nghiệp Nhà nước
phải giữ vai trò chủ đạo, vì vậy, việc giảm số lượng doanh nghiệp Nhà nước sẽ
làm giảm vai trò chủ đạo này. Sau hơn 15 năm cổ phần hóa, những DNNN còn
lại nằm trong danh sách cổ phần hóa đa phân là các doanh nghiệp có quy mô
vừa và lớn, thậm chí là rất lớn. Quy mô lớn này làm cho hoạt động cổ phần hóa
trở nên ngày càng phức tạp, nhất là trong việc định giá tài sản doanh nghiệp. Do đó, quá trình cổ
phần hóa các DNNN đã không thể thực hiện theo đề án đã đặt
ra.
Thứ hai sau hơn 15 năm cổ phần hóa, những DNNN còn lại nằm trong
danh sách cổ phần hóa đa phân là các doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn, thậm
chí là rất lớn. Quy mô lớn này làm cho hoạt động cổ phần hóa trở nên ngày càng
phức tạp, nhất là trong việc định giá tài sản doanh nghiệp.
Thứ ba, một số lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước lo ngại sẽ bị mất hoặc
giảm quyền kiểm soát doanh nghiệp, khi chuyển thành công ty cổ phần, nên đã
chủ động làm chậm lại quá trình cổ phần hóa. Một số Bộ, ngành, địa phương,
tổng công ty nhà nước chưa quán triệt sâu sắc và nghiêm chỉnh chấp hành Nghị
quyết của Đảng, quy định của Nhà nước, thiếu chương trình, kế hoạch cụ thể,
chưa tích cực, sâu sát trong chỉ đạo thực hiện đã làm ảnh hưởng tới tiến độ cổ
phần hoá DNNN.
Thứ tư, một số khó khăn, vướng mắc trong chính sách cổ phần hoá chưa
được xử lý kịp thời như: đối tượng cổ phần hoá, việc bán cổ phần ra bên ngoài,
chính sách bán cổ phần ưu đãi, phương thức bán cổ phần, quy định về xác định
giá trị doanh nghiệp; chưa có giải pháp xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính,
quy trình cổ phần hoá toàn bộ tổng công ty nhà nước.
Thứ năm, kinh nghiệm trong công tác quản trị công ty của lãnh đạo và
các cấp quản lý của doanh nghiệp cổ phần hóa còn nhiều hạn chế và yếu kém do
tính chất của mô hình doanh nghiệp cổ phần hóa cũng như cơ chế hoạt động
mới của mô hình doanh nghiệp này.
Bên cạnh đó, một yếu tố không kém phần quan trọng đó là tình hình kinh
tế vĩ mô biến động manh, bong bóng chứng khoán vỡ năm 2008 và thị trường
chứng khoán trở nên ảm đạm những năm sau đó đã tác động không nhỏ tới tiến
trình cổ phần hóa DNNN.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cổ phần hóa DNNN
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện khung chính sách về CPH DNNN gắn với
cơ cấu lại các DN trước khi CPH, trong đó tập trung nghiên cứu quy định nhằm
nâng cao chất lượng và trách nhiệm của tổ chức tư vấn trong việc xác định giá
trị vốn, tài sản nhà nước tại DN để CPH, thoái vốn nhà nước, hướng đến thuê
các tổ chức tư vấn quốc tế thực hiện để bảo đảm tính khách quan. Rà soát và bổ
sung, hoàn thiện các quy định trong các luật chuyên ngành, bao gồm Luật
Doanh nghiệp; Luật Đầu tư; Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp,... để tạo sự đồng bộ giữa các quy định.
Thứ hai, hoàn thiện các quy định về thoái vốn DN CPH.
Thứ ba, xác định đối tượng mua cổ phần và cơ cấu phân chia cổ phần một
cách hợp lý và đúng đắn đối với trường hợp thoái vốn, tìm kiếm nhà đầu tư
chiến lược của các DN sau CPH. Để CPH DNNN đi vào thực chất, vai trò của
các cổ đông rất lớn, nhất là các cổ đông tham gia thay đổi quản trị, hoạt động
của DN.
Thứ tư, tăng cường nhận thức đúng đắn về quản trị DN, vai trò, sứ mệnh
của DN sau CPH. Theo đó, cải thiện quản trị DN là áp dụng các nguyên tắc
quản trị DN hiện đại theo thông lệ quốc tế (tính độc lập của giám đốc, vai trò
của ban quản trị và quyền lợi của cổ đông, công khai thông tin và minh bạch
thông tin). Phó Thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình, tại Hội nghị sơ kết 6
tháng đầu năm 2020 và triển khai nhiệm vụ các tháng cuối năm của Ban Chỉ
đạo Đổi mới và phát triển doanh nghiệp, đã nói: “Làm rõ tình trạng nghị định
được ban hành nhiều, có văn bản trùng lắp, có văn bản đã quy định rõ ràng
nhưng khi thực hiện thì các bộ, ngành, DN vẫn nói chồng chéo. Vừa qua,
Thường trực Chính phủ đã làm rõ là nhiều vấn đề hiểu không đúng, dẫn đến
lòng vòng. Do vậy, bộ chủ quản phải hiểu cho đúng để hướng dẫn các tập đoàn,
tổng công ty thực hiện nghiêm túc, không để chậm trễ, kéo dài. Trong vấn đề
này, ngoài việc pháp luật có chồng chéo cũng có nguyên nhân do tinh thần trách
nhiệm không cao, nên để xảy ra chậm trễ, kéo dài”
Thứ năm, cần tăng cường đào tạo để tăng kinh nghiệm trong công tác
quản trị công ty của lãnh đạo và các cấp quản lý của doanh nghiệp cổ phần hóa.
Học tập theo các trường hợp cổ phần hóa có hiệu quả cao ở các nước phát triển.