You are on page 1of 20

BÀI KIỂM TRA THƯỜNG XUYÊN THỨ NHẤT

NGÀY KIỂM TRA 05/01/2022


MÔN: KỸ NĂNG THAM GIA GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC HÀNH CHÍNH

STT Họ và tên Số báo danh Điểm Ghi chú


1 Hoàng Phương Anh 6 A (Lớp phó)
2 Vũ Hải Yến 249 A
3 Trịnh Văn Toàn 188 A
4 Trương Thị Thanh Huyền 76 A
5 Bùi Thị Thơm 214 A
6 Vũ Thị Minh Hằng 58 A
7 Phạm Thị Trâm Anh 14 A
8 Vũ Anh Tiến 184 A
9 Trần Quốc Mạnh 125 A
10 Trần Lan Hương 84 A
11 Dương Văn Bằng 20 A
12 Trần Thị Minh Trang 255 A
13 Lê Văn Lâm 96 A
14 Phạm Quang Vũ 244 A (Tổ trưởng)
15 Hoàng Văn Tân 181 A

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG

HỒ SƠ 4A

1. Tóm tắt tình huống:

- Năm 1995: Gia đình bà Nguyễn Thị Tuyết mua đất dịch vụ của thôn xã, địa chỉ cụ
thể: Thôn Lỗ Giao, xã Việt Hùng, huyện Đông Anh, TP. HN (sau đây gọi là thôn A).
Việc mua bán diễn ra trực tiếp với cán bộ thôn, không có hợp đồng giao dịch. Diện
tích sử dụng: 192m2;
- Năm 1995 – nay/2013: Gia đình bà Tuyết sử dụng bình thường. Người đứng tên nộp
thuế đất: Nguyễn Thị Tuyết, chưa cấp sổ đỏ do đất có nguồn gốc mua bán trái thẩm
quyền;
- 1995-2011: Nộp thuế đầy đủ, người đứng tên là bà Tuyết số TT 113;
- Năm 2012: Sổ thuế phát sinh thêm 1 hộ gia đình cùng kê khai là ông Nguyễn Đức
Hạnh trùng vào diện tích đất gia đình đang sử dụng;
- Ngày 6/12/2012: Gia đình bà Tuyết gửi đơn khiếu nại do cán bộ thuế không chấp
nhận cho bà Tuyết nộp thuế và UBND xã xóa tên bà Tuyết là người sử dụng đất trong
sổ thuế. Tuy nhiên, UBND xã không thụ lý;
- Ngày 11/12/2012: Gia đình gửi đơn KN lần 2, nhưng cán bộ không nhận đơn KN lần
2 và ghi vào BB với nội dung “không nhận đơn do nội dung đơn giống ngày
6/12/2012”;
- Ngày 8/10/2013, gia đình bà Tuyết gửi đơn khởi kiện UBND xã Việt Hùng, nội dung
khởi kiện hành vi hành chính của UBND xã Việt Hùng:
+ Hành vi không nhận tiền thuế đất do người sử dụng đất đến nộp theo sổ bộ thuế
năm 2012.
+ Hành vi tự ý xóa tên người đang sử dụng, đã nộp thuế đầy đủ từ năm 1997 đến
2011 và thay tên người khác;
+ Cùng một thửa đất mà gia đình đang ở, UBND chấp nhận 2 hộ gia đình của kê khai
và cùng tính thuế sử dụng đất;
Sau khi tiến hành khởi kiện, TAND huyện Đông Anh đã thụ lý và ngày 18/3/2015, bà
Tuyết và đại diện UBND đã có biên bản đối chất;
Nội dung: Năm 1995, bà Tuyết có đăng ký mua mảnh đất trên nhưng không mua
được, bà đưa tiền cho ông Hạnh, chị Đồng (vợ ông Hạnh) đứng tên mua đất, không có
hợp đồng văn bản. Mảnh đất đóng thuế đầy đủ đến năm 2010. Ngày 7/5/1997, ông
Hạnh đã viết giấy ủy quyền sử dụng đất cho bà Tuyết;
Phía UBND, năm 1995, ông Hạnh là người nộp tiền mua đất. Năm 2010 giữa gia đình
ông Hạnh và bà Tuyết xảy ra tranh chấp. Ông Hạnh sau khi nhận đất chưa có nhu cầu
sử dụng nên đã để cho bà Tuyết mượn đất. Người đứng tên trên sổ mua đất là ông
Hạnh không phải bà Tuyết;
- Ngày 14/04/2015, TAND tiếp tục cuộc đối thoại giữa bà Tuyết, bà Ba, ông Hạnh. Bà
Ba (UBND). Nội dung về việc ông Hạnh là người đứng tên mua đất, UBND căn cứ
vào người mua đất để thu thuế đất sử dụng phi nông nghiệp, UBND cho rằng đơn
kiện của bà Tuyết là không có căn cứ;
- Ngày 27/4/2015: UBND đưa ra thông báo số 12/TB-UBND về việc ngừng thu thuế sử
dụng đất phi nông nghiệp đối với ông Hạnh;
- Ngày 27/4/2015 UBND đưa ra thông báo số 13/TB-UBND về việc tiếp tục thu thuế
sử dụng đất phi nông nghiệp đối với bà Tuyết.
2. Xác định đối tượng khởi kiện:
Theo Người khởi kiện (Bà Tuyết) Ý kiến của luật sư
Khởi kiện hành vi hành chính. Khởi kiện hành vi hành chính.
Cụ thể là những hành vi: Việc không thông + Đối với UBND xã Việt Hùng: Về
báo, đưa ra 1 nguyên nhân cụ thể của UBND hành vi không trả lời khiếu nại của bà
dẫn tới việc để 2 hộ gia đình cùng kê khai và Tuyết;
cùng tính thuế sử dụng đất trên một mảnh + Đối với Chi cục thuế Huyện Đông
đất, số tiền kê khai thuế của 2 gia đình khác Anh: Về các hành vi:
nhau. - Dừng thu tiền thuế đất do người sử
+ Hành vi không nhận tiền thuế đất do dụng đất đến nộp theo sổ bộ thuế năm
người sử dụng đất đến nộp theo sổ bộ thuế 2012;
năm 2012; - Tự ý xóa tên người đóng tiền thuế đất
+ Hành vi tự ý xóa tên người đang sử dụng, mà không có thông báo;
đã nộp thuế đầy đủ từ năm 1997 đến 2011 - Chấp nhận 2 hộ gia đình cùng kê khai
và thay tên người khác; trên cùng một thửa đất ở.
+ Cùng một thửa đất mà gia đình đang ở,
UBND chấp nhận 2 hộ gia đình của kê khai
và cùng tính thuế sử dụng đất.

3. Đánh giá điều kiện khởi kiện


Theo Người Khởi kiện (bà Tuyết) Ý kiến của luật sư
Người khởi kiện: Bà Tuyết - người có Chủ thể và quyền khởi kiện: Bà Tuyết có
quyền và lợi ích bị xâm hại, đủ năng lực đủ NLHVDS, có quyền khởi kiện, vì hành
hành vi tố tụng hành chính. vi hành chính là cá biệt, trực tiếp ảnh hưởng
Người bị kiện: UBND xã Việt Hùng, đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Tuyết
huyện Đông Anh. (Điều 115, Điều 5, 54 Luật TTHC 2015).
Đối tượng khởi kiện: Hành vi hành Bên bị kiện: Chi cục thuế Huyện Đông
chính việc ngưng thu tiền thuế đất. Anh và UBND xã Việt Hùng.
Thẩm quyền theo cấp: UBND Huyện là Đối tượng khởi kiện:
cơ quan hành chính cấp xã, thuộc huyện + Chi cục thuế Huyện Đông Anh về hành
Đông Anh như vậy cơ quan giải quyết là vi hành chính việc dừng thu tiền thuế đất,
TAND huyện Đông Anh (căn cứ theo tự ý xóa tên người đóng tiền thuế đất mà
Khoản 1 Điều 31 LTTHC 2015). hành vi không có thông báo, 2 hộ gia đình cùng kê
hành chính này thuộc đối tượng giải quyết khai trên cùng một thửa đất ở.
của Tòa án HVHC trên thuộc thẩm quyền Căn cứ Điều 8 Luật quản lý thuế 2006 về
thụ lý tòa án (căn cứ Điều 30 LTTHC) nhiệm vụ của cơ quan quản lý thuế “Tổ
chức thực hiện thu thuế theo quy định của
Thời hiệu: Vẫn còn thời hiệu
pháp luật.” Theo đó, việc thu thuế đất phi
nông nghiệp diện tích 192m2 của gia đình
bà Tuyết đang sử dụng thuộc thẩm quyền
và trách nhiệm của Chi cục thuế Huyện
Đông Anh, UBND xã Việt Hùng chỉ là cơ
quan được ủy nhiệm thu thuế. Ngoài ra,
theo khoản 3 Điều 8 Luật quản lý thuế 2006
thì việc giải thích về trường hợp khai thu
thuế của hai gia đình nhà bà Tuyết và ông
Hạnh cũng thuộc phạm vi trách nhiệm của
Chi cục thuế. Vì vậy, chủ thể đưa ra quyết
định hành chính trái pháp luật chính là Chi
cục Thuế huyện Đông Anh.
“Điều 3: Nội dung quản lý thuế
1. Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn
định thuế.
2. Thủ tục hoãn thuế, miễn thuế, giảm thuế.
3. Xóa nợ tiền thuế, tiền phạt
4. Quản lý thông tin về người nộp thuế
5. Kiểm tra thuế, thanh tra thuế
6. Cưỡng chế thi hành quyết định hành
chính thuế
7. Xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
+ UBND xã Việt Hùng về việc không trả
lời khiếu nại.
Căn cứ theo quy định tại Điều 27, Điều
28, Điều 33 Luật Khiếu nại 2011 thì:
“Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại thuộc thẩm quyền mà không
thuộc một trong các trường hợp được quy
định tại Điều 11 của Luật này, người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu
phải thụ lý giải quyết; thông báo bằng văn
bản cho người khiếu nại, cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền chuyển khiếu nại
đến và cơ quan thanh tra nhà nước cùng
cấp biết, trường hợp không thụ lý giải quyết
thì phải nêu rõ lý do.”
“Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu
không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối
với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết
có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45
ngày, kể từ ngày thụ lý.
Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời
hạn giải quyết khiếu nại không quá 45
ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức
tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài
hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày
thụ lý.”
“Hết thời hạn giải quyết khiếu nại quy định
tại Điều 28 của Luật này mà khiếu nại lần
đầu không được giải quyết hoặc người
khiếu nại không đồng ý với quyết định giải
quyết khiếu nại lần đầu thì có quyền khởi
kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy
định của Luật tố tụng hành chính.”
Bà Tuyết đã gửi đơn khiếu nại đến
UBND xã Việt Hùng từ ngày
06/12/2012, đến ngày 11/12/2012 lại gửi
tiếp lần hai nhưng không được tiếp nhận
với lý do đã tiếp nhận ngày 06/12/2012.
Tuy nhiên, 10 tháng sau bà vẫn chưa
nhận được giải quyết khiếu nại nên việc
khởi kiện hành vi không giải quyết khiếu
nại là có căn cứ.
Quan hệ pháp luật: Quan hệ pháp luật
hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước
về quản lý thuế; Quan hệ pháp luật hành
chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về
giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Đơn khởi kiện gửi TAND huyện Đông
Anh: Đúng thẩm quyền.
Thẩm quyền theo loại việc: là hành vi
hành chính này thuộc đối tượng giải quyết
của Tòa án HVHC trên thuộc thẩm quyền
thụ lý tòa án (căn cứ Điều 30 LTTHC)
“1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành
vi hành chính, trừ các quyết định, hành vi
sau đây:
a) Quyết định hành chính, hành vi hành
chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong
các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại
giao theo quy định của pháp luật;”
Thẩm quyền theo cấp: Chi cục Thuế huyện
Đông Anh là cơ quan hành chính cấp xã,
thuộc huyện Đông Anh như vậy cơ quan
giải quyết là TAND huyện Đông Anh (căn
cứ theo Khoản 1 Điều 31 LTTHC 2015)
“Tòa án cấp huyện giải quyết theo thủ tục
sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:
Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi
hành chính của cơ quan hành chính nhà
nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng
phạm vi địa giới hành chính với Tòa án
hoặc của người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước đó, trừ quyết
định hành chính, hành vi hành chính của
Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp huyện.”
Thủ tục: Có đơn khởi kiện (NQ 02/2017) và
gửi đơn trong thời hiệu. Sự việc chưa được
giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu
lực. Cam kết gia đình bà Tuyết không đồng
thời khiếu nại sự việc này trong cùng thời
điểm Tòa Án nhận đơn giải quyết.
Thời hiệu: Vì hành vi hành chính vẫn đang
diễn ra tại thời điểm gửi đơn và trong 1 năm
kể từ khi chính thức nộp đơn khởi kiện lần
1 nên thời hiệu khởi kiện vẫn còn (Căn cứ
theo Điều 116 Luật tố tụng hành chính
2015)
4. Nhận xét yêu cầu khởi kiện và Đánh giá căn cứ thực hiện yêu cầu khởi kiện:
Yêu cầu khởi kiện của bà Tuyết:
Khởi kiện hành vi hành chính của UBND xã Việt Hùng, huyện Đông Anh, thành
phố Hà Nội trong lĩnh vực quản lý đất đai, đề nghị Tòa án nhân dân huyện Đông Anh
tuyên bố các hành vi sau đây của UBND xã Việt Hùng là trái pháp luật:
+ Hành vi không nhận tiền thuế đất do người sử dụng đất đến nộp thuế đầy đủ từ
1997 đến bộ thuế 2012;
+ Hành vi tự ý xóa tên người đang sử dụng, đã nộp thuế đâyỳ đủ từ 1997 đến 2011
và thay vào đó tên của người không sử dụng đất trên thực tế;
+ Cùng một thửa đất mà gia đình tôi đang ở, UBND xã Việt Hùng lại chấp nhận
cho 02 hộ gia đình cùng kê khai và cùng tính thuế sử dụng đất trong sổ bộ thuế 2012.
Đồng thời yêu cầu UBND xã Việt Hùng khắc phục hậu quả, truy thu thuế cho gia
đình bà Tuyết và trả lại tên gia đình bà Tuyết trong sổ bộ thuế năm 2013.
Đánh giá:
Theo thông tin hồ sơ mà bà Tuyết cung cấp thì yêu cầu khởi kiện của bà Tuyết là có
căn cứ. Việc bà Tuyết nộp thuế là đúng pháp luật, bà ấy khởi kiện hành vi không thu thuế
của xã đối với bà ấy là đúng dựa vào các căn cứ sau:
Thứ nhất, năm 1995, xã Việt Hùng, huyện Đông Anh tổ chức bán đất dịch vụ. Nhà
Bà Tuyết đã nộp tiền mua, mặc dù không có hợp đồng, không có biên lai nhưng UBND
xã Việt Hùng đã vào sổ bộ thuế do UB xã quản lý tên hộ gia đình Nguyễn Thị Tuyết,
phần diện tích 192m2. đây là căn cứ xác nhận nguồn gốc đất của nhà bà Tuyết.
Thứ hai, bà Tuyết có biên lai nộp tiền thuế xử dụng đất liên tục từ năm 1995 đến
năm 2011. đây là căn cứ chứng minh việc hộ gia đình bà Tuyết sử dụng đất ổn định,
không có tranh chấp (Điều 100 luật đất đai 2013).
Thứ ba, hộ gia đình bà Tuyết xây dựng các công trình kiên cố, điều này chứng minh
hộ bà Tuyết sử dụng đất đúng mục đích, phù hợp với quy hoạch của huyện Đông Anh.
Thứ tư, Theo quy định tại khoản 2 điều 4 luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
năm 2010 quy định “Trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân chưa được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau
đây gọi chung là Giấy chứng nhận) thì người đang sử dụng đất là người nộp thuế” và
Căn cứ Điều 3 Thông tư 153/2011/TT-BTC, người nộp thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
được quy định như sau: “2. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân chưa được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì người
đang sử dụng đất là người nộp thuế.”.
Cơ sở pháp lý:
- Luật Đất đai 2003;
- Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp 2010;
- Luật khiếu nại 2011;
- Luật Tố tụng hành chinh 2015;
- Nghị định 53/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp;
- Thông tư 153/2011/TT-BTC hướng dẫn về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.
5. Ý kiến đưa ra tư vấn cho khách hàng:
Căn cứ vào Biên bản lấy lời khai đối chất của TAND huyện Đông Anh ngày
18/3/2015 và Biên bản đối thoại của TAND huyện Đông Anh ngày 14/4/2015 xác định:
- Bà Tuyết chưa có căn cứ xác định về quyền sử dụng đất của bà đối với thửa đất.
Hiện bà Tuyết và ông Hạnh đang có tranh chấp từ năm 2010. Nên chuyển vụ việc sang
tranh chấp dân sự. Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại UBND xã Việt Hùng hoặc
khởi kiện tại TAND huyện Đông Anh theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
(Điều 203 luật đất đai 2013);
- Theo các căn cứ đánh giá điều kiện và đối tượng khởi kiện đã nêu phía trên, tư vấn
cho bà Tuyết về đối tượng khởi kiện là Chi cục thuế huyện Đông Anh về hành vi hành
chính việc dừng thu tiền thuế đất, tự ý xóa tên người đóng tiền thuế đất mà không có
thông báo, 2 hộ gia đình cùng kê khai trên cùng một thửa đất ở và UBND xã Việt Hùng
về việc không trả lời khiếu nại;
- Bà Tuyết cần cung cấp thêm thông tin về việc năm 1995 cho ông Hạnh mượn tiền
như thế nào, có gì chứng minh? Cung cấp thêm Giấy ủy quyền ông Hạnh đã viết để làm
căn cứ xem xét việc viết Giấy ủy quyền này có được coi là ông Hạnh đã đồng ý cho bà
Tuyết là chủ sử dụng đất đối với thửa đất hay không?
HỒ SƠ 4B

1. Tóm tắt hồ sơ:

- Ngày 24/6/2015:

Ông Nguyễn Thanh Tùng – đội trưởng đội QLTT số 08 (thuộc chi cục QLTT TP.
Đà Nẵng) ban hành Quyết định số 0196707 kiểm tra việc chấp hành pháp luật đối với chi
nhánh Công ty TNHH sản xuất – thương mại Hà Trung Hậu, nội dung kiểm tra bao gồm:
Kiểm tra giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, việc thực hiện theo nội dung đăng ký;
Kiểm tra hàng hoá tại địa điểm kinh doanh, hoá đơn, chứng từ có liên quan; Kiểm tra việc
đo lường chất lượng chất lượng hàng hoá theo quy định.

Vào hồi 17:30 cùng ngày việc kiểm tra kết thúc, đội QLTT số 08 lập biên bản số
0169662 biên bản kiểm tra việc chấp hành pháp luật, dưới sự chứng kiến của ông Phạm
Điền Trung – thủ kho tại chi nhánh công ty TNHH sản xuất – thương mại Hà Trung Hậu
tại Đà Nẵng. Đội QLTT số 08 đề nghị đội trưởng đội QLTT số 08 ban hành quyết định
tạm giữ đối với toàn bộ hàng hoá là thành phẩm, bao bì có dấu hiệu xâm phạm nhãn hiệu
cùng với nguyên liệu, phương tiện dùng để đóng gói hàng hoá.

Ông Nguyễn Thanh Tùng – đội trưởng đội QLTT số 08 ra Quyết định số
0073856/QĐ-TGTV Quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy tờ theo thủ tục hành
chính.

Lập biên bản số 0088000/BB-TGTV tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy tờ theo
thủ tục hành chính, thi hành Quyết định số 0073856/QĐ-TGTV về việc tạm giữ tang vật,
phương tiện, giấy tờ theo thủ tục hành chính.

- Ngày 30/06/2015, ông Nguyễn Thanh Tùng ban hành Quyết định số 0029365
quyết định kéo dài thời hạn tạm giữ 30 ngày, kể từ 18:00 ngày 24/06/2015, để tiếp tục xác
minh, làm rõ các dấu hiệu vi phạm.

- Ngày 1/07/2015, lập biên bản xác minh theo biên bản kiểm tra

- Ngày 23/8/2015, ông Nguyễn Thanh Tùng ban hành Quyết định số 0029505/QĐ-
TLTV quyết định trả lại tang vật, phương tiện, giấy tờ tạm giữ theo thủ tục hành chính.
- Ngày 30/08/2015, biên bản trả lại tang vật.

- Ngày 18/09/2015, lập biên bản vi phạm hành chính đối với chi nhánh công ty
TNHH sản xuất – thương mại Hà Trung Hậu tại Đà Nẵng, đội QLTT cho rằng chi nhánh
công ty này đã có hành vi đóng gói hàng hoá mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với
nhãn hiệu.

- Ngày 28/10/2015, Công ty Hà Trung Hậu kiện các hành vi hành chính của đội
trưởng Nguyễn Thanh Tùng và đội QLTT số 08, yêu cầu Toà án tuyên bố các hành vi
hành chính là trái pháp luật và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

2. Đối tượng khởi kiện và nhận xét về đối tượng khởi kiện

Đối tượng khởi kiện:

Đối tượng khởi kiện trong vụ việc là các hành vi của Đội quản lý thị trường gồm:

- Kiểm tra quá nội dung trong Quyết định kiểm tra;

- Xác định giá trị hàng hóa không đúng pháp luật;

- Trình tự, thủ tục thu giữ hàng hóa không đúng;

- Trả thiếu hàng hóa bị tạm giữ;

Nhận xét về đối tượng khởi kiện:

- Nội dung kiểm tra thực tế vượt quá nội dung trong Quyết định kiểm tra. Ngày
24/06/2015, Đội QLTT số 8 ra quyết định kiểm tra về 03 nội dung đối với Chi nhánh
công ty Hà Trung Hậu: Kiểm tra Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (hoặc Hộ kinh
doanh), việc thực hiện theo nội dung đăng ký; Kiểm tra hàng hóa tại địa điểm kinh doanh,
hóa đơn, chứng từ liên quan đến hàng hóa; Kiểm tra việc đo lường chất lượng hàng hóa
theo quy định.

- Xác định giá trị hàng hóa không đúng theo quy định pháp luật. Việc tính giá trị hàng hóa
Đội QLTT số 8 cho rằng vi phạm nhãn hiệu, Đội QLTT số 8 đã gom tất hàng hóa nguyên
liệu, bao bì (cả thùng carton và Bao ni long ....) cũng tính giá trị hàng hóa vi phạm lên đến
hơn 700.000.000 đồng (bảy trăm triệu đồng) là vi phạm pháp luật. Theo quy định của
Luật xử lý vi phạm hành chính, thì việc xác định giá trị để xem xét thẩm quyền xử phạt
cũng như việc xác định hình thức xử phạt, khung tiền phạt đối với chủ thể vi phạm.
Nhưng Đội QLTT số 8 đã tổng hợp cả chủ thể không vi phạm.

- Trình tự, thủ tục tạm giữ tang vật không đúng và trả thiếu hàng hóa bị tạm giữ.

=> Các hành vi mang tính các biệt, được áp dụng với Công ty HTH.

Chủ thể thực hiện: Đội trưởng Nguyễn Thanh Tùng và đội QLTT số 8.

Căn cứ thực hiện: Đây là nhiệm vụ công vụ được quy định tại Nghị định số
10/CB ngày 23/01 và thông tư 09/2013 quy định về hoạt động xư lý VPHC của cơ quan
QLTT.

Các hành vi này ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công ty HTH.

=> Các hành vi này là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.

3. Yêu cầu khởi kiện và nhận xét yêu cầu khởi kiện
Yêu cầu khởi kiện
Đối tượng khởi kiện mà bên Công ty Hà Trung Hậu yêu cầu là:
- Yêu cầu tòa án tuyên các hành vi của Đội quản lý thị trường là trái pháp luật.
- Bồi thường thiệt hại tổn thất thực tế 1.493.000.000 đồng.
Nhận xét yêu cầu khởi kiện
- Về phía nguyên đơn: Căn cứ vào quyết định kiểm tra, có thể thấy rằng ông
Nguyễn Thanh Tùng và đội quản lý thị trường số 8 đã vi phạm 6 nội dung: Kiểm tra vượt
quá nội dung thông báo tại quyết định kiểm tra việc chấp hành pháp luật, tự đông cho
người lạ vào chi nhánh công ty Hà Trung Hậu tại Đà Nẵng, tính mức phạt là dựa vào hàng
hóa là bao bì, thùng carton, bao nilon cân đong, niêm phong hàng hóa quá thời hạn, áp đặt
người khởi kiện xâm phạm quyền nhãn hiệu, và quá trình thu giữ hàng hóa của công ty đã
mất bốn bao mỳ chính (25kg/một bao)

- Về phía bị đơn: Ông Nguyễn Thanh Tùng cho rằng việc kiểm tra được xây dựng
trước đó, nội dung nhiều nên không thể ghi vào hết quyết định kiểm tra.
Vì vậy, nội dung kiểm tra là tính phợp pháp của hàng hóa chứ không phải kiểm tra số
lượng của hàng hóa, việc kiểm tra theo đúng trình tự thủ tục của pháp luật, đồng thời hành
vi này là của đội QLTT số 8 chứ không phải của đội trưởng về việc nguyên đơn rằng đội
QLTT số 8 cho người lạ vào công ty, ông Tùng khẳng định là có nhưng là người của
Công ty Ajinomo, và việc công ty Hà Trung Hậu cho rằng đội quản lý thị trường làm thất
thoát hàng hóa là không chính xác bởi trên thực tế tại biên bản các bên ký vào thể hiện là
đủ .
=> Căn cứ theo Điều 193 Luật TTHC 2015, khi xem xét các tính hợp pháp của các
hành vi hành chính HĐXX có thể chấp nhận một phần, toàn bộ hoặc hủy một phần, toàn
bộ nôi dung khởi kiện của công ty Hà Trung Hậu. Từ đó tuyên các hành vi hành chính của
Đội QLTT số 8 đúng hoặc trái với quy định của pháp luật.
- Về việc bồi thường thiệt hại thực tế 1.493.000.000 đồng (Một tỷ, bốn trăm chín
mươi ba triệu đồng) thì đối với yêu cầu này Công ty HTH cần phải cung cấp các chứng cứ
chứng minh các thiệt hại mà Công ty HTH nhận từ các hành vi hành chính của Đội QLTT
số 8. Thêm vào đó, các hành vi hành chính của Đội QLTT số 8 thực hiện thuộc phạm vi
bồi thường theo quy định tại Điều 17 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm
2017 thì khi có căn cứ chứng minh các hành vi này trái với quy định của pháp luật Công
ty HTH có thể nhận được bồi thường.
Trong trường hợp khi đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại tổn thất thực tế quy ra tiền
mà không thắng kiện thì Công ty HTH có thể bị mất % án phí. Cho nên phải cân nhắc kỹ
khi đưa ra yêu cầu này.
4. Đánh giá căn cứ thực hiện yêu cầu khởi kiện
4.1. Về hành vi kiểm tra vượt quá nội dung thông báo tại quyết định kiểm tra việc chấp
hành pháp luật của đội QLTT số 08:

Căn cứ Thông tư 09/2013, quy định về hoạt động kiểm tra và xử phạt vi phạm
hành chính của quản lý thị trường quy định như sau:

Đối tượng và nội dung kiểm tra:

“Điều 4. Đối tượng và nội dung kiểm tra:


1.Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về thương mại, công nghiệp của các tổ chức, cá
nhân hoạt động kinh doanh trên thị trường.

2.Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về các lĩnh vực quản lý nhà nước có thẩm quyền xử
phạt hành chính theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính.”

Quyền hạn của Đoàn kiểm tra:

“Khoản 5 Điều 22 Thực hiện quyết định kiểm tra:

a) Yêu cầu đối tượng hoặc người có liên quan của đối tượng được kiểm tra cung
cấp giấy tờ, tài liệu, sổ sách, chứng từ và giải trình những vấn đề có liên quan đến nội
dung kiểm tra;

b) Kiểm tra hàng hóa, dụng cụ sản xuất, kinh doanh; kiểm tra hiện trường nơi
sản xuất, buôn bán, lưu giữ hàng hóa có liên quan đến nội dung kiểm tra. Trường hợp
đối tượng hoặc người có liên quan của đối tượng được kiểm tra trốn tránh hoặc cản trở
việc kiểm tra hiện trường nơi sản xuất, buôn bán, lưu giữ hàng hóa mà có căn cứ cho
rằng ở nơi đó có cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính cần phải kiểm tra,
thu giữ thì đề xuất với người có thẩm quyền ban hành quyết định khám nơi cất giấu tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính;

c) Thập tài liệu, chứng cứ, giải trình của đối tượng hoặc người có liên quan của
đối tượng được kiểm tra tại nơi kiểm tra.”

Hình thức và căn cứ kiểm tra:

“Điều 5. Hình thức và căn cứ kiểm tra:

1. Kiểm tra thường xuyên theo kế hoạch kiểm tra được xây dựng, phê duyệt hoặc
ban hành theo quy định tại Chương III của Thông tư này.

2. Kiểm tra đột xuất khi có thông tin về hành vi vi phạm pháp luật hoặc dấu hiệu
vi phạm pháp luật hoặc theo yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cấp trên
có thẩm quyền theo quy định tại Chương IV của Thông tư này.”
Căn cứ khoản 2 Điều 22 Nghị định 99/2013/NĐ-CP quy định về quyền yêu cầu xử
lý vi phạm và thẩm quyền chủ động phát hiện, xử lý vi phạm:

“Tổ chức, cá nhân phát hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây
thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội, hành vi vi phạm liên quan đến hàng hóa,
tem, nhãn, vật phẩm mang nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý giả mạo; tổ chức, cá nhân bị thiệt hại
hoặc có khả năng bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp gây ra có quyền thông báo và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến
hành thủ tục xác minh, xử phạt vi phạm.
Khi nhận được thông báo của tổ chức, cá nhân quy định tại Khoản này, cơ quan có
thẩm quyền xử lý vi phạm có trách nhiệm kiểm tra và phối hợp với chủ thể quyền sở hữu
công nghiệp xác minh, xử lý vi phạm”
Trong trường hợp này, Đội QLTT số 8 đã nhận được đơn khiếu nại của công ty
AJINOMOTO về hành vi vi phạm của công ty Hà Trung Hậu nên việc Đội QLTT số 8
tiến hành kiểm tra đột xuất đã đúng theo quy định của pháp luật. Đồng thời, khi tiến hành
kiểm tra, Đội QLTT đã phát hiện công ty Hà Trung Hậu có hành vi vi phạm ngoài nội
dung ghi trong quyết định kiểm tra nên Tổ kiểm tra được phép tiến hành kiểm tra ngay lập
tức mà không phải đề nghị cấp trên ban hành quyết định kiểm tra (Theo Khoản 1 điều 23
Thông tư 09/2013).

=> Hành vi kiểm tra vượt quá nội dung thông báo tại quyết định kiểm tra việc chấp
hành pháp luật của đội QLTT số 08 không trái với quy định của pháp luật.

4.2. Xác định giá trị tang vật không đúng pháp luật

Trường hợp xác định giá trị hàng hóa bao gồm thành phẩm, bao bì, thùng carton,
bao nilon, … Khiến giá trị lên tới 700 triệu đồng:

Căn cứ Điều 60 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định trong trường
hợp cần xác định giá trị tang vật vi phạm hành chính để làm căn cứ xác định khung tiền
phạt, thẩm quyền xử phạt thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải xác định
giá trị của tang vật. Vậy nên, việc Đội QLTT số 8 tính sai giá trị tang vật sẽ ảnh hưởng
đến căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt.
Còn trong trường hợp này việc xác định giá tiền ban đầu không làm ảnh hưởng tới
việc tạm giữ tang vật được quy định tại Khoản 1 Điều 125 Luật xử lý vi phạm hành chính
năm 2012: “Để xác minh tình tiết mà nếu không tạm giữ thì không có căn cứ ra quyết
định xử phạt”.

Do đó, việc Đội QLTT số 8 xác định sai giá trị tang vật ban đầu không ảnh hưởng
tới quy trình tạm giữ tang vật.

4.3. Về hành vi hành chính căn cứ, thủ tục, tịch thu, tạm giữ tang vật của Đội
trưởng đội quản lý thị trường số 8

Thẩm quyền tạm giữ tang vật:

Tại khoản 2 điều 45 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định:

“Đội trưởng Đội Quản lý thị trường có quyền:

- Phạt cảnh cáo;


- Phạt tiền đến 25.000.000 đồng;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức
tiền phạt được quy định tại điểm b khoản này;
- Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, đ, e, g, h, i và k
khoản 1 Điều 28 của Luật này.”
Tại Khoản 3 Điều 125 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định:

“Người có thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính quy định tại Chương II Phần thứ hai của Luật này thì có thẩm quyền
tạm giữ tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.”

Có 2 ý kiến về thẩm quyền tạm giữ tang vật:

Một là, phụ thuộc vào giá trị tang vật;

Hai là, không phụ thuộc vào giá trị tang vật.

Nên hiện nay, Khoản 3 Điều 125 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 được
sửa sửa đổi bởi Điểm a Khoản 64 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020 có
hiệu lực từ ngày 01/01/2022 như sau: “Người có thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt
tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính quy định tại Chương II Phần thứ hai
của Luật này thì có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Thẩm quyền tạm giữ không phụ thuộc vào giá
trị của tang vật, phương tiện vi phạm hành chính”.

Việc đội trưởng đội quản lý thị trường ra quyết định tạm giữ phù hợp với quy định
pháp luật áp dụng trong các trường hợp sau:

Để xác minh tình tiết mà nếu không tạm giữ thì không có căn cứ ra quyết định xử
phạt;
Để ngăn chặn ngay hành vi vi phạm hành chính mà nếu không tạm giữ thì sẽ gây
hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.

=> Trong trường hợp này, thẩm quyền về tạm giữ tang vật sẽ không phụ thuộc vào
giá trị tang vật nên quyết định tạm giữ của Đội trưởng đội quản lý thị trường số 8 là đúng
thẩm quyền quy định của pháp luật.

Thủ tục tạm giữ tang vật:

Tại Khoản 8 Điều 125 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Thời
hạn tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề là
07 ngày, kể từ ngày tạm giữ. Thời hạn tạm giữ có thể được kéo dài đối với những vụ
việc có nhiều tình tiết phức tạp, cần tiến hành xác minh nhưng tối đa không quá 30
ngày, kể từ ngày tạm giữ tang vật, giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Đối với vụ việc thuộc
trường hợp quy định tại Đoạn 2 Khoản 1 Điều 66 của Luật này mà cần có thêm thời gian
để xác minh thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng
trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn việc tạm giữ; việc gia hạn phải bằng văn
bản, thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày. Thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề được tính từ thời điểm tang vật,
phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ thực tế.”

Căn cứ thực tế theo hồ sơ chứng cứ, ngày 24/06/2015, Đội QLTT số 8 ra quyết
định tạm giữ tang vật lần 1 số 0088000/BB – TGTV, đồng thời ra 02 quyết định kéo dài
thời hạn tạm giữ đến ngày 23/08/2015. Ngày 23/08/2015, Đội QLTT số 8 có quyết định
trả lại tang vật số 0029505/QĐ – TLTV. Tổng thời hạn tạm giữ tang vật không vượt quá
60 ngày theo pháp luật quy định và đã có văn bản gia hạn. Do đó, thủ tục tạm giữ tang vật
của Đội QLTT số 8 không trái với quy định của pháp luật.

Về quyền giải trình của công ty Hà Trung Hậu

Căn cứ khoản 2 điều 61 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Đối với
trường hợp giải trình bằng văn bản, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải gửi văn
bản giải trình cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn
không quá 05 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính.”

Tại biên bản vi phạm hành chính số 0044483/BB – VPHC ngày 18/09/2015, Đội
QLTT số 8 đã nêu rõ công ty Hà Trung Hậu có quyền giải trình với Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân thành phố Đà Nẵng. Ngày lập biên bản vi phạm hành chính là ngày 18/09/2015, trong
thời hạn không quá 05 ngày công ty Hà Trung Hậu phải giải trình lên Chủ tịch UBND
thành phố Đà Nẵng. Sau ngày 23/09/2015 công ty Hà Trung Hậu đã hết thời hạn giải trình
nên căn cứ khởi kiện về quyền giải trình của công ty là không có căn cứ.

4.4. Về hành vi Đội quản lý thị trường số 8 trả thiếu hàng hóa:

Căn cứ hồ sơ chứng cứ: Chỉ có quyết định trả lại tang vật, phương tiện, giấy tờ số
0029505/QĐ – TLTV ngày 23/08/2015, của Đội quản lý thị trường số 8. Tuy nhiên, do
không có biên bản trả lại hàng hoá nên việc xác định 4 bao mì chính (Mỗi bao khối lượng
25kg) sẽ không thể đối chiếu được với biên bản tạm giữ tang vật số 0073856 ngày
24/06/2015, của Đội QLTT số 8.

Nên căn cứ khởi kiện trên của công ty Hà Trung Hậu thiếu chứng cứ chứng minh.

Từ các căn cứ và lập luận trên, các hành vi hành chính của Đội trưởng đội QLTT
số 8 là đúng quy định pháp luật. Nên công ty Hà Trung Hậu không có căn cứ khởi kiện
Đội trưởng đội QLTT số 8.

5. Đưa ra tư vấn cho Công ty HTH


Trong vụ việc này nếu là Luật sư tư vấn cho Công ty HTH nhóm em xin đưa ra
những tư vấn sau:

5.1. Đánh giá nội dung vụ việc mà khách hàng yêu cầu

Khi tìm hiểu và phân tích nội dung hồ sơ, để có thể làm việc một cách hiệu quả
nhất với khách hàng cần:

- Phân tích nội dung vụ việc cho khách hàng.

- Yêu cầu khách chuẩn bị thêm các chứng cứ chứng minh cho các yêu cầu khởi
kiện mà phía khách hàng đã đưa ra.

- Phân tích những hành vi mà khách hàng khởi kiện từ đó chỉ ra những hành vi đáp
ứng căn cứ khởi kiện và những hành vi không đáp ứng được căn cứ khởi kiện:

Trong vụ việc của khách hàng sau khi phân tích thì tại đơn khởi kiện ngày
28/10/2015, của khách hàng có khởi kiện 04 hành vì hành vi hành chính đối với Đội
trưởng Nguyễn Thanh Tùng và Đội QLTT số 8 trong đó có 03 hành vi hành chính mà
khách hàng khởi kiện Đội trưởng Nguyễn Thanh Tùng và Đội QLTT số 8 đã thực hiện
đúng quy định của pháp luật, do đó không có căn cứ để khởi kiện 03 hành vi này. Còn 01
hành vi trả hàng hóa thiếu so với số lượng khi tạm giữ thì hành vi này các tài liệu, chứng
cứ có trong hồ sơ mà luật sư được tiếp nhận không được đầy đủ, thiếu các biên bản giao
nhận hàng hóa khi Đội QLTT số 8 trả lại tang vật.

=> Không thể đối chiếu các biên bản tạm giữ tang vật khi Đội QLTT số 8 tạm giữ
tang vật, do đó không thể nhận định cụ thể chính xác đối với 01 hành vi hành chính bị
khởi kiện này.

5.2. Các phương án giải quyết vụ việc

Phướng án thứ nhất, trong trường hợp khách hàng cung cấp được đầy đủ các tài
liệu chứng cứ đúng theo quy định của pháp luật chứng minh được việc Đội QLTT số 8 trả
lại tang vật tạm giữ lại bị thiếu, chênh lệch với số lượng ban đầu 04 bao mì chính mỗi bao
25kg) khi tạm giữ thì sẽ đưa ra tư vấn để khách hàng làm đơn thay đổi nội dung khởi
kiện, theo đó sẽ rút lại 03 hành vi hành chính đúng theo quy định của pháp luật có trong
đơn khởi kiện ngày 28/10/2015, chỉ giữ lại 01 hành vi hành chính trả thiếu hàng hóa của
Đội QLTT số 8.

Phương án thứ hai, trong trường hợp không chứng minh được hành vi hành chính
vi phạm của đội QLTT số 8, có thể khởi kiện vụ việc dân sự. Vì theo Luật sở hữu trí tuệ,
nói đến vi phạm nhãn hiệu thì theo Khoản 2 Điều 213 Luật sở hữu trí tuệ 2005 “Hàng hoá
giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng
hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt
hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn
địa lý.” Do đó, chỉ tính bao bì, nhãn hiệu của hàng hóa, nếu đội QLTT số 8 tính cả máy
cân đo, nguyên liệu, cán nhiệt, … để xác định hàng hóa bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
thì việc xác định đó là không đúng xâm phạm đến quyền và lợi ích của khách hàng

=> Khởi kiện dân sự liên quan đến Sở hữu trí tuệ nếu chắc chắn mình không xâm
phạm quyền sở hữu nhãn hiệu; đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Phương án thứ ba, Trường hợp nếu khách hàng không không chứng minh được
hành vi hành chính vi phạm của đội QLTT số 8 và không muốn giải quyết theo dân sự thì
tư vấn cho khách hàng về việc khởi kiện quyết định hành chính khi có quyết định hành
chính về việc xử phạt đối với hành vi vi phạm của khách hàng trong vụ việc.

You might also like