Professional Documents
Culture Documents
Mô hình Taba
Khác với mô hình xây dựng chương trình học do Ralph W. Tyler đề xuất theo phép suy diễn,
được tiến hành từ cái tổng quát là xem xét nhu cầu đến cái cụ thể là xác định mục tiêu giảng dạy,
Taba đưa ra mô hình xây dựng chương trình theo phép quy nạp, được bắt đầu bằng việc triển
khai mang tính thử nghiệm một chương trình học đã có và dẫn đến xây dựng một thiết kế chung.
Chương trình học nên được người dạy thiết kế, chính họ là người tạo ra các đơn vị dạy học cụ
thể, chứ không nên áp đặt từ cấp trên xuống.
Taba xây dựng chương trình học theo trình tự 5 bước như sau:
1. Đưa ra các đơn vị thử nghiệm tiêu biểu cho cấp độ lớp học hay lĩnh vực môn học. Taba
xem bước này như sự liên kết giữa lí thuyết và thực hành. Bà đề nghị trình tự tám bước sau đây
cho những người xây dựng chương trình học đưa ra các đơn vị thử nghiệm.
a. Chẩn đoán nhu cầu. Những người xây dựng chương trình bắt đầu bằng cách xác định nhu
cầu của học sinh để hoạch đinh chương trình giảng dạy. Taba hướng dẫn người hoạch định
chương trình chẩn đoán “các lỗ hổng, các thiếu sót và các dao động trong kiến thức [của học
sinh]”.
b. Hình thành các mục tiêu. Sau khi nhu cầu của học sinh đã được chẩn doán, người hoạch
đinh chương trình xác định rõ các mục tiêu cần phải hoàn thành. Taba sử dụng các thuật
ngữ :mục đích và “mục tiêu” hoán đổi cho nhau, điều mà chúng ta sẽ quay lại sau.
c. Lựa chọn nội dung. vấn đề môn học hay chủ đề được nghiên cứu bắt nguồn trực tiếp từ
các mục tiêu. Taba chỉ ra rằng không chỉ các mục tiêu được xem xét trong việc lựa chọn các
nội dung mà còn “giá trị và tầm quan trọng” của nội dung được chọn lựa
d. Sắp xếp nội dung. Cùng với sự lựa chọn nội dung là nhiệm vụ của việc quyết định ở mức
độ nào và theo trình tự nào mà các vấn đề môn học sẽ được sắp xếp. Sự trưởng thành của học
sinh, sự sẵn sàng của chúng để đối phó với các vấn đề môn học và mức độ thành tựu về mặt
học tập của học sinh là những yếu tố cần xem xét trong việc sắp xếp các nội dung thích hợp.
e. Lựa chọn các kinh nghiệm học tập. Các nhà hoạch định chương trình phải lựa chọn các
phương pháp và chiến lược với nội dung mà theo đó, học sinh phải học. Các học sinh tiếp thu
nội dung thông qua các hoạt động học tập được giáo viên – nhà hoạch dịnh lựa chọn.
f. Sắp xếp các kinh nghiệm học tập. Người giáo viên quyết định cách kết hợp các hoạt động
học tập và bằng những kết hợp gì và cùng với những trình tự nào mà chúng sẽ được sử dụng.
Ở giai đoạn này, người giáo viên áp dụng các chiến lược đối với các học sinh cụ thể mà
người giáo viên đó có trách nhiệm.
g. Xác định điều cần đánh giá cùng các phương pháp và phương tiện để thực hiện điều
đó. Người hoạch định cần phải xác định xem liệu các mục tiêu đã được thực hiện chưa. Giáo
viên lựa chọn từ nhiều kĩ thuật khác nhau, các phương tiện thích hợp cho việc đánh giá thành
tích của học sinh và xác định xem liệ các mục tiêu của chương trình đó có đạt được không.
h. Kiểm tra sự cân đối và trình tự. Taba khuyên những người hoạch định chương trình tìm
kiếm nhất quán giữa các phần khác nhau của các đơn vị dạy - học, sự luân chuyển thích hợp
của các kinh nghiệm học tập và sự cân đối trong các loại hình học tập và các dạng thể hiện.
2. Kiểm tra các đơn vị thực nghiệm. Vì mục đích của quá trình này là để tạo ra một chương
trình học bao gồm một hay nhiều cấp độ lớp hay lĩnh vực môn học, và vì giáo viên đã viết các
đơn vị thử nghiệm của họ cho các lớp học của riêng họ trong nhận thức, do đó, giờ đây, các đơn
vị thử nghiệm phải được kiểm tra “để thiết lập tính hiệu lực và tính có thể giảng dạy được của
chúng và để đặt ra các giới hạn cao hơn và thấp hơn của các khả năng được yêu cầu”.
3. Sửa chữa và củng cố. Các đơn vị thử nghiệm được sửa đổi nhằm phù hợp với những nhu cầu
và khả năng khác nhau của học sinh, với các nguồn lực sẵn có và các phong cách giảng dạy khác
nhau để chương trình học có thể thích hợp với tất cả các loại lớp học. Taba giao phó cho những
người giám sát, người điều phối viên chương trình và các chuyên gia chương trình nhiệm vụ
“nêu rõ các nguyên tắc và các cơ sở lí thuyết làm căn cứ cho cơ cấu của các đơn vị, sự lựa chọn
nội dung, các hoạt động học tập và đề nghị các giới hạn mà trong đó, các sửa đổi trong lớp học
có thể diễn ra. Taba đề nghị rằng “các cơ sở và đề nghị như thế giống như trong quyển hướng
dẫn giải thích về việc sử dụng các đơn vị”.
4. Phát triển khuôn khổ. Sau khi một số đơn vị đã được xây dựng, những người hoạch định
chương trình cần kiểm tra chúng về phạm vi tương xứng và sự thích hợp của trình tự. Các
chuyên gia chương trình có thể nhận lãnh trách nhiẹm soạn thảo cơ sở logic cho chương trình
học đã được phát triển thông qua quá trình này.
5. Áp dụng và phổ biến các đơn vị mới. Taba yêu cầu các nhà quản lí sắp xếp việc đào tạo tại
chức thích hợp để giáo viên có thể đưa các đơn vị dạy - học vào hoạt động trong các lớp học của
mình một cách hiệu quả.
Đây là mô hình xây dựng chương trình không liên tục. Tính chất này giúp các nhà hoạch định
chương trình thực hiện mô hình ở nhiều thời điểm khác nhau, bỏ qua một số thành tố trong mô
hình và phát triển một hay nhiều thành tố trong mô hình cùng một lúc.
Đây là mô hình mang tính miêu tả (descriptive model) và bao gồm 3 thành tố chính sau: nền tảng
(platform), chọn lọc (deliberation) và thiết kế (design) (Walker, 1971). Nền tảng (platform) là
phương châm giáo dục của người xây dựng chương trình. Các phương châm giáo dục nền tảng sẽ
dẫn đến quá trình chọn lọc các thành tố phù hợp để thiết kế nên chương trình đào tạo phù hợp.
Mô hình Taba thể hiện mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa năm thành tố chính là: mục tiêu
(objectives), nội dung chương trình (content), trải nghiệm học tập (learning experiences), phương
pháp giảng dạy (teaching strategies), phương pháp đánh giá (evaluative measures); từ đó làm nổi
bật hệ thống dạy-học (Hình 1).