You are on page 1of 12

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN

KHOA LUẬT

TIỂU LUẬN MÔN: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG


TÊN TIỂU LUẬN: DẤU HIỆU TỘI PHẠM VÀ CẤU THÀNH TỘI
PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Họ và tên sinh viên: NGUYỄN MINH KHANG

Mã sinh viên: 3120410237


Nhóm thi:2026
Học kỳ 2
Năm học 2020-2021

TP. HỒ CHÍ MINH, 27 tháng 08 năm 2021


NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ CHẤM THI

 Cán bộ chấm thi 1:


...............................................................................................................................................................
 ..............................................................................................................................................................
 ..............................................................................................................................................................
 ..............................................................................................................................................................
 ..............................................................................................................................................................
 Cán bộ chấm thi 2:
 .............................................................................................................................................................. 
 .............................................................................................................................................................. 
 .............................................................................................................................................................. 
 .............................................................................................................................................................. 
..............................................................................................................................................................

 
 

Điểm: …………….. Điểm: ……………..

CÁN BỘ CHẤM THI 1 CÁN BỘ CHẤM THI 2


KÝ TÊN  KÝ TÊN

............................................... ...............................................

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM 1
I. Khái niệm tội phạm 1
II. Đặc điểm của tội phạm 2

1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội


2
2. Tính trái pháp luật của tội phạm
2
3. Là hành vu được thực hiện có lỗi
3
4. Là hành vi do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện
3
III. Phân loại tội phạm 3
IV. Các trường hợp không phải là tội phạm
4
CHƯƠNG II: CẤU THÀNH TỘI PHẠM 5
I. Những vấn đề chung về cấu thành tội phạm 5
1. Khái niệm cấu thành tội phạm 5
2. Phân loại cấu thành tội phạm 5
II. Các yếu tố cấu thành tội phạm 6
1. Khách thể của tội phạm 6
2. Mặt khách quan của tội phạm 6
3. Chủ thể của tội phạm 7
4. Mặt chủ quan của tội phạm 8
KẾT LUẬN 9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 9
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực nhất trong xã hội. Tội phạm xuất hiện cùng với sự ra
đời của nhà nước và pháp luật, cũng như khi xã hội phân chia giai cấp đối kháng. Để bảo vệ quyền
lợi của giai cấp thống trị, nhà nước đã quy định hành vi nào là tội phạm và áp dụng trách nhiệm
hình sự hoặc hình phạt đối với cá nhân hoặc tập thể thực hiện các hành vi đó. Do đó, không những
chỉ mang thuộc tính lịch sử - xã hội mà tội phạm còn mang bản chất là một hiện tượng pháp lý.
Thế kỷ 21, thế giới đang vận hành theo xu hướng mới: hòa bình, đối thoại, hội nhập và cùng
phát triển. Các ranh giới ngăn cách về kinh tế, chính trị, tôn giáo, sắc tộc sẽ dần được xóa bỏ.
Việt Nam cũng ở trong xu hướng chung đó. Là một nước đang phát triển, Việt Nam gặp phải
nhiều vấn đề thách thức trong quá trình hội nhập nhất là về kinh tế, khoa học – kỹ thuật và công
nghệ. Bằng việc phát huy cao độ nguồn lực trong nước và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ
từ nước ngoài, Việt Nam đang cố gắng tiến những bước lớn trên con đường phát triển ấy. Nhưng
một thách thức lớn đang cản trở con đường đó, chính là các tội phạm( mà theo ngôn ngữ của người
dân là những con sâu mọt đang đục khoét xã hội).
Từ những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài : “DẤU HIỆU TỘI PHẠM VÀ CẤU
THÀNH TỘI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM”

2. Mục đích nghiên cứu


- Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa pháp lý của việc xác định rõ khái niệm tội
phạm.
- Khái niệm tội phạm trong Luật Hình sự còn là cơ sở để phân biệt tội phạm với các vi phạm
pháp luật khác và với hành vi trái đạo đức cũng như các trường hợp không phải là tội phạm, qua
đó bảo vệ củng cố và duy trì trật tự pháp luật, góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,
bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

3. Cấu trúc của đề tài


Đề tài gồm : Mục lục, lời mở đầu , nội dung ( 3 chương ), danh mục tài liệu tham khảo

NỘI DUNG

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM
I. Khái niệm tội phạm
Tội phạm theo Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 (gọi tắt là Bộ
luật Hình sự) định nghĩa: “là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo
quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.”

1
Tuy nhiên không phải bất kỳ hành vi nào có dấu hiệu của tội phạm cũng bị xem là tội
phạm. Khoản 2 Điều 8 Bộ luật này đã quy định: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm
nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý
bằng các biện pháp khác.”
Từ đó có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm tội phạm như sau: Tội phạm là
hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự do người có năng
lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi (Cố ý
hoặc vô ý) xâm phạm đến các quan hệ xã hội được Bộ luật Hình sự xác lập và bảo vệ.
II. Đặc điểm của tội phạm
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một đặc điểm đầu tiên và quan trọng của tội
phạm. Tội phạm hay bất cứ vi phạm pháp luật nào đều có tính nguy hiểm cho xã hội. Nên tính
nguy hiểm cho xã hội là một trong những căn cứ để phân biệt hành vi phạm tội với các hành vi
vi phạm pháp luật khác. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy
hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp
khác.
Việc đánh giá hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho xã hội phụ thuộc vào tình hình phát
triển của xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Nếu trước đây hành vi trộm cắp
dưới 2 triệu đồng được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội và người thực hiện hành vi này có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản, thì hiện nay, hành vi này không bị
coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội nữa. Ngược lại có hành vi trước đây chưa được coi là hành
vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng nay lại coi là nguy hiểm cho xã hội và được coi là tội phạm. Ví
dụ: hành vi xâm phạm quyền ứng cử của công dân, trước đây chưa được coi là hành vi nguy
hiểm cho xã hội, nay hành vi này được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Để xác định tính nguy hiểm cho xã hội, thường dựa vào các căn cứ sau:
- Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại;
- Phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện phạm tội
- Mức độ gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội;
- Tính chất và mức độ lỗi;
- Động cơ và mục đích của người phạm tội;
- Các căn cứ khác như hoàn cảnh xã hội, nhân thân người phạm tội,...

2.Tính trái pháp luật của tội phạm


Bất kỳ hành vi nào được coi là tội phạm cũng đều được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Do đó không ai bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu trách nhiệm hình sự nếu đã thực
hiện một hành vi mà không được Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm. Tức là một người thực
hiện nguy hiểm đến đâu nhưng hành vi đó chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự thì hành
vi đó không được coi là tội phạm.
Điều 2 Bộ luật Hình sự quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự như sau:
“1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự.
2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật
này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.”

2
 Đặc điểm này có ý nghĩa về phương diện thực tiễn là tránh việc xử lý tùy tiện của người
áp dụng pháp luật: giúp cơ quan lập pháp kịp thời bổ sung sửa đổi BLHS theo sát sự thay
đổi của tình hình kinh tế xã hội để công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả.

3. Là hành vi được thực hiện một cách có lỗi (cố ý hoặc vô ý)


Lỗi là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi (có tính gây thiệt hại cho xã hội) của
mình và đối với hậu quả của hành vi đó thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Người thực hiện
hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu họ đã lựa chọn và thực hiện trong khi
họ có đủ điều kiện lựa chọn xử sự khác không gây thiệt hại cho xã hội.
Khi xác định “có lỗi” là một dấu hiệu của tội phạm cùng với dấu hiệu “nguy hiểm cho xã
hội”, BLHS muốn nhấn mạnh nguyên tắc có lỗi. Luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc
quy tội khách quan, nghĩa là truy cứu TNHS chỉ căn cứ vào việc một người đã thực hiện hành
vi gây thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi của họ. Việc áp dụng hình phạt không chỉ
nhằm mục đích trừng trị mà qua đó còn nhằm mục đích giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật,
phòng ngừa tội phạm xảy ra. Mục đích giáo dục này chỉ có thể đạt được khi hình phạt được áp
dụng cho người có lỗi. Đối với người không có lỗi, hình phạt không thể phát huy được tác dụng
giáo dục. Do vậy, “có lỗi” phải được xác định là một nguyên tắc của luật hình sự và cần được
coi là một dấu hiệu quan trọng của tội phạm.

4.Là hành vi do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện
Người có năng lực TNHS là người mà tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội bị Luật Hình sự cấm ở trong trại thái bình thường và hoàn toàn có khả năng nhận thức đầy
đủ hành vi, tính chất thực tế và tính chất pháp lý của hành vi do mình thực hiện, cũng như khả
năng điều khiển đầy đủ được hành vi đó.
Người đủ tuổi chịu TNHS là người mà tại thời điểm phạm tội đã đạt đến độ tuổi do LHS
quy định để có thể có khả năng nhận thức được đầy đủ tính chất thực tế và tính chất pháp lý của
hành vi do mình thực hiện cũng như có khả năng điều khiển hành vi đó.
Điều 12 BLHS quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên
phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng”.
Người đủ tuổi chịu TNHS nhưng không có năng lực TNHS thì hành vi phạm tội của người
đó không được coi là tội phạm. Ví dụ : Một người 30 tuổi nhưng do bị tâm thần thực hiện hành
vi giết người, thì người này không phải chịu TNHS
→ Mối quan hệ giữa 4 đặc điểm của tội phạm: chỉ khi nào có sự tổng hợp của cả 4 đặc
điểm thì một hành vi mới bị coi là tội phạm, còn như thiếu dù chỉ 1 trong 4 đặc điểm đó thì
hành vi nhất thiết không thể bị coi là tội phạm.

III. Phân loại tội phạm


Tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự của Nhà nước ta rất đa dạng, phức tạp, xâm
phạm, đến các lĩnh vực khác nhau. Phân loại tội phạm là sự cần thiết vì:
- Để sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm trong Bộ luật Hình sự theo từng chương, bảo đảm
tính khoa học, thuận lợi cho công tác nghiên cứu và áp dụng.

3
- Để xác định tội phạm theo tính chất và mức độ nguy hiểm, từ đó quy định hình phạt và áp
dụng hình phạt.
- Để áp dụng biện pháp ngăn chặn do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cho phù hợp với
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
- Để xác định thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn xóa
án tích cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của các tội phạm cụ thể..v..v..
Phân loại tội phạm trong Luật Hình sự là chia những hành vi nguy hiểm trong xã hội bị
LHS cấm thành loại nhất định theo những tiêu chí khác nhau để làm tiền đề cho cá thể hóa
TNHS và hình phạt hoặc tha miễn TNHS và hình phạt.
Khoản 2 điều 8 BLHS đã kết hợp 3 tiêu chí phân loại: tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội và mức cao nhất của khung hình phạt để phân thành 4 loại tội phạm

Tính chất, mức độ nguy Mức cao nhất của khung hình
Loại tội phạm
hiểm phạt

Là tội phạm có tính chất và Phạt tiền, phạt cải tạo không
Tội phạm ít nghiêm
mức độ gây nguy hiểm cho giam giữ hoặc phạt tù đến 03
trọng
xã hội không lớn. năm.

Là tội phạm có tính chất và


Phạt từ trên 03 năm đến 07 năm
Tội phạm nghiêm trọng mức độ gây nguy hiểm cho
tù.
xã hội lớn.

Tội phạm rất nghiêm


trọng Là tội phạm có tính chất và
Phạt từ trên 07 năm đến 15 năm
mức độ gây nguy hiểm cho
  tù.
xã hội rất lớn.
 

Là tội phạm có tính chất và Phạt từ trên 15 năm tù đến 20


Tội phạm đặc biệt
mức độ gây nguy hiểm cho năm tù, tù chung thân hoặc tử
nghiêm trọng.
xã hội đặc biệc lớn. hình.

IV. Các trường hợp không phải là tội phạm


Các trường hợp không phải là tội phạm theo BLHS hiện hành bao gồm:
- Hành vi có tính chất nguy hiểm không đáng kể (khoản 4 điều 8)
- Sự kiện bất ngờ (điều 11)
- Người chưa đủ tuổi chịu TNHS thực hiện(điều 12)
- Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (khoản 1 điều 13)
- Phòng vệ chính đáng (điều 15)
- Tình thế cấp thiết (điều 16)

4
CHƯƠNG II
CẤU THÀNH TỘI PHẠM
I. Những vấn đề chung về cấu thành tội phạm
1. Khái niệm cấu thành tội phạm
Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý để truy cứu TNHS đối với người phạm tội, ngoài ra,
CTTP còn là yếu tố đảm bảo các quyền và tự do của công dân, của con người, làm ranh giới để
xử lý giữa trường hợp hành vi đã CTTP hay không CTTP.
Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng (khách quan và chủ quan)
được quy định trong Luật Hình sự thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội
phạm, tức là căn cứ vào các dấu hiệu đó một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm.
Các dấu hiệu có quan hệ chặt chẽ, thiếu một dấu hiệu nào sẽ không có CTTP.
2. Phân loại cấu thành tội phạm
- Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội có thể chia cấu thành
tội phạm thành: cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng, cấu thành tội phạm
giảm nhẹ.
Cấu thành tội phạm cơ bản là cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội - dấu hiệu mô tả
tội phạm và cho phép phân biệt tội phạm này với tội khác cũng như cho phép phân biệt với
trường hợp chưa phải là tội phạm. Ví dụ: cấu thành tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ
luật hình sự. Cấu thành tội phạm này bao gồm những dấu hiệu cho phép phân biệt tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với các tội chiếm đoạt khác cũng như với trường hợp lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản chưa phải là tội phạm mà mới chỉ là vi phạm.
Cấu thành tội phạm tăng nặng là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội còn có
thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách
đáng kể (so với trường hợp bình thường). Những dấu hiệu này được gọi là dấu hiệu định khung
hình phạt tăng nặng. VD: Cấu thành tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình
sự (là cấu thành tội phạm cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản) kết hợp với dấu hiệu được
qui định tại khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự tạo thành cấu thành tội phạm tăng nặng của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội còn có
thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một
cách đáng kể (so với trường hợp bình thường). Những dấu hiệu này được gọi là dấu hiệu định
khung hình phạt giảm nhẹ. Như vậy, cấu thành tội phạm giảm nhẹ là tổng hợp cấu thành tội
phạm cơ bản với dấu hiệu định khung hình phạt giảm nhẹ. Ví dụ: cấu thành tội phạm được quy
định tại khoản 1 Điều 108 Bộ luật hình sự (là cấu thành tội phạm cơ bản của tội phản bội Tổ
quốc) kết họp với dấu hiệu được quy định tại khoản 2 Điều 108 Bộ luật hình sự tạo thành cấu
thành tội phạm giảm nhẹ của tội phản bội Tổ quốc.
- Căn cứ vào cấu trúc của CTTP có thể chia CTTP thành: cấu thành tội phạm hình thức,
cấu thành tội phạm vật chất, cấu thành tội phạm hỗn hợp, cấu thành tội phạm cắt xén.

5
Cấu thành tội phạm vật chất: Là cấu thành tội phạm mà có các dấu hiệu phạm tội bắt buộc
thuộc mặt khách quan của tội phạm, cụ thể:
- Hành vi phạm tội;
- Hậu quả do hành vi đó gây ra;
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra.
Nói cho dễ hiểu, cấu thành tội phạm vật chất đòi hỏi phải có hậu quả xảy ra, hậu quả này
phải xuất phát từ hành vi vi phạm.
- Ví dụ: Đối với Tội giết con mới đẻ thì người phạm tội phải thực hiện hành vi giết đứa
bé và hậu quả là đứa bé chết
Mối quan hệ nhân quả trong trường hợp này là: Cái chết của đứa bé là do hành vi giết của
người mẹ.
 Cấu thành tội phạm hình thức: Là cấu thành tội phạm mà có các dấu hiệu phạm tội bắt
buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
- Tội phạm có cấu thành hình thức là loại tội phạm có giai đoạn phạm tội chưa đạt.
- Ví dụ: Điều 169 BLHS 2015 quy định Tội bắt cóc chiếm đoạt tài sản, có nghĩa người
phạm tội chỉ cần thực hiện hành vi về mặt khách quan bao gồm bắt cóc con tin và đe dọa chiếm
đoạt tài sản là đủ cấu thành nên tội phạm, không cần hậu quả xảy ra.
Cấu thành tội phạm hỗn hợp: Là loại cấu thành tội phạm mà các dấu hiệu thuộc mặt khách
quan của cấu thành tội phạm vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm hình thức, vừa có yếu tố của
cấu thành tội phạm vật chất.
- Ví dụ: Điều 174 BLHS 2015 quy định về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; cụ thể:
+ Về hành vi vi phạm: bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác
+ Về hậu quả: chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra.
Cấu thành tội phạm cắt xén: Là 1 dạng đặc biệt của cấu thành tội phạm hình thức, chỉ
quy định một phần hành vi mà người phạm tội mong muốn thực hiện để gây hậu quả nguy hiểm
cho xã hội hoặc chỉ mô tả hoạt động nhằm thực hiện hành vi phạm tội.
- Ví dụ: Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân quy định tại Điều 109 BLHS
2015

II. Các yếu tố cấu thành tội phạm


1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được BLHS xác lập và bảo vệ bị tội phạm
xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại trong một chừng mực nhất định.
Có thể phân khách thể của tội phạm thành 3 loại:
Khách thể chung: Khách thể chung là tổng thể các quan hệ xã hội có do LHS bảo vệ bị các
tội phạm xâm hại. Bất kì TP nào được liệt kê tại Điều 8 BLHS và trên cơ sở đó các nhà làm luật
phân chia các loại TP có cùng tính chất trong cùng một chương tương ứng tại phần các TP của
BLHS
Khách thể loại: là nhóm các quan hệ xã hội có cùng tính chất liên hệ qua lại với nhau, được
1 nhóm các quy phạm Pháp luật Hình sự bảo vệ và bị 1 nhóm các tội phạm xâm hại. Khách thể
loại là cơ sở để phân loại các tội phạm trong phần các tội phạm của LHS thành các chương.
Khách thể trực tiếp: là quan hệ xã hội cụ thể được 1 quy phạm PLHS bảo vệ và bị 1 loại tội
phạm trực tiếp xâm hại. Khách thể trực tiếp là căn cứ quy định các loại tội phạm vào các
chương mục nhất định của BLHS.
2. Mặt khách quan của tội phạm

6
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm hay là những dấu hiệu của tội
phạm biểu hiện ra ngoài thế giới khách quan.
Các biểu hiện khách quan của tội phạm:
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội là xử sự cụ thể của con người được thể hiện qua thế giới
khách quan dưới nhiều hình thức nhất định, gây ra thiệt hại cho các quan hệ XH được LHS bảo
vệ.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bằng phương pháp hành động hoặc bằng
phương pháp không hành động.
- Hành vi hành động là trường hợp chủ thể làm một việc mà Luật Hình sự đã có quy định
cấm. Phần lớn các tội phạm cụ thể quy định trong Bộ Luật Hình sự được thực hiện bằng hương
pháp hành động.
- Hành vi không hành động là trường hợp chủ thể có nghĩa vụ thực hiện một hoạt động
nhất định nhưng họ đã không thực hiện nghĩa vụ trong khi có điều kiện thực hiện nghĩa vụ đó.
Điển hình là hành vi trốn thuế, trốn tránh nghĩa vụ quân sự, thiếu trách nhiệm gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản nhà nước, thiếu trách nhiệm để người bị giam trốn…v.v Để truy cứu
trách nhiệm hình sự với người thực hiện tội phạm bằng phương pháp không hành động phải làm
rõ được: Người phạm tội phải là người có trách nhiệm, nghĩa vụ do pháp luật quy định về công
việc chuyên môn của mình, người phạm tội có điều kiện thực hiện nghĩa vụ nhưng họ đã không
thực hiện nghĩa vụ ấy.
Hậu quả của tội phạm
Hậu quả tác hại của tội phạm là một trong các dấu hiệu khách quan của cấu thành tội
phạm, là thiệt hại do hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra cho quan hệ xã hội được Luật Hình
sự bảo vệ, gồm thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần.
- Thiệt hại vật chất là những thiệt hại đo đếm, xác định được mức độ nhất định như chết
người, gây thương tích với tỷ lệ % tổn hại sức khỏe, thiệt hại tài sản được quy ra bằng tiền
v.v…
- Thiệt hại tinh thần là những thiệt hại khác mà không xác định được lượng mức độ thiệt
hại như tội vu khống, tội làm nhục người khác, tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh
tế – xã hội v.v. Hậu quả tác hại có ý nghĩa quan trọng để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm
của tội phạm. Hậu quả tác hại càng lớn thì mức độ nguy hiểm của tội phạm càng cao.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm
Hậu quả tác hại của tội phạm có ý nghĩa xác định giai đoạn hoàn thành của tội phạm. Tội
có cấu thành vật chất được coi là hoàn thành khi hành vi nguy hiểm đã gây ra hậu quả tác hại.
Tội có cấu thành hình thức được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội theo quy định của điều luật cụ thể trong Bộ luật Hình sự.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm là mối quan hệ giữa các hiện
tượng trong đó một hiện tượng được gọi là nguyên nhân (là hành vi khách quan) làm phát
sinh một hiện tượng khác là kết quả (là hậu quả của tội phạm).
Những biểu hiện khác thuộc mặt khách quan của TP: Phương tiện phạm tội; Phương pháp,
thủ đoạn thực hiện tội phạm; thời gian phạm tội; địa điểm phạm tội; hoàn cảnh phạm tội.

3. Chủ thể của tội phạm


Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đang sống đã thực hiện tội phạm đạt độ tuổi chịu
TNHS và có năng lực TNHS
Tuy nhiên đối với một số tội phạm yêu cầu người thực hiện tội phạm phải có thêm một số
dấu hiệu bổ sung như: giới tính, nghề nghiệp, độ tuổi, chức vụ, quyền hạn,… gọi là chủ thể đặc
biệt của TP.

7
4. Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tôi phạm là những biểu hiện bên trong của tội phạm, là thái độ tâm
lý của người phạm tội. Mặt chủ quan của tội phạm gồm các dấu hiệu lỗi, động cơ, mục đích của
tội phạm.
- Lỗi: là thái độ tâm lý của tội phạm đối với hành vi phạm tội và hậu quả mà hành vi đó
gây ra thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Các hình thức của lỗi:
+ Lỗi cố ý là lỗi mà trong đó chủ thể lựa chọn hành vi phạm tội và thực hiện hành vi đó.
Lỗi cố ý gồm cố ý trực tiếp: là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội nhận thức được hành vi của mình có tính chất nguy hiểm, thấy trước được hậu quả nguy
hiểm cho xã hội và mong muốn điều đó xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, tuy
không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
+ Lỗi vô ý: là lỗi của một người trong đó chủ thể không lựa chọn hành vi phạm tội nhưng
trên thực tế đã gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Lỗi vô ý gồm vô ý do quá tự tin là lỗi của một người tuy thấy trước hành vi của mình có
thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể
ngăn ngừa được.
Lỗi vô ý do cẩu thả là lỗi của 1 người không thấy trước được hành vi của mình có thể gây
hậu quả nguy hiểm cho xã hội mặc dù có thể thấy trước được hoặc buộc phải thấy trước.

Động cơ phạm tội


Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm
tội.
Cần phân biệt động cơ xử sự và động cơ phạm tội, chỉ trong một số trường hợp phạm tội
vô ý thì mới có động cơ sự xử còn phần lớn đều là động cơ phạm tội, động cơ phạm tội cũng có
thể thay đổi mức độ nguy hiểm của hành vi.

Mục đích phạm tội


Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt
được khi thực hiện hành vi phạm tội.
Người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội đều hướng đến mục đích nhất định, thường
là lỗi cố ý trực tiếp vì mong muốn gây ra tội phạm và đạt được mục đích. Một số trường hợp có
mục đích nhưng đó chỉ là mục đích của hành vi vì người phạm tội hoàn toàn không mong muốn
thực hiện tội phạm hoặc họ không biết hành vi của mình có thể trở thành tội phạm hoặc biết
nhưng không có mong muốn trở thành tội phạm.
Cũng cần phân biệt mục đích của tội phạm và hậu quả của tội phạm. Hậu quả là kết quả
thực tế khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội để đạt được mục đích. Mục đích phạm
tội là đặt ra trước còn hậu quả là kết quả của hành vi. Tất cả các trường hợp cố ý trực tiếp đều
có mục đích phạm tội dù hậu quả đó xảy ra hay không.

→ Như vậy bốn yếu tố CTTP có mối quan hệ hữu cơ và chặt chẽ với nhau, mỗi yếu tố
CTTP đều biểu hiện một nội dung cụ thể và tổng hợp 4 yếu tố CTTP phản ánh mối quan hệ tâm
lý, thái độ bên trong của 1 người với hành vi do chính họ thực hiện ra bên ngoài thế giới khách
quan gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Do đó bất kỳ hành vi nào, dù ít nghiêm trọng
hay đặc biệt nghiêm trọng, dù xâm phạm đến quan hệ xã hội nào, dù mức hình phạt và loại hình

8
phạt có nghiêm khắc đến đâu đi chăng nữa thì tội phạm trong LHS đều thể hiện mối quan hệ
hữu cơ, logic và thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan của tội phạm.

KẾT LUẬN
Nghiên cứu về tội phạm và cấu thành tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện
hệ thống lý luận và hệ thống pháp luật hình sự. Lý luận về CTTP là cơ sở khoa học để xây dựng
các CTTP cụ thể trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự. Do vậy, mỗi khi cần bổ sung
thêm tội phạm mới, các nhà làm luật bao giờ cũng dựa vào lý luận về CTTP trong khoa học
Luật Hình sự để xây dựng các quy phạm pháp luật cho thống nhất và phù hợp với từng tội danh
cụ thể, bảo đảm tính công bằng chuẩn xác và hợp lý, bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội và
đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ Luật Hình Sự - Hiện Hành (Bộ Luật Năm 2015, Sửa Đổi, Bổ Sung Năm 2017) -
NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật
[2] Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (phần chung) - Trường Đại học Luật TPHCM –
NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam
[3] https://hocluat.vn/phan-tich-cac-yeu-to-cau-thanh-toi-pham/

You might also like