You are on page 1of 15

2022

Đánh giá của Anh/ Chị về các tập


đoàn kinh tế nhà nước và tập đoàn
kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện
nay?
Với lịch sử hình thành lâu năm trên thị trường, mô hình tập đoàn kinh
tế đã và đang phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước trên thế giới. Sự
hùng mạnh về khả năng tài chính, quy mô lớn, đa dạng, phong phú về
các lĩnh vực của các tập đoàn kinh tế đã thể hiện rõ vai trò và sự cần
thiết của chúng trong việc phát triển của nền kinh tế. Trong top 500
doanh nghiệp lớn nhất ở Việt Nam, số tập đoàn thực sự không phải
quá nhiều mà là một con số rất hạn chế. Tập đoàn kinh tế được hình
thành tại Việt Nam cũng không giống với các tập đoàn kinh tế xuất
hiện trên thế giới. Sự khác biệt đó chính là về quy mô nhỏ hẹp, sơ
khai, các lĩnh vực còn hạn chế, đặc biệt là trình độ công nghệ, kỹ thuật
và quản trị còn có khoảng cách xa so với các nước khác. Các tập đoàn
ở nước ta hiện nay đang trong quá trình thực hiện đề án tái cơ cấu
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, khả năng, sức mạnh cạnh đã từng
bước được cải thiện. Ở Việt Nam, đã có những tập đoàn kinh tế tư
nhân được hình thành và ngày càng phát triển trở thành một tập đoàn
lớn mạnh như Vingroup, Hòa Phát, TH True milk, SunGoup,... Trong
khu vực tập đoàn kinh tế Nhà nước thì Viettel là một cái tên quan
trọng, không thể bỏ qua. Sự phát triển lớn mạnh của tập đoàn này là
bộ mặt, là niềm tự hào của kinh tế Việt Nam. Bên cạnh sự phát triển
mạnh mẽ của các tập đoàn kinh tế Nhà nước, các tập đoàn kinh tế tư
nhân cũng không chịu “lép vé” . Bằng chứng thực tế được thể hiện qua
sự vươn lên của một số doanh nghiệp tư nhân trở thành tập đoàn kinh
tế dẫn đầu ở một số lĩnh vực trong những năm gần đây như một tất yếu
khách quan, giúp cho khối kinh tế tư nhân chuyển biến mạnh mẽ và
ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế
nước nhà. Trong năm 2020, các tập đoàn kinh tế tư nhân đã phát triển
không ngừng, khẳng định vai trò, động lực của mình đối với sự nghiệp
đổi mới và phát triển đất nước. Con số của khu vực kinh tế tư nhân
trong nước được thể hiện trong khoảng 40% GDP, 30% ngân sách nhà
nước và thu hút khoảng 85% lực lượng lao động cả nước.
1. Giới thiệu
Việt Nam là cái tên được biết đến với tư cách là một nước đang phát triển và có xu hướng
hội nhập mạnh mẽ, sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Hiện nay, các tập đoàn kinh tế ở
Việt Nam đang phải đối mặt, cạnh tranh một cách công bằng, bình đẳng với các tập đoàn
kinh tế đa quốc gia khác rất lớn mạnh trên thế giới. Đặc biệt sự cạnh tranh này được nâng
lên vượt bậc sau khi chúng ta gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO và bắt đầu với
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương. Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới
cho thấy rằng những tập đoàn kinh tế phát triển mạnh mẽ ở cả khu vực kinh tế nhà nước
và khu vực kinh tế tư nhân sẽ trở thành một yếu tố trọng yếu và đảm bảo cho quá trình
hội nhập thành công. Để tránh được nguy cơ ngày càng tạo khoảng cách tụt hậu xa hơn
về kinh tế, việc hội nhập kinh tế toàn cầu là việc làm vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, để tiến
hành hội nhập toàn cầu, nó đòi hỏi chúng ta không chỉ về tốc độ tăng trưởng cao, phát
triển mạnh về mảng kinh tế đối ngoại, mà còn phải phát huy hết tiềm lực của các
ngành kinh tế “mũi nhọn”. Để làm được điều này, thì chúng ta phải từng bước hình
thành và phát triển các tập đoàn kinh tế mang tầm vóc quốc tế, có khả năng cạnh tranh
trên toàn cầu. Vấn đề thành lập tập đoàn kinh tế đã được đề cập tại Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ ba, khóa IX (Năm 2001) và bắt đầu từ đó cho đến nay với
sự ra đời của nhiều tập đoàn kinh tế lớn mạnh trên cả nước như Tập đoàn Tập đoàn Tài
chính – Bảo hiểm (Bảo Việt), Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam (VNPT),
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam,.... Tuy rằng các tập đoàn đã phát triển như vậy nhưng lịch
sử phát triển còn ngắn, chưa có nhiều kinh nghiệm nên việc xây dựng các chiến lược
sẽ không tránh khỏi khó khăn, bất cập. Chính vì vậy, học tập kinh nghiệm, cách thức xử
lý, giải quyết vấn đề từ các nước khác trên thế giới là điều cần thiết. Sau làn sóng dữ dội
của đại dịch COVID-19, có thể thấy Chính phủ ta đã chỉ đạo và áp dụng rất tốt các biện
pháp bảo đảm “mục tiêu kép” vừa có thể khống chế được dịch bệnh, vừa kết hợp phục
hồi tăng trưởng kinh tế. Những chỉ thị này nhắm phòng chống dịch bệnh, nhìn chung vẫn
thể hiện được tinh thần đấu tranh quyết liệt và khẩn trương để chống lại COVID-19 nhằm
giảm thiểu tối đa ảnh hưởng tới sinh hoạt của người dân và hoạt động cho các tập đoàn
kinh tế.

1
2. “Góc nhìn” về các tập đoàn kinh tế nhà nước và tư nhân hiện nay
2.1. Tập đoàn kinh tế nhà nước
Ngày 7/3/1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ban hành Quyết định số 91/TTg về việc thí
điểm thành lập tập đoàn kinh tế, chủ yếu là chuyển đổi và tổ chức lại các tổng công ty
nhà nước. Tuy nhiên, phải đến Hội nghị Trung ương 3 khóa IX (9/2001), vấn đề thành
lập tập đoàn kinh tế mới được đề cập một cách cụ thể.
Trong giai đoạn năm 2005 - 2010 đã có 12 tập đoàn kinh tế được Thủ tướng Chính phủ
ký quyết định thành lập và đưa vào hoạt động. Tuy nhiên, một số tập đoàn như Tập đoàn
Công nghiệp Xây dựng Việt Nam (VNIC), Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị Việt Nam
(HUD), Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) sau khoảng thời gian thí
điểm đã không hoàn thành được các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra nên đã chuyển đổi sang
hoạt động theo mô hình tổng công ty.
Đến nay, đang có 9 tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động, bao gồm Tập đoàn Điện lực
Việt Nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PetroVietnam), Tập đoàn Than
- Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin), Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam
(VNPT), Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), Tập đoàn Viễn thông quân đội
(Viettel), Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem), Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt
Nam (VRG), Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm (Bảo Việt).
Về thành tựu của các tập đoàn nhà nước
Ở Việt Nam, trong quá trình đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập
chung sang nền kinh tế thị trường, các tập đoàn nhà nước đã góp phần quan trọng trong
việc bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh dịch COVID-19, đại dịch này đã gây ảnh hưởng rất nặng nề đến hoạt
động của các Tập đoàn, nhiều chuỗi cung ứng, sản xuất bị gián đoạn, thậm chí là đứt gãy.
Nhiều thị trường bị thu hẹp, doanh thu giảm mạnh, đáng buồn là có tập đoàn thua lỗ lớn
dẫn đến giảm vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, với nỗ lực và quyết tâm cao độ, đẩy lùi khó
khăn, thách thức, tận dụng mọi thời cơ, các Tập đoàn đã thực hiện thành công “mục tiêu

2
kép”, vừa phòng, chống dịch vừa duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh để phục hồi phát
triển kinh tế - xã hội.
Chẳng hạn như, trong năm 2020, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nhiều doanh
nghiệp chịu tác động nặng nề khiến doanh thu liên tục sụt giảm nghiêm trọng, hoạt động
sản xuất bị đình trệ. Tuy nhiên, trong những tháng đầu của năm 2020, tình hình doanh
của Tập đoàn Viettel lại không hề suy giảm mà vẫn có sự tăng trưởng nhất định, đặc biệt
là ở thị trường quốc tế. Cụ thể, Tổng Công ty Giải pháp Doanh nghiệp Viettel tăng
111%, Tổng công ty Dịch vụ số tăng 107%.
Cụ thể, về sản xuất kinh doanh, tổng doanh thu ước tính đạt khoảng 816.015 tỷ đồng
(bằng 107% so với năm 2020); tổng lợi nhuận trước thuế ước đạt 34.119 tỷ đồng; tổng
nộp ngân sách ước đạt 62.443 tỷ đồng. Trong đó, 5 Tập đoàn, Tổng công ty đạt lợi nhuận
cao so với kế hoạch và so với năm 2020; 4 Tập đoàn, Tổng công ty nộp ngân sách cao so
với kế hoạch và so với năm 2020. [6]
Bên cạnh các thành phần kinh tế khác, các tập đoàn kinh tế nhà nước cũng đóng vai trò
khá quan trọng. Cụ thể trong việc xây dựng, phát triển kết cấu cơ sở hạ tầng nông nghiệp
và nông thôn, năng lượng, thông tin liên lạc, hạ tầng đô thị, cũng như xây dựng nhiều
công trình phục vụ đời sống nhân dân, an ninh, quốc, y tế, văn hóa, xã hội.
Hầu hết, các tập đoàn kinh tế nhà nước đều là những tổ hợp có quy mô lớn, giữ vai trò
nòng cốt trong các ngành, lĩnh vực chủ đạo của nền kinh tế quốc gia. Chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng sản phẩm nhà nước, tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất, nhập khẩu, hợp tác
đầu tư với nước ngoài.
Ví dụ, năm 2020, Tập đoàn dầu khí Quốc gia đóng góp vào nền kinh tế quốc dân lên tới
25-30% tổng ngân sách nhà nước, Tập đoàn Than – Khoáng sản bảo đảm cung cấp trên
97% tổng lượng than tiêu thụ trong nước hay Tập đoàn Dệt may là đơn vị nòng cốt của
nhành này và chiếm 18% doanh thu xuất khẩu toàn ngành. Đây cũng là lực lượng quan
trọng trong thực hiện các chính sách xã hội, khắc phụ hậu quả thiên tai, bảo dảm nhiều
sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng – an ninh.
Trong giai đoạn đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tập đoàn nhà nước đã ngày càng
thích ứng với cơ chế thị trường, cơ cấu và quy mô doanh nghiệp nhà nước được điều

3
chỉnh hợp lý hơn; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ, hiệu quả và sức mạnh
cạnh tranh từng bước được nâng lên.
Nhờ việc xác định rõ quyền tự chủ kinh doanh của các tập đoàn kinh tế nhà nước nên
việc tiến hành thực hiện các chủ trương liên doanh, liên kết và thu hút vốn đầu tư vào
Việt Nam, đẩy mạnh quan hệ hợp tác với nước ngoài với tỷ lệ chiếm đến 96% tổng số dự
án. Con số này đã thành công trong việc thể hiện thu hút và thúc đẩy vốn đầu tư nước
ngoài vào nước ta, góp phần ngày càng đẩy mạnh hơn trong hoạt động liên kết quốc tế.
Tái cơ cấu, một số tập đoàn đã tái cấu trúc lại các đơn vị thành viên theo hướng hình
thành nhóm công ty sản xuất, kinh doanh trong một chuyên nghành nhất định nhằm thúc
đẩy quá trình chuyên môn hóa, hợp tác hóa sản xuất trong tập đoàn [5, tr.23]
Đặc biệt, về công tác sắp xếp, đổi mới, tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước trong
năm 2021 Ủy ban đã quyết liệt: Chỉ đạo 4 Tập đoàn tiếp thu ý kiến của các cơ quan liên
quan hoàn thiện Đề án tái cơ cấu giai đoạn 2021-2025 trình cấp có thẩm quyền xem xét,
phê duyệt. Chỉ đạo hoàn thành việc cổ phần hóa Tổng công ty Phát điện 2, phương án
thoái vốn của Tập đoàn Điện lực Việt Nam tại Tổng công ty Phát điện 3, quyết toán cổ
phần hóa Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam. Thông qua chủ trương sắp xếp, tổ
chức lại, thành lập các đơn vị hạch toán phụ thuộc của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập
đoàn Dầu khí Việt Nam. Chỉ đạo các Tập đoàn thực hiện tái cơ cấu theo các đề án đã
được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Các Tập đoàn, Tổng công ty đã tích cực triển khai các dự án đầu tư theo kế hoạch. Một số
Tập đoàn, Tổng công ty có giá trị đầu tư thực hiện khá lớn là: Tập đoàn Điện lực Việt
Nam ước đạt 18.194 tỷ đồng (90,1% kế hoạch), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng
sản Việt Nam ước đạt 5.095 tỷ đồng (97,2% kế hoạch).
Các tập đoàn nhà nước đã từng bước thực hiện đề án tái cơ cấu tập đoàn. Hiệu quả hoạt
động, khả năng, sức mạnh cạnh đã từng bước được cải thiện. Những tập đoàn này đã cơ
bản thực hiện khá thành công những nhiệm vụ và vai trò được giao phù hợp với thể chế
kinh tế thị trường và chú trọng hơn trong việc hội nhập kinh tế quốc tế.
Ví dụ, trong năm 2020, Viettel sẽ tiếp tục mở rộng, phát triển sang các ngành kinh doanh
có liên quan nhằm tối đa hóa hiệu quả vốn đầu tư, giảm thiểu rủi ro, làm xuất hiện cơ hội

4
kinh doanh sang lĩnh vực mới. Bên cạnh đó, Viettel cũng tiếp tục đẩy mạnh kinh doanh
viễn thông trong nước, đồng thời triển khai kinh doanh có hiệu quả tại các quốc gia khác
trên thế giới như: Lào, Campuchia, Haiti, Môdămbích,...
Về những điểm hạn chế của tập đoàn kinh tế nhà nước ở nước ta
Lạm phát, khan hiếm hàng hóa
Sự lạm phát, khan hiếm hàng hoá, sự tăng giá,... là kết quả tất yếu của việc không đầu tư
toàn diện, thích đáng, không chú ý đúng mức cho sự phát triển vào khu vực công nghiệp
mà chính các tập đoàn kinh tế Nhà nước đang nắm giữ. Trong những năm gần đây, việc
mở rộng kinh doanh, đầu tư dàn trải, không tập trung vào lĩnh vực gần gũi với ngành, lĩnh
vực kinh doanh then chốt đã tạo một áp lực mới, một sức nặng mới cho nhiệm vụ quản lý
Nhà nước.
Hệ thống quản lý còn nhiều bất cập
Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ Tài chính có một đầu mối để theo dõi,
giám sát các hoạt động đầu tư của các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty Nhà nước vào
các lĩnh vực tài chính, chứng khoán, ngân hàng. Vì vậy, nhiệm vụ của Bộ Tài chính là hết
sức nặng nề, điều khó khăn của các tổng công ty này là do diện doanh nghiệp Nhà nước
đang tồn tại quá lớn nên họ phải quản lý quá nhiều.
Các tập đoàn kinh tế theo quy định của pháp luật hiện nay đều trực thuộc sự chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ nên Tổng công ty kinh doanh đầu tư và phát triển vốn Nhà nước
không thể với tới để quản lý được. Bất cập cũng xuất hiện tại đây, vấn đề đặt ra là Nhà
nước cần làm gì trước một thực tế là việc quản lý các tập đoàn kinh tế và tổng công ty
Nhà nước đang còn nhiều lỗ hổng [2, tr.54].
Hiệu quả kinh doanh thấp
Một số tập đoàn kinh tế đã sử dụng quá nhiều các nguồn lực để phục vụ cho việc kinh
doanh của tập đoàn đó. Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn lực này lại chưa phát huy được
hiệu quả như mong muốn. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu khốc liệt như hiện nay,
nguồn lực là một nhân tố quan trọng trong việc phân bố mức độ phát triển của quốc gia
ấy và Việt Nam cũng là một trong số đó. Trong những năm qua, việc tiếp tục “rót” vốn
các ưu đãi cho những tập đoàn kinh tế này là rất kém hiệu quả trong khi đó những khu

5
vực khác làm ăn có hiệu quả nhưng lại thiếu đi những nguồn lực quan trọng ấy. Đây
chính là một điều bất cập hiện nay mà các tập đoàn kinh tế nhà nước cần phải xem xét lại.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, doanh nghiệp nhà nước phải sử dụng tới 2,2 đồng
vốn để tạo ra chỉ “vỏn vẹn” 1 đồng doanh thu. Trong khi đó, nếu sử dụng số đồng vốn
này cho các doanh nghiệp tư nhân thì sẽ đem lại doanh thu lên tới 2,4 đồng. Tỷ suất lợi
nhuận trên vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà ước chỉ đạt 16,5%, tương đương chi
phí vay vốn ngân hàng và chỉ tập chung ở một số ít tập đoàn kinh tế có lợi thế trong lĩnh
vực như viễn thông, dầu khí, than,...
Khó khăn, thách thức mà tập đoàn kinh tế nhà nước gặp phải
Chúng ta không thể phủ nhận rằng những tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam đang sở
hữu rất nhiều mặt tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh đó các tập đoàn kinh tế này cũng có
không ít tiêu cực và gặp phải không ít khó khăn, thách thức như:
Thứ nhất, mục tiêu, hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước chưa tương
xứng với nguồn lực mà nhà nước đã đầu tư. Một số tập đoàn kinh tế thay vì phải tập
trung nguồn lực vào ngành nghề chính thì các tập đoàn này lại thực hiện mở rộng quy mô
đầu tư ngoài ngành trong khi thực tế năng lực tài chính còn hạn chế [5, tr.24]. Điều này
gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả kinh tế - xã hội của quốc gia.
Thứ hai, công tác giám sát, kiểm soát nội bộ tập đoàn kinh tế còn nhiều hạn chế dẫn đến
nhiều tổn thất trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thực hiện quá trình tái cơ
cấu và cổ phần hóa trong nhiều tập đoàn kinh tế nhà nước vẫn còn chậm, chưa thực sự
đáp ứng được yêu cầu đổi mới doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, cơ chế hoạt động của kiểm soát viên trong tập đoàn kinh tế nhà nước chưa có
hiệu quả. Việc ủy quyền toàn bộ quản lý vốn nhà nước thông qua người đại diện có thể
dẫn đến rủi ro và khó kiểm soát.
Thứ tư, công tác sắp xếp lại nguồn lao động trong quá trình tái cơ cấu của tập đoàn kinh
tế còn nhiều vướng mắc, chất lượng nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu. Cơ chế quản lý
của chủ sở hữu nhà nước vẫn còn hạn chế, lúng túng, chưa nắm rõ quy trình, cách thức
triển khai các chiến lược phát triển, danh mục dự án đầu tư.

6
Thứ năm, các tập đoàn kinh tế vẫn chưa được thực sự thừa nhận mà chỉ dừng lại ở mức
độ chủ trương. Đây cũng là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn tới trình trạng đầu
tư tràn lan, kém hiệu quả của tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam.
2.2 Đánh giá về tập đoàn tư nhân VN
Tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định, phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư
nhân cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả “thực sự trở thành một động lực quan trọng
trong phát triển kinh tế”[2]
“Tư nhân kinh doanh chính là nhân dân làm kinh tế, chèn ép tư nhân là gây khó cho dân,
coi trọng tư nhân cũng là lấy dân làm gốc trong hoạt động kinh tế.” Đó là những nhận
định của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan về doanh nghiệp Việt Nam năm 2016, cùng
những mong đợi vào sự vươn lên của các doanh nghiệp tư nhân và niềm hy vọng vào cố
gắng cải thiện môi trường kinh doanh của Chính phủ.
Trong 10 năm trở lại đây, ở Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều các tập đoàn, tổng công
ty tư nhân làm ăn hiệu quả và phát triển mạnh mẽ có đủ sức cạnh tranh và hội nhập sâu
vào kinh tế thế giới. Hiện nay, Việt Nam đã có nhiều doanh nghiệp hay nhóm doanh
nghiệp mạnh, tích hợp, liên kết các thế mạnh để hoạt động dưới một bộ máy điều hành
chung, một thương hiệu chung tạo ra sự phát triển vượt bậc.
Các tập đoàn tư nhân tiêu biểu như Tập đoàn FPT, Đồng Tâm, Kinh Đô, Hòa Phát,
Hoàng Anh Gia Lai, Vin, Trung Nguyên,… Các tập đoàn này đều có vốn góp, cổ phần
chi phối lẫn nhau ở các công ty con, công ty liên kết, ngân hàng, đối tác chiến lược trong
và ngoài nước với hàng ngàn cổ đông.
Trước hết, khi Đảng và Nhà nước tiếp tục khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng trong phát triển kinh tế và “khuyến khích hình thành, phát triển những tập
đoàn kinh tế tư nhân mạnh”[3] là thông điệp vô cùng quan trọng, nhằm khơi dậy khát
vọng làm giàu của toàn xã hội. 
Những thành tựu của Tập đoàn kinh tế tư nhân
Sự vươn lên của một số doanh nghiệp tư nhân thành Tập đoàn kinh tế dẫn đầu trong một
số lĩnh vực tại Việt Nam những năm gần đây như một tất yếu khách quan, giúp cho khối

7
kinh tế tư nhân chuyển biến mạnh mẽ về “chất” và ngày càng khẳng định vai trò to lớn
của mình trong nền kinh tế [4].
Trong năm 2020, các tập đoàn kinh tế tư nhân đã phát triển không ngừng lớn mạnh,
khẳng định vai trò, động lực quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế -
xã hội đất nước. Khu vực kinh tế tư nhân trong nước đang tạo ra khoảng 40% GDP, 30%
ngân sách nhà nước, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động cả nước.
trong bối cảnh đại dịch Covid-19, khu vực kinh tế tư nhân tiếp tục là một nguồn vốn đầu
tư quan trọng trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế, khi vốn đầu tư khu vực kinh tế tư
nhân trong quý III/2020 tăng gấp đôi quý II/2020 và đạt 7,4% so với cùng kỳ năm 2019.
Bất chấp những tác động tiêu cực do Covid-19 gây ra, 9 tháng đầu năm 2020, vẫn có gần
99 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động lại đạt tới
34,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 25,5% so với cùng kỳ.
Trong khảo sát khoảng 5 năm trở lại đây, kinh tế Việt Nam được thế giới biết đến qua
những tên tuổi các tập đoàn tư nhân như: Vingroup, Sun Group, T&T Group, Thaco,
Vietjet, TH True Milk, Masan... Nhiều doanh nghiệp tư nhân đạt kim ngạch xuất khẩu
hàng triệu USD, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng, thu ngân sách và giải quyết việc
làm, đảm bảo an sinh, xã hội. Thống kê cho thấy, 29 doanh nghiệp Việt Nam đã có giá trị
vốn hóa trên thị trường chứng khoán vượt con số 1 tỷ USD.
Trong giai đoạn đại dịch Covid-19 vừa qua, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã chung tay
cùng các bộ, ngành và Chính phủ góp phần chống dịch hiệu quả, động thái này thể hiện
sự đồng hành hiệu quả 3 bên, giữa Chính phủ - Doanh nghiệp - Người dân. Nhằm hỗ trợ
khu vực kinh tế tư nhân vượt qua khó khăn, thách thức, phục hồi và phát triển sản xuất
kinh doanh, Chính phủ đã kịp thời ban hành các chính sách hỗ trợ trọng tâm để nhằm hỗ
trợ, chia sẻ gánh nặng và khó khăn với các tập đoàn kinh tế tư nhân.
Cán cân thương mại hàng hóa năm 2020 ước tính xuất siêu 19,1 tỷ USD, mức cao nhất
trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ 2016. Trong thành công của xuất khẩu năm 2020, có
phần đóng góp tích cực của kinh tế tư nhân trong nước, nhất là ở các trung tâm doanh
nghiệp lớn của cả nước: Tính chung cả năm 2020, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trên địa
bàn Hà Nội ước tính đạt 16,0 tỷ USD, tăng 1,8% so với năm 2019; trong đó, khu vực

8
kinh tế trong nước đạt 9,8 tỷ USD (chiếm 61,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu), tăng
6,6%; còn khu vực đầu tư nước ngoài đạt 6,2 tỷ USD (chiếm 38,5%), giảm 5,1%.
Phát triển nhanh chóng và hiệu quả khu vực kinh tế tư nhân là đòi hỏi cấp thiết từ cuộc
sống và cũng là quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nước; đồng thời phải xuất phát từ thực tiễn
đặc thù, các nguyên tắc của cơ chế kinh tế thị trường, cũng như các cam kết và thông lệ
quốc tế trong xu hướng mở cửa, tăng cường, hội nhập quốc tế.
Điều quan trọng không phải là ban cho kinh tế tư nhân những đặc quyền, đặc lợi, mà là
tạo môi trường bảo đảm khu vực doanh nghiệp tư nhân thực sự bình đẳng, công bằng với
các khu vực doanh nghiệp khác, kể cả trong đấu thầu. Nhà nước cần có nhiều đột phá
mới, táo bạo, tháo gỡ, giải quyết căn bản các vướng mắc, bất cập, bức xúc đang tồn tại
hoặc sẽ phát sinh trong thực tiễn.
Những hạn chế của thành phần kinh tế tư nhân
Thứ nhất, tập đoàn kinh tế tư nhân thiếu sự liên kết, khó nâng cao năng lực cạnh tranh,
tham gia đầy đủ vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu còn nhiều hạn chế. Hiện chỉ có
khoảng 20% doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia một số chuỗi giá trị toàn cầu, 14% thành
công trong việc liên kết với đối tác nước ngoài.
Thứ hai, trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp còn thấp. Ước tính khoảng trên 80%
trưởng thành từ kinh nghiệm thực tiễn và chỉ có một số ít được đào tạo bài bản về quản trị
doanh nghiệp hay quản lý về kinh tế chung vì thế nên các chủ doanh nghiệp rất khó khăn
trong việc cạnh tranh.
Thứ ba, trang thiết bị máy móc còn lạc hậu, đầu tư cho đổi mới công nghệ chỉ chiếm
0,3% doanh thu. Trong khi công nghệ là yếu tố cơ bản để đảm bảo tồn tại và phát triển, là
yếu tố sống còn của doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, năng lực cạnh tranh còn hạn chế. Do quy mô nhỏ nên rất nhiều doanh nghiệp
trong nước chưa đủ năng lực cạnh tranh để xuất khẩu sang thị trường nước ngoài, hoặc
tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu.
Thứ năm, trình độ lao động còn thấp, thiếu nhân lực giỏi, tỷ lệ lao động học việc chiếm tỷ
lệ cao,... Do đó, doanh nghiệp khó tiếp thu được những tiến bộ khoa học, năng suất lao
động không cao.

9
Thứ sáu, thiếu hụt nguồn vốn và dòng tiền kinh doanh, đặc biệt là đối với các tập đoàn có
quy mô vừa và nhỏ. Bởi vì, họ khó tiếp cận với các gói chính sách hỗ trợ của nhà nước do
tính ngặt nghèo và việc tự lực để tiếp cận nguồn tài chính ngân hàng cũng không thuận
lợi, dễ dàng.
Những thách thức của tập đoàn kinh tế tư nhân
Khả năng chống chịu suy giảm
Khả năng chống chịu của các doanh nghiệp trước những khó khăn do Covid-19 gây ra
ngày càng suy giảm. Đặc biệt trong giai đoạn dịch đại dịch Covid-19 đến các ngành, các
doanh nghiệp ngày càng hiện hữu. Báo cáo khảo sát doanh nghiệp của Ban Nghiên cứu
phát triển kinh tế tư nhân (9/2020) cho thấy, ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, có 20% doanh
nghiệp được khảo sát đã phải tạm dừng hoạt động; 76% doanh nghiệp không cân đối
được thu, chi; 2% doanh nghiệp đã giải thể; chỉ có 2% doanh nghiệp tạm thời chưa bị ảnh
hưởng bởi đại dịch.
Theo khảo sát của Fiingroup, chỉ trừ ngành Viễn Thông, các ngành khác đều cho thấy số
lượng doanh nghiệp thua lỗ phổ biến từ 15%-50%. Các khó khăn lớn nhất của doanh
nghiệp hiện nay là: Không thể tiêu thụ sản phẩm; Khó khăn về mặt tài chính như: Chi phí
trả tiền điện, nước và nguyên liệu đầu vào; tiền thuê kho bãi, nhà xưởng, văn phòng, thiết
bị.
Các chính sách hỗ trợ chưa hiệu quả
Các giải pháp hỗ trợ của Chính phủ cho tới nay mới chỉ thực hiện được một phần nhỏ,
chưa tạo ra động lực giúp doanh nghiệp và người dân vượt qua khó khăn. Theo Ngân
hàng Thế giới, kết quả triển khai các chính sách hỗ trợ (gói 62 nghìn tỷ đồng) đạt thấp
hơn rất nhiều so với dự kiến, khoảng 12,75%, do tiêu chí điều kiện nhận hỗ trợ phức tạp.
Kết quả thực hiện các chính sách miễn, giảm, giãn thuế, phí và lệ phí và tiền thuê đất chỉ
đạt hơn 35% giá trị gói hỗ trợ.
Xuất khẩu hàng hóa không có lợi thế cạnh tranh
Nếu là năng lực xuất khẩu thực sự của các doanh nghiệp trong nước thì đây là tín hiệu
đáng mừng về sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, nếu đây chỉ là
hàng nhập khẩu từ một nước thứ ba, sau đó núp bóng doanh nghiệp Việt Nam để xuất

10
khẩu sang nước khác, thì xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sẽ bị áp thuế lẩn tránh, điều
này ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh về trung và dài hạn.
Giải ngân vốn đầu tư công chậm
Giải ngân vốn đầu tư công còn chậm so với kế hoạch, mặc dù Chính phủ, Bộ Tài chính
đã vào cuộc khá mạnh mẽ, quyết liệt. Điều này làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, tăng chi
phí quản lý vốn vay, gây lãng phí và trong bối cảnh đại dịch Covid-19, không mang lại
hiệu ứng lan tỏa, cũng như thúc đẩy sự tăng trưởng của các nguồn vốn khác, trong đó có
vốn đầu tư tư nhân. Nguyên nhân là do chậm trễ thực hiện các quy định của các quan
trung ương và địa phương.
3. Đề xuất giải pháp khắc phục các vấn đề còn tồn đọng
3.1. Đối với tập đoàn kinh tế nhà nước
Thứ nhất, tăng vốn điều lệ của tập đoàn kinh tế trên cơ sở đánh giá lại giá trị tài sản theo
thị trường và Nhà nước đầu tư thêm có quy mô vốn đủ lớn nhằm tăng tính chủ động. Tái
cấu trúc lại các danh mục đầu tư của các tập đoàn theo hướng bảo đảm chất lượng, tiến
độ của các dự án đầu tư cơ bản, đảm bảo cho các dự án đó đi vào vận hành.
Thứ hai, phân bổ lại bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính . Thực
hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu thường xuyên của ngân
sách do đó giảm bội chi ngân sách nhà nước .
Thứ ba, trong chiến lược kinh doanh, các tập đoàn cần tập trung vào các lĩnh vực kinh
doanh chính, tránh đầu tư ngoài ngành, đảm bảo phát triển mô hình tập đoàn phù hợp với
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ tư, tăng cường đầu tư sản xuất, kinh doanh các mặt hàng chủ lực nhằm đáp ứng nhu
cầu thiết yếu cho nhân dân, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và thực hiện tốt nhiệm vụ
an ninh – quốc phòng.
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đối với tập đoàn kinh tế, cần có
những chính sách phù hợp để thành lập tập đoàn kinh tế cũng như chính sách về quan hệ
sở hữu, quản lý và phân phối giữa Nhà nước và tập đoàn.

11
Thứ sáu, thúc đẩy sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông hàng hoá để hạn chế lạm phát,
duy trì sự ổn định tiền tệ. Chú trọng thu hút ngoại tệ qua việc xuất khẩu hàng hoá, phát
triển du lịch,…
3.2. Đối với tập đoàn kinh tế tư nhân
Một là, Đảng và Nhà nước nên tăng cường ban hành các chính sách thúc đẩy kinh tế tư
nhân và đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân phát triển. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng nên
ban hành các nghị quyết, nghị định và liên tục có chỉ đạo để các bộ, ngành tập trung cải
thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp,…
Hai là, xóa bỏ rào cản, định kiến, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân
nhằm hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới, sáng tạo và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao
năng suất lao động.
Ba là, phát triển nhanh, bền vững dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, đổi mới
tư duy và hành động. Các tập đoàn phải tận dụng hiệu quả mọi cơ hội của cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 để cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
và khả năng cạnh tranh.
Bốn là, phát triển dịch vụ hỗ trợ tư pháp, các dịch vụ tài chính - ngân hàng, chủ yếu là
dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, bảo hiểm và bảo lãnh tín dụng;
Năm là, xây dựng và triển khai có hiệu quả những chương trình giáo dục, đào tạo thích
hợp để bồi dưỡng kiến thức cho các chủ sở hữu cũng như người lao động trong khu vực
kinh tế tư nhân.
4. Kết luận
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đang là xu hướng phát triển hiện nay, điều này cũng đặt
ra vấn đề cấp bách về các vấn đề tái cơ cấu, tái cấu trúc kinh tế để nền kinh tế Việt Nam
phát triển mạnh mẽ và khả năng cạnh tranh lớn. Để làm được điều này thì một vấn đề cấp
thiết được đưa ra đó chính là đổi mới khu vực kinh tế nhà nước và phát triển nhanh chóng
ở khu vực kinh tế tư nhân. Tham gia hội nhập vào các diễn đàn kinh tế thế giới hay chủ
động hội nhập vào nền kinh tế thế giới là điều kiện thuận lợi để Việt Nam lựa chọn được
chiến lược phát triển kinh tế phù hợp cùng với việc lựa chọn những ngành kinh tế có lợi
thế để tăng kim ngạch xuất, nhập khẩu, tăng tích lũy thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại

12
hóa đất nước. Ngày nay, dưới sự tác động của khoa học, công nghệ, lực lượng sản xuất
đã dần biến đổi nhanh chóng, trình độ quốc tế hóa đời sống kinh tế ngày càng cao nên sự
hình thành các tập đoàn kinh tế cũng là một phần quan trọng, không thể thiếu. Các tập
đoàn kinh tế xuất hiện như là điều tất yếu và xu thế phổ biến trong điều kiện quốc tế hóa
đời sống ngày càng đẩy mạnh. Các tập đoàn kinh tế này mặc dù có nững đặc thù riêng,
nhất định tuy nhiên do bối cảnh kinh tế và đặc điểm của mỗi quốc gia nên chúng vẫn có
những nét chung mang dấu ấn nhất định. Để các tập đoàn kinh tế thực sự trở thành lực
lượng kinh tế đi đầu, dẫn dắt nền kinh tế nước nhà phát triển thì tái cấu trúc, tổ chức lại
cơ cấu, đặc biệt là cơ cấu ngành nghề, các mối liên hệ hợp tác, phát triển mở rộng ,... tạo
động lực rất lớn giúp mô hình kinh tế này nhanh vượt qua những thách thức, khó khăm
và sớm gặt hái được những thành tựu mới trong tương lai.
Tài liệu tham khảo
[1] Bùi Văn Vần, “Nhận diện đặc điểm của các Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam”,
Tạp chí nghiên cứu Tài chính kế toán, số 6 – 2014
[2],[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2021, t.1, tr.240, tr.240.
[4] Lương Bằng. (2017, January 13). Kinh tế tư nhân: Sức mạnh phát triển của Việt Nam.
Vietnamnet. Retrieved June 27, 2022, from https://vietnamnet.vn/kinh-te-tu-nhan-suc-
manh-phat-trien-cua-viet-nam-351727.html
[5] Nguyễn Thế Bính, “Tái cơ cấu để phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước tại Việt
Nam”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 18 (28) Tháng 09-10/2014
[6] Thủy Diệu. (2022, January 8). Nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước không đạt kế
hoạch doanh thu, lợi nhuận 2021. VnEconomy. Retrieved June 25, 2022, from
https://vneconomy.vn/nhieu-tap-doan-tong-cong-ty-nha-nuoc-khong-dat-ke-hoach-
doanh-thu-loi-nhuan-2021.htm

13
14

You might also like