You are on page 1of 295

THẬP GIÁ VÀ LƯỠI GƯƠM

Lm. Trần Tam Tỉnh


Nguyên tác: Dieu et César: Les Catholiques
dans L’Histoire du Vietnam.
Tác giả: Lm. Trần Tam Tỉnh, viết năm 1975 ở
Rôma, xuất bản năm 1978 tại Paris, Pháp.
Bản dịch Việt ngữ của Lm. Vương Đình Bích
với tựa đề “Thập Giá Và Lưỡi Gươm”, do
Nhà Xuất Bản Trẻ ấn hành năm 1978.
Biên tập lại theo bản sách điện tử lấy từ internet
(http://downloadsach.com) và ấn hành nội
bộ tại Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài
Gòn, tháng 10/2019.
ĐÔI LỜI TÂM SỰ CỦA NGƯỜI BIÊN TẬP

Khi nghiên cứu lịch sử Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, đặc
biệt là những giai đoạn mang tính “then chốt” đối với vận mệnh Dân
tộc, điển hình như các biến cố “bước ngoặt lịch sử” từ 1945-1975,
tôi thực sự tò mò khi thấy nhiều tài liệu và bài viết trên mạng về
mảng lịch sử này, cách riêng là trên các diễn đàn lẫn các kênh truyền
thông chính thức của Nhà Nước, lại rất thường xuyên trích dẫn tác
phẩm “Thập Giá Và Lưỡi Gươm” của linh mục Trần Tam Tỉnh.
Càng tò mò hơn khi biết cuốn sách này, dù được viết bởi một linh
mục Công giáo, lại được Nhà Xuất Bản Trẻ ấn hành và phổ biến chỉ
vài năm sau biến cố cuối tháng Tư 1975! Cảm giác tò mò đã dẫn tôi
tìm đọc tác phẩm. Hoá ra nội dung tác phẩm không thuần tuý viết
về tôn giáo hay nghiên cứu phân tích tình hình chính trị - xã hội dựa
trên nền tảng tôn giáo như tôi đã tưởng, mà tôi có cảm giác, xin nhấn
mạnh là cảm giác rất chủ quan, rằng dường như tác giả, dù tự nhận
mình là một người con trung thành của Giáo hội Công giáo, đã
“mượn danh nghĩa” hay “lợi dụng” tôn giáo để biện minh và phục
vụ cho một “lập trường” (nếu không muốn nói là “mưu đồ”) chính
trị cá nhân vậy. Tác phẩm đưa ra khá nhiều tài liệu dẫn chứng nhưng
lại thiếu minh bạch về xuất xứ, thiếu độ trong sáng và khách quan
khi trưng dẫn; những lập luận, đánh giá rất thiên kiến và chủ quan;
những số liệu dường như chỉ được đưa ra “từ một phía” v.v... Tất cả
những điều này dễ dàng làm cho một người đọc bình thường, mà
trong đó có tôi, không khỏi dấy lên trong lòng những thắc mắc và
“lấn cấn” nào đó. Chẳng hạn như tại sao lại kết luận rằng việc cấm
đạo của các vua triều Nguyễn là hệ quả của thái độ muốn xâm lược
và mưu đồ nổi loạn cướp ngôi của người Pháp, trong đó các tín hữu
Việt Nam là nạn nhân, mà lại không phải là chính quyền Pháp đã bị

3
đẩy tới chỗ phải can thiệp vào Việt Nam dưới áp lực của dân chúng
sau khi những đợt bách hại người Công giáo gây ra xúc động quá
lớn? (Nghĩa là đã có một sự “đảo ngược phạm trù”: từ lý do Pháp
đánh chiếm Việt Nam vì việc cấm đạo, nay trở thành sự kiện bởi
Pháp [mưu đồ] xâm lược Việt Nam dưới sự trợ giúp của các giáo sĩ
thừa sai và giáo dân Công giáo nên mới dẫn đến việc các vua quan
nhà Nguyễn ra sắc chỉ cấm đạo!) Tại sao lại chỉ đề cập đến “mưu đồ
chính trị” của một số giáo sĩ thừa sai lợi dụng tôn giáo và toa rập với
chính quyền Pháp để xâm lược Việt Nam, mà lại chẳng hề nói đến
bối cảnh khó khăn của thời cuộc cũng như những nỗ lực của nhiều
giáo sĩ thừa sai lẫn người giáo dân Công giáo Việt Nam trong việc
khuyến cáo và đề nghị triều đình canh tân cải tổ đất nước, kết quả là
họ bị ruồng rẫy, tù tội, hạ nhục bởi sự thủ cựu và dửng dưng của nhà
Nguyễn? Tại sao lại chỉ nhắc đến việc một số người Công giáo
“phản quốc” hùa theo và tiếp tay cho thực dân Pháp xâm lược quê
hương mà lại chẳng hề nhắc đến một lời nào về đại bộ phận người
Công giáo nhẫn nại chịu đựng, khoan hoà, dũng cảm, sẵn sàng chịu
chết vì đức tin chứ không nổi loạn hoặc chối bỏ đạo thánh? Tại sao
lại đề cao tấm lòng yêu nước của những người Cộng sản để rồi “đồng
hoá” họ luôn với “Đảng Cộng sản”, trong khi đây là lực lượng dựa
vào chiêu bài giải phóng dân tộc để vận động lòng yêu nước của
người dân nhằm kêu gọi đấu tranh giai cấp (nói trắng ra là tàn sát
hết tất cả những ai bị coi là kẻ thù của giai cấp vô sản), không lấy
quốc gia làm đối tượng phục vụ mà chỉ hướng tới việc giải thể quốc
gia và hội nhập vào một thế giới vô sản, thay thế tinh thần quốc gia
bằng tinh thần giai cấp? Tại sao lại chỉ nêu lên những sai phạm và
bê bối của chính quyền Ngô Đình Diệm trong việc thực thi Hiệp
định Giơnevơ mà lại bỏ qua những nỗ lực tổ chức cứu trợ đồng bào
di cư của ông? Đâu rồi những tội ác của Cộng sản Bắc Việt trong
việc cưỡng bách và thanh trừng giáo dân di cư như ở Ba Làng, Trà
Lý, Cửa Lò? Tại sao lại chỉ kết tội chế độ Cộng hoà miền Nam đàn

4
áp Phật giáo qua vụ “Hoa Sen đẫm máu” mà lại chẳng hề có một lời
nào về vụ án “Quỳnh Lưu đẫm máu”, vốn là hậu quả tất yếu của
những chính sách bất công và tàn ác của chế độ vô thần ở miền Bắc?
Tại sao sự có mặt của Đức cha Nguyễn Văn Thuận tại Sài Gòn là
không hợp thời và nguy hại cho Giáo hội, đến mức Nhà Nước phải
“giữ vững lập trường cứng rắn và quyết định bắt buộc” vị Giám mục
phải rời khỏi nơi này? Và còn đó vô số những nghi vấn tương tự.
Đến đây, tôi tự hỏi liệu có khi nào lịch sử đã được “uốn nắn”
cách tài tình để phục vụ cho mục đích chính trị hay không. Nếu quả
thực có như vậy thì điều này chắc chắn sẽ gây nguy hại biết bao cho
những tâm hồn thuần khiết của các thế hệ hậu sinh, nhất là trong bối
cảnh thiếu thốn trầm trọng các tư liệu lịch sử đúng đắn, mà truyền
thông xã hội thì lại bị kiểm duyệt gắt gao. Phải chăng đây là lý do
khiến “Thập Giá Và Lưỡi Gươm” được “đỡ đầu” và lưu hành cách
“hiên ngang trên thị trường? Tôi đưa ra giả thiết này một phần cũng
vì nhìn vào cách chuyển dịch tựa đề của tác phẩm. Rõ ràng ở bản
gốc bằng tiếng Pháp là “Dieu et César” (Thiên Chúa và Xê-da), một
cụm từ đầy ý nghĩa liên quan đến lãnh vực lịch sử - tôn giáo và chính
trị - quân sự, khiến ta không thể không liên tưởng đến giáo huấn nổi
tiếng của Chúa Giêsu trong Phúc Âm: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của
Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (x. Mt 22,21). Vậy mà người dịch
(cũng là một linh mục Công giáo!) lại “hô biến” thành “Thập Giá và
Lưỡi Gươm”, mà theo thiển ý của tôi, điều này đã “vô tình” làm thay
đổi điểm nhấn trong dụng ý của tác giả khi viết sách rồi.
Thực ra, nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử là một công việc chân
chính và cao đẹp, với điều kiện phải trung thành gìn giữ thái độ
khách quan, nghiêm túc và công bằng. Bằng không, ta sẽ dễ rơi vào
cám dỗ lấy “trót cả tâm tình” của cá nhân mà đánh giá nhận định, để
rồi vô hình trung “làm ô nhiễm” chính những nguồn tư liệu lịch sử
đó cũng như “đầu độc” luôn cả những tâm hồn tiếp cận với chúng.

5
Bởi thế tôi vẫn đinh ninh rằng lịch sử luôn mang trong mình những
mâu thuẫn nội tại cách khách quan: niềm vui chiến thắng của bên
này lại là nỗi đau thua trận của phe kia; lòng yêu nước đối với người
này lại là hành vi phản quốc đối với kẻ khác v.v... Nói cách khác,
trong dòng lịch sử, ánh sáng và bóng tối, sự thật và dối trá, công
trạng và tội lỗi, người tốt và kẻ xấu, vinh quang và tủi nhục, danh
dự và lý tưởng đan xen quyện lẫn vào nhau như tạo thành một dòng
chảy không ngừng với biết bao hỗn tạp đa diện mà không dễ tách
lớp trắng đen rõ ràng trong một sớm một chiều. Ai đúng ai sai, đâu
thiện đâu ác, thật khó mà kết luận cách vẹn toàn. Chúng ta phải chấp
nhận điều đó như một phần tất yếu của cách mà lịch sử được vận
hành. Âu cũng bởi trong dòng thời gian của nhân loại, xét cho cùng
thì chỉ có một mình Thiên Chúa, Đấng thấu suốt những gì bí ẩn, mới
đích thực là “Chủ Nhân Ông” của lịch sử, thế nên cũng chỉ có mình
Ngài mới đích thực là Đấng phán xét công minh lẫn phơi bày tỏ
tường lịch sử và từng con người bao gồm trong dòng lịch sử đó. Còn
phần của chúng ta, những con người hữu hạn tư bề, là phải đem cả
trí lòng ngay thẳng mà tiếp cận lịch sử, hầu có được sự phân định
đúng đắn nhất có thể trong việc phê bình nhận định. Có như vậy mới
không làm hoen ố lịch sử và tha hoá lòng người.
Cá nhân tôi đã đọc qua nhiều tài liệu lịch sử Giáo hội Công
giáo tại Việt Nam được biên soạn bởi những người Công giáo có uy
tín và chuyên môn (các linh mục Phan Phát Huồn, Bùi Đức Sinh,
Trương Bá Cần, Nguyễn Văn Trinh, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình
Đầu...), cũng như đã thấp thỏm mà “ngốn” hết một số tác phẩm
“chui” viết về mảng lịch sử đặc biệt này (như Hồi ký chính trị Le
Dragon d’Annam của cựu hoàng Bảo Đại, Hồi ký chính trị Một Cơn
Gió Bụi của Trần Trọng Kim; Việt Nam Pháp Thuộc Sử của Phan
Khoang; Việt Nam Tranh Đấu Sử của Phạm Văn Sơn; Chiến Tranh
Việt Nam của Hoàng Thanh Hoài; Công Giáo Việt Nam Từ Đế Chế
Đến Quốc Gia của Charles Keith; Bảo Đại, Trần Trọng Kim Và Đế
6
Quốc Việt Nam của Phạm Cao Dương; Ngô Đình Diệm Và Chính
Nghĩa Dân Tộc của Minh Võ; Khi Đồng Minh Tháo Chạy của
Nguyễn Tiến Hưng; Tổ Quốc Ăn Năn của Nguyễn Gia Kiểng...), nay
lại thêm “Thập Giá Và Lưỡi Gươm” này nữa. Thú thực là ban đầu
tôi có hơi bất ngờ (xen lẫn một chút hụt hẫng). Bởi lẽ một linh mục
Công giáo, theo như “khuôn mẫu” mà tôi vẫn mong đợi và hình
dung, ít ra phải là người can trường bênh vực Giáo hội và nhiệt thành
bảo vệ đoàn chiên, dẫu trong ràn có những “con chiên lạc” đi chăng
nữa. Đàng này tôi chỉ toàn thấy những luận điểm đối lập, những
đánh giá quá khắt khe đến mức bất công cho dân Chúa. Tuy vậy,
như tôi đã giãi bày, điều làm tôi đau lòng không phải là “nhân sinh
quan sử học” của tác giả khác biệt với tôi, nhưng là việc phải chứng
kiến lịch sử, đặc biệt lịch sử cận đại của dân tộc ta, không những đầy
dẫy sai sót mà lại còn bị xuyên tạc nữa. Lịch sử của ta thiếu sót và
thiếu chính xác, đó là một điều đáng tiếc, nhưng điều còn đáng tiếc
hơn nữa là cách tiếp cận lịch sử của chúng ta. Và một khi có bất cứ
lý luận hồ đồ nào được tung ra với mục đích giải thích lịch sử theo
chiều hướng có lợi cho một đảng phái nhất định, thì đó là lúc dân
tộc ta thêm một lần bất hạnh. Hậu quả là người Việt Nam, kể cả giới
trí thức, vốn đã thiếu óc phê bình trầm trọng, lại còn bị “khủng bố”
và hoang mang tột độ giữa một “mớ hổ lốn” những thông tin và dữ
kiện lịch sử thiên biến vạn hoá, đồng thuận nhau thì ít mà mâu thuẫn
nhau thì nhiều. Điều này làm cho những ai đang dấn bước tìm hiểu
lịch sử giống như đang bị lún sâu vào một “vũng lầy” mà chẳng biết
đường nào lần ra lối thoát.
Như vậy, lịch sử có còn là tấm gương soi chân dung của một
dân tộc để rút ra bài học kinh nghiệm cho hiện tại và giúp đưa ra
những quyết định chọn lựa cho tương lai hay không, xin mỗi người
tự vấn lương tâm mà trả lời lấy. Phần tôi, tôi hoàn toàn không phải
là một sử gia, và cũng không hề có ý định muốn trở thành một nhà
nghiên cứu sử học, nhưng niềm say mê lịch sử và nỗi ưu tư đối với
7
vận mệnh Dân tộc chưa bao giờ ngừng thiêu đốt tâm hồn tôi. Cũng
bởi vì chỉ là một kẻ ngoài ngành như thế, nên tôi cứ liều lĩnh đọc
lịch sử học lịch sử với một tâm thế rất mực “hồn nhiên vô tư”! Tôi
có thể rất cảm phục những con người Cần Vương và Văn Thân bởi
lòng dũng cảm và ái quốc của họ, nhưng lại cũng rất buồn tiếc và
khinh khi họ vì óc thiển cận, mù quáng thẳng tay tàn sát ngay chính
những đồng bào của mình. Tôi tôn trọng những người Cộng sản vì
ít ra họ dám lựa chọn rồi sống chết vì lý tưởng của mình, nhưng cũng
phê phán họ kịch liệt vì sự man trá và “nguỵ quân tử” của họ. Tôi
yêu mến Giáo hội Công giáo hết lòng, dĩ nhiên là bao gồm cả những
thành phần bất hảo, những “đứa con hoang đàng” của Mẹ Hội
Thánh, nhưng tôi không bao giờ ủng hộ những hành vi tội lỗi núp
bóng tôn giáo của họ. Tôi tán thành chủ trương phải đem tôn giáo ra
khỏi chính trị, để hai bên khỏi có cớ lợi dụng nhau cho mưu đồ riêng,
nhưng tôi cũng mạnh mẽ đả kích đường lối đem chính trị vào tôn
giáo của Đảng và Nhà Nước v.v...
Với xác tín đó, tôi hoàn toàn không có ý muốn chứng minh tác
giả là “thiên Cộng” hay “linh mục quốc doanh”, lại càng không có
ý bênh vực mọi thành phần của Giáo hội Công giáo một cách mù
quáng đến mức lệch lạc, cực đoan. Đơn giản là đối với tôi, dù chẳng
hề đồng thuận chút nào với quan điểm viết sử của tác giả, nhưng tôi
vẫn luôn tôn trọng quyền tự do ngôn luận của ông, mà nói theo nữ
văn sĩ Evelyn Beatrice Hall, thì “tôi không đồng ý với những gì bạn
nói, nhưng tôi sẽ chết để bảo vệ quyền được nói của bạn”. Đó là lý
do tôi muốn giới thiệu cuốn sách này, để như một cách nào đó cung
cấp cho những ai đam mê sử học thêm một góc nhìn đặc thù (ở
trường hợp này là trong tư cách của một linh mục Công giáo kiêm
giáo sư đại học và hàn lâm viện sĩ) về một giai đoạn lịch sử đã qua,
mà chắc chắn rằng với cùng một dữ kiện lịch sử như thế, đã, đang
và sẽ có biết bao góc nhìn khác nhau từ những người tiếp cận khác
nhau. Vả lại, tôi cho rằng việc có thêm góc nhìn mới, đặc biệt là
8
những góc nhìn đối lập của cùng một biến cố lịch sử, cũng là cách
hữu hiệu để từng bước thủ đắc tinh thần “chí công vô tư” cho những
tâm hồn chân chính trên hành trình tìm về ký ức.
Cuối cùng, khi đọc xong cuốn sách này, một mặt tôi cảm thấy
thái độ lẫn tư tưởng của mình trở nên quân bình và khách quan hơn
trong việc xem xét các vấn nạn lịch sử; mặt khác tôi cảm thấy tư duy
phản biện của mình được mài dũa sắc bén hơn khi đứng trước những
thông tin trái chiều. Hơn hết, tôi nhận ra rằng những góc khuất của
Dân tộc tôi cũng như những mảng tối của Giáo hội mà tôi đang sống
và phụng sự chẳng hề làm tôi hụt hẫng, thất vọng, chán nản hay đánh
mất hình ảnh và lý tưởng cao đẹp; trái lại càng làm tôi thêm yêu mến
quê hương, đất nước, con người và Giáo hội Việt Nam. Vâng, tôi
muốn mượn ý tưởng của thần học gia Karl Rahner năm nào để nói
lên tâm sự của chính tôi hôm nay: Quê hương Đất nước Việt Nam
là một Bà Già oằn mình bởi những tang thương lịch sử cũng giống
như Giáo hội Công giáo là một Bà Già đầy những nhăn nheo in hằn
vết sẹo thời gian vậy, nhưng Bà Già ấy là Mẹ tôi, và người ta chẳng
đánh Mẹ bao giờ!

Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn, 10/10/2019


-KHẮC ĐỖ-

9
MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU.............................................................................................................................. 13


DẪN NHẬP ................................................................................................................................. 14
Chương I: HƯƠNG LIỆU VÀ CÁC LINH HỒN ........................................................................ 20
1. Hương Liệu Và Đại Bác ............................................................................................... 20
2. Những Việc Chúa Làm Qua Bàn Tay Của Người Pháp ......................................... 24
3. Những Viễn Ảnh ............................................................................................................. 29
4. Giám Mục Bá Đa Lộc ................................................................................................... 31
5. Thập Giá Và Lưỡi Gươm ............................................................................................... 37
6. Giám Mục Puy-gi-niê ..................................................................................................... 42
7. Giáo Hội Dưới Chế Độ Thuộc Địa............................................................................... 46
8. Chủ Nghĩa Phong Kiến Trong Đạo ............................................................................ 49
9. Trong Trận Gió Xoáy Những Năm 30 ....................................................................... 52
10. Thập Giá Được Giải Phóng........................................................................................ 55
Chương II: BINH THÁNH GIÁ, NẠN NHÂN CỦA ĐẠO QUÂN THÁNH GIÁ ...................... 62
1. Thập Giá Đi Chung Với Ngôi Sao Hay Chống Lại Ngôi Sao? .............................. 62
2. Hồ Chí Minh Và Lê Hữu Từ ......................................................................................... 65
3. Thập Giá Biến Thành Đại Bác .................................................................................... 74
4. Và Cái Bẫy Tai Hại Biết Bao!..................................................................................... 79
5. Cuộc Thánh Chiến ......................................................................................................... 83
6. Cuộc Xuất Hành ............................................................................................................ 87
7. Người Công Giáo, Trọng Tâm Của Cuộc Di Cư....................................................... 98
Chương III: GIÁO HỘI TRONG CƠN BÃO BÙNG ................................................................ 103
1. Giáo Hội Chiến Thắng ................................................................................................ 103
2. Hoa Sen Đẫm Máu ...................................................................................................... 115
3. Ai Là Người Chịu Trách Nhiệm ................................................................................ 119
4. Các Tướng Tá Múa May Quay Cuồng..................................................................... 122
5. Đối Diện Với Chiến Tranh Của Mỹ........................................................................... 125
6. Giáo Hội Đối Diện Với Vấn Đề Hòa Bình ................................................................ 127
7. Nỗi Hăm Dọa Của Hòa Bình ..................................................................................... 134
8. Còn Vatican Thì Thế Nào? ........................................................................................ 139
9. Giáo Hội Sau Hiệp Định Pari .................................................................................... 144
10. Giáo Hội Và Vấn Đề Tham Nhũng ......................................................................... 147
11. Giáo Hội Trong Vùng Giải Phóng .......................................................................... 152
Chương IV: GIÁO HỘI TRONG KHÁNG CHIẾN ................................................................... 157
1. Người Công Giáo Yêu Nước Và Những Người Cách Mạng ................................ 157
2. Những Người Công Giáo Kháng Chiến Ở Nam Bộ ............................................... 159
3. Công Giáo Kháng Chiến Bắc Bộ .............................................................................. 162
4. Cụ Hồ Chí Minh Đối Với Giáo Hội ............................................................................ 165
5. Những Cuộc Đụng Độ Cải Cách Ruộng Đất .......................................................... 168
6. Tài Sản Của Giáo Hội ................................................................................................. 173
7. Các Cố Thừa Sai ......................................................................................................... 175
8. Sự Đáp Trả Của Giáo Hội Trước Bàn Tay Đưa Ra ............................................... 176
9. Người Công Giáo Và Các Cuộc Kháng Chiến Thứ Hai ........................................ 180
10. Thánh Lễ Và Rước Kiệu........................................................................................... 182
11. Việc Cập Nhật Hóa................................................................................................... 186
Chương V: XUYÊN QUA CUỘC GIẢI PHÓNG ..................................................................... 190
1. Hốt Hoảng ..................................................................................................................... 190
2. Những Cuộc Ra Đi....................................................................................................... 191
3. Vụ Giám Mục Nguyễn Văn Thuận ........................................................................... 193
4. Chống Đối ..................................................................................................................... 194
5. Cộng Tác ....................................................................................................................... 196
6. Dấn Thân ....................................................................................................................... 198
7. Những Tín Hữu Cơ Sở ................................................................................................. 199
KẾT LUẬN ................................................................................................................................ 203
HƯỚNG NHÌN VỀ TƯƠNG LAI ............................................................................................... 204
PHỤ LỤC .................................................................................................................................. 211
Đồng Bào Công Giáo Việt Nam Với Cách Mạng Tháng Tám ................................ 211
Cách Mạng Tháng Tám Với Các Giám Mục Người Việt.......................................... 221
Thái Độ Của Các Giám Mục Miền Bắc Đối Với Cộng Sản 1945-1975 ................ 230
Vụ Phong Thánh Tử Đạo Việt Nam .............................................................................. 261
LỜI NÓI ĐẦU
Giữa thế kỷ XIX, nhà Nguyễn phong kiến đã buộc lòng phải kiên
quyết đối phó với một bộ phận dân chúng theo đạo Thiên Chúa. Do
phương phức truyền đạo cứng rắn, do sự gắn bó khắng khít giữa
những người truyền đạo và thực dân Pháp xâm lược, đã để lại những
trang sử cay đắng cho Giáo hội Thiên Chúa và cho cả dân tộc.
Tòa thánh Vatican đã quyết định phong Thánh cho 117 vị Chân
phước Tử đạo tại Việt Nam từ năm 1745 đến 1862. Quyết định này
đã được tiếp nhận với nhiều phản ứng khác nhau trong Giáo hội. Đây
là vấn đề tế nhị và phức tạp có liên quan đến khối Đoàn kết dân tộc
đã được chăm chút vun bón trong cả quá trình lịch sử đấu tranh cách
mạng.
Xuất bản tập “Thập Giá Và Lưỡi Gươm”, Nhà xuất bản Trẻ chỉ
mong cung cấp cho bạn đọc một số dữ kiện, một số tư liệu lịch sử
do linh mục Trần Tam Tỉnh, Viện sĩ Viện Hàn lâm Hoàng Gia
Canada, Giáo sư Đại học Laval tỉnh Quebec (Canada), một người
hết lòng trung thành với Giáo hội Công giáo Việt Nam viết. Từ cơ
sở thực tiễn đó chúng ta có điều kiện để nhận thức rõ vấn đề.
“Thập Giá Và Lưỡi Gươm” phản ánh những vấn đề của Giáo
hội Công giáo từ thế kỷ XVIII đến nay, nói rõ thái độ của vua chúa
Việt Nam trong việc cấm đạo và giết đạo, truyền thống sống Phúc
Âm trong lòng dân tộc của người Việt Nam Công giáo, phản ánh cả
cái ánh sáng và bóng tối của Giáo hội trong các thế kỷ qua. Chúng
tôi tin rằng tập sách này sẽ đáp ứng phần nào yêu cầu của thanh niên
lương cũng như giáo cùng nhau xây dựng khối đoàn kết dân tộc.

- NHÀ XUẤT BẢN TRẺ -

13
DẪN NHẬP
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 lúc gần trưa, tiếng sung đã im, lần
đầu tiên từ ba mươi năm nay, trên toàn cõi đất nước Việt Nam. Từ
bốn phía, lực lượng Cách mạng tiến về hướng trung tâm Sài Gòn
trước những cặp mắt kinh hoàng của người này, hay giữa những
tràng pháo tay hoan hô của những người khác. Chuông của một số
chùa trang trọng ngân vang, hòa tiếng với những lời reo vui của một
bộ phận dân chúng.
Nhưng chuông các nhà thờ thì im lặng. Từ bốn tháng nay, phần
đông người Công giáo miền Nam sống trong lo âu sợ hãi. Bước tiến
như vũ bão của quân đội Cách mạng càng tăng thêm những lời đồn
đoán về một “cuộc tắm máu”, lời đồn đoán được nuôi dưỡng ngày
này qua ngày khác bởi các luận điệu tuyên truyền rùm beng, ở quốc
nội cũng giống như ở nước ngoài.
Ngày 7 tháng Giêng năm 1975, Mặt trận Giải phóng đã giải
phóng tỉnh Phước Long. Hãng thông tấn Fides của Vatican đưa tin
về vụ đó như sau: “Trong cuộc tấn công Phước Long, một số đông
dân chúng, đã tìm chỗ núp trong Nhà thờ xứ. Nhưng nhà thờ xứ trở
thành mục tiêu chủ yếu của các trọng pháo Cộng sản nã đạn vào và
nhiều người đã chết, kể cả 4 linh mục là các Cha Cảnh, Toàn, Lâm,
Nhã. Cha Đại đã bị Cộng sản bắt”. Cách đưa tin thời sự kiểu đó
ngầm hiểu rằng lực lượng cộng sản lo đánh phá tôn giáo hơn là giải
phóng đất nước.
Báo L’Observatore Romano và Đài tiếng nói Vatican loan tin
rằng có nhiều linh mục đã bị giết và có cả những Giám mục, như
Đức Cha Nguyễn Huy Mai, giám mục Buôn Mê Thuột và Đức Cha
Nguyễn Văn Hòa giám mục chỉ định địa phận Nha Trang, có lẽ đã
bị bắt hoặc đã bị cộng sản giết chết. Và để nhấn mạnh nguy cơ cộng
sản, giáo sư Alesandrini, phát ngôn nhân của Tòa thánh, đã viết trong

14
tờ L’Observatore Della Domenica rằng “chế độ Hà Nội là xấu xa
nhất thế giới”. Đức Phaolô VI, trong cuộc tiếp kiến ngày 26 tháng 3
năm 1975, nói đến “cơn hấp hối kéo dài không thể tả xiết, trong
nước mắt và máu” của nhân dân Viêt Nam, và ngày 2 tháng 4 ngài
cầu xin cho dân Công giáo nước này được “lòng can đảm của các
tông đồ đầu tiên, để làm chứng cho đức tin của họ và cho lòng bác
ái của họ trong những điều kiện khó khăn”.
Nhưng kiểu nhìn theo con mắt tận thế đó, cũng như các mưu đồ
của Washington đều chẳng thể nào cứu được chế độ Sài Gòn. Trước
cảnh tan rã của quân đội Thiệu, lực lượng Cách mạng đã giải phóng
một cách nhanh chóng và ít tổn thất, các vùng cao nguyên, các tỉnh
vùng ven biển, đồng bằng song Cửu Long, và sau cùng, qua 55 ngày
chiến dịch giải phóng Sài Gòn thủ đô ngụy.
Chiến thắng của Mặt trận Giải phóng và công cuộc giải phóng
miền Nam Việt Nam khỏi sự thống trị của Mỹ, phải chăng đánh dấu
sự chấm dứt tự do tôn giáo đối với cách suy nghĩ của phần đông
người Công giáo.
Đoán biết trước sự thất bại hầu như chắc chắn của quân đội Nam
Việt, những người đã làm giàu nhờ chiến tranh đều bỏ chạy mang
theo hàng triệu đôla chiếm được nhờ tham nhũng và những phương
thế bất chính. Bị lôi cuốn vào làn sóng di tản đó, nhiều người Công
giáo đã lên những chiếc thuyền mỏng manh, hy vọng khi ra khơi thì
gặp được tàu của Mỹ vớt họ và chở họ tới các nước có đạo, để họ
bảo vệ được đức tin. Cơn hoảng hốt đó là hậu quả của những tiếng
đồn “cộng sản sẽ giết hết người Công giáo gốc di cư 1954” hoặc
“trong các vùng giải phóng, nhiều linh mục đã bị tàn sát, các nữ tu
bị hãm hiếp, các nhà thờ bị triệt hạ”.
Song khác với 1954, hàng giáo phẩm lần này đã không tổ chức
cho di tản. Các giám mục đều nhất quyết ở lại, dầu có phải dọn mình
chịu chết vì đạo như họ vẫn nghĩ. Gần ngày giải phóng cố đô Huế,
Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền đã viết cho Giám mục Mercier là
15
bạn thân rằng, Đức Cha thấy bổn phận mình là phải tiếp tục tại vị,
để Giáo hội có mặt và Tin Mừng vẫn được loan báo, nếu có vì thế
mà “phải vào tù, chịu đau khổ bắt bớ không phải bằng lời giảng mà
nhiều người rất thèm khát”. Phần riêng mình, Đức Tổng giám mục
Sài Gòn Nguyễn Văn Bình nhắc nhở giáo dân rằng “không bao giờ
Giáo hội ủng hộ việc di tản người Công giáo ra nước ngoài”. Tiếp
đến, Đức Cha khuyên các linh mục và tu sĩ đừng để bị lôi cuốn vào
hoang mang, nhưng phải chứng tỏ sự can đảm và tinh thần hy sinh
cho tới cả trường hợp phải tử vì đạo: “Chúng ta phải sẵn sàng trong
một tinh thần hoàn toàn tin cậy vào Chúa. Chúng ta hãy nhớ lại lời
Chúa: “Kẻ chăn tốt dâng mạng sống mình vì đàn chiên (Yn 10,11)
và gương lành của Người: “Đức Kitô đã ban sự sống của Người cho
chúng ta, chúng ta phải dâng mạng sống mình vì anh em” (Yn 3,1).
Khi đọc những dòng trên, người ta có thể hiểu được bầu không
khí sợ hãi và lo âu trong đồng bào Công giáo. Dầu có những lời kêu
gọi kể trên, hơn 100 Linh mục và 250 tu sĩ nam nữ người Việt đã ra
đi.
Trong bầu không khí như thế, những người Công giáo từng gắn
bó với nguồn hy vọng của nhân dân – linh mục có, giáo dân có – họ
đã phải chiến đấu với hai lần khó khăn. Một đàng họ tìm mọi cách
nhằm thuyết phục đồng bào và đồng đạo đang bị lôi kéo hàng ngàn
đi di tản rằng phải từ bỏ cuộc chạy trốn điên dại, ngõ cụt không lối
thoát đó, và hãy trở về nhà mình đang ở. Trong các xóm nghèo của
Sài Gòn, họ đã thành công ngăn chặn được sự bỏ chạy và cơn hốt
hoảng, nhờ các hoạt động trấn an hiệu quả của họ.
Đồng thời, họ phải lên tiếng tố cáo thái độ của một vài chức sắc
Giáo hội đang liều mình liên lụy đến độ “mất cả sự tự do cần thiết
cho sứ mạng Ngôn sứ của mình”. Giữa những bối cảnh bất an của
Sài Gòn tháng 4, họ muốn giúp cho Giáo hội đi vào một cuộc đổi
thay, không phải theo họ nghĩ tàn mạt, mà là hữu ích. Thái độ của
họ trong qúa khứ đã chuẩn bị họ làm công tác này: trong những tháng

16
cuối thời chế độ Thiệu, mặc dầu có những cuộc đàn áp dã man hơn,
họ vẫn tiếp tục cố gắng nhiều hơn trong cuộc chiến đấu chống sự có
mặt của Mỹ, chống độc tài và ủng hộ việc hòa giải và độc lập hoàn
toàn của đất nước. Làm như thế, họ đã góp phần vào việc giải phóng
Sài Gòn không có đổ máu.
Tại thành phố từ nay được gọi bằng tên cụ Hồ Chí Minh, cũng
như trên khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam được giải phóng, thái độ
cởi mở và hòa giải của Mặt trận Giải phóng đều được thừa nhận bởi
cả những kẻ thù địch triệt để nhất. Cuộc tắm máu đã không hề xảy
ra. Không có đàn áp; không có xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng.
Bây giờ người ta mới tự hỏi: Giáo hội ở miền Nam có chấp nhận
cách phân tích tình hình như thế và thay đổi thái độ với chế độ mới
chăng? Giáo hội có thể sang trang được không?
Đã có một số câu trả lời cho những thắc mắc đó.
Sáu ngày sau khi Huế được giải phóng, trong một bức thư đề
ngày 1 tháng 4 năm 1975, Đức Cha Nguyễn Kim Đền, Tổng giám
mục Huế gởi cho giáo dân của Ngài như sau: “Giữa quang cảnh vui
mừng hoan hỉ này, đã đến lúc chúng ta phải sẵn sàng cộng tác với
hết thảy mọi người thiện chí để xây dựng lại quê hương đã từng chịu
đau thương tang tóc biết bao rồi, và việc này ở dưới sự lãnh đạo của
Mặt trận Giải phóng, hầu đem lại cho đồng bào sự tự do, sự phồn
vinh và hạnh phúc. Hơn bao giờ hết, bây giờ là lúc phải củng cố sự
đoàn kết dân tộc, tình yêu thương nhau và phục vụ đồng bào, giúp
đỡ và cứu trợ, chia sẻ với đồng bào cơm ăn và áo mặc”.
Ngày 9 tháng 4, Đức Tổng giám mục lại công bố: “Trên trần
gian này, chẳng có gì quý hơn sự sống con người, và đối với loài
người thì không có gì quý giá hơn độc lập và tự do. Sống trong độc
lập là một điều có thật tại đây, cố đô Huế. Còn về tự do, Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã long trọng đảm bảo với
toàn thể đồng bào, sự tự do trong đó có sự tự do lương tâm của các

17
tôn giáo. Chính vì vậy mà người Công giáo Việt Nam háo hức đóng
góp phần tích cực của mình. Và cùng nhau, cùng toàn dân, dưới sự
lãnh đạo của Mặt trận Giải phóng, chúng ta sẽ xây dựng một xã hội
đầy yêu thương, một xã hội tự do, dân chủ, thịnh vượng; ở đó chúng
ta được an tâm chu toàn bổn phận mình đối với Tổ quốc và đối với
Thiên Chúa”.
Ít hôm sau ngày giải phóng Sài Gòn, Tổng Gám Mục thành phố
này cũng đã kêu gọi toàn thể người Công giáo miền Nam hãy “chu
toàn mọi nhiệm vụ công dân của mình một cách nghiêm túc, dưới sự
lãnh đạo của chính phủ Cách mạng lâm thời. Đây là sự vui mừng của
toàn thể nhân dân ta và theo niềm tin Kitô giáo, đây cũng là ân huệ
của Chúa. Với toàn thể đồng bào, chúng ta vui mừng chào đón hòa
bình và độc lập”.
Bên ngoài, tại Vatican cũng như ở các miền Công giáo, người ta
không nói cùng một giọng như thế. Ngày 11 tháng 5, trong báo
L’Observatore della Domenica, giáo sư Alesandrini đã viết về chính
sách hòa giải của Mặt trận giải phóng như sau: “Sự hòa giải chân
thành, đích thực và thành khẩn là thời điểm duy nhất để có thể có
hòa bình; sự hòa giải thật không tự nó đến ngay từ sự im lìm bi thảm
của các sự vật, từ sự vắng chiến tranh hay là tình thế bắt buộc, nhưng
nó phải được xây dựng và xây dựng lại trong các cõi lòng đã từng
tan nát, bị chà đạp”.
Tại sao có thái độ đó từ phía tờ L’Observatore della Domenica?
Tại sao có những lập trường bề ngoài xem ra mâu thuẫn nhau đối
với một nước Việt Nam đã được giải phóng?
Giáo hội Công giáo sẽ ra thế nào trong một nước Việt Nam độc
lập và thống nhất? Muốn hiểu bối cảnh hiện nay của Giáo hội Công
giáo Việt Nam, cần đọc lại lịch sử Giáo hội này từ ngày bắt đầu
truyền bá Tin Mừng vào thế kỷ XVI. Cần hiểu biết tất cả quá khứ
của Giáo hội, phải khám phá tất cả những gì nó liên lụy với di sản

18
thuộc địa. Phải lấy trí và lòng rất thanh thản mà xem lại sự chuyển
biến của Giáo hội, xuyên qua dòng lịch sử của đất nước Việt Nam.
Tập sách này, được viết ra do một trong những người con trung
thành của Giáo hội Việt Nam không có một tham vọng nào khác
ngoài việc trình bày sự thật lịch sử.
Roma, ngày 19-5-1975
Linh mục TRẦN TAM TỈNH

19
Chương I: HƯƠNG LIỆU VÀ CÁC LINH HỒN

1. HƯƠNG LIỆU VÀ ĐẠI BÁC


Năm 1492, Kristôp Côlông (Christophe Colom) khám phá ra
những vùng đất mới mà ông nghĩ là Ấn Độ. Một nửa thế kỷ trước
đó, thương thuyền Bồ Đào Nha cũng đã chạy dọc theo bờ biển phía
Tây Châu Phi. Ít năm sau, năm 1497, Vaxcô đơ Gama người Bồ Đào
Nha đã phát hiện đúng con đường sang Ấn Độ.
Ngày 4 tháng 5 năm 1493, qua sắc chỉ “Inter caetera” [Giữa
những điều khá], Giáo hoàng Alếchxăng VI giao quyền chinh phục
các vùng đất kể trên mà các dân phương Tây chưa từng biết, cho các
triều đình nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tây Ban Nha có quyền
đi chiếm tất cả các đất đai gặp được ở một trăm dặm kể từ quần đảo
Axo (Axores), còn Bồ Đào Nha, tất cả các nước nằm ở mạn Đông
đường ranh đó (quần đảo Axo nằm ở mạn giữa cắt đôi Đại Tây
Dương).
Tuy nhiên, quyền lợi của Bồ Đào Nha đã được phân định rõ ràng
trong sắc chỉ “Giáo hoàng Rôma” (Romanus Pontifex) do Đức
Nicôla V ra ngày 8 tháng Giêng năm 1454. Theo quyền lực Chúa
ban và quyền của Tòa thánh, Đức Giáo hoàng ban cho triều đình
Lisbông (Bồ Đào Nha) “toàn quyền tự do xâm lăng, chinh phục,
chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Xarađanh
(Sarrasins tức người Ả Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác
của Giáo hội, gặp bất cứ nơi nào; được toàn quyền chiếm cứ tất cả
các vương quốc, lãnh địa, vương hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng;
toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm của chúng và bắt
tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn”.
Khi ban quyền cho người Bồ Đào Nha được chiếm đoạt mọi thứ
lợi lộc kể trên, Giáo hoàng đồng thời muốn mở mang nước Chúa
sang các miền xa xôi. Và để nhà vua Bồ Đào Nha yên tâm hơn, Giáo
20
hoàng ra lệnh cấm không một ai khác được phép đặt chân đến các
vùng đất ấy nếu không có phép nhà vua, dành cho nhà vua độc quyền
buôn bán và ra vạ tuyệt thông tức khắc cho bất kỳ ai dám hành động
ngược lại.
Nước Tây Ban Nha, sau khi được Giáo hoàng chúc lành, đã tung
ra một đoàn chiến thuyền hùng hậu và đạo quân kỵ binh hung tợn,
lên đường đánh chiếm châu Mỹ, và chỉ sau một thời gian ngắn đã
lập nên một đế quốc bao la. Về phía mình, người Bồ Đào Nha cũng
thâu được những kết quả lừng danh ngay bước đầu. Ngày 17 tháng
2 năm 1511, Anphông Danbuyket (Alphonse ở Albuquerque) chiếm
thành Goa, một đô thị thuộc loại quan trọng nhất của Ấn Độ, nổi
tiếng là nơi bọn lái buôn hương liệu và ngựa Thổ Nhĩ Kỳ hay đổ tới,
và thiết lập thành kinh đô của tất cả cơ sở Bồ Đào Nha tại miền Ấn
Độ Dương. Năm sau đó, Ông chiếm Malắcca, thị trấn của tất cả các
hải đảo vùng Nam cực, thị trường lớn buôn bán ma túy, hương liệu,
và các sản phẩm ngoại lai. Nửa thế kỷ sau, cờ nước Bồ Đào Nha bay
phất phới trên Macao, ngay bên hông Trung quốc cho phép họ buôn
bán với các hải khẩu Trung quốc và Nhật Bản.
Thời ấy, người ta tin rằng có sự phù trợ của Chúa che chở nhóm
Kitô hữu tí hon đó trong cuộc mạo hiểm chinh phục thế giới. Chính
từ Goa và Macao, những nhà truyền giáo đầu tiên đã tìm tới Việt
Nam. Lúc đầu chỉ là các tuyên uý của các thuyền buôn, lợi dụng thời
gian bốc hàng, họ lên bộ, tìm cách đưa một vài người nghèo theo
đạo, nhờ bọn thông dịch làm trung gian, chẳng hạn hỏi họ “có muốn
vào trong lòng người Bồ Đào Nha chăng” hoặc sau này là “trong
lòng người Bồ Đào Nha” chăng.
Những người đồng ý đều được rửa tội cách giản đơn, nhưng lúc
nào cũng được các “Thầy phương Tây” ban tặng ít quà. Sau những
kết quả sơ khởi đó, nhiều linh mục dòng Tên đã đến và trú ngụ tại
Việt Nam.

21
Hồi thế kỷ XVI và XVII, Việt Nam là một nước, triều đại nhà Lê.
Nhà vua đang ngự trên ngai nhưng không có thực quyền cai trị. Mọi
quyền hành nằm trong tay các chúa, chúa Trịnh ngoài Bắc, chúa
Nguyễn trong Nam, cả hai cai trị dân nhân danh nhà vua. Việc các
chúa tranh hùng tranh bá là có lợi cho hoạt động của các nhà truyền
giáo. Cả hai chúa Trịnh và Nguyễn đều cần vũ khí hiện đại, súng đại
bác và đạn pháo do các tàu buôn Bồ Đào Nha chở tới. Họ cho các
nhà truyền giáo được phép trồng cả cây thập giá lên trước các hải
cảng, bởi vì, theo người Kitô giáo, thập giá “từ xưa là một thứ cờ mà
người Bồ Đào Nha cung kính, nên ở cảng nào thấy cờ thập giá là họ
sẵn sàng chở tới các loại hàng tốt nhất”. Nhưng do tình hình sự việc
như vậy mà việc truyền giáo cũng chịu cảnh thăng trầm theo nhịp độ
tàu bè lui tới. Hễ đại bác tới thì các thừa sai được tự do giảng đạo và
các giáo hữu được tự do hành đạo; nhưng nếu vì lý do gì mà các tàu
thuyền Bồ Đào Nha không cập bến đúng hẹn, thì nhà cầm quyền dọa
trục xuất các thừa sai và cấm dân theo đạo “Tây dương”.
Đừng kể trường hợp ngoại lệ, các thừa sai hồi đó thường ra sức
làm cho các giáo hữu sống theo kiểu Bồ Đào Nha. Tại Ấn Độ, giáo
dân buộc phải bỏ y phục xứ mình mà ăn mặc như người Bồ Đào
Nha; tại Trung quốc, những ai trở lại đạo đều phải cắt tóc ngắn, bởi
tóc dài bị coi là không hợp với đạo mới; khắp nơi tại Ấn Độ cũng
như tại Việt Nam, những người chịu rửa tội phải bỏ tên “ngoại đạo”
của mình để nhận tên “có đạo”. Dầu các thừa sai tỏ ra bình dân và
nhiều khi đáng kể là người uyên bác, đạo mới cũng chỉ kiếm thêm
dăm người theo từ đám dân chúng nghèo khổ và phụ nữ. Theo các
nhà truyền giáo ghi nhận trong các “tâm thư” hoặc các bản báo cáo
chính thức, thì số người chịu phép rửa rất cao. Chẳng hạn giáo sĩ
Alexăng đờ Rốt (Alexandre De Rhodes) cả quyết rằng năm 1642
một mình ông đã rửa tội được 6,000 người lương theo đạo; nên năm
1646, nhân dịp linh mục Cabơran (Cabral), dòng Tên sang thăm, có
24,000 người lương chịu rửa tội. Năm 1658 Cha Riva (Rivas) đi
thăm tỉnh Quảng Bình, đã rửa tội 700 người lớn. Năm 1665, Cha

22
Hanh-cơ (Hainques) một mình cũng rửa tội 4,440 tân tòng. Đứng
trước sự phát triển tín đồ như thế, Giáo sĩ Alexăng Đờ Rốt đã trình
về Rôma năm 1650 một báo cáo dài về sự tiến triển của việc truyền
giáo tại Việt Nam và đề xuất một phương án tách việc truyền giáo
tại Việt Nam ra khỏi quyền hành Bồ Đào Nha. Vì từ trước tới thời
điểm này, các nhà truyền giáo thuộc bất kỳ quốc tịch nào, đều phải
đi qua Lixbôn học tiếng Bồ Đào Nha và tuyên thệ phục quyền vua
Bồ, Rôma đã can thiệp đúng lúc.
Lực lượng Bồ Đào Nha bắt đầu suy giảm. Từ đầu thế kỷ XVII,
người Hòa Lan, theo Tin Lành, chẳng quan tâm tới việc Giáo hoàng
phạt vạ tuyệt thông, đã lên đường mạo hiểm sang Ấn Độ Dương và
vùng biển Trung quốc chẳng mấy chốc đã bắt đầu cướp của vương
quốc vạn an đó. Năm 1619 họ lên đảo Java, lập thành Batavin vượt
xa Goa về sự giàu có thịnh vượng. Ngày 12 tháng Giêng năm 1641,
họ chiếm Malắcca, phá vỡ thế độc quyền buôn bán hương liệu mà
Lixbôn từng nắm giữ suốt một thế kỷ qua.
Rôma quay nhìn sang nước Pháp.
Năm 1659, hai giám mục Pháp được phái sang coi sóc địa phận
truyền giáo tại Việt Nam. Đó là giám mục Pan-luy (Pallu) và giám
mục Lămbe đờ la Mốt (Lambert de la Motte). Những điều Rôma căn
dặn họ thật là khôn ngoan và đúng với Tin Mừng: các giám mục khi
coi sóc tín hữu phải căn cứ vào 4 điểm nền tảng sau: a. Đào tạo linh
mục và giám mục người bản xứ; b. Tuân lệnh của Rôma; c. Không
nhúng vào lãnh vực chính trị; d. Tôn trọng các nền văn minh và
phong tục địa phương. “Các ngài cẩn thận giữ mình, đừng ra sức
bảo các dân tộc ấy từ bỏ nghi lễ, tập tục, phong cách của họ, miễn
là điều đó không ngang nhiên ngược với đạo thánh và phong hóa
tốt. Bởi vì có gì vô lý hơn là việc đưa nước Pháp, Tây Ban Nha, hay
nước Ý, hay một phần đất nào của châu Âu vào nhà người dân Trung
quốc? Đó không phải là cái các ngài phải đem vào, hãy đem đức tin
vào, mà đức tin thì không phủ nhận và cũng không gây tổn thương

23
đến các nghi lễ và phong tục địa phương, miễn là nó không phải
chuyện gì xấu xa, trái lại đức tin muốn các nghi lễ và phong tục đó
được bảo tồn”. Cùng lúc, Rôma chỉ thị cho giám mục truyền giáo
chỉ lo việc các linh hồn thôi và hãy quên đi những lợi ích riêng tư
của chính nước họ.

2. NHỮNG VIỆC CHÚA LÀM QUA BÀN TAY CỦA


NGƯỜI PHÁP
Tiếc thay những lời khuyên nhủ đầy tinh thần Tin Mừng và trong
sáng như thế đã bị bỏ lơ quá sớm. Giám mục Pa-luy đã nhanh nhẹn
quan hệ với công ty Ấn Độ mà nước Pháp mới thiết lập, nhằm cạnh
tranh với công ty Đông Ấn với Hòa Lan. Ông trở thành nhà cố vấn
và báo cáo viên của nó. Trong bản báo cáo gởi ngày 14 tháng 3 năm
1667 cho ban giám đốc công ty, ông đề xuất việc sử dụng biện pháp
quân sự chống lại đối thủ: “Tôi chắc rằng sắp tới đây phải rành rõi
với bọn họ (người Hòa Lan), nhất là nếu ta muốn được nếm quế
Xrilanka, hoặc đinh hương của Amboadơ (Amboise) hay đậu khấu
của đảo Banđa”. Ông khuyến khích Công ty của nhà vua tiến hành
thực hiện “phương án vinh quang đưa dân mọi rợ trở lại đạo thánh
và qua đó mà thánh hóa việc thương mại của mình, để vừa mở mang
Giáo hội vừa làm giàu cho nước Pháp”.
Nước Pháp cần mở một thương điểm tại Việt Nam, bởi vì có thể
dựa vào các cố thừa sai: “Ngài có thể tin chắc rằng tại Ấn Độ ngài
sẽ gặp được nhiều người nhiệt tình cho công cuộc phát triển và mở
mang của công ty cũng bằng con số các giám mục, giáo sĩ và tu sĩ,
không những của nước Pháp mà cả các nước khác đang hoạt động
cho sự phát triển đức tin.”
Đứng trước sự ì ạch của Công ty, ngày 2 tháng Giêng năm 1672,
Giám mục Panluy đã viết thư cho Côn-be (Colbert), Thanh tra tài
chánh của Luy XIV rằng: “Đức Cha Lămbe đờ la Mốt đã khéo sắp
xếp các việc ở đây, nên ngài đã được nhà vua ban phép qua trung

24
gian hai vị giáo sĩ giả dạng lái buôn, để ở lại và cho xây cất một
ngôi nhà… với hy vọng là Công ty sẽ có thể đến tiếp nhận một cơ sở,
ngài đã viết về việc ấy, đưa tin cho các ông tổng giám đốc, và đã gởi
cho họ các bản lược trình và khả năng buôn bán tại đó”. Ngài năn
nỉ ông Cônbe lòng đạo đức, “Công việc này chỉ có thể đem lại lợi
ích rất lớn cho Công ty”. Đức Cha Pan-luy còn tính cả việc mở mang
thương mại của Pháp sang tới biên thùy Trung quốc (thư viết cho
Cônbe ngày 26-3-1681).
Không nên xét đoán cách cư xử như thế của các giám mục đầu
tiên qua Việt Nam, bởi vì thời bấy giờ ở Pari cũng như tại Lixbon,
lợi ích các linh hồn đều gắn liền với lợi lộc thương mại với Viễn
Đông. Vì tìm cách hất cẳng Bồ Đào Nha và cạnh tranh với Hòa Lan,
nước Pháp mau mắn cung cấp viện trợ cho Hội Thừa Sai Pari (MEP).
Không kể những đóng góp của Hội Thánh Thể, của Hội Giáo Sĩ và
của một số các bề đạo đức, “Nhà Vua với mỗi vị giám mục một
khoản bổng mãn đời 1000 đồng quan, sau này nâng lên tới 3000”.
Công ty Ấn Độ (điều XIII ngày 16 tháng 2 năm 1669) bảo đảm tiếp
nhận các giám mục “cùng các vị thừa sai, đầy tớ và đoàn tùy tùng
mà không đòi khoản tiền nào cho việc chở hành lý đem theo, việc ăn
uống dọc đường và sẵn sàng cho họ đổ bộ lên tại một hay nhiều điểm
ở Bắc kỳ, Nam kỳ hay Trung quốc tùy ý họ”.
Dầu muốn dầu không, Giáo hội Việt Nam, ngay từ những bước
sơ khai đã dính líu vào những chuyện trần thế này rồi, mà chẳng bao
lâu đã ảnh hưởng tới việc truyền giáo. Bởi vì sắp sửa có những giám
mục được cử làm sứ thần Vua nước Pháp bên cạnh các Hoàng đế
châu Á. Tài năng được làm tông đồ Đức Kitô nơi họ coi như được
đội triều thiên vinh hiển, nhất là tại triều đình Phanarai, vua nước
Xiêm. Công việc sắp xếp về lễ tân phải mất hơn 3 tháng mới xong
cho cuộc tiếp rước hai vị giám mục năm 1673. Vị thủ tướng nhấn
mạnh các giám mục theo đúng nghi lễ triều đình, cởi dép đi chân
không và sụp lạy sát đất. Các giám mục không chịu, bởi vì “họ không

25
được chấp nhận, họ được quyền miễn trừ khỏi những gì có thể
phương hại đến danh dự tôn giáo, của nhân vị mình, cũng như vinh
quang của nước Pháp mà hoàng đế lúc đó mới dành được những
chiến thắng lẫy lừng vang dội đến tận cùng trái đất”.
Tại Việt Nam, mặc dầu có vụ tranh chấp công khai giữa dòng
Tên Bồ Đào Nha, tay chân của Lixbon, và các giáo sĩ người Pháp,
dầu có sự cạnh tranh giữa các thừa sai Pari và tu sĩ các hội dòng
khác, việc truyền giáo đã thâu đạt được những bước tiến đáng kể.
Tuy nhiên sự bành trướng của Kitô giáo lúc đó vấp phải nhiều điều
khó khăn. Thứ nhất, đạo Kitô giáo chống lại việc thờ cúng tổ tiên
vốn là nền tảng của tín ngưỡng dân gian. Người Việt Nam không có
cùng một quan niệm về đạo như các dân tộc thuộc văn hóa Do thái
– Kitô giáo. Ở đây không có quốc giáo, cũng chẳng có thứ tôn giáo
với những điều tín lý minh bạch rõ ràng. Khổng giáo thì không phải
là một tôn giáo chính danh. Trong học thuyết của Khổng tử được
truyền đạt và giải thích bởi môn sinh của ngài tại Trung quốc cũng
như tại Việt Nam, đạo hay đường là một từ dị nghĩa: lúc thì chân lý
tối cao lúc lại có nghĩa là quy luật điều khiển cả vũ trụ, lúc lại biểu
là đạo lý hướng dẫn cuộc sống con người ta. “Đạo không ở ngoài
con người, Khổng tử viết; kẻ nào đặt ra một con đường ở bên ngoài
con người, thì không thể làm nên một con người đích thực. Người
lương thiện chỉ lo biến đổi con người, chỉ có thế thôi.” Người ta dễ
hiểu tại sao đạo Khổng không có kinh, không có bí tích, không kêu
cầu Thiên Chúa. Khái niệm Ông Trời rất mông lung. Nó không chỉ
quyền uy tối cao hay là một vị thần đích thân. Thế nhưng dẫu chẳng
người Việt Nam nào đi theo “tôn giáo Khổng tử”, thiên hạ ai cũng
là của đức Khổng, chẳng những người văn nho quen ngẫm nghĩ các
văn bản cổ điển, hoặc học thuộc lòng để mong được làm quan, mà
cả người nông dân cũng sống theo luân thường của đức Khổng. Cả
nhân dân đều thấm nhiễm nền nhân bản đó, trên cơ sở sự bao dung
đối với tha nhân, lòng trung tín, biết cách luôn luôn giữ thái độ trung
dung, sự can đảm chu toàn phận sự và chỉnh tề đúng với lễ nghi.

26
Mỗi người dân Việt cũng là phật tử cũng như họ thờ đức Khổng.
Ở đây người phương tây bị mất hướng khi đứng trước sự phức tạp
của tình hình đạo Phật ở Việt Nam. Đạo Phật được đưa vào từ phía
Ấn Độ, và một phần lớn qua ngả Trung quốc, đạo Phật một đàng có
phần phụng tự, với những chùa chiền, tượng đài, nghi lễ, sư sãi, đàng
khác là khía cạnh tinh thần (như thiền) thiên văn học và niết bàn.
Với bản chất mềm mỏng, đạo Phật vừa không bất dung vừa không
độc tôn. Trong bối cảnh Việt Nam, nó thừa nhận giá trị của các hệ
tôn giáo khác, lúc đầu vốn chẳng liên quan gì tới nó, như việc tôn
thờ nhà vua, thờ cúng tổ tiên, kinh cầu siêu cho vong linh. Vào thế
kỷ XVII và XVII, Phật giáo xét về mặt chính trị, không còn mạnh
như hồi thế kỷ X và XIV, các vị sư không còn đóng vai trò lãnh tụ
như họ đã làm dưới các triều đại Lý và Trần. Tuy nhiên, mỗi người
Việt Nam có thể tự coi là phật tử, cho dầu không đi Chùa (hơn nữa
việc đi chùa, việc tham dự nghi thức phụng tự không bắt buộc).
Người Việt Nam, vừa là phật tử vừa theo đạo Khổng như thế, vẫn
có thể chấp nhận Lão giáo, một học thuyết triết lý đối nghịch với
Khổng giáo, nhưng lại cũng bổ sung cho nó. Các thầy pháp của Lão
giáo, chủ vốn là phù thủy, chiêm tinh, bói toán. Có thể nói rằng đạo
Lão đã mất đi tính chất của nó và trở nên một dạng mê tín dị đoan
trong dân gian.
Nhưng mặc dầu có sự pha trộn tôn giáo, nghi lễ về tín ngưỡng
khác nhau như thế, người Việt Nam rất tôn trọng sự thờ cúng tổ tiên,
họ coi như là đặc tính riêng của đời sống tôn giáo. Việc thờ cúng này
sát nhập một cách tài tình nhuần nhuyễn vào cả ba tôn giáo đã du
nhập từ ngoài. Nó lan rộng thành một thứ đạo lý không ghi thành
sách, nhưng rất phổ biến khiến toàn dân chấp nhận nó một cách tự
nhiên. Cơ sở uyên thâm của đạo lý này nằm trong hệ thống xã hội
và kinh tế truyền thống, trong đó gia đình không những là sợi dây
tình cảm mà còn là hạt nhân của đời sống, là thành lũy tạo sức mạnh

27
cho mỗi cá nhân, là sợi chỉ linh thiêng nối kết mỗi người thế giới bên
kia không một ai am tường.
Người Việt Nam có thể đón nhận dễ dàng đạo Kitô như họ đã
chấp nhận 3 tôn giáo ngoại lai kia. Nhưng cái khó không thể vượt
qua đối với nhiều người là sự lên án việc thờ cúng ông bà. Hồi đầu,
các linh mục dòng Tên có cho phép tín hữu phục lạy trước bàn thờ
tổ tiên, nhưng các cố thừa sai Pari, các tu sĩ dòng Đa-minh lại chống
đối và cấm đoán điều đó. Cuối cùng, năm 1715 đức Clêmen
(Clément) XI đã kể việc thờ cúng đó là hoàn toàn dối trá và ngược
với Kitô giáo.
Từ đó, có thề hiểu tại sao người Việt Nam tỏ ra đối nghịch với
cái đạo “bất lương” dám từ chối lòng hiếu thảo đối với ông bà và
như thế cũng muốn xóa bỏ tất cả những mối quan hệ của một dân
tộc với một quá khứ của mình. Người Kitô hữu bị coi là những kẻ
phản bội gia tộc, đồng thời là những kẻ phản bội quê hương. Bời vì
Quê hương người Việt Nam cũng đặt nền tảng nơi đạo hiếu vốn làm
cho toàn thể công dân như cùng một gia tộc. Chúng ta không nên
quên rằng theo tục truyền, dân tộc Việt Nam thuở sơ khai đã từ một
bọc trứng nở thành một trăm con.
Cái khó khăn thứ hai thuộc phương diện xã hội học. Trong lịch
sử nước này, tuy lúc này lúc khác đã có nhà truyền giáo phật tử người
Ấn hoặc Trung quốc, song các sư phật giáo cũng như thầy pháp đạo
Lão xưa nay vốn chỉ là người Việt Nam thôi. Vì thế, dân chúng vẫn
cảm giác rằng hai tôn giáo đó đã phát xuất ngay tại Việt Nam. Đối
với Công giáo thì trái lại. Cho tới năm 1668, tất cả các linh mục đều
là người châu Âu. Sau thời điểm ấy, nhà thờ có áp lực của Rôma,
các vị thừa sai đã đào tạo linh mục Việt Nam, nhưng cứ coi họ thuộc
loại cấp dưới, trợ tá thôi. Người Tây cho họ là ngu dốt quá và bắt
linh mục người Việt phải sống theo kiểu Âu Tây. Mặc dầu Rôma đã
cho phép các miền truyền giáo được làm lễ bằng tiếng bản xứ, người
thanh niên Việt Nam cứ phải học xong môn tiến latinh mới được

28
nhận chức linh muc. Tại chủng viện của Hội Thừa sai, thiết lập ở
Thái Lan, trường duy nhất dành cho linh mục Việt Nam học ở thế
kỷ XVII, tiếng latinh là ngôn ngữ bắt buộc phải tập nói mỗi tuần 5
ngày. Một nhà truyền giáo thời đó kể lại cách tự hào về đời sống tại
chủng viện rằng: “Ở đây người ta nói tiếng latinh như tiếng mẹ đẻ:
một vài tháng sau khi đến, người ta thấy một cậu bé chơi trò đánh ô
với bạn cùng tuổi và nói tiếng latinh trôi chảy tự nhiên như tiếng mẹ
đẻ, nhất là khi chúng tức nhau”.
Giáo sĩ được đào tạo kiểu đó hóa ra con người bị bóp méo. Tây
hóa nửa vời, người ấy xuất hiện giữa đồng bào mình như kẻ lai căng.
Đàng khác, đương sự lại mang mặc cảm tự ti đối với bạn học người
Tây. Thành thử từ thế kỷ XVIII, có hai loại giáo sĩ: giáo sĩ hạng bề
trên, gồm các linh mục thừa sai và giáo sĩ hạng bề dưới, gồm các
linh mục bản xứ.
Tình hình thực tế đó bị người lương Việt Nam coi là dấu hiệu
vong thân của người Kitô hữu không thể dung thứ trong thời bình,
mà lại nguy hiểm khi hạm đội nước ngoài đến đe dọa xứ sở.

3. NHỮNG VIỄN ẢNH


Sự sống của Giáo hội vì thế đã bị xáo trộn bởi các cuộc “bách
hại” là những hiện tượng không ăn khớp với bản tính hết sức bao
dung của người dân Việt xét về mặt tôn giáo. Cha Marini cho đó chỉ
là “những cuộc bách hại nhỏ nhoi, những con ruồi quấy rầy, những
con muỗi chọc tức” thôi. Quả thật đúng thế, đã có những cuộc bách
hại, nguyên do là vua chúa hồi đó phải chờ quá lâu các chuyến tàu
đại bác, hoặc do những lời cáo buộc rằng Kitô hữu phạm tội bất hiếu
vì không chịu thờ cúng ông bà, hơn nữa có sự ngờ vực đối với một
thứ đạo do người nước ngoài điều khiển, mang vào những tập tục
ngoại lai và biểu lộ một thái độ bất dung không thể nào hiểu nổi.

29
Sự ngờ vực này nhất định có phần cơ sở thực tế. Thái độ của hai
vị giám mục đầu tiên tới Việt Nam, Giám mục Pan-luy và giám mục
Lămbe đờ la Mốt, cũng như các mưu toan sau này của một số lớn
các vị thừa sai, tạo cơ sở cho một ông quan tên Cương ghi lại trong
Cuốn Tâm thư (XI, 97) mô tả người phương Tây như “những kẻ rất
lanh lợi hăng hái, chỉ nghĩ tới chuyện mỗi ngày chinh phục thêm
những vùng đất mới. Tất nhiên điều đó sẽ làm cho nhà vua (chúa
Nguyễn) tin chắc rằng các nhà truyền giáo phương Tây có mưu đồ
nổi loạn cướp ngôi”. Đó là nguyên do cuộc đàn áp năm 1750. Trước
đó đã có nhiều vụ đàn áp khác, như năm 1686, 1704, 1712, 1715
trong Nam, còn dưới quyền chúa Trịnh ở Hà Bắc lại có các cuộc đàn
áp xảy ra những năm 1721, 1723, 1737, 1745 và 1773.
Trong mỗi cuộc cấm đạo, nhà vua ra lệnh trục xuất các thừa sai
nước ngoài và trừng phạt khi nặng lúc nhẹ các giáo dân “đã vì lầm
lạc hoặc nhẹ dạ bị các thầy Tây lôi kéo lừa bịp”.
Có một cuộc “cấm đạo” đẫm máu hơn xảy ra dưới thời Tây Sơn.
Vào nửa sau thế kỷ XVIII, chế độ thối nát của các vua chúa ở
phía Bắc cũng như Nam đã gây cảnh đói kém khiến các tầng lớp dân
nghèo ta thán. Cuộc nổi loạn hình thành cụ thể dưới sự lãnh đạo của
một nông dân đất Tây Sơn tên Nguyễn Huệ, cùng với hai anh đứng
lên lật đổ chính quyền các chúa rồi thống nhất đất nước thành một
cõi. Tại phía Bắc, vua Lê Chiêu Thống đi cầu viện nơi người Trung
Hoa, còn ở miền Nam thì một người con dòng chúa Nguyễn là
Nguyễn Ánh, lại nhờ quân Thái Lan giúp giành lại vương quyền.
Nhờ áp dụng một chiến thuật chớp nhoáng, Nguyễn Huệ chỉ mất
không đầy một tuần đã đập tan 20 vạn quân Thanh. Tháng Giêng
năm 1789, sau khi đã đánh bại 20,000 viện quân Thái Lan, nhà Tây
Sơn tiến hành nhiều cuộc cải cách xã hội và chính trị và họ đã không
nương tay đối với các cố thừa sai. Nhất là từ năm 1777, khi giám
mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) giám mục thành Adran cai
quản địa phận Đàng Trong, đứng vào hàng ngũ ông chúa đã bị lật
30
đổ. Nguyễn Ánh vì muốn lấy lòng người Tây hầu giúp mình đánh
lui kẻ thù, nên công khai tỏ thiện cảm với các cố thừa sai mà ai cũng
cho là bạn thân của chúa. Điều này khiến anh em Tây Sơn nổi giận
và căm tức, chẳng những đối với các thừa sai nước ngoài, mà cả đối
với tất cả tín hữu Kitô, bị coi như hoàn toàn làm tay sai cho ngoại
bang và cho chúa Nguyễn.

4. GIÁM MỤC BÁ ĐA LỘC


Nguyễn Ánh không lính, không tàu, quay nhìn sang các cường
quốc phương Tây. Ông bắt đầu liên hệ với quân Bồ Đào nha tại
Macao, với quân Hòa Lan tại Batavia và với quân Anh ở Ấn độ đang
sẵng lòng tiếp tay giúp đỡ. Giám mục Bá Đa Lộc không để mất cơ
hội này để vừa giúp đỡ chúa Nguyễn và làm lợi cho nước Pháp đang
trên đà cạnh tranh quốc tế. Nguyễn Ánh phó thác đứa con đầu mới 5
tuổi, với cả ngọc ấn để chính thức nhờ ông đi cầu viện với nước
Pháp. Tại triều dinh Vécxây (Versailies), giám mục trình bày với bá
tước Mông-mô-ranh (Montmorin) một bản thảo lược, làm cả đám
người chính trị lẫn sĩ quan chính quy, đều lấy làm tâm đắc. Ông nêu
ra các lợi ích trong việc nước Pháp can thiệp vào Việt Nam:
Lợi ích thứ nhất: Giả thiết rằng phương pháp chắc ăn nhất nhằm
đánh bại quân Anh tại Ấn Độ là phá hoại hoặc làm suy yếu ngành
thương mại của chúng. Vào thời bình, người Pháp sẽ làm suy giảm
nhiều mức lợi mà quân Anh có thể thu được nơi việc buôn bán với
Trung Quốc, nếu mình tổ chức buôn bán mà nhẹ phí tổn hơn và dành
cho nhiều sự dễ dàng hơn.
Lợi ích thứ hai: Trong thời chiến, sẽ dễ dàng cấm việc buôn bán
đó đối với bất kỳ nước thù địch nào. Bởi vì khi mình tuần tiễu ngay
đầu cửa vịnh, hoặc chắc hơn nữa ngay đầu cửa vịnh. Còn hở là lối
vào cảng Quảng Đông thì sẽ chận được việc ra vào cảng bất cứ tàu
của ai mình muốn chận.

31
Lợi ích thứ ba: Mình sẽ sẽ gặp được tại Nam Kỳ các phương tiện
dễ dàng và ít tốn kém cho việc sửa chữa, sơn lại tàu bè, hoặc đóng
thêm tàu mới.
Lợi ích thứ tư: Mình sẽ gặp được tại đây tất cả những gì cần thiết
để tiếp tế cho hạm đội, hoặc cung cấp cho thuộc địa khác các thứ
nhu yếu phần.
Lợi ích thứ năm: Khi cần thiết, có thể chiêu mộ tại chỗ phu phen,
lính bộ, lính thủy v.v...
Lợi ích thứ sáu: Mình có thể dễ dàng chận đứng quân Anh khi
chúng nó muốn tính chuyện bành tướng sang bờ biển phương Đông.
Các mối lợi ích khác có thể còn quan trọng hơn tuy còn xa xôi...
đòi phải có những cách nhìn rộng lớn hơn, có lẽ lúc này Chính phủ
chưa dễ dàng như thế, thiết tưởng cứ dựa vào những lợi điểm hiển
nhiên trước mắt đã và tạm gác chưa nói tới cái mối lợi về lâu về dài
mới nghĩ tới được.
Nhằm thuyết phục kỹ hơn người Pháp, vị giám mục nhấn mạnh
trong tập Nhật ký về Nam kỳ rằng, biện pháp quân sự là điều thực
hiện đươc dễ dàng: “Dân xứ này hiền lành, rất kỷ cương, khá dũng
cảm. Nhưng bất kỳ ý kiến gì của Tây cũng làm họ sợ. Họ thừa nhận
chúng tôi vượt xa họ về sức mạnh và họ rất sợ chúng ta... Tôi đã thấy
(tại Ấn Độ) trong cuộc chiến vừa rồi, quân lính người Ấn rất sợ quân
người da trắng và chúng không thể chịu nổi khi thấy lính da trắng
tiến gần. Phương chi cái cảm giác khiếp sợ đó và sự thâm tín về sự
yếu kém của họ và sự vượt trổi của ta càng to lớn hơn biết bao, nơi
một nước lần đầu tiên bị quân đội phương Tây đánh bại.
“Bọn lính ngụy (Tây Sơn) có được trang bị súng trường, gươm,
lao, tầm vông vắt nhọn v.v... nhưng chỉ năm tên mới mới có một tên
cầm súng; và lại họ không thành thạo gì trong việc bắn súng và súng
thường là rất dở. Họ chẳng được luyện tập gì và rất rời rạc, không
tập trung. Sau hết, họ chỉ có đại bác trên chiến thuyền, còn trên bộ

32
chẳng bao giờ họ dùng đại bác. Như thế thì dễ thấy ngay rằng, chẳng
cần gì lực lượng lớn lao mới đánh chiếm được cả nước này, nhưng
vị trí của người Pháp trong lúc tới sẽ rất khác. Nhà vua hợp pháp
(Nguyễn Ánh) cũng còn nhiều người phò theo (...)
“Tóm lại, có quân Pháp tại Nam kỳ sẽ chắn chắn cho phép thay
đổi được cán cân ảnh hưởng lớn lao của nước Anh... cho ta nắm
được tất cả các mặt biển vùng Trung Hoa và các quần đảo; có thể
làm chủ tình hình cả ngành thương mại trong vùng thế này này.”
Nhờ Giám mục Bá Đa Lộc, một hiệp ước đã được ký kết ngày
28-11-1787 theo đó vua nước Pháp hứa viện trợ quân sự cho Nguyễn
Ánh và ông này đáp lễ lại bằng việc nhượng lại cho nước Pháp Côn
Đảo và cửa Hội An (Quảng Nam Đà Nẵng).
Từ lâu, người phương Tây, Anh, Hòa Lan, đã từng coi Côn Đảo
là một địa điểm thuận lợi để thiết lập một thương điểm và một căn
cứ quân sự, vì từ hòn đảo này, có thể kiểm soát việc tàu bè qua lại từ
Xiêm sang Trung Quốc.
Các khó khăn chính trị nội bộ đã không cho phép nước Pháp gửi
lực lượng quân sự qua, như đã hứa trong hiệp ước Vécxây. Nhưng
Bá Đa Lộc không nản lòng. Với tài chính của Hội Truyền giáo Pari,
với sự ủng hộ tiền bạc của bạn bè và với các phương tiện của bản
thân, giám mục đã mua tàu, trang bị khí giới và thuê một số sĩ quan
người Pháp. Như vậy ông tính giúp được Nguyễn Ánh đè bẹp Tây
Sơn sau một ít năm chinh chiến.
Được tin giám mục trở lại, có sĩ quan Pháp tháp tùng, anh em
Tây Sơn rất tức giận. Người ta đọc được lời thổ lộ sau đây của một
nhà viết sử truyền giáo: “Các quan Tây Sơn càng tỏ ra gay gắt với
Kitô giáo từ khi giám mục thành Ađran trở lại, làm cho họ ngờ vực
người Kitô giáo và nhất là các vị thừa sai, cả hai đều ra sức hỗ trợ
cho nhà vua hợp pháp (Nguyễn Ánh mà các nhà thừa sai công nhận
là vua hợp pháp, còn Tây Sơn thì bị gán cho tội phản loạn) được trở

33
lại ngai vàng vua cha. Sự bách hại, vốn chưa hề dứt từ 30 năm qua,
đã tái phát dữ dội hơn năm 1798.”
Thực ra đây chẳng chỉ có vấn đề ngờ vực, mà là một điều chắc
chắn. Vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn đã có lần chận bắt một bức thư
Nguyễn Ánh gửi cho giám mục Labarlette, xin Đức Cha tổ chức một
đạo quân gồm người tín đồ Kitô giáo tại chỗ, hầu hỗ trợ cho lực
lượng quân Pháp chỉ huy đánh từ ngoài vào.
Sau hết, Nguyễn Ánh đã lên ngôi năm 1802, lấy tên Gia Long,
lập nên nhà Nguyễn, Huế được chọn làm kinh đô. Các nhà thừa sai
đang chờ đợi được Gia Long ban cho đặc ân. Nhưng triều đình Huế
vẫn tảng lờ các yêu cầu của các giám mục Pháp. Một mặt, Gia Long
và vua kế tiếp không chấp nhận cho người Việt lại đi theo một tôn
giáo vốn cấm việc thờ cúng tổ tiên, song truyền bá những chuyện dị
đoan ngoại lai và do những người phương Tây cai quản.
Theo số thống kê năm 1800, thì hồi ấy con số người Công giáo
đã lên tới 320 ngàn, với 119 linh mục Việt Nam chịu sự cai quản của
115 thừa sai và 3 giám mục, trong đó 2 người Pháp và một Tây Ban
Nha.
Đàng khác, các vua nhà Nguyễn, đã mang sẵn nỗi âu lo về chủ
nghĩa đế quốc phương Tây, đang ngày càng de dọa nghiêm trọng
hơn. Nước Anh củng cố quyền thống trị trên Ấn Độ, bằng cách thôn
tính châu Úc và Tân Tây Lan và sắp sửa áp đặt ý muốn của họ trên
Trung Quốc sau trận chiến thuốc phiện. Nước Pháp đã chiếm Angiêri
và đang đi tìm căn cứ trên bờ biển Trung Quốc. Dĩ nhiên các nỗi lo
âu ấy không phải là cớ chính đáng cho các cuộc bách hại thời Minh
Mạng (1833 và 1838). Theo các sắc chỉ nhà vua, “đạo của bọn Hòa
Lan” là một tà đạo, một đạo bất nhân, cấm đoán việc thờ cúng tổ
tiên, một thứ đạo gieo hỗn loạn vào phong tục và trật tự của nước
nhà. Nhà vua ra lệnh cấm không cho thừa sai xâm nhập và xử tử
những ai ngoan cố tiếp tục truyền bá Kitô giáo.

34
Có thể tránh được các vụ đổ máu này, nếu Kitô giáo đến Việt
Nam, biết tỏ ra bao dung hơn, cởi mở hơn, biết bám rễ sâu hơn vào
văn hóa xứ sở và khôn khéo hơn. Trong các cơn bão táp này, các cố
Tây đã không khôn ngoan, đi cầu cứu với Pháp, vốn là một đế quốc
đang chực sẵn cơ hội tốt hòng xâm chiếm Việt Nam, vịn cớ là để bảo
vệ sự tự do tôn giáo.
Ngày 25 tháng 2 năm 1843, thiếu tá Phavanh Lơvéc (Favan-
Leveque) chỉ huy chiến hạm Hêrôn được thư cố thừa sai Samedông
(Chamaison) đưa tin rằng, chính quyền Việt Nam đang giam 5 thừa
sai Pháp tại nhà ngục Huế, bèn đưa chiến hạm tới đòi phải thả họ ra.
Hai năm sau, tư lệnh hải quân Phocniê Đaypoơla (Forniel-Dupla)
thừa lệnh Đô Đốc Xêxin (Cécile) đến Turan (Tourane, tức Đà Nẵng)
đòi triều đình phải thả giám mục Lơphevơrơ (Lefévre) đang bị giam
với bản án tử hình. Năm 1847 thiếu tá chỉ huy tàu Lapierơ (Lapierre)
lại can thiệp đòi thả giám mục Lơphevơrơ, đã bị bắt lại và bị kết án
tử hình lần thứ hai. Song trong khi các cuộc thương lượng nói trên
đang được tiến hành, thì hai chiến hạm Pháp đã đánh chìm 5 tàu
chiến Việt Nam. Theo thông tấn Pháp, thì tàu Việt Nam đã tấn công
chiến hạm Pháp trước, nhưng điều đó khó mà xảy ra, bởi vì tàu Việt
Nam lúc đó chỉ là những chiếc ghe được trang bị bằng súng nhỏ thôi.
Vua Thiệu Thị tức giận, ra 4 sắc chỉ cấm đạo trong những tháng
sau đó. Các tín hữu Việt Nam lại một lần nữa làm nạn nhân của thái
độ người Pháp, mệnh danh là đem đến cho họ quyền tự do thờ cúng!
Tiếc thay, các cố Tây không rút ra được bài học từ kinh nghiệm
bi thương đó. Lúc này, trong hạm đội Pháp rải khắp vùng biển Trung
Quốc, các vị thừa sai Pháp ngày càng tin chắc rằng họ phục vụ lợi
ích của đất nước họ, và cũng làm lợi cho đạo, khi họ yêu cầu nước
Pháp can thiệp quân sự vào Việt Nam. Quả thực, làm sao nước Pháp
có thể bỏ rơi việc này? Năm mươi năm trước đó, trong những giờ
đen tối của Giáo Hội Pháp, khi các tu sĩ Pháp bị trục xuất, giải tán,
khi mà các hội Dòng đều bị cấm đoán tại Pháp, họ gặp được những

35
kẻ bênh vực cho công lao của họ một cách danh chính ngôn thuận.
Chỉ cần đọc bản báo cáo của Poctalix (Portalia) ngày 6-11-1802 thì
đủ rõ tâm tình của nước Pháp, bài giáo sĩ, tỏ ra thế nào với các cố
thừa sai như sau:
“Những sự dễ dàng mà các vị thừa sai đã có được để thiết lập
các thương trấn tại những miền đất xa xôi nhất, đã mở rộng cửa cho
họ khuếch trương ngành thương mại của nước ta, mở ra những tuyến
giao lưu mới và chuẩn bị khơi nguồn cho nhiều tài sản mới. Họ là
những vị thừa sai đã mang tới mút cùng trái đất, cái tên vinh quang
của nước Pháp, đã phát triển ảnh hưởng của Pháp và cho nước Pháp
có được những quan hệ mới với các dân tộc mà bấy lâu thiên hạ
chưa hề biết tới. Chính các vị thừa sai này đã đem lại cho chúng ta,
mỗi lần họ về thăm gia đình, những hiểu biết về nghệ thuật và khoa
học. Chính các vị thừa sai đã nâng lên số lượng các phương tiện
sinh sống của chúng ta, bằng cách thích ứng tại nước mình các sản
phẩm vốn là hoa quả của miền đất khác, thuộc khí hậu khác... Chính
các nhà thừa sai Pháp, từ năm 1660 đã giúp cho nước Pháp biết
được những mối lợi quan trọng có thể thu được, từ các quan hệ với
các dân tộc châu Á và năm 1669 đã tạo cơ sở hầu thiết lập nên Công
ty Ấn Độ đầu tiên của Pháp. Họ đã xin được vua Xiêm chấp thuận
cho tàu bè Pháp khỏi đóng thuế cập bến bỏ neo và cũng chính các
vị ấy đã thuyết phục nhà vua cho một cửa khẩu và một hòn đảo gần
Mécghi (Merguy) trong vịnh Bănggan (Bangale) để tàu thuyền qua
mùa đông, hoặc sửa chửa. Vì thế, chính sách nhà nước chớ coi
thường các tổ chức (tôn giáo) có khả năng đóng góp hữu hiệu đến
thế cho sự phồn vinh của quốc gia.”
Bài ca ngợi đó đã được đọc lên do một nhân vật rõ ràng không
thể bị ngờ vực là bợ đỡ cha cố hoặc có lòng đạo đức gì lắm. Nó tỏ ra
cho thấy rõ các thực tế lịch sử và những lợi lộc về kinh tế cũng như
chính trị, nhờ hoạt động của các cố thừa sai. Nhưng giữa thế kỷ XIX,
nghề buôn bán đã bị vượt xa bởi nhu cầu bành tướng thuộc địa. Châu

36
Âu kỹ nghệ hóa cần có thị trường tiêu thụ và nguyên liệu. Lợi dụng
vụ tàn sát một vài vị thừa sai Pháp ở Việt Nam, cánh hữu tư sản Công
giáo Pháp đã làm áp lực để chính quyền đệ nhị cộng hòa khai thác
các điều vụng về của nhà vua Việt Nam, hầu đánh chiếm nước này.
Ơ-gen Vơi-do (Eugene Veullot) đã viết: “Quyền lợi con người mà
châu Âu Kitô phải bắt buộc các dân mọi rợ tôn trọng và việc quan
tâm bảo vệ danh dự của chúng ta, đòi chúng ta phải trả thù cho các
vụ xâm phạm đến đồng bào chúng ta tại đất Annam.”

5. THẬP GIÁ VÀ LƯỠI GƯƠM


Hai nhân vật quan trọng trong việc cổ vũ việc Pháp xâm lăng Việt
Nam là giám mục Pelơranh (Pellerin) cai quản địa phận Huế và linh
mục Huc, cựu thừa sai truyền giáo. Giám mục Pelơranh đã khẳng
định trước mặt triều đình Napôlêông III rằng: “Nếu quân Pháp đánh
chiếm nước này, thì giáo dân bản xứ sẽ tiếp đón họ như những kẻ
cứu tinh”. Linh mục Huc cũng viết thư cho vua rằng: “Chiếm lấy
Nam kỳ là việc dễ dàng nhất trần gian, nó sẽ đem lại những kết quả
vô cùng to lớn. Nước Pháp hiện có tại biển Trung Quốc những lực
lượng dư sức để tiến hành công việc đó. Dân bản xứ thì hiền lành,
siêng năng, rất dễ đón nhận đức tin Kitô giáo và đang rên siết dưới
ách tàn bạo ghê tởm. Họ sẽ tiếp đón chúng ta như những người giải
phóng, những vị ân nhân. Chỉ cần ít lâu thôi là đem họ theo đạo được
hết và làm cho họ nhiệt tình yêu mến nước Pháp”.
Chưa từng có luận điệu tuyên truyền tài tình tinh vi mức ấy! Bọn
tư bản gặp được nơi những lời khẳng định lặp đi lặp lại đó, những
công cụ hầu đánh lừa nhân dân Pháp. Đám quân sự hoan hỉ lao vào
những cuộc viễn chinh dễ dàng như thế.
Năm 1856, thiếu tá M. đơ Môngtinhi chỉ huy chiến hạm
Lacaprixơdơ (La Capricieuse) tới Đà Nẵng, với mục đích đòi vua Tự
Đức nhường hải khẩu đó cho Pháp, để cho người Pháp được hoàn
toàn tự do buôn bán trên khắp cả nước và tự do giảng đạo Công giáo.

37
Viên thuyền trưởng tiếp giám mục Pelơranh cai quản địa phận Huế
tại chiến hạm của ông. Giám mục lên tàu cung cấp cho ông các tin
tức tình báo và nhân danh toàn thể các thừa sai tìm hiểu xem mục
đích thật chiến hạm tới đây làm gì. Tự Đức không muốn nhượng bộ,
còn Đơ Môngtinhi lại không có đủ số quân để chiếm cả nước, hoặc
trừng phạt kẻ thù theo lời thỉnh cầu của các thừa sai. Chiến hạm
Lacaprixơdơ rời Việt Nam mang theo giám mục Pelơranh, người cổ
vũ chủ chốt việc Pháp xâm chiếm Việt Nam.
Cử chỉ của Đơ Môngtinhi gây phản đối khắp nơi từ phía các cố
thừa sai. Các ông này gửi về Pháp những bức thư tỏ thái độ tức giận.
Giám mục Roto (Retoro) viết trong thư đề ngày 24-6-1857: “Chưa
bao giờ gặp phải một thất vọng ê chề như thế: Phần chúng tôi phải
nói rõ thôi, chúng tôi đã se cả tấm lòng mình lại, khi trông thấy cả
tòa nhà hy vọng mình ôm ấp trân trọng đã sụp đổ nhanh như thế, rồi
nghe lặp đi lặp lại bên tai người Pháp chúng tôi những lời hết sức
khó chịu, chẳng hạn: Bọn họ kéo tới mà mình có mời đâu, rồi họ bỏ
đi sau khi làm hại chúng mình... Hậu quả của tất cả việc đó là gì?
Là đem chúng tôi ném vào răng cọp, sau khi đã chọc tức nó mà hại
chúng tôi.” Và chính giám mục kể trên lại kêu lên trong một bức thư
khác: “Chúng tôi đã hy vọng biết bao khi mới nghe tin cuộc hành
quân sắp tới nơi, để đòi cho chúng tôi cách này hay cách khác một
sự bình an và sự tự do hoàn toàn, để báo thù cho danh dự nước Pháp
đã bị xúc phạm quá lâu nay rồi... Thất vọng biết chừng nào thật ê
chề khi biết chắc chắn rằng lính Pháp đã chẳng chịu làm gì hết
trơn.”
Và linh mục thừa sai Têôphan Vêna (Théophane Vénard), rồi đây
được phong Á thánh như một vị thừa sai lừng danh nhất của Hội
thừa sai Pari và của Việt Nam, đã viết cho thân phụ hồi tháng 6 năm
1857 như sau: “Dân chúng cả nước, lương cũng như giáo, đều vỗ
tay và tỏ lòng hoan hỉ, nhưng nghĩ rằng ông vua tàn bạo của họ sắp
bị truất phế. Nhưng thấy quân đội Pháp chúng ta chỉ tạo ra nguyên

38
chuyện lạ thôi, rốt cùng họ bị dân chúng chế diễu, còn chúng con thì
chỉ lãnh đủ sự ô nhục, những người thừa sai nghèo hèn, những đứa
con của nước Pháp, một vương quốc cao sang.
Các cuộc viễn chinh hèn nhát kiểu đó chẳng xứng đáng chút nào
với nước Pháp, vốn mang một quả tim quảng đại đến thế. Nếu nước
Pháp chịu làm việc gì trước thế giới, thì phải làm một cách vĩ đại
mới hợp với bản chất vĩ đại của nó.”
Quả đúng, qua cuộc hành quân kể trên, quân Pháp đã làm Tự Đức
nổi giận lôi đình. Một sắc chỉ cấm đạo ngặt hơn, tàn bạo hơn, đã
được đưa ra đàn áp, nhằm mục đích phá hủy toàn bộ hạ tầng cơ sở
của cái tôn giáo cấu kết quá chặt chẽ như thế với quân Pháp. Vua đã
sai lầm khi đánh giá tình hình ngoài mặt, không nghĩ tới nguy cơ sắp
đổ xuống trên đất nước mình. Phần vua Nepôlêông III, chịu sự áp
lực của giám mục Pelơranh từng hứa rằng tất cả tín hữu người Việt
sẽ hợp tác tới toàn diện với quân Pháp, vua cũng nghi vị giám mục
đó và vị thừa sai khác giải thích cho hiểu rõ tình hình lực lượng quân
sự và các điểm chiến lược của Việt Nam, nên đã ủy nhiệm cho phó
đề đốc Rigê đơ Giơnuiy (Rigault de Genouilly) đánh chiếm Việt
Nam. Ông này đã nhận được lời mời giám mục Rơto căn dặn như
sau: “Nếu Ngài đô đốc muốn thực hiện công việc một cách vững
chắc, bền bỉ, vừa đem lại vinh dự cho nước Pháp, vừa làm lợi ích
cho nước Pháp, hoặc là đặt một ông vua có đạo dưới quyền bảo hộ
của nước Pháp để ta chiếm giữ hải cảng và các hòn đảo vịnh Turan
(Đà Nẵng) một cách vĩnh viễn.”
Trên chiến hạm Nêmêdix (Némésis), Rigô đơ Giohuiy có giám
mục Pelơranh bên cạnh, đảm bảo việc giao liên với các thừa sai và
tín đồ kitô, vốn được chỉ thị cung cấp cho đô đốc các tin tình báo về
vị trí các đội quân Việt Nam và các vụ chuyển quân. Được vị giám
mục đảm bảo rằng hễ trông thấy hạm đội hùng mạnh của Pháp và
Tây Ban Nha tới (bởi vì quân Tây Ban Nha ở Manila đã phái một
trung tá để tham dự cuộc hành quân "trừng phạt" với Pháp) thì tất cả

39
dân chúng giáo lương sẽ nổi loạn chống nhà vua và việc đánh chiếm
nước này chỉ là việc làm vài ba hôm và đô đốc Rigơ đơ Giơhuiy bèn
triển khai đội hình 14 chiến hạm ngay trước vịnh Turan. Nhưng đã
xảy ra bất đồng về chiến lược giữa giám mục và phó đô đốc. Do
thiếu kết hợp các tin tình báo và chiến thuật, quân Pháp đã bắn phá
cảng Turan ngày 31-8-1858 nhưng rồi do dự không muốn về thủ đô
Huế đang được bảo vệ bởi những tướng lãnh giỏi nhất của Việt Nam.
Bỏ lại Turan một đơn vị đóng chốt, Đơ Giơhuiy xuống đánh
chiếm Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Sài Gòn thất thủ,
nhưng cuộc kháng chiến được tổ chức tiếp tục xung quanh các vùng
đất bị chiếm đóng, tạo vòng vây phong tỏa tiếp viện. Binh lính Pháp
có thể chết đói tại đây, nếu giám mục Lơfevơrơ đã không kịp thời
vận động giáo dân tiếp viện.
Năm 1860, cuộc hành quân Pháp-Anh đánh Bắc Kinh bắt buộc
quân Pháp phải tạm hoãn công việc chinh phục Việt Nam. Vua Tự
Đức lợi dụng thời hạn đó để tổ chức tự vệ. Vua nói: “Cần phải diệt
tận gốc cái đạo tàn ác kia đi, bởi nếu không có bọn tín đồ, thì lũ
quân man rợ phương Tây sẽ không có ai phù giúp không nhận được
tiếp tế gì hết. Thiếu tiếp viện thì chúng phải rời khỏi nước ta thôi.”
Nhưng, sau sự thất bại ở Bắc kinh, quân Pháp quay lại mạnh mẽ
thêm và quyết tâm đánh chiếm toàn bộ nước Việt Nam. Trước hỏa
lực quá mạnh của địch, nhà vua đã phải ký hòa ước ngày 5 tháng 6
năm 1862, nhượng cho nước Pháp 3 tỉnh, bồi thường chiến tranh 20
triệu tiền Pháp và ban bố tự do thờ cúng cho người Công giáo.
Trong việc tổ chức cai trị các vùng đất chiếm được, bọn quân
Pháp chiêu mộ người hợp tác, nhưng theo lời đô đốc Riơniê
(Rieunier), chúng chỉ gặp được “tín đồ kitô hoặc những tên vô lại”.
Bốn ngàn giáo dân đến quây quần xung quanh bọn xâm lược. Thật
dễ đoán biết sự tức giận phẫn nộ không những của triều đình Huế
mà cả trong dân chúng người “lương” nổi lên cao độ chừng nào. Các

40
sắc chỉ cấm đạo công bố giữa năm 1859 và 1861 là gay gắt và
nghiêm khắc nhất từ trước tới nay.
Sắc chỉ 17-1-1860 truyền phải phân tán người Công giáo tới sống
xen ở giữa các làng người lương, để mỗi tín đồ phải có 5 đồng bào
lương kiểm soát. Tất cả các làng và nơi thờ tự của Công giáo phải
triệt hạ; tài sản của người Công giáo phải bị tịch thu và sau hết phải
khắc chữ TÀ ĐẠO lên má các tín đồ.
Sau hòa ước 1862, Tự Đức công bố ân xá khắp cả nước. Nhân
dịp kỷ niệm ngày sinh của vua, vua ra lệnh tha cho tất cả các tín hữu
kitô đang bị tù, cho những người bị phân sáp trước đó được trở về
làng cũ, được nhận lại tài sản của họ, nhà cửa, ruộng đất, và còn
được miễn thuế và được sống yên thân.
Tại Nam kỳ, trừ tín hữu kitô và những tên xu thời, nhân dân các
vùng bị chiếm đóng đều tổ chức kháng chiến chống Pháp, dưới sự
lãnh đạo của những nhà chí sĩ yêu nước xuất thân từ quần chúng.
Đây là loại chiến tranh du kích, được tiến hành vừa táo bạo vừa rất
tài tình. Trong cuốn sử viễn chinh Nam kỳ, Panluy đơ la Berierơ
(Pallu de la Barriere) mô tả theo điều tai nghe mắt thấy như sau:
“Thực tế là đâu đâu cũng có các ổ kháng chiến, nó chia nhỏ li ti ra,
có thể hầu như nói được rằng mỗi người An Nam là một ổ kháng
chiến. Đúng hơn, phải kể mỗi người nông dân đang bó lúa là một
điểm du kích! Và chiến thuật này khiến quân lính Pháp chẳng còn
biết đâu mà mò. Thật không có màn kịch nào buồn tẻ hơn, đơn điệu
hơn, mệt mỏi hơn cái thảm cảnh quân lính Pháp ở trên đất cũng như
nơi mặt biển. Một tên địch mình trông thấy hoài, nhưng một tên khác
lại ngụy trang giấu mặt. Cứ thấy kẻ thù luôn luôn thoát khỏi tầm tay,
khiến có cảm tưởng như chúng ta chỉ bắn vào không khí.”
Trước cuộc nổi dậy khắp nơi như thế, quân Pháp bèn tổ chức tiến
công và chiếm đóng toàn bộ Nam kỳ vào năm 1867. Song dầu thấy
quân địch thu được những chiến thắng cách chớp nhoáng và quan
trọng như thế, du kích quân người Việt vẫn không bỏ cuộc kháng
41
chiến. Và bởi xác tín rằng người Công giáo đồng lõa với bọn xâm
lược, họ cũng coi luôn tín đồ là kẻ thù của mình. Theo ông Nguyễn
Đình Chiểu, một nhà thơ Việt Nam yêu nước, thì “dân chúng bị tiêm
nhiễm phải cái đạo tà nên kẻ thù xâm chiếm nước nhà mà chẳng ai
chống cự lại”. Và nhà thơ này cũng liên tưởng đến các chiến công
của kháng chiến vốn chỉ được trang bị thô sơ, đã viết trong bài thơ
phúng điếu các chiến sĩ Cần Giuộc như sau: “Hỏa pháo chỉ dùng
ngọn đuốc rơm, đã đủ thiêu rụi một chủng viện. Dùng cây dao làm
kiếm, cũng chặt được đầu tên thiếu úy.”
Ở đây, nên ghi nhận cái ý tinh vi của vần thơ Việt Nam, đặt chủng
viện thừa sai song song với thiếu úy thực dân. Thời gian này, tại Sài
Gòn đã bị chiếm, các Hội thừa sai tổ chức xây dựng trường học, tu
viện, nhà thương theo kiểu phương Tây.

6. GIÁM MỤC PUY-GI-NIÊ


Sau khi đã chiếm xong toàn bộ Nam kỳ, quân Pháp vội vàng đi
thăm dòng sông Mêkong, mục đích là tìm một đường giao thương
với Trung Quốc. Họ thấy ngay, không thể ngược dòng sông này lên
tới Trung Quốc. Họ bèn quyết định cho tàu đi ngược dòng sông Hồng
ở Bắc kỳ.
Năm 1873, Giăng Đuypui (Jean Dupuis), một tay mạo hiểm
Pháp, vịn cớ phải ngược dòng sông Hồng để bán vũ khí cho người
Hoa, đã chống lại lệnh cấm của nhà cầm quyền Việt Nam. Thiên hạ
biết rằng y đã nhận được tiếp viện hùng mạnh của đô đốc Đuyporé
(Dupre) thống sứ Nam kỳ thuộc địa Pháp kể từ 1868. Trong một thư
gửi giám mục Xôhiê (Sohier) địa phận Huế ngày 6.10.1873, y thổ
lộ: “Hẳn đây là vấn đề đặt cơ sở cho ảnh hưởng Pháp dọc bờ sông
Hồng và chuẩn bị cho một cuộc đổ bộ cả Bắc kỳ luôn”. Quả là một
thách thức đối với chính quyền Việt Nam.

42
Theo tin tình báo nhận được từ các thừa sai tại Bắc kỳ, quân Pháp
nắm được tình hình chính trị của miền Bắc Việt Nam, Lê Bảo Phụng,
từng bí mật quan hệ nhiều với quân Pháp, đã tổ chức một cuộc bạo
loạn gây bất ổn cho xứ sở. Đàng khác, các toán quân Cờ Trắng, Cờ
Vàng, Cờ Đen người Hoa cướp phá khuấy nhiễu nhiều vùng tại đất
Bắc. Những bọn này trước kia ở trong quân đội của Tai Pinh, nhưng
rồi đã bị quân chính quy Trung quốc săn đuổi. Nắm vững tình hình
đó nhờ các cố thừa sai, quân Pháp tìm cách để nhảy vào. Cớ đây rồi:
Đuypui bị các nhà cầm quyền Hà nội bắt giữ. Đuypơrơ phái
Phrăngxít Gácniê (Francis Garnier) dẫn một hạm đội tiến ra. Tới Hà
Nội, Phrăngxít Gácniê đơn phương ra lệnh thả Giăng Đuypuy, phải
mở sông Hồng cho tự do giao thông và bãi bỏ quan thuế ở đây. Đứng
trước khước từ của nhà cầm quyền Việt Nam, Gácniê đánh chiếm
Hà Nội ngày 19.11.1873. Ông bắt liên lạc ngay với giám mục
Puyginiê: “Thưa đức cha, không ai am tường Bắc kỳ bằng Đức cha
và đức cha lại có lòng yêu mến nước Pháp. Đức cha có vui lòng giúp
tôi củng cố những gì chúng ta đã chiếm được bằng cách chỉ cho tôi
những người bản xứ có khả năng cai trị dưới quyền tôi không?” “Dĩ
nhiên sự hợp tác của giám mục Hà nội là điều đã ăn chắc từ trước
rồi. Khi ngọn cờ Pháp xuất hiện ở Bắc kỳ, giám mục mừng vui sung
sướng. Ngài ra sức giúp quân lính chúng ta tất cả những việc gì có
thể thích hợp với vị trí một giám mục thừa sai tại Bắc kỳ”, sử gia đã
ghi rõ như thế trong cuốn sử về cuộc đời giám mục. Giám mục đã
đoan chắc binh lính rằng ông có thể nhập ngũ dưới ngọn cờ của kẻ
chiến thắng, bởi vì ngọn cờ này là cờ nước Pháp. Nhờ người Công
giáo, Phrăngxít Gácniê đã chiếm được Nam Định, Hải Dương và
những vùng khác thuộc đồng bằng sông Hồng một cách nhanh
chóng. Nhưng, mặc dầu được giám mục bảo là phải cảnh giác,
Gácniê đã bị giết ngày 21.12.1873 trong một cuộc phục kích tại Cầu
Giấy. Đám tang của y được cử hành trọng thể bởi giám mục Puyginiê
với hai giám mục Pháp khác.

43
Chiến thắng và cái chết của Phrăngxít Gácniê đã gây ra sau đó
những cuộc bắt đạo dữ dội. Theo tài liệu của chính quyền Nam kỳ,
mỗi lần quân đội Việt Nam bị thất bại, thì dân chúng người lương lại
thêm căm thù dân công giáo: “Nhiều cuộc tàn sát đốt làng đã theo
sau vụ Nam Định bị quân Pháp đánh chiếm ngày 9.12.1873. Tại các
tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Hà Nội những cảnh đó trở nên rất tàn
bạo, khi người ta nghĩ rằng sau cái chết của Gácniê quân Pháp có
thể rời bỏ Bắc kỳ.”
Chẳng cần nhấn mạnh liên hệ nhân quả ở đây, tài liệu trên kể
thêm rằng: “Cơn bắt đạo xảy ra sau sự rút lui của chúng tôi khỏi
Bắc kỳ đã không hoành hành trong các địa phận thuộc Dòng Đa-
Minh Tây Ban Nha cai quản. Các thừa sai của họ vẫn được tự do
tương đối và đã được đối xử khoan hồng. Giám mục (Côlomer) đã
được vua Tự Đức cấp cho đất xây nhà thờ và nhiều huân chương
vàng bạc tưởng thưởng họ, vì đã đóng góp tốt cho việc giữ gìn trị an
trong các tỉnh mạn đông sông Cái (tức sông Hồng).”
Trong một tài liệu song song - truyền đơn do các chí sĩ Nghệ Tĩnh
tung ra năm 1871 - người ta đọc thấy những lời tố cáo thừa sai như
sau: “Từ bên ngoài, từ bên trong, bọn chúng (người Tây) gặm dần
đất nước ta như tằm ăn dâu: nhà thờ mọc lên, dân chúng theo đạo,
rõ ràng là nguy cơ trước mắt đó, đất nước ta đang bị xói mòn dần,
ngay dưới bàn chân.”
Cho tới ngày chết, 25.4.1892, giám mục Puyginiê chẳng bỏ qua
bữa nào mà không hoạt động để củng cố thêm vị trí nước Pháp tại
xứ sở con nuôi này của ông. Người ta đang giữ được hàng chục điệp
văn và bản tin tình báo mang chữ ký của ông trong văn khố của Bộ
thuộc địa. Và một phần nhờ các bản tin đó mà quân Pháp đã có thể
dập tan cuộc kháng chiến vũ trang của người Việt Nam. Cuộc kháng
cự hùng mạnh nhất đã xảy ra tại Ba Đình, Thanh Hóa, dưới sự chỉ
huy của Đinh Công Tráng. Bề ngoài, đó là một loại làng được biến
thành căn cứ, được lũy tre bảo vệ, có thành, có đường hầm và hệ

44
thống giao thông hào được bố trí rất thông minh. Tinh thần các chiến
sĩ lúc đó rất cao. Nhằm "bình định" cứ điểm này, quân Pháp đã gửi
tới một lực lượng gồm 2250 tên lính, 25 đại bác, 4 pháo hạm dưới
quyền chỉ huy của trung tá Métxanhgiê (Metzinger). Cuộc tấn công
ngày 16-12-1886 bị đẩy lùi. Quân Pháp phải tổ chức bao vây để tìm
hiểu chiến thuật mới. May cho chúng, vì có một sĩ quan trẻ, đại úy
Giôphơrơ (Joffre sau này là thống chế Pháp trong chiến tranh thế
giới thứ nhất) nghĩ tới việc nhờ linh mục Trần Lục, quản xứ Phát
Diệm và là Phó vương, tiếp trợ cho cuộc bình định các tỉnh Thanh
Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Ông linh mục này đã nhận phép lành của
giám mục Puyginiê, rồi đi tiếp viện cho quân Pháp với 5000 giáo
dân, Ba Đình đã thất thủ.
Thật đau lòng cho một sử gia người Việt Nam Công giáo khi phải
nhắc lại những năm tháng ấy, thấy quân đội Pháp hành quân "bình
định" chỉ được nghỉ ngơi trong các làng giáo: “Sau một cuộc hành
quân mệt rã rời, quân lính của ta kiệt sức vì thiếu ăn, mà tiến vào
một làng người lương thì thường chỉ được ăn đạn. Nhưng nếu gặp
được làng người Công giáo thì trẻ con chạy ra đóng đường và kêu
ầm lên: Công giáo, công giáo đây! để quân chúng ta biết rằng chẳng
có gì phải sợ ở đó, rồi dân làng đem chuối, trứng, gà ra chiêu đãi.
Sự khác biệt thật rõ ràng và là điều đáng ghi nhớ nhỉ?” Những dòng
trên đây chẳng phải do một bàn tay Cộng sản ghi lại, mà là do một
tu sĩ dòng Tên đã say sưa thích thú về thái độ của người có đạo kitô
lúc đó nghĩ rằng bổn phận của họ là phải hợp tác (với Pháp) vì mình
là người Công giáo (F. Rouvier, Loin du Pays, Paris, 1896, tr. 103-
104).
Cụ Phan Bội Châu, một chí sĩ yêu nước, đã gửi cho họ những lời
tâm huyết trong cuốn Việt Nam vong quốc sử, xuất bản năm 1905
như sau: “Có một hạng người mà tổ tiên là Việt Nam, nhưng đã cùng
vợ con trở thành tín đồ kitô. Này, hãy nghe tôi nói. Chúng ta đều
sinh ra trong cùng một xứ sở, chúng ta cùng sống với nhau dưới gầm

45
trời, cùng ăn một thứ cơm gạo... Bởi thế, chúng ta phải liên kết với
nhau hầu bảo vệ giống nòi, hơn là quì gối trước mặt quân thù. Sau
cái chết của các ngươi, có thể các ngươi lên thiên đường, nhưng bây
giờ đây, các ngươi phải cầu nguyện cho hòa bình; cuộc sống của
các ngươi tại ngục tù trần gian này thật là khốn khổ, tại sao các
người lại dửng dưng được? Quả thực, mặc dầu là Kitô hữu, các
người thảy là người dân Việt Nam. Các người đừng đi theo quân
Pháp, đừng giúp chúng nó làm hại Tổ quốc chúng ta. Như vậy, các
người sẽ lập được công đức trung thành với Chúa, môn đồ của Đấng
Kitô Cứu Thế, đồng thời thật là đồng bào Việt Nam.”

7. GIÁO HỘI DƯỚI CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA


Từ ngày xâm chiếm Việt Nam cho tới năm 1945, quân Pháp hằng
phải đương đầu với các cuộc nổi dậy liên tục, lúc thì rộng lớn, khi
thì giới hạn hơn. Không những nhân dân Việt Nam vì hãnh diện với
nền văn hóa 4000 năm, không thể chịu cái nhục bị đô hộ, nhưng cũng
vì thế chế độ cai trị thuộc địa đã giam hãm họ mãi trong sự nghèo
khổ, dốt nát và bất công. Với những ly rượu, ly thuốc phiện, bọn
thực dân bắt quần chúng say sưa quên cả bản thân và nghiện ngập
đến trở thành đần độn như súc vật. Cứ đọc chẳng hạn những bản báo
cáo mà phủ toàn quyền gửi về cho Bộ thuộc địa Pháp, sẽ thấy Báo
cáo ngày 29-1-1908 viết: “Việc bán rượu trong cùng một thời kỳ
(tháng 10-1907) đã vượt con số 700 ngàn lít, nhưng giảm mất 60
ngàn lít so với tháng trước... Còn thuốc phiện trái lại mức bán có gia
tăng luôn. Tháng 10, đã bán được gần 1.800 kí thuốc phiện, nghĩa là
gần gấp đôi số lượng đã bán cùng kỳ năm 1906.”
Báo cáo ngày 19-2-1908 ghi: “Việc tiêu thụ rượu tháng 11-1907
đã lên tới 744.798 lít, vượt tháng 10 được 40.957 lít, nhưng thấp hơn
tháng 11 năm 1906, vì năm ấy đã bán tất cả 923.245 lít rượu. Còn
việc bán thuốc phiện vẫn gia tăng một cách rất đáng phấn khởi”.

46
Vài ví dụ đó chỉ rõ công trình văn minh "Thiên Chúa giáo" người
Pháp thực hiện tại Việt Nam đứng ở mức đạo lý cao chừng nào. Tuy
thế, trong thời kỳ này, Công giáo vẫn đang phồn thịnh và ngày càng
một phát triển hơn. Có vài người lãnh đạo Công giáo Việt Nam còn
dám gọi thời thuộc địa đó là “thời vàng son của Giáo Hội tại Việt
Nam”.
Việc phát triển Công giáo trước hết là về mặt kinh tế. Nhằm tỏ
lòng tri ân đối với các hoạt động thừa sai ngày 28-8-1962, tức chỉ 2
năm sau khi chiếm được 3 tỉnh ở Nam kỳ, toàn quyền thực dân đã ra
nghị định dâng “nhưng không cho Nhà Chung mạn Tây Nam kỳ,
hoàn toàn được chủ quyền về một sở đất tọa lạc tại Sài Gòn”. Đàng
khác, mặc dầu có luật tách biệt Nhà thờ khỏi Nhà nước được bỏ
phiếu năm 1905 và áp dụng tại "mẫu quốc" rồi, luật đó vẫn không
bao giờ được công bố và áp dụng tại thuộc địa. Nhiều vụ nhượng đất
đai đã được thực hiện cho Nhà Chung, chẳng hạn những năm 1923,
1926, 1927, 1930, 1931, không nói tới các vụ hiến đất "cách riêng
tư", một số quan người Pháp đã lấy đất công dâng cho Nhà chung,
thể theo lòng đạo đức cá nhân của họ.
Năm 1939, tài sản của Nhà Chung thừa sai Pháp trị giá trên 5
triệu đồng, tức là trên 50 triệu quan tiền Pháp. Trị giá đó là chính
thức, nhưng theo các luật gia thuộc địa Caratini và Gơranggiăng
(Grandjean) thì thấp hơn giá trị thực tế và không bao gồm tất cả các
tài sản của Giáo Hội, vì đã bỏ ra ngoài của cải các xứ đạo và nhiều
pháp nhân Giáo hội khác vốn có quyền sở hữu. Tài sản các Nhà Dòng
Đaminh Tây Ban Nha cũng rất quan trọng. Nói cho đúng thì một
phần các tài sản của Dòng, nhất là đất đai và ruộng vườn thường là
của trối, hoặc của dâng cúng từ phía giáo dân. Nhưng các Nhà Chung
được liệt vào hạng địa chủ lớn nhất thời ấy.
Cũng có thể nhắc thêm một số đặc ân quan trọng, Nhờ một nghị
định ngày 8-2-1868, giám mục Sài Gòn được miễn cước phí về toàn
bộ thư tín chính thức gửi cho nhà cầm quyền và cho các thừa sai.

47
Năm 1877, người ta cũng cho tòa giám mục Sài Gòn được miễn phí
khi đánh điện tín theo nhu cầu công việc của Nhà Chung. Ngày 22-
8-1867, một quyết định của Nhà nước thuộc địa ra lệnh cấp cho tòa
giám mục Sài Gòn 4000 quan. Sau cùng, theo nghị định ngày 14-12-
1868, “các phần tử giáo sĩ tại thuộc địa, khi đi dưỡng sức thì được
Nhà nước trả cho 50% phí tổn trong 5 tháng nghỉ đầu”. Năm 1872,
chính quyền Nam kỳ ban cho Nhà Chung Sài Gòn một khoản trợ cấp
hàng năm là 170.000 tiền Pháp. Số này đã bị cắt từ năm 1882 theo
sau việc khiếu nại của những người ngoài Công giáo. Năm 1887, nhà
nước Nam kỳ đã cấp cho các Nhà Chung ở Bắc và Trung Việt Nam
số tiền 50.000 quan Pháp.
Nói cho đúng thì với các tài sản và đặc ân kể trên, Giáo hội đã lo
mở mang một hệ thống trường tư thục khá nổi tiếng, tạo dựng các
nhà thương (nơi đó các nữ tu người Tây lãnh lương tháng 75 đồng,
còn các chị người bản xứ chỉ được 30 đồng, theo nghị định ra ngày
9-7-1921) và các trại chăm sóc bệnh cùi, cũng như thiết lập nhiều cơ
sở từ thiện lớn.
Xét về dân số, thì người Công giáo đã tăng gấp 3 lần trong vòng
một thế kỷ (từ 600 ngàn vào thời đầu đô hộ lên tới một triệu 700.000
năm 1945). Nhưng giáo dân hầu hết là nông dân, thường thì khi theo
đạo để được chở che khỏi bị các quan chức thối nát quấy nhiễu và
đôi khi còn được đảm bảo chén cơm độ nhật.
Hồi đầu, Giáo hội tỏ ra rất dè dặt đối với Văn Thân. Năm 1887,
toàn quyền Lanetxăng (Lanessan) chính thức đến thăm giám mục Hà
Nội là đức cha Puyginiê. Sau đó Lanetxăng thuật lại rằng: “Bởi thấy
đức cha cứ nói đi nói lại về vấn đề Văn Thân, tôi mới đặt ra cho đức
cha câu hỏi: Đức cha nghĩ nước Pháp phải đối xử với họ thế nào?
Đức cha trả lời dứt khoát ngắn gọn rằng: “Phải tiêu diệt bọn họ đi”,
vừa nói vừa đưa tay ra dấu, cho thấy rõ thái độ dứt khoát của Đức
Cha. Tôi mới hỏi: Tại sao thế? Đức Cha trả lời: “Tại vì bọn Văn
Thân rất có ảnh hưởng, họ có uy tín lớn và một khi được làm quan

48
là thiên hạ kính trọng họ, vì vậy nhất thiết phải thanh toán bọn họ đi.
Bao lâu còn Văn Thân, chúng ta sẽ phải lo lắng đủ thứ, bởi vì bọn
họ quá yêu nước, không thể nào chấp nhận sự cai trị của chúng ta.
Hơn nữa, chẳng bao giờ một người Văn Thân chịu theo đạo Kitô”.
Mặc dầu ngành giáo dục Kitô giáo có phát triển, hạng trí thức
người Việt nói chung vẫn không đón nhận đức tin Kitô giáo. Phần
lớn họ cho rằng Công giáo phải chịu trách nhiệm về việc đất nước
mất độc lập (cứ đọc các tác phẩm lịch sử, hoặc tiểu thuyết lịch sử thì
đủ rõ điều này). Một số người khác nghĩ rằng, mặc dầu Giáo hội có
cơ cấu rất mạnh, nhưng vẫn hoàn toàn nằm bên ngoài nền văn hóa
Việt Nam.

8. CHỦ NGHĨA PHONG KIẾN TRONG ĐẠO


Phải nói rằng các cố thừa sai, do màu da và chiếc áo chùng thâm
của họ, họ đứng ở một vị trí rất cao trên chiếc thang xã hội. Người
ta phải cung kính họ ngang với các quan đầu tỉnh (gọi là công sứ tại
hai miền Trung và Bắc). Và nhiều ông đã lợi dụng vị trí của họ như
thế để cai quản theo kiểu bạo chúa. Một vài thí dụ. Cố Antôn đi qua
một làng lương, trên người mang áo chùng thâm và áo các phép. Một
số thiếu niên người lương thấy cố ăn mặc kỳ cục thì cười giễu, có
vài trẻ dám chửi rủa cố. Trở về nhà tức giận, tập hợp giáo dân lại, ra
lệnh cho họ đi ruồng qua làng lương kia, trừng phạt đích đáng mấy
đứa có tội, nghĩa là đánh đập tất cả những người họ bắt gặp ngoài
đường tung hoành trong làng ấy như đối với quân thù vậy. Các cụ
bô lão trong làng lương bèn gửi khiếu nại lên huyện. Và thật ngỡ
ngàng khi thấy quan huyện bắt họ phải mua lễ vật, theo phong tục
Việt Nam mà đến sấp mình lạy trước mặt cố, xin tha thứ cho những
gì đã xúc phạm cố. Quan huyện còn nói thêm: “Đó là bản án còn nhẹ
đấy, bởi đây là lần đầu tiên dân tụi bay đã phạm lỗi như thế. Chớ
quên rằng, nếu còn tái phạm, thì bô lão sẽ vào tù, còn phạm nhân thì
sẽ bị tử hình”.

49
Cố Giăng, nằm trong một cái cáng do 2 giáo dân khiêng tới 1
thành phố cách nhà 18 kilômét. Vừa ra khỏi xứ đạo, một trong hai
thưa rằng mình bị bệnh, xin cố kiếm ai thay thế hộ. Cố bảo: “Cứ bắt
được ai thì bắt!” Có một người đi qua, cố kêu: “Ê anh kia, đến khiêng
ta đi tỉnh!” Người kia lắc đầu: “Không, tôi không thể và tôi không
muốn.” “Thằng xấc láo, mày không muốn hả? Thằng giặc!” Người
kia vẫn không chịu khiêng: “Tôi là lý trưởng, tôi không thể khiêng
được”. Đứng trước sự khước từ dứt khoát như thế, ông cố xuống
khỏi cáng, cầm gậy bổ tới đánh đập viên lý trưởng, miệng nguyền
rủa: “Lý với không lý, liệu mà khiêng cáng cho tao. À, thằng giặc
cộng sản! Mày sẽ biết tay tao!”
Hôm đó, cố Tây đến nhà quan đầu tỉnh và tố cáo rằng làng lương
bên cạnh xứ đạo của ông đang nổi loạn, mà chính tên lý trưởng cầm
đầu. Qua ngày sau viên lý trưởng bị cách chức và bị tống vào ngục.
Không hiểu cố Tây có tạ ơn Chúa cho mình chiến thắng tên ngoại
đạo kia chăng, nhưng chắc cố phải rất thích thú thấy rằng phong trào
chống giáo sĩ bên chính quốc Pháp chưa được du nhập sang các vùng
thuộc địa.
Cả bên trong Giáo Hội cũng có phân biệt đối xử một cách ngang
nhiên. Cố thừa sai tin chắc rằng nhờ ơn Chúa và nhờ vào da trắng
của ông, ông phải lo bảo vệ danh dự của người da trắng và cách đặc
quyền chính trị của người da trắng. Hàng giáo sĩ Việt Nam được đào
tạo để luôn biết sống trong lệ thuộc. Cần ghi nhận rằng hồi 1630, sĩ
số các thừa sai chỉ là 20% trong hàng giáo sĩ tại Việt Nam, nhưng họ
chiếm giữ toàn bộ các chức vụ quan trọng như giám mục, tổng quản,
hạt trưởng, giám đốc chủng viện, bề trên hội Dòng, chánh xứ ở thành
thị. Trong hầu hết các địa phận, linh mục người Việt không được
ngồi cùng một bàn với ông cố Tây, càng không được ăn cơm chung
với cố.
Giám mục Côxtanini (Costantini) đã viết về óc phong kiến trong
đạo bên Trung Hoa thời đó thế này: “Khi tôi đến Trung Hoa, tôi thấy

50
cả nước chia ra 56 giáo điểm, mỗi điểm có một vùng đất rộng lớn và
rất phân biệt với nhau. Tôi có ngay cảm giác là các giáo điểm này
chẳng khác nào những căn cứ biệt lập, trong đó các giáo sĩ người
Hoa sống và làm việc như người phụ thuộc thôi. Cần nói thêm rằng
hồi đó, tại nhiều Nhà chung, vẫn giữ phong tục dành cho thừa sai
nước ngoài được ngồi ghế đầu. Người ta thấy có vị thừa sai trẻ măng
vừa từ châu Âu tới, đã được ngồi trên cả một nhóm linh mục địa
phương, trong đó có cả những người già đáng kính với bộ râu đã bạc
trắng.”
Cảm tưởng của vị khâm sai tòa thánh tại Trung Quốc trùng hợp
với óc phân biệt chủng tộc tại Việt Nam, nhất là khi Việt Nam khác
Trung Quốc ở chỗ là một thuộc địa trọn nghĩa, một "thuộc địa để
khai thác" nói theo từ ngữ chính thức của nhà cầm quyền Pháp. Tại
Bùi Chu, ngày lễ Thánh Đaminh, tất cả các linh mục người Việt, bất
kể hạng tuổi nào, phải tới sụp lạy trước mặt các thừa sai, kể cả đối
với mấy người còn trẻ măng, hoặc chỉ là thầy phó tế thôi, và hôn
kính giày các thừa sai đó, để giúp mình nhớ lại lời thánh Phaolô:
“Phúc đức thay bàn chân các nhà truyền giáo”.
Cảnh phân biệt chủng tộc ấy còn nổi bật hơn nữa trong lãnh vực
đặc ân mà Giáo Hội dành cho giáo dân người Pháp, như tại các thành
phố hoặc tại nơi họ cư ngụ, phải dành cho họ những chỗ đầu trong
nhà thờ, nơi đó không một người Việt nào được phép ngồi vào, kể
cả những ngày có đông giáo dân dự lễ đến, nơi hàng trăm người cứ
phải đứng, giáo dân người Việt là giáo dân hạng thứ. Người ta quen
kể họ như những trẻ thiếu niên được sức mạnh và uy quyền Giáo hội
bảo hộ cho.
Ngoại trừ các cụm nhà thành thị dân chúng sống lẫn lộn, người
Công giáo thường được tập trung lại thành làng xóm riêng, tách rời
khỏi người lương, sống chen chúc quanh tháp nhà thờ xây theo kiểu
Tây, chọc lên trời, cao vượt khỏi lũy tre. Bị đóng khung và được
đoàn ngũ hóa bởi hàng giáo sĩ, họ trở thành một lực lượng quần

51
chúng, một lực lượng đáng ghê sợ khi cha xứ kêu họ đứng lên bảo
vệ đức tin, bảo vệ nhà thờ. Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và cô lập
phần lớn giáo dân khỏi liên hệ với đồng bào, thúc đẩy họ từ khước,
tẩy chay bất cứ điều gì không được Giáo Hội chánh thức phê chuẩn,
chẳng hạn sách Truyện Kiều, một kiệt tác văn thơ cổ điển của Việt
Nam, hoặc các tài liệu cách mạng đều bị cho là ngược với đạo. Các
sách của Vônte (Voltaire), Môngtekiơ (Montesquieu), khỏi nói tới
Các Mác, vừa bị nhà nước thuộc địa cấm, vừa bị giáo luật khai trừ,
nhưng ngay cuốn Sách Thánh đã dịch ra tiếng bản xứ mà cũng chẳng
ai được biết đến (có một bản sách thánh in bằng hai thứ tiếng latinh
và Việt ngữ, khổ lớn, nằm trong thư viện các chủng viện và một vài
cha xứ, còn giáo dân thì không thể sờ tới).

9. TRONG TRẬN GIÓ XOÁY NHỮNG NĂM 30


Phải sống xa rời cả đất nước mình, nhận mệnh lệnh chẳng phải
từ Rôma mà từ phố Bác (Pari) và từ Manila (điểm phát xuất các thừa
sai Tây Ban Nha), giáo sĩ cũng như giáo dân Việt Nam nói chung
đều phải sống ngược với phong trào yêu nước của nhân dân.
Năm 1930, Nguyễn Thái Học, với đảng quốc gia tư sản là Việt
Nam Quốc dân Đảng, quyết định phất cờ kêu gọi dân chúng nổi dậy
làm một cuộc cách mạng vũ trang, thề nguyền "liều chết để cả thế
giới biết rằng tinh thần dân Việt là bất tử". Cuộc nổi dậy nổ ra tại
Yên Bái (9-2-1930) và một số tỉnh lân cận đã giết chết một số sĩ quan
Pháp, một vài tên thực dân và 1 linh mục. Cuộc đàn áp sau đó thật
đẫm máu. Các lãnh tụ đảng bị bắt và xử tử. Những người tỏ thiện
cảm bị kết án và đày sang Côn Đảo. Nhiều người bị dội bom chết
sạch.
Các Nhà Chung Công giáo phản ứng lại theo cách của mình. Họ
tung ra luận điệu về nguy cơ cộng sản – dầu cuộc nổi dậy được chỉ
huy bởi một đấng tư sản quốc gia – họ tìm mọi cách minh chứng
trước dư luận quần chúng Pháp rằng: Giáo Hội là lực lượng duy nhất

52
bảo đảm cho sự hiện diện của nước Pháp tại Việt Nam, cũng như
vấn đề an ninh, trật tự xã hội. Chẳng bõ Bề Trên thừa sai Pari tuyên
bố: “Nhà nước vốn phải gánh những trách nhiệm nặng nề và cảm
thấy sự nặng nề đó, nên đã hiểu được vai trò bảo vệ trật tự nhờ có
Nhà Chung là quan trọng chừng nào… Sự rối ren khiến Nhà nước
phải lo lắng từ 2 năm nay là phải lẽ đấy… nhưng nó chẳng dính dáng
gì tới khối dân Công giáo. Nhờ lớp dân chúng nên không cách nào
cộng sản xâm nhập vào được. Vì thế, từ nhiều tháng nay, các linh
mục bạn bè chỉ cho tôi thấy chỗ này chỗ kia có thái độ mới mẻ tại
địa bàn người lương, giá đây họ còn thù ghét Công giáo, nay lại nhìn
Công giáo như là thành trì độc nhất có thể ngăn chặn sự tấn công của
những kiểu tàn bạo tân thời.”
Những "địa bàn người lương" mà cố Tây nói đây là thành phần
tư sản thành thị và các quan lại vốn lo sợ, nếu đế quốc thuộc địa sụp
đổ thì chúng sẽ mất cả nồi cơm và các đặc quyền đặc lợi của mình.
Muốn phụng sự Chúa và nước Pháp tốt hơn, có những nhà thừa sai
và giáo dân đã tiếp tay khá mạnh mẽ cho bọn cảnh sát trong việc
"bình định xứ sở".
Cuộc khởi nghĩa thất bại ở Yên Bái không làm dân chúng chịu
bỏ khí giới, mặc dầu hết sức đói khổ do khủng hoảng kinh tế thế giới
và do sự bóc lột triệt để của chế độ thuộc địa. Tại các thành phố lớn,
nổi lên những cuộc biểu tình quan trọng: 42 cuộc từ ngày 1 tháng 5
năm 1930 đến đầu tháng năm năm 1931. Tại nông thôn, dân chúng
đói khổ kêu đòi "trả đất cho người cày" và đồng thời tổ chức xuống
đường đấu tranh. Ngày 12 tháng 9 năm 1931, gần 20.000 nông dân
biểu tình tại thành phố Vinh. Chính quyền gọi máy bay tới ném bom
và kéo quân lính tới bắn xả vào dân chúng. Mặc dầu bị đàn áp tàn
bạo, cuộc nổi dậy vẫn cứ tiếp tục. Nói chung dân Công giáo, nghe
theo lệnh các cố, đều đứng ngoài cuộc. Một số thừa sai không ngần
ngại cung cấp tình báo cho cảnh sát và đem nộp cho chúng một số
linh mục yêu nước. Thái độ và những cách hành động như thế gây

53
bâng khuâng cho chính Rôma. Vì từ thế chiến thứ nhất, Vatican, lo
âu trước cung cách dấn thân thực dân của các thừa sai, đã nhiều lần
đưa ra lời cảnh báo: “Thật tai hại biết bao khi thấy các thừa sai quên
mất địa vị mình, đến nỗi đặt những điều lo lắng bản thân và quê
hương trần gian của mình lên trên Nước Trời và chứng tỏ một sự
nhiệt tình thật không khôn ngoan lo cho việt bành tướng sức mạnh
của xứ sở, sự chiếu tỏa lan rộng danh dự của quê hương lên trên tất
cả. Các kiểu cách như thế chỉ là một thứ dịch tả phá hoại công việc
tông đồ mà thôi” (Maximum Illud, Tông Huấn "Việc quan trọng
nhất" ra ngày 30-11-1919).
Và Đức Piô trong Thông điệp "Các sự việc Giáo hội", công bố
năm 1925 đã nói: “Hãy đặt giả thuyết rằng, người dân xứ thuộc địa
ngày nào đó sẽ đạt tới một trình độ văn minh mà mức trưởng thành
chính trị muốn làm những người chủ đất nước họ, nên sẽ tìm cách
trục xuất hết quân lính và thừa si của nước mà họ từng bị đô hộ…”
Đem đặt lính tráng chung một hàng với thừa sai, quả là chuyện
đau lòng đối với một Giáo hoàng mà tinh thần Tin mừng và cải cách
đã khiến nhiều nhà thừa sai phải bực bội. Giám mục Senxo
Coxtantini (Celso Costantini) đặc sứ tòa thánh được phái sang Trung
Quốc, đã gặp phải sự chống đối khắp nơi khi ông ta cho các cố thừa
sai biết rằng: Đức Piô XI dự tính phong một số giám mục người
Trung Hoa và giao cho họ cai quản một số địa phận. Nhiều người
cho rằng điều đó khác gì một sự phản bội máu và mồ hôi cố thừa sai
đã đổ ra suốt 3 thế kỷ nay! Kẻ khác lại cho rằng làm như thế là điên
khùng.
Trước đó, linh mục Lebơ (Lebbes) một thừa sai người Bỉ đã bị
vạ treo chén bởi giám mục của ông và ông đòi Giáo hội Trung Hoa
lại cho người Trung Hoa. Người ta biết rằng điều đó cũng xảy ra tại
Việt Nam. Mặc dầu giám mục Mac-cu (Maceou) địa phận Phát
Diệm, một người khá cởi mở, đã đồng ý nhận cho một giám mục phó
người Việt ở với mình, nhưng phần đông các cố thừa sai lại chống.

54
Phải rất nhiều kiên nhẫn và sau nhiều cuộc thương lượng, Rôma mới
có thể phong vị giám mục người Việt Nam đầu tiên năm 1933, vị
thứ hai năm 1936 và vị thứ 3 năm 1939. Cũng cần thêm rằng, chính
quyền Pháp chống lại việc bổ nhiệm các giám mục người Việt. Thật
ra, người ta chỉ trao cho các giám mục bản xứ những địa phận nông
thôn, 14 địa phận khác vẫn ở trong tay các giám mục thừa sai, vốn
chỉ có gần 20% sĩ số trong hàng giáo sĩ ở Việt Nam.
Các cuộc bổ nhiệm kể trên gây sự tin tưởng cho hàng giáo sĩ và
giáo dân Việt Nam và đã làm nảy sinh một phong trào yêu nước
trong giáo giới. Tại các địa phận còn do các giám mục Pháp hoặc
Tây Ban Nha cai trị, một số giám mục đã can đảm gửi sang Rôma
thư thỉnh nguyện xin tòa thánh đem Giáo hội Việt Nam trao lại cho
người Việt Nam. Bị kết án là nổi loạn, một vài vị đó đã bị phạt vạ
treo chén, nhiều vị khác bị đày tới những xứ đạo nhỏ bé hẻo lánh và
không có ảnh hưởng gì.
Cùng với sự thất bại nước Pháp năm 1939 và qua cuộc xâm lăng
của quân phiệt Nhật từ năm 1941, người Công giáo Việt Nam nhận
ra, cũng như phần lớn đồng bào mình, rằng tòa nhà thuộc địa sắp sụp
đổ tới nơi. Người ta bắt đầu dám nói tới lòng yêu nước, nhưng cách
kín đáo tại các chủng viện. Một vài linh mục và giáo dân tỏ ra thiện
cảm thông đồng với các phong trào cách mạng trong bưng. Tại Ninh
Bình, một nhóm thanh niên Công giáo đi vào rừng kháng chiến, đánh
Pháp đuổi Nhật.

10. THẬP GIÁ ĐƯỢC GIẢI PHÓNG


Ngoại trừ các cố thừa sai, chẳng một ai lấy làm lạ khi thấy hàng
giáo sĩ và giáo dân các xứ đạo đã sắp hàng đứng sau lưng cụ Hồ Chí
Minh từ ngày Cách mạng tháng 8 và ngày tuyên bố độc lập mồng 2
tháng 9 năm 1945. Dù được ách đô hộ của hàng giáo sĩ nước ngoài
vượt qua trên đầu vị Khâm Mạng Tòa thánh người Pháp, giám mục
Nguyễn Bá Tòng đã nhân danh các giám mục và dân Công giáo Việt

55
Nam, gửi một Sứ điệp cho Đức Giáo hoàng Piô XII ngày 23 tháng 9
năm 1945, trong đó có đoạn nói:
“Nhân dân Việt Nam yêu quí của chúng con muốn nhờ trung gian
4 vị giám mục của họ, dâng lên Đức Thánh Cha lòng tôn kính sâu
xa và xin Đức Thánh Cha ban phúc lành, tỏ lòng rộng lượng và cầu
nguyện cho nền độc lập mà nhân dân chúng con mới giành lại được
và quyết tâm bảo vệ với mọi giá. Chính phủ chúng con cũng đã ra
một nghị quyết tốt đẹp và nhân ái, chọn ngày quốc khánh cho cả
nước trùng với lễ kính các tử đạo Việt Nam, mà tòa thánh mới cho
phép mừng vào chủ nhật đầu tháng 9. Toàn thể nhân dân Việt Nam
không phân biệt tôn giáo, mừng lễ này với một tinh thần yêu nước
chân thành và nồng nhiệt chưa từng có với những cuộc biểu tình to
lớn và nao nức, tỏ ta cho thấy toàn dân cùng quyết tâm bảo vệ chính
quyền cho mình, dầu có phải đổ máu.
“Đứng trước những biến cố hết sức xúc động như thế này và bản
thân chúng con cảm động đến tận trong lòng, vì ý thức bổn phận
thiêng liêng đối với Tổ quốc chúng con, các giám mục người Việt
Nam chúng con nài xin Đức Thánh Cha, tòa thánh Rôma, các đức
Hồng Y, các đức Tổng giám mục, Giám mục và toàn thể anh chị em
Công giáo khắp thế giới và đặc biệt là Công giáo Pháp, hãy hỗ trợ
cho việc quyết định của Tổ quốc yêu quí chúng con.”
Bức thư chân tình và cảm động đó có ẩn chứa một mối lo âu: các
Giám mục Việt Nam sợ rằng Rôma với Đức giáo hoàng ủng hộ việc
quân Pháp tái chiếm Đông Dương. Muốn hiểu đúng nội dung của
bức thư này, cần nhắc lại các biến cố quyết định với lịch sử Việt
Nam năm 1945.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật đã tước vũ khí quân
Pháp, hầu như chẳng gặp một chống cự nào. Vua Bảo Đại xóa bỏ
các hiệp ước bất công đã ký với Pháp, tuyên bố "nền độc lập Việt
Nam trong lòng Đại Á" dưới sự hướng dẫn của Nhật Bản. Thực ra

56
đó là một cuộc áp đảo nền đô hộ của Nhật một cách trá hình. Cùng
thời đó, mặt trận Việt Minh (Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội)
phát xuất từ chiến khu Thái Nguyên dưới sự lãnh đạo của cụ Hồ Chí
Minh gia tăng du kích đánh lại quân Nhật. Lợi dụng sự đầu hàng của
đế quốc Hừng Đông, cụ Hồ Chí Minh tung ra mạnh mẽ lời hiệu triệu
toàn dân đứng lên giải phóng đất nước. Ngày 17 tháng 8, một cuộc
mít tinh đã biến thành một cuộc xuống đường Giải phóng.
Ngày 19 tháng 8, cuộc cách mạng đã giành được thắng lợi mà
không phải đổ máu. Khắp nơi, quần chúng nhân dân tuôn ra đường
hoan hô nền độc lập thật sự đã đến. Ngày 23 tháng 8, Bảo Đại thoái
vị, đem bảo kiếm và hoàng ấn nộp cho chính phủ Cách mạng Lâm
thời, Bảo Đại đã tuyên bố: “Thà làm dân thường một nước tự do hơn
được làm vua một nước bị trị.”
Ngày 2 tháng 9, tại quảng trường Ba Đình, cụ Hồ Chí Minh tuyên
bố nền độc lập nước nhà trước đông đảo dân chúng, cả nước đã vui
mừng: “Nhân dân ta đã đập tan gông xiềng gần một thế kỷ của thực
dân Pháp, để đem lại cho Tổ quốc Việt Nam chúng ta nền độc lập.”
Cụ không giấu giếm những khó khăn. Khắp nơi còn nguy cơ.
Trước hết quân đồng minh đã giao cho lính Trung quốc phía bắc vĩ
tuyến 16 và cho lính Anh phía nam, để giải giáp quân Nhật. 200 ngàn
quân của Tưởng Giới Thạch làm áp lực, đòi thiết lập tại Hà Nội một
chính phủ thân Trung Hoa. Phía nam, lực lượng quân Anh lại giúp
quân đội Pháp của tướng Lơ-kole (Leclerec) đổ bộ "tái chiếm". Đơ
Gôn gặp đô đốc Thiery Đắgiăng-liơ (Thierry de Argenlieu), một tu
sĩ dòng Camêlô, làm cho Cao ủy Pháp tại Đông Dướng, nghĩa là làm
Toàn quyền. Có lẽ ông hy vọng rằng vị linh mục này sẽ thành công
trong việc quy tụ dân Công giáo lại đi theo ủng hộ mình, như hồi
chinh lần đầu, cách đó một thế kỷ.
Ngày 2 tháng 9, trong cuộc mít tinh của đông đảo dân chúng
mừng độc lập, có những người Pháp núp tại một nhà thờ Sài Gòn
chĩa súng vào đám đông làm chết 47 người và bị thương. Trong đêm
57
22 rạng ngày 23 tháng ấy, quân lính Pháp nổ súng tấn công và bắt
đầu cuộc tái chiếm Nam bộ.
Cụ Hồ Chí Minh nêu khẩu lệnh: Hoặc là chết, Quân đội, nhân
dân Nam bộ kháng cự dũng cảm với những cây súng xưa, gươm giáo
và tầm vông vạt nhọn. Từ khắp nơi đổ về nào người nào của, tiếp
viện cho kháng chiến.
Chính phủ cách mạng vừa chống cự lại cuộc tiến công của Pháp,
vừa phải đương đầu với những khó khăn về chính trị và kinh tế. Quân
lính Trung Hoa đến gọi là để giải giáp người Nhật, nhưng không che
đậy nổi tham vọng thực dân của chúng. Chính phủ chỉ có trong tay
vỏn vẹn một triệu đồng, để lo toan mọi chuyện (ngân hàng Đông
dương lúc đó vẫn nằm trong tay quân Pháp), phải tổ chức lại tất cả,
cái gì cũng chỉ bắt đầu, với những cán bộ đầy nhiệt huyết nhưng
chưa kinh nghiệm, có những chương trình cải cách táo bạo nhưng
dân chúng lại chưa hiểu ra.
Nhằm ngăn chận sự tê liệt kinh tế, chính phủ tổ chức lạc quyên
Tuần lễ vàng, nhân dân phấn khởi hưởng ứng. Giám mục Hồ Ngọc
Cẩn địa phận Bùi Chu, đem cả dây chuyền vàng thánh giá dâng cúng
vào công quỹ.
Tại miền Nam, quân Pháp tăng cường các cuộc hành quân, lùng
bắt các nhà yêu nước tại thành thị, ruồng bố các vùng nông thôn.
Chúng ra sức bẻ gãy tinh thần kháng chiến của dân chúng.
Một lần nữa, 4 vị giám mục người Việt Nam lại đưa ra lời kêu
gọi người Kitô giáo trên khắp thế giới và đặc biệt là nhân dân Anh
(mà quân đội mang trách nhiệm để cho quân lính Pháp đổ bộ lên
mạn nam vĩ tuyến 16) và Hoa Kỳ là nước đã trở thành cường quốc
hàng đầu thế giới sau thế chiến, rằng: Đất nước chúng tôi hiện đang
bị xâm lăng, chúng tôi quyết bảo vệ nền độc lập, chính nghĩa công
bằng và tự do. Còn dân nước chỉ vì đầy lòng yêu nước tinh túy mà

58
đang chịu tàn sát trên các chiến trường, lẽ ra họ phải được đưa ra
cùng nhau xây dựng đất nước mình.
“Trong lúc hòa bình đã được vãn hồi trên toàn thế giới lẽ ra
chúng tôi phải được cùng bao dân tộc khác hàn gắn các đổ nát do
chiến tranh gây ra, thay vì tiếp tục dồn thêm đổ nát. Chúng tôi phải
chịu ảnh hưởng không sao tránh khỏi của cuộc thế chiến vừa qua,
đã tàn phá và xáo trộn tất cả. Chúng tôi đã phải chịu một nạn nói
khủng khiếp làm chết đi một phần đồng bào của một nạn đói mới có
thể còn khủng khiếp hơn nạn trước.
“Hỡi anh chị em Công giáo thế giới, hãy đến trợ giúp cho các
miền giáo phồn thịnh đức tin của Việt Nam, hãy đến viện trợ cho Tổ
quốc thân yêu của chúng tôi đã từng cống hiến cho anh chị em
90.000 vị nhân chứng đạo thánh và còn hứa hẹn nhiều mùa gặt to
lớn hơn. Hỡi nhân dân các nước Anh và nước Mỹ, hãy cho chúng tôi
sự can thiệp có ích lợi, khiến chúng tôi thoát khỏi cảnh rùng rợn của
chiến tranh, trong khi cả thế giới đã được hưởng thái bình!”
Lời kêu gọi đó đã thành tiếng vang trong tờ Thông tin tại
Bơruygiơ (Bruges, nước Bỉ) tố cáo nước Pháp tái diễn một cuộc
chiến xâm lăng, bất chấp các quyền lợi của nhân dân Việt Nam và
việc làm tàn ác đó lại được thực hiện dưới sự điểu khiển của một linh
mục Thiery d’Acgiăngliơ.
“Điều này làm cho người ta lấy làm tiếc rằng những linh mục tu
sĩ – chẳng ai lại không biết lý lịch của đô đốc Thiery d’Acgiăngliơ –
lại dám nhận, dẫu là với ý ngay lành đi nữa, trách nhiệm của cuộc
chiến tranh xâm lăng. Chính sách của đô đốc đã làm cho người ta
tin theo luận điệu cho rằng linh mục và thừa sai Công giáo là những
tay chân công cụ của chủ nghĩa đế quốc phương Tây.”
Tại Việt Nam, như đã kể trong chương sách này, chẳng phải
người ta có luận điệu, mà đây là sự thật. Hơn nữa, mặc dầu 4 giám
mục người Việt Nam đã lặp lại lời kêu gọi ủng hộ nền độc lập của

59
Tổ quốc, 14 giám mục thừa sai đều giữ im lặng. Phải chăng họ đồng
tình với cuộc chiến tái xâm lược của Pháp? Phải chăng họ không
chấp nhận cho người dân Việt Công giáo được tỏ tình yêu nước của
mình?
Đã hẳn, trong những tháng sau Cách mạng tháng 8, một vài cố
thừa sai đã có những điều cay đắng với những giáo dân không ngần
ngại tố giác hành động thực dân và phân biệt chủng tộc của các ông.
Trong nhiều địa phận, giáo sĩ Việt Nam nói to lên yêu sách của
họ rất chánh đáng, nhưng bị trù dập mãi từ lâu năm trước. Quả thế,
thật là điều kỳ cục, trong một nước độc lập và trong một Giáo hội có
tới 80% giáo sĩ đã là người bản quốc, thế mà linh mục cũng như giáo
dân cứ bị một nhúm người phương Tây cai quản mãi. Nhớ lại Đức
Piô đã từng kêu gọi các thừa sai chuyển giao chỗ mình cho giáo sĩ
bản xứ, trả Giáo hội Việt Nam lại cho người Việt Nam. Tại các địa
phận Hà Nội, Hải phòng, Thanh Hóa, Bắc Ninh, Thái Bình, hàng
giáo sĩ gây áp lực để các giám mục thừa sai đặt những Linh mục tổng
quản người Việt và giáo xứ đạo thành thị cho các linh mục bản xứ
coi sóc thế các cố thừa sai.
Ngày 10-10-1945 tại Thái Bình 20.000 giáo dân kéo tới hoan hô
hội đồng mục vụ địa phận gồm nguyên các linh mục người Việt, chỉ
trừ giám mục. Nhiều khẩu hiệu được kết băng phất phới trước gió,
như: Hoan hô Đức Giáo Hoàng; Giáo hội Việt Nam hoàn lại cho
người Việt; Nước Việt Nam độc lập muôn năm. Dòng người đông
như nước lũ diễn hành qua trước tòa giám mục, có hội đồng mục vụ
mới bên cạnh, xuất hiện trước ban công và giơ tay ban phép lành cho
dân chúng. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ra một Thư Chung bắt các linh
mục đọc trong các lễ Chúa Nhật, bãi bỏ chức tổng quản và hội đồng
mục vụ, vịn cớ rằng giám mục đã làm chuyện đó vì bị ép buộc. Các
linh mục quản xứ đã không chịu đọc Thư Chung đó cho giáo dân
nghe.

60
Các linh mục Tổng quản được đặt lên trong tất cả các địa phận,
khối quần chúng giáo dân tin tưởng vào lòng yêu nước của mình,
hăng hái tham gia cuộc kháng chiến vệ quốc và xây dựng một nước
Việt Nam độc lập.
Như vậy, cùng các giám mục và linh mục đứng đầu, người Công
giáo Việt Nam đã muốn xóa đi hình ảnh một Giáo hội hợp tác với
quân xâm lược, một Giáo hội chỉ làm công cụ cho nước Pháp, một
Giáo hội đã từng sống bên lề của một dân tộc đang chiến đấu cho
chủ quyền và sự tự do của mình.
Một trang sử vừa được lật sang. Song tiếc thay chẳng được bao
lâu.

61
Chương II: BINH THÁNH GIÁ,
NẠN NHÂN CỦA ĐẠO QUÂN THÁNH GIÁ

1. THẬP GIÁ ĐI CHUNG VỚI NGÔI SAO HAY


CHỐNG LẠI NGÔI SAO?
Sao vàng trên nền đỏ là quốc kỳ của nước Việt Nam độc lập.
Nhưng nền đỏ cũng chỉ cho hiểu rằng Mặt Trận Việt Minh chịu sự
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam do Cụ Hồ Chí Minh, mà dân
chúng thường gọi là Bác Hồ, đứng đầu chỉ huy.
Cụ Hồ Chí Minh, tự Nguyễn Ái Quốc, từ thuở nhỏ thiếu thời đã
cống hiến đời mình cho một mục tiêu duy nhất là nền độc lập của
Việt Nam. Trên cuộc hành trình đầy muôn vàn truân chuyên, vào
tuổi 33, người đã gặp được con đường Damas của mình: Muốn giải
phóng quê hương, nhất thiết phải nhờ chủ nghĩa Mác-Lênin. Là một
chiến sĩ yêu nước bất khuất, một nhà mácxít hăng say, cụ Hồ Chí
Minh đã lập ra Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930 và mặt trận
Việt Minh năm 1941, nhằm quy tụ tất cả những ai chiến đấu vì nền
độc lập nước nhà không phân biệt đảng phái, tôn giáo.
Năm 1945, người là Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Giám mục, linh mục và giáo dân Công giáo Việt Nam, tất cả đều ủng
hộ người. Cả thiên hạ, kể cả những kẻ thù lùc bấy giờ và sau này,
đều thừa nhận rằng Bác Hồ là người vừa Quốc Gia vừa Cộng Sản.
Nhưng kẻ thù của Bác và kẻ thù của nền Độc lập Việt Nam đã gặt
được một cớ hay để chống lại Bác, rằng Bác là cộng sản, như thể
người cộng sản không yêu được tổ quốc và chiến đấu cho tổ quốc
vậy!
Đối với Giáo hội Công giáo, cụ Hộ Chí Minh đã tỏ ra hết sức có
tình có lý. Chỉ hai tháng sau ngày độc lập, linh mục Lê Hữu Từ được
phong giám mục. Đoàn chính phủ gồm 4 vị bộ trưởng đến tham dự,

62
trong đó có những cán bộ cao nhất của Việt Minh là ông Phạm Văn
Đồng và Võ Nguyên Giáp, và vị cố vấn tối cao của người là cựu
Hoàng Bảo Đại. Trong thư chúc mừng giám mục mới, người tỏ sự
vui sướng vì “có một nhà lãnh đạo mới của người Công giáo đi theo
chân Đức Giêsu chịu đóng đinh hầu giúp giáo dân biết hy sinh và
chiến đấu bảo vệ tự do và độc lập của đất nước”. Ngày 25-2-1946,
chính người đích thân đi một mình không có đoàn bảo vệ, đến ngay
Phát Diệm để long trọng tuyên bố: Từ nay, giám mục Lê Hữu Từ sẽ
là “Cố vấn tối cao của Chánh phủ”.
Nhưng năm 1946 là năm khó khăn nhứt trong biến chuyển của
Cộng hòa trẻ tuổi này. Khai sinh từ cách mạng, nước Việt Nam lúc
đó chưa có một cơ chế quốc tế nào. Tuy nó được quản lý bởi một
chánh phủ gồm phần lớn là cán bộ Cộng sản. Việt Nam lúc đó chưa
được một nước nào trên thế giới công nhận, kể cả Liên Xô mà đành
tới ngày 30-1-1950 mới công nhận. Cụ Hồ Chí Minh đã phải thương
lượng rất vất vả, sẽ lại chịu một vài nhượng bộ để đạt được cái hiệp
định nghèo nàn ngày 6-3-1946, theo đó “Chính Phủ Pháp công nhận
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một nước tự do... ở trong liên
bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp” và “Chính phủ nước Việt
Nam tuyên bố sẵn sàng đón tiếp thân tình quân đội Pháp” ở mạn Bắc
vĩ tuyến 16.
Đối với Pari, hiệp định kể trên chỉ là cách cho phép họ đổ quân
lên Bắc Việt hầu chuẩn bị việc tái chiếm toàn cõi Việt Nam, theo
một kế hoạch đã vạch sẵn và được tiết lộ qua một thông tri của tướng
Vanluy (Valluy), Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp, đề ngày 10-4-
1946 rằng: “Kế hoạch ban đầu bao gồm, một đàng là công việc bảo
vệ liên tục các trại đóng quân vào thành phố... Một khi kế hoạch đó
được thiết lập và triển khai những nét chính rồi, cần phải sớm bổ
sung bằng cách nghiên cứu một loạt biện pháp nhằm mục đích thay
đổi nó từng bước tuần tự và biến một cuộc hành quân thuần túy
thành một cuộc đảo chánh.”

63
Quân Pháp cố tình gây ra những đụng độ tại Hải Phòng (dàn pháo
hạm đội của họ bắn như mưa vào thành phố, làm 6.000 người chết),
tại Hà Nội và tại nhiều tỉnh, dẫn tới cuộc bùng nổ gây chiến toàn
diện ngày 19-12-1946.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của cụ Hồ Chí Minh để lộ rõ
sự yếu kém về mặt quân sự của đất nước, đối diện với quân thù và
sự quyết tâm của chính phủ không chịu nhượng bộ:
"Người có súng thì cầm súng, kẻ có gươm thì dùng gươm. Và nếu
không có gươm thì dùng cuốc và gậy gộc. Mỗi người hãy đem hết
sức mình đánh trả bọn thực dân để cứu lấy tổ quốc.”
Đạo quân cách mạng hầu như chẳng có ai là sĩ quan chuyên
nghiệp, nhà giáo dạy sử Võ Nguyên Giáp bỗng nhiên thành vị tổng
tư lệnh. Và đối với nhiều người khác cũng thế: Mới hôm qua chỉ là
chuyên gia, học sinh, công nhân, nông dân, nay trở thành sĩ quan và
bộ đội.
Chính trong những năm khó khăn đó, các vị lãnh đạo cũng như
lớp cán bộ cấp dưới, không sao tránh khỏi những vấp váp sai lầm,
quân thù của chế độ tìm cách làm cho dân chúng mất lòng tin với
chính phủ, nhất là đưa ra "nguy cơ đỏ" kích động người Công giáo.
Cụ Hồ Chí Minh là một người cộng sản, nơi nơi cứ đồn ra như thế.
Mà đối với đạo Công giáo thì Cộng sản là kẻ thù số một. Bởi thế,
sớm muộn gì Cộng sản cũng sẽ tiêu diệt người Công giáo.
Ở một số địa bàn Công giáo tiêm nhiễm nội dung chống Cộng
của Thông điệp Divini Redemptoris của Đức Piô XI, nên người ta
phải sống trong một thứ hoang mang, thời gian để lại những hậu quả
rất nghiêm trọng. Một vài lãnh tụ Công giáo đã vạch ra một đường
lối xử thế, mà nhiều người rồi đây đã thấy là xảo quyệt gian manh.
Trước hết, họ lập ra cái gọi là Việt Nam Công giáo Cứu quốc: về
mặt chính thức ở ngoài, tổ chức đó là một hiệp hội thành viên của
mặt trận Việt Minh, nhưng nó lại không chịu Việt Minh lãnh đạo,

64
mà chỉ có những quan hệ chiều ngang với mặt trận thôi. Hiệp hội
này được nhà nước công nhận. Mục đích công khai của nó là chiến
đấu chống ngoại xâm vì nền độc lập của tổ quốc, đồng thời bên trong
nó lại chuẩn bị chống lại chủ nghĩa cộng sản vô thần. Một trong
những sáng lập viên hiệp hội, sau này đã tuyên bố: “Chúng tôi đứng
trong hàng ngũ Việt Minh cũng chẳng sao, bởi vì đối với bọn ma
quái, để che mắt chúng mình phải làm trò ma quái. Điều quan trọng
là liệu cho có được cơ chế hợp pháp, rồi mình cứ theo đuổi mục tiêu
của mình”.
Giám mục Lê Hữu Từ, trong ngày thụ phong, cũng đã đích thân
nói xa gần với cựu hoàng Bảo Đại rằng: “Thưa hoàng thượng, Ngài
có phương án bí mật nào chăng? Cứ thử đi, và chúng tôi sẽ đứng
sau lưng ủng hộ Ngài.” Bảo Đại thở dài: “Trong điều kiện hiện nay,
có thể lên phương án nào được?” Giám mục chưng hửng bèn đáp
lại: “Ngài tầm thường quá!”
Tuy vậy, giám mục Lê Hữu Từ đã chấp nhận vai trò "Cố vấn tối
cao của Chính phủ" để, theo chính lời ông nói: “Có thể dùng gậy
cộng sản đánh vào lưng cộng sản.”

2. HỒ CHÍ MINH VÀ LÊ HỮU TỪ


Sau khi đã vào chiến khu, cụ Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục thư từ với
một cố vấn tối cao của người. Sau đây là vài lá thư hết sức quan
trọng: “Thưa Đức Cha. Từ lâu tôi không được gặp Đức Cha, tôi
buồn lắm. Từ ngày thực dân Pháp vi phạm các hiệp định đã ký, gây
chiến tranh, toàn thể đồng bào ta đều một lòng đứng lên chống lại
chúng để bảo vệ tổ quốc của mình. Lần này, như các vụ xảy ra ngày
6 tháng 4 và 14 tháng 9. Tôi tin rằng Đức Cha đã lấy tư cách công
dân, cố vấn tối cao của chính phủ và là bạn thân của tôi, mà giải
thích cho nhân dân hiểu rõ chính sách của ta và khuyên bảo bà con
can đảm tham gia công cuộc toàn quốc kháng chiến. Xin Đức Cha

65
cầu nguyện cùng Chúa cho tổ quốc và xin nhận lời chào thân ái của
tôi” (ký tên Hồ Chí Minh, ngày 23-1-1947).
Vào năm tháng cuối năm 1946, một vụ rắc rối xảy ra tại một số
nơi giữa giáo dân cứu quốc và Việt Minh. Vài người Công giáo đã
bị bắt giữ. Đáp lại một kháng thư của Lê Hữu Từ, cụ Hồ Chí Minh
Viết: “Thưa Đức Cha, xin cảm ơn đức cha về bức thư của ngài đề
ngày 11-1-1947. Xin lỗi đức cha, tôi chậm phúc đáp đức cha, chỉ vì
lúc này liên lạc khó khăn. Trong hiến pháp nước ta đã định rõ quyền
tự do tín ngưỡng, kẻ nào vi phạm hiến pháp và khiêu khích bà con
Công giáo sẽ bị xử lý. Đức cha chưa bao giờ tin rằng Việt Minh bách
hại Công giáo, tôi dám chắc như vậy, bởi vì đức cha biết rằng Mặt
trận Việt Minh tìm cách đoàn kết toàn thể đồng bào để lo cho nền
độc lập của tổ quốc, chứ không phải gây chia rẽ hay là chống lại
các tôn giáo. Về phần tôi, tôi không bao giờ tin rằng đồng bào Công
giáo chống lại Việt Minh, đồng bào Công giáo tha thiết với nền độc
lập của Tổ quốc và tự do tín ngưỡng thật đầy đủ; và tôi cũng tin rằng
mọi người tuân theo khẩu hiệu "phụng sự Thiên Chúa và Tổ Quốc".
Những vụ đụng độ nhỏ giữa đồng bào với nhau là điều đáng tiếc,
bởi nó xảy ra do thiếu giáo dục đạo đức và nhiệm vụ công dân,
nhưng không thể làm hại tình đoàn kết của chúng ta. Như Đức Cha
đã nhấn mạnh trong thư, tôi tin rằng vị cố vấn thân ái và đáng kính
của tôi sẽ làm hết sức mình đã tạo sự hiệp nhất giữa mọi người,
không phân biệt tôn giáo, nhằm chống lại bọn ngoại xâm. Xin đức
cha cầu Chúa ban phúc lành cho đất nước ta, để cuộc kháng chiến
của ta đạt thắng lợi. Thân ái kính chào" (Ngày 1-2-1947).
Các vụ "đụng độ nhỏ" mà cụ Hồ Chí Minh nói tới đã không chấm
dứt tại Phát Diệm, cũng như tại nhiều địa phận khác. Với khoảng
cách thời gian, có thể nói rằng các vụ rắc rối đó có nhiều nguyên
nhân phức tạp, nhưng chủ yếu là sự nghi kỵ lẫn nhau giữa chính
quyền địa phương và những vị lãnh đạo tôn giáo ở cơ sở, và đàng
khác cũng do quan điểm giáo điều, cho rằng bất cứ một sự sai phạm

66
nào của phía Việt Minh thì đều được tính toán sắp xếp với ác ý từ
trước.
Điều không thể hiểu và không thể tin được, là tư tưởng cho rằng
Chính phủ Hồ Chí Minh, đứng trước sự đe dọa của một đạo quân
nước ngoài vượt xa mình về hỏa lực cũng như về kinh nghiệm quân
sự, mà lại cố tình gây ra những vụ bách hại tôn giáo, chỉ làm hoen ố
tên tuổi của họ nơi dư luận quốc tế và quốc nội và chỉ làm giảm sút
sức chiến đấu của nhân dân đi thôi. Đàng khác, xét theo phương diện
con người, thì cũng không một chính quyền nào chỉ gồm những cán
bộ tập sự, chưa được huấn luyện và chưa có kinh nghiệm, mà có thể
hành động, nhất là ở cấp cơ sở, luôn luôn với đầy đủ sự khôn ngoan,
tế nhị và hữu hiệu. Bởi thế, các vụ việc xảy ra tại Văn Hải, Phúc
Nhạc, Tằng Điền, Bình Sa v.v.. chẳng qua chỉ là những chuyện rủi
ro trên đường đi lên của một chính sách của Cộng sản chống phá tôn
giáo. Song bọn thù nghịch của Việt Nam lợi dụng những sơ hở đó
để tuyên truyền xuyên tạc, đôi lúc gây ảnh hưởng xấu tới những
người Công giáo.
Một số thư cụ Hồ Chí Minh gửi cho Giám mục Lê Hữu Từ, soi
sáng giúp hiểu rõ chính sách tôn giáo của người. Chẳng hạn những
dòng sau đây:
“Thưa Đức cha, xin cám ơn thư Đức cha gửi cho tôi đề ngày 17-
2-1947. Tôi đã ra lệnh thả bảy người được Đức cha bảo lãnh. Về
vấn đề Văn Hải, tôi sẽ làm như đã thống nhất với nhau: thả 3 người,
giữ lại 4 người trong một thời gian. Dưới đây, tôi xin nói riêng cho
Đức cha biết mấy điều: tôi hiện có trong tay một số tài liệu. Sau khi
xem xét kỹ các tài liệu ấy, tôi nhận thấy có ba sự kiện sau đây: 1)
Đồng bào Công giáo thù ghét bọn thực dân Pháp và họ rất có lòng
yêu nước. 2) Họ cũng thù ghét Cộng sản. 3) Có những kẻ lợi dụng
sự dễ tin của một số đồng bào Công giáo, đã gieo rắc chia rẽ trong
cách nói với họ rằng: "Chính phủ là Việt minh và Việt minh là Cộng
sản".

67
Điều thứ nhất thì đã rõ, khỏi cần bàn vô ích. Điều thứ hai, chủ
nghĩa duy linh và chủ nhĩa duy vật là ngược nhau, rõ ràng là thế.
Nhưng chính ngài và tôi, chúng ra đồng ý với nhau rằng: trong một
nước của mình, có sự tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, nhưng
không được vu khống kẻ khác. Tự do tuyên truyền không phải là tự
do vô lễ. Điều thứ ba, một đàng có những người Công giáo nhẹ dạ
dễ tin, đàng khác có những cán bộ cấp thấp của Chính phủ thiếu
kinh nghiệm. Những kẻ gây rối lợi dụng khai thác hai yếu tố trên
nhằm tạo ra một bầu không khí không lành mạnh. Nếu Chính phủ là
Việt minh, thì tại sao lại có những bộ trưởng không thuộc đảng phái
nào? Nếu chính phủ là Cộng sản, thì tại sao chúng ta lại có những
vị tối cao cố vấn như Đức cha?
Đường lối và mục đích của Chính phủ có ba mục tiêu sau đây:
1. Giải phóng nhân dân khỏi đói, khỏi rét (khổ sở) và khỏi dốt.
2. Đem lại cho nhân dân sự tự do, tự do sống, tự do tín ngưỡng.
3. Bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.
Nếu Cộng sản mà thực hiện những việc nêu trên đây, tôi tin chắc
rằng mọi người sẽ chấp nhận thứ Cộng sản đó. Kết luận: một đàng,
chúng ta cần giải thích cho người Công giáo hiểu rõ chủ trương
chính sách của Chính phủ, như chính Đức cha đã làm. Đàng khác,
cần giáo dục cán bộ của Chính phủ, như bản thân tôi cũng đang làm.
Như vậy thì bọn gây rối sẽ không còn có thể chia rẽ chúng ta và sự
đoàn kết toàn dân sẽ được thực hiện. Tôi kính chúc Đức cha mạnh
khỏe và xin Đức cha nhận nơi đây những lời chào thân ái và những
lời chúc tất thắng” (Hồ Chí Minh, ngày 2.3.1947).
Tái bút: “Từ sáng nay, bọn thực dân đã đẩy cuộc tấn công ra
vùng ngoại ô, điều mà chúng tôi đã thấy trước. Tôi đã có dịp cho
Đức cha thấy rằng trong giai đoạn đầu, chúng nó sẽ ra sức chiếm
đóng cả thành phố và các trục giao thông, điều đó khiến chúng ta
phải phân tán lực lượng ra và chúng ta sẽ dễ đánh du kích hơn.”

68
"Những kẻ gây rối" mà cụ Hồ Chí Minh nói tới đây, sống đầy
dẫy tại các vùng đông Công giáo như Phát Diệm và Bùi Chu. Họ
nằm trong các đảng phái chống Chính phủ, như Duy Dân, Việt Quốc,
Việt Cách, Dân Tộc, Xã Hội. Theo lời thú nhận của linh mục Đoàn
Độc Thư, tổng tuyên úy Hội Công giáo Cứu quốc và làm giám đốc
phòng thông tin của Liên đoàn địa phận thì “các đảng viên đó, có
trình độ và dũng cảm hơn… nên giành được sự tín nhiệm của các vị
phụ trách Liên đoàn các xứ và các hạt. Xoáy vào chủ nghĩa chống
cộng, người Công giáo đã không phát hiện được mưu đồ bí mật của
bọn họ. Dựa vào nhãn hiệu chống cộng, bọn họ đã lợi dụng danh
nghĩa Liên đoàn để phạm tội ác, như sát hại cán bộ Việt minh… Khi
các tội đó bị phát giác, những người phụ trách bên Công giáo mới té
ngửa ra và phải gánh chịu tất cả trách nhiệm và hậu quả”.
Giám mục Lê Hữu Từ cũng thừa nhận các sự kiện nói trên trong
một Thư chung gửi cho các linh mục ngày 23 tháng 3 năm 1947, như
sau: “Các cha biết một vài người cộng tác của chúng ta và nhiều
giáo dân đã bị bắt và giam giữ nhiều ngày, vì họ đã bị nghi là đảng
viên của các đảng phái chống Chính phủ. Nhiều người bị bắt do ông
Huệ, một thầy giảng địa phận Thanh Hóa ẩn núp trong địa phận
chúng ta, tung ra những tin đồn lung tung và thậm chí dám mạo danh
tôi đánh lừa dân chúng. Cảnh sát truy nã ông ấy khắp nơi. Các cha
đừng để nó tự do qua lại trong các xứ đạo của mình và nếu phát hiện
thì hãy bắt và nạp giải cho tôi. Kẻ nào tiếp tục liên lạc với ông ấy,
hoặc che giấu nó thì đừng phân bua rằng mình vô tội khi bị cảnh sát
bắt làm khó dễ. Hơn bao giờ hết, toàn dân phải một lòng đoàn kết
chiến đấu chống lại bọn xâm lược. Hãy để vấn đề các đảng phái
sang một bên, đừng bận tâm tới. Tôi đã nói đi nói lại nhiều lần với
các cha, lần này nữa, tôi xin các cha hãy nghe lời tôi”.
Trong cùng một thư đó, giám mục đã bảo các linh mục chớ nói
đến chính trị trong các nhà thờ và cũng hãy cảnh giác đối với những

69
người lạ mặt thường lảng vảng vào các xứ đạo để thám thính hay
tuyên truyền ủng hộ Pháp. Bọn đó là những tên phản quốc.
Cụ Hồ Chí Minh có thành thật trong các thư cụ viết, có thật tôn
trọng tín ngưỡng và tin tưởng người Công giáo chăng? Không có
một dấu hiệu nào cho phép trách được rằng người nói dối. Suốt cuộc
đời tham chính của người, cụ Hồ là một người yêu nước trên hết mọi
sự. Hơn nữa, trong bài viết cũng như trong bài nói, người luôn luôn
nhấn mạnh về thực tiễn mác-xít hơn là về biện chứng. Các lời lẽ cụ
phê phán Giáo hội không bao giờ chạm tới khía cạnh Đức tin, nhưng
chỉ nằm ở phạm vi các vấn đề cơ chế và chính trị.
Tháng 7 năm 1924, tại Đại hội V Cộng sản Quốc tế, thanh niên
Hồ Chí Minh lúc đó gọi là Nguyễn Ái Quốc, đã lên tiếng tố cáo chủ
nghĩa thực dân bóc lột và vai trò của Giáo hội trong chuyện này.
“Chỉ một mình Nhà chung Công giáo mà chiếm hết một phần tư đất
trồng trọt Nam kỳ. Phương thế làm để chiếm hữu các đất đai đó rất
đơn giản: là dùng tham nhũng, hối lộ và cưỡng ép. Đây là một vài
ví dụ rõ ràng. Nhà chung lợi dụng khi mất mùa để cho nông dân vay
tiền, rối bắt họ phải đem đất ruộng làm của cầm. Tiền lời cho vay
rất nặng, nên con nợ sẽ không thanh toán nổi, khi tới ngày trả và
như thế là đất cầm trở thành đất Nhà chung. Giáo hội không từ một
việc nào để nắm được những giấy tờ hệ lụy bí mật và nhờ đó dọa
dẫm các quan chức, bắt họ phải làm theo ý mình muốn. Giáo hội
cũng liên minh với những tay tài phiệt để khai thác các vùng đất
nhượng cho không và những thửa ruộng cướp được của nông dân.
Giáo hội có người của mình nắm những vai trò thế giá trong Chính
quyền thuộc địa…”
Ai cũng biết, những lời phê bình kể trên rất phải hợp với một
phần sự thật, Pôn Mané (Pual Manale) trong cuốn “Pháp và Annam
ở giữa hai lằn đạn” (Pari 1928) không nói ngược lại. Ông viết: “Mọi
Nhà chung Thừa sai được tổ chức hùng mạnh tại Nam kỳ. Nhà chung
rất giàu có, chiếm hữu nhiều vùng đất bao la và có nhiều bổng lộc

70
quan trọng tại phần lớn các xí nghiệp địa phương, nhờ những khoản
tiền vốn Nhà chung bỏ vào đó, nhân danh Nhà chung hoặc phần
nhiều là qua trung gian người thứ ba. Trong thời gian Pháp xâm
lăng Việt Nam, Nhà chung đã đóng một vai trò quan trọng như ai
cũng biết. Nhà chung đã biết tổ chức một hệ thống tình báo hoàn bị,
cung cấp tin tức cho biết tất cả những gì liên hệ tới những con người,
những công ty, những công cuộc, những hành động và phương án
chính trị Đông Dương. Nhà chung đã đặt được người thân tín của
mình vào tất cả các cơ quan, vào hầu hết các xí nghiệp, tại các trung
tâm lớn cũng như tận cùng những tỉnh xa xôi…”
Trong một báo cáo mật gửi lên Toàn quyền Đông Dương, viên
thông sứ Nam kỳ đã trình với quan Pháp rằng: “Không nên quên
rằng từ những năm đầu trong cuộc chiếm đóng của chúng ta, Nhà
chung đã giành cho được tại Nam kỳ những tài sản khổng lồ. Nhà
chung có tất cả 28.500 hecta ruộng, không kể đất đai ở thành thị
cũng như các bất động sản của cải khác. Tại miền Tây Nam kỳ, Nhà
chung làm chủ những vùng đất lớn rộng tới ba bốn, hoặc sáu ngàn
hecta” (Sàigòn 14-12-1934).
Thái độ thực tế của cụ Hồ Chí Minh cũng lộ ra trong những buổi
gặp gỡ, mà sự chân tình và tính khôi hài của cụ luôn luôn đáng khâm
phục.
Trong hồi ký của linh mục Cao Văn Luận, một người chống Cộng
xác tín, xuất bản tại Sài Gòn, tác giả thuật lại những lần ông được
gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thời gian đầu của vị lãnh đạo Nhà
nước ghé tại Pari, mùa hè năm 1946, nhân Hội nghị
Phongtênnơnbờlô (Fontainebleau). Linh mục Luận lúc đó đang là
tuyên úy các sinh viên Công giáo tại Pari. Trong lần hội ngộ đầu
tiên, cụ Hồ Chí Minh nói với ông về lòng yêu nước của đồng bào
Công giáo và về sự hòa hợp giữa các tôn giáo và chính phủ trong
một nước Việt Nam độc lập, rồi Cụ nhận xét như sau: “Chúng tôi
phải nói thật với ông rằng, trong Giáo hội Công giáo tại Việt Nam

71
chưa có sự độc lập. Trên toàn quốc, có 15 địa phận, mà chỉ có hai
địa phận do giám mục người Việt coi sóc, còn tất cả các địa phận
khác đều ở trong tay người nước ngoài. Tôi nghĩ rằng những linh
mục trẻ tuổi như ông phải hành động một trật với chúng tôi, là đòi
cho được sự độc lập của các địa phận Việt Nam. Linh mục nghĩ
sao?”
Người đối thoại đáp rằng: “Đó là trách nhiệm của Chính phủ
Việt Nam tiến hành đề nghị với Vatican, giao các địa phận cho giám
mục Việt Nam coi sóc”. Cụ Hồ trả lời: “Không phải việc của Chính
phủ. Điều chúng tôi quan tâm là liệu sao người Công giáo Việt đừng
cứ phải cầu nguyện dưới sự điều khiển của các linh mục người Pháp.
Bởi vì thiên hạ có cảm giác rằng, người Kitô hữu vẫn còn chịu ách
nô lệ người Pháp, trong lúc toàn dân đã nổi lên đòi cho kỳ được nền
độc lập đối với họ”. (Người ta cũng biết rằng từ Pari, hồi đó, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã gửi một điệp văn yêu cầu Giáo hoàng ủng hộ
nền độc lập của Việt Nam).
Trong một cuộc tiếp tân bốn ngày sau đó, Hồ Chí Minh lại tuyên
bố trước một nhóm linh mục và tín hữu Kitô giáo rằng: “Mục đích
Chính phủ ta đeo đuổi là chiến đấu vì nền độc lập và đem lại hạnh
phúc cho toàn dân. Song để đoạt tới hạnh phúc đó cho mọi người,
cần phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu Đức Giêsu sinh ra thời đại
chúng ta và phải phải đặt mình trước những nỗi khổ đau của người
đồng thời, chắc Ngài sẽ là một người xã hội chủ nghĩa đi tìm cứu
khổ loài người”.
Linh mục Luận chống lại quan điểm này. Cụ Hồ nói thêm: “Giáo
hội Công giáo luôn luôn bênh đỡ nhà giàu. Khi có đám tang nhà
giàu thì đánh chuông, làm những nghi lễ long trọng, còn đối với đám
tang của nhà nghèo thì êm ru. Trong trường hợp thứ hai đó, làm
cách nào cho Chúa biết được mà đến rước họ lên Thiên đàng?”

72
Giọng nói hài hước và phê phán vốn dựa trên cơ sở thực tế đã
cho thấy Hồ Chí Minh không phải là một người mác-xít giáo điều,
cũng không phải là một người chống lại Công giáo kiểu rẻ tiền. Việc
nhắc tới "Tạo hóa" trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9
năm 1945, việc liên tưởng hoài tới Chúa trong các thư gửi cho Giám
mục Lê Hữu Từ và cho Xanhtơny (“Chúng ta cầu Chúa cho chúng
ta thành công”, thư ngày 24.2.1947) cho thấy rõ người tôn trọng
niềm tin của những người khác. Ông Xanhtơny nói với chúng ta về
cụ Hồ Chí Minh, một người ông biết rõ mà không có thống nhất quan
điểm, như sau: "Về phần tôi, phải nói rằng chưa bao giờ tôi có cớ
để nhận thấy nơi các chương trình của Hồ Chí Minh một dấu vết
nào, dầu rất nhỏ, của sự công kích, đa nghi, hoặc chế diễu đối với
bất kỳ một tôn giáo nào. Và tôi không thể quên được tháng 6 năm
1946, thời gian người phải nán ngụ tại Biarit (Biarritz), khi tôi thăm
dò người về chương trình của người, thì người đã xin tôi tổ chức cho
người đi thăm Lộ Đức. Bao giờ cũng tọc mạch tìm hiểu, bao giờ
cũng lịch thiệp, cụ tỏ ra chú ý kính trọng trong lúc nói chuyện với
giám mục Tê-át (Théas) của Lộ Đức, là người đã rất tha thiêt muốn
gặp cụ.
“Sau nữa, điều lý thú nên biết là con người duy vật này nghĩ rằng
mình sẽ tái ngộ với mấy bậc tôn sư tư tưởng sau khi từ trần, vì cụ đã
ghi trong bản Di chúc rằng: "Tôi để lại mấy dòng này trước khi tới
ngày tôi sẽ đi gặp các bậc đáng kính là Các Mác, Lê-nin và những
bậc đàn anh cách mạng của chúng ta". Quả là một lời tuyên bố lạ
kỳ do một người vô thần... Nhưng có lẽ không nên nói về vô thần với
người Viễn Đông theo nghĩa chúng ta quen nghĩ về tiếng đó tại châu
Âu. Nơi mọi người châu Á sẵn có một tính chất tôn giáo bằng bạc,
khiến cho những liên tưởng tới Chúa nơi miệng người như Hồ Chí
Minh không đáng bỡ ngỡ lắm”. (Đối diện với Hồ Chí Minh, trang
155-156).

73
Nếu chúng tôi đã nói khá nhiều về Chủ tịch Hồ Chí Minh và các
mối quan hệ của người với giám mục Lê Hữu Từ và người Công
giáo Việt Nam trong thời gian hai năm đầu của nền độc lập, là chỉ
muốn nêu rõ rằng Chủ nghĩa chống Cộng tại Việt Nam là sản phẩm
của óc giáo điều Kitô giáo và của ngành tuyên truyền Pháp.
Năm 1946, vừa ra khỏi sự câm nín ban đầu - do lo sợ sự phản
ứng của người Công giáo Việt Nam - đã lên tiếng “hoan nghênh cảnh
hừng đông” khi “các toán quân dũng cảm của Pháp đã giải phóng Hà
Nội”. Ngành báo chí thừa sai liên kết với báo chí thực dân lên tiếng
nhằm soi sáng cho tín hữu Việt Nam và Pháp cảnh giác về nguy cơ
Cộng sản, về cơn kinh hoàng đỏ, về những cuộc bách hại tôn giáo sẽ
đổ ập xuống trên Giáo hội.

3. THẬP GIÁ BIẾN THÀNH ĐẠI BÁC


Với sự ủng hộ của giám mục Se-giơ (Chaize) Hà Nội, các giám
mục Ac-ta-ras (Artaraz) Bắc Ninh, Ubiec-na (Ubierna) Thái Bình,
Cô-man (Cooman) Thanh Hóa, Gômes (Gomez) Hải Phòng, và phép
lành của giám mục Drapiê (Drapier) Khâm mạng Toà thánh, giám
mục Lê Hữu từ quyết định vũ trang cho giáo hữu của mình. Người
ta có thể đọc trong tập hồi ký của ông như sau: “Vào thời ấy, hoàn
cảnh bắt buộc chúng tôi phải có một lực lượng tự vệ hùng mạnh để
có thể "nói chuyện" với chính phủ Cộng sản. Vì thế, lợi dụng tình
hình, chúng tôi đã có các toán du kích địa phương và lợi dụng đường
lối chiến tranh nhân dân do ông Hồ Chí Minh công bố, tôi đã xin
phép được mua súng đạn. Hố Chí Minh không thể từ chối tôi việc
này, bèn đề nghị tôi gặp ông Phan Anh, Bộ trưởng Quốc phòng, đã
được ông Hồ mớm cho việc tìm lý do, ra những điều kiện, để đừng
phải cấp cho tôi giấy phép. Nhưng với cái phép miệng, tôi đả gửi
người lên Móng Cáy mua vũ khí.
“Tuy vậy, việc chuyên chở vũ khí được tiến hành một cách bí mật
và phải dùng mưu mẹo mới qua được. Nhiều lần, xe ôtô của tôi chở

74
vũ khí đã có thể qua các trạm gác vốn được kiểm soát rất nghiêm
nhặt, vì tôi đưa ra cái thẻ "Cố vấn Tối cao của Chính phủ" và tôi
nhất quyết không cho khám xe. Tôi nói với bọn cảnh sát: Chủ tịch
đã chọn tôi làm Cố vấn vì người tin tưởng ở tôi; nếu người không tin
tôi, tôi sẽ từ chức. Và bởi vì tôi là Cố vấn Tối cao của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, chẳng ai có quyền khám xét tôi mà không có lệnh rõ ràng
của Chủ tịch. Một khi súng đạn đã được tới nơi yên ổn, tôi thông báo
cho Ủy ban Nhân Dân và cảnh sát biết rằng, tôi đã mua vũ khí với
sự đồng ý của Hồ Chí Minh.
“Khi súng ống và đạn dược về tới Hải Phòng thì bị quân Pháp
giữ lại, bọn này chỉ chịu trao cho tôi khi chính tôi phải đích thân can
thiệp và bọn họ còn cấp thêm súng đạn (để mua chuộc tôi). Tuy
nhiên, nguyên tắc của tôi là nhận khí giới từ bất cứ phía nào, kể cả
ngay phía Nga hay Tàu Cộng sản, để chống lại Cộng sản. Tôi đã vay
tiền nơi Đức Cha Gomez, một người Tây Ban Nha giám mục Hải
Phòng và đã xin ngài vui lòng hỗ trợ tôi trong chuyện này. Sau khi
đã bàn hỏi Đức khâm mạng Drapiê, ngài đã cho tôi mượn một khoản
tiền lớn (1.000.000 đồng) và đã cung cấp cho tôi một lượng súng
đạn quan trọng”. Vì cụ Hồ Chí Minh đã nhường cho vị cố vấn Lê
Hữu Từ việc quản lý thị trấn Phát Diệm (một bề chỉ 1km và bề kia
dài 3km), giám mục đã biến nó thành một “khu an toàn” có quân lính
riêng canh gác. Khu an toàn này sẽ trở nên cứ điểm, qui tụ những kẻ
chống lại Hồ Chí Minh, hoặc làm chỗ núp ẩn cho bọn hoạt động
chính trị, bọn mưu đồ lật đổ v.v...
Cùng lúc đó, quân Pháp, sau khi đã chiếm phẩn lớn các tỉnh
quanh Hà Nội, bắt đầu gặp phải một cuộc kháng cự mạnh mẽ của du
kích và của dân chúng. Cái hy vọng tái chiếm nhanh cả nước bị lu
mờ. Các làng "tề" vừa thấy quân đội Pháp rời đi là thoát ly khỏi sự
kiểm soát của chúng.
Chính trong tình hình này mà nhà cầm quyền Pháp tìm một giải
pháp "chính trị" bằng cách phái Bôinơ (Bullnert) sang thay đô đốc

75
Đắcgiăngliơ. Ngày 10-9-1947, viên Cao ủy mới đưa ra tại Hà Đông
lời kêu gọi: Kháng chiến hãy hạ khí giới và “tất cả các gia đình thiêng
liêng người Việt” hãy hợp nhau lại để giải quyết cuộc tranh chấp.
Sau cùng, ngày 18-9-1947, kêu gọi Cựu Hoàng Bảo Đại chấp nhận
lập ra một chính phủ "quốc gia" của nước Việt Nam độc lập trong
Liên hiệp Pháp. “Giải pháp Bảo Đại” khởi xướng từ 1947 chỉ đưa
tới năm 1949 một kiểu độc lập bù nhìn.
Trong vòng hai năm, đạo quân viễn chinh, vốn mạnh hơn quân
đội Cách mạng rất nhiều về vũ khí cũng như tiếp vận, phải nếm thất
bại khác tại các vùng rừng núi, nơi tập trung các đơn vị nòng cốt của
lực lượng Việt Nam do Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Trái với sự trông
chờ, việc thành lập chính phủ Bảo Đại không lôi kéo được những
người yêu nước "quốc gia" nằm trong Việt Minh, cũng không thuyết
phục được thành phần nông dân mà bộ tuyên truyền của Pháp cứ
nghĩ là phò Bảo Đại. Bị đánh thua trong các miền rừng núi, quân
Pháp ra sức kiểm soát vùng đồng bằng là vựa lúa và là nơi dân chúng
sống tập trung, thành những vùng du kích quân tự do hoạt động như
"cá lội trong nước". Trận chiến ở đồng bằng nêu rõ bộ mặt thật của
cuộc chiến tranh này:
a) Gieo sự kinh hoàng vào các vùng bị chiếm bằng cách ném bom,
thảm sát, tàn phá, với mục đích “giết cho được cá bằng cách
phá hủy nước”.
b) Phá hủy lúa gạo để làm cho dân chúng đói.
Trong một Thư chung đề ngày 25 tháng Giêng 1949, giám mục
Lê Hữu Từ cũng nhận định rằng: “Quân lính Pháp, với một sự dã
man tột độ, đã phá hủy tất cả, không trừ một thứ gì, kể cả nhà thờ.
Trong vòng một năm, gần 300 nhà thờ đã bị bom đánh phá...”
Người Công giáo bị kẹt vào giữa hai cực, tiến thoái lưỡng nan:
hoặc là hợp tác với Việt Minh Cộng sản (thực ra, nói chịu sự lãnh
đạo của Cộng sản thì đúng hơn) thì nguy cơ phản Giáo hội, vào thời

76
Giáo hoàng Piô XII khi mà chủ nghĩa chống Cộng được coi như là
một tín điều; hoặc là liên hiệp với Pháp, để phản bội Tổ quốc lần
nữa. Nhiều yếu tố đã xô đẩy họ tới một lựa chọn bí mật, vừa muốn
trung thành với Giáo hội, vừa muốn trung thành với Tổ quốc Việt
Nam.
Một tài liệu của Vatican sắp được đưa ra lúc đó gây tác động, dầu
muốn dầu không, cũng có lợi cho quân Pháp. Ngày 1 tháng 7 năm
1949, trả lời những thắc mắc liên quan đến chính trị nội bộ của riêng
nước Ý, thánh bộ Đức tin tuyên bố rằng: “Những người Cộng sản
đương nhiên bị vạ tuyệt thông tức khắc, rằng tất cả những ai hợp tác
với Đảng Cộng sản, hoặc bỏ phiếu cho Cộng sản, hoặc đọc, xuất bản,
phân phối báo chí Cộng sản, hoặc giúp đỡ bất kỳ cách nào cho Đảng
Cộng sản, đều bị khai trừ khỏi các bí tích”. Lập tức, quân Pháp đã
làm những trận mưa truyền đơn mang nội dung đó của thánh bộ, rải
hàng triệu tấm xuống các làng Công giáo. Người ta biết rằng vốn
liếng thần học của các linh mục và giáo dân Việt Nam thời đó là rất
sơ sài, nên họ phải hoang mang dao động trước chỉ thị đó của
Vatican. “Rôma đã phán dạy, vậy ai cũng phải vâng theo”, họ nói
với nhau như thế. Đàng khác, hàng giáo sĩ vốn đã quen đóng khung
giáo dân vào cái rọ trí thức được bảo vệ rất chắc bởi sách giáo lý
Công đồng Triđentinô và bởi không tìm ra được những lời đáp thỏa
đáng cho những vấn đề do chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa thuần thế và
chủ nghĩa mác-xít đặt ra, nên họ cảm thấy lo sợ trước cuộc Cách
mạng xã hội được phong trào Việt Minh đề xướng. Thấm nhiễm giáo
lý của Sắc lệnh "Mirari vos" (Chống lại Tân phái) “mà mỗi linh mục
khi chịu chức phải thề tuân thủ, các linh mục và nhất là giáo dân,
đều bị lôi cuốn vào cuộc chiến chống Cộng, bắt đầu là về mặt tư
tưởng, tiếp đến là cả bằng quân sự, do chính quân Pháp tuyên truyền
cho”.
Ba tháng sau, quân Pháp đánh chiếm Phát Diệm, đươc coi như là
"đồn lũy của Giáo hội vùng đồng bằng", bởi vì giám mục Phát Diệm

77
là Lê Hữu Từ cũng đồng thời cai quản cả Bùi Chu, điều khiển một
cộng đồng lên tới 400.000 linh hồn. Căn cứ vào các nguồn thông tấn
Pháp, Becna Phan (Bernard Fall) thuật lại biến cố đó trong cuốn
"Việt Minh" rằng: “Ngày 15-10-1949, Việt Minh lấy sáng kiến định
đánh vào tòa giám mục Phát Diệm. Quân lính dù và lính bộ của
Pháp đã kịp thời tránh được cho giám mục khỏi bị tù và chiến tranh.
Từ đó bắt đầu thật sự xảy ra giữa Việt Minh và Công giáo, đám
người này từ đây cũng phần đông chạy sang hàng ngũ của Pháp”.
Sự thật hoàn toàn khác, như chúng ta được nghe chính vị giám
mục đính chính lại điều đó ngày 20 tháng 10 năm 1949, cũng như
trong tập Hồi ký của ông sau này. Do tầm quan trọng của vấn đề,
chúng tôi buộc lòng dịch mấy đoạn dài sau đây.
Thư chung ngày 20.10.1949 viết: “Theo hãng thông tấn AFP,
các cuộc hành quân đó đã được tiến hành vì có lời yêu cầu của tôi
gừi chính phủ Bảo Đại, lời yêu cầu có lý do; một đàng bởi những
rắc rối tôi đã gặp nơi chính phủ Hồ Chí Minh và đàng khác bởi Sắc
lệnh mới ra của Vatican nói về Cộng sản. Điều đó hoàn toàn trái với
sự thật. Tôi không bao giờ có thể có ý nghĩ xin bọn lính Pháp can
thiệp để cứu chúng tôi khỏi bất kỳ sự khó khăn nào. Tôi chưa hề có
quan hệ với chính phủ Bảo Đại... Vì vậy tôi khẳng định lại với anh
em một lần nữa: trước mặt Thiên Chúa, tôi chưa bao giờ nói hoặc
làm một việc gì có thể coi như kêu gọi sự can thiệp của Pháp. Tất cả
những thứ đó hoàn toàn ở ngoài ý muốn của tôi”.
Trong tập Hồi ký, giám mục Lê Hữu Từ kể lại cuộc đổ bộ của
quân Pháp, rồi việc đại úy Vỹ tìm tới (sau này Vỹ là tướng 3 sao của
quân đội Nam Việt Nam), như sau: “Ông ta trao cho tôi bức thư của
Bảo Đại, trong đó có viết đại khái thế này: Sau khi biết được chuyện
Việt Minh gây áp lực vào Phát Diệm và tỏ ý muốn phá hủy Phát
Diệm, tôi vội phái quân lính Pháp-Việt đến để cứu Đức cha, mà
không có giờ báo trước cho Đức cha hay. Một khi vùng này được
bình định xong, tôi đề nghị Đức cha chỉ định một người làm tỉnh

78
trưởng và đặt liên lạc với tôi, v.v... Đọc bức thư xong tôi tức giận và
trả lời cứng rắn với ông rằng: Nếu vì lợi ích của nhân dân và vì dân
tộc và vì độc lập của Tổ quốc mà Bảo Đại muốn đập tan Cộng sản
và giải phóng nhân dân khỏi cảnh nô lệ Pháp, thì vua cứ lo bình định
các vùng khác đi; ngày nào đất nước đã giành lại độc lập, chúng tôi
không bị lệ thuộc bọn Pháp, mà vẫn đánh lại Cộng sản. Còn các anh
đến đây với quân lính Pháp-Việt thì làm cho người ta có cảm tưởng
là chúng tôi đi theo bọn Pháp. Chúng tôi không chịu điều đó. Mời
ông rời khỏi đây, còn nếu chúng tôi không đủ mạnh để xua đuổi quân
Pháp thì tôi sẽ đi trốn”.
Tuy nhiên, với lời năn nỉ của các linh mục địa phận, giám mục
Lê Hữu Từ vẫn còn ở lại Phát Diệm hồi đó. Mặc dù có đưa ra những
lời phân bua thiện chí của mình, Phát Diệm vẫn bị các nhà cầm quyền
cách mạng coi là ăn cánh với Pháp, nhất là khi thấy giám mục nhận
cả súng đạn của Bảo Đại để trang bị cho trên 10 ngàn lính Công giáo.
Thế là giám mục Lê Hữu Từ sa vào bẫy của bọn Pháp.

4. VÀ CÁI BẪY TAI HẠI BIẾT BAO!


Những người Công giáo đã vạch ra một đường lối lý thuyết trung
lập "chống lại thực dân và đánh lại cộng sản", thấy mình đứng giữa
hai ngã đường. Điều nghịch thường và trái với tất cả các luận điệu
tuyên truyền chống Cộng ồn ào, là chẳng phải người cộng sản đã bắt
ép họ lựa chọn - bởi vì cụ Hồ Chí Minh chỉ làm một việc là kêu gọi
lòng yêu nước của họ - nhưng lại chính là bọn Pháp, khi chúng phân
phát súng Mỹ cho họ, khiến họ mang tội liên lụy trước mắt đồng bào
của mình. Lẽ ra người Công giáo phải đọc lại lịch sử những năm
1873-1883.
Hồi đó, Pôn Mút (Paul Mus) đã thấy sự nguy hiểm: “Khi người
Công giáo nhận thấy mình chỉ là một thiểu số nhỏ... thì về mặt tôn
giáo, họ coi như mình gặp thử thách và bị xúi giục... Nhưng, trên

79
bình diện chủ nghĩa yêu nước, cơn thử thách mới là nặng nề, vì đi
ngược lại bản năng đoàn kết và hiệp nhất dân tộc, và thế là việc xúi
giục hóa ra hàm hồ. Người ta sẽ thắc mắc rằng, lòng yêu nước của
họ sao không thể được củng cố và chu toàn chung quanh một chính
quyền do người Pháp chúng ta đặt ra và đưa lên chính trường quốc
tế, vào trong những cuộc hội nghị và có sự quan tâm của chính Tòa
thánh? Nhưng đây là một trong những quốc gia mà dân chúng rất
khó nghĩ được rằng chủ nghĩa yêu nước của một thiểu số lại có thể
đi ngược với đa số dân chúng đang đối đầu và do dự. Nếu thêm vào
đó, bộ phận thiểu số kia lại khoanh mình ở trong cái khung chật chội
của tôn giáo, thì xét theo giá trị bên ngoài, một thứ đạo từ ngoại
quốc được đem vào lại đặt họ vào một thế tế nhị trước con mắt của
một xã hội, mà theo truyền thống thì không nên sống khác những
người khác. Đó là sa vào một thế mỉa mai, vốn là một nét sâu sắc
của tính tình người dân trong nước và có thể bộc lộ ra thành chính
sách. Việc Công giáo chọn lựa theo phe phái là một nguy cơ lớn,
chẳng phải để rồi quân Kháng chiến suy nghĩ lại, nhưng là chính
mính lại đánh mất đi hay là xô ngã hẳn về phía cộng sản, vốn đã trở
thành lớp người tiên phong của bên đối lập, cả khối quần chúng
những người thấy mình khác với thành phần Công giáo và tự coi
mình là những người đúng đắn duy nhất trên đất nước mình, loại trừ
Công giáo ra.
Phản ứng của cộng đồng Công giáo trong trường hợp này là đặc
biệt theo kiểu Việt Nam. Ở cấp làng xã, người ta đã tổ chức được
toán vũ trang tự vệ dễ dàng. Tinh thần làng xã, phân chia vấn đề
quốc gia thành những đơn vị địa phương, thích nghi với tình hình
đó. Hơn nữa, tại các làng đó, nước Chúa đã đến rồi, chẳng lạ gì nếu
tại đó nước Chúa bị đe dọa thì họ phải bảo vệ. Ở một cấp cao hơn,
chính sách của tòa giám mục Phát Diệm, từ lâu đã nằm trong một
vùng không còn do dự, cũng làm theo tinh thần nói trên: về lý thuyết,
các cộng đoàn này đứng về phía Dân chủ Cộng hòa là kẻ cầm đầu
mặt trần thế, nhưng chính họ lại tự giải quyết lấy các vấn đề địa

80
phương” (Việt Nam, Cái Nhìn Xã Hội Học Về Một Cuộc Chiến,
trang 358).
Trọng điểm liên hiệp của giám mục Lê Hữu Từ, cố vấn tối cao
của Hồ Chí Minh, đã vượt ra ngoài ranh giới địa phận, bởi từ lâu
Phát Diệm vẫn là điểm nhắm của tất cả người Công giáo miền Bắc.
Phát Diệm lại chẳng phải là địa phận đầu tiên được trao vào tay giáo
sĩ Việt Nam đó sao? Phát Diệm, từ hai năm qua, đã chẳng phải là
đồn lũy chống lại lý thuyết cộng sản đó sao? Sự liên hiệp thật hay
chỉ là sách lược của giám mục Lê Hữu Từ là một thắng lợi lớn của
chính sách Pháp, bởi vì chẳng mất một tên lính nào, nước Pháp đã
làm chủ tình hình cả phần phía Nam tỉnh Phát Diệm (trở thành tỉnh
Phát Diệm tự trị), một phần đất tỉnh Nam Định (trở thành tỉnh Bùi
Chu tự trị) và nhiều vùng Công giáo thuộc các tỉnh Thái Bình, Bắc
Ninh, Hải Phòng, Hà Nội... Hơn nữa, người Pháp cũng có thể dựa
vào hàng chục ngàn dân quân tự vệ Công giáo được vũ trang, mà
chẳng phải trả tiền nong gì. Và có loại dân quân tự vệ đáng kính này!
Đồng thời việc liên hiệp đi với Pháp như thế cũng là một đòn đau
cho Hồ Chí Minh. Vị cố vấn tối cao số 1 của cụ đã phản bội cụ để
trở thành “Hoàng đế Bảo Đại”, Chủ tịch "quốc gia". Còn vị cố vấn
tối cao số 2 của Cụ thì sắp sửa nhận từ vị số 1 danh hiệu “Đại diện
Chủ tịch quốc gia, Tổng tư lệnh lực lượng Công giáo Phát Diệm -
Bùi Chu”.
Một yếu tố thứ ba thúc đẩy người Công giáo lấy một chọn lựa
quyết định: đó là ngày 3 tháng Giêng năm 1950, Vatican công nhận
chính phủ Bảo Đại, với lời sau đây của Giáo hoàng: “Gửi đến ngài
phép lành của tôi cho công cuộc ngài đang chu toàn”. Chúng ta nên
nhớ rằng phải chờ đến sau đó, chính phủ Hồ Chí Minh mới được
công nhận. Bắc Kinh (15-1-1950), Mascơva (31-1-1950), Praha
(2.2), Buraret (3.2), Buđapet (4.2), Xôphia (5.2), Tirana (13.3). Ấy
thế, nhưng chẳng phải Bảo Đại, mà chính bọn Pháp mới cần tới phép
lành nói trên của giáo hoàng. Cuộc phản công mà Võ Nguyên Giáp

81
tung ra năm 1950 đã phá tan tành tất cả chương trình bình định và
chiếm đóng, mà các nhà chiến lược tài giỏi nhất của Pháp đã đặt ra.
Lúc đó người ta đã phải bàn tán về sự "đánh mất Đông Dương".
Nước Pháp đã gửi sang Việt Nam người binh sĩ giỏi nhất của mình
là tướng Đơ Lát đờ Tatxigni (de Latte de Tassigny).
Vị tướng này được Đức cha Montini (sau là giáo hoàng Phaolô
VI) gọi là "nhà luật sư đại tài", đã sang Mỹ và qua Vatican để bào
chữa cho sự nghiệp nước Pháp năm 1951. Trước mặt những người
cầm quyền của cường quốc quân sự hàng đầu thế giới, Đơ-Lát đã
đem trò chơi Domino ra hù dọa. Thấy người Mỹ tỏ ra uể oải không
mấy sốt sắng, ông đặt câu hỏi: “Các vị có thấy phải trả cái giá chiến
lược chi cho chiến tranh Đông Dương bao nhiêu không? Hãy nhìn
vào bản đồ này. Một khi để mất Bắc kỳ, thì sẽ không còn gì che chắn
trước kênh Xuy-ê (Suzez) nữa. Xét về mặt quân sự, việc để mất Bắc
kỳ sẽ mở đường cho Cộng sản xâm lăng Thái Lan và Xingapua. Việc
để mất Đông Nam Á có nghĩa là đem dân vào tay Cộng sản, những
kho nguyên liệu chiến lược thiết yếu, kinh tế Nhật Bản sẽ chẳng bao
giờ có thể cân đối được. Mất Đông Dương là mất toàn bộ châu Á,
là làm cho vùng Bắc Phi rung chuyển, là làm cho các căn cứ chiến
lược châu Âu sớm bị đe dọa.”
Tại Vatican, ông đưa ra bức ảnh khủng khiếp của chủ nghĩa cộng
sản vô thần. Trong một sứ điệp gửi cho Đức Piô XII trước khi được
tiếp kiến riêng, vị đại tướng tuyên bố: “Trong tất cả nước vùng Đông
Nam Á, Việt Nam là nước có nhiều tín hữu Công giáo hơn cả, chừng
hai triệu. Nhờ vào số đông, nhờ uy tín của các vị chủ chăn họ, người
Công giáo tại đấy có thể đóng một vai trò quyết định. Nhưng việc
bảo vệ đạo Công giáo tại Việt Nam lại gắn liền với sự hiện diện của
nước Pháp. Bởi vì phải nhờ những hy sinh tình nguyện của nước
Pháp mới có thể ngăn chặn không để Việt Nam rơi vào quỹ đạo của
cộng sản quốc tế. Nước Pháp vì thế rất có lý khi họ yêu cầu người
Việt Nam Công giáo tiếp sức với họ. Trong lúc góp phần vào chiến

82
thắng của Pháp, người Công giáo cũng chiến đấu cho chính sự tồn
tại của họ và họ sẽ nắm giữ một vị trí có tính quyết định trong việc
lèo lái đất nước họ”.
Kế đó, vị tướng yêu cầu giáo hoàng nhắc nhở các giám mục Việt
Nam phải lên án chủ nghĩa cộng sản, nhắc nhở bằng thông tấn Fides
phải nhấn mạnh những liên hệ ràng buộc Việt Minh với Mascơva.
Ông cũng đề nghị nâng tòa khâm mạng lên hàng Khâm sứ.
Sau cuộc tiếp kiến, Đức Piô XII nói với ông tướng: “Tôi chúc
lành cho đạo quân Pháp mà ngài đang chỉ huy và đại diện, bởi vì nó
đang bảo vệ nền văn minh Kitô giáo bên đó”.
Được nắm chắc viện trợ quân sự của Oasinhtơn (Washington) và
sự ủng hộ tinh thần của Vatican, Đơ Lát trở lại Sài Gòn, tăng cường
"cuộc thánh chiến chống cộng" vì lợi ích của nhân dân Việt Nam.

5. CUỘC THÁNH CHIẾN


Dưới sức ép của Đơ Lát và của đức cha Đulay (Dooley) người
Ái Nhĩ Lan được chỉ định làm Khâm mạng năm 1950, các giám mục
Việt Nam họp tại Hà Nội đã đưa ra những lời tuyên bố sấm sét trong
Thư chung mục vụ ngày 9 tháng 11 năm 1951 như sau: “Chúng tôi
thấy mình có bổn phận nhắc nhở anh chị em đề cao cảnh giác chống
lại nguy cơ hết sức to lớn của chủ nghĩa cộng sản vô thần là một mối
đe dọa lớn lao nhất hiện nay. Chẳng những cấm anh chị em không
được vào Đảng Cộng sản, mà anh chị em cũng không được hợp tác
với họ, hay là làm bất cứ việc gì có thể góp phần cách nào cho Đảng
Cộng sản lên nắm chính quyền. Mối nguy hiểm nghiêm trọng và các
hậu quả của nó kinh khủng đến nỗi chúng ta cảm thấy có bổn phận
nhắc nhở anh chị em đề phòng cả đối với những kiểu lươn lẹo và
mưu chước người ộng sản dùng để đánh lừa dân chúng, những mưu
chước chỉ phục vụ cho các mục tiêu của người cộng sản mà thôi”.

83
Bản kết án đó mang 12 chữ ký, trong đó có 5 chữ ký Việt Nam,
tỏ rõ cho dân chúng thấy Giáo hội chính thức của Việt Nam đứng về
phía nào. Nó hoàn tất sự cắt đứt quan hệ (trừ những người Công giáo
yêu nước, chỉ với danh nghĩa yêu nước mà bị vạ tuyệt thông và bị
Giáo hội ruồng bỏ) giữa Công giáo và Kháng chiến. Nó xô đẩy người
Công giáo coi mình là quân binh của lực lượng Thực dân bởi vì từ
nay, việc họ sung vào hàng ngũ quân đội Pháp được giáo quyền
thánh chiến rồi.
Từ năm 1950, nhiều làng Công giáo vùng đồng bằng được vũ
trang, nhận súng của Pháp, dưới quyền chỉ huy của giám mục Lê
Hữu Từ, còn Bùi Chu thì do giám mục Phạm Ngọc Chi điều khiển.
Vai trò của đội quân tự vệ vượt xa tư cách gọi là chỉ để tự vệ khi bị
cộng sản tấn công, bởi vì nó được tung ra các hoạt động chủ yếu là
hành quân càn quét, có khi bao trùm cả vùng, có lúc chỉ ở địa phương
nhỏ. Chẳng hạn trong trận Ký Con ở Nam Định, một bộ tham mưu
liên quân gồm có trung tá Căngđu (Canduo) ở Nam Định, trung đoàn
trưởng Mô-la (Mollat) đồn Phát Diệm và linh mục Hoàng Quỳnh,
tổng tư lệnh đội quân Công giáo, đã thành công loại khỏi vòng chiến
cả tiểu đoàn Việt Minh ở đây. Lính Công giáo cũng có lúc tham dự
các cuộc hành quân gồm nhiều tiểu đoàn của Pháp. Nhưng ở cấp địa
phương, quân lính Công giáo mới là đội quân hung hăng nhất. Nhằm
lo cho các xứ đạo được bảo vệ hữu hiệu hơn, bọn chúng tổ chức
ruồng bố liên tục các làng Lương chung quanh, bắt giam hoặc giết
chết, khỏi cần tòa án, tất cả chiến sĩ du kích và những ai bị tình nghi
là Việt Minh. Theo gương lính Pháp, chúng cướp bóc các làng, lấy
trộm, tàn sát, thiêu rụi tất cả những gì bị coi là ổ kháng chiến. Nực
cười hết cỡ, có những linh mục-đại úy nghĩ rằng thời điểm đem cả
nước theo Kitô đã tới: họ ra lệnh cho lính đi cướp phá các chùa Phật
giáo, mang hết các tượng Phật về làm cũi chụm, rồi cắm thánh giá
lên chùa hay là đặt tượng Đức Mẹ vào trong đó. Thật phải rùng mình,
khi nhắc lại tên tuổi của một số linh mục như Khâm, Tôn, Luật...

84
Các bản tin về những vụ cộng sản tàn sát Công giáo, do báo chí
Pháp hoặc hãng thông tấn Fides đưa ra, phải được đặt vào trong bối
cảnh lịch sử nói trên. Chẳng hạn, Beena Phan, trích dẫn tờ nhật báo
tiếng Pháp Viễn Đông xuất bản tại Sài Gòn, đã viết: “Người ta kể
lại rằng tại Cao Mai, 180 người Công giáo, gồm nam nữ và trẻ con
bị thiêu sống trong nhà thờ làng, theo sau vụ một đồn lính Pháp bên
cạnh đó không chịu đầu hàng”.
Sự thật lịch sử hoàn toàn khác thế, Cao Mai là một làng thuộc
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, ở 5km cách sông Hồng, nơi chia
đôi Thái Bình với Nam Định, và cũng là ranh giới giữa hai địa phận
Thái Bình và Bùi Chu. Cao Mai có hai thôn, một Công giáo và một
Phật giáo. Đang mùa xuân 1960, giáo dân Bùi Chu lúc đó đã được
vũ trang, còn tại Thái Bình thì quân Pháp chỉ đóng ở thành phố và
những vùng lân cận. Một hôm cha Luật, chính xứ Cao Mai, tiếp một
cha bạn người Bùi Chu sang thăm, có mấy tiểu đội mang vũ khí tháp
tùng. Bọn lính này đi lùng sục các làng chung quanh, bắt các du kích
quân và cán bộ Việt Minh bất ngờ gặp được và giết chết mấy người.
Được báo động, du kích toàn vùng đó kéo về hướng Cao Mai. Bọn
lính Công giáo vừa đánh vừa rút, có chừng 50 thanh niên Cao Mai
và các linh mục tham gia. Khi thấy quân du kích kéo tới, giáo dân
Cao Mai hoảng sợ, chạy vào nhà thờ đóng cửa lại chờ cha xứ trở về
mang theo tiếp viện. Du kích tổ chức bao vây, đòi phải thả các đồng
chí bị bắt ra. Đám người bị bao vây cứ cầm cự. Khi đêm về, nhà thờ
bốc cháy. Nhiều người bị nhốt trong đó chết thiêu. Người ta không
rõ vụ hỏa hoạn đó là do nhóm bao vây gây ra, hay chỉ là một chuyện
rủi ro. Sau đó, cha Luật và quân lính ông trở về, ông chỉ còn biết
khóc trước đống tro tàn của nhà thờ và cái tang của dân chúng. Ông
quyết định trả thù cho giáo dân. Cuộc báo thù hết sức kinh khủng.
Các du kích quân bị lính cha bắt đều bị chôn sống trước nhà thờ. Từ
đó, Cao Mai trở nên một nơi kinh khủng cho cả vùng. Cao Mai là
một trường hợp điển hình trong thảm kịch Việt Nam hồi đó. Máu đổi
máu, những cuộc thanh toán tiếp theo những vụ trả thù. Vì không

85
biết nghệ thuật quân sự và chiến lược của Kháng chiến - do chính
phủ Hồ Chí Minh vạch ra từ 1940 - quá tự tin vào những thắng lợi
lúc đầu, người Công giáo cứ đi bố ráp tại các làng không Công giáo,
vốn thường đâu có chống cự lại họ.
Vào thời gian này, Kháng chiến chỉ ở bước đầu của "chiến lược
phòng thủ" thôi. Quân đội chính qui rút vào núi, sau khi áp dụng
chiến thuật "tiêu thổ" tại các thành thị. Từ 1947, các ngôi nhà lớn
đều bị triệt hạ, trừ những kiến trúc thuộc về Giáo hội, nghĩa là các
chủng viện, trường Công giáo, tòa giám mục, nhà thờ. Sự tôn trọng
của cải Giáo hội như thế tỏ cho thấy rõ chính phủ Hồ Chí Minh đã
thận trọng chừng nào, để tránh đụng chạm đến tình cảm tôn giáo của
người Công giáo, kể cả trường hợp họ biết trước rằng các kiến trúc
đó rồi đây sẽ bị quân Pháp sử dụng. Những biến cố xảy ra sau này,
đã xác lập sự tiên đoán trên là đúng. Thật vậy, năm 1949 và 1950,
phần lớn các tòa nhà Công giáo đã là nơi đặt bộ tham mưu của các
toán quân viễn chinh.
Năm 1950, tất cả địa phận, từ Thanh Hóa và Vinh (không hề bị
chiếm đóng) được quân Pháp "giải phóng". Nhằm chiến thắng cộng
sản, người Công giáo miền Bắc tổ chức các cuộc rước hết sức to lớn,
đem tượng Đức Mẹ Fatima rảo khắp nơi, tượng này đã do giám mục
Gomez, Hải Phòng, làm phép tại Fatima rồi rước về. Tượng Đức Mẹ
viếng thăm lần lượt Hải Phòng, Hải Dương, Hà Nội, Nam Định, Thái
Bình, Phát Diệm, Bùi Chu. Việc tăng cường sùng mộ Đức Mẹ
Fatima một cách đột ngột như thế, mang tính chất nổi bật của cuộc
thánh chiến. Theo các vị cổ vũ việc sùng kính này, thì Đức Mẹ
Fatima đã hứa sẽ đập tan bọn Cộng sản Nga Sô. Tiếng hô triệu tập
dân Công giáo lúc đó là: Trái tim Mẹ sẽ thắng! Việc nhắm mắt tin
vào chiến thắng của Đức Mẹ Fatima một cách mù quáng đã gây ra
những hậu quả rất nghiêm trọng, như chúng ta sẽ thấy.
Sau sự thất bại của Đơ Lát đơ Tátxigny và cái chết của ông tướng
này, lực lượng nhân dân chuyển sang giai đoạn hai của cuộc chiến,

86
"chiến lược cân bằng lực lượng". Họ không còn để cho quân Pháp
và lính Công giáo nắm quyền chủ động về hành quân nữa. Năm
1952, nhiều giáo xứ-đồn bót các địa phận Thái Bình và Hải Phòng
bị chiếm, hoặc đầu hàng. Năm 1953, các vùng đất quân Pháp kiểm
soát bị thu hẹp lại ở các thành phố và các xứ đạo nông thôn của địa
phận Phát Diệm và Bùi Chu. Chính quyền Pháp gọi tình hình đó là
"sự mục rã vùng Đồng Bằng": hai phần ba đất đã về lại quyền kiểm
soát của Hồ Chí Minh. Còn lại một phần ba kia, ngoại trừ các trung
tâm thành thị và Bùi Chu, Phát Diệm, thì quân Pháp kiểm soát ban
ngày, Việt minh làm chủ ban đêm.
Cuộc tổng phản công nổ ra với việc tiến đánh Điện Biên Phủ.
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ trắng được kéo lên tại căn cứ nổi
tiếng của quân lính Pháp. 15.000 quân tinh nhuệ của đoàn quân viễn
chinh bị bắt làm tù binh. Hai tháng sau đó, nước Pháp buộc phải ký
vào Hiệp định Giơnevơ. Bản Hiệp định ngày 21 tháng 7 năm 1954
gồm các khoản quân sự và chính trị.
Về mặt quân sự, quân đội Pháp sẽ tập trung xuống dưới vĩ tuyến
17, còn lực lượng Việt Nam thì tập trung trên vĩ tuyến ấy.
Về mặt chính trị, hiệp định công nhận nền độc lập, toàn vẹn lãnh
thổ, thống nhất Việt Nam, vĩ tuyến 17 chỉ là một đường ranh quân
sự tạm thời, chứ không phải một biên giới chính trị. Các cuộc tổng
tuyển cử tự do, bỏ phiếu kín, phải được tổ chức vào tháng 7 năm
1956 là trễ nhất, hầu lập lại thống nhất đất nước. Các hiệp ước trên
cũng tiên liệu về quyền tự do cho người dân chọn lựa khu vực mình
muốn cư ngụ.

6. CUỘC XUẤT HÀNH


Sự vui mừng của nhân dân Việt Nam, tiếc thay lại là cái tang của
bà con Công giáo vùng Đồng bằng sông Hồng. Bị các linh mục lôi
kéo vào cuộc mạo hiểm nhục nhã và bi đát này, họ cảm thấy mình

87
bị bỏ rơi do sự phản bội của quân Pháp. Hốt hoảng, lo âu, thất vọng,
họ nguyền rủa những người mới đây là đồng minh của mình. J.
Tuócnu (Tournoux) kể lại trong tập "Bí mật quốc gia" rằng một giám
mục đã tới bộ Tổng tham mưu vùng mà viên sĩ quan chỉ huy quân
viễn chinh như sau:
“Này ông, tôi đã tới văn phòng này năm 1952. Lúc đó ông chưa
ở đây, mà một tay trung tá khác ngồi ghế chỉ huy của ông đó. Tôi đã
nói với ông ta: Ông hãy hứa với tôi rằng các ông sẽ không bao giờ
bỏ chúng tôi”. Viên sĩ quan trả lời: “Thưa Đức cha, chúng tôi sẽ
chẳng bao giờ ra đi đâu. Nhưng nay, chính ông là đại diện cho đạo
quân của Pháp. Ông đang tự hạ nhục mình đấy”. Hình như cũng
chính giám mục ấy đã từng nói với Bảo Đại mấy tháng trước đó:
“Trong tình hình hiện nay, chúng tôi cho rằng chỉ mình ngài là có
thể thành công. Vì thế, chúng tôi ủng hộ ngài với tất cả sự xác tín.
Nếu ngài thất bại thì chúng tôi cũng thất bại thôi”.
Vị giám mục này (Phạm Ngọc Chi) sau coi sóc địa phận Đà
Nẵng.
Ngày 28 tháng 6 năm 1954, quân đội Pháp thực hiện cuộc hành
quân sau cùng tại Việt Nam, là rút khỏi mạn Nam đồng bằng sông
Hồng mà chẳng gặp vụ đụng độ nào. Phát Diệm và Bùi Chu trở thành
mồi ngon cho quân đội nhân dân đang chiến thắng. Nhiều binh lính
Bùi Chu quẳng khí giới và trốn theo giám mục Phạm Ngọc Chi cùng
với các linh mục và một toán giáo dân khá đông của ông. Giám mục
Phát Diệm Lê Hữu Từ thì nhảy lên chiếc canô cuối cùng của quân
Pháp đang rời cảng, bỏ quân lính của ông tại chỗ. Một vài tên thấy
giám mục mình hành động hèn nhát như thế bèn nổi giận đến nỗi lấy
lựu đạn ném theo ông. Các linh mục-đại úy và quân lính các giáo xứ
vội vã bỏ chạy, kéo theo gia đình của mình đi di cư.
Không nói về quyền tự do chọn nơi cư trú trong Hiệp định
Giơnevơ là lối thoát sau cùng của các linh mục: họ tìm cách chạy
trốn, đem theo đoàn chiên, người muốn kẻ không, cũng phải theo.
88
Trong lúc hoảng hốt, họ tìm cách tránh né một mật lệnh của Vatican
đưa ra năm 1952 phòng trường hợp chính phủ Hồ Chi Minh chiến
thắng. Quả thế, rút kinh nghiệm từ Trung Quốc: các giáo sĩ đã rút
chạy theo quân đội Tưởng Giới Thạch, bỏ lại mấy triệu giáo dân
không có linh mục, Rôma đã chỉ thị rằng nếu cộng sản thắng thì tất
cả những người có trách nhiệm phải ở lại với con chiên, chỉ các
chủng viện và ban giám đốc được ra đi mà thôi. Bởi vậy, để biện hộ
cho việc chạy trốn, các giám mục và linh mục tìm cách biện minh
rằng, họ phải rời bỏ vị trí của họ để đi theo coi sóc con chiên đã trốn
khỏi vùng cộng sản, hầu bảo vệ đức tin của mình. Trong cuộc di cư
này nhiều chính phủ đã sẵn lòng hỗ trợ, mỗi nước theo cách của
mình.
1) Trước hết, quân Pháp không dễ gì nuốt trôi cái nhục bại trận.
Qua Hiệp định Giơnevơ, nước Pháp không còn gì để bám tại Bắc
Việt; còn tại miền Nam, mặc dầu có cái bộ mặt độc lập bề ngoài
(Pháp ưng thuận cho từ năm 1949), tất cả quyền thực tế vẫn nằm
trong tay quân đội Pháp (do tướng Êly chỉ huy) và cái gọi là Quân
đội Việt Nam (dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan người Việt dân
Tây, như tướng Nguyễn Văn Hinh, hoặc các sĩ quan cũ của đạo quân
thuộc địa). Sau khi đã ký Hiệp định Giơnevơ, thủ tường Menđét
Phơrăngxơ (Mades France) gửi một bức thư cho phủ thủ tướng Ngô
Đình Diệm, đảm bảo với ông rằng nước Pháp sẽ không công nhận
một chính quyền nào khác của Việt Nam. Đàng khác, các quyền lợi
kinh tế của tư bản Pháp tại Việt Nam còn quá lớn lao, không thể bị
hy sinh một hy vọng mong manh của một hiệp nghị kinh tế và thương
mại với một chính phủ đã chiến đấu gần 10 năm nay để giành lại
quyền độc lập hoàn toàn về chính trị, kinh tế và văn hóa.
Quân Pháp chẳng giấu giếm gì trò chơi của họ... J. Côngpanh (J.
Compain), thống sứ Bắc Việt do Cao ủy Pháp tại Đông Dương cắt
cử, đã tuyên bố công khai rằng: quân Pháp khi rút lui, sẽ làm cho Hà
Nội hoàn toàn trống vắng vì chính việc di tản đi một triệu người.

89
Tướng Cônhi (Cogny) đã ký những sự vụ lệnh, truyền cho tất cả
công chức người Việt phải rời Hà Nội đi vào Sài Gòn. Phí tổn vận
chuyển vào Nam sẽ do nước Pháp đài thọ hoàn toàn.
2) Để bốc dân di tản, nước Pháp xin Hoa Kỳ cung cấp cho máy
bay và tàu thủy của hạm đội 7. Người Mỹ, trung thành với chủ thuyết
Măc-Actuya và thuyết Đôminô, đã không chịu và Hiệp định
Giơnevơ, sau khi đã đặt lên một người cầm đầu chính phủ Sài Gòn
theo ý mình là Ngô Đình Diệm, một tín đồ Công giáo, được Hồng y
Xpenman (Spellman) Tổng giám mục Nữu Ước bảo trợ. Sau Hiệp
định Giơnevơ, họ lập ra tổ chức Hiệp hội Đông nam Á (OTASE),
một liên minh chống Cộng, gồm các cường quốc chính của phương
Tây và một số nước chư hầu châu Á. Tại chỗ, quân của Mỹ do trung
tá G. Lenden (Landsdale) chỉ huy, nhộn nhịp làm công tác chiến
tranh tâm lý chống Bắc Việt Nam, nhất là xúi giục dân chúng bỏ xứ
sở đi vào Nam.
Nhờ việc xuất bản "Tài liệu Lầu Năm góc", chúng ta biết được
phần nào những mưu chước đó (The Pentagon Papers, tr. 58-64).
Trước tiên là chiến dịch tung tin đồn: chiến dịch thứ nhất nhằm khéo
léo tung ra câu chuyện một tiểu đoàn Cộng sản Trung hoa tại Bắc
Kỳ đã trả thù một làng Việt, phụ nữ bị hãm hiếm... điều đó làm cho
người ta nhớ lại sách nhiễu của quân lính Tưởng Giới Thạch năm
1945 và như vậy làm cho người Việt càng lo sợ về một cuộc chiếm
đóng của quân Tàu dưới chế độ Việt Minh (...). Mấy tuần sau, người
ta thuật lại với nhau câu chuyện giật gân về những điều tàn ác mà
các sư đoàn lính Trung Hoa làm tại vùng đất Việt Minh. Sau một
cuộc điều tra, người ta mới biết rằng đó chỉ là chiến dịch tung tin đã
cũ, được tô lại cho ra vẻ Việt Nam thôi.
Chiến tranh tâm lý tìm cách hạ giá uy tín chính phủ Hồ Chí Minh
trước khi chính phủ này tiến vào Hà Nội. Một người Việt ái quốc và
một đại úy Mỹ “đã đi rải các tập tài liệu có ký tên Việt Minh, chỉ vẽ
cho dân chúng phải hành động những gì khi Việt minh chiếm được

90
vùng Hà Nội. Đầu tháng 10, các chỉ dẫn chủ yếu trong đó liên quan
tới quyền tư hữu, việc đổi tiền và 3 ngày nghỉ việc dành cho thợ
thuyền khi Cộng sản chiếm được chính quyền. Qua hôm sau, số
người đăng ký xin vào Nam đã tăng lên gấp ba. Hai ngày sau, tiền
Việt minh chỉ còn 50% giá trị”. Lợi dụng sự mê tín dân gian, trước
dịp Giáng sinh, năm 1955, người Mỹ lại sử dụng một vũ khí khác.
“Một người ái quốc mà chúng ta gọi là Triều đình, làm việc tại một
sở in lịch bói toán, phổ biến rất rộng rãi, nhất là tại các tỉnh miền
Bắc đang còn nằm trong tầm tay của ta. Người ta mời các thầy bói
Việt Nam nổi tiếng đến, tiên đoán về những thất bại nghiêm trọng
của một số cán bộ Việt Minh và về việc thống nhất tại miền Nam”.
Người ta không biết bộ Lịch đó gây ra những hậu quả to lớn chừng
nào.
Cũng có những tin đồn rằng quân Mỹ sẽ ném bom nguyên tử tiêu
diệt miền Bắc.
3) Nếu các hoạt động phá hoại của bọn Pháp và Mỹ gây được ảnh
hưởng lên toàn thể dân chúng người Việt, thì có những luận điệu
tuyên truyền khác đóng một vai trò quyết định hơn nơi các cộng đồng
người Công giáo.
Trước tiên, họ sử dụng Đức Mẹ Fatima, mà việc tôn sùng mấy
năm gần đây đã được tăng cường, qua việc thành lập Đạo binh Đức
Mẹ, Đạo binh Xanh, Hiệp hội Chiến sĩ Đức Mẹ. Tất nhiên Đức Mẹ
được giao cho chức năng chính trị là để giải thoát những kẻ tôn sùng
Ngài. Người ta đồn rằng Đức Mẹ hiện ra ở Ba Làng, Thanh Hóa, để
ra lệnh cho giáo dân đi vào Nam, bởi vì Mẹ cũng bỏ miền Bắc Việt
Nam. “Việc hiện ra” hình như đã được dàn dựng tài tình bởi một linh
mục, ông đã mặc áo Đức Mẹ cho một thiếu niên và đã cho em đứng
sau bàn thờ Đức Mẹ Fatima. Trước mấy cây nến lung linh, một vài
nhà "đạo đức" coi đó là Đức Mẹ hiện ra, nói với họ một giọng dịu
dàng nhưng minh bạch rằng, “phải lìa bỏ” đất Cộng sản bất cứ với
giá nào, mà tìm lánh sang vùng đất tự do. Đức Mẹ sắp sửa bỏ miền

91
Bắc. Từ miệng qua tai, tin đồn được loan ra như một vết dầu loang
và được thêm thắt bằng những nét chấm phá mới, kèm theo những
lời tiên tri mới, hoặc những điềm gở tiên báo tai ương sắp tới. Óc
tưởng tượng của dân chúng lại bày ra những chuyện linh mục bị tàn
sát, những mật lệnh của Hồ Chí Minh bảo phải tiêu diệt cho hết
người Công giáo, hay là bắt họ phải bỏ đạo.
“Chạy trốn để cứu lấy mạng sống và cứu lấy đức tin”. “Chúa Kitô
đã đi vào Nam”. “Đức Mẹ đã rời bỏ Bắc Việt”. Những khẩu hiệu phi
lý đó làm cho người Kitô hữu phương Tây phải cười, nhưng lại có
tác dụng rất lớn nơi một cộng đồng Kitô hữu đã từng bị giam nhốt
xưa nay trong sự ngu dốt và trong một kiểu tin đạo được gọi là thời
trung cổ. Trong các ốc đảo khép kín đó của giáo dân, những gì gọi
là “Bí mật của Đức Mẹ Fatima” đều được coi như là tín điều bắt
buộc, trong khi nó chỉ dựa vào một mớ tài tài liệu tuyên truyền nhảm
nhí. Nếu những năm 1949-1953, các linh mục đã thề biến giáo dân
hiền lành vô tội đó thành những tên sát nhân cuồng nhiệt, nhờ khẩu
hiệu “tiêu diệt cộng sản để làm vinh danh Chúa”, thì họ cũng chẳng
khó khăn gì trong việc tạo ra cuộc “Xuất hành vĩ đại”, năm 1954-
1955.
Hiển nhiên, người nông dân Việt Nam sống gắn bó với đất đai
của tổ tiên, với mái nhà, với mảnh vườn, với nhà thờ họ và làng xóm
hơn nông dân các nước khác. Nhưng họ lại dám từ bỏ tất cả mọi sự
để bảo vệ đức tin, nhất là khi các cha xứ của họ lại đảm bảo với họ
rằng, tại miền Nam Việt Nam có một vị thủ tướng Công giáo đang
chờ đón họ và sẽ cấp cho họ những vùng đất phì nhiêu để làm ăn.
Và khối dân chúng đó một khi đã bước chân ra đi, thì không gì có
thể ngăn họ lại được. Thế là với những áp lực đủ kiểu cách, nhờ một
lối tuyên truyền xảo trá, tạo ra một cơn hốt hoảng tinh thần nơi dân
chúng Công giáo, người ta đã thành công đưa vào Nam hàng trăm
ngàn nông dân, bởi vì khối di cư Công giáo sẽ là một lực lượng chính
trị to lớn cho chính quyền Ngô Đình Diệm.

92
Ở đây, chúng tôi không muốn nói về một hạng người di cư khác,
chủ yếu gồm những người thành thị, Công giáo hay không, đã từng
sống dựa vào chính quyền thực dân hay đạo quân chiếm đóng và đã
lợi dụng chiến tranh để làm giàu. Tự nhiên họ phải đi theo quan thầy
vào Nam cư ngụ. Nhưng cuộc xuất hành thê thảm của nông dân Công
giáo không thể nào xảy ra, nếu không có sự phối hợp với những hành
động vừa kể trên.
Giêra Tôn-gat (Gerad Tongas), tác giả cuốn "Tôi đã từng sống
trong hỏa ngục Cộng sản Bắc Việt và tôi đã chọn tự do", với cái tựa
để đó đã đủ cho thấy ông ta không thể là một kẻ thân Cộng, đã kể lại
bức tranh thê thảm ông chứng kiến trong những ngày sau Hiệp định
Giơnevơ: “Điều khốn khổ hơn là những người nghèo - những người
không có tiền của gì phải lo cứu cả - mà cũng trở thành nạn nhân và
là nạn nhân khốn đốn hơn nhiều của một trò tuyên truyền bỉ ổi, là
lại nhân danh tôn giáo. Có những cha xứ qua sức cuồng tín, là loại
chính trị gia hoạt đầu, hơn là người của Giáo hội và của đạo đức,
đưa mặt ra làm những tay tuyên truyền cuồng nhiệt và bẩn thỉu, dùng
những lối xảo trá mà gieo rắc sự hốt hoảng tại các vùng nông thôn.
Họ như nổi cơn sốt lên để hành hạ linh hồn và lương dân, lợi dụng
tính nhẹ dạ cả tín khôn lường của giáo dân, cũng như sự ngu dốt
kinh khủng của con chiên. Một khi bầu không khí "mạnh ai nấy chạy"
đã tạo xong, từng toán xe tải nhà binh tiến vào các làng để bốc đi
thật nhanh, kể cả dùng bạo lực cưỡng ép tất cả dân chúng. Có thể
nói không ngoa rằng, đạo quân viễn chinh đang sùng máu, muốn
thực hiện cuộc hành quân lớn này - dĩ nhiên luôn luôn dưới danh
nghĩa nổi tiếng là "bình định" - trong những vùng đất chính bọn
chúng sắp phải rời bỏ, thể theo Hiệp định Giơnevơ. Các toán xe cam
nhông đó rảo qua các làng Công giáo, vội vã dùng mọi cách bốc đi
hàng ngàn con người khốn khổ, chỉ cho họ đủ thời gian lượm theo
vài bộ quần áo và đôi lúc, một vài bao gạo, rồi chở họ tới hai điểm
tập trung, Hải Phòng và Hà Nội, mà tôi đã có thể ghi nhận các sự

93
kiện, để đưa ra một chứng từ nghiêm trọng không một ai có thể bác
lại.
“Ngày 29 tháng 7 năm 1954, vào quãng 7 giờ tối, vợ chồng tôi
đang đi về nhà, bỗng có tiếng ồn ào phát ra từ bóng tối khiến chúng
tôi phải để ý. Tiến gần chỗ bóng tối, chúng tôi trông thấy một đám
đông người lạ nằm đầy lề đường khu phố chúng tôi. Ánh sáng leo lét
từ một vài bóng điện chao đảo trước gió cho chúng tôi phát hiện ra
một thứ "trò chơi cúp cọp", phụ nữ, người già, trẻ con, kẻ chồm hổm,
người nằm duỗi dài giữa một đống không biết bao nhiêu thứ lỉnh
kỉnh, nào xắc nào ba-lô đầy dẫy, rồi kẻ đi người lại trong một cảnh
hỗn náo không ngừng.
“Họ nằm đó hàng ngàn người. Có những người chúng tôi làm
quen đã giải thích rằng vào giữa buổi chiều, các toán xe cam nhông
của quân đội Pháp đã đổ đám người nông dân này xuống đó, họ bị
bốc từ làng tới đây mà chẳng ăn uống gì trước khi ra đi. Và những
người được ưu đãi đã đi từ 8 giờ sáng đấy! Vì phải ra đi vội vã theo
lệnh bảo lên xe, chẳng nói chẳng rằng kiểu nhà binh (bọn lính đã
lao vào nhà họ), rồi có đám được cha xứ đến an ủi, khuyên bảo làm
họ yên tâm, họ đã trẩy đi với một ít quần áo và đồ dùng kịp thời lấy
đem theo, với ít gạo cho vào bao rồi gánh đi.
“Sau một ít phút giải thích, trong lúc chúng tôi nhìn vào cảnh
tượng thê lương đó, không cầm nổi nước mắt, họng tôi nghẹn ngào,
trí óc ghi sâu bức tranh thảm cảnh di cư đó của những con người vô
tội bị giật lôi ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn, rồi bốc lên xe, chở đi
và bị đối xử chẳng khác nào những súc vật người ta chở tới lò mổ!
“Trừ một số trường hợp, dân chúng địa phương cứ tỉnh bơ trước
các nỗi khổ đau của những đồng bào thiếu thốn cơ cực này, chẳng
lạ gì điều đó. Bởi vì chính chúng tôi cũng đã chứng kiến thực trạng
như vậy ở những nơi khác vào những giây phút tương tự. Chúng tôi
thấy cần nói thêm về tâm trạng quần chúng lúc đó tại Hà Nội: một
bầu không khí rất nặng nề bao trùm lên mọi sự, và một luồng gió
94
kinh hoàng thổi khắp nơi, do các cuộc ra đi tôi đã kể trên và được
bọn tuyên truyền loan tin nhảm nuôi dưỡng rất cẩn thận. Tình hình
thật ghê tởm đến nỗi, những kẻ đi đã phải khen chúng tôi dám ở lại,
trước khi họ hở cho chúng tôi biết rằng họ là người ra đi; còn những
người ở lại thì nín bặt không dám nói ra, vì chắc là sợ bị trả thù bởi
những tay bạo chúa tổ chức di cư.”
Những đoạn trích trên đây miễn khỏi phải chú thích thêm.
Chẳng bao lâu, một Ủy ban mẫu quốc lo cho cuộc di cư được
thành lập, với sự giúp đỡ của Mỹ. Tiền "viện trợ" này đã được tính
trước từ lâu, cả trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Theo một
bức điện do hãng thông tấn AFP đánh đi ngày 30-61954, thì “trong
một cuộc họp báo, Tổng thống Aixơnhao đã cho biết rằng, nếu có
hiệp định đình chiến thì Mỹ sẽ tổ chức một cuộc di tản để đưa dân
miền Bắc vào Nam”. Vì mục đích của cuộc di cư trước tiên là chính
trị, nhằm gây ra những nỗi bất bình của dân chúng đối với chính phủ
Hồ Chí Minh, quân Mỹ đã tung ra hoạt động vể hai mặt; một mặt, tổ
chức phá hoại có hệ thống tại Hà Nội trước khi quân lính Pháp rút
đi, chẳng hạn lảm hỏng kho xe buýt, phá hư các máy móc và đặt mìn
đánh sập Chùa Một Cột, ngôi chùa đầy giá trị lịch sử và tôn giáo có
từ hàng trăm năm. Mặt khác, "vì những lý do nhân đạo", cung cấp
hàng chục triệu đôla và cho 41 tàu của hạm đội 7 phục vụ cho việc
di cư.
Trước ngày 12-10-1954, ngày trao chuyển Hà Nội cho chính phù
Dân chủ, linh mục Mai Ngọc Khuê (sau này làm CIA và bị thanh
toán bí mật tháng 3-1970 tại vùng Sài Gòn) đại diện phía Công giáo
trong Ủy ban di cư, đã bí mật phái về vùng Việt Minh những nhân
viên tuyên truyền nhằm đem hết sạch dân Phát Diệm, Bùi Chu, Thái
Bình đi di cư. Một số tay trong bọn này đã bị bắt với vụ lệnh, ghi tất
cả một kế hoạch đã được vạch ra rất tinh vi.
Dư luận quốc tế sau đó đã được báo động bởi các biến cố bi thảm
xảy ra tại các miền duyên hải của Đồng bằng sông Hồng. Báo chí
95
ngày 25-10-1954, viết như sau: “Cuộc xuất hành bằng đường biển,
với những người di cư, phần đông phương tiện khác rất yếu ớt,
những người di cư, phần đông là Công giáo từ các vùng Bùi Chu,
Phát Diệm hiện do Việt minh kiểm soát, trong vòng 24 giờ qua đã
lên tới con số khổng lồ, khiến bộ Tư lệnh hải quân Pháp đã quyết
định vớt họ. Đêm qua và sáng nay, các đơn vị hải quân Pháp đã chở
tới Hải Phòng gần 2000 người di cư, họ vớt được ngoài khơi hải
phận Việt Minh, ở lối 100km mạn Nam Hải Phòng.
“Theo lời những người di cư, hàng ngàn người khác thuộc địa
phận Bùi Chu và Phát Diệm đang tìm cách chạy trốn, có khi phải
trả 5000 quan Pháp cho một chỗ trên các thứ thuyền hoặc bè. Nhiều
thuyền đã bị lật và đắm luôn trong các cơn bão đang nổi dữ mấy
ngày nay. Như vậy, hàng trăm người di cư đã bị chết đuối trong nạn
đó”.
Ngày 26-10-2954 báo chí đưa tin: 15.000 người Công giáo bỏ
trốn bằng ghe thuyền hoặc bè, để đi tìm tự do, từ các địa phận Bùi
Chu và Phát Diệm, đã tới được Hải Phòng.
Người ta còn nói tới những vụ đụng độ giữa dân di tản với đơn
vị bộ đội địa phương của Việt Minh đang tìm cách ngăn cản không
cho dân chúng ra đi.
Ngày 22-11-1954, ông Đơxe (Desai, người Ấn), Ủy viên ban
Quốc tế Kiểm soát đình chiến, tuyên bố về các công tác đã thực hiện
như sau: “Đã có thỏa hiệp với Việt Minh, nhằm đảm bảo sự tự do
cho những người muốn rời bỏ Đồng bằng sông Hồng mà đi xuống
miền Nam. Cho tới ngày 18 tháng 11 năm 1954, có 5.230 giấy phép
đã được cấp phát”.
Cuộc xuất hành từ đây càng lan rộng một cách đáng lo và bi đát.
Nhằm nhấn mạnh thái độ tàn nhẫn của cộng sản, thông tấn xã Fides
loan tin ngày 25 tháng 11 rằng, “có 12 vị thừa sai nước ngoài đã chết
tại các trại Việt Minh trong chiến tranh Đông Dương. Người ta tin

96
rằng còn lối 100 linh mục Việt Nam đang bị giam trong tù”. Để tiếp
lời các bản tin đó, thường bị những quan sát viên khách quan bác bỏ,
đài Vatican và báo chí Công giáo loan thành cả những chiến dịch
tuyên truyền, cho rằng "nhiều vụ tàn sát tập thể người Công giáo" đã
xảy ra. Đài và các báo đó còn sử dụng con bài "di cư" như con ngựa
đầu đàn để biện minh cho việc Nam Việt và người Mỹ không chịu
thi hành nghiêm túc Hiệp định Giơnevơ.
“Họ và cùng với họ là cuộc di cư có hình loại và tầm cỡ độc đáo
duy nhất, tiêu biểu cho cuộc chiến thắng cộng sản quốc tế to lớn
nhất và có thể là chiến thắng số một kể từ 30 năm nay. Một chiến
thắng hòa bình của những nam nữ đã dám phủi tay mà nói tiếng
KHÔNG và với nỗi đau thương hiển hách, họ dám chịu mất mọi sự
ở nơi mà nhiều kẻ khác nghĩ là nên nói rằng có thể là phải, có thể là
không” (G. Naidenoff, V, 1955).
“Chúng ta hãy luôn nhớ đến món nợ tri ân vô hạn chúng ta mắc
với những anh chị em di cư Việt Nam. Chứng từ họ đưa ra cho Giáo
hội là thuộc loại to lớn nhất và từ sự vinh hiển như triều thiên của
họ trước mặt Thiên Chúa và người ta, một vài tia chiếu dọi xuống
trên các vị thừa sai suốt bao nhiêu thế kỷ đã từng giúp cho họ được
trở nên như ngày nay” (Queguiner, trong Bản tin Thừa sai Pari).
Báo chí cánh hữu cũng không giữ im lặng. H. Amuru
(Amouroux) đã viết trong số báo Aurore ra ngày 4-4-1955 sau nhiều
tuần lễ điều tra rằng: “Trong suốt cuộc chiến vừa qua, chúng ta đã
nói rằng mình bảo vệ sự tự do và một số giá trị vật chất và tinh thần,
trong đó phải kể nền văn minh Thiên Chúa giáo. Đó là những kiểu
khẩu hiệu. Và hôm nay, đây là chứng cớ rằng những điều khẳng định
đó chẳng phải chỉ lả khẩu hiệu suông, mà nó hợp với một thực tế rất
đáng xúc động, rằng cái dân tộc ruộng nước kia, xưa nay chúng ta
chưa bao giờ hiểu họ và chúng ta đã từng mang cả một bộ máy chiến
tranh đến chà đi xát lại trên họ, thì hôm nay họ cho biết rằng, họ
hiểu được thế nào là tự do, dân chủ…

97
Chúng ta, thế giới tự do và không có nước Pháp, chúng ta có thể
nào bỏ rơi những con người đó, mặc cho sự trả thù, đem quẳng họ
lại vào bàn tay Cộng sản và làm cho cuộc bỏ trốn kỳ diệu của họ
năm 1954 hóa ra vô ích sao?”
Lời kêu gọi cảm động đó lại được báo chí Mỹ, đầu tầu của “thế
giới tự do” lấy lại, rồi đi dìm nhân dân Việt Nam lần nữa vào trong
một biển máu.

7. NGƯỜI CÔNG GIÁO, TRỌNG TÂM CỦA CUỘC


DI CƯ
Muốn có một cái nhìn tổng hợp về cuộc chạy trốn của người Việt
Nam những năm 1954-1956, chỉ cần phân tích các tỉ số những thành
phần di cư là có ngay. Sau khi quân Pháp vĩnh viễn ra đi năm 1955,
số người di cư lên tới 860.000, trong đó có 250.0001 là Công giáo.
Những thành phần còn lại là ai? Họ là 2%2 của dân số không Công
giáo, đã "chọn tìm tự do".
Trước hết là các sĩ quan, binh lính của cái gọi là “quân đội Pháp-
Việt”, tiếp đến là các công chức đã họp làm tay sai cho bọn thực dân,
rồi có các nhà tư sản thành thị, những tay địa chủ lớn đã lợi dụng sự
hiện diện Pháp trước và sau 1945 để làm giàu, hoặc cai trị như lãnh
chúa, bằng việc cho vay nặng lãi, bằng cách tổ chức ăn cướp có hệ
thống của cải nông dân, cuối cùng là một bộ phận những nhà chính
trị "quốc gia", đã luôn mơ mộng rằng có thể đoạt được độc lập nước

1 Có lẽ tác giả viết muốn nói con số 250.000 này là "không Công giáo" Theo
quyển "The Two Vietnams" của Bernard B. Fall (Nhà xuất bản Frederick A.
Praeger, New York, 1964) trang 154, trong số 860 ngàn dân di cư, có đến 600
ngàn là Công giáo. Vậy còn lại khoảng 260.000 là không Công giáo.
2
Cũng theo Bernard B. Fall, trang sách đã dẫn, con số 600 ngàn giáo dân di cư
chỉ là 65 phần trăm tổng số giáo dân, trong lúc 99.5% dân "không Công giáo" ở
ngoài Bắc không đi. Như thế, con số 260 ngàn dân không Công giáo chỉ là 0.5
% tổng số.

98
nhà nhờ sự quảng đại của Pháp, với nhóm những trí thức "phi chính
trị" nghĩ rằng sống tại miền Nam họ sẽ giữ được trung lập chính trị
dễ dàng hơn. Khác với người Công giáo, người ta ít gặp thấy người
Phật tử nghèo bỏ nhà bỏ cửa, làng mạc, ra đi để cứu vãn niềm tin của
họ. Nhất là càng không phải vì là Phật tử mà ra đi. Nhận định này có
tầm quan trọng hàng đầu, nếu muốn nắm được tất cả các tính phức
tạp của thảm kịch Công giáo trong cuộc di cư.
Quả thế, xét về Công giáo di cư, người ta cần hiểu rằng hàng giáo
sĩ đã ảnh hưởng rất lớn cho việc ra đi. Biểu đồ đưới đây, với những
con số hầu như chắc chắc, cho chúng ta thấy rõ vấn đề:

ĐỊA Trước di cư Di cư vào Nam


PHẬN Giáo dân Linh mục Giáo dân % Linh mục %
Hà Nội 200.000 168 50.000 25 115 68
Bắc Ninh 74.000 64 38.000 52 56 86
Bùi Chu 330.000 200 165.000 50 170 85
Hải Phòng 120.000 87 61.000 51 79 91
Hưng Hoá 78.000 54 7.000 9 24 45
Lạng Sơn 5.000 18 2.500 50 13 72
Phát Diệm 139.000 168 80.000 58 143 85
Thái Bình 160.000 92 80.000 50 79 86
Thanh Hoá 65.000 88 18.000 28 62 70
Vinh 219.000 188 42.000 20 68 36
TỔNG
1.390.000 1.127 543.500 40 809 72
CỘNG

CHÚ THÍCH:

99
Để làm biểu đồ này, chúng tôi đã căn cứ vào thống kê của các
giáo phận Việt Nam, của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(1955). Các con số khác không thể hoàn toàn chính xác, bởi vì các
nhóm di cư Công giáo vốn có xu hướng thổi phồng con số của mình
để nhận được nhiều viện trợ hơn. Nhiều linh mục phụ trách di cư
1954-1955 đã thú nhận với tôi như thế. Báo Missi 1956, trang 39-
40, cho những con số sau đây: Công giáo di cư: 676.000, linh mục
triều di cư: 618, không cho biết số linh mục dòng và thừa sai.
Nhìn vào Bảng thống kê trên đây, thì đã có tới 72% số linh mục
miền Bắc di cư, còn giáo dân thì có 40% ra đi. Sự sai biệt lớn lao
giữa hai tỉ lệ vừa nói, bác bỏ lời biện hộ cho rằng các linh mục chỉ
rời bỏ xứ đạo mà đi vì nhu cầu coi sóc con chiên của mình. Điều mà
bảng thống kê không nêu rõ, cũng cần được phân tích ra chi tiết hơn.
Thực tế, nhiều cộng đồng giáo xứ đã chỉ chọn việc ra đi là do áp
lực trực tiếp hoặc gián tiếp từ phía các giáo sĩ. Sự thể xảy ra theo ba
trường hợp sau đây:
A) TRƯỜNG HỢP THỨ NHẤT LÀ VỊ LINH MỤC QUYẾT
ĐỊNH Ở LẠI, thì không có việc dân chúng giáo hữu ra đi hàng loạt.
Những giáo dân phải bỏ trốn vào Nam – ở đây chỉ là một thiểu số
mà thôi – thì đó là những người đã từng dính líu tới quân Pháp, hoặc
đó là mấy người địa chủ lo sợ bị tịch thu tài sản, hoặc sợ bị trả thù
bởi những người họ đã từng bị áp bức bóc lột trước kia.
B) TRƯỜNG HỢP VỊ LINH MỤC ĐỨNG RA TỔ CHỨC DI
CƯ, có tới 90-100% dân chúng di cư. Đối với người giáo dân Việt
Nam, sống đạo mà không có lễ chủ nhật, không có bí tích, không
được tống táng theo nghi lễ tôn giáo, thì kể như là mất đức tin và bị
án phạt đời sau không tránh khỏi.
C) TRƯỜNG HỢP LINH MỤC VÌ HOẢNG HỐT, BỎ CHẠY
MỘT MÌNH, thì tình hình các xứ xảy ra không giống nhau. Nếu linh
mục gửi được người can đảm để tìm cách liên lạc được với giáo dân,

100
giải thích cho họ về nguy cơ mất linh hồn, cán bộ Việt Minh tỏ thái
độ ít nhiều gay gắt đối với họ, thì họ dám liều chết để tìm cách chạy
ra Hải Phòng, thành phố tập họp dân di cư được bọn Pháp bảo vệ.
Nếu vì những lý do khác nhau, vị linh mục không liên lạc được với
giáo dân, hoặc cán bộ Việt Minh tỏ ra tử tế rộng lượng với giáo dân,
thì đa số sẽ ở lại, không đi.
Nhìn vào các con số dân di cư từ các địa phận Hà Nội và Hưng
Hóa, người ta sẽ bỡ ngỡ thấy tỉ lệ người đi rất thấp: Hà Nội có 32%
và Hưng Hóa chỉ 9% ra đi. Ấy thế mà người Công giáo Hà Nội (nơi
tập trung để di cư) và Hưng Hóa (cách Hà Nội chỉ 40km) lại chẳng
có những khó khăn về việc vận chuyển, đồng thời cũng dễ dàng vượt
qua những trở ngại do Việt Minh tạo ra – những trở ngại theo báo
chí Sài Gòn và của Công giáo Pháp và Mỹ thì rất khủng khiếp – để
tới được Văn phòng Ủy ban Quốc gia Di cư, nhưng họ lại không kéo
nhau đi hàng loạt "để chọn sự tự do tôn giáo". Tại sao vậy? Giám
mục Trịnh Như Khuê, địa phận Hà Nội và giám mục Magie, địa phận
Hưng Hóa, vâng lệnh của Vatican, đã chính thức cấm đoán các linh
mục địa phận rời bỏ vị trí mà không có phép, kẻ nào dám làm ngược
lại thì lập tức bị treo chén. Một lý do khác, giáo dân tại hai địa phận
trên đã không được quân Pháp trang bị vũ khí để chống lại Kháng
chiến, nên họ không sợ bị trả thù.
Trái lại, trong các địa phận mà phần đông giáo xứ đã được các
linh mục-đại úy chỉ huy, như Phát Diệm, Bùi Chu, Thái Bình, Hải
Phòng và nếu chính giám mục cũng bỏ đi, thì thường là 80% giáo sĩ
di cư, với tỉ lệ giáo dân ra đi vượt 50%.
Tại các địa phận Thanh Hóa và Vinh – hai địa phận từ 1945
không bao giờ quân Pháp chiếm đóng được – con số di cư là 18.000
(28%) và 57.000 (27%), phần đông đi vào Nam với giấy thông hành
do chính phủ Dân chủ Cộng hòa cấp cho.
Với những kiểu mô tả phóng đại và những lời kêu gọi báo động
với "thế giới tự do", người ta rêu rao nào là Việt Minh dùng mọi thứ
101
áp lực tinh thần và thể xác đối với người ra đi, nào là dân bên Lương
dùng mọi thủ đoạn tinh vi khôn khéo hòng làm cho những kẻ đã lên
đường phải quay trở lại, hoặc Việt Minh dùng đến cả quân đội để
ngăn chặn làn sóng di cư. Nói cho thật khách quan, phải công nhận
rằng những kiểu các linh mục gây áp lực nhằm cưỡng bức bà con
Công giáo bỏ miền Bắc di cư vào Nam, đã gây ra phản ứng đôi khi
thô bạo nơi các chính quyền địa phương. Theo Đơvinliơ (De
Villiers) và Giăng Lacutuya (J. Lacouture) trong cuốn “Việt Nam,
từ chiến tranh Pháp đến chiến tranh Hoa Kỳ” thì óc đảng phái và cái
nhìn hẹp hòi của một số cán bộ Cộng sản đã góp phần tạo thành công
cho mưu đồ của Diệm, đối xử cứng rắn, thuế nặng nề, tịch thu, khổ
sai, quấy nhiễu v.v.. tất cả cách xử sự đó – lắm lúc cái nảy xảy thành
cái ung – nhiều khi đã khiến thiên hạ cho rằng luận điệu tuyên truyền
của Diệm là đúng, gây ra hốt hoảng sợ hãi và đẩy nhanh cả nhịp độ
di cư.
Tuy thế, lời quả quyết của linh mục Uyn-lích (Willichs) thừa sai
người Bỉ, cũng không đúng, khi ông cho rằng “nếu Việt Minh không
ra sức ngăn cản và đàn áp việc di cư thì sẽ tới bốn triệu người Bắc
đã chạy trốn vào Nam để được sống dưới chế độ "nhân đạo" của lãnh
tụ Ngô Đình Diệm” hay là lời cha G. Nayđơnốp viết trong báo Missi:
“Những người di cư mà tôi đã có dịp hỏi đều nhất loạt khẳng định
rằng nếu bây giờ họ được ở trong Nam, thì đó là vì họ may mắn hơn
nhiều người khác trong gia đình, trong làng hoặc trong vùng của họ.
Họ đã có phương tiện để đi, còn những người khác đã bị giữ lại”.
Một nhà viết sử không phải của Giáo hội đã gióng lên một tiếng
chuông khác: “Mọi người phải công nhận rằng cuộc di cư hàng loạt
như thế chủ yếu là kết quả một cuộc hành quân chiến tranh tâm lý
của Mỹ (và của cả quân đội Pháp)” (B. Fall, Hai nước Việt Nam).

102
Chương III: GIÁO HỘI TRONG CƠN BÃO BÙNG

1. GIÁO HỘI CHIẾN THẮNG


“Tại các vùng tôi đã đi thăm, người Cộng sản đã giành được một
loạt thắng lợi về chính trị, hành chính, quân sự và – cũng phải nói
thôi – tinh thần… Điều đã gây ấn tượng mạnh nhất trong tôi, hỡi ôi,
lại là tinh thần hăng hái họ đã tạo được nơi các cán bộ không Cộng
sản và sự ủng hộ mạnh mẽ họ giành được từ phía nông dân". (Joseph
Alsop, phóng viên chống cộng, ngày 31-8-1954).
Lêô Sécnơ (Leo Cherne) viết trong báo Look ngày 19-1-1955
rằng: “Nếu tổ chức đầu phiếu hiện nay thì phần lớn người Việt (miền
Nam) sẽ bỏ cho Cộng sản… Chúng ta biết làm được gì?”
Các phóng viên người Mỹ kể trên có lẽ chưa đọc lời tuyên bố
chính thức của các tu sĩ dòng Tên trong báo Missi mười lăm hôm
sau hiệp định Giơnevơ, vốn đã tiên liệu bằng giấy trắng mực đen
cuộc đầu phiếu cho năm 1956, như sau: “Sẽ không có đầu phiếu, dầu
người của Nhà nước có suy nghĩ nói năng thế nào cũng mặc. Sẽ
không bao giờ có đầu phiếu, bởi một lẽ là không thể làm việc đó, nếu
chính quyền miền Nam có may mà thắng cử, thì liệu chính phủ Việt
Minh có chịu giải tán quân đội, bộ máy hành chính, cảnh sát của họ
để tuân theo sự phán quyết của dân chúng chăng? Thực ra, Việt
Minh vẫn mong một thắng lợi trọn vẹn, càng hòa hoãn thì càng có
tính quyết định hơn. Họ mong chiến thắng về tâm lý "giải phóng"
bởi vì các bối cảnh chính trị và mối liên lụy miền Nam mắc phải, lại
có lợi cho họ. Nhưng các cuộc bầu cử có lợi cho Việt minh không
thể xảy ra, bởi vì Hoa Kỳ và các thành viên trong Đông Nam Á không
thể chấp nhận một sự đảo ngược cán cân như thế. Càng không thể
được, khi mà chính quyền Việt Nam đã nhất định quay sang phía
Hoa Kỳ, được coi là thành trì các nước tự do” (Missi số 7-1954, tr.
252).

103
Danlơt (F. Dulles), Quốc vụ Hoa Kỳ, đã chẳng nói trong một mật
điệp gửi cho phụ tá của ông, ngày 7-7-54, đang tham dự thương nghị
Giơnevơ như sau: “Chẳng còn hồ nghi về việc các cuộc bầu cử có
thể thống nhất đất nước Việt Nam dưới quyền của Hồ Chí Minh”
(Pentagon Papers 46). Aixơnhao cũng đã chẳng cả quyết sau này
rằng: “Nếu bầu cử xảy ra theo như Hiệp định Giơnevơ đã tiên liệu
thì 80% dân chúng miền Nam sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh” đó sao?
Phải nhìn vào ánh sáng của chính sách rõ ràng đó, người ta mới
hiểu được tại sao Mỹ và các thành phần Công giáo đã nỗ lực xô đẩy
vào Nam những đoàn người Công giáo rồi đây trở thành những toán
quân xung kích chống Cộng và có nhiệm vụ phá hoại bầu cử, để
hoàn tất việc chia cắt đất nước ra làm hai, trái với Hiệp định Giơnevơ
và bảo vệ cho chế độ mỏng manh do Mỹ dựng lên. Toàn thể độc giả
chắc còn nhớ các biến cố tại Sài Gòn những năm 1954-1956. Ngô
Đình Diệm phải đánh dẹp các lực lượng phong kiến đã do quân Pháp
dựng lên trong thời chiến: Quân Bình Xuyên, lúc đó kiểm soát ngành
cảnh sát Sài Gòn Chợ Lớn, các đảng phái vũ trang như Cao Đài và
Hòa Hảo và cái gọi là quân đội miền Nam, nhưng sĩ quan đều là tay
sai của Pháp. Diệm đã thắng. Một đàng, nhờ Mỹ đã thành công hất
cẳng Pháp, bắt họ rút hết quân thuộc địa về. Quân Pháp đi rồi, Ngô
Đình Diệm truất phế Bảo Đại, rồi tự phong là tổng thống Cộng hòa
miền Nam. Trong tất cả các cuộc khủng hoảng này, chú Sam luôn
luôn có mặt đấy, “Theo yêu cầu của ông Diệm, chúng tôi (trung tá
Lansdale, trùm CIA) đến thăm ông ta hầu như mỗi chiều, trong thời
gian đó căng thẳng gia tăng, và nhiều khi cuộc thăm viếng của chúng
tôi kéo dài hàng giờ" (Pentagon Papers, tr. 20).
Nhưng đàng khác, bên cạnh sự ủng hộ của Mỹ, Diệm cũng cần
có lực lượng dân chúng để giúp ông cầm quyền. Nhân dân miền Nam
tỏ thái độ hững hờ hoặc chống đối ông. Các đảng phái chính trị - tôn
giáo hầu như không không muốn hợp tác với ông. Quân đội thì còn
ở dưới sự chỉ huy của các sĩ quan thân Pháp. Đảng Cần Lao do em

104
của Diệm là Ngô Đình Nhu lập ra, tập họp một nhóm chính trị gia
Công giáo tư sản còn ở giai đoạn trứng nước. Diệm dựa vào khối
Công giáo di cư, dễ sai bảo và cuồng nhiệt, sẵn sàng tuân lệnh các
cha xứ kéo nhau xuống đường mít tinh ủng hộ. Cuộc xuống đường
đầu tiên xảy ra ngày 21-9-1954. “Trong không khí bị đầu độc của
Sài Gòn, những người di cư khốn khổ ấy dầu sao cũng là một sự
khích lệ cho Diệm, khi họ kéo nhau biểu tình hô to ủng hộ ông ta,
với những khẩu hiệu được bôi vẽ vội vàng. Như thế ông không phải
cô đơn một mình trong dinh Dorođôm, như một vài người muốn nói.
Người di cư được tập họp theo những mệnh lệnh hết sức đơn giản.
Họ biết rằng người cha của họ, người họ cậy nhờ, người bảo hộ cho
họ, đó là tổng thống Diệm… Người ta nói với họ rằng tổng thống
sắp gặp rắc rối với các đối thủ, thế là họ kéo nhau tới, một cách hiền
hòa, chẳng súng ống gì, để nói lên sự gắn bó của họ”. Đó là mô tả
tình hình theo báo Missi. Còn phải thêm luận điệu của Paris-Match
để hiểu sự kết cuộc bi đát của nội vụ: “Các đoàn xe cam nhông Bình
Xuyên xuất hiện, điều động vào địa hình rất tài, dựng cản khắp
đường phố. Rồi bỗng dưng một loạt súng máy bắn xả vào một toán,
mà chỉ cần nhẹ hơn cũng đủ sức giải tán… Nhiều người chết và bị
thương nằm la liệt giữa phố. Một nhóm nhỏ biểu tình tiến tới quảng
trường Bá Đa Lộc và treo lên bờ rào của Nhà thờ chính tòa mấy câu
khẩu hiệu. Các linh mục tới gỡ đi và khuyên đám biểu tình hãy giải
tán.”
Những màn tương tự cứ tiếp tục xảy ra tại Sài Gòn. Mỗi lần
"Quốc gia lâm nguy", hàng chục ngàn người Công giáo, từ các trại
di cư quanh thủ đô sắp hàng theo sau các cha xứ bận áo chùng thâm,
kéo tuôn về thủ đô để biểu tình nói lên ý chí cương quyết ủng hộ
Diệm tới chết. Quả thế, số phận họ được coi như gắn liền với số phận
của thủ tướng.
Nhờ viện trợ Mỹ, việc định cư hầu như được giao phó hoàn toàn
trong tay các cha xứ, các làng "kiểu Bắc kỳ" mọc lên tại Hố Nai, Cái

105
Sắn v.v… bao quanh nhà thờ, lúc đầu chỉ làm bằng vật liệu nhẹ, sau
được xây gạch thường có tháp chuông. Đó là những ốc đảo khép kín,
vừa không thể xâm nhập, vừa không thể đánh chiếm.
Nhờ sự ủng hộ vô điều kiện đó, sau cùng Diệm đã hất được Bảo
Đại trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-55, Diệm chiếm được
98% số phiếu. Nước Cộng hòa được công bố và đương nhiên Diệm
trở thành tổng thống đầu tiên. Các mục tiêu của chính phủ ông đơn
giản lắm. a) củng cố miền Nam; b) giải phóng miền Bắc khỏi ách
Cộng sản.
Người ta đã viết nhiều về Ngô Đình Diệm như một "người hùng
Đông Nam Á", là "Côngxtantanh châu Á", là "Klôvít mới trong lịch
sử Giáo hội". Theo dư luận của những người đã từng cộng tác với
ông, Diệm là một người liêm khiết, độc tài, phong nho, và "trung
cổ". Cổ lỗ, ông càng tỏ ra cổ lỗ hơn, khi tự cho mình là "Người Chúa
chọn" để cứu dân. Là người độc thân từng sống gần chục năm trong
tu viện, chủng viện, tại Việt Nam cũng như tại Mỹ, ông gần gũi với
thuyết thiên chủ hơn là dân chủ.
Là cha của nước Cộng hòa, ông chỉ chấp nhận một đảng duy nhất
là Cần Lao, được thành lập và khuynh loát bởi ông em Ngô Đình
Nhu, làm nòng cốt cho cái ông gọi là Phong trào cách mạng quốc
gia. Phong trào này được tổ chức theo cơ cấu của một chính thể quốc
gia, có tất cả các bộ chân rết như bộ máy chính quyền từ trên xuống
dưới, khiến bất cứ ai muốn được thành tỉnh trưởng, quận trưởng, xã
trưởng, giáo sư hay công chức, đều phải là đảng viên Cần Lao. Hệ
tư tưởng của Đảng và Phong trào là "thuyết Nhân vị", chỉ có một
trường đào tạo duy nhất là “Trung tâm đào tạo nhân vị”, do người
anh của tổng thống là Giám mục địa phận Vĩnh Long, Ngô Đình
Thục sáng lập. Bất kỳ là Công giáo hay không, tất cả công chức đều
phải qua một khóa học tập ít là một tháng tại đó. Cá lớp học đều do
các linh mục đảm nhiệm, nhồi nhét những khái niệm về nhân bản,
con người được Thiên Chúa sáng tạo, giảng về những điều lầm lạc

106
của Phật giáo, Khổng Giáo, về các tội ác của Cộng sản… Cuộc "tẩy
não" này do chính các linh mục thực hiện, họ là những người chỉ biết
triết học kinh viện tây Âu và "đã tiếp thụ tại Rôma cái khái niệm về
Phật giáo do các cố cựu thừa sai dạy cho" (lời thú nhận của giám
mục Thục).
Vị giám mục này, anh của tổng thống, niên trưởng của hàng Giáo
phẩm, đã hóa thành trí não tuyệt vời của chế độ. Người ta tìm tới ông
để xin xỏ ân huệ, đặc quyền. Giám mục làm như hiện thân của Giáo
hội, cũng như ông em là hiện thân của Nhà nước. Thật không phải
vô cớ mà thiên hạ bàn tán về "óc hiếu thắng của Giáo hội" và chủ
nghĩa gia đình trị của nhà họ Ngô. Đáp lại các lời chỉ trích, giám mục
Thục nói năm 1963 rằng: “Trên bàn giấy của tôi nằm chồng chất
những lô đơn xin tôi can thiệp cho họ ơn này ơn nọ, khổ thay, thường
chỉ là thế tục, từ chóp bu của Giáo hội, băng qua các đồng nghiệp
của tôi trong hàng giám mục (…) và xuống cho tới những tầng lớp
thấp nhất của quần chúng, bất phân màu da và tôn giáo (tôi có thể
kể ra tên tuổi đáng kính như hồng y Feltin và đức cha Rô-đanh
(Rodhain). Tôi không thể dửng dưng trước những lời kêu xin của họ.
Cho nên có sự ăn qua giữa cái thiêng liêng và cái phàm tục! Ở vào
địa vị tôi, các ông sẽ xử sự thế nào?” (ICI, 15.4.1963).
Từ 1955 đến 1963 là thời vàng son của chủ nghĩa cha chú, với
những lợi ích thật chẳng bao nhiêu, nhưng với những hà lạm gây
nhiều tiếng tăm hơn, nhất là trong khi công chúng gồm 90% là ngoài
Công giáo mà bị kìm hãm dưới một thứ "chính phủ Công giáo".
Khắp nơi, ở thành phố cũng như nông thôn, chiếc áo chùng thâm là
biểu tượng của quyền thế.
Tại các vùng Công giáo di cư, cha xứ là toàn quyền, là những
ông vua tuyệt đối. Giám mục Ngô Đình Thục cũng phải thừa nhận
những chuyện hà lạm của các nhà độc tài áo đen. Trong một lá thư
gởi cho một bạn cũ, ông viết: “Người ta có cả trăm hồ sơ, tố cáo các
linh mục ăn cắp tiền của di cư, bằng những danh sách ma, bằng cách

107
tẩy xóa sổ sách, bằng cách thu xếp để chiếm đoạt tiền bạc của chương
trình Cải cách ruộng đất, hoặc bán hàng viện trợ Mỹ (theo các lời tố
cáo của chính bà con di cư) hay là giữ tiêu riêng các khoản tiền họ
nhận để xây dựng nhà ở cho bà con di cư: Nhà nước (và cả Giáo
quyền) dễ dãi cứ nhắm mắt làm ngơ cái vụ đó, bởi vì linh mục rất
cần cho việc huy động dân chúng trong cuộc chống Cộng.”
Tại thành thị, các linh mục chẳng có bằng cấp, chẳng tài giỏi gì,
mà vẫn điều khiển các trường tư thục, được tổ chức những áp phe
vơ vét tiền bạc. Hai linh mục đã được cử làm viện trưởng của hai
trong ba đại học của toàn miền Nam, trong đó có đại học Đà Lạt. Đại
học này chỉ là Công giáo nơi danh nghĩa thôi. Đất đai và cơ sở kiến
trúc của nó đều do Nhà nước đài thọ. Để có nguồn thu nhập cho đại
học, giám mục Thục đã giành được độc quyền các vùng đốn cây tại
Định Quán, là điểm ngon nhất nước. Ông cũng xin được những thửa
đất ruộng mênh mông dọc bờ biển, để trồng dương liễu và dừa; công
việc này được tiến hành nhờ có tiền vay được hàng triệu đồng của
chính phủ. Đã có đại học Công giáo thì phải có sinh viên. Song Đà
Lạt là một thành phố nhỏ miền cao nguyên, ở xa các trung tâm đô
thị lớn và nhất là nó chỉ là một thành phố biệt thự dành cho hạng
giàu có. Muốn cho đại học Công giáo này hoạt động, chính phủ quyết
định dời khoa sư phạm Sài Gòn lên, đem theo toàn bộ sinh viên, anh
chị em nào cũng có học bổng Nhà nước cấp.
Thế là nhờ có sự bảo trợ của giám mục Thục thuộc địa phận Vĩnh
Long, sau này làm Tổng giám mục Huế, các sinh viên Công giáo đã
giành được những vị trí then chốt và lương bổng cao. Tòa giám mục
trở thành một loại phòng ngoài của dinh Tổng thống. Người ta thấy
bộ trưởng, dân biểu, tỉnh trưởng, tướng tá (trong đó có nhiều người
mới trở lại đạo) lũ lượt sắp hàng vào hầu đức cha. Tại các tỉnh, các
linh mục cố vấn chính trị rất có ảnh hưởng cạnh tổng thống hoặc bên
cạnh người em thứ ba của tổng thống – phó vương không danh nghĩa

108
của miền Trung – các cha không ngần ngại tìm cách đưa con chiên
mình vào thay thế các quận trưởng hay xã trưởng không Công giáo.
Để thành lập những đơn vị bảo vệ dinh tổng thống Diệm chiêu
mộ những người di cư tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình vốn nổi tiếng
là dũng cảm và chống Cộng. Ông nói chuyện đó với linh mục Cao
Văn Luận, một người rất thân tín: “Giả như tôi đem vào được ít chục
ngàn chiến sĩ của Thanh Nghệ Tĩnh Bình và một chục cán bộ có khả
năng cỡ cha Khai, thì mọi sự chắc chắn sẽ thành công.” (Người ta
biết rằng sau này linh mục Khai đã hối tiếc vì đã quá nhiệt tình phục
vụ ông Diệm).
“Chính phủ Công giáo” ngày càng trở nên lộ liễu khi ngành công
binh, từng đoàn binh xa và vật tư của chính phủ được đưa ra sử dụng
trong việc xây cất nhà thờ, chủng viện, các nhà thuê thuộc tòa giám
mục; khi các cán bộ nông thôn và công chính được phái đi lo việc
trồng dương liễu và dừa cho đức cha, khi các binh sĩ được biệt phái
thường trực tại văn phòng Công giáo tiến hành, khi các giám mục có
chỗ danh dự đứng bên cạnh tổng thống trong các nghi lễ công cộng,
hay là trong các cuộc duyệt binh, khi chính phủ phê nhận luật gia
đình của bà Nhu, em dâu của Diệm, áp dụng – trong một nước mà
90% dân là không Công giáo – các khoản luật gần giống như trong
Giáo luật. Khỏi nói tới việc dựng các tượng Đức Mẹ do tay tổng
thống, có giám mục nọ kia phụ vào, tại nhiều điểm ranh giới để "nhờ
Đức Mẹ che chở đất nước khỏi nạn Cộng sản".
Quả thế, Đức Mẹ cũng được đưa vào môi trường của chủ nghĩa
hiếu thắng huênh hoang, nhất là dịp Đại hội Thánh Mẫu tháng 2 năm
1959, có hồng y Agagian, sứ thần của Đức Giáo hoàng qua chủ sự.
“Ba trăm ngàn giáo hữu đã đi theo cuộc rước khổng lồ trong ngày
kết thúc, sau đó hồng y đã long trọng dâng nước Việt Nam cho Đức
Mẹ Vô Nhiễm” theo tin tức báo chí thời ấy. Để cuộc rước đó thành
công, ngoài sự tưởng tượng của Rôma và Pari, người ta đã huy động
hàng ngàn tên công binh để xây dựng một bệ lớn trước nhà thờ chính

109
tòa Sài Gòn, để dựng lên cổng chào, đồng thời đưa ra hàng trăm xe
căm nhông để vận chuyển hàng chục ngàn giáo dân từ các tỉnh về.
Đức Mẹ cũng được cung kính đặc biệt tại La Vang, quãng 30 km
mạn Nam vĩ tuyến 17. Vì những lý do chính trị, ngôi nhà nguyện
nhỏ mất hút trong rừng núi, bỗng trở nên một nơi hành hương cho
toàn thể người Công giáo Việt Nam, thậm chí của toàn nhân dân Việt
Nam! Được mệnh danh là "thành lũy thế giới tự do chống cộng sản",
ngôi nhà nguyện khiêm tốn này vừa được nâng lên hàng Vương cung
Thánh đường từ sau Đại hội Thánh Mẫu, đã tiếp nhận vào tháng 8-
1961 một cuộc hành hương khồng lồ nhất trong lịch sử chế độ Diệm.
Ngày 16-8, tổng thống đích thân phó thác tương lai nước Việt Nam
cho Đức Mẹ La Vang. Trước mặt 200.000 người hành hương, đầy
đủ các giám chức của Giáo hội, các bộ trưởng và công chức cao cấp,
phần lớn không phải là Công giáo, tổng giám mục Ngô Đình Thục
đã đọc lời kinh dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ, sau cuộc rước
kiệu khổng lồ.
Nhằm biến La Vang thành một thứ Lộ Đức Việt Nam, hàng giám
mục đã tổ chức tại La Vang để lấy cho được cỡ 10 triệu đồng dành
cho việc xây nhà thờ mới, các tượng Thánh Giá và cái hồ "làm phép
lạ". Vé số được phân phối một cách đương nhiên cho các công chức,
Công giáo hay không cũng mặc, bằng cách khấu trừ tiền lương của
họ. Các học sinh nghèo, nhất là tại các trường học miền Nam, cũng
phải mua vé số. Một số vé được đem giao cho các công chức và quân
sự phân phối. Tại Sài Gòn, một bữa tiệc kiểu Mỹ đã được tổ chức
trong đó có khách được mời phải đóng 2.500 đồng (ngang với một
tháng lương của công nhân) gọi là để đóng góp cho Trung tâm quốc
gia La Vang. Danh sách các ân nhân "tự nguyện" của La Vang rất
dài, với những người đứng đầu sổ là Phó tổng thống người Phật giáo,
các bộ trưởng, các tướng tá, mỗi người dân cũng từ 10.000 đến
20.000 đồng.

110
Đối với Nhà nước cũng như Giáo hội, La Vang không chỉ là một
trung tâm tôn giáo, mà còn là biểu thị của chế độ chống cộng. Chẳng
hạn khi bình luận cuộc hành hương năm 1961, tờ Viễn Đông, một
tạp chí tuyên truyền của chế độ, đã viết: “La Vang là nơi hòa nhập
nên một, đối với người Công giáo, bản chất lòng yêu nước với đức
tin giãi ra trước con mắt của kẻ tin một việc lựa chọn hai chiều thật
đúng với việc quan phòng của Chúa. Và sự chọn lựa này hiện rõ một
lần nơi cái dự án kỳ diệu không tả nổi và nơi vị trí địa dư của La
Vang. Nguyện đường nằm ngay đường ranh giáp với chủ nghĩa cộng
sản vô thần, từ nay nhà nguyện này nổi lên như một "con đê thiêng
liêng của Nước nhà".
Bên cạnh chủ nghĩa hiếu thắng bề ngoài đó, phải nói thêm một
thứ hiếu thắng khác về "mục vụ" như là đặc điểm của Giáo hội thời
kỳ này, đó là việc đưa dân ngoại vào đạo. Giám mục Angxen (Ancel)
phụ tá địa phận Lyon, đã nhắc lại lời giám mục Thục: “Có những
làng nguyên vẹn xin chịu phép rửa tội. Người ta không làm sao dạy
giáo lý kịp cho họ… Và ông kết luận: "Đây là nước duy nhất tại Viễn
Đông (không kể Philippin) đang trên đà trở lại đạo cả nước". Những
con số người lớn chịu rửa tội, nhất là tại địa phận Qui Nhơn xem ra
phù hợp với cảm tưởng của vị giám mục Pháp: 16.323 năm 1956-
1957, 27.385 năm 1958-1959, 37.429 năm 1960-1961. Năm 1959,
tại Qui Nhơn, chỉ trong một tháng, 61.000 người xin chịu phép rửa
tội. Ơn Chúa hình như, đùng một phát, tuôn xuống như mưa trên địa
phận của giám mục Phạm Ngọc Chi, giám mục phụ trách di cư
những năm 1954-1956, ông đã nhận được từ cơ quan Viện trợ Công
giáo Hoa kỳ 38 triệu đô la, của tổ chức viện trợ Pháp cũng như
Caritas quốc tế còn nhiều triệu khác nữa.”
Phong trào trở lại đạo hàng loạt như thế vừa là kỳ diệu vừa gây
khó chịu, bởi vì dân chúng trong vùng do đã sống dưới quyền kiểm
soát của Việt Minh trong thời chiến tranh Pháp-Việt. Giám mục Chi
đã cho chúng tôi biết rằng phép lạ đó, một phần vì nhờ có việc tuyên

111
truyền "thuyết nhân vị" của chính phủ, dọn đường cho quần chúng
tại đây tìm gặp được đạo Công giáo và đàng khác nhờ các việc từ
thiện Công giáo, các trường học, cô nhi viện, nhà thương, điểm phát
quần áo, bánh mì và lương thực. Có người cho rằng việc theo đạo
hàng loạt đó chỉ lập lại theo ngạn ngôn đã có từ thời Pháp, "đi đạo
lấy gạo mà ăn" thôi. Quả thế, viện trợ Công giáo từ ngoài vào đều
do các linh mục tự tiện thao túng và thường chỉ dành để phân phát
cho người Công giáo. Dân chúng miền Trung này, là vùng nghèo
nhất miền Nam, chẳng qua đã tìm nơi việc theo đạo Công giáo một
phương tiện kiếm ăn. Có những người cũng cho rằng họ vào đạo để
khỏi bị sách nhiễu về chính trị. Quần chúng ở đây, vì đã từng sống
lâu năm dưới chế độ Việt Minh, nên bị tình nghi có liên hệ với "kẻ
địch", bây giờ vào đạo là gặp được con đường để tỏ lòng trung thành
với chế độ hoặc ít ra tránh được những quấy nhiễu của cảnh sát. Đó
là ơn Chúa hay chỉ là do động cơ khác của con người? Có thể nói là
cả hai phía vậy.
Điều chắc chắn là phong trào trở lại đạo đó chấm dứt với năm
1963, ngay khi tổng thống Công giáo Diệm bị lật đổ. Về phép lạ Qui
Nhơn, nên đọc thêm những gì viết sau đây của báo Missi (1-1959):
“Các linh mục phải kêu xin tiếp cứu. Giám mục Fulton Sheen đã
nghe những lời yêu cầu đó và người Công giáo Hoa Kỳ đã hợp tác
với giám mục Chi. Hàng ngàn tràng chuỗi, sách kinh đã được gửi tới
Qui Nhơn, cũng như những lô ảnh vẽ Đức Mẹ và tượng Chúa Kitô
là những dấu hiệu đầu tiên của con người mới.”
Người ta nói đến lý do chính trị của cuộc trở lại. Điều đó chắc
chắn là có và có một cách hết sức đặc biệt.
Mùa hè 1955, Ngô Đình Diệm tung ra chiến dịch Tố Cộng và qua
luật 10-1959, ông đã lập các Tòa án quân sự đặc biệt, như một bộ
máy đàn áp. Luật này, kết án tử hình và phải thi hành trong vòng 3
ngày, khỏi có quyền bào chữa, tất cả những người Cộng sản, những
người có quan hệ với Cộng sản (những chiến sĩ yêu nước chống

112
Pháp, cả cha mẹ và bạn bè của họ), tất cả những bị cáo được xem là
phạm đến an ninh quốc gia. Các cuộc càn quét đã bắt về ngàn "tên
đỏ", từ nay gọi là Việt cộng và nhiều người trong số đó đã bị giết.
Một số khác may mắn hơn, như ông Nguyễn Hữu Thọ, rồi đây sẽ là
Chủ tịch Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng, từng là luật sư ở Sài Gòn và
là Chủ tịch Ủy ban Hòa bình Sài Gòn Chợ Lớn, phải sống lê lết trong
các trại giam. Trong lãnh vực này, tài liệu bí mật của Lầu Năm Góc
cũng giống như những gì do chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa phổ biến hồi đó: “Suốt thời gian của cái gọi là chiến dịch Tố
cộng được tung ra mùa hè năm 1955, từ 50.000 đến 100.000 ngàn
người đã bị nhốt vào ngục. Nhưng như bản báo cáo có nói, phần lớn
những kẻ bị bắt đây không phải là đảng viên Cộng sản”. Đó là lời
của Bớttơphiu (F. Butterfield) viết trong bản phân tích Tài Liệu Lầu
Năm Góc. Tác giả còn thêm: “Chương trình công dân vụ đã thất
bại, bởi vì tổng thống Diệm hầu như chỉ phái toàn những người di
cư miền Bắc hay là Công giáo đến các làng đó. Nông dân cho rằng
những thứ người đó không phải là người của họ” (Pentagon Papers,
tr. 82).
Mặc dầu thái độ thiên vị của Diệm không chỉ nằm lại nơi các
bảng thống kê, cũng cần ghi nhận rằng, trong một miền Nam chỉ có
10% là Công giáo, mà tại Quốc hội có tới 30% dân biểu Công giáo,
với 3 vị chủ tịch quốc hội liên tiếp là Công giáo: trong bộ máy hành
chánh, có 9 trên 14 tỉnh trưởng miền Trung và 14 trên 18 tỉnh trưởng
miền Nam là Công giáo, trong chính phủ thì 4 trong số 12 bộ trưởng
là Công giáo và trong quân đội 3 trong số 16 tướng lãnh là Công
giáo.
Các bản thống kê nói trên cho thấy một khuôn mặt xã hội không
mấy đúng đắn về người Công giáo Việt nam. Như đã trình bày ở
trên, gần như toàn thể giáo dân người Việt là thành phần nông dân,
nghèo đói. Cho đến năm 1954, giữa đám rừng tác giả và thi sĩ nổi
tiếng, người ta chỉ đếm được một thi sĩ là Công giáo. Rất ít người là

113
trí thức. Như vậy, việc tăng vọt số người Công giáo trong chính
trường cần được giải thích không phải vì họ có nhiều trí thức trình
độ vượt trội, hay là tài ba lỗi lạc hơn thiên hạ trong lãnh vực quản lý
hành chánh và chính trị.
Trong một báo cáo được soạn thảo vào cuối tháng 8, theo chỉ thị
của tòa Khâm sứ Sài Gòn, để gửi cho Vatican, một linh mục khá
thông thạo các các vấn đề Việt Nam có viết: “Người ta đã nói đến
tiếng "hiếu thắng". Tôi nghĩ tiếng đó không phải là thái quá để đánh
giá cách xử sự của một số giám mục và linh mục. Trong các cuộc lễ
nhậm chức giám mục hai năm trước đây cho hai đức cha Qui Nhơn
và Đà Nẵng, người ta đã tổ chức những cuộc biểu tình khổng lồ.
Không phải tất cả do người Công giáo đơn phương làm. Nhân sự và
phương tiện của chính phủ đã góp một phần lớn vào các cuộc tập
họp đó, mà không phải bao giờ cũng do lòng tự nguyện…
“Các đêm canh thức Giáng sinh, các Tuần Tam nhật Tuần thánh
của chúng tôi, được tổ chức với sự hỗ trợ to lớn của quân đội và bộ
Thông tin, gây nên ganh tỵ nơi người Lương. Và các vụ xổ số, hội
chợ do các linh mục tổ chức để có tiền làm việc thiện, gây bực bội
cho rất nhiều người trong quần chúng. (Tài liệu này, chúng tôi có
bản sao, chắc đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới đường lối của Vatican thời
kỷ này)”.
Một biến cố cuối cùng, lẽ ra phải đánh dấu tuyệt đỉnh của chủ
nghĩa hiếu thắng, nếu không có vụ khủng hoảng Phật giáo nổ ra:
Tổng giám mục Thục đang chuẩn bị lễ Ngân khánh, ăn mừng 25 năm
làm giám mục, ngày 29-6-1963. Từ tháng 3, một Ủy ban Ngân khánh
đã được thành lập, do Chủ tịch Quốc hội làm chủ tịch, với nhiều vị
bộ trưởng và nhân vật tên tuổi làm ủy viên. Người ta tổ chức tại Sài
Gòn một bữa tiệc mỗi thực khách phải đóng 5.000 đồng và tại các
tỉnh thì tổ chức các cuộc lạc quyên, vừa xin vừa ép, với những cuộc
xổ số do tỉnh trưởng chỉ thị. Người ta muốn biến cuộc lễ Ngân khánh

114
của Giám mục thành Quốc lễ. Nhưng cuộc lễ này đã chỉ ăn mừng
"trong thân mật", do cuộc nổi lên của Phật tử.

2. HOA SEN ĐẪM MÁU


Năm 1963, ngày Phật đản đúng mồng 8 tháng 5. Bà con Phật tử
đem cờ Phật giáo treo đầy đường phố Huế. Chính phủ, trích dẫn qui
tắc đã ra từ 1957, ban lệnh cất đi các lá cờ tôn giáo đó, nếu cần thì
dùng cả vũ lực, bởi vỉ chỉ có quốc kỳ mới được treo ở nơi công cộng.
Hàng chục ngàn Phật tử đã tham gia xuống đường phản đối. Quân
đội, theo lệnh chính phủ đã dẹp tan đám biểu tình và một loạt đạn
súng máy giết chết 9 trẻ em.
Đó là một biến cố bi đát, nhưng bề ngoài thì cũng chỉ là sự việc
lẻ tẻ thôi. Tuy nhiên vụ cờ Phật giáo phản ánh sự chín muồi của cơn
khủng hoảng từ lâu đã âm ỷ dưới đám tro. Dư luận quốc tế được báo
động qua bác sĩ Wuhl, giáo sư đại học tại Huế, đã săn sóc những
người bị thương trong vụ này. Sự căm phẫn của dân chúng tăng lên
tột độ khi Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Lê Văn
Duyệt-Phan Đình Phùng ngày 11 tháng 6. Tổng thống Diệm nói đến
"việc Việt cộng đã len lỏi vào kích động dân chúng". Giám mục Thục
giải thích vụ này, đã xảy ra hầu như trước mặt ông, tuyên bố rằng đó
chỉ là một "đám lửa rơm" thôi. Còn bà Nhu thì cho mấy ông thầy
chùa tự thiêu là trò "nướng thịt".
Nhưng dân chúng rất xúc động. Dư luận quốc tế thì cho các biến
cố đó là dấu hiệu chứng tỏ chính phủ Công giáo có bách hại đàn áp
tôn giáo. Và dĩ nhiên người Công giáo, và cả Giáo hội Việt Nam,
đều liên lụy trong đó. Trong giới Công giáo, người ta tìm cách giảm
nhẹ sự việc và giải độc dư luận "vốn bị báo chí chạy theo giật gân
lừa bịp". Chẳng hạn, đức Tổng giám mục Sài Gòn nói: “Không có
chuyện bách hại Phật giáo từ phía chính phủ, cũng như từ phía Công
giáo. Không thể vì một hành vi phân biệt đối xử lẻ tẻ của cá nhân,
mà đổ lỗi cho Nhà nước và Giáo hội. Vụ rắc rối ở Huế xảy ra ngày

115
8-5-1963 liên quan đến chuyện cờ Phật giáo treo tại các chùa, thiết
tưởng có thể tránh không để xảy ra, nếu không có việc nhắc lại chỉ
thị năm 1957 ra lệnh cấm treo cờ tôn giáo, dầu là Công giáo hay Phật
giáo, ở nơi công cộng. Điều đã gây tức giận cho Phật tử là nhắc lại
chỉ thị nọ lại xảy ra chỉ có 2 hôm trước lễ Phật đản và chỉ mấy bữa
sau cuộc lễ nhậm chức của hai giám mục các địa phận gần đó, trong
đó có cờ Tòa thánh bay phất phới khắp nơi” (Missi 1963, tr. 354).
Một số người Công giáo tại Nam Việt Nam và một số tạp chí thừa
sai Pháp và Ý, cho rằng Phật tử có tham vọng biến đạo mình thành
quốc giáo và một nhóm thiểu số cuồng tín sẽ tiếp tục "tự thiêu và để
cho người ta thiêu mình; nhằm bảo vệ một vị trí có đặc quyền ưu
đãi".
Có người còn đi xa hơn. Theo họ, đây chẳng qua là một âm mưu
Cộng sản giật dây phong trào Phật tử, nhằm trục lợi kiểu "đục nước
béo cò". Hãy nghe tác giả của bản phúc trình gửi Vatican mà chúng
tôi đã nhắc tới trên kia: “Bọn Phật tử chẳng hề quan tâm gì tới các
lợi ích và vấn đề hệ trọng của đất nước. Chẳng mấy khi đọc được
trong các tạp chí Phật giáo những bài chống Cộng. Họ có khả năng
chống lại các yếu tố của học thuyết Mác-xit chăng? Có thuở nào họ
dám mạo hiểm đi vào con đường hành động chống lại Cộng sản
không? Chúng tôi tin là không, vởi vì có những tay nòng cốt Cộng
sản đang đóng vai điều khiển phong trào Phật giáo.
“Chính phủ nhằm mục đích cung cấp một cơ sở học thuyết cho
cuộc chiến đấu chống Cộng của mình, nên đã công nhiên đưa ra
những quan niệm duy linh và nhân vị. Hai học thuyết này đã được
trình bày, không phải như là sản phẩm của đạo Công giáo, mà như
là sản nghiệp chung của nền văn hóa tổ tiên. Thế nhưng, theo tôi
biết được, thời chưa bao giờ thấy một vị sư, hoặc một giảng viên
Phật tử, bàn về hai học thuyết đó trong các tạp chí hay trong diễn
thuyết công khai…

116
“Trong lúc các cha xứ lao mình, cả xác lẫn hồn, vào việc định
cư dân chúng và tổ chức khai thác các vùng đất bỏ hoang, nhất là
vùng cao nguyên, đào tạo dân quân bảo vệ làng xã, thì tu sĩ Phật
giáo chẳng quan tâm gì tới các chuyện đó bao nhiêu, không phải là
không quan tâm gì hết”.
Quan điểm này hình như là của phần đông người Công giáo miền
Nam vẫn mang những tư tưởng chống Phật giáo khó giấu giếm.
Chính tác giả của tài liệu này cũng thú nhận rằng “người của mình
(Công giáo) thường có cặp mắt chẳng tốt gì đối với bất kỳ cái gì do
bên Lương làm, trái lại thường chế giễu lòng tin, nghi lễ của họ,
ngang nhiên khinh dể các vị sư, chùa chiền của họ và hễ có dịp là
phá luôn cả bàn thờ, với các đồ họ cúng trên đó”.
Có những người khác đổ việc nổi loạn của Phật tử không những
cho Cộng sản, mà cho cả đối thủ chính trị và bọn Mỹ, lợi dụng sự
bất bình của một thiểu số nhà sư để trục lợi cho mình. Đó là ý kiến
của một nhân vật quan trọng trong Giáo hội, theo Missi kể.
Những nhà quan sát ngoài Công giáo và có lưu tâm thì phân tích
tình hình chính trị kỹ càng hơn, thì nghĩ rằng phong trào chống đối
vừa có tính chất tôn giáo vừa có lý do chính trị của nó: “Một mức
nào đó, phụ thuộc thôi, có sự đối chọi Phật giáo chống lại Công
giáo. Nhưng phần chính yếu quan trọng hơn nhiều, là phong trào
này đem những bộ phận đông đảo dân chúng, ở đây là Phật tử,
chống lại một chính phủ độc tài do người Công giáo nắm hầu hết”.
Đó cũng là một số ý kiến của một số linh mục và giáo dân sáng
suốt hơn, nhưng tiếng nói của họ tan như hạt muối bỏ biển ở giữa
trào lưu hiếu thắng của Giáo hội lúc bấy giờ. Bởi vì những nhà lãnh
đạo Giáo hội quá tự mãn, vì được đứng đầu một "thiểu số nắm ưu
thế", quá tin tưởng vào các bản thống kê về việc theo đạo hàng loạt,
đã mù quáng bởi tham vọng biến cả nước Việt Nam thành "đứa con
đầu lòng đích thực của Giáo hội".

117
Quả thế, vụ rắc rối xảy ra ở Huế, lẽ ra có thể tránh được, nếu
Tổng giám mục Huế đã không đích thân nhúng tay vào. “Ngày 7
tháng 5, theo lời linh mục Luận, một trong những linh mục gắn khá
sâu với nhà Ngô và là viện trưởng đại học Huế - từ La Vang về, đức
cha nhận thấy đường phố được giăng đầy cờ Phật giáo… Ngài bực
mình và ngay chiều hôm đó, ngài cho gọi ông Hồ Đắc Khương vào,
ông là đại diện của chính phủ, và quở trách ông, tại sao để cờ Phật
giáo treo đầy đường phố, trái với lệnh nhà nước cấm treo cờ đạo nơi
công cộng.” (Thật hết sức mỉa mai, thành phố Huế, nơi có tòa giám
mục của đức cha Thục, nhiều lần đã từng được chứng kiến những
cuộc rước kiệu Công giáo hết sức linh đình, với cờ vàng trắng của
Vatican phất phới bay, chẳng những trên đường phố, mà ngay cả
trước các cơ quan chính quyền. Năm 1961, ngày ông nhậm chức
Tổng giám mục Huế, ông đã được nghênh đón tại sân bay bởi cả một
tiểu đoàn bận lễ phục và một lá cờ Tòa Thánh khổng lồ được dựng
ở ngay sân bay).
Vị đại diện chính phủ chẳng biết làm thế nào được, bởi ông hiểu
rõ, nếu cấm treo cờ lúc này thì không tiện chút nào, vì người ta sẽ
cắt nghĩa việc đó như một điều hạ nhục Phật giáo. Ông điện vào Sài
Gòn. Chẳng rõ bức điện có tới Tổng thống hoặc ông cố vấn Nhu
chăng, nhưng một bức điện từ Văn phòng Tổng thống đánh ra khẳng
định rằng lệnh cấm cờ vẫn còn hiệu lực… Rồi câu chuyện ra sao thì
sau đó ai cũng biết rồi…
Nhưng không nên đơn giản nghĩ rằng cơn khủng hoảng Phật giáo
chỉ vì có chuyện treo cờ và cấm treo cờ. Thực ra biến cố Huế chỉ là
ngọn đuốc châm lên, soi rõ sự bất mãn của anh em Phật giáo từ lâu
nay cứ bị trù dập. Có nhiều nguyên nhân của sự bất mãn này.
Trước tiên là chỉ thị số 10 của Phủ tồng thống, lấy lại các sắc lệnh
của chế độ thuộc địa, nói rằng: “Tất cả các hiệp hội tôn giáo, văn
hóa, thể dục, chỉ trừ Công giáo, đều không được mua bất động sản,
nếu không có phép của Phủ tổng thống”. Bản văn của sắc lệnh đặt

118
Công giáo ra ngoài và hạ Phật giáo xuống hàng các hiệp hội văn hóa
và thể thao, tất nhiên nó phải làm bực bội Giáo hội Phật giáo. Việc
trở lại thời thuộc địa như thế, cũng không làm hài lòng đại bộ phận
quần chúng nhân dân, dẫu sao cũng không bao giờ từ bỏ truyền thống
nhà Phật. Hơn nữa, sắc lệnh khơi lại sự đố kỵ đối với người Công
giáo, mới đây đã từng liên minh với bọn xâm lược và hôm nay lại
liên minh với chủ mới là Mỹ. Sau nữa, những hành động lặp đi lặp
lại như dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ, đưa nhiều người Công
giáo lên các chức vụ quan trọng trong chính quyền, cho phép giải
thích sắc lệnh, vốn đã bất công, như một cử chỉ "tìm cách Kitô hóa"
cả nước là trái ý mọi người.
Tiếp đến, việc áp đặt chủ nghĩa "Nhân vị" – học thuyết vừa mông
lung vừa ngược với tinh thần người Việt – làm hệ tư tưởng của Nhà
nước, việc khinh dể tất cả giá trị tinh thần và văn hoá của cả chục
thế kỷ lịch sử Việt Nam đã từng thấm nhuần trong nhân dân, việc
thiên vị ưu đãi quá rõ ràng đối với người Công giáo trong mọi lãnh
vực, đã tạo ra sự nổi giận lúc đầu còn ngấm ngầm, sau đã nổ rõ ra
nơi quần chúng Phật tử. Bà con Phật tử ngày càng ý thức hơn rằng,
muốn chống lại sự độc tài của Diệm, muốn cân bằng lực lượng của
Công giáo, thì phải hiệp nhau lại trong Giáo hội Phật giáo.
Cuộc nổi loạn của Phật tử làm cả chế độ phải lung lay, nhưng cho
tới ngày sụp đổ, chế độ vẫn tiếp tục gia tăng đàn áp, lục soát các
chùa, bắt giam sư sãi và các chiến sĩ Phật tử. Hoa Kỳ, chỗ dựa nếu
Diệm không còn dựa được là sẽ rớt đài, đã quyết định thay ngựa.
Cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 đã được chuẩn bị kỹ
lưỡng, đã dàn dựng khéo léo, như chính Tài Liệu bí mật Lầu Năm
Góc cho chúng ta biết.

3. AI LÀ NGƯỜI CHỊU TRÁCH NHIỆM


Phải nhờ ánh sáng các sự kiện lịch sử nói trên, mới hiểu được sự
phản ứng của vị Linh mục người Bỉ, một "cha xứ xung kích" khi ông

119
tâm sự với Lacutuya: “Ai là người chịu trách nhiệm về tình hình tan
hoang đó, về sự thất bại hoàn toàn của chế độ Diệm, về sự xao xuyến
rối răm hiện nay của giới Công giáo chúng ta? Ai, tôi xin phép hỏi
ông? Phải chăng quân đội? Phải chăng chính quyền? Phải chăng
bọn Mỹ? Không, chính là giới Công giáo! Vâng chính khối Công
giáo là kẻ chịu trách nhiệm. Họ đã chạy theo hiếu thắng, họ đã bay
như diều, chẳng bao giờ biết kiềm hãm, tìm cách sửa chữa những
lạm dụng không thể chịu nổi của chính chế độ. Có phản ứng chăng,
thì chỉ ở những cấp hết sức khiêm tốn thôi. Họ đã đồng ý với một
kiểu lẫn lộn hoàn toàn giữa giàu có với Công giáo, giữa tư sản phì
nộn với hàng giáo phẩm. Và ngày nay nông nỗi đã xảy ra như thế
này, chỉ còn chờ Phật giáo trả thù, tình hình có thể rẽ ngoặt một
cách thảm hại nếu Việt Cộng thành công nắm được Phật giáo, như
hiện họ đang ra sức làm. Người Công giáo không chịu sửa mình,
không chịu cứu uy tín cho ông Diệm, phải bắt đầu lại từ số không,
trên những đống gạch vụn, nếu phía địch là phía hiện đang nắm tới
80% số người có khả năng của đất nước này, còn cho chúng ta đủ
ngày giờ…” Tiếc thay, vị thừa sai kia đã không lên tiếng sớm hơn!
Bàn cờ đã ngã ngũ. Theo lệnh của Mỹ, Diệm phải từ chức hay là
chết thôi. Một tài liệu mật của Tòa Khâm sứ cho chúng ta biết một
chuyện quan trọng, từ trước vẫn không ai hay biết, liên quan đến
cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963: “Sự yên tĩnh của giờ nghỉ trưa bị
xé tan vào lúc 13 giờ 45, bởi một loạt súng máy nổ ran phía sân bay
Tân Sơn Nhất, ở 6km mạn Bắc thành phố. Nghe loạt súng bất thường
vào giờ này, lập tức tôi nghĩ ra rằng đây không phải súng đảo chánh,
mà chỉ là chuyện cục bộ do một nhóm quân đội chống lại lính bảo
vệ và quân khu thủ đô nằm dưới quyền trực tiếp của Phủ tổng thống.
Tới 15 giờ 15, tôi nhận được cú điện thoại của ông Cobốt, tôi có thể
ghi lại đúng như sau: "Thưa Đức cha, như Đức cha có thể nghe đó,
tiếng súng đã nổ. Quân đội đã chiếm sân bay Tân sơn Nhất và căn
cứ Biên Hòa, lúc này họ đang tiến về hướng Phủ tổng thống (Dinh
Gia Long).”

120
Nghe ông nói tiếng Pháp, tôi lấy làm lạ, tại sao ông cho tôi những
tin tức loại này, mà không cần giữ giọng kín tiếng lại, tôi bèn hỏi
người đối thoại cho biết có phải là đích thân ông Cabốt chăng. Ông
này muốn tôi biết chắc bèn nói: “Tôi là bạn của Đức cha, cũng đã
từng là bạn của đức cha Asta. Đức cha nhớ lại, chúng ta đã gặp
nhau nhiều lần tại tòa Khâm sứ”. Nghe tôi hỏi tại sao tôi biết tiếng
Ý mà lại không dùng nó để giữ sự kín đáo hơn tại Sài Gòn, ông nói
rằng ông biết tiếng Ý nhưng không quen nói. Từ lúc đó, tôi thì nói
tiếng Ý, còn ông ta thì nói tiếng Pháp. Cuộc điện đàm giữa chúng
tôi tiếp tục như sau: “Tôi đã thấy cần tán thưởng vai trò trung gian
mà tòa Khâm sứ đã vui lòng chấp nhận giúp trong vụ Phật giáo. Tôi
phải nói cho Đức cha hay rằng, nếu lần này ông Diệm và ông Nhu
có nhờ tòa Khâm sứ làm trung gian, thì xin Đức cha nói với hai ông
rằng, không còn chuyện trung gian hoặc thương lượng nữa đâu, bản
thân tôi cũng như phía quân đội đã quyết định là chỉ cho họ khỏi
chết thôi, họ có thể dùng lối này hay lối khác để ra khỏi nước và
không bao giờ trở lại nữa”.
Tôi nhận thấy giọng nói minh bạch và quyết định của lời đưa tin
này. Tuy nhiên, nhớ lại bầu không khí thương lượng đã có từ trước
cho tới gần đây giữa chính phủ Diệm và Hoa Kỳ, tôi hỏi thêm mấy
câu để ông Lốt xác lập lại điều đó. Tôi đang tính chuyển qua những
người đang bị bao vây tại Dinh Gia Long các điều kiện người ta cho
họ nếu họ chịu đầu hàng…”
So sánh các cuộc đàm thoại đó với cuộc điện đàm được ghi âm
giữa ông Diệm và Cabốt Lốt đã do Tài liệu Lầu Năm Góc công bố,
người ta thấy rằng tổng thống đã gọi đại sứ Mỹ vào lúc 4 giờ rưỡi
chiều, sau khi đã nhận được tin của Tòa Khâm sứ. Sau khi khước từ
can thiệp giúp đỡ Diệm, ông Lốt nói với người đối thoại: “Đến giờ
này rồi, tôi lo cho chính sự an toàn của Tổng thống nhất. Người ta
cho tôi hay rằng, những kẻ đang điều động vụ này sẵn sàng cho ông
và em ông lối thoát để ra khỏi nước, với điều kiện ông từ chức. Ông

121
có biết chuyện đó chưa?” Diệm trả lời: “Không biết (nghỉ một lát),
ông có số điện thoại của tôi không?” Lốt đáp: “Có. Xin cứ gọi tôi,
nếu tôi có thể làm được gì cho sự an toàn sinh mạng cho ông.”

4. CÁC TƯỚNG TÁ MÚA MAY QUAY CUỒNG


Ngày trước, mỗi lần tồng thống Diệm thoát khỏi một vụ mưu sát
hay một cuộc đảo chánh, người ta hát kinh “Te Deum” (Tạ Ơn Chúa)
tại các nhà thờ. Lần này, cả kinh Requiem (an táng) cũng không có.
Tờ nhật báo Công giáo Thẳng Tiến mới hôm kia tuyên bố vung vít
rằng Chúa đã làm những việc lạ lùng đặc biệt để bảo vệ mạng sống
cho Tổng Thống, bởi ông là người Chúa chọn lựa cứu nhân dân Việt
Nam. Ngay sau vụ ám sát Diệm, cũng tờ nhật báo đó đã gọi ông là
tên độc tài, là tay đàn áp. Sự trở mặt đó cần được giải thích như một
hành động xu thời, hay là chỉ vì hốt hoảng thôi? Quả thế, người Công
giáo lúc này sống trong sự hốt hoảng, lo âu sẽ bị trả thù. Diệm bị ám
sát, cái đảng toàn quyền Cần Lao đã sụp đổ như một tòa nhà bằng
giấy. Phong trào Cách mạng quốc gia khổng lồ, như do một bàn tay
phù thủy làm biến mất dạng. Thay vào đó, người ta dựng lên Hội
đồng Cách mạng gồm toàn tướng tá. Trong quãng trống chính trị
này, cái trống rỗng không lấp đầy được với những đảng phái chính
trị tái xuất giang hồ, những nhóm nhỏ thường chẳng có chương trình
rõ rệt nào, và các tướng tá bắt đầu màn nhảy múa quay cuồng của
họ. Hết binh biến lại đảo chánh, hết đảo chánh lại binh biến thay
phiên nhau.
Cuộc binh biến đầu tiên do "Minh đại ca" chỉ huy đã bị lật nhào
ngày 30 tháng giêng 1964 bởi một nhóm tướng trẻ do Nguyễn Khánh
điều khiển. Khánh lại phải cuốn gói ngày 13 tháng 9 để nhường tay
lái cho một "tên Thồ trẻ", tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ. Như
một phép lạ, ngày 27 tháng 10 năm 1964, xuất hiện một chính phủ
dân sự của Phan Khắc Sửu, chẳng mấy bữa đã bị lật đổ ngày 20 tháng
chạp trong một cuộc "đảo chính bỏ túi". Nguyễn Khánh lại lên ghế

122
Chủ tịch, bằng một cuộc trở về yên ổn ngày 28 tháng giêng năm
1965, để ba tuần lễ sau đó lãnh án "lưu vong", làm đại sứ lưu động,
rồi sau đó làm chủ một quán ăn ở Pari. Vụ lật đổ thứ sáu đưa ông
tướng hung hăng Nguyễn Cao Kỳ lên cầm đầu chính phủ.
Trước trận múa may quay cuồng đó của tướng tá, những người
theo dõi tình hình Nam Việt Nam một cách sơ sài sẽ lấy làm bỡ ngỡ,
khó hiểu. Nhưng thực tế đơn giản hơn nhiều. Có một nhân vật ngồi
ung dung trong văn phòng mình, tại sứ quán Mỹ, cứ giật dây, điều
khiển các con rối và thay đổi chúng tùy thích, đó là Cabốt Lốt. Chính
Lốt đã công khai tuyên bố với những người cứ bảo rằng không ai
thay thế được Diệm, rằng: “Tại Việt Nam có hàng chục người có khả
năng thay thế ông ta”. Chính Lốt đã giết con "cu cu" (nói theo ngôn
từ của tác giả cuốn "Vị đại sứ"), bởi vì Mỹ "sẽ không rút khỏi Việt
Nam trước khi thắng giặc" (theo lời của ngoại trưởng Đin Rớt (Dean
Rusk), Lốt có nhiệm vụ chọn người có khả năng thực hiện mục tiêu
của Mỹ. Nhất là kể từ nay, chú Sam không thể rút khỏi Việt Nam mà
không mất mặt. Tài liệu nghiên cứu của Lầu Năm Góc nói rõ: “Phần
chúng ta đã có trong cuộc đảo chính này, chỉ làm gia tăng trách
nhiệm của chúng ta tại đó, cũng như sự lún sâu của Mỹ vào đó”
(Pentagon Papers, tr. 158, 205).
Nhưng con người mà Mỹ mơ ước chẳng thể tìm ra. Các tướng tá
của cuộc lật đổ đầu, những sĩ quan mang quá nhiều sao và được đào
tạo kiểu Pháp, bị cho là nhút nhát và chậm chạp trong việc chấp hành
lệnh của quan thầy nóng nảy đã bị thay thế bằng Nguyễn Khánh,
"con cưng" của tướng Pôn Hackin và được Têlo đánh giá là "không
ai thế được" trong một báo cáo ngáy 10-8-1964. Tên đồ đệ dễ bảo
này phải làm bung xung cho thầy mình, vốn ước mơ từ lâu việc ném
bom Bắc Việt. Ngày 8 tháng 8, sau một vụ xô xát nhỏ trong hải phận
Bắc Việt, giữa hai tàu tuần tiễu nhỏ Bắc Việt và các khu trục hạm
của hạm đội 7, tổng thống Giônxơn đã ra lệnh ném bom phía trên vĩ
tuyến 17. Nhưng cả Nguyễn Khánh lẫn chính phủ dân sự của Sửu,

123
đều không thể thỏa mãn được tham vọng của Lầu Năm Góc. Sau đó,
họ tìm được một người, tướng Nguyễn Cao Kỳ, đã từng lái máy bay
ra đánh phá nhiều lần trên vĩ tuyến 17, con người ôm ấp trong lòng
hế hoạch tấn công miền Bắc và nhiều lần đã tuyên bố ý định đó với
báo chí.
Tuy nhiên viên tướng ăn chơi này, dầu hoạt bát và hữu hiệu đấy,
cũng chỉ là một chính trị gia bết bát. Chẳng bao lâu, y đã đành chịu
đóng vai nhì bên cạnh một tướng cao mưu, xảo kế hơn, đó là Nguyễn
Văn Thiệu. Tay này đã trở lại đạo Công giáo dưới chế độ Diệm. Một
số người cho rằng y theo đạo Công giáo vì những động cơ chính trị,
hơn là lý do tôn giáo.
Nhằm tô vẽ cho chế độ Sài Gòn có một nước sơn dân chủ và để
hợp thức hóa cho cuộc chiến thực dân mới tại Việt Nam. Cộng hòa
đệ nhị ra đời: Hiến pháp mới được công bố ngày 1-4-1967 và cuộc
bầu cử tổng thống được tiến hành ngày 2-9-1967. Thiệu đắc cử với
Nguyễn Cao Kỳ đứng chung một liên danh. Bốn năm sau, Thiệu
được tái đắc cử với tỉ lệ áp đảo là "94.36%", trong một cuộc bầu cử
lịch sử mà chỉ mình ông ta độc diễn.
Trong khi đó, sự can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam trở
nên trực tiếp và ồ ạt. Người ta biết rằng từ năm 1961, Kenơdi đã phái
"lực lượng đặt biệt" qua Nam Việt và đã từng tung ra một chiến dịch
bí mật phá hoại và tấn công miền Bắc, bằng cách sử dụng các toán
biệt kích Công giáo chọn lọc trong thành phần di cư. Ngày Diệm đổ,
có 17.732 lính Mỹ tại Việt Nam trong tư cách "cố vấn quân sự". Sau
vụ ám sát Diệm, tình hình chính trị và quân sự xấu đi. Để "cứu vãn
các vị trí Mỹ tại Đông Nam Á" và để "chận đường Trung Quốc",
Lầu Năm Góc vạch ra kế hoạch hành quân cả trên không lẫn ở đất
liền.

124
5. ĐỐI DIỆN VỚI CHIẾN TRANH CỦA MỸ
Ngày 5 tháng 3 năm 1965, ba ngàn rưỡi lính Mỹ đổ bộ lên Đà
Nẵng, rồi nhiều đơn vị khác tiếp theo sau. Đến cuối năm ấy, quân
lực Hoa Kỳ tại Việt Nam lên tới 184,414 người. Các lần bổ sung cứ
tiếp tục theo nhau: đến cuối năm 1966, quân lính Mỹ đã lên tới
400,000 và cuối năm 1967 có quãng 500,000 quân. Việc leo thang
không chiến đã được chuẩn bị bởi một loạt vụ khiêu khích rùm beng
nhằm bắt "phía địch phản ứng", rồi ngày 6-2-1965, cuộc ném bom
mở rộng đầu tiên tại Bắc Việt được tiến hành và liên tiếp những vụ
đó nối đuôi theo hầu như hằng ngày. Đến cuối năm đó, chiến tranh
không quân đã đạt nhịp độ 1500 chuyến cất cánh mỗi tuần. Các vụ
ném bom hàng ngày trở nên càng tàn bạo hơn ở Bắc cũng như Nam,
trong hai năm 1966 và 1967. Người ta đưa đất nước này trở lại "thời
kỳ đồ đá", để các nhà lãnh đạo của nó phải quì gối xuống. Tất cả
được đưa ra sử dụng nhằm đưa tới mục đích ấy: bom hóa học, bom
napan, các loại vũ khí tối tân của kho chiến cụ Hoa Kỳ mang qua.
Song nhân dân Việt Nam vẫn bất khuất. Ngày 31 tháng giêng
năm 1968, Mặt trận Giải phóng tấn công Tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn
và một số thành phố quan trọng khác. Người dân Mỹ cuối cùng đã
nhìn ra sự khùng dại của các tướng lãnh đạo họ. Tổng thống Giônxơn
thừa nhận sự thất bại và ngày 3-4-1968 chịu ngồi vào bàn hội nghị
hòa bình với Bắc Việt Nam và Mặt trận Giải phóng.
Các cuộc thảm sát do bàn tay lính thủy đánh bộ của Mỹ trong
những cuộc hành quân "tìm giết cho sạch, phá cho hết”, trước những
cảnh hủy diệt các thành thị khắp nơi trên thế giới dấy lên những phản
ứng khác nhau. Tại Mỹ, đám "diều hâu" vỗ tay và biện hộ cho sự
can thiệp của Mỹ bằng những lý lẽ tôn giáo. Dựa vào lời lẽ của chính
quyền, theo đó “người Mỹ sang Việt Nam là do lời yêu cầu của chính
phủ Nam Việt Nam, nhằm chấm dứt việc miền Bắc xâm lăng và tạo
ra những điều kiện thuận lợi cho một cuộc dàn xếp êm đẹp”. nhiều
linh mục rao giảng hô hào một cuộc thánh chiến. Một bài của tạp chí

125
Ave Maria (25-9-1955) trích lời Đức Piô XII, khẳng định rằng: “Bất
kỳ nước nào đi xâm lăng đều phải bị các nước khác trừng trị. Điều
chúng ta đang làm đây là việc trị tội một nước xâm lăng nọ đang bị
nước Trung Hoa Cộng Sản xúi giục”. Theo một điều tra dư luận của
Catholic Pools Ino năm 1967 thì có 80% linh mục Hoa Kỳ tán thành
chính sách hiếu chiến của Giônxơn. Lời biện hộ ngoạn mục nhất là
do Hồng y Xpenman, tổng tuyên úy quân đội Hoa Kỳ, sau thánh lễ
Vọng Giáng Sinh năm 1966, đã hô hào lính Mỹ tại sân bay Tân Sơn
Nhứt, trước mặt đại tướng tổng tư lệnh Oétmolen (Westmoreland)
rằng: “Tôi tin rằng chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến bảo vệ
nền văn minh… Như tổng thống chúng ta đã tuyên bố, cũng như lời
ngoại trưởng, không thể chỉ thắng một cuộc chiến nửa vời được. Vì
thế, chúng ta cầu nguyện cho chiến tranh chóng đến với chúng ra,
bởi vì không thể nghĩ rằng một giải pháp nào, ngoài sự chiến thắng…
Chúng ta phải chiến thắng, hầu bảo toàn những gì chúng ta gọi được
là nền văn minh… Các bạn ở đây không chỉ là binh sĩ quân lực Hoa
Kỳ, nhưng còn là binh sĩ của Đức Kitô”. Ít hôm sau, phát biểu trước
mặt quân sĩ Hoa Kỳ, Hồng y lại cả quyết: “Ở đây, các bạn đang bảo
vệ một chính nghĩa, chính nghĩa của văn minh và chính nghĩa của
Đức Chúa Trời!”
Những lời tuyên bố đó của Hồng y, hình như bị lu mờ đi trước
cuộc vận động chống chiến tranh do một thiểu số linh mục và người
Công giáo Mỹ tung ta. Quả thế, từ 1965, có một số linh mục, tu sĩ
nam nữ Công giáo phối hợp với những cuộc biểu tình do Tin Lành
tổ chức đòi ngừng bắn và rút lính Mỹ về. “Thưa tổng thống, nhân
danh Đức Chúa Trời, hãy ngừng tay lại”.
Đứng trước việc Mỹ leo thang chiến tranh, nhiều sinh viên đã tổ
chức "biểu tình ngồi ỳ" hoặc bãi khóa, nhiều mục sư, linh mục và
giáo sĩ Do thái giáo cùng nhau lập ra một “Ủy ban giáo sĩ lo về Việt
Nam”. Rằng mình chỉ là một thiểu số. “Chúng tôi nhận thấy với đầy
lo âu rằng người Kitô giáo Hoa Kỳ, cho tới nay, đã không thành

126
công trong việc góp phần vào việc giữ hòa bình thế giới. Họ hầu như
câm nín, đang khi đất nước ta càng ngày càng sa lầy vào chiến cuộc
Việt Nam”. Về phía Công giáo, tình hình còn tệ hơn. “Quả là đáng
báo động, khi nhận thấy rằng người Công giáo không đưa ra một
chứng cớ rõ rệt liên quan đến cuộc chiến khốn nạn này. Đã hẳn, có
ít người trong họ, như các linh mục Đanien và Philip Berigan có làm
chứng. Nhưng đa số người Công giáo thì không.” (Sứ điệp Hội đồng
Nhà thờ thế giới ngày 3-12-1965).
Đúng thế, đa số người Công giáo Mỹ đi theo đường hướng của
hàng giáo phẩm hơn là suy nghĩ tới những lời kêu gọi đầy lo âu của
Hội đồng Đại kết các Giáo phái, của một số giới chức nước ngoài và
của Đức Phaolô VI, từ 1964, đã từng kêu gọi nhiều lần và tỏ ra lo
lắng nhiều về nền hòa bình. “Những khổ cực và lo âu phát xuất từ
các cuộc tàn phá to lớn như thế, mà không dạy cho chúng ta điều gì
sao? Nhìn thấy những cảnh xáo trộn của bao gia đình tàn nát, của
bao nhiêu thân thể bị xâu xé, cùng những thành thị bị hủy diệt, mà
không gây được ảnh hưởng gì trong tâm trí những người có trách
nhiệm hay sao?” Trước và sau Giáng sinh 1965, Đức Phaolô VI đưa
ra một loạt hành động hăng hái, phục vụ cho một nền hòa bình bằng
con đường thương lượng.

6. GIÁO HỘI ĐỐI DIỆN VỚI VẤN ĐỀ HÒA BÌNH


Trong bối cảnh như thế, thái độ của Giáo hội Việt Nam như thế
nào? Sau một lúc bị gạt ra rìa bởi nhóm tướng tá đảo chính và Hoa
Kỳ đang muốn chơi con bài Phật Giáo, người Công giáo lại giành
được thế mạnh chính trị vào năm 1965. Quả thế, trong vụ khủng
hoảng Phật giáo và sau khi Diệm bị đổ, người Mỹ cứ nghĩ rằng có
thể dựa vào Phật giáo để thực hiện mục tiêu của mình. Nhưng Giáo
hội Phật giáo Thống nhất, mặc dầu có nhiều xu hướng và ý đồ khác
nhau, vẫn không tán thành chiến tranh và không chống lại việc
thương thuyết với Cộng sản. Một điều chắc chắn, theo cây bút

127
Xunbecgơ trong tờ “Nữu Ước thời báo” ngày 15-3-1965, tổ chức
Phật giáo không đồng tình với kiểu cách của Oasinhtơn, mà lại
nghiêng về phía các ước nguyện của Việt Cộng.
Mất hứng trước thái độ của Phật giáo, Lầu Năm Góc quay lại
luôn phía Công giáo và chơi cho hết ván bài này. Dĩ nhiên, trong các
tài liệu của Tổng giám mục Sài Gòn, tiếng "hòa bình" hay được nói
đến, nhưng luôn luôn chỉ rõ rằng phải là một thứ "hòa bình công bình
bền vững" chứ không phải chỉ là "hòa bình giả tạo chẳng khác gì một
cuộc đầu hàng Cộng sản". Người Công giáo lại bắt đầu xuống
đường, biểu dương lực lượng. Ngày 12-6-1966, 20.000 thanh niên
Công giáo biểu tình trên đường phố, trước mặt 40.000 người đồng
đạo của mình. Thanh niên biểu tình được tổ chức thành những toán
bán quân sự và bận đồng phục màu đen, có nịt lưng. Họ hãnh diện
hô các khẩu hiệu, rồi được quần chúng hô theo: "Nhân dân Việt Nam
ghi ơn quân đội đồng minh" (Hoa Kỳ); "Người Công giáo không
thỏa hiệp với Xatan"; "Liên hiệp với Cộng sản là tự sát". Đồng thời,
các báo Công giáo hoan nghênh các cuộc ném bom của Mỹ như là
"cử chỉ xứng đáng của người Xamarita tốt bụng". Họ tránh né không
công bố các lời kêu gọi hòa bình của Đức Giáo hoàng, hoặc kiểm
duyệt cắt xén, hoặc tìm cách giới hạn ảnh hưởng của những lời kêu
gọi ấy. Chẳng hạn tờ Xây Dựng, nhật báo Công giáo, viết: “Đức
Giáo hoàng không được thông tin đúng đắn, ngài không rõ tình hình
phức tạp của Việt Nam, Ngài chỉ nắm được một khía cạnh của vấn
đề, Ngài bị bao vây bởi nhóm người khả nghi... Đức Giáo hoàng bị
ép phải ăn nói có lợi cho kẻ thù...”
Đức Giáo hoàng, vừa nói ra một thông điệp đòi phải thương nghị
tái lập hòa bình, không thể không lo lắng trước thái độ thiếu sốt sắng
của hàng Giáo phẩm Việt Nam, cũng như trước lập trường công khai
ngược lại của người Công giáo. Thực ra, có một số người Công giáo,
gồm linh mục và giáo dân, lấy lập trường thương lượng hòa bình,
như 11 linh mục đã ký tên vào một bản thương nghị và hòa bình

128
ngày 1-11-1966. Nhưng các tài liệu đó bị các cha xứ cấm giáo dân
tiếp xúc, còn tác giả thì bị anh em đồng nghiệp cô lập, và bị bề trên
ruồng bỏ. Một nhà báo của tờ Thông tin Công giáo quốc tế đã hỏi
một giám mục vào tháng 4 năm 1965 rằng: “Tại sao Đức cha không
phổ biến rộng rãi lời kêu gọi hòa bình của Đức Phaolô VI?” Trả lời:
“Ông cứ xem bức thư của 11 linh mục. Đó là một kiểu lên tiếng nguy
hiểm. Chính phủ có thể giải thích bức thư đó như một sự hùa theo
Cộng sản. Và Giáo hội có thể vì đó mà gặp rắc rối. Vì thế, chúng tôi
khó lòng mà nói được về hòa bình. Bức thư đó gây nguy cơ chia rẽ
Giáo hội, bởi vì kẻ thù của chúng tôi có thể coi đấy như lập trường
chính thức của hàng Giáo phẩm, điều đó không đúng đâu... Bên châu
Âu, các ông không hiểu gì. Những người Cộng sản của các ông là
lớp người tư sản, tử tế và hiền lành. Ở đây, biện pháp của Việt cộng
kinh khủng lắm. Họ chôn sống những ai không chịu đi theo họ. Họ
biết rõ từng người đàn ông, đàn bà, họ ghi số, kiểm soát, đóng khung
dân chúng lại. Các ông không hiểu những điều đó là thế nào cả...”
Như để bắt các giám mục tỏ một thái độ mềm dẻo hơn, tháng 10
năm 1966, Đức Phaolô VI đã phái một đặc sứ qua Sài Gòn. Trong
sứ mạng khó khăn này, đức cha Pighêdoli đã chỉ làm được cho các
giám mục Việt Nam y như với Đức Phaolô VI và lặp lại nguyên xi
các lời của ngài: “Nhân danh Chúa, chúng tôi xin kêu lên: Hãy
ngừng lại. Cần phải gặp gỡ nhau một cách thành thật… Hòa bình
và tự do, phải tôn trọng các quyền con người, quyền lợi cách công
đồng, nếu không thì chỉ là hòa bình mỏng manh và không bền vững”.
Bản tuyên bố hơi miễn cưỡng đó, xem ra không ngược lại với lời
cả quyết của đức cha Pighêdoli được tờ báo Sống Đạo đăng tải: “Nếu
có chống, hay đúng hơn, nếu có chống lại việc thương thuyết để đi
tới hòa bình, thì đó là phía Công giáo. Nhận xét này là một cách tố
cáo Giáo hội Việt Nam, quá chậm chạp trong phong trào hòa bình,
mặc dầu đã có những lời kêu gọi và các nỗ lực của Đức Giáo
hoàng”. Các sự kiện xảy ra sau tháng 10-1966 xem ra xác nhận thực

129
tế đau lòng nói trên. Người ta trông thấy sự có mặt âm thầm của một
giám mục Việt Nam trong buổi Hồng y Xpenman đưa ra bản tuyên
bố hiếu chiến dịp lễ Giáng sinh 1966.
Người ta cũng nhận thấy toàn thể hàng Giáo phẩm giữ im lặng
hoàn toàn đối với "quả bom Xpenman", nó đã gây bối rối cho
Vatican và khiến một số giám mục, linh mục và giáo dân trên thế
giới phản đối. Trái lại, tại Sải Gòn, một tờ tuần báo cho rằng "tư
tưởng của Hồng y trùng hợp với tư tưởng của Đức giáo hoàng". Lực
lượng đại đoàn kết đồng tình với lời tuyên bố của Hồng y người Mỹ,
bởi vì "các vụ ném bom Bắc Việt là đúng đắn và có thể biện hộ
được". Hơn nữa, họ yêu cầu những người Công giáo "chủ hòa" Hoa
Kỳ “đừng làm gì, đừng nói gì có thể làm suy yếu sự kháng cự của
Việt Nam”. Giáo hội Việt Nam tin cậy vào đường lối cứng rắn, nghĩa
là đường lối Mỹ, và chấp nhận lập trường chính thức của Lầu Năm
Góc như một tín điều, theo đó người Mỹ sang Việt Nam chỉ nhằm
bảo vệ miền Nam khỏi họa xâm lăng Cộng sản. (Người ta biết được
nhờ việc công bố Tài liệu Lầu Năm Góc, rằng những lý do đích thực
của cuộc viễn chinh Hoa Kỳ là lợi ích của Hoa Kỳ thôi). Giám mục
Xét (Seitx) địa phận Kông-tum, đã không giấu giếm ý kiến mình khi
nói với ông Vanexem, một cựu tướng lĩnh của đạo quân viễn chinh
Pháp rằng: “Tôi cam đoan, xâm lăng là từ Bắc vào. Và cuộc xâm
lăng mang dạng tàn bạo nhất là xâm lăng các linh hồn. Dân của tôi
là tốt hay xấu, tùy họ được che chở hay là bỏ rơi vào tay Việt cộng…
Hoa Kỳ đã định bao vây và cô lập Trung Quốc. Để làm việc đó, còn
thiếu Cambốt và Miến Điện. Nhưng Mỹ không thể lùi thêm một đốt
ngón tay nữa, nhượng bộ một tấc đất, làm suy yếu vị trí của họ đi,
là mọi sự sẽ lâm nguy, rồi sẽ mất hết”. (Espoir à Saigon, tr. 171).
Ít lâu sau vụ Xpenman, hồng y Cac-đin (Cardin) ký tên vào môt
bản tuyên cáo "yêu cầu" ngưng tức khắc vụ ném bom của Mỹ tại Bắc
Việt và phải tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam, bằng
cách rút quân đội Mỹ về và chấm dứt mọi can thiệp nước ngoài vào

130
Việt Nam. Chính Hồng y, vị sáng lập Phong trào Thanh Lao công,
ngỏ ý muốn qua Sài Gòn gặp Thanh Lao Công Việt Nam. Phía Việt
Nam đã phản ứng nhanh. Giám mục Phạm Ngọc Chi – người đã
thường tháp tùng Hồng y Xpenman trong cuộc viếng thăm Sài Gòn
– đã nhân danh mình và các linh mục, giáo dân của ông gửi một điện
văn cho vị Hồng y người Bỉ, nói lên sự đau buồn của ông khi thấy
Hồng y cổ võ một nền hòa bình giả dối, bằng hành động "liều lĩnh
và nguy hiểm trước khi bàn với hàng Giáo mục Việt Nam và Tòa
Khâm sứ tại Việt Nam". Đức cha Khâm, Giám mục phụ tá Sài Gòn,
viết cho Ngài rằng tại Việt Nam, người ta coi Hồng y là "người bất
hảo". Nhiều bức điện khác cũng gởi tới phản đối Hồng y. Để đánh
dấu rõ sự phản đối của dân chúng, nhiều cuộc mít tinh khổng lồ đã
được tổ chức tại Sài Gòn và các làng Công giáo, với những khẩu
hiệu "Hồng y Cac-đin làm bung xung cho những tay chạy tìm hòa
bình giả dối đang làm nên đạo quân thứ năm của bọn Cộng sản xâm
lăng Việt Nam"; "khi để cho những tay hòa bình giả dối lợi dụng tên
tuổi mình, Hồng y Cac-đin đã để bàn tay mình vấy máu tín hữu Công
giáo Việt Nam chuộng hòa bình thật"; "Đả đảo những tay sai phát
xít làm tôi mọi cho Cộng sản"…
Có những tờ báo Công giáo gọi Hồng y là "Hồng y Cộng sản, là
chiên ghẻ, là con ma quỷ". Tờ Thẳng Tiến, một tờ báo Công giáo,
coi đó như dấu hiệu của một âm mưu thực dân và Cộng sản chống
lại miền Nam tự do. Người ta tố cáo sự điên rồ của các tín hữu người
Âu, kể cả Giám mục và Hồng y dám nói việc chung sống giữa Công
giáo và Cộng sản vô thần, giữa thế giới tự do và khối Cộng sản.
Năm 1967, khắp nơi trên thế giới, nhất là tại Hoa Kỳ, nhiều cuộc
biểu tình được tổ chức chống lại hành động của Mỹ tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, các binh sĩ Mỹ đã đẩy được lên ngôi tổng thống một
người công giáo (Nguyễn Văn Thiệu) và đưa vào thượng viện đa số
nghị sĩ Công giáo (35 ghế trên 60). Đó là thắng lợi lớn của chủ thuyết
"đánh tới cùng". Tại Mỹ và trên thế giới, chính phủ Giônxơn đang

131
ngày càng mất hết tín nhiệm. Ngày 2-5-1967, Đức Phaolô VI kêu
gọi thương thuyết và ngừng ném bom. “Cần ngưng việc ném bom
Bắc Việt và đồng thời chấm dứt việc chuyển quân và vũ khí vào
miền Nam”. Bảy tháng sau đó, ngày 8-1-1968, Hội đồng Giám mục
miền Nam cũng chỉ lặp lại các lời kêu gọi trên của Đức Giáo hoàng,
lời kêu gọi bị vô hiệu hóa bởi thái độ im lặng của ngài về vụ lính Mỹ
thảm sát dân thường tại Mỹ Lai tháng 3 năm 1968 bởi các bài Công
giáo chống lại việc thương thuyết do báo chí Hoa Kỳ đề nghị.
Tại Mỹ, sau cuộc bầu cử tháng 11 năm 1968, Nic-xơn thay thế
Giônxơn. Tổng thống mới hứa sẽ rút dần binh sĩ Hoa Kỳ về và sẽ
Việt Nam hóa chiến tranh, đồng thời tăng cường ném bom Bắc Việt.
Nhà Trắng hy vọng làm dịu bớt tiếng phản đối của dân chúng Mỹ
bằng cách giảm đến tối thiểu số binh sĩ bị giết, đồng thời vẫn làm
cho đời sống tại Bắc Việt bị tê liệt, cũng như tại các vùng do Mặt
trận Giải phóng kiểm soát, bằng các cuộc không tập còn tàn bạo hơn
thời Giônxơn.
Những cảnh bạo tàn của chiến tranh, việc hủy hoại cả nền văn
hóa Việt Nam do quân đội Mỹ chiếm đóng, ngày càng tạo nên ở Việt
Nam các phong trào chống đối, nhất là trong giới trẻ, học sinh, sinh
viên và các nhà chùa. Cuộc đàn áp rất dã man. Hàng ngàn sinh viên
và Phật tử bị bắt, tra tấn, thanh toán, không cần xét xử. Trong Giáo
hội Công giáo, thái độ hàng giáo phẩm và linh mục không thay đổi.
Người ta tiếp tục ủng hộ sự can thiệp Mỹ và chế độ Thiệu, trong đó
người Công giáo nắm được các vị trí then chốt. Một số người hoan
hô Nichxơn tăng cường ném bom Bắc Việt. Họ bực bội khi thấy Mỹ
còn tha cho thành phố Hà Nội và các đê điều sông Hồng. Họ lấy làm
lạ tại sao Hoa Kỳ chưa xử dụng bom nguyên tử mà hủy diệt Cộng
sản. Hàng giáo phẩm giữ im lặng trước các cuộc thảm sát dân
thường, trước hoàn cảnh các tù nhân chính trị bị nhốt "chuồng cọp"
khi các phương tiện thông tin cả thế giới đã làm rùm beng lên khắp
nơi rồi. Nhờ việc tiết lộ của Don Luce và mấy thượng nghị sĩ Mỹ,

132
người phương Tây biết được các cuộc tra tấn man rợ tại các đồn bót
cảnh sát, tại các văn phòng mật vụ, tại các nhà giam được Mỹ trang
bị và nuôi dưỡng, điều mà tại miền Nam mọi người đều hay biết và
phản đối, chỉ trừ tiếng nói chính thức của Giáo hội.
Từ 1968 đến Hiệp định Paris tháng giêng 1973, tấm thảm kịch
Việt Nam một mặt là những tàn phá do chiến tranh gây nên, mặt
khác là những cuộc đàn áp đối lập và phản chiến, vì chủ trương trung
lập cũng như những người thiên Cộng hay là Cộng sản.
Về mặt quân sự, chiến dịch Phượng Hoàng do CIA tung ra nhằm
tảo thanh triệt để các vùng hoặc nghi ngờ, hoặc chính phủ Sài Gòn
không kiểm soát được. Phương thức thật giản dị bởi quân cách mạng
là cá sống trong nước, thì cứ tát hết nước đi thì bắt được cá. Trong
những cuộc càn quét rộng lớn kinh khủng, quân đội Mỹ và Nam Việt
quét sạch các làng mạc, bắt đi tất cả nam nữ và trẻ em cho vào các
trại "lánh nạn" có rào kẽm gai, rồi giao cho mật vụ thanh lọc. Những
người tình nghi được đưa tới các phòng thẩm vấn hoặc trại giam.
Sau khi đã cưỡng bức tập trung dân chúng vào các trại tỵ nạn chung
quanh các thành phố hoặc căn cứ quân đội, nông thôn được coi là
"vùng tự do" ném bom giết chết bất kỳ ai, hoặt hủy diệt bằng rải chất
độc hóa học, thuốc làm trụi lá và bom napan. Cũng gọi là vùng "tự
do oanh kích", những vùng do Mặt trận Giải phóng kiểm soát mà
quân đội Mỹ và Nam Việt không thể chiếm được. Số lượng bom ném
xuống nguyên miền Nam đã vượt số lượng bom sử dụng trong thế
chiến thứ hai.
Về việc đàn áp, cảnh sát miền Nam, được Mỹ trang bị cho, đã đạt
tới mức hiệu quả tối đa, vì có cả máy điện toán, và còn dụng cụ tra
tấn thì có loại thuộc thời trung cổ, có loại hiện đại tối tân nhất. Những
người bị giam giữ phải chịu những cực hình man rợ, vô nhân đạo,
vượt xa khả năng tưởng tượng của con người. Về bình diện xã hội,
các tệ đoan lan tràn khắp nơi: cái gì cũng mua được, bán được, các
chức vụ trong Quốc hội, chức vụ các tỉnh, quận huyện, làng xã; chợ

133
đen là địa bàn phổ biến cho mọi hạng người, Công giáo cũng như
Phật giáo, tu sĩ cũng như giáo dân, nạn mãi dâm lan tràn rộng khắp,
tham nhũng, ăn cắp, hối lộ ngày càng trở nên chuyện thường ngày
của dân chúng.
Đứng trước những thực tế đau buồn đó, một lực lượng "đối lập"
hình thành trong Giáo hội: một thiểu số các linh mục và giáo dân, trí
thức hay thợ thuyền, lên tiếng báo động và thức tỉnh Giáo hội đã "sa
lầy với Hoa Kỳ", lại một lần nữa phản bội tổ quốc vì những đặc
quyền và đô la, liên hiệp với một chính quyền thối nát, áp bức. Hai
tờ báo "Đối Diện" và "Chọn" có được một số bài rất có giá trị để tạo
ra một bầu không khí đối thoại, thông cảm và đấu tranh cho hòa bình.
Nhưng âm vang lại chỉ xảy ra chủ yếu nơi giới trẻ, người ngoài Công
giáo. Một linh mục thổ lộ: “Hễ anh nói với một người Công giáo
Việt Nam về trường hợp Cộng sản có thể thắng, anh sẽ làm cho họ
phải run rẩy cả người, họ sẽ nạt nộ, mất cả trí khôn. Đối với người
Công giáo đó, Cộng sản sẽ là loại người đã bị kết án sa hỏa ngục
rồi”. Mấy tạp chí kể trên chẳng mấy chốc đã bị chính quyền giáng
cơn lôi đình cho. Ông chủ nhiệm Đối Diện bị kêu án 5 năm tù giam,
và mấy triệu đồng tiền phạt, còn tờ báo thì sau nhiều lần bị tịch thu,
cuối cùng đã bị đóng cửa vĩnh viễn từ 1972. Từ đó, nó trở thành báo
lậu và phát hành chui. "Chọn" cũng không được nương nhẹ hơn, vì
đã dám phổ biến và chú thích tài liệu Thượng Hội đồng Rôma về
"Công bằng trên thế giới", mỗi biên tập viên đã lãnh 5 năm tù giam
và tờ tạp chí bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.

7. NỖI HĂM DỌA CỦA HÒA BÌNH


Các giám mục không chính thức lên án các tờ tạp chí kể trên,
nhưng coi đó là tờ báo nguy hiểm, để cho Cộng sản lợi dụng khai
thác. Tại Việt Nam, hễ phản đối Mỹ hay là ủng hộ việc đàm phán
với Mặt trận Giải phóng, là bị kết án thân cộng. Tháng 3 năm 1971,
dư luận Công giáo rất xúc động trước những lời tuyên bố của linh

134
mục Nguyễn Viết Khai: “Tôi xin nói rõ, tôi là một linh mục đã từng
ở trong tầng lớp lãnh đạo. Tôi đã chiến đấu chống lại Cộng sản một
cách mù quáng. Kết quả là tôi bị kết án, do Cộng sản dĩ nhiên rồi,
23 tháng và 7 ngày tù ở… Sau 23 tháng và 7 ngày tù, tôi được tha
và tôi cầm đầu một nhóm người di cư vào Nam… Từ đó, tôi có thể
tự khoe là mình đã chạy xuôi ngược khắp cả miền Nam… Chẳng có
nơi nào có những người gốc Nghệ Tĩnh đang cầm súng chống lại
Cộng sản mà tôi không tới thăm… Bất kỳ nghe nói ở đâu có Cộng
sản là chúng tôi xốc tới, quyết đánh và tiêu diệt họ nếu cần. Đó là ý
muốn minh bạch rõ ràng của chúng tôi. Tuy nhiên, tôi đã sớm thấy
ra rằng tôi làm một chuyện ngu xuẩn.”
Việc một linh mục được ông Diệm coi như một chiến sĩ chống
Cộng tốt nhất, chẳng phải là do một cuộc tẩy não của Cộng sản, mà
là nhờ suy nghĩ chín chắn về thực tế. Ông Khai còn nói: “Tôi cảm
thấy càng bối rối hơn, khi tôi phải đề cập đến khía cạnh "vô Tổ quốc"
của người Cộng sản. Trước mắt các anh, ai là người vô Tổ quốc?
Cần phải thú nhận rằng chính chúng ta, những người dân miền Nam,
chúng ta mới thật là những con người "vô Tổ quốc"… Người ta có
thể hỏi xem tại miền Nam có chăng một chút tự do trong việc quản
lý xứ sở mình? Từ chính quyền trung ương, xuống cho tận anh
trưởng ấp, người miền Nam không được phép giải quyết vấn đề của
mình mà không có người nước ngoài xen vào”.
Những lời tuyên bố trên của một kẻ hối cải chẳng làm vừa lòng
chính quyền, cũng như hàng giáo phẩm chút nào. Chín tháng sau đó,
linh mục Khai đã được mời đi khỏi xứ đạo của ông. Nếu các lời
tuyên bố trên đây đã không lay nổi lập trường của đa số trong hàng
giáo sĩ cũng như giáo dân, ít ra nó cũng buộc một số người Công
giáo phải suy nghĩ lại.
Tiếng nói phản kháng của Công giáo cũng vang lên tại Rôma,
chẳng hạn trong bức thư đề ngày 12-8-70 có nói rõ rằng: “Chướng
ngại chủ yếu cho nền hòa bình tại Việt Nam là Giáo hội Công giáo”.

135
Bức thư bắt đầu bằng việc nói rõ những tàn phá khốc liệt của chiến
tranh: “Cuộc chiến này ngày càng trở nên một cuộc chiến diệt
chủng, chẳng những cuộc chiến giết hàng ngàn kẻ vô tội mỗi ngày,
mà nhất là vì nó đang phá hoại tận gốc rễ những giá trị căn bản nhất
của một dân tộc.
“…Nhưng giai cấp lãnh đạo Giáo hội thì chống lại mọi nỗ lực
chấm dứt chiến tranh, kể cả khi nỗ lực của chính Đức Thánh Cha
(Phaolô VI), bởi vì họ sợ hòa bình… Giáo hội hỗ trợ một cách hữu
hiệu cho quân đội nước ngoài và chế độ hiện hành. Mọi người đều
rõ, không những giữa tòa đại sứ Mỹ và Khâm sứ Tòa thánh Vatican
có những liên hệ rất chặt chẽ mà còn có cả một đường dây điện thoại
"đỏ" giữa ông đại sứ Mỹ và vị Khâm sứ Rôma. Chẳng phải là việc
gì bí mật đối với bất cứ ai, việc các giám mục của chúng tôi có thể
đến gặp tổng thống bất kỳ lúc nào, và ông không thể từ chối. Không
ai biết rằng tại đây, số phận của quận trưởng, tỉnh trưởng tại các
vùng đông Công giáo, không nhất thiết là đa số, cũng nằm trong tay
các cha xứ. Ở mọi cấp chính quyền, người dân Công giáo lúc nào
cũng được xuôi việc, anh nông dân có làm bậy gì đi nữa… có cha xứ
can thiệp là việc gì cũng ổn thỏa. Một tay chủ hãng bị tố giác gian
lận thuế, một vị bộ trưởng hoặc tướng tá bị tố cáo là tham ô hay
buôn lậu, chỉ cần có sự can thiệp nhẹ nhàng của một Giám mục hay
một vị tổng quản, là vụ việc được chôn vùi êm thắm. Giáo hội, Đức
Kitô là tổ chức duy nhất còn lại để ủng hộ chế độ đó, sự ủng hộ rất
thiết yếu và hiệu quả của Mỹ phần lớn cũng tùy vào thái độ của Giáo
hội tại Việt Nam”.
Những lời tố cáo mạnh mẽ trên đây phản ảnh một thực tế chẳng
ai chối cãi. Bởi vì những người đang lợi dụng chế độ là Giám mục,
Linh mục hay giáo dân, đều nghĩ rằng quân lính Mỹ là binh sĩ của
Đức Kitô. Linh mục Phan Khắc Từ, Tuyên úy Thanh Lao Công Sài
Gòn, đã tuyên bố thẳng thừng ngày 20-9-1970 tại Firenxê rằng:
“Kinh nghiệm trước mắt cho chúng tôi xác tín rằng Giáo hội tại Việt

136
Nam hôm nay, là một công cụ hữu hiệu của người Mỹ”. (Vị linh mục
này đã có thời đi hốt rác tại Sài Gòn để chia sẻ đời sống với dân
nghèo).
Trái lại, Giám mục Phạm Ngọc Chi, Phó chủ tịch Hội đồng Giám
mục miền Nam và coi sóc địa phận Đà Nẵng, trong một chuyến đi
Hoa Kỳ vào tháng 12 năm 1969, đã tuyên bố với báo chí rằng: “Miền
Nam đồng tình với chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của tổng
thống Nichxơn”. Ông tỏ "lòng biết ơn về sự khen ngợi của nhân dân
Việt Nam… Việc ngưởi Mỹ đến dự lễ tại nhà thờ của ông là một
gương sáng về đạo đức cho giáo dân của ông" (The Wanderer 1-1-
1970). Tờ báo viết tiếp: “Giám mục nói rằng, ông chống lại một
chính phủ liên hiệp với Việt cộng. Tại miền Bắc, chúng tôi đã thấy
chuyện đó rồi. Sự liên hiệp chỉ được một lúc rồi Cộng sản gạt tất cả
những người không Cộng sản ra khỏi chính phủ”.
Những cách tố cáo lập trường đối nghịch nhau như thế, phản ảnh
có sự mâu thuẫn sâu sắc giữa hàng giáo phẩm Công giáo và một
thiểu số năng động. Thiểu số này tập họp trong "Phong trào Công
giáo vì hòa bình" của miền Nam, trong "Phong trào Công giáo phụng
sự Tổ quốc" (ở hải ngoại) hoặc "Ủy ban đòi cải thiện chế độ lao tù
tại miền Nam" – Ủy ban này cũng gồm cả những người không Công
giáo – oán trách hàng Giáo phẩm cứ im lặng trước chính sách của
Mỹ (như ném bom hàng loạt các nơi) và sự câm nín của chính quyền
Sài Gòn (về tra tấn, giam giữ). Linh mục Trương Bá Cần, Tuyên úy
Thanh Lao Công toàn quốc, bị cảnh sát bắt tháng 11 năm 1971 vì đã
tham gia vụ đình công tại Nhà máy pin Con Ó nhằm hỗ trợ những
người thợ đình công, ông đã viết với giọng cay đắng rằng: “Được
thiết lập và đào tạo để sống trong một xã hội bình thường (tư bản),
Giáo hội của tôi không biết chọn, nhất là chọn để chống lại những
kẻ đang nắm quyền hành trong xã hội này… Giáo hội của tôi cũng
đã biết lựa chọn nhưng không biết lựa chọn người nghèo khổ… Giáo
hội của tôi đã được thiết lập và đào tạo để sống trong những tình

137
hình bình thường, nhưng thế giới, trong đó Giáo hội tôi phải rao
giảng Tin mừng, là một thế giới đầy tranh chấp… tranh chấp giữa
những kẻ áp bức và những người áp bức, giữa những kẻ bóc lột và
những người bị bóc lột.”
Hình ảnh Giáo hội còn trở nên khủng khiếp bởi hoạt động của
một số linh mục, ông thì lập đạo quân Công giáo khát máu (như linh
mục Nguyễn Lạc Hon, người Trung quốc di tản, cựu trung tá, thiếu
tá của quân đội Tưởng Giới Thạch), những ông khác thì mang lon
trung tá, thiếu tá, đại úy hoạt động với tư cách tuyên úy tại các trại
giam hay tại Nha tâm lý chiến, những ông khác nữa làm việc công
khai hay bí mật cho CIA.
Hơn nữa, Giáo hội cơ cấu tại Việt Nam không chịu công nhận
mục đích cuộc chiến đấu của Mặt trận Giải phóng và của Chính phủ
lâm thời Miền Nam, là để chống lại chủ nghĩa thực dân kiểu mới của
Mỹ và cuộc kháng chiến của Miền Bắc là do ý chí của nhân dân
quyết liều đổ máu nhằm bảo vệ chủ quyền và sự tự do của mình.
Mặc dầu đã có việc lộ bí mật của Tài liệu Lầu Năm Góc, Giáo hội
vẫn nhốt mình trong lập trường chống cộng tận xương tủy và mãi tin
vào "cuộc chiến đấu tự vệ của thế giới tự do chống lại Cộng sản xâm
lăng".
Vì thế, người Công giáo miền Nam phải kinh hoàng khi thấy báo
chí phương Tây đưa tin vào cuối tháng 10, bản thỏa hiệp bí mật giữa
Kitxinhgiơ và Lê Đức Thọ, tiên liệu về cấu trúc chính quyền ba thành
phần để giải quyết vấn đề miền Nam. Đầu tháng 11 năm 1972, một
số giáo dân vùng Sài Gòn hưởng ứng lời kêu gọi của chính quyền
Thiệu, đã kéo nhau hàng loạt đi biểu tình, dưới sự điều khiển của các
cha xứ, để phản đối việc thành lập chính phủ ba thành phần và phản
đối việc hòa giải với Cộng sản. Sự trở mặt của Nichxơn ra lệnh ném
bom Hà Nội và Hải Phòng tháng 11 và tháng chạp 1972, đã được
các thành phần Công giáo hoan hô thỏa chí.

138
Cuối cùng, Nichxơn phải nhượng bộ. Bản Hiệp định ngày 2 tháng
giêng 1973 đã được ký kết tại Paris, chấm dứt việc can thiệp quân
sự cũa Mỹ tại miền Nam Việt Nam.

8. CÒN VATICAN THÌ THẾ NÀO?


Trên đây, chúng tôi có nói đến nỗ lực đáng khen ngợi của Đức
Phaolô. Ngài đã kêu gọi nhiều lần để hỗ trợ cho Hòa bình và đàm
phán. Tuy vậy, các nỗ lực của ngài đã bị lu mờ đi trong những năm
thương thuyết tại Pari (1968-1972) bởi một thái độ hàm hồ, nếu
không nói là phò Mỹ. Hình như ngài quá chăm chú nghe lời Cabốt
Lốt, cựu đại sứ Mỹ tại Sài Gòn và là đặc sứ của Nichxơn bên cạnh
Vatican, mặc dầu Mỹ không có quan hệ ngoại giao chính thức với
Tòa thánh. Con người đã đào mồ chôn ông Diệm ấy làm gì bên cạnh
Giáo hoàng? Bóng ma của ông ta lại không lởn vởn trên đầu mấy
văn phòng của Quốc vụ khanh, liên quan tới những quyết định của
Giáo hoàng về Việt Nam sao? Lời kêu gọi "nhân đạo" của Đức
Phaolô VI hỗ trợ các tù binh Mỹ tại Bắc Việt, lại chẳng phản ảnh
mối quan tâm một chiều của Giáo chủ đối với mấy trăm tên "tội
phạm chiến tranh" và đồng thời việc ngài lờ đi số phận của hàng trăm
ngàn con người Việt Nam đang bị tra tấn, hành hạ tại các nhà tù được
dựng lên và được điều khiển trực tiếp hoặc gián tiếp với bọn Mỹ
sao? Những người thành tâm có lý và bỡ ngỡ trước sự lặng thinh của
vị đứng đầu Kitô giáo đối với những lá thư ngỏ hoặc thư riêng đã
được gửi đến cho ngài do các tù nhân chính trị hoặc do cha mẹ, bạn
bè họ.
Cabốt Lốt phải chăng đã đóng vai trò trấn an, khi các máy bay B-
52 mỗi ngày trút xuống đầu nhân dân Việt Nam hàng ngàn tấn bom,
khiến Đức Giáo hoàng cứ im lặng khi đứng trước cảnh tàn sát cả
triệu dân thường, bất kể nam nữ lão ấu? Hay chỉ lâu lâu mới biểu lộ
nỗi đau lòng trước các nạn nhân của hai bên thôi? Cả đôi bên, tức là
của bên bọn xâm lược và bên của những người bị xâm lược. Phải

139
chăng Cabốt Lốt đã giật dây khi Đức Phaolô VI từ chối không tiếp
bà Nguyễn Thị Bình, ngoại trưởng của Chính phủ Cách mạng lâm
thời miền Nam, khi Bà tới Rôma năm 1971? Theo các nguồn tin
đáng tin cậy, bà Nguyễn Thị Bình chỉ được một giám chức tiếp kiến
cách bí mật và ông đã đường đột hỏi bà: “Tại sao phía bà không chịu
chấp nhận những điều kiện do phía Mỹ đưa ra, mà đó là những điều
rất rộng rãi?” Bà Bình đã rất vất vả để giải thích cho ông ấy rằng,
nhân dân miền Nam chẳng đòi hỏi gì ngoài nền độc lập của đất nước
và sự rút lui toàn thể và vô điều kiện của quân đội Mỹ khỏi Việt
Nam.
Người ta cũng biết rằng Đức Phaolô VI đã chỉ tiếp cách chính
thức cụ Xuân Thủy, đặc mệnh toàn quyền của Bắc Việt và ông
Nguyễn Văn Hiếu, bộ trưởng của Chính phủ Cách mạng lâm thời
miền Nam sau Hiệp định Pari, nghĩa là sau khi Oasinhtơn đã ký thỏa
ước hòa bình với các chính quyền đó.
Vatican luôn luôn tuyên bố mình trung lập. Tại sao Nichxơn,
Cabốt Lốt, Băngcơ... thì được tự do ra vào nhà Giáo hoàng mỗi lần
đi qua Rôma, còn các bộ trưởng của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa hay của Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam, thì lại không
được như thế? Tại sao các bộ trưởng và nghị sĩ của Thiệu - và sau
đó, chính bản thân Thiệu - được nhiều lần nhận phép lành của đức
Giáo hoàng khi tiếp kiến thân mật, còn những người của Kháng
chiến Việt Nam lại không hề được?
Bao nhiêu là thắc mắc và câu trả lời chỉ nằm kín đáo tại văn khố
của Vatican thôi. Một phóng viên Mỹ nói rằng "trong vấn đề Việt
Nam, Đức Giáo hoàng giữ trung lập mà thiên vị", có đúng chăng?
Đức Giêsu có chu toàn được sứ mạng của Ngài chăng, nếu Ngài đã
có những buổi tâm giao với Philatô hay Hêrôđê? May thay cho nhân
loại, Ngài đã được hai ông ấy tiếp có một lần, và người ta biết tiếp
thế nào...

140
Thái độ của Đức Giáo hoàng, của Vatican và của một số hàng
giám mục phương Tây, cũng thiếu trong sáng khi liên hệ với các tín
hữu Kitô Việt Nam yêu hòa bình, hoặc liên đới với người Việt Nam.
Vì hoàn toàn tin tưởng vào sự sáng suốt và tinh thần Phúc Âm
của vị lãnh đạo Giáo hội, những người Việt Nam Công giáo yêu
chuộng hòa bình đã từng gửi đến Đức Giáo hoàng hàng trăm bức thư
suốt thời gian chiến tranh, có bức thư dài tới 40 trang. Thế mà chẳng
hề có sự hồi âm, không hề có một phúc đáp nào. Họ tự hỏi, phải
chăng bộ máy kiểm duyệt của Tòa thánh nghiêm nhặt đến độ tiếng
nói yếu ớt của họ đã không bao giờ lọt qua được cái sân Damase và
bị bàn chân đại sứ Mỹ dập tắt hết. Trong một thư gửi cho Hồng y
Rossi ngày 18.8.1974, một linh mục đã phải dùng lời cứng cỏi mà
kêu lên: “Đức Hồng y là ông trùm tối cao của viện loan Tin mừng,
ngự trị tại trung ương, còn chúng tôi, những người phụ trách tại cơ
sở thì mãi chốn xa xăm này. Đức Hồng y không có dịp sang tận xứ
chúng tôi thì chúng tôi cũng không có cách gì sang gặp được Đức
Hồng y tại Rôma. Ở giữa Đức Hồng y và chúng tôi, mặc dù đôi bên
là những kẻ loan Tin mừng, cả muôn ngàn thứ ngăn cách chúng ta
với nhau. Không những cản trở bởi những bàn tay trung gian cứ
ngoan cố che giấu sự thật, nói rõ ra là nước do chính đức Khâm sứ,
cứ tìm hết cách ngăn cản không cho chúng tôi liên hệ được với Đức
Hồng y”.
Có nên nhắc lại rằng vị khâm sứ cuối cùng, Giám mục Lemaitre,
đã bị Linh mục Chân Tín công khai tố cáo là “một con người quan
tâm đến các cuộc liên hoan ngoại giao, hơn là việc bênh vực quyền
lợi con người”?
Cũng vị Khâm sứ này đã gọi cảnh sát Nam Việt đến xua đuổi một
nhóm nam nữ tu sĩ và chủng sinh tới xin ông can thiệp giúp đỡ các
tù nhân chính trị. Chính ông đã đánh điện sang tòa Khâm mạng tại
Ôttaoa và Hội đồng Giám mục Canada, đề nghị hãy cảnh giác, đừng
ủng hộ đại hội thứ hai của tổ chức Kitô hữu quốc tế đoàn kết với

141
nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia, nhóm tại Quebec những
ngày 7.9.1972. Đó là cuộc tập họp của 285 tín hữu, thuộc nhiều danh
nghĩa của trên 20 nước, thảo luận đề tài: giải phóng con người và
giải phóng các dân tộc Việt, Lào và Campuchia.
Dĩ nhiên những người dự đại hội tố cáo các cuộc xăm lăng của
Mỹ và các vụ ném bom vô nhân đạo tàn ác của cường quốc đó. Một
số giám mục Việt Nam miền Bắc và miền Nam được mời dự, cũng
như nhiều Giám mục khác tại các nước trên thế giới. Trong số các
Giám mục có mặt tại đại hội này, đức cha Mátthêu, tổng Giám mục
Anh giáo tại Quebec khi dự đại hội về đã viết như sau: “Điều đã
đánh động tôi hơn cả, là sự quan tâm to lớn của Đại hội đối với các
nhu cầu của những người khác, không phân biệt về tôn giáo, quốc
tịch hoặc chủng tộc. Mối quan tâm này bao trùm tất cả các lục địa
và đại dương. Đại hội này là thực tế lẽ ra Giáo hội phải như thế,
nghĩa là có tinh thần quốc tế và đề cập tới những vấn đề chính trị và
kinh tế của các dân tộc, bất kỳ ở phương trời nào. Đại hội dấn thân
cách vô vị lợi, nhằm giúp cho các nước Thế giới thứ ba thoát khỏi
cảnh thiếu thốn vốn đi liền với bóc lột, khỏi bị khinh dể và khỏi nỗi
lo sợ chiến tranh. Đại hội đã khẳng định quyền tự quyết, quyền tự
do và được sống hòa bình của nhân dân Việt Nam.”
Còn Tổng Giám mục Công giáo Quebec, có lẽ chịu ảnh hưởng
của bức điện tòa Khâm sứ Sài Gòn, nên đã từ chối không tham dự
và sau đó đã phát biểu ý kiến của mình trong cuộc phỏng vấn của
Đài tiếng nói Canada như sau: “Đại hội đó rõ ràng là do Bắc Việt tổ
chức” và “chỉ ủng hộ, ngay lúc còn chiến tranh, một bên lâm chiến
thôi. Phần tôi, với tư cách là Giám mục, tôi thấy mình phải tránh
đừng tham dự đại hội” (Radio Canada 10.1.1973).
Hiển nhiên là những người Canada trong Ban tổ chức Đại hội đã
đáp lại rằng, những lời cáo buộc của Hồng y là không đúng với sự
thật.

142
Một năm sau, cuộc họp thứ ba của Hội Kitô hữu đoàn kết với ba
dân tộc Việt, Miên, Lào, được tổ chức tại Torinô, dưới sự bảo trợ
của Ủy ban Pax Christi tại Ý, có 25 nước tới dự, có cả phái đoàn Bắc
Việt Nam và của Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam. Hội
đồng Giám mục Ý, dưới áp lực của Vatican, muốn lên án ngay trước
ngày họp, một cuộc tập họp quốc tế của những tín hữu Kitô, không
những có các đại diện Công giáo, mà cả phái đoàn đại diện chính
thức của Hội Đồng Đại kết các Giáo phái. Nhờ sự can thiệp cương
quyết của Hồng y Pellagrino, địa phận Turino, và của đức cha
Bettadi, chủ tịch Pax Christi tại Ý, 15 ngày trước cuộc họp, Hội đồng
Giám mục Ý chỉ phổ biến một bản tin hàm hồ, nhằm gây ngờ vực về
tính nghiêm túc của Hội nghị này. Cũng may, nhiều báo chí tại Ý
(Sette Giorni, Rocca, Nuovo Tempi, II Giorno, la Stampa) và các
nước khác (Le Monde, Témoignage chrétien, Công giáo và Dân tộc
Pari v.v..) đã công bố các bản báo cáo, các bài tổng kết hội nghị,
đánh bại mưu đồ ngược Tin mừng của mấy kẻ bài xích. Như tại
Québec, tại Turino, các đại biểu đã chú tâm tới nhiều vấn đề của
Giáo hội Việt Nam, về thái độ của Giáo hội đối với người nghèo,
những kẻ bị áp bức, những tù nhân chính trị, về thái độ của Giáo hội
toàn cầu và các Giáo hội Tây Âu, đứng trước chủ nghĩa đế quốc và
chủ nghĩa thực dân mới.
Một sự cố không tốt lành xảy ra sau Hội nghị Turinô, càng làm
mất sự tin tưởng của các tín hữu Kitô đối với Vatican. Sau khi Hội
nghị Turinô bế mạc, linh mục Trần Quang Nghiêm, đại biểu Việt
Nam thuộc vùng Giải phóng đã ghé Rôma, gặp Đức ông Gremillion,
thư ký của Ủy ban Tòa thánh "Công lý và Hòa bình" và trong một
cuộc tiếp kiến chung, cha đã đến gần Đức Giáo hoàng, thưa thốt với
ngài và trao cho Đức Giáo hoàng một tài liệu về tình hình Việt Nam.
Sự kiện đó được một ít tờ báo tại Rôma loan tin. Qua ngày sau,
Vatican, với một giọng cứng rắn khác thường, đã công bố một thông
tin phủ nhận thẳng thừng rằng không có chuyện Đức Giáo hoàng đã
nói chuyện với Linh mục người Việt và Đức ông Gremillion cũng

143
không có gặp Linh mục đó. Lời cải chính đó làm cho người tín hữu
đâm ra vẩn vơ mơ màng. Chẳng có ai nghĩ tới chuyện phải cải chính,
khi Đức Giáo hoàng tiếp ông Thiệu với tất cả nghi thức long trọng.
Thêm một bằng chứng nữa - nếu chúng ta cần thêm bằng chứng về
những xu hướng lựa chọn của Vatican (Nuovi Tempi, 11-11-1973).
Vatican xem ra chưa tách mình khỏi Hoa Kỳ. Ngày 6 tháng 7
năm 1974, Kitxingiơ đến thăm Đức Giáo hoàng, có mặt Khâm sứ
Sài Gòn Lemaitre, dĩ nhiên là không phải để xin cho được thi hành
Hiệp định Pari (!)

9. GIÁO HỘI SAU HIỆP ĐỊNH PARI


Hôm trước ngày ký hiệp định, tổng thống Nichxơn tuyên bố ông
chỉ công nhận một chính phủ hợp pháp của Nam Việt là chính phủ
Thiệu. Tuy nhiên, Hiệp định Pari công nhận Chính phủ Cách mạng
lâm thời miền Nam, là một trong hai bên của miền Nam Việt Nam.
Hiệp định đòi phải lập ra một Hội đồng quốc gia gồm có chính quyền
Sài Gòn, Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam và Lực lượng
thứ Ba, nhằm chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử tại miền Nam theo
tinh thần hiệp nhất và hòa giải. Hiệp định đòi phải thả tất cả tù chính
trị, ngoài các tù binh của hai bên.
Ngày 19-9-1973, Tổng giám mục Sài Gòn đọc diễn văn khai mạc
Năm thánh, bài diễn văn chẳng những được phổ biến khắp Sài Gòn,
mà còn đưa ra khắp tỉnh các miền Nam, bài diễn văn nhấn mạnh về
sự hòa giải. Song tiếc thay, trong bài diễn văn hòa giải đó; Đức Tổng
giám mục chỉ nói đến hòa giải giữa hai miền Bắc và Nam và im lặng
chẳng nói gì tới một thực tế gấn gũi hơn, tức là Vùng do Mặt trận
Giải phóng kiểm soát. Ngài nói: “Chúng tôi hy vọng rằng những
cuộc giết chóc và hận thù sẽ thực sự chấm dứt trên mảnh đất này và
đồng thời có được quan hệ hai chiều giữa Bắc và Nam, trong lúc đất
nước tạm thời còn phân chia”. Lẽ ra, thực tế hơn, thì nên nói về sự
hòa giải giữa Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng Lâm thời như Hiệp

144
định Pari có tiên liệu. Tại sao ngài không nói? Tại vì không muốn
mích lòng Tổng thống Thiệu đang có mặt trong thánh lễ khai mạc
năm thánh đó?
Ngày 10-1-1974, sau cuộc Hội nghị toàn thể hàng Giáo phẩm,
các Giám mục miền Nam đã công bố một tài liệu có thể coi là tuyên
ngôn của Giáo hội miền Nam sau Hiệp định Pari. Sau khi nhấn mạnh
ước nguyện của các ngài là "xây dựng một nền hòa bình công bằng
và hòa giải giữa những anh em cùng một dân tộc", các Giám mục
tuyên bố: “Sau việc ký kết Hiệp định Pari về ngưng bắn và lập lại
hòa bình tại Việt Nam, mọi người đã hy vọng được thấy hiệu quả tốt
của Hiệp định đó. Nhưng, ngược với sự trông chờ của mọi người,
chiến tranh vẫn tiếp tục. Vì thế, một lần nữa, chúng tôi tha thiết kêu
gọi hai chính phủ Bắc và Nam cùng đồng loạt, vì tình thương dân
tộc, mà ngưng mọi hoạt động gây chiến và mọi chiến dịch bôi nhọ
và thù ghét lẫn nhau”.
Một lần nữa, Chính phủ Cách mạng Lâm thời lại bị bỏ sang một
bên. Hay đúng hơn, hàng Giáo phẩm miền Nam cho nó đứng chỗ
khác: “Chúng tôi cũng đề nghị Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (miền
Nam) và các nhóm, hoặc đảng phái chính trị đối lập thuộc mọi xu
hướng tại miền Nam, một đàng hãy đẩy mạnh việc dân chủ hóa các
hoạt động chính trị và đàng khác, từ bỏ mọi cách chống đối có dùng
vũ khí bạo động”.
Bản tuyên ngôn của hàng Giáo phẩm đã vấp phải sự phản đối
đồng loạt, không những trong số tín hữu "Tiến bộ", mà cả nơi các
chính trị gia Công giáo bảo thủ, xưa nay vẫn theo sát đường lối của
Giáo hội. Người thì bàng hoàng, kẻ thì tức giận. Một nghị sĩ Công
giáo bảo thủ lấy làm tiếc vì các Giám mục đã không chịu bàn hỏi
những người có sở trường, trước khi lên tiếng về lãnh vực chính trị
với những lời lẽ có thể gây lộn xộn và tác hại cho ước nguyện chung
của dân tộc. Báo Chính Luận, một tờ báo cánh hữu, viết trong bài xã
luận rằng: “lời tuyên bố của các Giám mục là một món quà quí giá

145
cho Chính phủ”. Nguyễn Ngọc Lan trong Đối Diện nói thêm: “Giữa
người lớn với nhau, người ta thường trao đổi quà cáp nhân dịp Tết
nhứt. Các Giám mục mình sẽ nhận lại món quà gì?” Nhật báo Hòa
Bình tự hỏi rằng, khi các Giám mục bỏ quên Chính phủ Cách mạng
Lâm thời trong bản Tuyên bố có phải đó là một cách phá hoại Hiệp
định Pari (như Thiệu làm) chăng? Một nhóm Công giáo cho phổ biến
một tài liệu cho rằng hàng Giáo phẩm “không có thẩm quyền nhân
danh Giáo hội mà phát biểu về các vấn đề trần gian” và hy vọng rằng
từ nay, khi các Giám mục bàn về các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội
hoặc văn hóa, hãy hỏi anh em giáo dân có sở trường đang dấn thân
và đang quan tâm các vấn đề đó. Tin Mừng Hôm Nay, tạp chí lậu
được xuất bản thay thế “Chọn” đã bị chính quyền cấm tiếp tục, cho
biết rằng một đàng các Giám mục không biết điều khoản số 10 Hiệp
định Pari và đàng khác, các ngài vẫn đi theo một luận đề của Mỹ, đã
bị chính quyền người Mỹ từ bỏ lâu ngày rồi, một luận đề hoàn toàn
đối nghịch lại Hiệp định Pari, một bản Hiệp định mà toàn thể nhân
dân Việt Nam coi là cơ sở khả dĩ có thể dẫn tới hòa giải dân tộc.
Khi đọc bản văn trên của các Giám mục, người ta thấy ra được
mối nợ còn đè nặng trên hàng Giáo phẩm Miền Nam. Quen thuộc
với luận thuyết lẫn lộn "Cộng sản – Quốc gia", hàng Giáo phẩm chia
dân Việt Nam ra hai loại: loại người dân sống trong chế độ "quốc
gia" và loại người sống dưới chế độ "Cộng sản". Nói tới hai chế độ
"Cộng sản" của Hà Nội và của Cách mạng Lâm thời, là xóa mất
phạm trù truyền thống đó. Phải chăng hàng Giáo phẩm sợ sa vào
"bẫy Cộng sản?" Tháng 11 năm 1969, hai đức cha Nguyễn Văn Bình
và Phạm Ngọc Chi, chủ tịch Hội đồng Giám mục miền Nam, do áp
lực của Vatican, đã xin được tới phát biểu tại bàn Hội nghị hòa bình
Pari. Các phái đoàn của Chính phủ Việt Nam Dân chù Cộng hòa và
của Chính phủ Cách mạng Lâm thời đã phúc đáp sẵn sàng gặp các
vị, nhưng không có mặt phái đoàn Mỹ và Sài Gòn. Các Giám mục
đã nghĩ là không nên gặp hai phái đoàn đó như thế, lý do là “vì không
muốn bị Cộng sản lợi dụng khai thác”. Lập tức sau đó, họ đã qua

146
Mỹ. Người phát ngôn của Chính phủ Cách mạng Lâm thời còn tuyên
bố năm 1972 rằng, các Giám mục sẽ luôn được tiếp đón tại trụ sở
của phái đoàn tại Pari.
Các phương cách thực hiện hòa giải và lập lại hòa bình tại miền
Nam Việt Nam đã được tiên liệu trong bản Hiệp định Pari: lập ra Ủy
ban Hòa hợp và hòa giải gồm 3 thành phần. Hôm sau ngày ký Hiệp
định, Tổng thống Thiệu không chịu thừa nhận có lực lượng thứ Ba.
Ông tuyên bố rõ: “Chỉ có Cộng sản và Quốc gia; ai không theo
chúng tôi là kẻ thù của chúng tôi”. Phải chăng chỉ là sự trùng hợp
ngẫu nhiên, nếu trong tài liệu của Hội Đồng Giám mục miền Nam
chẳng nhắc gì đến lực lượng thứ Ba, Ủy ban Hòa Hợp và hòa giải?
Một điểm quan trọng khác của Hiệp định Pari là việc thả tù chính
trị. Nhiều ủy ban điều tra đã được phái tới do các Giám mục Bắc
Mỹ, chẳng hạn Giám mục Gămblơntơn (Gumbleton), Giám mục phụ
tá Đitroy và Giám mục Bêlăngiê, địa phận Vanđêfiu. Hội Ân xá quốc
tế và Ủy ban Nam Việt đòi cải thiện chế độ lao tù, đều đã đưa ra đầy
đủ chứng cớ, rằng chế độ Sài Gòn còn giam giữ 200.000 tù nhân
chính trị vào mùa hè 1973. Thiệu chỉ trả lời: “Không có tù nhân
chính trị, chỉ có những tội phạm Cộng sản thôi”.

10. GIÁO HỘI VÀ VẤN ĐỀ THAM NHŨNG


Một trong các vấn đề quan trọng của tài liệu hàng Giám mục liên
quan đến miền Nam là vấn đề tham nhũng. “Chúng tôi yêu cầu chính
quyền Việt Nam Cộng hòa… hãy diệt tận gốc các tệ nạn xã hội, nhất
là nạn hối lộ và tham nhũng trong chính quyền. Chúng tôi xem rằng
đất nước này sẽ bị mất vì nạn tham nhũng, hối lộ, nhất là khi nó lại
do các kẻ cầm quyền phạm lỗi”.
Lời kêu gọi đó dấy lên một "Phong trào chống tham nhũng" được
301 linh mục bảo trợ bằng bản tuyên bố ra ngày 18-6-1974. Các linh
mục này nêu rõ rằng “nền tảng của cơ quan lãnh đạo đất nước chính

147
là sự tham nhũng”. Nạn mua bán các chức vụ trong chính quyền và
quân đội đã biến đời sống xã hội thành một trận địa không còn tình
thương, không còn ngơi nghỉ… Dưới sự bao che của những kẻ thế
lực, việc buôn bán ma túy, các tổ chức ăn cướp, cờ bạc, đĩ điếm và
chợ đen đã xô cả xã hội vào một cảnh sa đọa khiến cho nạn trộm
cướp, hãm hiếp lan tràn khắp nơi như chưa từng xảy ra trong lịch sử.
Hai chữ "chống Cộng" đã được những kẻ tham ô lợi dụng như
các nút thần đế trám miệng dân chúng, vì bất kỳ ai mà không được
nâng đỡ về mặt chính trị, đều có thể bị kết án là có liên lạc hoặc buôn
bán với Việt Cộng.
Trong một thư gửi Tổng thống Thiệu, linh mục Trần Hữu Thanh,
người chủ xướng phong trào chống tham nhũng, phê phán chế độ
một cách không còn tiếc lời:
1. Báo chí không được quyền tự do ngôn luận…
2. Dân chúng thì chỉ còn Quốc hội và Thượng viện… Khốn
thay, với tiền bạc và áp lực, ông đã mua đứt phần lớn các nghị sĩ và
dân biểu để biến họ thành một lũ nô dịch… Còn nghị sĩ và dân biểu
nào tìm cách bảo vệ sự liêm chính, thì tiếng nói của họ chỉ là tiếng
kêu trong sa mạc, nếu không bị coi là Cộng sản…
3. Các tôn giáo qui tụ hàng triệu tín đồ không được tự do hành
đạo và không được phép nói lên ý kiến xây dựng của mình…
Sau khi đã nêu ra các trường hợp tham nhũng, bức thư kết luận:
“Ông biết rõ hơn ai hết, tội lỗi đó đổ lên kẻ cầm đầu. Tiếng kêu than
của dân chúng vang thấu trời, vì nạn tham nhũng là lưỡi kiếm giết
họ từ từ”.
Xem bề ngoài, phong trào này gây vài khó khăn cho chính quyền,
nhưng chính quyền chẳng sợ bao nhiêu, từ 25 năm nay, tham nhũng
luôn gắn chặt với các chính quyền "quốc gia" vốn lệ thuộc một
cường quốc ngoại bang, là Pháp rồi tới Mỹ. Không nên quên rằng

148
chừng 10.000 cố vấn Mỹ lúc này vẫn còn ở Sài Gòn. Đàng khác,
chính quyền có một con bài rất gớm: Giáo hội thì giàu có và Giáo
hội cũng đâu có thoát khỏi tham nhũng. Người ta đọc thấy trong một
báo cáo cuối tháng 5-1974 do một cơ quan viện trợ quốc tế biên soạn
như sau: “Giáo hội Công giáo tại miền Nam có một ngân hàng lớn
tại Sài Gòn (Đại Nam), những khách sạn hạng nhất (Caravelle),
những nhà hàng (Kim Đô), những dãy nhà cho thuê (Lam Sơn, bin-
đinh Tax) v.v… kỹ nghệ từ việc mai táng cho tới nhà máy giấy. Điều
dân chúng thường nói cho thấy thực tế đó, đất nước chúng tôi nằm
trong tay Ba Tàu và Giáo Hội…”
Từ Hiệp định Pari, các tổ chức từ thiện quốc tế như Caritas, Corev
đã cấp cho các Giám mục hàng triệu đô la để tái thiết. Tiền bạc xem
ra được xử dụng trong việc thiết lập các trại tị nạn, nhiều khi có sự
hơp tác của chính quyền, nhằm ngăn cản họ khỏi trở về quê cũ trồng
trọt đất đai tổ tiên, bởi vì các vùng đất ấy nằm trong vùng do Chính
phủ Cách mạng Lâm thời kiểm soát. Hiệp định Pari bảo đảm cho họ
quyền tự do trở về quê cũ, Thiệu đã thành công ngăn cản họ nhờ các
trại nói trên, có binh lính canh giữ cẩn thận. “Viện trợ tài chánh được
cấp rộng rãi và không cân nhắc, tạo ra một thái độ quan liêu tiêu biểu
nơi các lãnh tụ tôn giáo tại Nam Việt.” Bản báo cáo trên còn nói như
vậy.
Tất cả các nhà quan sát nước ngoài có chú ý một tí, tất cả người
dân Việt Nam đều công nhận rằng "Giáo hội là một hòn đảo trù phú
giữa đại dương nghèo đói" của Nam Việt. Linh mục Gheddo, chủ
nhiệm tờ Mondo e Missione, vốn công khai bênh vực thái độ Giáo
hội miền Nam, đã phải viết trong một bản phúc trình bí mật gửi cho
Vatican ngày 30-1-1973 như sau: “Thật là gương mù gương xấu, khi
thấy Giáo hội cứ tiếp tục xây cất những kiến trúc to lớn như nhà thờ,
tòa Giám mục, chủng viện, dòng tu… đang khi 80-85% dân chúng
miền Nam hiện còn phải sống trong các lều tranh vách ván… Vấn
đề tiền bạc đòi phải viết trang này sang trang khác về các chuyện cụ

149
thể tôi đã được nghe kể lại và lặp đi lặp lại khắp mọi nơi! Không
nên tin tất cả những "lời" đó, nhưng điều chắc là ai cũng cả quyết
rằng Giáo hội tại Việt Nam đặt nền tảng trên tiền bạc, trên chuyện
xoay sở tiền bạc, trên chuyện đầu tư tiền bạc... Phải nói rằng Việt
Nam là biển tham nhũng (...) Tóm lại, lý do mà tất cả mọi người, linh
mục, giám mục, tu sĩ nam nữ nói đến nhiều hơn hết là tiền bạc: chúng
tôi thiếu vốn, chúng tôi thiếu sự giúp đỡ, thiếu của viện trợ v.v.. (...)
Điều còn tệ hơn nữa là những trường hợp lừa đảo: các tu sĩ Biển
Đức tại Ban mê Thuột có xưởng cưa, họ lường gạt dân miền núi khi
mua rẻ cây cối dân Thượng chở tới, rồi lại đem bán giá cao và lừa
dối người mua cả về phẩm chất của cây gỗ. Các tu sĩ Xalêdiêng mua
xi măng rẻ tiền về Sài Gòn, đem chở đi với hai linh mục áp tải để
tránh thuế vụ (tại Việt Nam, các linh mục tự do làm mưa làm gió) và
bán lại giá cao tại Đà Lạt. Một viên đồn điền người Ý tại Ban Mê
Thuột đã có tuổi và đáng tin cậy, đã khẳng định với tôi rằng, khắp
đó đây tại Việt Nam, Giáo hội bỏ tiền ra mua các vùng đất bị bỏ
hoang vì chiến tranh: mua với giá rẻ mạt mà lại khỏi đóng thuế sang
tên. Khi vùng này trở lại cuộc sống bình thường (hoặc nay mai sẽ
bình thường), thì các đám đất ngon nhất đã nằm trong tay các Giám
mục, Linh mục, Hội đồng... Người ta có cảm giác rằng, Giáo hội
mắc phải ‘chứng bịnh xây cất và kiếm tiền’ và có thể cả quyết rằng,
trong cảnh nghèo đói chung và cơn khủng hoảng kinh tế hiện nay,
Giáo hội là cơ quan duy nhất có tầm cỡ quốc gia, vẫn tiếp tục xây
cất mở mang, có những phương tiện lớn lao và những con người
được chuẩn bị cho việc đó. Một linh mục (giám đốc tờ nhật báo
Thẳng Tiến) đã nói với tôi rằng đó là dấu hiệu phúc lành Chúa ban.”
Chúng tôi đã trích cả một đoạn dài của bản phúc trình mật nói
trên. Các sự kiện do tác giả ghi nhận, không phải là quần chúng Việt
Nam không hay biết. Tin mừng hôm nay, cũng đầy dẫy các mẩu
chuyện loại đó, thậm chí, còn tăm tối hơn. Có những nhà quan sát từ
Việt Nam về đã nhận xét tương tự tại Ý, Pháp, Mỹ, nhưng Giáo hội
vẫn bịt tai làm ngơ. Người ta còn dám cho rằng “những tiết lộ đó về

150
sự giàu có và các phương tiện không chính đáng của Giáo hội miền
Nam gây thiệt hại cho Giáo hội.”
Có thể có xu hướng nghĩ rằng sự dính bén Mammon đó chỉ tiêu
biểu những lúc yếu đuối nhất thời của Giáo hội Chúa Kitô tại miền
Nam. nhưng người ta sẽ bỡ ngỡ khi đọc một bài giải thích của Thư
ký thường trực Hội đồng Giám mục châu Á năm 1970 như sau:
“Phải công nhận rằng Hội nghị Giám mục châu Á, bị lung lay bởi
tình hình hiện nay ở châu Á và quá say sưa với những chương trình
phải thực hiện không thoát khỏi những kiểu công thức một chiều và
mị dân khi tuyên bố "chúng tôi phải là Giáo hội của người nghèo"
hoặc "chúng tôi phải trở nên Giáo hội của giới trẻ", bởi vì "Giáo hội
là của mọi người" (Thắng Tiến, 17-2-1974).
Giáo hội trở nên giàu có, một phần nhờ thỏa thuận với Nhà nước.
“Đây là sự thật: tôi có nghe những lời phê bình đó nhắm vào chế độ
Thiệu, kể cả những người của chính quyền. Trái lại, nói chuyện với
linh mục và giám mục, tôi chỉ nghe họ bênh vực Thiệu như bức lũy
cuối cùng chống lại Cộng sản.” Cha Gheddo còn nói: “Người ta biết
rằng tháng 9-1971, trong cuộc bầu cử độc diễn nổi tiếng, nhiều người
thuộc nhiều xu hướng và tôn giáo khác nhau đã kêu gọi dân chúng
tẩy chay "cái trò bầu cử" đó. Nhưng Hội đồng Giám mục đã công bố
một thư chung bắt buộc người Công giáo phải đi bỏ phiếu cho
Thiệu”.
Đường lối một chiều đó, được nhiều sự kiện cụ thể minh chứng,
vẫn không được sửa đổi, mặc dù có bức thư của 301 vị linh mục
chống tham nhũng.
Dẫu sao, dầu công việc sẽ kết thúc thế nào đi chăng nữa, Giáo
hội Công giáo vẫn còn là một trong những rường cột của chế độ Sài
Gòn và hầu như chẳng đem lại một đóng góp nào cho việc giải quyết
tấm thảm kịch Việt Nam theo Hiệp định Pari. Đàng khác, dưới con
mắt của chính quyền và dư luận quần chúng, những người duy nhất

151
có thẩm quyền để phát biểu "nhân danh Giáo hội" là các Giám mục,
chứ không phải các Linh mục hay Giáo dân.

11. GIÁO HỘI TRONG VÙNG GIẢI PHÓNG


Tình hình hoàn toàn khác tại Vùng do chính phủ Cách mạng Lâm
thời miền Nam Việt Nam kiểm soát. Người ta biết rằng Mặt trận
Giải phóng được thành lập từ năm 1960 dưới sự lãnh đạo của ông
Nguyễn Hữu Thọ, một trong những người tù thoát khỏi ngục Ngô
Đình Diệm. Được tổ chức trong bưng biền, đứng ra đấu tranh chống
nạn độc tài của Diệm và sự xâm chiếm của Mỹ. Mặt trận Giải phóng
cũng như Việt Minh, bao gồm mọi thành phần dân miền Nam, không
phân biệt đảng phái, xu hướng chính trị và tôn giáo. Trong ban lãnh
đạo, có người Công giáo ngồi bên cạnh Phật tử, có người Tin lành
với người Cộng sản. Theo chiến thuật "tát nước bắt cá", quân đội
Mỹ đã tìm cách đuổi dân chúng khỏi vùng nông thôn, để quân du
kích không còn sự giúp đỡ của quần chúng nhân dân nữa. Mặt trận
Giải phóng vì thế, kiểm soát được nhiều đất, nhưng chỉ có ít dân.
Theo lời của cha Trần Quang Nghiêm, một trong số ít ỏi linh mục
đã ở lại trong vùng giải phóng, nhiều Giám mục đã ra lệnh cho các
Linh mục phải rời khỏi các làng bị Mặt trận chiếm đóng và tìm cách
tập trung giáo dân lại trong các trại tị nạn do Mỹ dựng nên. Làm như
thế là để bảo vệ đức tin. Tháng 4 năm 1974, trong lúc Quảng Trị bị
tấn công, Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền đã khuyên các Linh
mục nên ở lại với giáo dân. Có vài Giám mục đã trách đức cha về
việc làm đó.
Trong những giai đoạn thăng trầm bi thảm của cuộc chiến Việt
Nam, Giáo hội cơ cấu, tức hàng Giáo phẩm, thường nói về người
của Mặt trận Giải phóng với những từ ngữ khinh dể và kết án, cho
là "Việt Cộng" phản loạn, Cộng sản xâm lăng, quân khủng bố, gian
ác. Người ta đã thấy vai trò của nó trong chiến tranh. Và cả sau Hiệp
định Pari, hàng Giáo phẩm vẫn làm như không biết gì tới chính phủ
Cách mạng Lâm thời - một trong những bên đã ký vào Hiệp định -

152
hoặc chỉ gọi đó là "tay chân của Hà Nội" thôi. Và chính trong môi
trường Công giáo, người ta nói nhiều nhất về những vụ hạ sát linh
mục, bắt bớ tôn giáo tại vùng đất của chính phủ Cách mạng Lâm
thời, cũng như "cuộc tắm máu" phải xảy ra nếu Mặt trận Giải phóng
thắng được chính quyền Sài Gòn.
Trong vùng do chính phủ Cách mạng Lâm thời quản lý - một
vùng ranh giới không rõ ràng, cứ thay đổi thường ban đêm thì mở ra
rất rộng, còn ban ngày thì thu hẹp lại - đời sống của giáo dân chẳng
khác gì của những tầng lớp quần chúng, nghĩa là vừa kháng chiến
vừa sản xuất, và lúc máy bay địch ném bom thì phải xuống hầm trú
ẩn. Dĩ nhiên cuộc sống ở đó chẳng yên ổn gì. Và những giới hạn hy
sinh thì vô kể. Như trong mọi cuộc kháng chiến trên thế giới, có xảy
ra những vụ bắt giữ và tình nghi, những vụ thanh toán bọn làm tay
sai cho giặc, bọn phá hoại hoặc do thám, phải huy động dân chúng
để lo việc phòng vệ. Nhưng không thể đưa ra chứng cớ cụ thể tàn sát
linh mục hoặc giáo dân vì lý do tôn giáo, hoặc cố tình vi phạm tự do
tín ngưỡng.
Nhằm phá hoại uy tín của Mặt trận Giải phóng và nhất là nhằm
biện hộ trên dư luận quốc tế cho cuộc thánh chiến chống Cộng, bộ
tuyên truyền Việt-Mỹ rất nham hiểm đã loan tin rằng Mặt trận Giải
phóng tàn sát hàng loạt linh mục. Thực ra, một đàng, con số các linh
mục Việt Nam bị giết, vì bom đạn của Mỹ hoặc do CIA ám sát, vượt
xa con số các linh mục bị coi như do Việt Cộng sát hại. Đàng khác,
nhiều vụ được thuật lại như là do Việt Cộng tàn sát, thực ra chẳng
có bằng cớ nào cụ thể cả. Chẳng hạn vụ thảm sát tại Huế trong dịp
tết 1968. Tại vùng Gia Hội, quân của Mặt trận Giải phóng cũng đóng
tại tu viện Biển Đức Thiên An mà không có một linh mục nào ở đó
bị ngược đãi. Có hai tu sĩ người Pháp là Guy và Uyrbanh (Urbain),
khi quân của Mặt trận Giải phóng rút lui khỏi tu viện trước sự phản
công của Mỹ, thì họ còn sống, rồi sau đó người ta gặp thấy xác chết
hai ông nằm bên ngoài tu viện. Báo chí Sài Gòn cho rằng đó là do

153
Việt Cộng giết, những người khác thì lại nghĩ rằng họ bị trúng bom
Mỹ mà chết thôi.
Linh mục Gheddo, một người chẳng dịu dàng với Mặt trận Giải
phóng, thuật lại một vị thừa sai Pháp đã từng sống tại vùng giải
phóng 18 tháng như sau:
“Bản thân tôi, tôi chẳng có gì để phàn nàn cả: họ đã đối xử tử tế
với tôi và ít ra giai đoạn đầu, tôi được tương đối tự do đi lại và chu
toàn sứ vụ linh mục của mình. Và nếu cha mẹ tôi đã không nhờ trung
gian sứ quán Pháp tại Hà Nội để đòi cho tôi được về, thì chắc tôi đã
ở lại An Lộc, bởi vì ở đó tôi sẽ làm được rất nhiều điều hay. Đàng
khác, một số niềm an ủi to lớn về mặt thiêng liêng cho đời thừa sai
của tôi, tôi đã gặp được trong thời gian tôi chung sống giữa bà con
giáo hữu và những người ngoại đạo và cả với những người bộ đội
Bắc Việt từng tỏ tình tâm sự với tôi và đôi khi có đến xưng tội với
tôi. Tôi đã không nghĩ tới chuyện trở về vùng đất thuộc Sài Gòn,
nhưng khi họ cho tôi giấy phép để về, tôi đã xử dụng, bởi vì ngay cả
đối với tôi, tình hình bắt đầu xoay chiều không có lợi: nghĩa là họ
bắt đầu hãm phanh, kiểm soát tôi nghiêm nhặt hơn và sớm muộn e
rằng rồi tôi cũng sẽ rơi vào một cái bẫy nào đó, hoặc có ai sẽ tố cáo
tôi chuyện này chuyện kia. Tôi phải nói rằng, cho tới ngày tôi ra, họ
muốn tìm cách tố cáo tôi, song chẳng thấy ai, dầu ngoại đạo, hay
giáo dân, chẳng chịu nói điều gì chống lại tôi cả.”
Lời tuyên bố đó của một vị thừa sai Công giáo, phản ảnh đúng
tâm não của Giáo sĩ đối với phong trào giải phóng. Một cách vô ý
thức, họ cứ sợ rằng những người cách mạng này, đã cam chịu tất cả
hy sinh trong đời, đã phải chấp nhận chiến đấu với vũ khí hết sức
không cân đối chống lại một đại cường quốc như Mỹ, mà cứ rình
chực hễ có lúc nào thuận tiện, là ra tay bách hại đồng bào Công giáo
của họ và hành hạ các linh mục. Và chẳng bao giờ có chuyện họ làm
hại các nhà sư Phật giáo! Tại sao vậy, thử hỏi xem...!

154
Một tiếng chuông khác của linh mục Việt Nam mà chúng ta thiết
tưởng cũng là người đáng tin cậy: “Trong những năm 40, tôi là cha
phó của một họ đạo thuộc vùng vựa lúa của đồng bằng sông Cửu
Long, đó là họ đạo Cổ Cò, tỉnh Sóc Trăng. Tôi chăm sóc cho 400
gia đình nông dân lúc đó sống lây lất trong cảnh đói khổ: thiếu cơm
gạo, thuốc men, mang nợ nần triền miên. Có những gia đình thiếu
thốn đến độ hai người chỉ có một cái quần... Tôi làm hết cách để
giúp đỡ họ, nhưng thân phận họ vẫn không khá lên bao nhiêu. Xảy
ra cuộc Cách mạng tháng 8-1945. Chính phủ ban hành cải cách
ruộng đất, giao đất cho người chưa có, và giảm tô cho các tá điền.
Nhưng cuộc sống bà con giáo dân của tôi vừa mới kha khá một chút
thì chiến tranh đã nổ ra. Quân đội Pháp, nhất là lính lê dương, đàn
áp dân chúng rất dã man và bất cứ đi tới đâu là gieo rắc tàn phá và
tang thương. Ngay các nhà thờ cũng không được chúng tha cho.
Bấy giờ tôi nhận được lệnh (của Đức cha) phải rời khỏi vùng
kháng chiến, ra vùng có quân lính Pháp chiếm đóng. Biết làm sao?
Sự lựa chọn lúc này rất quan trọng. Giáo dân đang năn nỉ tôi đừng
bỏ họ, tôi đã quyết định ở lại nơi tôi đang ở bấy lâu...
Tại vùng giải phóng, khi nhìn thấy các chiến sĩ cách mạng không
có đạo mà xả thân bất kể sự gì, để chăm lo cho kẻ khác, người Công
giáo không thể không hồi tưởng lại câu chuyện thánh Mactin, đã
từng chia áo choàng của mình cho người hành khất. Trong những
lúc khó khăn, người ngoài Công giáo không bao giờ khước từ giúp
đỡ chúng tôi một sự gì: săn sóc người ốm, sửa chữa nhà thờ v.v...
Thái độ đó khiến chúng tôi đoàn kết với nhau giữa mọi người, ngoài
Công giáo với Công giáo, trong sự tôn trọng lẫn nhau. Chính trong
bầu không khí đó mà đức tin Kitô giáo, chẳng những không sút giảm,
trái lại không ngừng được tăng trưởng trong vùng giải phóng.
Chúng tôi không có những thánh đường tráng lệ, không có những
cuộc rước kiệu long trọng hùng vĩ, nhưng xuyên qua tình yêu thương
tha nhân và sống công bằng chúng tôi làm chứng cho Đức Kitô”.

155
Vị linh mục cao niên đó là cha Trần Quang Nghiêm vẫn sống tại
vùng giải phóng dưới quyền kiểm soát của chính phủ Cách mạng
Lâm thời. Năm 1973-1974, theo chỗ chúng tôi biết, có độ nửa tá linh
mục và mấy chục ngàn giáo dân, tạo nên một cộng đồng Giáo hội
sống động trong vùng giải phóng, ở đó chẳng phải là thiên đàng cũng
không phải là địa ngục, nhưng đơn giản là một nửa phần đất Nam
Việt Nam, bị bom đạn Mỹ và thuốc độc hóa học tàn phá.

156
Chương IV: GIÁO HỘI TRONG KHÁNG CHIẾN

1. NGƯỜI CÔNG GIÁO YÊU NƯỚC VÀ NHỮNG


NGƯỜI CÁCH MẠNG
Từ những năm 20-30, Cơ quan an ninh và Mật vụ trung ương của
Toàn quyền Đông Dương bắt đầu theo dõi sát người Công giáo, từ
trước tới giờ kể như hoàn toàn nhiệt tình với Pháp nhưng từ nay tình
cảm yêu nước bắt đầu lộ dạng. Các Linh mục Việt Nam đã gửi thư
trình bày với Tòa thánh những nỗi đau buồn của họ, vì tất cả các
chức vụ cai quản Giáo hội đều nằm trong tay vị thừa sai nước ngoài.
Việc thông báo này được làm cách bí mật, không cho các Giám mục
người Âu hay biết.
Cơ quan an ninh trung ương nêu rõ mối nguy cơ của việc này:
một đàng, Hồng y Van Rossum, đứng đầu Thánh bộ Truyền bá Đức
tin, tỏ ra không thân với nước Pháp. Đàng khác, tình cảm yêu nước
của người Công giáo có thể đưa đẩy họ tham gia các phong trào nổi
dậy nhằm cởi bỏ ách nô lệ. Trong một tài liệu đề ngày 1 tháng 10
năm 1924, tình hình chưa phải là báo động: “Dầu chính sách của ta
tại Đông Dương có thế nào chăng nữa, đều vô lý là tại sao không
chịu tiếp tục xử dụng lực lượng dễ bảo và có năng lực (Công giáo)
đó, nhất là vì lợi ích của thuộc địa.” Nhưng trong một tài liệu mật đề
ngày 14.12.1934, nghĩa là một năm sau khi phong chức cho Giám
mục Việt Nam đầu tiên, chính phủ thuộc địa nhận thấy rằng các linh
mục trẻ trước tiên là hạng người yêu nước và hàng Giáo sĩ Pháp
không thể cả quyết được rằng mình "nắm họ chắc chắn trong tay".
Bởi thế, nhiệm vụ của chính quyền là phải coi chừng lòng yêu nước
khiến họ vượt ra khỏi giới hạn có thể cho phép.
Điều làm cho người Pháp lo lắng, là chương trình Vatican dự tính
lập thêm một địa phận mới tại Việt Nam và sẽ giao quyền cho một
Giám mục người Việt và có thể ngăn chặn sự bộc phát tinh thần yêu

157
nước nơi đồng bào của họ, tinh thần đó đã được gia tăng bởi những
biến chuyển về tinh thần. Dầu thế nào đi nữa, thì hoạt động của một
Giám mục người Việt cũng không thể nào được như điều chính phủ
có thể hy vọng nơi một giám mục người Pháp. Chính quyền thuộc
địa bèn đề nghị chính phủ Pháp gây áp lực khiến Roma theo ý họ.
“Tính cách hiển hách của lịch sử nước ta tại mảnh đất này, quyền
hành chúng ta đã thiết lập được tại đó, trật tự lớp lang và sự yên ổn
chúng ta đã đóng góp vào bằng quân sự, tất cả những thứ đó phải
cho phép chúng ta mong được thấy giới Công giáo Pháp tỏ ra bớt
nhắm mắt tuân thủ Roma chứ”.
Chính quyền thuộc địa sợ rằng, Roma lấy lại cách làm thời trung
cổ là tạo lập ra một nước Công giáo tại các thuộc địa - "Nước Công
giáo đã đẻ ra biết bao xáo trộn xã hội, ta đừng quên điều đó" - rằng
Giáo hội Công giáo phát huy phong trào yêu nước đang nổi lên, nhất
là từ sau vụ Nhật Bản thắng trận thủy chiến. Trong số các nhà cách
mạng nổi tiếng hồi đầu thế kỷ, phải nhắc tới Linh mục Đậu Quang
Lĩnh, bị đày ra Côn Đảo do sự xúi bậy của các cố thừa sai Pháp, rồi
được tha về sống quản chế tại Sài Gòn cho tới chết.
Linh mục Đậu Quang Lĩnh là người Đức Thọ, Nghệ Tĩnh, cùng
với một người đồng hương Công giáo cách mạng khác là Mai Lão
Bạng cũng đã chia sẻ cảnh tù đày tại Côn Đảo với nhà đại cách mạng
Phan Bội Châu. Bị bắt vì tham gia phong trào Duy Tân và đã tuyên
truyền chống Pháp trong giới Công giáo Việt Nam. Cụ Mai Lão
Bạng lúc đầu phải chịu sự cải tạo của các cố Tây từng đe dọa vạ
tuyệt thông cho ông, nhưng ông trả lời: “Các linh mục Pháp được
quyền yêu nước Pháp và chiến đấu vì nước Pháp, tạo sao tôi lại bị
vạ tuyệt thông chỉ vì tôi yêu tổ quốc tôi?” Tiếp theo, cụ bị tra tấn, rồi
bị kết án tù chung thân tại Côn Đảo. Cụ thường nói với những người
có dịp gặp rằng: “Đức Kitô chống lại tội bóc lột, áp bức, đó là tôi
sống trung thành theo giáo huấn của Chúa. Người Công giáo và
người không Công giáo có khác nhau về tôn giáo, nhưng họ giống

158
nhau một địa bàn, đó là lòng yêu nước và làm cách mạng chống thực
dân để cứu Quê Hương”. Nhờ áp lực của dư luận quần chúng, cụ
Bạng được tha một lần với cụ Phan Bội Châu năm 1918 và phải sống
rất cơ cực với suốt chuỗi ngày còn lại dưới sự kiểm soát của cảnh
sát. Cụ Phan Bội Châu hết lời ca ngợi cụ Mai Lão Bạng: “Cụ Mai
Lão Bạng đã phải chịu trăm nghìn sự khốn khổ vì lòng yêu nhân dân
và mặc dầu bị đàn áp mấy cụ vẫn không hề thay đổi tư tưởng. Cụ
thật là một đồ đệ xứng đáng của Đức Kitô”.
Hồi những năm 30, đã có các cuộc nổi dậy của nhân dân tại Yên
Bái, Vinh, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quãng Ngãi, Bình Định, Thái Bình
v.v... Trong số người bị cảnh sát Pháp bắt và đày vào ngục thất Côn
Đảo, Đắc Tô, Sơn La, người ta thấy có hàng trăm người Công giáo.
Trong số này, có linh mục Nguyễn Thần Đồng, người gốc Nhân Hoa,
tỉnh Nghệ An; Linh mục Nguyễn Văn Tường đã chết trên tàu chở ra
Côn Đảo với nhiều anh em khác bởi bị tra tấn đánh đập quá dã man
do bàn tay cảnh sát Pháp. Những người cách mạng này thường kết
hợp với các tổ chức yêu nước thời đó, hoặc đơn phương chống lại
chính quyền thực dân mà không qui chiếu gì đến vấn đề tôn giáo
riêng của mình.
Mãi tới năm 1945, gần tới ngày cách mạng tháng Tám, người ta
mới nghe nói tới các tổ chức Công giáo đứng ra vũ trang đánh bọn
thực dân Pháp và Nhật. Những nhóm Công giáo này cũng tổ chức
chiến khu tại Quỳnh Lưu, Ninh Bình, dùng chiến thuật du kích tấn
công các đồn bót Pháp.

2. NHỮNG NGƯỜI CÔNG GIÁO KHÁNG CHIẾN Ở


NAM BỘ
Ai cũng biết sự phấn khởi của các linh mục và giáo dân Việt Nam
sau ngày Cách mạng tháng Tám. Nhưng trời Việt Nam chẳng bao
lâu đã tối sầm lại. Tháng 9-1945, các toán quân viễn chinh của tướng
Leclerc đổ bộ lên Sài Gòn. Cụ Hồ Chí Minh lên tiếng ngày 26-8, kêu

159
gọi toàn dân đứng lên kháng chiến. Liên đoàn Công Giáo kháng
chiến Nam bộ được thành lập. Nhờ hỏa lực mạnh, bọn Pháp đánh
chiếm khá dễ dàng các thành phố và trục giao thông. Cùng những
nhóm kháng chiến khác, thành phần Công giáo kháng chiến phải rút
vào bưng và dùng chiến thuật du kích đánh lại quân chính quy.
Hồi đó, Nam bộ được chia ra ba vùng chiến khu, là khu 7, 8, và
9 (khu 1, 2, 3 ở Bắc; khu 4, 5, 6 ở Trung). Tại mỗi khu, kháng chiến
Công giáo có khoảng 400-600 chiến sĩ, được trang bị những súng
cũ, nhưng tinh thần rất cao, nhất là nhờ sự cổ vũ của đồng bào Công
giáo tuy không có vũ khí, mà cũng quyết tâm đánh đuổi quân thù.
Về mặt thiêng liêng, họ được các linh mục yêu nước giúp đỡ, như ba
anh em linh mục Nguyễn Bá Luật, Nguyễn Bá Sang và Nguyễn Bá
Kinh. Cha Luật bị bắt, bị giam lâu ngày trong một quân lao ở Hòa
Hưng. Linh mục Lê Đình Hiền đã bị chết trong một trận không kích
của máy bay. Trong số linh mục kháng chiến còn sống sót sau 8 năm
vào bưng, phải kể các cha Hồ Thành Biên, Lương Minh Ký, Nguyễn
Bá Kính, Võ Thành Trinh.
Đời sống trong bưng rất cực khổ. Bị máy bay ném bom đánh phá
liên tục, bị các đoàn xe lội nước càn quét, quân kháng chiến không
những chống cự lại và công địch, mà còn phải lo việc bảo vệ các
thôn lương và giáo khỏi bị giặc đánh phá càn quét. Giữa Kháng chiến
Công giáo và Việt Minh luôn luôn có sự đoàn kết chặt chẽ. Một
người Công giáo cựu kháng chiến thời đó thuật lại: “Nhờ các Linh
mục lãnh đạo tổ chức khéo léo và hoàn chỉnh, Ủy ban Kháng chiến
Nam bộ đã tin tưởng chúng tôi và chấp nhận cho chúng tôi hợp tác
chặt chẽ.” Cha Luật trở thành ủy viên trong Ủy ban Kháng chiến và
từ tháng 5 năm 1946, nhiều người Công giáo kháng chiến các Khu
như ông Nguyễn Văn Trương, Công giáo Kháng chiến khu 8 và
Trịnh Khánh Vàng, chủ tịch Công giáo Kháng chiến khu 9, được cử
làm Phó chủ tịch các Ủy ban Kháng chiến hai khu 8 và 9.

160
Ngoài các khó khăn của chiến tranh du kích, người Công giáo
kháng chiến còn phải đương đầu với những gian khổ khác nữa nhằm
đánh mạnh vào Công giáo kháng chiến. Phòng Nhì của quân viễn
chinh Pháp đã lập ra các "Đơn vị lao động bảo vệ Công giáo", tập
họp thành phần Công giáo bảo thủ dưới một ngọn cờ riêng - hình
Thánh giá trên nền trắng và xanh (màu cờ Đức Mẹ) và phương châm
"Vì Chúa Vì Tổ Quốc". Mục tiêu của họ là các làng Công giáo còn
nằm trong tay kháng chiến kiểm soát. May thay, đám "lính Chúa"
này tại Nam bộ không được hàng giáo phẩm chúc lành và không gây
tác hại cho danh nghĩa Công giáo bằng Lính Công giáo ở Đồng bằng
sông Hồng.
Nhưng cái đe dọa làm nhụt đi năng lực của Công giáo kháng
chiến, không phải là cuộc tấn công của các đoàn "lính Chúa", nhưng
chính là khoa tâm lý chiến của đạo quân viễn chinh, triển khai nhân
danh Vatican từ năm 1950. Máy bay Pháp đã mưa xuống các vùng
Kháng chiến kiểm soát hàng loạt truyền đơn, có hình Đức Piô XII
kèm theo những lời kết án Cộng sản, hoặc sắc chỉ ra vạ tuyệt thông
Cộng sản.
Người ta bảo rằng chung sống với Việt Minh tức là bỏ đạo, là
phản bội đức tin. Ngược lại, để làm mất uy tín của Kháng chiến, bộ
tâm lý chiến lại tung ra những tin tức nói rằng nhiều linh mục và
lãnh tụ Công giáo đã bị Cộng sản giết hại, hoặc đã bỏ đạo hàng loạt
nơi xứ nọ xứ kia trong vùng kháng chiến. Cha Trinh đã nói lại với
chúng tôi rằng, cha đã cười muốn chết khi cha và giáo dân của cha
lượm được các tờ rơi nói rằng chính cha đã chết rồi!
Mặc dầu bị tấn công bởi Pháp về mặt quân sự, cũng như tâm lý,
tinh thần Công giáo kháng chiến vẫn cương quyết vững vàng không
lay chuyển. Theo hiệp định Giơnevơ năm 1954, Quân đội Việt Minh
phải tập trung trên vĩ tuyến 17. Chừng 500 người Công giáo kháng
chiến đã phải chan hòa nước mắt từ giã vợ con, để tập kết ra Bắc với

161
các vị mục tử của mình, là cha Hồ Thanh Biên, Lương Minh Ký, Võ
Thành Trinh, Nguyễn Bá Lễ.

3. CÔNG GIÁO KHÁNG CHIẾN BẮC BỘ


Cuộc kháng chiến của người Công giáo miền Bắc trong những
năm 1946-1954 cũng quan trọng không kém trong Nam. Một trong
những khuôn mặt nổi bật nhất là linh mục Phạm Bá Trực, địa phận
Hà Nội. Trước cách mạng tháng Tám 1945, cha nổi tiếng là một
người yêu nước chống Pháp kiên quyết nhất. Sau khi học xong tại
Roma - đã đậu tiến sĩ triết và thần học - trở về nước, cha càng thấy
rõ hơn ai hết những cảnh bất công đồng bào mình phải chịu cũng
như cả Giáo hội Việt Nam phải chịu. Được bầu vào Quốc hội tháng
Giêng năm 1946, rồi cha được bầu vào Ủy ban Thường trực Quốc
hội trong thời kháng chiến. Cuộc sống vất vả trong chiến khu làm
cha kiệt sức và đã từ trần ít lâu sau Hiệp định Giơnevơ. Cụ Hồ Chí
Minh đã đích thân đọc bài điếu văn để tưởng nhớ công lao con người
mà cụ gọi là đại yêu nước và "bạn chí cốt" của cụ. Cụ tuyên bố:
“Trong tất cả những việc làm, Cụ Trực đã biết kết hợp nhân đức và
lòng ái Kitô giáo theo giáo huấn của Đức Kitô với lòng yêu nước
nồng nàn của cụ, nói tắt rằng cụ Trực là một người đại diện đáng
kính trọng của nhân dân Việt Nam. Hôm nay, cụ từ trần, chính phủ
và nhân dân hết lòng khóc thương cụ. Trong khi cụ bị đau liệt
giường, cụ sẵn sàng đổ máu mình ra vì sự chiến thắng sau cùng của
Kháng chiến...”
Như anh chị đồng đạo miền Nam, người Công giáo kháng chiến
miền Bắc cảm thấy rất đau lòng khi các Giám mục tung ra cuộc
kháng chiến chống cộng, từ tháng 11 năm 1951, nhất là vào lúc quân
lính Công giáo do hàng Giáo sĩ vùng đồng bằng sông Hồng chỉ huy,
ngày càng phạm nhiều điều gian ác nhân danh Thánh giá. Linh mục
Nguyễn Thế Vịnh nói với chúng tôi về tâm trạng của các chiến sĩ:
“Chúng tôi cảm thấy một nỗi buồn tê tái trước việc Giáo hội chạy

162
theo cơ đồ của Pháp, nhưng sau khi cùng nhau nghiên cứu kỹ lưỡng
tài liệu của hàng Giáo phẩm, chúng tôi đã tuyên bố rằng, hàng giáo
phẩm đã tỏ rõ một lập trường chính trị hơn là tôn giáo, rằng lập
trường đó đi ngược lại điều răn của Chúa dạy phải yêu mến Tổ quốc
- điều răn thứ tư, và cũng đã thiệt hại cho chính Giáo hội Việt Nam,
lẽ ra phải đoàn kết cùng toàn dân Việt Nam để giải phóng đất nước
khỏi ách nô lệ. Để đáp lại bản tuyên bố của các Giám mục theo cách
của chúng tôi, chúng tôi đã tăng cường cuộc chiến đấu vì nền độc
lập của Tổ quốc Việt Nam”.
Cũng cần nhắc qua nỗi khốn khó về tâm lý của những người Công
giáo kháng chiến này. Sau Thư chung của các Giám mục năm 1951,
họ bị anh em đồng đạo của mình kết án là "giáo gian", xua đuổi
không tiếp rước và nếu rủi họ bị đám "lính Công giáo" bắt được, thì
bị tra tấn chẳng khác gì Tòa án tôn giáo ngày xưa. Nhiều lần, những
giáo dân bảo thủ cực đoan đã đóng sập cửa nhà thờ ngay trước mũi
các linh mục kháng chiến, cấm không cho họ dự thánh lễ, thậm chí
lượm đá ném vào họ với những lời chửi rủa thậm tệ là "đồng minh
của Xatan".
Họ là ai? Là những vị linh mục và giáo dân, trí thức, công nhân
và nông dân. Về các Linh mục kháng chiến, ông Dương Văn Đàm,
một luật gia Công giáo Hà Nội viết: “Phải thú thật rằng, những phần
tử Công giáo chọn con đường kháng chiến vì nền độc lập và tự do
của dân tộc, đã chứng tỏ một tinh thần hy sinh và dũng cảm đáng ca
ngợi. Họ đã ra đi kháng chiến chẳng phải để được một vị trí nào
trong xã hội, hay là được tiền bạc gì, chẳng qua họ đã tìm trở lại
đứng về phía nhân dân bằng những việc làm cụ thể, sống đức tin và
rao giảng đức tin không chỉ trên tòa giảng ở giữa tiếng hát và
chuông reo, nhưng là trên đường mòn Hồ Chí Minh, ống quần xắn
cao, lưng mang ba lô, nhằm thực hiện "thần học xả thân", "thần học
thực tế của nhân dân" (Chính Nghĩa, 21.3.1974).

163
Mặc dầu thế, sấm sét của hàng Giáo phẩm vẫn tiếp tục giáng
xuống đầu họ. Linh mục này hay linh mục nọ đã bị treo chén vì
những hoạt động yêu nước, linh mục này hay linh mục khác bị phạt
vạ vì đã bí mật ủng hộ kháng chiến.
Ngày 11 tháng 3 năm 1955 tại Hà Nội đã tổ chức Đại hội toàn
quốc lần thứ nhất những người Công giáo kháng chiến, gồm các đại
biểu linh mục và giáo dân từ nhiều địa phận và xứ đạo về tổng kết
tình hình và tìm cách đối phó hợp tác hình thức hoạt động yêu nước
của đồng bào Công giáo. Tại đây, họ không hề nhắc tới chuyện Giáo
hội tự trị hay Giáo hội ly khai. Tuy nhiên, do sự xúi giục của Khâm
sứ Đulây, Hồng y Fumasoni Bionđi, chủ tịch Thánh bộ Truyền bá
Đức tin, đã gửi cho các linh mục yêu nước một bức thư lời lẽ rất
nghiêm khắc, tố cáo họ là kẻ cổ vũ và bảo trợ cho một phong trào rất
nguy hại cho sự hiệp nhất. Giáo hội tại Đông Dương là một nhánh
nho lìa khỏi gốc nho. Bức thư còn tiếp tục đưa những suy nghĩ thần
học. Chỉ có Giáo hội mới là "cột trụ của chân lý". Và chỉ ở bên trong
sự hiệp nhất và đồng tâm đó thì việc cứu rỗi đất nước thân yêu của
các cha mới có thể thực hiện về mặt tinh thần cũng như về mặt vật
chất, lời sau đây của Chúa Giêsu và sẽ mãi mãi một chân lý không
thể chối bỏ: "mọi quốc gia mà chia rẽ nội bộ thì sẽ sập đổ".
Giám mục Hoàng Văn Đoàn, lúc đó là giám mục Bắc Ninh, đã
gởi cho Đại hội một thư chúc mừng ủng hộ. Ít tháng sau, ngài rời xa
đất nước với giấy phép đi Hồng Công điều trị một vết thương do tai
nạn. Theo một người từng quen biết Đức cha và đã gặp đức cha nhiều
lần trước ngày ra đi, thì Đức cha phải ra đi vì vâng lệnh đức Khâm
sứ Đulây đã không bằng lòng với kiểu lập trường của Đức cha đối
với những người Công giáo yêu nước. Ông này là một ông biện nhà
thờ chính tòa Hải phòng. Khi tôi gặp Đức cha Đoàn tại tòa Giám
mục Hải phòng, tôi có hỏi ngài: “Khi các Linh mục Hải phòng còn
đông, cha Nghiệm đã tuyên bố trước mặt họ và trước mặt chúng con
rằng Việt Minh đã đánh gãy một giò của Đức cha, có đúng thế

164
không?” Ngài trả lời: “Đó là một câu nói láo của họ, tôi bị té xe đạp
gãy một chân, trong lúc đi thăm kẻ liệt, đâu phải Việt Minh đánh gãy
chân tôi.”

4. CỤ HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI GIÁO HỘI


Để mô tả tình hình Giáo hội tại miền Bắc sau khi quân đội Pháp
rút đi, báo Missi đã viết trong số tháng 2-1956 như sau: “Sự im lặng
nặng nề của một bức màn vô hình. Trong cảnh im lặng nặng nề đó,
được giăng ra giữa Công giáo và Cộng sản chủ nghĩa vô thần, cơ
bản là chiến đấu ở bên này và đức tin tôn giáo ở bên kia. Bức màn
này, chưa có một thiện chí nào thành công. Cái máy ép của Cộng
sản không hề nghỉ ngơi, nó ép cho mọi người sa vào đó phải theo
một tiêu chuẩn vô thần chung”. Phan phát Huồn, linh mục Dòng
Chúa Cứu thế, tác giả của một cuốn sách lớn về lịch sử Giáo hội Việt
Nam, xuất bản tại Sài Gòn năm 1962, cả quyết rằng: “Kế hoạch của
Cộng sản đã rõ, là sử dụng các tổ chức Công giáo cấp tiến để tiêu
diệt Công giáo. Ngoài ông Ngô Tử Hạ, do Cộng sản đặt lên đứng
đầu tổ chức, người ta thấy một ít người ngày xưa có lòng đạo và
từng là thành phần của những hội từ thiện, nhưng ngày nay đã hoàn
toàn theo Cộng sản. Họ vịn vào một vài nguyên tắc tự họ đặt ra để
che đậy hành động của mình, họ tuyên bố rằng "người công Giáo
chỉ phải vâng lời các Giám mục và hàng Giáo phẩm trong lĩnh vực
đức tin mà thôi". Một nguyên tắc bao gồm nhiều ý tưởng mâu thuẫn!
Điều họ chủ tâm thật, là giới hạn các hoạt động của hàng Giáo phẩm
lại trong bốn bức tường nhà thờ, không hơn không kém!”
Nhà sử gia Giáo hội đó còn quở trách những người Công giáo
tiến bộ là đã theo đường lối chính trị chống Mỹ và chống Diệm của
chính phủ Hồ Chí Minh (!) Tác giả cũng nhấn mạnh ý đồ "ma quỉ"
của Cộng sản, là không để tạo ra những vị Thánh tử đạo, mà để cho
Giáo hội chết mòn dần dần.
Thực tế xảy ra như thế nào?

165
Hôm lễ Giáng sinh 1954, cụ Hồ Chí Minh đã gởi một thư chúc
mừng bà con Công giáo: “Trong 8 năm chiến tranh, máy bay và xe
tăng của Pháp đã tàn phá nhiều ngôi nhà thờ, giết hại nhiều tín đồ.
Năm nay là lần đầu tiên chúng ta được ăn mừng lễ Giáng sinh trong
hòa bình... Lợi dụng dịp này, tôi muốn nói lại với đồng bào giáo hữu
cho rõ, rằng chính phủ của tôi thành thật tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng. Còn những người Công giáo đã đi di cư vào Nam, chính
phủ đã ra lệnh cho chính quyền địa phương, phải lo giữ gìn cẩn thận
tài sản của họ và nếu họ trở về thì sẽ hoàn lại cho họ”.
Bức thư mừng Giáng sinh 1955 cũng có lời lẽ tương tự: “Miền
Bắc chúng ta đã hoàn toàn được giải phóng. Nhân dân ta sống trong
phần đất nước đó ngày nay được hưởng tự do thật sự. Họ được yên
ổn lao động sản xuất. Người Công giáo, về phần mình, được tự do
thờ phượng Chúa. Họ không phải khổ tâm nhìn thấy các nhà thờ bị
chiếm đóng bởi kẻ địch tàn sát những người vô tội, gieo rắc khắp
nhân dân những điều nhục nhã và đau khổ. Tiếng chuông hòa bình,
tự do, hạnh phúc; tình cảm thân ái trong lòng của tất cả người Công
giáo miền Bắc Việt Nam...
Tôi yêu cầu đồng bào Công giáo miền Bắc, cũng như toàn thể
nhân dân, hãy đem hết sức mình góp phần xây dựng một đất nước
ngày càng phồn vinh và bền vững. Hãy tham gia tích cực vào các cố
gắng của cả nước về sản xuất, trong các ngành sinh hoạt quốc dân.
Tôi hết lòng gởi đến đồng bào Công giáo những lời chúc mừng nồng
nhiệt. Tôi chúc cho năm tới sẽ là năm đầu phúc lành cho bà con tín
đồ, cũng như toàn thể đất nước ta”.
Để cụ thể hóa chính sách tôn giáo của chính phủ, Quốc hội đã
thông qua hồi tháng 3 năm 1955, bốn nghị quyết về sau được thể
hiện qua Sắc lệnh ngày 14-6-1955 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Sắc
lệnh đó gồm 3 chương và 15 điều.

166
ĐIỀU 1 - Chính phủ bảo đảm quyền tự do thờ cúng của nhân
dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam
đều được quyền tự do theo một tôn giáo, hoặc không theo một tôn
giáo nào. Các nhà tu hành được tự do giảng đạo tại các cơ sở tôn
giáo (như nhà thờ, chùa, thánh thất, trường giáo lý v.v...)
Khi truyền bá tôn giáo, các nhà tu hành có nhiệm vụ giáo dục
cho các tín đồ lòng yêu nước, nghĩa vụ của người công dân, ý thức
tôn trọng chính quyền nhân dân và pháp luật của nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa.
ĐIỀU 2 - Các nhà tu hành và các tín đồ được hưởng mọi quyền
lợi của công dân và phải làm mọi nghĩa vụ của người công dân.
ĐIỀU 4 - Các tôn giáo được mở trường đào tạo những người
chuyên hoạt động tôn giáo của mình.
ĐIỀU 5 - Các tôn giáo được xuất bản và phổ biến các sách giáo
lý, các sách và tạp chí mang tính chất tôn giáo, nhưng phải tuân giữ
nghiêm chỉnh các pháp luật của chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa về vấn đề xuất bản.
ĐIỀU 6 - Các nhà thờ, đền chùa, miếu, thánh thất và các đồ thờ,
các trường giáo lý của tôn giáo được luật pháp bảo hộ.
ĐIỀU 7 - Pháp luật sẽ trừng trị những kẻ nào mượn danh nghĩa
tôn giáo để phá hoại hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, tuyên
truyền chiến tranh phá hoại đoàn kết, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ
công dân, xâm phạm đến tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng
của người khác, hoặc làm những việc trái pháp luật.
ĐIỀU 10 - Trong cải cách ruộng đất, khi chính phủ trưng thu
hoặc trưng mua ruộng đất của các tôn giáo để chia cho nông dân,
thì sẽ để lại cho nhà thờ, nhà chùa, thánh thất, một số ruộng đất đủ
lo cho việc thờ cúng và nhà tu hành có điều kiện sinh sống để làm
việc tôn giáo. Số ruộng đất là bao nhiêu, sẽ do nông dân tại địa

167
phương (nơi có nhà thờ, nhà chùa, thánh thất) bình nghị và do chính
quyền cấp tỉnh chuẩn y.
ĐIỀU 13 - Chính quyền không can thiệp vào nội bộ tôn giáo.
Riêng về Công Giáo, quan hệ về tôn giáo giữa Giáo Hội Việt Nam
với Tòa Thánh La Mã là vấn đề của nội bộ Công Giáo.
Đó là những tuyên bố về ý hướng, hay là những biện pháp của
chính sách rộng rãi? Một số phê bình, luôn luôn có thói quen chẻ sợi
tóc làm tư khi đứng trước những sự việc không ăn khớp với tư tưởng
thành kiến của họ, thì ngần ngại tìm thấy trong luật tôn giáo vừa kể
những điều sơ hở. Chẳng hạn báo Missi (2-1956) viết: “Quyền tự do
được qui định rộng rãi như thế, nhưng vẫn hàm chứa nhiều điều phài
dè dặt như lưỡi gươm của Đamokles treo trên đầu "những kẻ nào lợi
dụng danh nghĩa tôn giáo để... ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công
dân". Những điểm hạn chế như vậy là xằng bậy, bởi vì nó giả thiết
là có một loại tội ác về tôn giáo. Một hành vi phạm tội bị xét xử
không phải tự nó thôi, mà trong quan hệ giữa hành vi đó với tôn
giáo. Như thế, một pháp luật mang từ ngữ rất rộng rãi cởi mở, có
thể thành vô hiệu bởi những hình thức hạn chế nhằm xét xử không
phải chỉ các hành vi thôi, mà cả ý tứ bên trong nữa!”

5. NHỮNG CUỘC ĐỤNG ĐỘ CẢI CÁCH RUỘNG


ĐẤT
Cuộc đụng độ đầu tiên giữa chính phủ Hồ Chí Minh và Giáo hội
đã xảy ra vào dịp có cuộc cải cách ruộng đất. Như đã thấy ở chương
trên, dưới thời thực dân, Giáo hội là một nhà đại gia chủ. Hơn nữa,
cuộc cải cách ruộng đất này hầu như chỉ đụng tới Giáo hội Công
giáo, bởi vì từ thời thực dân cho tới năm 1954, Giáo hội Công giáo
là tổ chức tôn giáo duy nhất có pháp nhân và được quyền sở hữu.
Cần ghi nhận rằng Việt Nam là một nước chủ yếu nông nghiệp.
Tám mươi phần trăm dân số là nông dân và chỉ sinh sống nhờ thu

168
nhập từ nông nghiệp. Thế nhưng, có tới 61,5% nông dân không hề
có được một tấc đất.
Nhằm áp dụng chính sách "người cày có ruộng" và nhằm đảm
bảo điều kiện sinh nhai tối thiểu cho mỗi người dân, chính phủ Hà
Nội đã tiến hành phân bố lại đất đai nhờ việc trưng thu của thực dân,
của Giáo hội (đồng thời vẫn để lại cho Giáo hội một phần đất đủ lo
việc thờ tự và bảo đảm đời sống cho các giáo sĩ), các địa chủ và phú
nông (nhà nước trả cho những người có tinh thần dân chủ, kháng
chiến và không phản động những khoản bồi thường dưới dạng công
trái, có tiền lời hằng năm là 1,5%).
Cuộc cải cách ruộng đất đã được tiến hành một cách máy móc,
do những cán bộ thiếu kinh nghiệm, với các tòa án đặt biệt về cải
cách ruộng đất, gây ra nhiều điều sai phạm. Do đó mà nhiều người
đã bị oan ức.
Chính phủ đã sớm thấy các điều sai sót đó và đã nhận lỗi. Ngày
17-8-1946, cụ Hồ Chí Minh thừa nhận: “Trong việc thực hiện thống
nhất lại các vùng nông thôn, đã xảy ra những điều sai sót... Đảng và
Chính phủ đã nghiêm túc sửa chữa những thiếu sót đó và đã vạch ra
một chương trình chỉnh đốn lại. Những người bị qui thành phần địa
chủ và phú nông không đúng, phải được phục hồi lại cho đúng qui
cách. Các đảng viên, cán bộ và nhân dân đã là đối tượng của việc
xét xử sai lầm, phải được phục hồi lại trong các chức vụ và quyền
lợi của họ và danh dự của họ phải được công nhận lại...”
Nhưng việc đó quá trễ, nên không ngăn chặn kịp sự tức giận của
dân chúng. Tháng 11 năm 1956, nông dân Nghệ Tĩnh đã nổi loạn.
Cụ Hồ Chí Minh đã phải bãi bỏ các tòa án đặc biệt, bãi miễn chức
vụ của ông Trường Chinh và những người có trách nhiệm về sự thất
bại nói trên. Tiếp đó, một "chiến dịch sửa sai" được phát động.
Trước Cải cách, đất trồng trọt miền Bắc được phân phối như sau:

169
TỈ LỆ % SO VỚI
THÀNH PHẦN DIỆN TÍCH MẪU
TOÀN DIỆN TÍCH
Thực dân Pháp 15.952,05 1
Giáo Hội 23.928,07 1,5
Đất công và bần nông 398.801,25 25
Địa chủ 390.825,22 24,5
Phú nông 113.259,22 7,1
Trung nông 462.520,50 29
Bần nông 169.520,50 10
Bần cố nông 17.447,25 1,1
Những lao động khác 12.461,64 0,8

Theo báo Nhân Dân ngày 13-8-1967, thì 30% nông dân kết án
địa chủ không đúng. Theo G. Chaliand (Nông dân Bắc Việt và chiến
tranh) thì những sai lầm có thể do hai vi phạm về chính sách:
- Những tiêu chuẩn qui định thành phần đã không được tuân
thủ. Cho nên phú nông bị cho là địa chủ, trung nông bị liệt là phú
nông và cả người bần nông cũng bị đánh. Có những địa chủ yêu
nước đã bị ngược đãi như địa chủ phản quốc.
- Đã có những vi phạm do tín ngưỡng trong các vùng có đông
Công giáo và khẩu lệnh về cải cách ruộng đất đã được áp dụng máy
móc tại những vùng dân tộc thiểu số. Trong số những nạn nhân của
sai lầm về cải cách ruộng đất như Bác đã nói rõ, có đảng viên, có
người gần gũi với chế độ và khỏi phải nói là có những người Công
giáo, các Linh mục và cả Giám mục.
Trong vụ nổi loạn của nông dân tại Nghệ An xảy ra ngay sau đợt
"sửa sai", giáo dân Quỳnh Lưu, địa phận Vinh, đã đòi tự do cho
những giáo sĩ đã bị bắt giữ, phục hồi danh dự cho các linh mục và
giáo dân đã bị hành hạ phỉ báng trong cải cách, hoàn lại của cải cho
địa phận và các xứ đạo đã bị chính phủ tước đoạt hoặc tịch thu. Trước
những sự kiện đó, Ủy ban Liên lạc Công giáo đã họp tại Hà Nộ từ

170
14 đến 16-11-1956 và trong bản tuyên bố bế mạc, đã không ngần
ngại phê phán những sai lầm của các cán bộ thực hiện cải cách ruộng
đất: “Những sai phạm trong cải cách ruộng đất đã vi phạm chính
sách tự do tín ngưỡng của Đảng Lao Động và của Chính phủ và chà
đạp lên các quyền linh thiêng của tín hữu”.
Phái đoàn của Ủy ban đã được cụ Hồ Chí Minh tiếp và người đã
biểu lộ sự chân thành buồn tiếc về những sai trái xảy ra, và để sửa
chữa, người quyết định cấp cho những khoản tiền quan trọng sửa
chữa các nhà thờ và chủng viện lại. Sau khi đã sửa chữa những sai
sót rồi, chính phủ không vì thế mà hủy bỏ nền tảng của chính sách
xã hội của mình để hoàn trả lại Giáo hội các đất đai - phương tiện
sản xuất - tương đương với 1,5% diện tích trồng trọt của toàn miền
Bắc. Làm thế tức là lại tỏ ra bất công đối với đa số dân chúng chưa
từng có được tấc đất nào.
Trong việc áp dụng có sửa đổi cuộc cải cách ruộng đất, theo tinh
thần sắc lệnh về tôn giáo (Điều 10) mỗi xứ đạo có linh mục được
phân bổ cho trung bình một héc-ta, và mỗi xứ không có linh mục
được trung bình từ 4 đến 5 sào. Cũng nên biết rằng, với tất cả thiện
chí trên, chính phủ cũng chỉ có thể cấp cho mỗi đầu người bình quân
1 sào đất thôi, bởi vậy dân số miền Bắc là 13 triệu vào năm 1954, và
23 triệu vào năm 1973, còn diện tích đất có thể trồng trọt chỉ có
1605,305 héc-ta. (Nhờ nỗ lực phục hóa đất bỏ hoang, năm 1973 diện
tích đất lên tới 2 triệu héc-ta).
Cuộc cải cách ruộng đất, dầu có sửa chữa cho hết các điều sai sót
đáng tiếc, thì cũng không làm vui lòng Giáo hội được, bởi vì Giáo
hội coi của cải mình là "của thánh, bất khả xâm phạm". Người ta đồn
rằng có giám mục đã công khai tuyên bố "giáo dân nào đã canh tác
trên đất ruộng trước kia thuộc về Giáo hội, thì sẽ phải sa hỏa ngục
đời đời", có linh mục từ chối không làm các phép "cho những ai ăn
cướp trực tiếp hoặc gián tiếp đất đai thuộc về Giáo hội!"

171
Năm 1958, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã mời các Giám mục họp
lại, để thảo luận với ông về vấn đề liên quan giữa Giáo hội và Nhà
nước. Đức cha Trịnh như Khuê, giám mục Hà Nội, đã trả lời rằng,
không có thể có đối thoại, bao lâu chính phủ chưa hoàn trả cho Giáo
hội của cải đã tịch thu.
Sau cuộc cải cách, bà con nông dân đã được kêu gọi xây dựng
hợp tác xã. Việc hợp tác xã hóa, một cách cần thiết trong một nước,
mà năm 1954 đất đai bị chia nhỏ ra tột độ - 14 triệu mảnh ruộng có
bờ ngăn - không sao đem cơ giới vào được, thì đối với lãnh đạo Giáo
hội lại là một hình thức Cộng sản, bị Rôma lên án. "Với các hợp tác
xã, của tư hữu sẽ không còn, đó là điều ngược với nguyên tắc quyền
sở hữu mà thần học vẫn dạy". Thế là không sao tránh khỏi đụng độ
giữa Giáo hội và Nhà nước. Có vị giám mục ra vạ tuyệt thông những
giáo dân nào tham gia hợp tác xã, hay ít là từ chối không cho họ chịu
các phép. Có linh mục dạy cho giáo dân rằng, hợp tác xã là hình thức
canh tác ngược với luật của Giáo hội. Do vậy, người ta thấy giáo dân
tham gia hợp tác xã chậm hơn người bên Lương. Chính quyền địa
phương cũng có ở đó một phần trách nhiệm, như Tạp chí Học Tập,
tạp chí chính thức của Đảng Lao Động, đã đăng tải một bài tự phê
liên quan đến vấn đề đó.
“Tại một số nơi, tư tưởng giai cấp phong kiến, luật lệ khắt khe
của một vài tôn giáo, cũng như những việc làm phản động tinh vi
của một số kẻ đội lốt thầy tu, đã ngăn cản nhiều việc gây ý thức công
và về việc làm chủ tập thể nơi nhiều giáo dân. Đàng khác, chính
quyền và cán bộ có trách nhiệm bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân,
cũng có những sai phạm. Chẳng hạn nhiều đơn vị cơ sở chưa biết
quan tâm nâng cao ý thức quyền làm chủ tập thể cho giáo dân, chưa
biết giúp đỡ họ một cách cụ thể trong việc chống lại các lực lượng
phản động trong Giáo hội, nhiều cán bộ có thái độ quan liêu hách
dịch đối với dân chúng, có những thành kiến hẹp hòi và tỏ ra phân
biệt đối xử những công dân thuôc một tôn giáo nào đó... Vì thế, muốn

172
phát triển mạnh mẽ các quyền dân chủ của tín đồ, cần phải rõ ràng,
phần đông dân có đạo đã tham gia các hợp tác xã nông nghiệp và
chẳng qua họ là những xã viên hợp tác nông nghiệp có niềm tin tôn
giáo. Do đó, ngoài các tự do dân chủ bình thường, một đàng phải
bảo đảm quyền làm chủ tập thể của họ trong kinh tế, chính trị và xã
hội như mọi xã viên nông nghiệp khác, và đàng khác, cần hiểu rõ
các đặc tính riêng của những xã viên có đức tin và bảo vệ sự tự do
tín ngưỡng của họ.”
Thoạt nhìn, người ta khó thấy tại sao lại có vấn đề xảy ra giữa
các hợp tác xã và tự do tín ngưỡng. Và cũng có người lấy làm lạ khi
nghe cụ Hồ Chí Minh tuyên bố năm 1962 rằng "các sinh hoạt tôn
giáo không được gây hại cho sản xuất". Muốn hiểu điều này, cần
phải sống, hoặc quan sát sinh hoạt thường nhật của người Công giáo
Việt Nam. Dân chúng Công giáo Việt Nam thiết tưởng là quần chúng
mộ đạo nhất thế giới.
Hàng ngày họ đi dự kinh lễ sớm chiều rất đông và thích rước
kiệu, làm tuần tam nhật và làm nhiều việc đạo đức sùng kính khác,
không những vào ngày chủ nhật, mà cả các ngày trong tuần. Tại các
họ đạo nông thôn, kinh lễ buổi mai kéo dài hai ba giờ, cuộc rước dài
cả buổi, cũng như các tuần Tam Nhật, thường cản trở việc sản xuất
của hợp tác xã, vốn theo một lịch trình khoa học hơn. Vì thế, trong
các báo chí Hà Nội, những linh mục quản xứ nào mà rút vắn giờ lễ,
hoặc đổi giờ làm lễ và chầu Thánh Thể, để giáo dân tiện việc lo sản
xuất, thì bị tiếng là yêu nước và cấp tiến. Có những linh mục bảo thủ
còn chỉ trích các hợp tác xã vi phạm quyền tự do tín ngưỡng của xã
viên, vì bắt buộc họ phải đi lao động vào các giờ, lẽ ra họ phải đi lễ
hay đi đọc kinh.

6. TÀI SẢN CỦA GIÁO HỘI


Trong lãnh vực tài sản của Giáo hội, còn có một đụng độ khác
đào rộng theo cái hố ngăn cách giữa Giáo hội và Nhà nước. Trong

173
cuộc cải cách ruộng đất, chính phủ chỉ trưng thu các tư liệu sản xuất,
còn các loại bất động sản và động sản khác như nhà thờ, chủng viện,
tòa giám mục, nhà xứ, nhà hội, bàn ghế, đồ thờ, áo lễ thì không bị
đụng tới. Nhiều Giám mục và Linh mục căn cứ vào pháp luật bảo vệ
các cơ sở tôn giáo, nên ra sức bám giữ các của đó một cách quá sốt
sắng. Về vấn đề này, chúng tôi ghi lại đây những gì đã biết trong
chuyến về thăm miền Bắc Việt Nam:
Khi về thăm Nam Định, một thành phố bị tàn phá đến 80% do
bom đạn Mỹ, tôi trông thấy hàng ngàn cháu phải học hành trong
những mái nhà tranh được dựng sơ sài, bên cạnh tòa nhà hay lầu
lớn bỏ không. Mấy nhà này là Đại Chủng viện Thánh Anbé trước
kia, trường Thánh Tôma và nhà xứ Khoái Đồng. Cảnh đối chọi càng
nổi rõ hơn, và cả nhà trường bằng tranh kia (mái tranh vách đất)
đang bị đe dọa vào mùa mưa, còn học sinh thì phải đi học ba ca vì
thiếu chỗ, ca sớm, ca chiều và ca tối. Tôi hỏi ông chủ tịch Ủy ban
Nhân dân tỉnh tại sao không sử dụng các tòa nhà lớn bỏ không đó
làm trường học. Ông trả lời tôi với cái mỉm cười lịch sự: “Các tòa
nhà đó là của Giáo hội. Chúng tôi không dám đụng tới. Mặc dầu có
tôn trọng các cơ sở như thế, mà chúng tôi vẫn bị mang tiếng là phá
đạo. Nếu chúng tôi đem các cháu vào học trong đó, thì sẽ càng bị tố
cáo hơn.” Rồi ông thêm: “Các ngôi nhà đó bắt đầu hư hỏng rồi. Tuy
vậy, Giáo hội vẫn từ chối không cho mượn, dầu là làm bệnh xá, chưa
nói đến chuyện cho những người không có nhà vào ở”.
Trong giáo xứ G.L. địa phận Bùi Chu, bên cạnh nhà thờ, có một
nhà hội lớn xây bằng gạch bỏ không hoài đấy. Năm 1972, Ủy ban
xã quyết định mở thêm các lớp trung cấp cho hết hệ 10 và đã đến xin
mượn nhà hội đó cho các em học đỡ, đang lúc chờ xây nhà mới.
“Nhà hội, nhà xứ chỉ được phép cho sinh hoạt thuần túy tôn giáo
thôi”. Và điều trớ trêu là 75% các em học sinh là con nhà Công
giáo.”

174
Về việc sử dụng các cơ sở tôn giáo - nhà thờ, nhà nguyện, nhà
hội, sân nhà thờ - trong một Thư Mục vụ đề ngày Lễ Thánh năm
1961, Giám mục Thái Bình đã ra vạ tuyệt thông tức khắc cho các
linh mục, giáo dân nào sử dụng, hoặc cho phép sử dụng, hoặc cho
mượn các cơ sở đó và những sinh hoạt không trực tiếp liên hệ tới
việc thờ phụng. Giám mục đó đã phạt vạ nhiều người chức việc giáo
xứ, vì đã cho hợp tác xã phơi lúa trên sân nhà thờ. Trong một thư
chung ngày 1-1-1973, giám mục ấy còn lặp lại lệnh cấm đoán đó và
cả vạ tuyệt thông.
Trong các vụ ném bom tàn bạo nhất của Mỹ, người ta mong được
các giám mục cho nhờ các tòa Giám mục rộng lớn, các nhà chủng
viện, để chứa những nạn nhân bị bom, hoặc những người đã cháy
mất nhà cửa hay là bị thương.

7. CÁC CỐ THỪA SAI


Ngoài việc trưng thu đất ruộng nhà chung, còn một số dữ kiện
góp phần cho các vị lãnh đạo Giáo hội tin rằng chính phủ không chịu
tôn trọng tự do tín ngưỡng và thờ cúng, như Sắc lệnh 14-6-1955 đã
đảm bảo. Chẳng nói gì những sai phạm hồi cải cách ruộng đất, mà
nạn nhân không những là các địa chủ, mà cả nhiều cán bộ của Đảng
và ủy viên các Ủy ban hành chánh, cần nhắc lại việc từ chối không
gia hạn cư trú cho hai Giám mục thừa sai và một tá linh mục thừa
sai Pháp và Canada.
Chính sách "bài thừa sai" đó xảy ra 30 năm sau mối lo lắng của
Đức Piô XII, đã tiên đoán rằng có ngày những kẻ bị trị “sẽ trục xuất
khỏi nước họ binh lính và thừa sai, để xác lập chủ quyền của họ trên
đất nước mình (Rerum Eeclesiae)”. Đàng khác, quá khứ không mấy
vinh dự của hoạt động truyền giáo tại Việt Nam, nhưng trong tư
tưởng các thừa sai thì lại nằm trong quĩ đạo của lịch sử.

175
8. SỰ ĐÁP TRẢ CỦA GIÁO HỘI TRƯỚC BÀN TAY
ĐƯA RA
Khỏi cần nhắc lại rằng, những người kháng chiến bị hành hạ tại
nhiều nơi do người Công Giáo, nhân danh tôn giáo, nhân danh cuộc
thánh chiến chống Cộng. Cử chỉ hòa giải đầu tiên của cụ Hồ Chí
Minh là đã phải khóc khi có dịp dựa vào vai của Giám mục Trịnh
Như Khuê. Sau đó, cụ đã ra lệnh ân xá cho tất cả những người Công
giáo đã từng cầm súng đánh Việt Minh. Nhằm tránh các vụ trả thù
cá nhân hoặc tập thể những làng lương đối với các làng giáo đã từng
được Pháp vũ trang để tiêu diệt Cộng sản, Bác đã phái tới các vùng
Phát Diệm, Bùi Chu, Thái Bình những toán cán bộ chuyên môn, để
giải thích cho bà con bên lương chính sách khoan hồng và hòa giải
của Chính phủ.
Tại những làng mà cha xứ quá hung hăng đã hạ tượng Phật xuống
và đặt tượng Chúa và Đức Mẹ lên thay thế, cán bộ Việt Minh đã
thuyết phục được người lương đừng phá các tượng của bên giáo,
nhưng kêu giáo dân tới hạ tượng xuống và rước về nhà thờ mình.
Các Linh mục, từng là cụ xứ-đại úy, vẫn được đứng đầu giáo xứ và
tiếp tục được thi hành chức vụ, chỉ trừ một số ông đã phạm những
tội ác quá nặng nề - như chôn sống du kích, bắn giết bừa bãi nam nữ
và trẻ em - đã bị giam trong trại cải tạo. Nhờ một đường lối hết sức
khôn ngoan, nhờ sự áp dụng rộng rãi ân xá, khá đông các Linh mục
từng thề nguyền không đội trời chung với Cộng sản đã trở thành
những người yêu nước. Việc mục vụ của các Linh mục ấy lại rất cần
cho Giáo hội vì vụ băng hoại di cư 1954-1955. Muốn biết tình hình
Giáo hội miền Bắc, chỉ cần xem bảng liệt kê sau đây:

TRƯỚC DI CƯ SAU DI CƯ
ĐỊA PHẬN
Giáo dân Linh mục Giáo dân Linh mục
Hà Nội 200.000 168 150.000 53

176
Bắc Ninh 74.000 64 36.000 8
Bùi Chu 330.000 200 165.000 30
Hải Phòng 120.000 87 59.000 8
Hưng Hoá 78.000 54 71.000 30
Lạng Sơn 5.000 18 2.500 5
Phát Diệm 139.000 168 59.000 25
Thái Bình 160.000 92 80.000 13
Thanh Hoá 65.000 88 47.000 26
Vinh 219.000 188 177.000 120
TỔNG
1.390.000 1.127 846.500 318
CỘNG

Bảng thống kê trên đây cho thấy rằng sau di cư, số Linh mục còn
lại so với giáo dân rất thấp, nhất là tại các địa phận Thái Bình, Bùi
Chu, Bắc Ninh, Phát Diệm, Hải Phòng. Cần thêm rằng, cuộc di cư
đã bứng hầu như hết các nam nữ thanh niên, hầu hết các chủng sinh,
chỉ trừ Vinh.
Để vá các lỗ trống và tái thiết Giáo hội và đáp trả bàn tay đưa ra
của Cụ Hồ Chí Minh, lẽ ra Giáo hội phải có một đường hướng hòa
dịu hơn. Tiếc thay, năm 1955, người ta vẫn sống trong bầu không
khí chống Cộng của Piô XII, còn được hâm nóng lên bởi cuộc chiến
"thế giới tự do" chống lại "thế giới Cộng sản". Theo đề xuất của
khâm sứ Đu-lây, Rôma đã thay thế các mục tử bỏ chạy bằng các
Giám mục có thể nói là không thân thiện gì với chế độ, cũng không
cởi mở gì trong các vấn đề của Giáo hội sống dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa: Giám mục Phạm Năng Tĩnh, cựu thư ký và cánh tay phải của
Giám mục Phạm Ngọc Chi, lãnh tụ của Đạo quân Công giáo Bùi

177
Chu trước kia, hai vị cựu đại úy và hai nhân vật chủ chốt tổ chức di
cư hồi 1954.
Trong một nước bị chia cắt, mà đế quốc Mỹ chi phối mạnh mẽ
cả miền Nam, cử chỉ nói trên của Vatican là vụng về, nếu không
muốn nói là thù địch, khiến Hà Nội phải cảnh giác, đối với Hàng
Giáo phẩm, nhất là từ 1961. CIA tăng cường các hoạt động bí mật
chống phá miền Bắc bằng cách gởi ra Bắc các toán biệt kích, gồm
hầu như toàn người Công giáo gốc miền Bắc di cư vào Nam. Kế
hoạch thả truyền đơn nhằm tuyên truyền chống Cộng, thả dù những
toán phá hoại và dò thám, đã được Ken-nơ-di (Kennedy) phê chuẩn
ngày 23-4-1961, như tài liệu mật Lầu Năm Góc đã tiết lộ. Tài liệu
này còn trình bày chi tiết hơn các "hoạt động dưới nước, các hoạt
động tâm lý chiến và các hoạt động thả dù" thực hiện năm 1964, sử
dụng ưu tiên người Công giáo, các cựu chủng sinh, để dễ tiếp xúc
được với các cha xứ và giáo dân miền Bắc. Theo nguồn tin Bắc Việt,
các hoạt động đã bị thất bại, vì người dân Công giáo ở miền Bắc đã
ý thức hơn và không để mắc bẫy đế quốc như hồi 1940 nữa. Phần
lớn các toán biệt kích nhảy dù hoặc đổ bộ đã bị bắt, chính bà con
Công giáo đã giao nộp lại cho công an. Tuy nhiên, thái độ của hàng
Giáo phẩm và một phần giáo sĩ vẫn không được rõ ràng.
Bài báo Học Tập được nhắc tới trên kia ghi nhận lại tình hình
như sau:
“Nói chung, các Giáo hội Phật giáo, Cao đài và Tin lành đều
thống nhất về quan điểm chính trị với đa số tín đồ của họ, phát triển
ngày càng tốt lòng yêu nước và ủng hộ chủ nghĩa xã hội. Tại nhiều
tỉnh, huyện hoặc giáo xứ, bà con Công giáo cùng với những người
phụ trách và các linh mục yêu nước đã xây dựng Giáo hội địa
phương của họ phù hợp với luật pháp Nhà nước và đã có những sinh
hoạt yêu nước. Nhưng, tại một vài nơi, Giáo hội Công giáo chưa
cùng đứng về một phía với giáo dân trong con đường cách mạng,
một số phần tử xấu trong Giáo hội vẫn còn lợi dụng cách sinh hoạt

178
tôn giáo, để ngăn cản giáo dân tham gia các phong trào và tổ chức
cách mạng”.
Từ 20 năm nay, Giáo hội miền Bắc giống như một tấm vải, trên
đó sợi ngang thì mới mà sợi dọc thì cũ. Nhiều vị lãnh đạo Giáo hội
đã thưởng thức quá lâu thứ rượu cũ dành riêng cho giai cấp ưu đãi,
nên khó mà vui lòng với thứ rượu mới chung với toàn dân. Các vị
lãnh đạo Nhà nước, tại nhiều cấp, là những người đã từng chịu cơ
cực quá nhiều trong quá khứ, đã từng nếm mùi cay đắng ghê gớm
của chủ nghĩa chống cộng, nên khó mà quên nhanh được. Hơn nữa,
nguy cơ của thực dân, không phải là chuyện quá khứ có thể bỏ qua
luôn, nhưng nó còn là chuyện trước mắt, chính phủ nào cũng lo ngăn
ngừa. Việc từ chối gia hạn cư trú cho thừa sai nước ngoài - tuy có
thể bàn cãi về cách xử sự riêng với ca này ca nọ - việc giới hạn tự do
đi lại của các Giám mục và một số Linh mục, đều là hậu quả của một
bối cảnh lịch sử.
Một nhân chứng từng trải các vấn đề miền Bắc nói với tôi: “Việc
thành lập tại miền Nam các toán biệt kích Công giáo theo hướng
"Bắc tiến", những cuộc viếng thăm qua lại của Hồng y Xpenman,
việc Vatican công nhận Ngô đình Diệm, tất cả những điều đó lộ ra
một thái độ hàm hồ dị nghĩa, hay đúng hơn, thiên vị của Giáo hội.
Tại miền Bắc, hồi còn khâm sứ Dulây và sau đó, hàng Giáo phẩm
vẫn tiếp tục áp dụng nghiêm nhặt Thư chung 1951, tuyệt thông với
Cộng sản, từ chối bí tích cho người kháng chiến chống Pháp và
những người Công giáo tham gia hợp tác xã, hoặc hợp tác với chế
độ. Tệ hơn nữa, tại một số địa phận, các Giám mục còn từ chối không
làm các phép cho cha mẹ nào gửi con đi học trường công”.
Từ lúc Mỹ bắt đầu các cuộc ném bom ào ạt năm 1965 cho tới khi
chấm dứt và cuối tháng chạp 1972, Giáo hội chính thức đã giữ im
lặng một cách kỳ lạ, mặc dầu nhiều thành phố làng mạc bị tận diệt,
mặc dầu nhiều nhà thờ, chùa chiền, nhà thương, bệnh viện bị tàn phá,
hàng ngàn người vô tội bị giết. Một số Giám mục còn nói rằng nếu

179
Mỹ có ném nom nhà thờ (575 nhà thờ bị phá hủy hoặc hư hại) thì đó
là do chiến thuật của Cộng sản dùng bom Mỹ để phá tôn giáo. Phải
chăng họ hy vọng rằng, những "toán Công giáo Mỹ" đến dùng vũ
lực để giải thoát họ khỏi ách Cộng sản như Giám mục Puginê và
Pelơranh thế kỷ XIX? Phải chăng họ đã quá tin vào các buổi phát
thanh của các đài "Tiếng nói tự do" và nhiều đài "đen" khác do CIA
thiết lập để loan báo mỗi ngày cho họ rằng giờ giải thoát đã gần?
Chẳng biết nói rằng đúng hay nói rằng không?

9. NGƯỜI CÔNG GIÁO VÀ CÁC CUỘC KHÁNG


CHIẾN THỨ HAI
Điều chắc chắn là từ sự cố Vịnh Bắc Việt năm 1964 và những
trận ném bom trả đũa đầu tiên của Mỹ, toàn miền Bắc được đặt trong
tình trạng báo động. Cuộc tấn công xâm lược của Mỹ, trái với sự tính
toán của mật vụ Mỹ, đã đẩy thành phần Công giáo hòa nhập với cả
nước vì sự sống còn của Tổ quốc, như Davit Sơnbrăn (Sonrun),
Đanien Berigan (Berrigan) và các nhà quan sát nước ngoài đến thăm
Hà Nội trong thời gian Giônxơn (Johnson) cho ném bom, đã ghi lại,
và như các tờ báo miền Bắc kể cả tờ Chính Nghĩa của Ủy ban Liên
lạc Công giáo cho thấy.
Một số giáo xứ đã lập tức hưởng ứng lời kêu gọi của cụ Hồ Chí
Minh. Những người khác sau này cũng đã thức tỉnh, khi thấy máy
bay Mỹ ném bom bừa bãi, bất kể chùa chiền nhà thờ, bệnh viện và
toà Giám mục. Linh mục Trịnh Minh Giá, cụ già thất tuần của Phát
Diệm đã nói: “Qua những cơn thử thách gian truân, chúng tôi nhận
thấy hàng Giáo sĩ nói chung là đi sau quần chúng giáo dân và các
Giám mục thì đi sau Linh mục. Đó chẳng phải là bước đầu của một
biện chứng trong khái niệm chân thực về Giáo hội, nghĩa là sự thức
tỉnh của Giáo hội từ cơ sở đi lên?” (Chính Nghĩa 18.10.1973).
Đúng thế, thời gian 8 năm trời, người Công giáo đã xả thân đi
vào kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng hăng say như mọi thành

180
phần khác. Chứng cớ là người Công giáo đã được biểu dương và
tặng nhiều huân chương trong lãnh vực này. Chẳng hạn, trong địa
phận Phát Diệm, 6.000 gia đình Công giáo đã được công nhận là gia
đình gương mẫu, 3 xứ đạo và 14 cộng đoàn tín hữu không có Linh
mục đã được biểu dương là tiên tiến. Muốn làm một gia đình gương
mẫu, tất cả mọi người trong gia đình phải thật xuất sắc trong kháng
chiến, trong sản xuất và trong tác phong đời sống. Muốn cho một
Giáo xứ được kể là tiên tiến phải có 60% gia đình xứ đạo đó hay của
họ đạo là gương mẫu. Trong vùng Hà Nội, người ta tìm đếm được
1.463 gia đình gương mẫu và 25 giáo xứ tiên tiến. Trong bà con
Công giáo, cũng có những anh hùng nhân dân, một danh hiệu rất cao
quí, cả nước chỉ có mấy chục người được tặng danh hiệu đó.
Xứ đạo được nhiều bằng khen nhất là Kẻ Sặt, địa phận Hải
Phòng, với ba huân chương về sản xuất và chiến đấu, một huân
chương về ủng hộ Mặt trận Giải phóng, hai huân chương chiến đấu
do chính cụ Hồ Chí Minh đề bạt cho hai thiếu nữ đã bắn rơi máy bay
Mỹ. Nhiều Linh mục đã được gắn huy chương Kháng chiến chẳng
phải vì họ đã cầm súng tham gia trực tiếp chiến đấu, nhưng vì đã
nâng đỡ tinh thần giáo dân để họ kiên trì kháng chiến. Quả vậy, trong
chiến tranh nhân dân, không có sự khác biệt giữa người chiến sĩ
ngoài mặt trận và những người đứng ở phía sau.
Trong cuộc chiến mà lực lượng không cân đối giữa Mỹ và Việt
Nam, các Giáo hội Phật Giáo, Tin Lành và Cao đài có nhiều tín đồ
dũng cảm tham gia kháng chiến. Chỉ có Giáo hội Công giáo, đã im
lặng. Hàng giáo phẩm phải chăng quan niệm sự sống còn của đất
nước là một vấn đề không liên can gì tới đời sống Kitô giáo? Hay là
Giáo hội cơ cấu lo sợ phải hợp tác với Cộng sản, sự hợp tác bị
Vatican cấm đoán theo Sắc lệnh ngày 1.7.1949 và bị lên án bởi Thư
chung các Giám mục năm 1951?
Nếu chính phủ miền Bắc buồn phiền vì sự im lặng đó, nhưng vẫn
tôn trọng sự tự do thờ tự và vẫn cấp ngân khoản cho Giáo dân xây

181
dựng lại, hoặc gây hư hại. Tháng 3-1971, tại Hà Nội có lễ phong
chức cho Linh mục Nguyễn Năng làm Giám mục địa phận Vinh, có
hàng chục ngàn giáo dân và đông đảo Linh mục tới tham dự. Nhà
thờ Chánh tòa Hà Nội lại có những cuộc lễ long trọng như những
năm trước chiến tranh. Sau lễ truyền chức, Giám mục mới đã được
thủ tướng và một phái đoàn đại biểu Quốc hội chính thức tiếp đón.
Cử chỉ đó cho thấy Chính phủ vẫn đặt nặng việc làm cho người Công
giáo tham gia cộng tác vào chuyện chung, nhất là địa phận Vinh,
nằm trên vĩ tuyến 17, là địa phận đã bị bom đạn tàn phá nặng nề nhất,
nhà thờ chánh tòa, tòa giám mục, chủng viện đã bị phá sập tan tành.

10. THÁNH LỄ VÀ RƯỚC KIỆU


Tại miền Bắc Việt Nam, việc giữ đạo vượt xa các cộng đoàn tín
hữu lâu đời của châu Âu. Việc giữ đạo này gồm chủ yếu việc đi lễ
đông đảo, đọc kinh chung cả sớm và tối, rước kiệu, các tuần Tam
Nhật và các việc đạo khác có nguồn gốc từ truyền thống trung cổ
của Tây Ban Nha. Đức tin trung cổ, đúng là tiếng phải dùng để nói
và kiểu giữ đạo ở đây, nhưng một nhà báo của tờ La Croix đã nói
năm 1955, khi tìm ra một tiếng phù hợp với thực tế: cả một loạt
những nhà thờ khổng lồ mọc lên ở giữa một rừng nhà tranh rách nát
tồi tàn. Ông đã kết luận: “Đạo Công giáo Việt Nam có nhiều phương
tiện thật giống như Giáo hội phương Tây thời Trung cổ. Hay nói
đúng hơn, nó giống như một cơ cấu truyền thống của xã hội ở đây,
nơi nó được trồng cấy vào. Chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam hoàn
toàn không phải chỉ là một mớ lý thuyết Trung cổ lỗi thời. Có lẽ phải
nhìn ra chỗ yếu thật sự của Giáo hội Công giáo Việt Nam là sự co
cụm và thiếu cởi mở”. Nếu nhà báo đã thăm Bắc Việt 28 năm sau,
và nếu ông lại đi dự thánh lễ, rước kiệu, ông sẽ kinh ngạc nhận thấy
rằng, mặc dầu đã có đảo lộn xã hội do cách mạng xã hội chủ nghĩa
tạo ra, đạo Công giáo Việt Nam đã chẳng thay đổi mấy về lãnh vực
này.

182
Trong thời gian có ném bom, thường thánh lễ được cử hành ban
đêm, đôi khi phải làm trong hang động, trong hầm núp được biến
thành nhà thờ và những nhà này bao giờ cũng chật người. Khi đã dứt
các cuộc ném bom, đời sống trở lại bình thường, sau đó các nhà thờ
lại đầy cứng người đi lễ. Nếu anh về thăm Thái Bình, Bùi Chu, Phát
Diệm cả sớm lẫn chiều, anh sẽ được nghe chuông đối đáp nhau vang
khắp cả vùng như dội lại tiếng kinh chung tại các nhà thờ. Đọc kinh
dài, đó là một chuyện thành như thần thoại cổ truyền. Ngày thường,
nó dài chí ít cũng hai giờ, ngày chủ nhật và ngày lễ ít ra cũng ba giờ
mới xong.
Trong chiến tranh, chính quyền đã yêu cầu Công giáo ngưng việc
rước kiệu. Sau hiệp định Pari, các cuộc rước kiệu lại tái phát cách
long trọng như thường, nhưng giới hạn tự do rước kiệu này mà một
số Giám mục và linh mục nghĩ rằng Nhà nước cấm đoán tự do thờ
tự.
Việc rước kiệu đã được qui định bởi các sắc lệnh ngày 10.5.1957
và 14.6.1957, theo đó, các cuộc biểu thị tín ngưỡng được tự do tổ
chức trong các nơi thờ tự, còn ra ngoài thì phải xin phép, ít ra phải
được sự đồng tình của chính quyền địa phương. Một số lãnh đạo
Giáo hội coi những giới hạn đó là vi phạm tự do biểu thị lòng tin?
Một ít người vẫn nuối tiếc thời xa xưa, khi các cuộc rước linh đình
được tổ chức trên các đường phố, đường làng tùy thích của người
Công giáo. Vài người thèm thuồng nhìn vào miền Nam, vì ở đấy có
những cuộc rước khổng lồ được tổ chức với sự giúp đỡ của nhà nước
hay quân đội, thường có cả trung tá tỉnh trưởng hoặc quận trưởng
dẫn đầu, Giáo sĩ đi cuối, chiếm lĩnh đường phố hàng giờ. Đối với
đạo Công giáo Việt Nam bảo cổ, hình như vẫn có sự đụng chạm nổi
ra giữa Nhà nước và Nhà thờ chung quanh một vấn đề mà bên
phương Tây không còn nữa. Đọc một bức Thư chung mới đây thôi -
1.5.1987 - chúng ta có thể hiểu được cái giá của tự do thờ tự tại Bắc
Việt:

183
“Theo tình hình hiện nay, khiến anh em không nên tổ chức rước
kiệu ra bên ngoài các lối đi xung quanh nhà thờ hoặc sân nhà thờ.
Tổ chức ra ngoài ranh giới đó, tức đã ra khỏi nơi thờ tự điều mà luật
pháp Nhà nước cấm. Anh em sẽ gặp khó khăn nếu không xin phép
chính quyền. Hơn nữa, xin phép hoặc thông báo như thế thì không
xứng đáng với Thượng đế vốn thực chẳng cần gì các cuộc rước đó.
Tốt hơn là hãy tuân thủ luật pháp và chỉ đi kiệu trong nơi thờ
phượng. Mà luật pháp thì nói: "Trong các ngày lễ thông thường và
trong nơi thờ tự". Trước hết là nơi thờ tự chứ không phải "nhà thờ".
Tiếp đến, đây nói về các lễ thông thường và tất cả những gì không
bị cấm trong các cuộc lễ thông thường đó thì kể như được phép, như
hội kèn đồng, âm nhạc, trống chiêng, múa v.v... Nếu chúng ta sử
dụng các thứ đó, thì không ai có thể tố cáo là "qua mặt chính quyền"
bởi vì mọi sự đã được pháp luật cho phép làm. Tuy nhiên cần phải
theo lời dạy của Chúa Kitô, rằng chúng ta phải "đơn sơ mà khôn
ngoan". Vì thế, ở đâu có khó khăn hoặc nguy hiểm thì hay hơn là
đừng sử dụng các khí cụ nói trên, thay vì đi xin phép hoặc thông báo.
Lý do như đã nói trên kia.
Anh em thân mến, chúng ta là Công giáo, nhưng chúng ta cũng
là công dân của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Chúng ra phải
giữ luật kể trên, bởi vì luật đảm bảo "tự do tín ngưỡng". Tự do tín
ngưỡng có nghĩa là tự do biểu lộ ra ngoài tôn giáo của chúng ta,
nếu không thì luật kể trên vô ích.”
Qua nội dung và từ ngữ của Thư chung đó, chúng ta hiểu được
sự căng thẳng chưa được hòa dịu liên quan đến rước kiệu.
Đối với việc đọc kinh chung cũng thế. Nhằm cổ vũ việc hòa hợp
giữa những người dân khác nhau về tôn giáo, chính quyền đã cho
giáo quyền biết nên bỏ đi một đoạn kinh vốn làm cho người ngoài
Công giáo khó chịu, chẳng hạn đoạn sau đây: “Ai là người tốt, ai là
kẻ xấu? - Tốt là người Công giáo có đức tin, có hành đạo, xấu là
những người ngoài Công giáo và những người Công giáo mà không
184
giữ đạo” (và kẻ xấu bị án phạt lửa hỏa ngục đời đời) hoặc kinh “Cầu
cho dân ngoại trở lại”, trong đó gọi người ngoại giáo kia là “những
kẻ thờ ma quỉ và thần dữ” hay là các kinh Đức Mẹ Fatima, “cho
Trái Tim Mẹ chiến thắng Cộng sản” v.v...
Thư trả lời của giáo quyền nói: “Không nên bỏ các kinh của Giáo
hội”. Giám mục Thái Bình còn đi xa hơn nữa, trong Thư chung ngày
07.12.1971, “Kẻ nào cấm đọc những kinh đó không được chịu các
phép, trừ phi kẻ ấy đền tội xứng đáng và phải xưng tội công khai để
xóa gương mù”.
Các kiểu tranh luận như thế chẳng giải quyết được vấn đề quan
hệ giữa Giáo hội với Nhà nước. Giáo hội còn trách Nhà nước đã vi
phạm tự do đào tạo Linh mục. Như chúng tôi đã ghi rõ trên kia, năm
1955, tất cà các chủng viện, trừ của địa phận Vinh, đều đã di cư vào
Nam. Giáo hội miền Bắc phải bắt đầu lại từ số không, nhất là khi số
giáo sĩ đã giảm đi nghiêm trọng, xuống còn 28% so với ngày trước
di cư, không còn đủ sức đào tạo hữu hiệu các chủng sinh trẻ về văn
hóa cũng như về tinh thần. Tuy vậy, số chủng sinh năm 1960 cũng
lên tới 600. Dĩ nhiên đây là học sinh chủ yếu của các tiểu chủng viện,
theo mẫu mực Công đông Triđentinô, trong đó chỉ lo học xong trung
cấp và tiếng La-tinh thôi. Cuộc tranh chấp nổ ra giữa các Giám mục
khước từ chương trình của Nhà nước và Chính quyền dân sự tố cáo
Giám mục dùng chủng viện để đào tạo những tên phản động. Cuối
cùng, chỉ trừ địa phận Vinh, các giám mục đã ra lệnh đóng cửa lần
lượt các chủng viện. Cuộc tranh chấp kéo dài cho tới 1973, khi một
số chủng viện mở cửa lại, với một hình thức kiểm soát nào đó của
Nhà nước. Muốn đi tới gốc của vấn đề, cần nhất trí rằng tất cả những
chuyện đó chứa đựng tiềm tàng một vấn đề có tính chất chính trị hơn
là tôn giáo. Quả thật cả hai phía đều muốn có những phần tử chắc và
được đào tạo. Đối với Giáo hội, những "phần tử chắc" là những
người "không bị tiêm nhiễm bởi Cộng sản dưới bất kỳ dạng nào, về
giáo dục hoặc về tinh thần yêu nước", khiến cho những phần tử bị

185
Nhà nước đánh giá là "phản động" thì được Giáo hội coi là tốt nhất,
và ngược lại. "Đào tạo cho chắc chắn" nghĩa là một cuộc đào tạo
100% giống như dưới thời thực dân, cuộc đào tạo có nhiều mặt đáng
phê phán trong một đất nước đang làm cách mạng.

11. VIỆC CẬP NHẬT HÓA


Về vấn đề này, nhiều linh mục đã ý thức đầy đủ và đã phát biểu
rõ ràng trong một cuộc họp tại Hà Nội tháng Chạp 1973: “Điều quan
trọng, chẳng phải con số đông, nhưng là phẩm chất, trình độ, trí
thức và nghiệp vụ của các chủng sinh” (Linh mục Vũ Bá Nghiệp,
Phát Diệm). Linh mục Trần Ngọc Kỳ đã tỏ ra thực tế hơn trong việc
tuyển chọn phong chức: “Phải chọn các chủng sinh trong số thanh
niên Công giáo đã thi xong trung học, có những kiến thức nghề
nghiệp và có hoạt động yêu nước. Cũng nên chọn những con em gia
đình công nhân có công với nhân dân và Tổ quốc”. Về chương trình,
người ta đã hoan nghênh ý kiến của linh mục Doãn, địa phận Hưng
Hóa: “Các linh mục được đào tạo kiểu xưa nỗ lực nhiều để theo kịp
Giáo dân trong lãnh vực chính trị và xã hội”.
Từ ít lâu nay, nhất là từ khi lập lại hòa bình ở miền Bắc, các cuộc
họp linh mục, các buổi hội thảo gồm Linh mục và Giáo dân ra sức
dựa vào các kinh nghiệm sống mà tìm ra phương cách sống đạo trong
một đất nước xã hội chủ nghĩa. Các Linh mục và Giáo dân thừa nhận
có công khai trong các bài viết ở báo Chính Nghĩa, rằng còn nhiều
khó khăn phải khắc phục. Theo Linh mục Vương Đình Ái: “Điều kỳ
cục là cứ nghĩ rằng hiện nay không còn vấn nạn liên quan đến các
lãnh vực tôn giáo và xã hội, trong hàng linh mục cũng như giáo dân.
Một số Linh mục không bằng lòng về thái độ của cán bộ chính quyền.
Một số giáo dân lo lắng về tương lai của tôn giáo. Một số Linh mục
không thỏa mãn về nghị quyết chung của hàng giáo sĩ liên quan đến
việc sửa đổi nghi thức, về tuần Tam nhật sao cho phù hợp với đời
sống mới của dân chúng, giản đơn các cuộc rước, các cuộc lễ theo

186
một hình thức văn hóa tân thời hơn, văn minh hơn...” Theo tác giả,
các lời phản đối đó là tự nhiên, bởi nó bộc lộ những do dự, những
vấn đề được đặt ra cho việc thích ứng với đời sống xã hội chủ nghĩa.
Đó là những chi tiết phải nghiên cứu lâu dài, mới đi tới chỗ khám
phá ra con đường trở lại với dân tộc.
Những khó khăn liên quan tới kinh nọ kinh kia đã được soạn ra
và một thời điểm lịch sử nào đó đòi phải được xem lại, sửa đổi, hoặc
tu chỉnh cho hay hơn. Có những cuộc tranh luận chung quanh vấn
đề đào tạo giáo sĩ. Người muốn được chịu chức phải được chọn bởi
một mình Giám mục theo các tiêu chuẩn riêng của giáo luật thôi, hay
phải được chọn bởi Giám mục vùng với ý kiến của nhân dân theo
tiêu chuẩn xã hội và chính trị? Trong việc tuyển chọn Linh mục,
Giáo hội có thể chấp nhận một thứ tô vẽ của Nhà nước chăng, khi có
bằng cớ rằng người nọ người kia muốn chịu chức Linh mục, mà
không phải là công dân tốt, hoặc không chu toàn nghĩa vụ công dân
mình chăng? Giáo hội có phải đem lòng yêu nước đặt ngang hàng
với các đức tin Kitô giáo chăng? Trong xã hội mới, phải chăng cần
nhấn mạnh hơn về các đức tính tập thể hơn là nhân đức cá nhân?
Đương nhiên các nỗ lực nghiên cứu đó còn nằm ở cấp linh mục
và giáo dân thôi. Phần đông các Giám mục coi các sáng kiến đó là
khả nghi, vì hàng Giáo phẩm cứ sợ rằng Nhà nước lợi dụng các điều
đó mà hạn chế tính độc lập của Giáo hội. Đàng khác, như một linh
mục phát biểu, “các Giám mục của chúng tôi đều đã quá già nua để
có thể bắt được làn gió mới! Giám mục địa phận tôi đã trên 71 tuổi,
từ lâu chẳng biết gì về sự sống của Giáo hội cả...”
Những người quan sát đời sống hằng ngày của giáo dân miền Bắc
lấy làm lạ, một đàng trước sự hăng hái và dũng cảm của họ, kể cả hy
sinh mạng sống mình để kháng chiến chống Mỹ, để làm cách mạng
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự hăng hái và dũng cảm đó được
nhiều linh mục đồng tình chia sẻ, đàng khác trước một nỗi đắng cay,
một sự âu lo khó chịu che giấu đối với thái độ hàng Giáo phẩm lên

187
án Cách mạng, lên án chủ nghĩa xã hội và thái độ bàng quan của
Giáo hội đối với cuộc Kháng chiến.
Dưới một số khía cạnh, hoàn cảnh người Công giáo Việt Nam
giống như hoàn cảnh của người Công giáo Ý sau khi quân đội của
Victo Frumannuen II đánh chiếm Nước Tòa thánh và thống nhất
nước Ý qua cuộc trưng cầu dân ý ngày 2-10-1070. Là tín hữu họ phải
vâng lời Giáo quyền đang lên án việc truất của cải Tòa thánh và
chẳng ưa thích gì đường lối chính trị của Nhà nước, nhưng trong tư
cách công dân, họ lại trung thành với Chính phủ, dẫu có nhiều khó
khăn trong và ngoài nước, đã không bỏ qua một chương trình nào
được vạch ra từ tháng 8-1945: độc lập và thống nhất đất nước, dân
chủ nhân dân, tập thể tư liệu sản xuất, xây dựng xã hội mới.
Nhưng khác với Ý, nước Việt Nam, dầu có bị bom đạn Mỹ tàn
phá man rợ, đã xây dựng lại được đất nước từ số không, nhờ thành
công trong các chương trình thanh toán nạn cùng khổ, nạn mù chữ,
nạn mãi dâm và liên tục kiên trì giải quyết các tồn tại của chủ nghĩa
phong kiến và chủ nghĩa thực dân. Đối với hàng Giáo phẩm, một số
biện pháp được sử dụng để đạt các mục tiêu đó là vi phạm quyền tự
do của dân chúng. Chia đất, cưỡng bức bình dân học vụ, bắt buộc
lao động, cưỡng bức giáo dục các cô gái mãi dâm, cấm một số tập
tục và thói quen bị coi là mê tín dị đoan, hoặc bất nhân... Dĩ nhiên,
Giáo hội Việt Nam được gầy dựng bởi các Giáo hội phương Tây,
cũng theo gót các Giáo hội này mà lên án mọi hình thức cách mạng
(Cách mạng Pháp 1789, Cách mạng Nga 1917...) và phải mất nhiều
thời gian mới hiểu được Cách mạng. Chẳng hạn trước cảnh nghèo
khổ của dân chúng, Giáo hội lo bố thí, làm những việc từ thiện,
nhưng trái lại, chống tất cả mọi thay đổi cơ cấu xã hội qua đó có thể
đem lại cho mọi người cái tối thiểu để sống.
Đối với Giáo hội Việt Nam, phát xuất từ chế độ phong kiến và
thực dân, việc xây dựng một xã hội vô giai cấp, việc xóa bỏ các
nguyên nhân cơ cấu của nghèo đói, việc khước từ những giá trị từ

188
trước vẫn được coi là nguyên lý thần học Kitô giáo (như tư hữu được
coi là thiêng liêng, quyền Giáo hội tự cho là xã hội tối cao được mở
và điều khiển học đường, bịnh viện, quyền của Giáo hội như kẻ duy
nhất nắm trọn chân lý, bắt giáo dân phải theo luật riêng của mình và
được kết án bè rối, lạc đạo...) tất cả những điều đó rõ ràng ngược với
giáo huấn trong các sách thần học và bị coi là quá nguy hiểm cho
đức tin. Việc đi từ phong kiến sang chủ nghĩa xã hội xét về lý thuyết
thì xem ra thô bạo, nhưng trong thực tiễn lại dễ dàng tại Việt Nam,
vì đa số dân chúng là hạng bần cùng. Giáo hội không chịu từ bỏ hiện
trạng thần học và xã hội, đang khi một cuộc biến chuyển tốt đẹp đang
xảy ra chung quanh và ngay giữa lòng Giáo hội, nghĩa là giữa giáo
dân. Quả là một tình hình mâu thuẫn và chua cay, như lời một linh
mục Việt Nam người Bắc phát biểu năm 1973, “vì chính người Cộng
sản đang phổ biến tư tưởng của Vatican II và đòi hỏi Giáo hội canh
tân theo giáo huấn Công đồng, còn các Giám mục của mình lại
khước từ làm việc đó... Người ta cứ tiếp tục cái lỗi thời, cứ sống theo
quá khứ như thể không có thời gian”.

189
Chương V: XUYÊN QUA CUỘC GIẢI PHÓNG

Ngày 30 Tháng 4, 1975, lúc 5 giờ sáng, những tên lính Mỹ cuối
cùng tháp tùng đại sứ Martin rời khỏi đất Việt Nam. 10g30, Quân
đội Giải phóng tiến vào thành phố Sài Gòn. Một trang sử đã lật qua.
Giáo hội tỏ thái độ thế nào trước cuộc chiến thắng của nhân dân
Việt Nam? Giáo hội này, với 2.200.000 linh hồn - cỡ 9% dân số miền
Nam, đã tập trung chủ yếu tại vùng đất do quân lực Mỹ và thân Mỹ
kiểm soát.

1. HỐT HOẢNG
Hốt hoảng, đó là tiếng đúng để diễn tả tâm trạng của đa số trong
Giáo hội miền Nam mấy tháng đầu năm 1975. Từ trên hai chục năm,
Giáo hội đã rao giảng "không thể đội trời chung với Cộng sản" và
cuộc "Thánh chiến chống lại kẻ thù của tôn giáo". Hơn nữa, Giáo
hội hợp tác công khai hoặc kín đáo với các lực lượng trong vùng Mỹ
chiếm đóng. Bây giờ phải đứng trước cuộc chiến thắng của nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Từ tháng 2-1975, sự lo âu đè nặng Giáo hội. Trong báo chí, nhất
là tạp chí Tông đồ Giáo dân đã viết nhiều bài gieo rắc hoảng sợ thay
vì trấn an dân chúng. Nào là một cuộc tàn phá khủng khiếp sắp đổ
xuống trên đất nước, nào giờ trả thù đã điểm, nào có hai đạo quân,
đạo quân xatăng đang tiến vào đè bẹp đạo quân của Chúa. Báo động:
Sứ điệp bí mật cuối cùng của Luyxi: Các lời tiên tri về cuộc tận thế.
Đó là những đầu đề gieo rắc hoang mang vào tâm trí người Công
giáo đã bị rối loạn trước chiến thắng của quân đội Giải Phóng.
Một loạt rối loạn tâm thần tương tự bao trùm cả Vatican. Hãng
thông tấn Fides, báo L'Ossebvatoire Romano, cầm chắc trong tay
những tin sốt dẻo về cuộc bách hại tại các vùng mới giải phóng, loan

190
những tin tức rồi đây sẽ hiểu rõ là không đúng sự thật. Đức Phaolô
VI xúc động trước thảm cảnh người Việt Nam và các sự gian truân
của người Công giáo.
Giám mục Nguyễn Kim Điền, Tổng giám mục Huế, viết cho
người bạn Pháp rằng mình sẽ ở lại vị trí, sẵn sàng chấp nhận "tù ngục
khổ đau và bách hại".
Phần Đức cha Nguyễn Văn Bình, Tổng giám mục Sài Gòn thì
đưa ra lời kêu gọi hãy bình tĩnh và Ủy ban Tu sĩ của địa phận kêu
gọi anh chị em ở lại vị trí và sẵn sàng chịu tử vì đạo.
Tâm trạng đó mãi sau Giải phóng, và mặc dầu có chính sách hòa
giải của Chính quyền Cách mạng, vẫn còn tồn tại, Cách mạng không
làm phép lạ. Ngành tuyên truyền chống Cộng đã có một phần tư thế
kỷ, để lại trong ý thức và tiềm thức Việt Nam Công giáo một sự ám
ảnh không dễ gì bôi xóa nhanh được.
Một sự kiện khác biểu lộ cảnh hốt hoảng đó, tại phần đông các
địa phận, các Giám mục sử dụng quyền năng đặc biệt của Tòa thánh,
đã cử và phong chức vội vã các Giám mục phó, như thể các giáo
phận sắp sửa trống ngôi tới nơi rồi.

2. NHỮNG CUỘC RA ĐI
“Sự kinh hoàng của đa số người Công giáo trước tình hình có
thể phải chung sống với Cộng sản là hậu quả của một chủ nghĩa
chống Cộng mù quáng và tiêu cực”, đó là lời của cha Nguyễn Hồng
Giáo, dòng Phanxicô. Những kẻ gây rối lợi dụng tâm não đó, tung
ra những điều đồn đại kinh khủng: bộ đội giết linh mục, hãm hiếp
nữ tu, bắt buộc Công giáo di cư phải đi bộ hoặc đi bằng đầu gối về
làng cũ ngoài Bắc - cách 1600 hoặc 2000 kilômét v.v... Nguồn gốc
các bản tin "đáng tin cậy" đó thường là linh mục nọ linh mục kia mới
thoát khỏi vùng "mới bị chiếm đóng của Việt cộng", hoặc là xơ nọ
khi mới "thoát khỏi nạn thảm sát".

191
Trước ngày 30 tháng 4-1975, Sài Gòn sống với những lời đồn đại
như thế, “Tòa thánh và hàng Giáo phẩm đứng ra tổ chức di cư toàn
bộ người Công giáo”. Đứng trước mức độ ghê gớm của những tin
đồn đó, đức Tổng Giám mục Sài Gòn đã phải lên tiếng cải chính
trong lời kêu gọi ngày 8-4-1975, sau đó đã nói rõ với báo chí: “Hàng
Giáo phẩm không tổ chức di cư, giáo dân và các Giám mục đều ở
tại chỗ” (AFP).
Một số linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân đã bỏ chạy trước ngày
Sài Gòn được giải phóng: chừng 100 linh mục, 400 tu sĩ nam nữ,
50.000 giáo dân. Khó mà khẳng định rằng họ là nạn nhân của cuộc
bách hại Công giáo, là trường hợp Đức Khâm sứ Hăngri Lomecơro
do chính quyền Cách mạng lâm thời đề nghị rời khỏi Việt Nam ngày
5-6-1975.
Trước ngày giải phóng Sài Gòn, một nhóm sinh viên Công giáo
đã gửi qua Đức Giáo hoàng một bức thư yêu cầu ngài rút vị khâm sứ
về, vì đã quá dính líu với chế độ cũ. Một bức thư khác, do 2 nhóm
ký tên ngày 14-5-1975, nài xin đức Khâm sứ hãy rời khỏi Việt Nam.
Sau cùng, một công văn do Bộ ngoại giao chính phủ Cách mạng Lâm
thời đến yêu cầu Khâm sứ ra đi. Lý do của biện pháp này đã được
một vị đại diện Chính phủ Cách Mạng Lâm thời trình bày cho giới
giáo sĩ địa phận thành phố Hồ Chí Minh.
Sau cùng, việc ra đi của các thừa sai nước ngoài (chừng 150 linh
mục, tu sĩ nam nữ thuộc nhiều quốc tịch) đã gây nhiều xôn xao trong
dư luận phương Tây. Người ta nói đến “lễ mồ cho miền Nam”
(P.Gheddo, It Nostro Tempo, 30-11-75), về việc “khó sống đạo tại
miền Nam” (P. Gheddo, Mhnde et Missiono, 3-76), về “Giáo hội
thầm lặng” (S. Quercette, America 18-9-78), về “cái chết thứ hai
của Việt Nam” (AA. Gelinas Express, số 1325 và 1329, 26-11 và 5-
12-76)... Tại Việt Nam, cuộc ra đi đó chẳng làm nhiều người bực bội
gì.

192
Cuộc ra đi của thừa sai không tạo ra lỗ hổng. Tại miền Nam, hiện
có tới 25 Giám mục trong đó 15 vị tại tòa, cỡ 2000 linh mục và gần
7500 tu sĩ nam nữ, tất cả là người Việt.

3. VỤ GIÁM MỤC NGUYỄN VĂN THUẬN


Vì đi liền với Hăngri Lơmetơrơ, vụ Giám mục Nguyễn văn
Thuận tạo ra một bầu không khí u ám trong Giáo hội và trong quan
hệ giữa Giáo hội và Nhà nước. Đức cha Thuận, 46 tuổi, trước là giám
mục Nha Trang. Theo các nguồn tin chính thức, ông được đặt làm
Giám mục phó Sài Gòn ngày 25.4.1975 (với quyền kế vị Tổng giám
mục Sài Gòn). Việc Vatican cử Đức cha Thuận bị một số linh mục
và giáo dân đặt thành nghi vấn, bởi vì hình như Khâm sứ tòa thánh
đã dùng quyền năng bất thường của Tòa thánh ban cho Đại diện
Tông tòa trong trường hợp đặt biệt khó khăn của Giáo hội. Chúng ta
có tài liệu để kiểm chứng nghi vấn này. Dầu sao, việc cắt cử Giám
mục Thuận đã chỉ được công bố trong Công báo Tòa thánh (Acto
Apostolicae Sedia) tháng 7-1975, chậm những 3 tháng, gây sự nghi
ngờ. Việc cử Giám mục Thuận đã được giáo quyền giữ bí mật. Một
tuần lễ sau ngày giải phóng Sài Gòn, chừng hai chục linh mục đã
đến Tòa giám mục yêu cầu Đức cha Nguyễn Văn Bình hoãn tuyên
bố việc cắt cử đó, bởi vì có sự có mặt của Đức cha Thuận tại Sài Gòn
là không hợp thời và nguy hại cho Giáo hội. Điều đó có nhiều lý do,
trước tiên, Đức cha Thuận là cháu Ngô Đình Diệm, người đã bỏ tù
ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời.
Tiếp đến, ông là người ai cũng biết đã liên hệ nhiều với Mỹ và đã hỗ
trợ cho những ý đồ kín đáo của Mỹ. Các linh mục nói trên tìm cách
làm áp lực kín đáo để Giáo quyền hoãn việc công bố sự cắt cử đó và
liên hệ qua Vatican trình bày về tính bất lợi của việc Giám mục
Thuận ở Sài Gòn trong những lúc gay go này của lịch sử.
Nhưng ngày 12.5, một thông báo của Tòa giám mục công bố tin
tức về việc Giám mục Thuận làm Giám mục phó Sài Gòn. Phản ứng

193
tức thì nổ ra. Nhiều nhóm giáo dân tiến bộ được báo động, lên tiếng
phản đối công khai. Nhiều kiến nghị được đưa ra. Có những cuộc
biểu tình được tổ chức trước tòa Khâm sứ và tòa Giám mục. Có
những cuộc mít tinh ngược lại, do những giáo dân bảo thủ tổ chức
ủng hộ Đức cha Thuận. Rồi truyền đơn, kiến nghị được tung ra, thứ
thì ủng hộ, thứ thì phản đối.
Trong lúc đó, chính quyền cách mạng can thiệp. Ngày 27.6.1975,
một cuộc họp được tổ chức, một bên có hai Giám mục Bình và Thuận
và bên kia là đại diện chính phủ Cách mạng lâm thời, với sự có mặt
của một số Linh mục tiến bộ và bảo thủ. Sau khi nghe lập trường
mỗi bên trình bày, đại diện Chính phủ Cách mạng Lâm thời sẵn sàng
giúp Đức cha Thuận gửi nhanh thư sang Vatican (vì lúc đó chưa tái
lập viễn thông) nhưng yêu cầu Đức cha trở về tòa Giám mục của ông
ở Nha Trang. Giám mục Thuận từ chối mọi giải pháp, vịn lẽ rằng
ông phải vâng lệnh Tòa thánh. Hai tháng trôi qua, trong khi đôi bên
vẫn giữ lập trường cứng rắn của mình. Chính phủ Cách mạng Lâm
thời trình bày cho giáo dân hiểu lý do tại sao không chấp nhận Giám
mục Thuận ở Sài Gòn. Những người Công giáo bảo thủ lại tố cáo
Chính phủ Cách mạng Lâm thời là bách hại Giáo hội.
Cuối cùng, sau hai tháng giằng co, ngày 15.8.75, trước mặt 350
Linh mục và bề trên, Chính phủ Cách mạng Lâm thời cho biết rằng
sự kiên nhẫn của chính phủ có giới hạn và do đó đã quyết định bắt
buộc Giám mục Thuận phải ở yên tại giáo xứ, thuộc địa phận Nha
Trang.
Vụ này kể như giải quyết xong cách chính thức, với một bản
thông cáo của Đức Tổng Giám mục Sài Gòn.

4. CHỐNG ĐỐI
Nếu tất cả mọi người Công giáo đều dễ dàng chấp nhận chế độ
cách mạng, thì đó phải là một phép mầu. Sức nặng của một quá khứ

194
lâu dài chống Cộng và chống cách mạng còn ở cả trên vai họ. Giáo
hội bị vướng vào sự liên lụy với ngoại bang và các đặc quyền đặc
lợi, cũng khó mà cải đổi được ngày một ngày hai.
Nayan Chanda, một phóng viên của tờ Kinh tế Viễn Đông đã giải
thích đúng tâm não của người dân Sài Gòn trong một câu sau đây:
“Hôm đầu, họ sẵn sàng từ bỏ hết để chạy thục mạng, ngày thứ hai,
họ đòi lại chiếc honđa và qua ngày thứ ba, họ đòi lại tất cả những
gì họ đã có trước kia.” Câu nói đùa đó cũng áp dụng được một phần
vào Giáo hội miền Nam. Sau giờ phút kinh hoàng, người Công giáo
bắt đầu nhen nhóm tổ chức chống đối chế độ.
Việc chống đối này biểu hiện trước tiên dưới dạng tung tin nhảm
và thả tờ rơi mang tính chất xem ra thuần túy tôn giáo thôi: Sau ngày
Sài Gòn giải phóng, Đức Mẹ ở nhà thờ Đakao đã khóc. Người ta
thấy vết nước mắt nơi gò má của ngài. Rồi tổ chức tụ tập, vào lúc mà
nền an ninh còn có vấn đề đối với đạo quân cách mạng vừa chân ướt
chân ráo vào Sài Gòn. Tiên tri xuất hiện khắp nơi: (Miền Nam mất
rồi) do sự khô khan nguội lạnh của giáo dân; tận thế sắp xảy ra với
sự có mặt của Cộng sản tại miền Nam. Đức Tổng Giám mục Sài Gòn
phải lên tiếng nhằm ngăn chận những làn sóng chuyện lạ đó.
Lời cảnh cáo đầu tiên không đem lại hậu quả mong muốn. Sự
chống đối núp đằng sau quyền tự do tôn giáo, đã tổ chức những cuộc
tập hợp cả ngàn người, chẳng hạn tại trung tâm Fatima Bình Triệu,
cùng ngoại ô Sài Gòn, cho là đã có phép lạ xảy ra ở đó. Ngày 5-8-
76, Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình lại phải ra một thông
cáo mới. Mưu đồ được che dậy khôn khéo, Đức Mẹ Fatima được
dùng làm dấu hiệu cho cuộc tập họp chống Cộng. Các lời kinh chứa
đựng những kiểu như: Gia đình chúng con thề quyết chống lại Cộng
sản vô thần (Tôn Nữ Vương gia đình).
Một dạng chống đối khác có vũ trang, đã được tổ chức với sự
tham gia của một số Linh mục và giáo dân. Một trong những nhóm
chính, tổ chức núp ẩn tại nhà thờ Vinh Sơn, đã bị cảnh sát phát hiện.

195
Một vị thừa sai bị mời rời khỏi Việt Nam, đã mô tả vụ này như một
chuyện hoàn toàn do Nhà nước dựng đứng lên. Ý kiến của ông không
ăn khớp với các sự kiện khách quan và những lời tuyên bố của nhân
vật tôn giáo.
Người ta đoán chắc rằng tổ chức chống đối có vũ trang này đã
được lên kế hoạch từ ngoài, theo một chiến dịch rộng lớn, nhằm phá
hoại và âm mưu lật đổ. Biết rằng năm 1954, sau khi quân đội Pháp
rút khỏi Bắc Việt, CIA đã để lại một mạng lưới nhân sự quan trọng,
nhằm phá hoại và mưu toan lật đổ (xem tài liệu Lầu Năm Góc). Dầu
sao, vụ Vinh Sơn là một vụ nghiêm trọng bởi nó núp đàng sau sự tự
do tín ngưỡng và nó đụng tới cả giới Công giáo, Linh mục cũng như
giáo dân.

5. CỘNG TÁC
Cuối tháng 4-1975, khi Phái đoàn Huynh đệ Việt Nam trở lại Pari
với bức thư chung của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền và lời
Đức cha tuyên bố ngày 9.4.1975, các phóng viên Pari thoạt tiên vẫn
nghi ngờ. Vì trong đó, sự lo lắng sợ hãi đã nhường cho sự vui mừng
tin tưởng đối với Chính phủ Cách mạng.
Một tháng sau, ngày 5 tháng 5, Đức cha Nguyễn Văn Bình, Tổng
Giám mục Sài Gòn, cũng dùng một giọng nói như thế, trong thư
chung ngài biểu lộ sự vui mừng về hòa bình đã được lập lại và kêu
gọi giáo dân tham gia tái thiết đất nước, dưới dự lãnh đạo của Chính
phủ Cách mạng lâm thời. Cộng tác với những người mình đã coi là
kẻ thù (xấu hơn cả ma quỉ) đó là cái gì rất mới trong Giáo hội Việt
Nam. Có người còn nghĩ rằng, đây chỉ là trò xu thời thuần túy của
hàng Giáo phẩm thôi. Một số khác lại không muốn làm theo hàng
Giáo phẩm. Đức Tổng Giám mục Sài Gòn đã phải nói rõ suy nghĩ
của mình, trong thư chung đề ngày 31-8, nhân dịp lễ mừng ngày Độc
Lập. Đây không còn là vấn đề cộng tác với những người cách mạng,
mà phải làm cách mạng. Trong thư chung của ngài nói về thống nhất

196
đất nước, lời lẽ còn tỏ ra thuyết phục hơn: “Sự thống nhất Đất Nước
có thể là cơ hội cho Đức Kitô đến giữa chúng ta”.
Trong dịp vui mừng phấn khởi đó của toàn dân, thống nhất đất
nước để tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đức cha Nguyễn Kim Điền, Tổng
giáo mục Huế, nhấn mạnh rằng: chủ nghĩa xã hội phù hợp với Tin
mừng. Để mừng ngày kỷ niệm đáng nhớ này, tại nhiều địa phận, các
Giám mục đã chỉ thị rằng ngày 23-11 phải là “ngày tạ ơn”.
Từ hôm đó, hàng Giáo phẩm đã không bỏ qua một dịp nào mà
không lặp lại sự tin tưởng vào chính sách cởi mở của chính phủ và
kêu gọi giáo dân, hãy cùng nhau nắm tay mà tiến trên con đường xã
hội chủ nghĩa, thực thi công bằng và chia sẻ. Nhiều Giám mục cũng
lợi dụng ngày lễ Giáng Sinh, để nhắc lại cho giáo dân Tin mừng của
Đức Kitô, là giải phóng những người bị áp bức, là xây dựng một xã
hội trong đó không còn cảnh người bóc lột người nữa, là dấn thân
phục vụ đồng bào để xây dựng Nước Chúa và một xã hội trần thế
ngày càng tốt đẹp.
“Tin mừng của Chúa là một động lực tuyệt hảo thúc đẩy giáo
dân sống theo tinh thần xã hội chủ nghĩa”, đó là ý lực của Sứ điệp
Năm mới của Đức Tổng Giám mục Sài Gòn.
Sống đời Kitô giáo, cùng cộng tác với anh em Cộng sản, thực
tiễn ngày càng hiện rõ và càng phong phú hơn đối với Giáo hội.
Trong thư mục vụ ngày 16-7-1976, Hội đồng Giám mục các giáo
phận Sài Gòn và Huế (trước kia là Miền Nam) còn lặp lại rằng, đức
tin chẳng phải là bức tường ngăn cách tín hữu với người không tín
ngưỡng, cũng chẳng phải là thứ thuốc phiện đưa người tín hữu lánh
xa thực tại trần gian và tìm cách đáp ứng mục tiêu của những con
người bảo thủ.
Trong dịp được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp kiến, Đức cha
Điền, Tổng giám mục Sài Gòn, cùng với Đức cha Nguyễn Ngọc
Quang, Giám mục Cần Thơ (22-9-1976) đã lần lượt xác định lại lòng

197
tin tưởng của mình đối với chính phủ và hứa làm cho giáo dân cộng
tác với toàn dân trong công cuộc xây dựng đất nước.

6. DẤN THÂN
Đọc qua các tài liệu của Giám mục, người ta nhận thấy cách mạng
tôn trọng sự tự do của tín hữu. Nhưng đời sống cách mạng có nhiều
đòi hỏi. Khi tiếp xúc với anh em cách mạng có nếp sống khắc khổ,
cuộc đời họ hy sinh cho lợi ích của nhân dân. Giáo hội thấy bắt buộc
phải đi vào một cuộc “cập nhật hóa” có chiều sâu, điều mà Công
đồng Vatican II hình như chưa thực hiện nổi. Việc chia sẻ không thể
thực hiện, nếu không hy sinh một phần tài sản mình và có khi đến cả
chính thân mình.
Chưa bao giờ tinh thần Tin mừng, tinh thần Công đồng Vatican
II lại thổi mạnh vào Giáo hội Việt Nam như hiện nay. Dĩ nhiên,
không thể chờ mong có phép lạ ở đây, hay là một cuộc đảo ngược
triệt để và bao trùm toàn thể Giáo hội trong thời gian chỉ một năm
rưỡi. Nhưng chặng đường đã đi tới là đã khá xa.
Bước dấn thân đầu tiên của Giáo hội xảy ra tháng 10, khi có quyết
định hiến tất cả các trường tư thục Công giáo để lo việc giáo dục
miễn phí cho tất cả con em đất nước. Nước Việt Nam bị tàn phá và
bần cùng hóa bởi chiến tranh, không thể xây dựng một nền kinh tế
độc lập, nếu mọi người không bắt tay vào. Giáo hội muốn đem Tin
mừng cho người nghèo, bắt đầu hiểu rằng mình phải sống cuộc sống
của nhân dân, nghĩa là sống khó nghèo, dùng mồ hôi đổi lấy cơm mà
ăn, chứ không phải cứ trông nhờ viện trợ và bố thí. Nhiều hợp tác xã
sản xuất đã được thành hình tại nhiều tu viện và chủng viện, thực
hành phương châm của thánh Biển Đức là “Tâm nguyện, Lực hành”.
Sau ngày giải phóng Sài Gòn, chính phủ cách mạng phải đương
đầu với một số vấn đề gay cấn: dân số quá đông tại các thành thị,
nhất là Sài Gòn có tới 70% người chưa có việc làm ổn định. Muốn

198
giải quyết vấn đề này, cũng như muốn khai khẩn các vùng đất đã bị
hoang hóa vì chiến tranh, chính phủ phải lập ra các vùng kinh tế mới.
Nhưng chính phủ lại không muốn cưỡng bức phân tán những thành
phần dân thất nghiệp đô thị hay là các vùng nông thôn. Trung thành
với sứ mạng lãnh đạo tinh thần, Đức Tổng giám mục Nguyễn Văn
Bình, chủ tịch Hội đồng Giám mục, miền Nam đã lên tiếng hô hào
hưởng ứng chương trình các vùng kinh tế mới.
Nói thì dễ, nhưng còn phải hành động. Để nêu gương cho giáo
dân, Đức cha Bình và 195 Linh mục, 136 nữ tu, đã lấy ba tháng, từ
tháng 5 đến tháng 7-1976 để cùng nhau đi “lao động xã hội chủ
nghĩa”, đào mương, đắp đê làm thủy lợi và dựng nhà cho dân chúng.
Việc dấn thân tham gia hành động cách mạng là một luồng gió mới
Thánh Linh thổi.
Cuối cùng rồi người Kitô hữu khám phá ra các giá trị “cách
mạng” của Tin Mừng.

7. NHỮNG TÍN HỮU CƠ SỞ


Chính các anh chị tín hữu cơ sở đã từ lâu chuẩn bị cho Giáo Hội,
kinh qua máu và nước mắt của họ, đi tới sự cởi mở này, đã có thể
làm những người quan sát viên hời hợt phải bỡ ngỡ. Quả vậy, từ các
tờ tạp chí xuất bản gần như "trái phép" tại Sài Gòn từ 1965 (Sống
Đạo, Đối Diện, Chọn), nhờ việc gây ý thức qua những thực tế xã hội
tàn bạo, các nhóm Thanh Lao Công, Thanh Sinh Công, các chiến sĩ
Kitô hữu đấu tranh cho hòa bình và của Ủy ban đòi thả tù chính trị,
đã tích cực tham gia đấu tranh chống sự can thiệp của nước ngoài và
chống cuộc thánh chiến chống Cộng. Người ta gọi họ là "cấp tiến"
và nhiều người trong họ đã "nếm mùi" nhà tù và tra tấn.
Khi tiếng kẻng cáo chung chế độ vang lên, trước cả khi lực lượng
giải phóng tiến vào, các nhóm trẻ này đã giải phóng các phường
Khánh Hội, Bàn Cờ và chiếm trụ sở của tổ chức Nghiệp đoàn Trần
Quốc Bửu, một cánh tay phải của CIA tại miền Nam.

199
Sau giải phóng, người ta gặp các nhóm phường xã, trong hầu hết
các ngành sinh hoạt mới của môi trường xã hội cách mạng thuộc địa
bàn dân cư. Có những hình thức suy nghĩ theo nhóm, những buổi
học tập chính trị trong nhóm, phường hoặc xã, đã hướng dẫn tinh
thần chiến sĩ Kitô giáo của họ đi vào việc dấn thân có tổ chức hơn.
Một trong những cuộc họp đáng nhắc lại, là cuộc hội thảo ngày
5-7-1975, đã có tới hơn 500 người tham dự. Ai cũng thấy một niềm
khát khao đào sâu thần học. Và chính đám trẻ đã tạo ra khí thế trao
đổi cho các sinh hoạt theo tổ.
“Chúng tôi yêu cầu các Linh mục và tu sĩ cho chúng tôi được học
hỏi thần học giải phóng, để có thể hiểu và sống Tin mừng (tổ 7A).
Thần học này trước đây đã bị hàng Giáo phẩm cấm đoán, cho là
nguy hại”.
“Mục tiêu của cách mạng là xây dựng một xã hội công bằng, đem
lại phúc lợi xã hội cho mọi người và tình thương nhau, với mục tiêu
của Tin mừng, không có gì là mâu thuẫn cả. Xã hội Việt Nam đang
tiến hành làm cách mạng: Giáo hội cũng phải đi vào đó bởi vì sống
làm cách mạng cũng là một cách sống Tin mừng, sống mãnh liệt Lời
Chúa (báo cáo tổ 1).”
Các buổi trao đổi về các khía cạnh trong đời sống Giáo hội cũng
rất cương quyết. “Từ trước tới nay, trong sinh hoạt xã hội, Giáo hội
chưa bao giờ đi tới tận gốc rễ của sự dữ. Trong thế hệ mới, các sinh
hoạt của Giáo hội đem lại hiệu quả, nếu biết trở thành sinh hoạt của
toàn dân, trong đó người giáo dân tham gia với mọi người khác để
lo hạnh phúc của đồng bào” (tổ 3).
“Các trường học phải thuộc về nhân dân, chứ không nên tiếp tục
là của riêng hội dòng này nọ” (tổ 4).
“Từ trước tới nay, các phong trào tông đồ giáo dân đã dẫm chân
lên các sinh hoạt xã hội và văn hóa. Ngày nay, các hoạt động đó đều
do các tổ chức cách mạng đảm trách. Phía chúng ta, chúng ta cần

200
đào sâu khía cạnh tâm linh, để giúp dân sống rộng rãi hơn tinh thần
Tin mừng” (tổ 2).
Tổ 5, bàn về thế giới công nhân, sôi nổi hơn. Có những chủ đề
đối chọi nhau được đưa ra tranh luận. Cuối cùng họ đi tới khẳng định
cơ bản: “Đấu tranh chống bạo lực và yêu chuộng hòa bình. Một khi
hiễu rõ nguyên tắc này rồi, thì sẽ thấy rằng đấu tranh giai cấp là
phù hợp với Tin mừng bình an Đức Kitô đã loan báo”.
Sau hết, tổ 9 đòi phải có “nam nữ bình đẳng trong đời sống Giáo
hội, cũng như đã có trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa”.
Những điều nghị quyết đó được toàn thể thông qua, tạo ra một
thứ hậu quả cơ sở cho cuộc dấn thân Kitô hữu. Nó không được nằm
nguyên trên giấy, bởi một cuộc cách mạng xã hội không thể tiến
hành bằng giấy tờ suông. Nhưng nó đánh dấu một đoạn tuyệt với
khái niệm ốc đảo Công giáo đắc thế và mở ra những giá trị mới, đoạn
tuyệt với một thứ thần học cũ cứng ngắc, để đưa vào một nền thần
học sinh động căn cứ trên những thực tế mới. Nó đã ảnh hưởng tới
Đức Tổng Giám mục Bình trong nhiều lần tỏ rõ lập trường sau đó.
Những người bảo thủ bực tức vì thấy trường Công giáo không
còn, bệnh viện, cô nhi viện, ngân hàng Công giáo không còn, nhưng
trong tất cả các phường, nhân dân Công giáo nghèo lại được hưởng
sự phục vụ của các nhà trẻ bình dân, những lớp học miễn phí, những
bệnh viện nhân dân, những phòng khám khu vực. Sự phân biệt cứ
trên tiền bạc cũng biến đi, nhường chỗ cho tình đoàn kết không phân
biệt lương giáo.
Ngay cả trước khi có lời kêu gọi của Đức Tổng Giám mục
Nguyễn Văn Bình, có các anh chị tín hữu thuộc mọi lứa tuổi, linh
mục, tu sĩ, đã đi lao động tại các vùng kinh tế mới, không mang một
nhãn hiệu Công giáo, mà lại hãnh diện vì thấy khi mình lao động
như thế là sống Tin mừng Đức Kitô cách chân thực.

201
Nhờ loại men mới đó, khối Công giáo từ lâu đã bị nhồi sọ bởi
một thứ giáo lý vô bổ chỉ gây hận thù, thì nay được từng bước cảnh
tỉnh: quả thế, hai chục năm hơn về trước, người ta đồng hóa đức tin
với chủ nghĩa chống Cộng, người ta đã khắc vào trí óc bà con rằng:
Công giáo không thể sống chung với Cộng sản, rằng cộng tác với họ
là rời bỏ cộng đoàn Giáo hội. Bây giờ, người ta thấy Công giáo có
mặt khắp nơi: tại Quốc hội, tại Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc,
trong các Ủy ban Tỉnh, quận huyện phường xã.
Có thể đếm được hàng ngàn ca "hoán cải" cách kỳ diệu. Như linh
mục Nguyễn Văn Bình, bị bộ đội cách mạng bắt năm 1972 trong trận
đánh chiếm Quảng Trị, ngày nay đang ở Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc. Như chị Nguyễn Thị Lan từng đối nghịch gay gắt với
những người "cấp tiến" nay lại đi công tác tại nông trường xã hội
chủ nghĩa Củ Chi. Có người Công giáo nọ kia là "tư sản", bây giờ
lại đang làm công tác trong các ủy ban phường xã...
Chủ nghĩa xã hội không còn là con vật dị hợm đối với Công giáo
nữa. Dĩ nhiên, lúc này, chưa phải chống cự. Những anh chị tín hữu
dấn thân đã học được cách mạng bài học quí giá: phải kiên trì.
“Từ ngày giải phóng, người Kitô hữu sống một đời sống có tính
Tin mừng hơn”, đó là ý chính trong bản báo cáo Đức cha Bùi Tuần
đọc trước một cuộc họp Linh mục địa phận mình tại Long Xuyên,
nhân dịp kỷ niệm năm thứ nhất ngày Giải phóng. Có thể nói rằng các
địa phận khác cũng suy nghĩ tương tự. Đó là kết quả đầu tiên tích
cực, mà cả những người thủ cựu cũng phải công nhận. Từ những hoa
trái đầu mùa đó, Giáo hội khám phá ra cuộc sống mới của mình.

202
KẾT LUẬN

Như tất cả các Giáo hội Đức Kitô khắp các nước, Giáo hội Việt
Nam không có sự đồng dạng. Có những xu hướng khác nhau đụng
nhau, mà không sứt mẻ gì. Việc cập nhật hóa do Vatican II đề xướng,
lâu nay cứ ầm ĩ, ngày nay gặp được trong Cách mạng một địa bàn
phong phú. Có những sức níu kéo tiền Công đồng, khi thì thụ động,
lúc lại hung hăng, chống lại lời kêu gọi lặp lại của hàng Giáo phẩm.
Nhờ họ, Giáo hội nhất quyết sống chan hòa với nhân dân trên con
đường xã hội chủ nghĩa.
Còn quá sớm để rút ra kết quả. Nhưng Giáo hội miền Nam nhất
định không làm một Giáo hội thầm lặng nhưng là một Giáo hội được
sai đi, Giáo hội đi loan báo Tin mừng trong hoàn cảnh lịch sử hiện
nay của đất nước chúng ta. Cách mạng không ngược lại với sứ mạng
đó, miễn là Giáo hội biết dấn thân phục vụ con người, theo gương
Chúa Kitô.

203
HƯỚNG NHÌN VỀ TƯƠNG LAI

Ngày 31 tháng Giêng 1974.


Một năm sau chiến tranh, dầu đã có hiệp định, hôm đó tại sân bay
Sài Gòn, người ta nghênh đón tượng Đức Mẹ Fatima, với cả một
biển người. Quần chúng hoan hô vang dậy. Lễ rước kiệu trọng thể
vào "Thủ đô", đô trưởng đem dâng chìa khóa vàng của Thành phố
cho Mẹ. Rồi là cuộc du hành khắp cả miền, “trong vòng ba đêm
ngày, vị Sứ Giả Hòa Bình rảo đi khắp xứ, sử dụng mọi thứ phương
tiện di chuyển: máy bay, trực thăng, xe thiết giáp phủ hoa, xe du lịch,
xe zip nhà binh và hai lần, dùng cả xe Hồng thập tự - để có thể chen
qua đám đông và đến một trạm khác cho đúng giờ hẹn... Điểm cao
là tại "Thủ đô" sáng chủ nhật ngày 3.2. Tất cả các đường phố dẫn
về lễ đài trung tâm dựng sau nhà thờ chính tòa, cũng như tất cả các
vườn hoa, quảng trường lân cận, đều đặc đen người ta, ít ra phải tới
con số 300.000 người, thật chưa từng có!”
“Lần lượt Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và phu nhân, ông chủ
tịch thượng viện Trần Văn Lắm, đức Khâm sứ Hăngri Lơmetơrơ, các
chức sắc cao các tôn giáo, đến cầu nguyện và dâng lễ trước tượng
Đức Mẹ. Chung quanh tượng đài Đức Mẹ, có 4 lá cờ lớn của 4 tôn
giáo bay phấp phới. Ở hàng đầu, ngoài các nhân vật kể trên, người
ta còn thấy các vị trong đoàn ngoại giao, các bộ trưởng và dân biểu,
các tướng tá và trí thức, các lãnh tụ đảng và công chức cao cấp, tóm
lại cả thành phố Sài Gòn của ngày Đại lễ. Dinh Độc lập rực sáng
và rực cờ. Một biễu ngữ to lớn được treo trước mặt tiền, với khẩu
hiệu tóm lại tất cả ý nghĩa: xin Đức Mẹ ban Hòa bình cho dân tộc
Việt Nam.
“Một đám người đông như thế, thật là phép lạ!”
Đoạn trên trích từ một bài phóng sự do một người Công giáo Việt
Nam thực hiện, chiếu ra một tia sáng sống sượng, đáng lo ngại, về
204
một Giáo hội Việt Nam đang đứng trước những tình hình hết sức bi
đát, hết sức căng thẳng của thế kỷ, một tia sáng càng sống sượng,
nếu đem so sánh những đoạn trên đây với một bức thư, của vị Tổng
quản Hà Nội nói về những diễn biến xảy ra tại ngoài đó năm 1955:
“Cuộc rước kiệu Santi... đã được tiến hành qua các đường phố Hà
Nội, năm nay cũng như các năm trước; bởi vì "xưa nay" cuộc rước
kiệu Santi luôn luôn ra đường mỗi năm. Tuy nhiên năm nay có cái
khác là cuộc rước đã rút ngắn đi một nửa. Không thể giữ đúng lịch
trình ngày giờ, vì có những đòi hỏi không rõ ràng, vào phút chót và
từ hôm đó, do những biện pháp có tính quấy nhiễu, chúng tôi đã
nhận thấy tốt hơn là không rước kiệu ra đường nữa”.
Những lời lẽ đó cho thấy, khuôn mặt thật trước 1975 của Giáo
hội Công giáo Việt Nam - còn tạm thời bị chia cắt - một Giáo hội
kiểu trung cổ chìm lỉm vào giữa các ngặt nghèo của thế kỷ XX, một
Giáo hội còn tin vào hiệu quả bùa chú của các cuộc rước nhằm giải
quyết vấn đề của đức tin, một Giáo hội đã từng bị cấu xé bởi 30 năm
chiến tranh mà cứ đi tìm giải pháp hòa bình nơi những việc đạo đức
và các cuộc biểu diễn hình thức tôn giáo. Đúng là một kiểu chạy trốn
trước những sự thật nhãn tiền như thế, đó là một cách biến Dân Chúa
thành một bộ xương khô, là cách từ chối các điều phát hiện to tướng
của Công đồng Vatican II về "Giáo hội trong thế giới nay".
Từ 30 năm qua, Việt Nam là một đấu trường - chẳng phải giữa
hai hệ tư tưởng tư bản chủ nghĩa và Mác-xit, như người ta thường
nói qua giản đơn và hàm hồ - nhưng là giữa một dân tộc chậm tiến,
bị trị đứng lên giành lại chủ quyền và độc lập của mình với giá máu
đổ ra và các lực lượng đế quốc, trước là Pháp sau là Mỹ, đã muốn áp
đặt ý muốn của mình bằng vũ lực. Cuộc chiến đấu này do các lãnh
tụ Mác-xít lãnh đạo. Về phía kia, đế quốc Mỹ đã sử dụng tiền bạc
mua chuộc số người cơ hội xu thời, hỗ trợ cho ý đồ của chúng. Trong
cuộc chiến đấu này, người ta trách Giáo hội đã không đứng đúng vị
trí của mình. Quả vậy, trong cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc,

205
người ta đã không những nhận thấy sự vắng mặt của Giáo hội ở phía
kháng chiến, nhưng lại thấy sự có mặt tích cực của Giáo hội bên cạnh
kẻ thù của dân tộc. Trước lời trách đó, có người trả lời rằng Giáo hội
đã không coi cuộc chiến tranh này như cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc Việt Nam, nhưng như một cuộc chiến tranh ý thức hệ, giữa
hai khối "tư bản và cộng sản".
Dầu có chấp nhận giả thuyết đó - như yếu tố để tranh luận - người
ta không hiểu Giáo hội dựa trên cơ sở thần học và Tin mừng nào, để
tự gieo mình vào cánh tay của chủ nghĩa tư bản thay vì làm con
đường cứu độ, theo chức năng của mình, sử dụng những phương tiện
để hòa giải, chẳng phải hai hệ tư tưởng, mà là giữa những người anh
em cùng một dân tộc. Chúng tôi hoàn toàn không muốn xét đoán,
bởi vì lịch sử, nếu không phải là Chúa, mà là quan tòa, không chỉ
nhìn thấu các ý định, mà còn xem xét chính các việc làm. Thái độ
của Giáo hội chính thức miền Bắc cũng như miền Nam Việt Nam đã
xuất phát từ chủ nghĩa chống Cộng được đưa lên hàng tín điều, như
thể Bài Giảng Trên Núi đã bắt đầu với những tiếng: “Chủ nghĩa Cộng
sản là kẻ thù số một của các môn đệ Đức Kitô”. Nguyên lý "không
ai bàn cãi và không thể tranh luận” đó xúi giục Giáo hội chấp nhận
cộng tác với bất kỳ chính quyền chống cộng nào, hỗ trợ tiếp tay cho
nó cách mạnh mẽ và hữu hiệu và hô hào cuộc thánh chiến. Điều đó
chống lại nhân dân mình! Chống lại ước nguyện chính đáng của
người dân Việt Nam chỉ mong cho được tự do về chính trị, kinh tế,
văn hóa.
Do đâu mà Giáo hội "với sứ mạng và bản tính không bị trói buộc
vào một chế độ chính trị, kinh tế hay xã hội nào" lại để mình sa vào
cuộc thánh chiến chống Cộng đầy máu như thế? Tại sao Giáo hội có
một Đấng sáng lập và thủ lãnh nhạy cảm đến thế trước những cảnh
khốn khổ của những người bị áp bức, bị bóc lột, lại đang tâm đứng
về phía những người áp bức, bóc lột trong thực tế lịch sử của Việt
Nam? Kẻ thì nói là do thiếu suy nghĩ về thần học, kẻ khác lại nghĩ

206
rằng đó là do thiếu bồi dưỡng cho những người phụ trách lãnh đạo.
Người thì cho rằng tại Giáo hội ham của và hiếu thắng, người khác
lại nghĩ rằng là di sản nặng nề của lịch sử.
Những người phê phán, dầu là Kitô hữu hay người ngoài, đều đã
nhắc lại cho Giáo hội Việt Nam rằng, mặc dầu xét về dân số thì
không bao nhiêu - chỉ 10% là cùng - nhưng Giáo hội lại chiếm giữ
các đặc quyền đặc lợi tương đương với, nếu không phải là, quốc
giáo. Rằng theo những kinh nghiệm sống của lịch sử, những gì là
đặc lợi trần thế ban cho Giáo hội không phải lúc nào cũng hữu ích
cho việc loan Tin mừng đúng đắn, và khi mất đi các đặc ân đó thì
cũng không nhất thiết là ngăn cản việc triển nở đức tin. Rằng cuộc
Cách mạng Pháp, khi tước đoạt của Giáo hội địa phương nhiều tài
sản và đặc ân, đã giúp cho Giáo hội nhiều, trong việc canh tân đời
sống Kitô giáo đích thực và trong nỗ lực xóa bỏ những tệ lạm. Rằng
trong những cuộc chiến đấu của các nước thế giới thứ ba giành lại
độc lập từ tay các đế quốc thực dân cũ và mới, thì những hy sinh tự
nguyện hoặc bắt buộc của cá nhân và tập thể, những sự giới hạn tự
do vì lời ích chung, thường hữu ích hơn là những ân huệ ban bố cách
giả nhân giả nghĩa bởi các thế lực đô hộ đó dưới lớp vỏ "giúp đỡ"
Giáo hội hay là giúp đỡ những "người anh em túng thiếu". Rằng
khuôn mặt của Giáo hội Việt Nam bị bôi đen bởi quá khứ thuộc địa,
không thể nào trở lại tình trạng trong sáng tinh tuyền như chính Đức
Kitô đã muốn, nếu không chịu phấn đấu "cập nhật hóa" theo tinh
thần Vatican II.
Theo ý kiến của tất cả anh chị em Công giáo miền Bắc cũng như
miền Nam, thì nỗ lực phấn đấu số một, phải là việc "Việt Nam hóa"
Giáo hội. Chẳng hạn linh mục Nguyễn Huy Lịch, một giáo sĩ trí thức
miền Nam, đã viết rằng: “Do chính các tình huống khác nhau và liên
hệ lịch sử, có thể một thứ hoạt động thừa sai nào đó đã làm cho
chúng ta bị bật gốc văn hóa, nghĩa là có những người mà nền văn
hóa truyền thống bản xứ đã bị bắt hủy hoại đi, do các yếu tố văn hóa

207
ngoại lai đem vào (ở đây là nền văn hóa Tây Âu), khiến cho một số
người trong chúng ta đã trở thành "Rôma hơn cả người Rôma",
Công giáo hơn cả Giáo hoàng, thù nghịch với mọi nỗ lực bình
thường hóa Kitô giáo và cả mọi cố gắng hội nhập đức tin vào văn
hóa dân tộc. Chúng ta giữ lại bằng mọi giá một số tập tục lấy từ thói
quen của người Tây Âu và chúng tôi từ chối cả việc Việt Nam hóa
trong những phạm vi có phép và được hàng giáo phẩm khuyến khích.
Thế rồi phải kết luận rằng chúng ta không thể thay đổi sao? Không,
nếu chúng ta ý thức tình trạng này và nếu chấp nhận và biết tôn
trọng những gì kẻ khác đang thí nghiệm để vượt qua nhược điểm
kia".
Việc Việt Nam hóa cho phép Giáo hội liên đới được với nhân
dân, với văn hóa và lịch sử dân tộc. Công việc này dĩ nhiên là khó
khăn, nếu quan niệm rằng Giáo hội là một dị vật do người nước ngoài
nhập vào và chỉ sống được dưới bóng người nước ngoài. Trái lại,
việc làm sẽ vô cùng dễ dàng hơn, nếu người ta chịu theo cách Công
đồng Vaticăng định nghĩa Giáo hội là "Dân Thiên Chúa trên đường
đi về Nhà Cha". Như vậy, các chi thể của cộng đoàn Giáo hội sẽ
đồng thời là chi thể của hội đồng dân tộc. Cộng đoàn Giáo hội Việt
Nam phải là thành phần của nhân dân, thay vì làm một lực lượng ở
ngoài hay ở trên nhân dân. Trong sự hiệp thông với Giáo hội toàn
cầu và với người kế vị thánh Phêrô, Giáo hội Việt Nam phải chia sẻ,
không phải bằng lời nói suông và những bài tuyên bố nguyên tắc,
nhưng bằng việc dấn thân thật sự, chia sẻ những khổ đau và những
ước nguyện của nhân dân Việt Nam, từ bao đời đã chiến đấu để được
sống tự do và xứng đáng trên mảnh đất mình làm chủ. Hình thành từ
những con người có xương có thịt, Giáo hội đã và luôn vẫn có thể
sai phạm trong nhiều lĩnh vực khác nhau, Vatican, hiện thân tân thời
của các nước Tòa thánh xưa, cũng không thoát khỏi tình cảnh này.
Đã hẳn, Giáo hội Việt Nam, trung thành theo các huấn giáo của
Đức Kitô đã chọn Thiên Chúa, ít ra trên nguyên tắc. Tuy nhiên,

208
người ta có quyền đặt câu hỏi: liệu Giáo hội có thực sự chọn Thiên
Chúa hay chăng.
Thiên Chúa lẽ nào đứng chung với đế quốc đang chà đạp quyền
sống của những dân tộc nhỏ bé, kể cả những lúc đế quốc vung vít
đưa tên Chúa ra? Thiên Chúa lẽ nào đứng về phía thiểu số những
người giàu có đang bóc lột thậm tệ đại đa số nhân loại nghèo đói, rồi
thỉnh thoảng cứ quẳng xuống khỏi bàn tiệc của mình những mẩu vụn
cho các nước chậm phát triển?
Thiên Chúa lẽ nào đứng chung với các công ty liên quốc đang áp
đặt luật lệ của mình cho đại dương bao la nhân loại đói nghèo, khốn
cùng? Thiên Chúa lẽ nào đứng về phe những chế độ cảnh sát trị thối
nát, chỉ bênh vực bọn quyền thế và tra tấn dân nghèo, thấp cổ bé
họng?
Thiên Chúa lẽ nào lại vui thích ở giữa bao cảnh bất công xã hội,
những hình thức người bóc lột người, chạy theo lợi nhuận, tiền bạc?
Thiên Chúa của người Kitô hữu đã sinh ra làm người để cứu độ
dân nghèo, giải thoát những kẻ bị áp bức, tạo dựng một cộng đồng
thế giới chia sẻ giai cấp, không còn đặc quyền đặc lợi, không còn
cảnh người thống trị con người, dân tộc này thống trị dân tộc khác,
Thiên Chúa đó có thể chấp nhận rằng Giáo hội mình là Giáo hội tích
trữ biết bao tài sản lớn lao mà lại từ chối việc chia sẻ, chỉ ăn tiệc tại
nhà người giàu có mạnh thế của trần gian chăng?
Tại Việt Nam, Giáo hội không thể tìm gặp Chúa ngoài dân tộc
Việt Nam từng chiến đấu những ba chục năm trời, chống lại sự thống
trị ngoại bang, mặc dầu những người ngoại bang đó là Kitô hữu,
chống lại sự khống chế của ngoại bang về kinh tế và văn hóa của dân
tộc - cho dầu nền văn hóa đó không mang nhãn hiệu Kitô giáo, nhưng
nó chống lại những sự bất công của một chế độ phong kiến lỗi thời
và đầy áp bức. Giờ lịch sử đã điểm, đất nước đã độc lập, Giáo hội

209
gặp được cơ hội để sống theo Tin mừng, nhờ việc thanh luyện khỏi
những gì của một quá khứ không mấy vinh dự.
Nhằm thực hiện một cuộc trở về với dân tộc, Giáo hội phải tự
mình từ bỏ tất cả những gì là đặc quyền đặc lợi, đã giành được nhờ
liên hệ với các thế lực thực dân: hoàn toàn trả lại cho nhân dân những
tài sản và của cải, biết mình không thể một lúc làm tôi Thiên Chúa
và Mammon; trao lại cho nhân dân tất cả những cơ sở đại học, trung
học, nhà thương, cô nhi viện, mà mình đã từng thiết lập ngày xưa,
phải đặt mình vào vị trí phục vụ nhân dân trong tinh thần khiêm tốn,
thành thật và vô điều kiện (vì Đức Kitô đã đến phục vụ, chứ không
phải để được hầu hạ); cộng tác với niềm vui trong lòng trong trí với
công cuộc xây dựng lớn lao và khó khăn này, thanh toán cho hết
những tệ nạn do thực dân để lại, băng bó các vết thương chiến tranh,
tái thiết đất nước và xây dựng một xã hội mới.

MUỐN THẬT SỰ LÀ VIỆT NAM:


Giáo hội cần cởi bỏ hết những biểu thức tôn giáo và văn hóa phát
xuất từ một não trạng ngoại lai và Tây phương, sáng tạo ra một nền
thần học riêng của mình căn cứ trên cuộc sống và văn hóa của Dân
tộc và đồng thời, canh tân theo tinh thần Vatican II, hầu có thể đưa
chứng từ về một ĐẤNG KITÔ GIẢI PHÓNG VÀ HÒA GIẢI.

Roma 19-5-1975
Trần Tam Tỉnh

210
PHỤ LỤC

ĐỒNG BÀO CÔNG GIÁO VIỆT NAM


VỚI CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

Hồ Khang

Cách mạng tháng Tám 1945 là một sự kiện lịch sử đặc biệt, có
sức lan tỏa, có tầm ảnh hưởng sâu rộng vượt ra khỏi biên giới quốc
gia dân tộc. Đi đến thắng lợi ấy, nhân dân Việt Nam đã phải trải qua
những chặng đường vô cùng gian khó với bao hy sinh xương máu.
Vượt lên từ kiếp đoạ đày, áp bức ngót trăm năm, vùng dậy làm cuộc
đổi đời vĩ đại, nhân dân Việt Nam đã viết nên một trang sử mới –
trang sử của những thay đổi lớn lao trên nền tảng đại đoàn kết và chủ
nghĩa dân tộc chân chính.
1- Ngay từ khi ra đời, với mục tiêu giành độc lập tự do cho dân
tộc, ĐCSVN luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết. Đặt quyền lợi
dân tộc cao hơn hết thảy, ĐCSVN chủ trương thu phục, gắn kết tất
cả đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái,
không phân biệt tôn giáo cũng như xu hướng chính trị, đặng thực
hiện cuộc đấu tranh sinh tồn, vì các quyền cơ bản của con người và
dân tộc. Trong quá trình thực hiện chiến lược đại đoàn kết, dù các
vấn đề tôn giáo ít được thể hiện một cách cụ thể và thường
xuyên trong các văn kiện, nghị quyết, song nắm vững tinh thần
“đoàn kết là sức mạnh”, đoàn kết tôn giáo luôn hiện hữu trong các
chương trình hành động của ĐCSVN[1]. Chỉ thị thành lập Hội phản
đế Đồng minh (18-11-1930) tuyên bố: “Đảm bảo tự do tín ngưỡng
của quần chúng, đập tan luận điệu phản tuyên truyền cộng sản là vô
Chính phủ, vô gia đình, vô tôn giáo”[2].
Năm 1941, chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền về tay
nhân dân, Mặt trận Việt Minh được thành lập. Với chủ trương “liên
211
hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu
nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính
trị”[3], Mặt trận Việt Minh là đỉnh cao của chiến lược đại đoàn kết.
Coi quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy, Việt Minh kêu gọi quốc dân
đồng bào "bắt tay nhau chặt chẽ, không phân biệt trai, gái, già, trẻ,
lương, giáo, giàu, nghèo"[4] mưu cuộc dân tộc giải phóng, vì “chỉ
có đoàn kết, phấn đấu, nước ta mới được độc lập” và Việt Minh là
cơ sở cho sự đoàn kết ấy. Mặt trận Việt Minh sẵn sàng giơ tay đón
tiếp mọi cá nhân, đoàn thể, mọi tôn giáo, tín ngưỡng, không cứ theo
chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia, “miễn thành thực muốn đánh đuổi
Nhật, Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do và độc lập”[5]. Chủ
trương đoàn kết, tập hợp lực lượng rộng rãi, đông đảo của Mặt trận
Việt Minh đã động viên công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên,
phụ nữ, tư sản, địa chủ, công chức, đồng bào theo đạo, các đảng
phái... kết thành đội ngũ trong thời khắc quyết định vận mệnh quốc
gia dân tộc. Như thế, trước năm 1945, đặt trong mối quan hệ với
mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân,
“những nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đã có được những
quan điểm đúng đắn vượt trội về tôn giáo, điều mà trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế lúc đó không phải Đảng Cộng sản
nào cũng có được”[6]. Đặt vấn đề tôn giáo trong khuôn khổ đoàn kết
dân tộc, cứu nước giành độc lập, những người cộng sản Việt Nam
đã có cái nhìn mới mẻ về đồng bào có đạo nói chung, đồng bào Công
giáo nói riêng. Dẹp bỏ mọi định kiến hẹp hòi, nắm bắt tinh thần, cốt
cách, truyền thống dân tộc, những người Cộng sản Việt Nam cổ vũ
đồng bào Công giáo vượt qua tự ti, mặc cảm, chia rẽ, tham gia vào
quá trình vận động tiến tới đấu tranh giành chính quyền.
2- Lựa chọn đồng hành cùng dân tộc, trước sự xâm lăng của
Pháp-Nhật, người Công giáo Việt Nam “bắt đầu dám nói tới lòng
yêu nước, nhưng theo cách kín đáo tại các chủng viện. Một vài linh
mục và giáo dân tỏ ra thiện cảm với các phong trào cách mạng”[7].
Không cam tâm ngồi nhìn đất nước bị giày xéo, nhiều phong trào

212
yêu nước của người công giáo xuất hiện, một số tổ chức kháng chiến
của người Công giáo Việt Nam được thành lập, sau đó tự nguyện
đứng vào hàng ngũ của Mặt trận Việt Minh. Ở Ninh Bình, thậm chí
chưa hề được Việt Minh vận động, “một nhóm thanh niên Công giáo
đi vào rừng kháng chiến, đánh Pháp đuổi Nhật”[8]. Trong các tổ chức
Công giáo yêu nước trước ngày khởi nghĩa, tổ chức Đoàn Công giáo
cứu quốc Việt Nam của Trần Công Chính ở Hà Nội đã hoạt động hết
sức tích cực. Tổ chức này đứng trong Mặt trận Việt Minh, thu hút
đông đảo người Công giáo tham gia đánh Nhật, đuổi Pháp. Một
nhóm Công giáo khác tại Quỳnh Lưu (chỉ huy là Nguyễn Văn Mộc)
đã đứng ra vũ trang và tổ chức chiến khu, dùng chiến thuật du kích
tấn công các đồn bốt Pháp, Nhật[9]. Một nhóm thanh niên Công giáo
Phát Diệm tổ chức kháng chiến dưới danh nghĩa Công giáo cứu
quốc, chủ trương chống thực dân Pháp và phát xít Nhật – những thế
lực đang áp bức, "đè đầu, cưỡi cổ" người dân Việt Nam. Trước ngày
khởi nghĩa, nhóm thanh niên Công giáo Phát Diệm hoạt động bí mật
trong vùng Rịa (Nho Quan, Ninh Bình) và chỉ trong một thời gian
ngắn đã gây được thanh thế to lớn. Nhóm đã liên lạc với Việt Minh,
cử người lên Sơn La lấy bản Điều lệ Mặt trận Việt Minh; đồng thời,
bắt liên lạc với nhóm Nguyễn Văn Mộc (Quỳnh Lưu), "giao thân và
thường hỗ trợ nhau trong những cuộc phục kích Nhật, Pháp”[10]. Hay
như Linh mục Nguyễn Văn Luận đã dẫn dắt họ đạo Vĩnh Lạc (Mỹ
Đức, Hà Tây) theo cách mạng và chỉ huy cuộc đánh chiếm huyện
Mỹ Đức trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945. Cụ Ngô Tử Hạ -
một giáo dân yêu nước ở Hà Nội, sở hữu nhà in Ngô Tử Hạ - ủng hộ
Việt Minh hàng tạ chữ chì để in truyền đơn cho Cách mạng tháng
Tám.
Vào những ngày mùa Thu năm 1945, tại các xứ đạo Thái Bình,
Hưng Yên, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Quảng Bình…, những
tin tức về cách mạng, về khởi nghĩa dồn dập đổ về, tạo nên sự hứng
khởi chưa từng có. Những tờ truyền đơn của Việt Minh với các từ
ngữ mới mẻ như “cách mạng”, “tự do”, “giải phóng”, “độc lập”... đã

213
trở nên quen thuộc, có sức cuốn hút kỳ lạ. Giáo dân các xứ Văn Hải,
Tân Khẩu, Cồn Thoi (5-1945) vùng lên, tiến về Sở quản lý đòi giảm
tô, xóa nợ lãi, đòi chia ruộng đất. Những thắng lợi ban đầu của các
cuộc đấu tranh càng củng cố vững chắc thêm niềm tin của giáo dân
vào Mặt trận Việt Minh. Nhiều giáo xứ như có hội, giáo dân tấp nập
gia nhập Mặt trận, hăng hái chuẩn bị tham gia khởi nghĩa giành chính
quyền. Việt Minh đối với bà con công giáo thật đơn giản, gần gũi:
Việt Minh lãnh đạo người nghèo nổi dậy diệt phát xít Nhật, phá kho
thóc Nhật cứu đói. Giữa hai lựa chọn: Ngồi đợi cái đói cướp đi sinh
mạng và theo Việt Minh cướp thóc lúa của Nhật, như đa phần người
nghèo Việt Nam lúc đó, người công giáo Việt Nam lựa chọn đứng
cùng Việt Minh.
Ở Nam Bộ, vốn có truyền thống yêu nước, những năm 1941-
1945, phong trào đánh Nhật đuổi Pháp của người Công giáo lan
rộng. Tổ chức Việt Nam Quốc gia tiến hành của đồng bào công giáo
ra đời có mục đích lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật, giành độc
lập cho dân tộc đã cuốn hút hàng nghìn thanh niên Công giáo tham
gia, trở thành một lực lượng yêu nước sâu rộng, có ảnh hưởng và uy
tín trong cộng đồng. Bên cạnh đó, Đoàn Thanh niên tiền phong tập
hợp nhiều người Công giáo yêu nước hoạt động khá hùng hậu trước
ngày Tổng khởi nghĩa, trở thành nhân tố tích cực, thúc đẩy sự ra đời
của đoàn Công giáo cứu quốc ở Nam Bộ.
Tháng 8-1945, khi thời cơ Tổng khởi nghĩa đã chín muồi, trong
đêm trước Tổng khởi nghĩa, tại căn cứ địa Việt Bắc, trong 60 đại
biểu của Quốc dân Đại hội Tân Trào đại diện cho các đảng phái
chính trị, các đoàn thể cứu quốc từ Bắc, Trung, Nam có đại biểu các
dân tộc và tôn giáo[11]. Trong không khí sục sôi, cháy bỏng “dù phải
đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được
độc lập”[12], khát khao độc lập tự do mãnh liệt đã liên kết 60 con
người với những thành phần xuất thân, niềm tin tín ngưỡng khác
nhau thành một khối thống nhất, đại diện cho ý chí quyết không chịu

214
làm nô lệ của toàn thể dân tộc. Giây phút thiêng liêng ấy, tinh thần
dân tộc, tình yêu đất nước, quê hương - một giá trị phổ quát vốn đã
được hình thành từ ngàn năm trước khi đạo Công giáo du nhập vào
Việt Nam lúc này tỏa bóng xuống tôn giáo, kết dính một cách bền
chặt Kito hữu với những đạo hữu và không đạo hữu.
Trong những ngày tháng cách mạng sục sôi khí thế, trừ một số ít
người công giáo có thái độ lo âu, e ngại, còn đa phần người Công
giáo Việt Nam đã nhanh chóng hăm hở hòa vào dòng thác cách
mạng, hân hoan đóng góp vào sự đổi thay rung trời lở đất có một
không hai của đất nước. Đồng bào công giáo thực hiện trách nhiệm
của người Việt Nam yêu nước, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”,
người nào việc nấy, cùng chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa. Ngày 16,
17-8-1945, thanh niên Công giáo miệt mài in truyền đơn, viết khẩu
hiệu, may cờ đỏ sao vàng. Một nhóm thanh niên Công giáo khác vào
nhà in Tin Mới sắp chữ, in những tờ báo, tờ tin tường thuật lại các
cuộc biểu tình chống Nhật. Nhiều đội tuyên truyền xung phong Công
giáo táo bạo hoạt động giữa ban ngày ngay ở những vị trí đông người
qua lại (trước Nhà thờ Lớn, trong khu Ngõ Huyện, trên đường Phủ
Doãn, trước cửa hiệu sách Têrêxa, góc phố Lý Quốc Sư...) Tiếng
súng của Việt Minh tiêu diệt lính Nhật và Việt gian nổ giòn trên các
phố phường càng khích lệ giáo dân Hà Nội thêm hăng say đóng góp.
Ngày 19-8-1945, đông đảo đồng bào Công giáo tham gia mít tinh
giành chính quyền, chiếm Phủ khâm sai, trại lính Bảo An, Ty Liêm
phóng, Sở Cảnh sát…. Đêm 20-8-1945, những lớp người tiên phong
của phong trào Công giáo cứu quốc tiến hành cướp chính quyền ở
Kim Sơn (Phát Diệm), Yên Khánh, Nho Quan, Thường Tín..., thiết
lập tại đó chế độ hành chính và quân sự. Ngày 21-8-1945, hơn 2.000
người, hầu hết là thanh niên; trong đó đa số là thanh niên theo đạo
Thiên Chúa tập trung ở thị trấn Phát Diệm tổ chức biểu tình ủng hộ
Việt Minh, hô vang các khẩu hiệu: “Việt Minh độc lập muôn năm!”,
“ủng hộ Mặt trận Việt Minh”[13]. Ở Sài Gòn, từ ngày 25 đến ngày 30

215
tháng 8-1945, đồng bào Công giáo tham gia các cuộc diễu hành biểu
dương ý chí, ủng hộ nền độc lập, ủng hộ tự chủ và thống nhất của
Tổ quốc, ủng hộ Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. Trong các
cuộc tuần hành, ngoài đông giáo dân còn có sự góp mặt của
nhiều chức sắc Công giáo.
Ngày 30-8-1945, đồng bào Công giáo từ khắp các giáo xứ thuộc
Hà Nội và vùng lân cận đã có mặt trước Nhà thờ Lớn tổ chức biểu
tình hoan nghênh nền độc lập và chế độ dân chủ mới. Trong buổi mít
tinh có sự hiện diện của đại diện Chính phủ Cách mạng – ông
Nguyễn Văn Đồng. Thay mặt Việt Minh, Nguyễn Văn Đồng đã chào
mừng đồng bào Công giáo, đồng tình với đề nghị Giáo hoàng chúc
phước lành và ủng hộ nền độc lập của Việt Nam. Với tư cách Chủ
tịch Công giáo Cứu quốc, người thanh niên Công giáo Trần Công
Chính phát biểu, truyền cảm hứng cho đồng bào công giáo, kêu gọi
giáo dân nhập cuộc, đem tài sức cống hiến cho đất nước.
Tại giáo phận Bùi Chu, Giám mục Hồ Ngọc Cẩn cho phát hành
tờ bán nguyệt san Đa Minh nhấn mạnh yêu cầu “đoàn kết toàn thể
dân chúng Việt Nam thành một khối duy nhất để kiến thiết Tổ quốc
và chống giặc ngoại xâm”[14]. Nguyệt san Đa Minh khẳng định:
“Người Công giáo chúng ta cũng có bổn phận yêu Tổ quốc không
những vì Tổ quốc, lại vì Thiên Chúa của chúng ta nữa”[15] và “hai
triệu người Công giáo chúng ta, vốn từ trong thâm tâm, đoàn kết với
20 triệu người ngoại đạo”[16].
Vào ngày lễ trọng đại của dân tộc – ngày lễ độc lập lịch sử (2-9-
1945), trong cuộc biểu dương lực lượng của 50 vạn quần chúng nhân
dân, có sự tham gia của đông đảo đồng bào công giáo, các sinh viên
Đại Chủng viện Xuân Bích và nhiều chức sắc thuộc giáo phận Hà
Nội, Bắc Ninh. Cuộc biểu dương lực lượng trong ngày lễ độc lập thể
hiện một cách tập trung và cô đọng nhất tinh thần vì Tổ quốc, khát
vọng độc lập, tự do; đồng thời, cũng nói lên sự lựa chọn đồng hành
cùng dân tộc của người công giáo Việt Nam. Sự tự nguyện chính là

216
đặc điểm lớn nhất trong thái độ của đồng bào công giáo đối với Việt
Minh, đối với cách mạng. Nhu cầu tự thân hòa vào dòng chảy chung
dân tộc và sức hấp dẫn của cuộc đổi đời ngàn năm chưa từng có biến
thành một lực đẩy vô cùng mạnh mẽ, “xóa sạch mọi ký ức về cuộc
giao ước xa xưa giữa họ với các giáo sỹ Pháp”[17]. Họ hòa vào sự
nhiệt thành hăng hái của toàn thể dân chúng lúc bấy giờ “không phải
chỉ vì mục đích tự bảo vệ lấy mình, mà nhất là còn vì lòng yêu nước
của họ nữa”[18]. Khi tòa lâu đài thuộc địa sụp đổ cũng là lúc một chân
trời mới được mở ra cho người Công giáo Việt Nam – chân trời của
độc lập, tự do, ấm no, vươn lên làm chủ và xác lập vị trí của mình
trong lòng dân tộc, trong lòng đất nước. Trong Sứ điệp gửi Đức Giáo
hoàng Piô XII (23-9-1945), Linh mục Phạm Bá Tòng đã viết: “Toàn
thể nhân dân Việt Nam không phân biệt tôn giáo, mừng lễ này với
một tinh thần yêu nước chân thành và nồng nhiệt chưa từng có”[19] -
người Công giáo đang sôi lên trong lò lửa ái quốc.
3- Tôn giáo nói chung, Công giáo nói riêng là một vấn đề chính
trị-xã hội khách quan, gắn liền với đời sống tâm linh và văn hóa của
một bộ phận nhân dân Việt Nam. Đối với người Công giáo, xác tín
tôn giáo ở mỗi tín hữu là vô cùng thiêng liêng, vô cùng đặc biệt.
Vào năm 1945, ở Việt Nam, số lượng theo Thiên Chúa giáo vào
khoảng 1.600.000 người với 15 giáo phận, 330 linh mục ngoại quốc,
14.000 linh mục Việt Nam[20] - một cộng đồng đông đảo và trong
lịch sử tồn tại, phát triển đã từng có không ít những khúc mắc liên
quan đến chính trị. Có lẽ ít tôn giáo nào ở Việt Nam ngay từ khi mới
du nhập đã ngay lập tức dính líu đến chính trị, đậm đặc tính chính trị
như đạo Công giáo. Lịch sử dân tộc và tôn giáo Việt Nam phản ánh
một hiện thực: Thực dân Pháp luôn chủ ý gạt sang một bên tính tôn
giáo thuần túy, lồng chính trị vào các hoạt động tôn giáo, cuốn những
Kitô hữu vào cơn lốc chính trị nhuốm màu ý thức hệ. Vì thế, quá
trình tìm đường và nhận đường của người Công giáo yêu nước Việt
Nam hết sức khó khăn, vất vả và không ít chông gai. Trong quá trình

217
ấy, người Công giáo Việt Nam phải giải phóng mình khỏi những lệ
thuộc tư tưởng, thoát ra khỏi khuôn khổ sáo mòn dưới vỏ ý thức tôn
giáo, thoát khỏi những quấn buộc chính trị, vượt lên lịch sử pha lẫn
“ánh sáng và bóng tối” để bảo tồn, phát huy ý thức dân tộc. Sự tham
gia sôi nổi, mạnh mẽ và tự nguyện của người Công giáo Việt Nam
trong Cách mạng tháng Tám không chỉ cho thấy thành công không
chỉ của Việt Minh đối với chiến lược vận động, tập hợp lực lượng,
mà còn phản ánh cuộc "vượt vũ môn" đầy khắc khoải của chính
người Công giáo Việt Nam trong nỗ lực bứt khỏi những khuôn định
tín ngưỡng cứng nhắc, chật hẹp. Thâu nhận Phúc Âm không cản trở
lòng yêu nước của các Kitô hữu; Thiên Chúa và Tổ quốc là hai điều
thiêng liêng nhất của mỗi người Công giáo Việt Nam. Người Công
giáo Việt Nam không chỉ có đức tin, người Công giáo Việt Nam còn
có Tổ quốc. Trước khi trở thành con dân nước Chúa, người Công
giáo là con dân nước Việt, là một bộ phận máu thịt của cộng đồng
dân tộc Việt Nam, thấm đẫm tinh thần, tư tưởng và giá trị Việt. Giữa
đức tin và lòng yêu nước không hề có rào cản, không hề có xung đột
và mâu thuẫn, phụng sự Thiên Chúa cũng chính là phụng sự Tổ quốc.
Người Công giáo Việt Nam đã nhận ra một chân lý hết sức giản đơn:
“Nước có vinh thì đạo mới sáng”, “nước có độc lập thì tín ngưỡng
mới được tự do”. Nhanh nhạy nắm bắt hiện thực người Công giáo
cũng như mọi người Việt Nam đều không chấp nhận sự cai trị, áp
bức, bất công, Việt Minh “chỉ còn phải biến nguyện vọng chống chế
độ thực dân của đồng bào Công giáo thành một hoạt động chính trị
có hiệu quả”[21], làm thức dậy, lôi cuốn “những năng lực yêu nước”,
khơi thông mạch nguồn, tâm thức dân tộc trong đồng bào Công giáo.
Nhờ đó, người Công giáo Việt Nam thanh thản đi trên con đường
vừa kính Chúa, vừa yêu nước, sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc.
Những người cộng sản Việt Nam đã nắm bắt điều đó, đưa ra chủ
trương nhằm giải quyết một vấn đề vốn hết sức nổi cộm xưa nay:
“Chỉ có quốc gia mà không phân biệt tôn giáo, mỗi người đều là
công dân của nước Việt Nam và có nhiệm vụ chiến đấu cho nền độc

218
lập hoàn toàn của Tổ quốc”[22] – đó cũng là một trong những nguyên
nhân căn bản làm nên thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm
1945, làm cho cuộc cách mạng ấy mang tính dân tộc sâu sắc, biến
đoàn kết thành sức mạnh vô địch, cuốn phăng mọi trở ngại trên hành
trình đi tới tự do.

[1] Từ tháng 10-1930, ĐCSVN đổi tên thành ĐCSĐD.


[2] Chỉ thị của Trung ương thường vụ về vấn đề thành lập Hội "Phản
đế Đồng minh", ngày 18-11-1930, Lưu tại Kho Lưu trữ, Văn phòng
Trung ương Đảng.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 461.
[4] Vǎn kiện Đảng (từ 25-1-1939 đến 2-9-1945), Nxb Sự thật, Hà Nội,
1963, tr. 532.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr.
407.
[6] Đỗ Quang Hưng: Nghiên cứu tôn giáo nhân vật và sự kiện, tái bản
lần 1, Nxb Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 56.
[7] Linh mục Trần Tam Tỉnh: Thập giá và Lưỡi gươm, Nxb Trẻ Thành
phố Hồ Chí Minh, 1988, tr. 53.
[8] Linh Mục Trần Tam Tỉnh: Thập giá và Lưỡi gươm, Sđd, tr. 53.
[9] Linh Mục Trần Tam Tỉnh: Thập giá và Lưỡi gươm, Sđd, tr. 190.
[10] Đoàn Độc Thư và Xuân Huy: Giám mục Lê Hữu Từ và Phát
Diệm, Sài Gòn, 1973, tr. 53.
[11] Lê Mậu Hãn, Nguyễn Văn Thư: Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946-
1960 (1994), tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 19.
[12] Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2006, t. 2, tr. 26.
[13] Nguyễn Hồng Dương: “Người Công giáo Ninh Bình với cuộc
kháng chiến chống Pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo , số 1,
2010, tr. 53.
[14] Hương Khê: “Người Việt Nam Công giáo với cách mạng mùa
Thu 1945”, Nguyệt san Công giáo và Dân tộc, số 57, 1999, tr. 11.

219
[15] Hương Khê: “Người Việt Nam Công giáo với cách mạng mùa
Thu 1945”, Tlđd, tr. 11.
[16] Hương Khê: “Người Việt Nam Công giáo với cách mạng mùa
Thu 1945”, Tlđd, tr. 12.
[17] Clementin J.R.: Nội dung chính trị của các thể chế Thiên Chúa
giáo ở Việt Nam (tài liệu dịch), Viện Sử học, Hà Nội, 1973, tr. 23.
[18] Clementin J.R.: Nội dung chính trị của các thể chế Thiên Chúa
giáo ở Việt Nam, Tlđd, tr. 23.
[19] Linh Mục Trần Tam Tỉnh: Thập giá và Lưỡi gươm, Sđd, tr. 59.
[20] Dẫn theo Đỗ Quang Hưng: “Công giáo và cách mạng (1945-
1954): Bài học lịch sử và ý nghĩa của nó”, Nghiên cứu tôn giáo, số
1-2010, tr. 3-4.
[21] Hammer. H. J: Natinonalism vs. Colonialism and Comunist,
(Linconl Richard W , Vietnam. The first five years), Michigan,
1959, p. 7.
[22] Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử: tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2006, tr. 10.

220
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
VỚI CÁC GIÁM MỤC NGƯỜI VIỆT

TS. Phạm Huy Thông

Trong lịch sử cách mạng nước ta, có lẽ không có biến cố nào


gây ra ảnh hưởng to lớn với người Công giáo Việt Nam như cuộc
cách mạng Tháng 8-1945.
Truyền thống yêu nước cùng với nỗi tủi nhục của người tín hữu
dưới ách thống trị của thực dân Pháp cũng như sự cai quản bất bình
đẳng của các giáo sĩ nước ngoài đã làm cho đa số người Công giáo
Việt Nam nhất tề đứng lên theo cách mạng. Nhà báo người Pháp
Jean R. Clementin nhận xét: “Điều làm cho các giáo sĩ ngạc nhiên
và lo lắng chính là sự mất lòng tin, nếu như không muốn nói là sự
căm thù của nhân dân Việt Nam với Pháp mà các giáo sĩ đều cảm
thấy. Tiếp đó, điều làm cho hàng giáo phẩm xao xuyến hơn cả là
đám con chiên Việt Nam, đứng đầu là các linh mục, tu sĩ đã chuyển
sang phía cách mạng”[1]. Nhưng không chỉ có giáo dân, linh mục, tu
sĩ mà ngay cả những giám mục đầu tiên là người Việt cũng có tinh
thần ủng hộ độc lập dân tộc.
Chúng ta đều biết rằng, sau 400 năm truyền giáo ở Việt Nam, mãi
đến năm 1933 mới có người Việt đầu tiên là linh mục Nguyễn Bá
Tòng được nâng lên hàng giám mục. Đến ngày Việt Nam tuyên bố
độc lập (2-9-1945), ở nước ta có 5 giám mục người Việt nhưng Giám
mục Phan Đình Phùng đã mất năm 1940 nên chỉ còn lại 4 là Giám
mục Nguyễn Bá Tòng, Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Đình Thục và Lê Hữu
Từ. Cũng còn nhiều điều chưa được làm sáng tỏ trong cuộc đời của
các vị giám mục này nhưng có thể khẳng định: các vị giám mục
người Việt tiên khởi này đều có tinh thần dân tộc, tha thiết với độc
lập tự do của dân tộc ngay từ những ngày đầu cách mạng.

221
Minh chứng đầu tiên là, ngay sau khi Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên
ngôn độc lập, nước Việt Nam mới đứng trước nguy cơ đe dọa của
bao thế lực trong, ngoài. Lúc này, nền độc lập non trẻ của nước nhà
rất cần sự ủng hộ của dư luận quốc tế. Các giám mục Việt Nam đã
có sáng kiến cùng ký tên vào hai bức điện văn gửi Toà thánh Vatican
và cộng đồng Công giáo thế giới đề nghị ủng hộ và công nhận Chính
phủ Việt Nam do Hồ Chí Minh đứng đầu. Lời văn rất cảm động và
tràn đầy tinh thần dân tộc:
“Nhân dân Việt Nam yêu quý của chúng con muốn nhờ trung
gian 4 vị giám mục của họ, dâng lên Đức Thánh cha lòng tôn kính
sâu xa và xin Đức Thánh cha ban phúc lành, tỏ lòng rộng lượng và
cầu nguyện cho nền độc lập mà nhân dân chúng con mới giành được
và quyết tâm bảo vệ bằng mọi giá. Chính phủ chúng con cũng đã ra
một nghị quyết tốt đẹp và nhân ái chọn ngày Quốc khánh cho cả
nước trùng với lễ kính các vị tử đạo Việt Nam mà Toà thánh mới cho
phép mừng vào chủ nhật đầu tháng 9. Toàn thể nhân dân Việt Nam
không phân biệt tôn giáo mừng lễ này với một tinh thần yêu nước
chân thành và nồng nhiệt chưa từng có, với những cuộc biểu tình to
lớn và náo nức tỏ ra cho thấy toàn dân quyết tâm bảo vệ chính quyền
của mình, dẫu có phải đổ máu…
Đứng trước những biến cố hết sức xúc động như thế này và bản
thân chúng con cảm động tận đáy lòng, vì ý thức bổn phận thiêng
liêng với Tổ quốc chúng con, các giám mục người Việt Nam, chúng
con nài xin Đức Thánh cha, Toà thánh Roma, các Đức Hồng y, các
Đức Tổng giám mục, giám mục và toàn thể anh chị em Công giáo
khắp thế giới và đặc biệt là Công giáo Pháp hãy hỗ trợ cho việc
quyết định của Tổ quốc yêu quý của chúng con.”[2]
Bức điện văn gửi cộng đồng Công giáo thế giới cũng đầy tâm tư,
nhiệt huyết: “Trong lúc hoà bình đã được vãn hồi trên toàn thế giới,
lẽ ra chúng tôi cũng phải được cùng bao dân tộc khác hàn gắn các
đổ nát do chiến tranh tàn phá gây ra, thay vì tiếp tục dồn thêm đổ

222
nát. Chúng tôi phải chịu ảnh hưởng không sao tránh khỏi của cuộc
chiến tranh vừa qua, đã tàn phá và xáo trộn tất cả. Chúng tôi phải
chịu một nạn đói khủng khiếp làm chết đi nhiều đồng bào và một nạn
đói mới có thể còn khủng khiếp hơn nạn trước xảy ra.
Hỡi anh chị em Công giáo thế giới, hãy đến trợ giúp cho các
miền giáo phận phồn thịnh đức tin của Việt Nam. Hãy đến viện trợ
cho Tổ quốc thân yêu của chúng tôi đã từng cống hiến cho anh chị
em 90.000 vị chứng nhân đạo thánh và còn hứa hẹn nhiều mùa gặt
to lớn hơn. Hỡi nhân dân các nước Anh và nước Mỹ, hãy cho chúng
tôi sự can thiệp có ích lợi, khiến chúng tôi thoát khỏi cảnh rùng rợn
của chiến tranh, trong khi tất cả thế giới đã được hưởng thái
bình.”[3]
Các điện văn trên có tiếng vang lớn trên trường quốc tế bấy giờ
và là sự kiện độc nhất vô nhị trong lịch sử của Giáo hội Công
giáoViệt Nam. Nó đã góp một đòn chí mạng làm phá sản âm mưu
của thực dân Pháp hòng đưa một cựu tu sĩ dòng là Thierr
D’Argenlieu sang làm Cao uỷ Pháp ở Đông Dương để lôi kéo người
Công giáo rời xa kháng chiến.
Người có sáng kiến khởi thảo hai điện văn nói trên chính là Giám
mục Phát Diệm Nguyễn Bá Tòng. Vị Giám mục tiên khởi này khi
còn ở chủng viện Vĩnh Long cũng đã luôn có khao khát “làm rạng
danh con cháu Lạc Hồng”:
“Phước trùng nghinh cháu Lạc con Hồng
Ứng ánh hoà quang chiếu Viễn Đông
Triệu ứng tiên khai đà vững chắc
Thì cơ hội tấn ắt nên công…”
Cũng vì bài phú có tinh thần dân tộc này mà thầy Tòng đã bị phạt
lùi việc lên chức linh mục đến 5 năm.
Giám mục Hồ Ngọc Cẩn là một học giả xuất sắc trên nhiều lĩnh
vực như văn chương, thần học, giáo huấn, báo chí và nhất là lòng

223
yêu nước. Một cử chỉ của vị Giám mục này được nhiều người xúc
động nhắc lại với lời phát biểu trong lễ mít tinh của Tuần lễ vàng,
quyên tiền ủng hộ Chính phủ kháng chiến: “Tôi có mấy nhời thay
mặt cả hàng giáo sĩ cảm ơn Uỷ ban đã có lời mời chúng tôi đến dự
Tuần lễ vàng này. Thật như bài diễn văn chúng tôi ai nấy vừa nghe.
Ai là người có vàng lúc này không nên ẩn giấu, phải đưa ra để chung
nhau đắp nền độc lập cho Tổ quốc…Phần tôi khi thụ phong giám
mục, có một đấng biếu tôi Thánh giá này và dây đeo thực là vàng.
Nhưng tôi nghĩ, người đời trên có giời che, dưới có đất chở. Trên
phải phụng sự Thiên Chúa, dưới cũng không quên Tổ quốc. Vậy
trong lúc này, tôi cũng vui lòng chia của quý này làm hai. Thánh giá
tôi giữ lấy để phụng sự Thiên Chúa, dây đeo tôi để phụng sự quốc
gia.”[4]
Nhiều người dự lễ tấn phong giám mục Phát Diệm ngày
28/10/1945 vẫn còn nhớ bài diễn văn ngẫu hứng nhưng tràn đầy tinh
thần dân tộc của vị giám mục Bùi Chu: “Cho tới nay, nước Việt Nam
đã có 4 người được phong giám mục. Điều lý thú là mỗi người đều
mang họ một anh hùng dân tộc. Đức cha Nguyễn Bá Tòng mang họ
vị anh hùng Nguyễn Huệ. Kế đến Đức cha Ngô Đình Thục mang họ
Ngô Quyền. Hôm nay Đức cha Lê Hữu Từ mang họ Lê Lợi. Còn tôi
mang họ …Chủ tịch Hồ Chí Minh.”[5]
Cảm kích trước tấm lòng của vị giám mục này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã mời giám mục ra làm cố vấn cho Chính phủ năm 1945 và
khi giám mục qua đời ngày 27/11/1948, dù rất bận công việc kháng
chiến, Hồ Chủ tịch vẫn gửi điện văn cho giáo phận Bùi Chu: “Tôi
rất lấy làm đau đớn được tin Đức giám mục Hồ Ngọc Cẩn đã từ trần.
Tiếc rằng vì chiến sự, tôi không thể về dự đám tang của Đức giám
mục, tôi nhờ Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu III thay mặt
tôi đến dự lễ và chia buồn cùng đồng bào Công giáo địa phận Bùi
Chu.”[6]

224
Giám mục Lê Hữu Từ cũng có tinh thần dân tộc. Bởi không lẽ,
Hồ Chí Minh lại mời vị giám mục này làm cố vấn cho mình từ ngày
20/01/1946 và nhiều lần gọi là “người bạn thân thiết”, “người bạn
quý mến”… chỉ vì vấn đề sách lược? Chúng ta biết trong lễ tấn
phong, vị Giám mục này chỉ mời các Giám mục là người Việt Nam.
Khi Giám mục Ngô Đình Thục bị kẹt do mật thám Pháp cản trở
không ra để làm phụ phong được. Giám mục người Tây Ban Nha là
F. Gomez đang coi sóc Hải Phòng xin được thay thế, nhưng vị tân
Giám mục này đã từ chối. Trong khi chấp nhận sự hiện diện của phái
đoàn Chính phủ Việt Minh được Hồ Chí Minh cử đến là các ông
Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và cựu hoàng đế Bảo Đại. Một
thời gian dài, vị Giám mục này thường thư từ qua lại và hội kiến với
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần. Ông cũng cộng tác với Chính phủ
cử một linh mục đi uý lạo đồng bào miền Nam Trung Bộ đầu năm
1949 hay huy động giáo dân phá cầu Trì Chính để ngăn bước tiến
của quân Pháp năm 1949. Trong Thư chung ngày 23/3/1947, vị
Giám mục này kêu gọi giáo dân cảnh giác và đoàn kết chống Pháp:
“Các cha biết rằng, một vài người cộng tác của chúng ta và nhiều
giáo dân đã bị bắt và giam giữ nhiều ngày, vì họ bị nghi ngờ là đảng
viên của các đảng phái chống chính phủ. Nhiều người bị bắt do ông
Huệ, một thày giảng của địa phận Thanh Hoá ẩn núp trong địa phận
chúng ta, tung ra những tin đồn lung tung và thậm chí mạo danh tôi
để đánh lừa dân chúng. Các cha đừng để nó tự do qua lại trong các
họ đạo của mình và nếu phát hiện thì hãy bắt và nạp giải cho tôi. Kẻ
nào tiếp tục liên hệ với ông ấy, hoặc che giấu nó, thì đừng phân bua
rằng mình vô tội khi bị cảnh sát làm khó dễ. Hơn bao giờ hết, toàn
dân phải một lòng đoàn kết, chiến đấu chống lại bọn xâm lược. Hãy
để vấn đề đảng phái sang một bên, đừng bận tâm tới. Tôi đã nói đi
nói lại nhiều lần với các cha, lần này nữa, tôi xin các cha hãy nghe
lời tôi.”[7]
Trong thư đề ngày 25/01/1949, Giám mục Lê Hữu Từ cũng lên
án tội ác của thực dân Pháp: “Quân lính Pháp, với một sự dã man

225
tột độ, đã phá huỷ tất cả, không trừ một thứ gì, kể cả nhà thờ. Trong
vòng một năm, gần 300 nhà thờ đã bị bom đánh phá.”[8] Vì vậy Giám
mục này đã bị Pháp xếp vào loại “có đầu óc quốc gia hơn hết” và là
“linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp” (âme de l’opsition à la
France)[9]. Thực dân Pháp đã dùng nhiều thủ đoạn như tung tin chia
rẽ vị Giám mục này với kháng chiến. Trong Thư chung ngày
20/10/1949, Giám mục này viết: “Theo hãng thông tấn AFP, cuộc
hành quân của Pháp được tiến hành vì có lời yêu cầu của tôi gửi cho
chính phủ Bảo Đại, lời yêu cầu có lý do: một đàng bởi những rắc rối
tôi đã gặp nơi Chính phủ Hồ Chí Minh và đàng khác bởi sắc lệnh
mới của Vatican nói về cộng sản. Điều đó hoàn toàn trái sự thật. Tôi
không bao giờ có ý nghĩ xin bọn lính Pháp can thiệp để cứu chúng
tôi khỏi một sự khó khăn bất kỳ nào. Tôi chưa hề có quan hệ với
Chính phủ Bảo Đại…Vì vậy, tôi khẳng định với anh em một lần nữa:
trước mặt Thiên Chúa, tôi chưa bao giờ nói hoặc làm một việc gì có
thể coi như kêu gọi sự can thiệp của Pháp. Tất cả những thứ đó hoàn
toàn ngoài ý muốn của tôi.”[10]
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần trao đổi những điều cơ mật
của kháng chiến với vị Giám mục này và cùng đưa ra những giải
pháp để tháo gỡ những vụ việc rắc rối nảy sinh. Ví dụ bức thư ngày
23/3/1947, Hồ Chủ tịch viết: “Một đàng, chúng ta phải giải thích
cho người Công giáo hiểu rõ chủ trương, chính sách của Chính phủ
như Đức cha đang làm. Đàng khác cần giáo dục cán bộ của Chính
phủ như bản thân tôi đang làm. Như vậy bọn gây rối sẽ không còn
có thể chia rẽ chúng ta và sự đoàn kết toàn dân sẽ được thực
hiện.”[11]
Bối cảnh lịch sử lúc đó rất phức tạp và chuyện trăn trở của người
Công giáo trước một sự lựa chọn khắc nghiệt: theo kháng chiến thì
bỏ đạo và theo đạo thì chống lại dân tộc. Giám mục Bùi Tuần đã nói
rõ tâm tư này: “Một đàng độc lập và hoà hợp dân tộc luôn là lý
tưởng tôi khao khát. Một đàng chống cộng lại là mệnh lệnh của Bề

226
trên trong đạo mà tôi phải vâng. Khó khăn lớn nhất là ở chỗ: thời
điểm giành độc lập và xây dựng đoàn kết chống ngoại xâm lại do
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Có những lúc lương tâm tôi cảm
thấy diễn ra xung đột gay gắt. Xung đột có chiều sâu thăm thẳm và
chiều rộng mênh mông. Xung đột lại kéo dài từ năm này qua năm
khác. Vì thế xin thú thật là quá khứ của tôi trong quá khứ dân tộc có
nhiều nỗi đau nặng nề và đau đớn riêng khó tả.”[12]
Cho nên sự chuyển hướng của Giám mục Lê Hữu Từ xa rời cuộc
kháng chiến là kết quả của quá trình diễn biến phức tạp. Nó là sự đối
đầu loại trừ nhau của vấn đề ý thức hệ mà cả đạo và đời lúc này chưa
dễ vượt qua và thực dân Pháp đã tích cực khai thác mâu thuẫn này.
Có thể thấy rõ qua câu nói của vị Giám mục này với Chủ tịch Hồ
Chí Minh khi gặp nhau ở Phát Diệm đầu năm 1946: “Tôi và dân
Công giáo Phát Diệm đoàn kết và triệt để ủng hộ Cụ trong công
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành độc lập tự do cho Tổ
quốc nhưng nếu Cụ là cộng sản thì tôi chống Cụ từ giờ phút này.”[13]
Giám mục Ngô Đình Thục coi sóc địa phận Vĩnh Long - nơi có
phong trào Việt Minh hoạt động mạnh nên cũng bị Pháp liệt vào
hàng ngũ “thân cộng”. Vị Giám mục này cũng công khai nói lên
nguyện vọng của mình: “Như tất cả đồng bào, tôi muốn cho quê
hương độc lập nhưng bằng những phương tiện hoà bình. Tôi tiếc là
đã có những cuộc đổ máu và những cuộc tàn sát như đã xảy ra hôm
qua ở Biên Hoà khi có một quả lựu đạn nổ. Người Anh đã bắn không
phân biệt vào chợ làm 40 người chết trong đó có nhiều phụ nữ. Tôi
biết là nếu có 10 người Pháp bị giết thì sẽ có 10.000 người Việt là
nạn nhân”[14]. Mật thám Pháp cũng coi Giám mục Thục thuộc nhóm
chống đối như linh mục - liệt sĩ Nguyễn Bá Luật. Cuối năm 1945,
khi ông định ra dự lễ tấn phong giám mục Phát Diệm thì bị bí mật
cầm chân ở Chợ Lớn theo lệnh của Cao uỷ Pháp ở Đông Dương.
Ông tìm cách trốn về Vĩnh Long, an ninh Pháp rất tức giận nói:
“Thái độ của Đức cha Thục thật tồi tệ, sau khi đã bỏ Biên Hoà về

227
Chợ Lớn, lấy tàu đi Mỹ Tho và từ đó lén lút về Cái Nhum, trụ sở của
một chủng viện, một tu viện và một họ đạo của tỉnh Vĩnh Long, cách
họ đạo Cái Mơn (Bến Tre) chỉ có mấy cây số…Vị giám mục này hình
như có ý định ở lại Cái Mơn, một họ đạo xem ra bị đe dọa bởi những
quá đáng của Việt Minh, để chia sẻ số phận với các giáo hữu của
mình.”[15]
Thực dân Pháp đã dùng bộ máy tuyên truyền khổng lồ để chia rẽ
người Công giáo và kháng chiến. Chúng nói rằng, Việt Minh là cộng
sản và cộng sản thì vô thần nên sẽ tiêu diệt mọi tôn giáo trong đó có
Công giáo nhưng Giám mục Hoàng Văn Đoàn ở Bắc Ninh đã quả
quyết: “Tôi tin tưởng rằng không có chuyện cấm đạo và không phải
chết vì tôi biết Chủ tịch Hồ Chí Minh quảng đại, sáng suốt và chính
phủ nhân dân biết nhìn xa trông rộng, hiểu rõ ràng: người Công
giáo chân chính vốn yêu Tổ quốc và vâng phục chính quyền, nên việc
cấm đạo chỉ là những chuyện của nhà cầm quyền cạn xét, nông suy,
không biết đạo là chi. Bởi vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố
quyền tự do tín ngưỡng của người công dân Việt Nam.”[16]
Tóm lại, chính ngọn lửa của cách mạng Tháng Tám đã thổi bùng
lên ngọn lửa yêu nước của người Công giáo Việt Nam trong đó có
cả những Giám mục người Việt và lôi cuốn họ đi với dân tộc. Không
phải tất cả mọi người đều đồng hành hết chặng đường với đất nước
nhưng nó đã khởi đầu cho một trang sử mới của người Công giáo
Việt Nam được xác định qua tuyên ngôn của các Giám mục Việt
Nam cách đây đúng 31 năm (tháng 5-1980) là: “Sống Phúc âm giữa
lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”.

[1]- Vấn đề phong thánh tử đạo và lịch sử dân tộc Việt Nam, Nxb TP
HCM 1988, tr. 244.
[2], [4], [5], [6], [11], [16]- Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào Công
giáo (Huy Thông tuyển chọn và giới thiệu), Nxb CTQG, Hà Nội
2004, tr. 346, tr. 295, tr. 297, tr. 109, tr. 81 và tr. 308-309.

228
[3], [7], [8]- Lm. Trần Tam Tỉnh: Thập Giá Và Lưỡi Gươm, Nxb Trẻ,
TP.HCM, 1988, tr. 63, tr. 75-76, tr. 84.
[9], [14], [15]- Huy Thông: Con dường đồng hành cùng dân tộc cần
được đắp xây bằng sự chung tay của cả cộng đồng, Nguyệt san Công
Giáo Và Dân Tộc, số 122, 2005, tr. 10, tr. 9, tr.9.
[10], [13]- Nguyễn Thế Thoại: Giáo hội đi trong nhân loại, lưu hành nội
bộ , 1995, tr. 387.
[12]- Gm. Bùi Tuần, Vài vấn đề trong mục vụ tại Việt Nam hôm nay,
Báo Công Giáo Và Dân Tộc, số 1534, ngày 24-11-2005.

229
THÁI ĐỘ CỦA CÁC GIÁM MỤC MIỀN BẮC
ĐỐI VỚI CỘNG SẢN TỪ 1945 ĐẾN 1975

Vũ Sinh Hiên

Tựa đề trên đây là một trong 16 đề tài trong dự án nghiên cứu do


Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình thực hiện, theo đề nghị của Đức
Hồng y Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám mục Giáo phận Thành phố HCM,
nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam
(1960-2010).
Trong thư đề ngày 22.7.2007 gửi cho Lm. Nguyễn Thái Hợp, Chủ
nhiệm CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình, Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn
“nhờ CLB.NVB nghiên cứu xem coi thái độ bất hợp tác và thái độ hợp
tác của Giáo hội trong lịch sử 50 năm qua, mỗi thái độ có những lợi và
hại nào, đối chiếu cái lợi và cái hại của hai thái độ, và đề xuất bài học
thực hành cho mọi thành phần tôn giáo và xã hội biết cách nào góp
phần vừa xây dựng đất nước vừa lành mạnh hoá đời sống dân tộc. Có
được thế thì sự phát triển đất nước và con người mới bền vững”. Đức
Hồng Y còn nhấn mạnh: “Nhờ CLB.NVB nghiên cứu và đề xuất bài
học chính xác và toàn vẹn”.
Dự án này có mục đích đáp ứng yêu cầu trên đây của ĐHY Phạm
Minh Mẫn, với mong muốn cung cấp một cái nhìn tổng hợp về tương
quan giữa Cộng sản và Công giáo trên nửa thế kỷ qua, từ ngày Đảng
Cộng sản lên nắm quyền ở Việt Nam (1945); về vai trò của Giáo hội
trong các mặt hoạt động của xã hội, cách riêng trên lãnh vực giáo dục,
y tế, từ thiện, truyền thông; về những “lợi/hại” phát sinh từ sự hợp tác
Công giáo và Cộng sản; nhất là đề xuất một định hướng hợp tác, không
chỉ cho người Công giáo mà còn cho người Cộng sản và mọi người
Việt Nam nói chung.
Về tương quan giữa Giáo hội Công giáo Việt Nam (GHCG) và
Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCS), đã có một vài công trình nghiên cứu
công phu. Nhưng kể từ sau năm 1975, chúng tôi bỗng cảm nhận một

230
khoảng trống trong lịch sử GHCGVN, đó là mảng về GHCG miền Bắc
trong giai đoạn Đất Nước bị chia cắt làm hai miền. Kìm kẹp gay gắt
như vậy, ai mà dám viết lách nhận định? Cho đến nay Đất Nước thống
nhất đã trên 30 năm, các nhân chứng còn tản mát trên khắp 10 Giáo
phận thuộc Giáo tỉnh Hà Nội, nhưng đã có mấy ai ghi chép lại chặng
đường thánh giá này? Với chính sách địa phương khoanh vùng, đi lại
khó khăn, hộ khẩu nghiệt ngã, có mấy ai có được một cái nhìn tổng
quát về GHCG miền Bắc trong giai đoạn này.
Chúng tôi trong nhiều năm về lại quê Bắc, hầu chuyện các bậc
trưởng thượng đã chứng kiến bể dâu của Đạo của Đời trong những
năm khổ ải ấy, la cà chuyện vãn với anh em đồng trang lứa, khi mà
chúng tôi xuống tàu di cư vào Nam thì các bạn đang nép mình trong
một “Chủng viện chui” nào đó, có người đi tù vì tội… đi tu, các bạn đã
ghim vào bộ nhớ đủ thứ chuyện và hôm nay các bạn còn thừa minh mẫn
để kể lại cho người anh em Bắc kỳ di cư 54 những oan nghiệt vừa qua.
Từ những chuyến đi ấy đến đề nghị của Đức Hồng y Phạm Minh
Mẫn với CLB.NVB trên đây, Ban chủ nhiệm CLB đã ưu ái dành cho tôi
đề tài nghiên cứu này.
Bài viết này không thể hoàn thành được nếu không có sự chỉ giáo
của các bậc trưởng thượng: Lm. Phạm Hân Quynh thuộc Giáo phận
Hải Phòng, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu (Tp. HCM), tham khảo
tài liệu của Gs. Đỗ Mạnh Tri (Paris), của các thân hữu Hoà Giang Đỗ
Hữu Nghiêm (Hoa Kỳ), Nguyễn Văn Lục (Canada), Nguyễn Nghị (Việt
Nam). Tôi đang hình dung lại những khuôn mặt đáng yêu của bầu bạn
rải rác tại nhiều Giáo phận miền Bắc: Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh,
Phát Diệm, Thái Bình v.v… mà tôi không muốn kể tên nơi đây, một
phần vì đức khiêm nhường của các bạn không cho phép tôi, một phần,
biết đâu đấy lại chẳng gây phiền hà cho các bạn. Gần hết thập niên
đầu của thế kỷ XXI rồi, vậy mà vẫn còn những chuyện mời “làm việc”
đấy. Xin quý vị và các bạn nhận nơi đây lòng biết ơn sâu đậm của người
viết.

231
MỘT LÒNG VÌ TỔ QUỐC
Tôi xin được bắt đầu bài viết bằng việc vẽ lại đây khung cảnh
hào hùng của ngày lễ Tuyên ngôn độc lập 2.9.1945 tại quảng trường
Ba Đình. Hôm ấy, ngay dưới chân lễ đài mà trên đó cụ Hồ Chí Minh
đọc bản Tuyên ngôn độc lập, là 180 thầy đại chủng sinh trong đồng
phục áo chùng thâm, đi đầu là thầy Gioan Đỗ Tông với vóc dáng cao
lớn nhất “tràng lý đoán” cầm lá cờ đỏ sao vàng. Tất cả các thầy đã
hát vang một bài hát ca tụng nền độc lập của Tổ quốc, do thầy Giuse
Lê Đức Triệu, tức nhạc sĩ Hoài Đức thuộc nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh,
vừa mới sáng tác tối hôm trước và các thầy đã tập hát ngay trong
đêm, với một tâm trạng rộn rã như chưa từng có trong cuộc đời làm
con dân Đất Việt.
Khung cảnh này có thể coi là tiêu biểu cho lòng người Công giáo
Việt Nam trước công cuộc giành độc lập cho dân tộc, trước giây phút
đã làm rạo rực con dân Việt Nam. Xa quảng trường Ba Đình, rất xa,
trong một làng quê nghèo nàn chưa hề được nghe nói đến cụ Hồ, đến
độc lập, có chú bé con có đạo mới lên 5 tuổi đang cùng các bạn miệt
mài làm cở đỏ sao vàng, dán cùng khắp thôn xóm, từ nhà thờ đến
đình làng. Hồi ấy chúng tôi chưa nhìn thấy cây bút chì màu ra sao,
đành phải sáng tạo: dùng màu đỏ của gạch non và màu vàng của củ
nghệ. Hì hục vẽ, rồi say sưa hát (hồi ấy chưa biết bài hát tên gì và
của tác giả nào):
Làng tôi xanh bóng tre
Từng tiếng chuông ban chiều
Tiếng chuông nhà thờ rung
…………
Lòng tôi theo đoàn quân du kích
………..
Nhưng thôi rồi còn đâu quê nhà
Ngày giặc Pháp phá làng diệt thôn.

232
Rồi thầy Kẻ giảng dạy cho Nghĩa Binh Thánh Thể bài học vỡ
lòng:
Rủ nhau đi vớt bèo tây
Bèo tây mới có từ ngày Tây sang
Rủ nhau đi vớt tập đoàn
Vớt cho nó khỏi lan tràn xứ ta
Ơn trời sắc nước trong veo
Ao ta ta thả giống bèo của ta.
Cho đến nay, chú bé con nhà có đạo sáng lễ chiều chầu ấy đã sắp
vào tuổi thất thập, vẫn còn nhớ như in bài học đầu đời từ người thầy
đầu tiên. Nhưng hồi đó, chả hiểu gì cả. Chiều chiều cứ giương mắt
ếch nhìn các cô các chú du kích, đầu gắn đầy lá cây trên mũ, áo bỏ
trong quần, lặng lẽ hành quân qua làng. Chú bé Nghĩa Binh Thánh
Thể không hiểu gì, cả xứ đạo quê mùa không hiểu gì về biến chuyển
tày trời đang xảy ra trên Quê hương thân yêu, nhưng bốn vị Giám
mục Việt Nam tiên khởi đang hiểu rõ vận mệnh Quốc gia và đã nhập
cuộc. Ngày 23.9.1945, các ngài đã gửi một lá thư lên Đức Giáo
hoàng Piô XII để xin Toà Thánh ủng hộ nền độc lập non trẻ của Việt
Nam. Lá thư do Đức Cha Nguyễn Bá Tòng ký tên thay cho ba vị kia
(Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Đình Thục và Lê Hữu Từ). Lá thư viết:
“Dân tộc Việt Nam chúng con qua sự trung gian của 4 Giám mục
xin đệ đến Đức Thánh Cha lòng thành kính sâu xa và xin Đức Thánh
Cha chúc phúc, cầu nguyện cho nền độc lập mà dân tộc chúng con
mới thâu hồi được và đang sẵn sàng bảo vệ nó với bất cứ giá nào…
Các Giám mục Việt Nam nài khẩn Đức Thánh Cha, Toà Thánh
La Mã, các Đức Hồng Y, các Đức Tổng Giám mục và toàn thể Kitô
hữu thế giới và nhất là nước Pháp, ủng hộ nền độc lập của Tổ quốc
yêu quý chúng tôi.”[1]
Trước lá thư trên đây, trong lúc lực lượng võ trang Việt Minh
đang tiến công dành quyền kiểm soát đồng bằng sông Hồng, Hoàng

233
hậu Nam Phương, một tín hữu Công giáo đạo hạnh, đã cho phổ biến
một lời kêu gọi vào đúng ngày thoái vị của chồng bà, Hoàng đế Bảo
Đại, ngày 30.8.1945. Lời kêu gọi của Hoàng hậu Nam Phương có
đoạn viết:
“Nước Việt Nam đã thoát ách đô hộ của đế quốc Pháp và Nhật
Bản. Chồng tôi, cựu hoàng Bảo Đại, khi thoái vị đã nói lên nguyện
vọng làm dân một nước độc lập còn hơn là làm vua một đất nước nô
lệ. Bản thân tôi, tôi đã từ bỏ không nuối tiếc mọi đặc quyền của một
hoàng hậu, hợp lực với các chị em phụ nữ, mỗi người trong hoàn
cảnh và khả năng của mình, để cộng tác với chính quyền trong việc
bảo vệ quyền lợi thiêng liêng của nền độc lập của chúng tôi.
Lúc này đây, máu đã đổ nhiều… Nhiều sinh mạng đã bị hy sinh cho
tham vọng của một nhóm thực dân Pháp…
Nhân danh mười ba triệu phụ nữ Việt Nam, tôi kêu gọi các bạn
bè của riêng tôi, các thân hữu của Việt Nam, hãy lên tiếng đòi tự
do… bằng cách thỉnh cầu nhà cầm quyền của quốc gia các bạn can
thiệp để một nền hoà bình công bằng và thoả đáng được thiết lập,
làm như vậy các bạn đã tuân theo tiếng nói của lương tâm con người
và chiếm trọn lòng biết ơn của dân tộc chúng tôi.”[2]
Theo Benard Fall thì lời kêu gọi này của Hoàng hậu Nam Phương
đã được bà viết ngày 25.8.1945, nhưng bà đã đợi đến đúng ngày
thoái vị của Hoàng đế Bảo Đại mới phổ biến.
Không những người Công giáo bình dân vốn “lòng tôi theo đoàn
quân du kích” đã lên đường đi kháng chiến, mà giới trí thức Công
giáo thành thị cũng đã tham gia vào công cuộc dành độc lập cho Tổ
quốc, mỗi người mỗi cách, tuỳ hoàn cảnh và khả năng của mình. Một
trong những khuôn mặt trí thức Công giáo nổi bật vào cái thuở ban
đầu kháng chiến ấy là ông Nguyễn Mạnh Hà, người sáng lập phong
trào Thanh Lao Công (Thanh niên lao động Công giáo – Jeunesse
Ouvrière Catholique – JOC) ở Hải Phòng. Ông Hà có vợ là người
Pháp, con gái một vị nghị sĩ thuộc đảng Cộng sản Pháp, ông
234
Marrane. Khi cụ Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm
thời ngày 23.8.1945, ông Hà được mời giữ chức Bộ trưởng Kinh tế.
Chính phủ Lâm thời chỉ tồn tại hơn sáu tháng, bởi sau ngày bầu cử
Quốc hội lần đầu tiên 6.1.1946, Chính phủ Liên hiệp đã thay thế
Chính phủ Lâm thời vào ngày 2.3.1946. Sau đó ông Hà lại được cụ
Hồ mời tham gia phái đoàn dự hội nghị Fontainebleau ngày
27.5.1946.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ ngày 19.12.1946, ông
Hà và gia đình vẫn ở lại Hà Nội. Ông cùng với các ông Hoàng Xuân
Hãn, Luật sư Vũ Văn Hiền, mà người Pháp gọi là “Les Trois H”, chủ
trương thương thuyết với Pháp. Nhưng ông vẫn tích cực ủng hộ
kháng chiến, điều này làm nóng mặt người Pháp, nên tướng De
Lattre de Tassigny đã trục xuất gia đình ông về Pháp năm 1951.
Năm 1977, sau ngày thống nhất Đất Nước, thủ tướng Phạm Văn
Đồng sang thăm nước Pháp, đã gặp riêng ông Nguyễn Mạnh Hà.
Cuộc gặp gỡ này được coi như nối lại tình xưa nghĩa cũ, tạo nhiều
cơ hội để ông Hà về thăm Quê Hương, đóng góp những ý kiến xây
dựng cho chính phủ nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Ông mất ngày 4.5.1992 tại Pháp. Bà vợ ông mới qua đời ngày
27.4.2007.
Ngày 4.9.1945, công dân Vĩnh Thuỵ, tức cựu hoàng Bảo Đại, rời
kinh thành Huế ra Hà Nội làm cố vấn cho Chính phủ Lâm thời. Cựu
hoàng dùng đường bộ, dọc đường đi, dân chúng hai bên quốc lộ 1
được tin xe của cựu hoàng đi qua, đã đổ xô ra để được hân hạnh nhìn
thấy vị vua cuối cùng của triều Nguyễn. Tại Hà Nội, việc đón tiếp
và bố trí nơi ăn chốn ở cho ông cố vấn cũng đã là một mối bận tâm
(và là một chu đáo) của chính phủ. Ông cố vấn thường xuyên được
đãi đằng cơm rượu tại nhà ông Mai Văn Hàm, một doanh nhân Công
giáo có tiếng tại thủ đô lúc bấy giờ. Vốn ở cung vàng điện ngọc với
những bữa yến tiệc sang trọng, lại là người có nếp sống tây phương
lịch lãm, cố vấn Vĩnh Thuỵ làm sao mà kham nổi những bữa cơm

235
đạm bạc của thời kháng chiến. Thế là, với tinh thần góp công sức
vào cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp lúc bấy giờ, ông Mai
văn Hàm thường xuyên tổ chức các bữa cơm tây cho cựu hoàng thư
giãn, cho các nhà trí thức nay đang một lòng với kháng chiến lui tới.
Nhà ông Mai Văn Hàm đã là một câu lạc bộ với sự góp mặt thỉnh
thoảng của cố vấn Lê Hữu Từ mỗi khi Đức Giám mục về thủ đô trao
đổi quốc sự với cụ Hồ, của các ông Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên
Giáp, hai vị khách không thường xuyên góp mặt. Theo lời kể của
Lm. Phạm Hân Quynh thì những vị có mặt thường xuyên hơn là các
ông Nguyễn Đệ, ông Tam Lang Vũ Đình Chí, ông Nguyễn Tấn Di
Trọng, ông Ngô Tử Hạ. Lm. Phạm Bá Trực và thầy đại chủng sinh
Phạm Hân Quynh cũng thường có mặt trong các buổi gặp gỡ này.
Thầy Quynh thường được xếp chỗ ngồi bên cụ Nguyễn Đệ, đơn giản
chỉ vì cụ nói không rành rẽ tiếng Việt. Thầy kiêm việc phiên dịch.
Ông Ngô Tử Hạ, chủ một nhà in ở ngõ Huyện, gần nhà thờ lớn lúc
bấy giờ, sau được bầu làm Chủ tịch Quốc hội khoá I, cũng thường
xuyên có mặt trong các bữa tiệc này.
Cách riêng, Lm. Phạm Bá Trực, một vị tu hành với lòng yêu nước
nồng nàn, đã được giáo quyền chấp thuận cho tham gia vào các hoạt
động chính trị lúc bấy giờ. Cha Trực được bầu vào quốc hội khoá I
và là phó trưởng ban thường trực quốc hội. Ngài qua đời ngày
5.10.1954, chỉ 5 ngày trước ngày quân đội nhân dân tiếp quản thủ
đô Hà Nội. Nhật báo “Nhân Dân”, cơ quan trung ương của Đảng Lao
Động Việt Nam số 237 ra ngày 11 và 12 tháng 10 năm 1954[3] đã
tường thuật đầy đủ tang lễ của Cha Phạm Bá Trực. Tờ nhật báo đăng
bài cáo phó ngay trang nhất:
CÁO PHÓ
Cụ Linh mục Phạm Bá Trực đã từ trần.
Báo Nhân Dân lấy làm đau đớn báo tin để toàn thể đồng bào biết
rằng:
Cụ Linh mục Phạm Bá Trực

236
Phó trưởng Ban Thường Vụ Quốc Hội
Phó Chủ tịch Mặt trận Liên – Việt
Sau hai năm bị bệnh nặng, được chính phủ ta hết lòng săn sóc,
đã từ trần ngày 5 tháng 10 năm 1954 tại Việt Bắc, thọ 56 tuồi.
Cụ Linh mục Phạm Bá Trực là một nhà ái quốc được toàn thể đồng
bào công giáo và nhân dân ta kính mến. Cụ luôn luôn nêu cao tinh
thần hy sinh phấn đấu vì lòng kính Chúa và yêu nước của người công
giáo Việt Nam. Trong Mặt trận Liên – Việt cũng như trong Quốc hội,
cụ đã không ngừng nỗ lực để thắt chặt khối đoàn kết giữa đồng bào
lương và giáo, giữa các tôn giáo với nhau, đặng đấu tranh cho lý
tưởng chung của dân tộc ta là hoà bình, thống nhất, độc lập và dân
chủ.
Cụ Linh mục Phạm Bá Trực từ trần là một cái tang chung của
đồng bào công giáo và của nhân dân Việt Nam ta.
Trong dịp này chúng tôi xin kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn
của cụ Linh mục Phạm Bá Trực với lòng thương tiếc chân thành một
nhà ái quốc thân yêu.
Cũng tại trang nhất của số báo này, ngay bên trên cột tin cáo phó
là “Lời điếu Cụ Phạm Bá Trực, Phó trưởng Ban Thường Vụ Quốc
Hội” của cụ Hồ Chí Minh. Cụ Hồ viết:
“Tôi xin thay mặt chính phủ kính cẩn nghiêng mình trước linh
hồn Cụ.
Từ ngày nhân dân tin cậy cử Cụ làm Đại biểu Quốc hội và Quốc
hội cử Cụ vào Ban Thường Trực, Cụ đã đưa hết tinh thần và lực
lượng giúp Chính phủ trong mọi vấn đề quan trọng. Trong mọi việc,
Cụ đã kết hợp đạo đức bác ái theo lời Chúa dạy, với tinh thần nồng
nàn yêu nước của người đại biểu chân chính cho nhân dân Việt Nam.
Nay Cụ mất đi, Chính phủ và nhân dân vô cùng thương xót.
Trong lúc ốm nặng, Cụ thường nói với tôi: Mong trông thấy kháng
chiến thắng lợi thì dù chết Cụ cũng thỏa lòng.

237
Nay hoà bình đã trở lại, Cụ đã thỏa lòng.
Nhưng tiếc rằng Cụ không còn nữa để giúp nước giúp dân.
Với lòng vô cùng thương tiếc một nhà tận tuỵ ái quốc và một
người bạn thân mến, trước linh hồn Cụ, chúng tôi nguyện kiên quyết
một lòng, đoàn kết toàn dân để làm tròn sự nghiệp mà suốt đời Cụ
mong muốn, tức là: củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn
thành độc lập và dân chủ trong toàn nước Việt Nam yêu quý của
chúng ta.”
Hồ Chí Minh

Bên dưới hai bài Điếu Văn và Cáo Phó, vẫn tại trang nhất là bài
tường thuật tang lễ của Cha Phạm Bá Trực, với sự hiện diện của cụ
Tôn Đức Thắng, Quyền Trưởng Ban Thường Trực Quốc Hội và Chủ
tịch Uỷ Ban Mặt trận Liên – Việt, cụ Bộ Trưởng Vũ Đình Tụng và
ông Bộ Trưởng Phan Anh đại diện chính phủ, cụ Lm. Vũ Xuân Kỷ
và ba vị linh mục khác, đồng chí Hồ Viết Thắng đại diện trung ương
Đảng Lao Động Việt Nam. Đại sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam
cũng cử ông Tham tán Tạ Xưởng Thu và ông Bí thư Tào Quế Xinh
đến dự lễ. Bộ trường Phan Anh đọc điếu văn của Hồ Chủ tịch viếng
Cha Phạm Bá Trực.
Vào dịp lễ giỗ Cha Phạm Bá Trực đầu tháng 10.2008, chúng tôi
về giáo xứ Đại Từ, Thái Nguyên, nơi đặt phần mộ Cha Trực và chỉ
cách thủ đô kháng chiến Định Hoá 30 cây số. Chúng tôi nghiêm
trang kinh nguyện bên phần mộ của Cha, với lòng hiệp thông của kẻ
hậu sinh luôn nặng lòng với Hội Thánh và Đất Nước. Chợt nhớ lại
lời nguyện ước của vị linh mục lành thánh này: Khi hoà bình, sẽ trả
lại mọi chức tước cho Nhà Nước và trở về với đời sống của một linh
mục thuần tuý. Tiếc quá, chỉ còn 5 ngày nữa là Cha có thể về thủ đô
Hà Nội, gặp lại các đấng bề trên của Giáo hội, những người đã chúc
lành cho Cha trên đường kháng chiến, thì cha lại an nghỉ ngàn thu ở
chiến khu Việt Bắc này.

238
Có thể nói rằng mọi thành phần của Giáo hội Công giáo Việt
Nam đều một lòng với nền độc lập dân tộc, bằng mọi cách, trong
hoàn cảnh của mỗi người, cố gắng đóng góp vào việc gìn giữ nền
độc lập non trẻ này. Đặc biệt hơn nữa như tại Phát Diệm, một tổ chức
chính trị và quân sự là “Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc” đã được
chính phủ công nhận và liên lạc hàng ngang với Mặt trận Việt minh,
qua sự ký nhận hợp thức hoá của ông Phạm Văn Đồng, đại diện Tổng
bộ Mặt trận Việt minh. Đó là vào dịp phái đoàn chính phủ về Phát
Diệm dự lễ tấn phong Đức Giám mục Lê Hữu Từ (29.10.1945) gồm
có các ông Nguyễn Vĩnh Thuỵ, Cố vấn Chính phủ, Võ Nguyên Giáp,
Bộ trưởng Nội vụ, Phạm Văn Đồng, Bộ trưởng Tài chánh, Nguyễn
Mạnh Hà, Bộ trưởng Kinh tế và Trần Huy Liệu, Bộ trưởng Tuyên
truyền.
Cứ tưởng như đôi bên kháng chiến Việt Minh và Công giáo sẽ
chen vai sát cánh vì nền Độc lập của Tổ quốc, nhưng vẫn ngờ ngợ
làm sao ấy! Vì đã không thể có mặt trong dịp lễ tấn phong Đức cha
Lê Hữu Từ, cụ Hồ Chí Minh về Phát Diệm vào ngày 20.1.1946 để
vấn an vị Giám mục cố vấn chính phủ. Đức Cha Lê đã tỏ ra khá
thẳng thắn: “Tôi và toàn dân Công giáo Phát Diệm đoàn kết và triệt
để ủng hộ cụ trong công cuộc chống thực dân Pháp, giành độc lập
cho tổ quốc Việt Nam, nhưng nếu cụ là cộng sản, thì tôi chống cụ và
chống cụ từ phút này”. Chủ tịch Hồ Chí Minh thì vẫn điềm đạm lấp
lửng: “Thưa cụ, toàn dân đoàn kết và đã đoàn kết chống thực dân
Pháp, giành độc lập cho Việt Nam thì thế nào cũng thắng. Đến khi
toàn dân toàn thắng thì sẽ có cuộc phổ thông đầu phiếu, lúc đó toàn
dân sẽ định đoạt, cụ và tôi khỏi phải lo”.[4]
Trong chỗ riêng tư, cụ Chủ tịch và cụ Cố vấn thường có những
trao đổi thẳng thắn, và vì đại cuộc, hai cụ vẫn giữ những mối giao
hảo tốt đẹp, nhất là trong năm 1946. Ngày 27.5.1946, Đức cha Lê đã
cử Lm. Nguyễn Gia Đệ tới sân bay Gia Lâm tiễn chân Chủ tịch Hồ
Chí Minh đi dự hội nghị Fontainebleau. Hồ Chủ tịch bắt tay Lm. Đệ

239
và nói khá lớn để mọi người có thể nghe: “Xin cảm ơn linh mục và
xin linh mục về thưa với cụ Giám mục cố vấn rằng: tôi rất cảm kích
trước sự ưu ái và lòng ái quốc cao cả của cụ Giám mục, xin cụ Giám
mục và giáo dân Công giáo cầu nguyện cho tôi và phái đoàn thành
công trong chuyến xuất ngoại này”.[5]
Tạm ước (Modus vivendi) Fontainebleau cũng như hiệp định sơ
bộ 6.3.1946 tại vịnh Hạ Long đó là những nhượng bộ tạm thời trong
ý đồ của cụ Hồ trước ngày phát động kháng chiến toàn quốc. Nhưng
cụ Giám mục cố vấn đã cùng Lm. Đoàn Độc Thư ra Hà Nội ngày
24.10.1946 để gay gắt phản đối Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đi thương
thuyết với kẻ thù cũng một lòng vì Nước vì Dân. Phản kháng gay gắt
với kết quả thương thuyết cũng một lòng vì Dân vì Nước. Nhưng rồi
kể từ 1947 các cuộc đụng độ thanh toán lẫn nhau giữa hai lực lượng
quân sự Việt Minh và Công Giáo Cứu Quốc đã làm lạt đi mối giao
hảo giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Giám mục cố vấn Lê Hữu Từ.
Hồ Chủ tịch thì cho rằng “hạ cấp không khéo”, còn Giám mục cố
vấn thì mỗi ngày mỗi “ngộ” ra hơn về đường lối chính sách cai trị
của Đảng Cộng sản. Tuy vậy hai cụ vẫn cố gắng giữ vẻ thân thiện, ít
ra là bề ngoài. Cụ Hồ mời Đức Cha Lê về dự “Hội Nghị Điền Thổ”
ở Nho Quan ngày 20.12.1947, cùng nằm nghỉ trưa trên một chiếc
phản gỗ, cùng dùng chung một dĩa khoai lang luộc, và đặc biệt nhất
là Cụ Hồ xin Đức Cha Lê làm phép báp-tem (rửa tội) cho mình. Lời
đề nghị đột ngột này đã được Đức Cha Lê nhã nhặn từ chối, bởi lẽ
“báp-tem” không chỉ đơn giản là… dội nước.
Sang đầu năm 1948 (20.1) Đức Cha Lê gửi thư chung số 29 (riêng
và mật) cho các cha trong giáo phận, căn dặn:
“… nếu quân Pháp đánh vào Tỉnh Ninh Bình, thì các cha và giáo
hữu ở gần trận địa hãy thu xếp các việc cho kíp mà tránh trước đi.
Đừng kể những người phải ở lại canh giữ làng. Đừng ai có hành
động gì làm cho người ta cắt nghĩa được là mình có ý theo giặc mà
làm thiệt hại cho mình và mang tiếng cho sự đạo.
240

Sau hết xin các cha thực tình và nhiệt thành cộng tác vào công
cuộc kháng chiến của chính phủ hiện thời. Bấy nhiêu lời vắn tắt, xin
các cha hiểu và thi hành.”
Phát Diệm ngày 20.1.1948
Fr. A.M.T. Lê Hữu Từ[6]
Lá thư luân lưu số 39 của Đức Cha Lê viết ngày 17.4.1949 gửi
đoàn chiên giáo phận đã cho chúng ta thấy một điều là Giám mục
Phát Diệm đã hiểu, hiểu tường tận học thuyết Cộng sản. Có thể như
một số người nghĩ rằng các Giám mục Việt Nam lúc bấy giờ đã
không có được những hiểu biết rành rẽ về lý thuyết và con người
cộng sản, nhưng chúng tôi nghĩ, đối với Đức Cha Lê Hữu Từ thì
không. Lá thư luân lưu lịch sử này được Đức Cha Lê Hữu Từ viết 5
tháng sau ngày Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn, Giám mục Bùi Chu qua đời,
ngày 27.11.1948. Chỉ một tháng sau (tháng 1.1949) Toà Thánh
Vatican chỉ định Đức Cha Lê làm Giám quản địa phận Bùi Chu. Như
vậy, hai giáo phận Phát Diệm và Bùi Chu đều thuộc quyền Đức Giám
mục Lê Hữu Từ. Rồi thì dồn dập những biến cố xảy đến với Bùi
Chu, Phát Diệm, đặc biệt là việc quân Liên hiệp Pháp nhảy dù xuống
cánh đồng Lưu Phương, ngay cạnh sườn khu an toàn Phát Diệm,
ngày 16.10.1949. Mặc dù Đức Cha Lê đã phân trần với toàn giáo
phận:
“…tôi không hề có một tiếp xúc nào với chính phủ Bảo Đại…
trước mặt Chúa, tôi không hề có ý làm một việc gì hay nói một lời
nào có tính cách như là yêu cầu một quân đội nào đến cứu giúp. Việc
này xảy ra hoàn toàn ngoài ý muốn của tôi” (Thư luân lưu số 47,
ngày 20.10.1949).
Nói gì thì nói, Việt Minh coi Phát Diệm như đã vào vùng Tề. Việt
Minh lui vào chiến khu, tiếp tục kháng chiến chống Pháp đến hiệp
định Genève 1954, cũng là lúc Đức Giám mục cố vấn chính phủ

241
xuống ca-nô ở chân cầu Trì Chính, tháo chạy ra biển, lên tàu vào
Nam.
Mọi tầm nhìn của cả Giáo hội Công giáo miền Bắc và của Việt
Minh nữa đều hướng về thủ đô Hà Nội, nơi mà vào ngày 15.8.1950,
vị Giám mục Việt Nam tiên khởi của Giáo phận, nhân đức và lỗi lạc,
với một bộ tham mưu gồm nhiều linh mục trẻ trung, trí thức, được
đào tạo từ các nước Tây phương về, sẽ được tấn phong và cai quản
Giáo phận thủ đô: Đức Cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê.
Nằm trong vùng Tề và dưới quyền chính phủ Bảo Đại, nhưng hai
địa phận Phát Diệm và Bùi Chu vẫn tỏ ra chống Pháp kịch liệt, đặc
biệt là trong năm 1951, năm mà Đông Dương được đặt dưới quyền
cai trị của viên Cao uỷ người Công giáo nhưng đặc sệt máu thực dân
trong huyết quản: De Lattre de Tassigny.
Mới chân ướt chân ráo tới Đông Dương tháng 12.1950, ngày
26.2.1951, Cao uỷ De Lattre tới Đan viện Thiên An, gần thành phố
Huế, gặp Đức Viện phụ Dom Romain. Ông cho rằng có những binh
sĩ Việt Minh được che dấu và săn sóc tại Đan viện này. Ông tuyên
bố: “Thưa Cha, đối với những binh sĩ Pháp tội nghiệp của chúng ta
thì cuộc chiến đấu này là một cuộc thập tự chinh. Cách xa tổ quốc
vạn dặm, họ đang chiến đấu để bảo vệ nền văn minh Kitô giáo. Họ
có quyền chờ đợi ở Cha tình thân hữu, nếu không muốn nói là sự trợ
giúp của Cha. Nếu tôi biết chắc được thái độ của Cha, tôi sẽ hành
động chống lại Cha. Đó là điều bất đắc dĩ, bởi tôi là một tín hữu
ngoan đạo. Nhưng tôi không thể để cho người ta bắn vào sau lưng
binh lính của tôi”.[7]
Mùa xuân năm 1951, nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày sinh thánh
Jean Baptiste de la Salle, Đức Giám mục Lê Hữu Từ đã đọc một bài
diễn văn nảy lửa, ngài kêu gọi: “Người Pháp hãy ở lại Paris và Bảo
Đại về Sàigòn”. 15 ngày sau, con trai của vị Cao uỷ, Bernard de
Lattre, tử trận tại Ninh Bình, sau khi tiểu đoàn do anh chỉ huy đi
ngang qua Phát Diệm và bị giáo dân ùa ra đường la ó, nhục mạ.
242
Từ nghi kỵ đến lời qua tiếng lại, rồi cao điểm là cái chết của cậu
con trai, Cao uỷ De Lattre dồn mọi bực bội lên hai giáo phận miền
duyên hải Bắc kỳ này, do các Đức Giám mục Lê Hữu Từ và Phạm
Ngọc Chi điều khiển.[8] Ông còn nghi ngờ hai địa phận này là “trạm
trung chuyển” hàng hoá từ vùng tự do Thanh-Nghệ-Tĩnh lên chiến
khu Việt Bắc. Ngày 9.6.1951, ông viết thư cho vợ: “Anh phải áp
dụng chính sách cứng rắn đối với các vị Giám mục ( …) Phải chấm
dứt cái trò đi hàng hai ghê tởm này đã gây ra sự bất ngờ ở Ninh
Bình và nếu anh không ra tay chặn lại, sẽ còn gây ra cho chúng ta
nhiều tổn thất nữa. Hình bóng của con trai chúng ta đã theo anh
khắp nơi và cho anh tất cả nghị lực. Hôm nay anh đã quyết định là
nếu các vị Giám mục không nhượng bộ, anh sẽ tuyên bố tình trạng
thiết quân luật đối với hai địa phận này và đặt dưới quyền kiểm soát
của quân đội. Chính phủ đã đồng ý. Em thấy đấy, chúng ta đang
đứng trước một sự thử thách phải dùng sức mạnh, chúng ta phải
hoàn tất”.[9]
Cao uỷ De Lattre sang La Mã và vào triều yết Đức Thánh Cha
Piô XII ngày 18.10.1951. Vatican lúc này đang bị bao trùm bởi bầu
khí chống cộng. Chúng tôi nghĩ Toà Thánh cũng đã không hiểu
tường tận hoàn cảnh của Việt Nam, của Đông Dương.
Ngày 23.10.1951, vị Khâm sứ mới của Toà Thánh Vatican, Đức
Cha Dooley, nhậm chức tại Hà Nội. Hai tuần lễ sau đó, từ mùng 5
đến mùng 10 tháng 11.1951, Đức Khâm sứ chủ toạ hội nghị các
Giám mục Đông Dương. Cao uỷ De Lattre đã dành chiếc máy bay
riêng của ông để phục vụ các Giám mục về phó hội. Ngày 7.11.1951,
ông tổ chức buổi chiêu đãi các vị Giám mục tại “Nhà Pháp Quốc”
(Maison de la France)[10]. Các vị Giám mục Việt Nam đã được “săn
sóc” quá ân cần, đến độ không còn đủ can đảm để lên án chế độ thực
dân Pháp trên Quê hương thân yêu. Ở đoạn đầu của lá thư, các ngài
đã nâng lòng ái quốc (Patriotisme) lên hàng nhân đức (vertu) của
người Công giáo. Tiếc thay, đoạn này lại không có trong bản tiếng

243
Việt. Tại sao vậy nhỉ? Các vị Giám mục Việt Nam bị sức ép từ phía
người Pháp? Hoặc giả các Đức Giám mục không muốn phổ biến
rộng rãi quan điểm này, e rằng thanh niên Công giáo sẽ lên đường đi
kháng chiến hết. Mà đi kháng chiến ở thời điểm đó để chống thực
dân Pháp thì chỉ còn một con đường duy nhất là gia nhập Việt Minh.
Các đảng phái “Quốc gia” cứ nhùng nhằng mãi trong chính sách và
tổ chức, sau cùng bị tiêu diệt và tan rã. Khu an toàn Bùi Chu Phát
Diệm chỉ là chuyện lãng mạn, an toàn nhưng có an toàn đâu, Việt
Minh có thể ra vào như chốn không người.[11] Nhưng trong bản văn
tiếng Pháp thì có đầy đủ hai đoạn thiếu trong bản tiếng Việt (Xin
xem phần phụ lục), phải chăng để “dằn mặt” riêng người Pháp, cũng
là những người Công giáo, lại còn được coi là “trưởng nữ” trong các
Giáo hội Công giáo Châu Âu?
Dẫu sao thì các Giám mục Việt Nam năm 1951 đã làm đầy đủ
vai trò ngôn sứ: lên án học thuyết cộng sản là sai lầm từ bản chất.
Chỉ 40 năm sau, học thuyết và chế độ này đã sụp đổ như lâu đài trên
cát, từ ngay “đất nguồn” của chế độ.
Tưởng rằng đã dẹp bỏ được mọi chướng ngại trong cuộc chiến
chống Việt Minh, Cao uỷ De Lattre gạt sang một bên mọi khuynh
hướng ôn hoà chủ trương đàm phán. Người Công giáo Nguyễn Mạnh
Hà bị trục xuất về Pháp. Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất,
tức cuộc kháng chiến chống Pháp, đã chấm dứt với thất bại của thực
dân Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, dẫn tới Hiệp định Genève chia
đôi Đất Nước, dùng vĩ tuyến 17 làm ranh giới của hai miền.
Quân đội Việt Minh chiến thắng hùng dũng vào tiếp quản Thủ đô
Hà Nội. Giáo phận Hà Nội trở thành cánh chim đầu đàn của Giáo
hội miền Bắc trong cuộc đương đầu mới với Cộng sản.

1954
Tại Toà Giám mục Hà Nội, Đức Cha Giuse Maria Trịnh Như
Khuê đã can đảm giữ cho “…tình hình Địa phận Hà Nội là tương

244
đối ổn định trong thời kỳ lung lạc. Được thế phần lớn là nhờ việc
chủ chăn luôn hiện diện với đoàn chiên, tức là việc Đức Cha Trịnh
Như Khuê không đi Nam, do đó linh mục, giáo dân an tâm ở lại
chung quanh vị chủ chăn lập trường chín chắn”. “…Hà Nội còn có
một ê-kíp linh mục rất năng động. Ở các thành phố, các linh mục đều
ở lại nhiệm sở. Hà Nội, Phủ Lý, Nam Định, đều có các linh mục trẻ
đầy năng động. Ở Hà Nội có các Cha Vinh, Cha Oánh, Cha Thông,
Cha Quynh; ở Nam Định có Cha Nhân. Các ngài đã được đào luyện
tại các Đại Học Công Giáo ở ngoại quốc. Còn lại những Cha Căn,
Cha Tụng, Cha Thuyết, Cha Bàng ở Phủ Lý, Cha Trọng, Cha Vượng
ở Nam Định, hầu hết là những người đứng đầu các lớp học, nên Đức
Cha Khuê đưa về quanh ngài, hoặc ở các nơi quan trọng”.[12]
Trong cuộc gặp gỡ lần đầu với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng sau
ngày tiếp quản thủ đô, Đức Cha Khuê đã đưa ra nhận xét là trong
lịch sử, đã có nhiều chính thể, kể cả những chính thể lúc đầu tỏ ra
thiện cảm với Công giáo, nhưng rồi giữa Công giáo và những chính
thể này vẫn không đi đến chỗ đồng thuận. Nay thì tại miền Bắc Việt
Nam, với chính quyền mới, cho dù đây là một chính thể Cộng sản,
Đức Giám mục Hà Nội sẽ cố gắng làm cho thế giới thấy được rằng
Công giáo và Cộng sản vẫn có thể chung sống hài hoà. Thủ Tướng
Phạm Văn Đồng đã hoan nghênh thái độ này của Đức Giám Mục Hà
Nội. Có lẽ thái độ cởi mở và lạc quan này của Đức Cha Khuê đã bị
ảnh hưởng bởi quan điểm của linh mục thư ký riêng của ngài, Cha
Phạm Hân Quynh, từng du học Âu châu, ở đó ông đã đến thăm
Thành phố Syracuse (Ý) dưới quyền đảng Cộng sản Ý. Cha Quynh
đã được hướng dẫn đi thăm các nhà thờ chật kín giáo dân tham dự
các nghi thức phụng vụ, với lời thuyết minh của Đức Giám mục sở
tại: “Họ là đảng viên Cộng sản cả đấy!” Than ôi, Đông là Đông và
Tây là Tây, cách riêng đảng Cộng sản Việt nam, rất Á Đông, rất Việt
Nam mà không hẳn người nước ngoài nào cũng hiểu thấu đáo.

245
Lợi dụng bầu khí cởi mở trong xã hội sau ngày dành được độc
lập và nhất là trong thời kỳ “sửa sai” sau những năm tháng “cải cách
ruộng đất” tàn bạo và bất nhân, Đức Cha Trịnh Như Khuê đã đi kinh
lý một vòng các giáo xứ thuộc địa phận của ngài, kể cả những giáo
xứ xa xôi hẻo lánh nhất như Trình Xuyên, Vĩnh Trị, Kẻ Đại, Kẻ
Chanh… Đức Giám mục dùng chiếc xe hơi riêng của ngài, có cắm
cờ Hội thánh, cùng với linh mục thư ký, cả hai vị đều mặc tu phục
chỉnh tề. “Thế rồi tối ngày 16 tháng Tư năm 1957, từ Kẻ Sở, người
trở về Hà Nội, qua Phủ Lý đến Ngã tư Vọng, người bị khám giấy và
tước giấy. Nhật ký không nói rõ giấy gì. Có thể là giấy thông hành,
nhưng cũng có thể là giấy chứng minh nhân dân. Không có giấy
thông hành, không có giấy, không có thẻ công dân thì không còn di
chuyển, đi đây đó được. Người như đã mất quyền công dân, đã thành
kẻ tù tội, người không còn được ra khỏi thành phố, không còn được
đi làm nhiệm vụ Giám mục của mình. Người bị quản thúc, bị giam
lỏng.”[13] Sự kiện này đã như một gáo nước lạnh dội vào nguyện ước
sống chung với Cộng sản của Giám mục Hà Nội. Hà Nội không phải
là Syracuse.
Các vị Giám mục khác của miền Bắc cũng lần lượt chịu cảnh
giam lỏng trong Toà Giám mục[14], nhất là từ sau năm 1960, năm mà
miền Bắc đã ổn định xã hội, khởi đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ ở
miền Nam. Các địa phận trống toà đều được Toà Thánh Vatican bổ
nhiệm các vị chủ chăn mới vào thời điểm này. Cái khó đối với các
tân Giám mục là làm thế nào có thể về được Hà Nội hoặc Hải Phòng
để chịu sự tấn phong của các Giám mục sở tại.
Cha Đaminh Đinh Đức Trụ được chỉ định là Giám mục Thái
Bình, “…ngài bí mật lên Hà Nội để được tấn phong Giám mục. Con
đường Thái Bình-Hà Nội dài ngót trăm cây số, ngài đi xe xích lô.
Thực ra trên con đường dài như thế, chủ xe và khách thay nhau
đạp”.[15] Lúc khởi hành là nhá nhem tối, đến Hà Nội là đêm. Đức
Cha Trịnh Như Khuê tấn phong cho ngài trong nhà nguyện riêng bên

246
phòng ngủ. Chỉ có chủ phong và người được tấn phong. Hoàn toàn
bí mật. Lễ tấn phong xong, hai bố con lại thay nhau đạp xe trong
đêm khuya để về tới Thái Bình lúc còn tối. Lễ tấn phong thành công
mỹ mãn. Đúng là hành xử theo cung cách Giáo hội hầm trú thuở xưa.
Được tấn phong rồi, ngài lập lại cung cách tấn phong bí mật cho
cha chính Bùi Chu Đôminicô Phạm Năng Tĩnh. Nhưng lần này
không phải ở Toà Giám mục hay một phòng ốc nào, mà là trên con
thuyền bập bềnh trên giòng sông. Con thuyền chính là biểu hiệu của
Giáo Hội trên mặt biển trần gian. Hai vị gặp nhau trên một khúc
sông, trên con thuyền nan bập bềnh, lễ tấn phong cũng diễn ra bí
mật, trên là bầu trời xanh, dưới là mặt nước sông đang nâng đỡ con
thuyền có hai người Chúa Giêsu chọn làm hai vị “lưới người” đang
chuẩn bị ra khơi để thả lưới trên mặt biển đầy khó khăn và nguy
hiểm, mà kết quả sẽ chỉ được trông đợi ở sự hướng dẫn từ bên trên.
Từ đó Đức Cha Đinh Đức Trụ rút về Toà Giám mục, một ngôi
nhà ba tầng với hàng mấy chục phòng. Nhưng chỉ có một mình ngài
ở đó.[16]
Trường hợp Đức Giám mục Lạng Sơn còn lận đận hơn. Được
Toà Thánh bổ nhiệm cùng thời điểm với các vị Giám mục Thái Bình
và Bùi Chu, nhưng Đức Cha Vincent Phạm Văn Dụ đã phải chờ 19
năm sau, nhân việc di tản khỏi Lạng Sơn để tránh cuộc chiến Trung-
Việt năm 1979, Đức Cha Dụ mới được Đức Cha Phạm Đình Tụng
tấn phong Giám mục tại Bắc Ninh ngày 1.5.1979. Còn thầy Kẻ
Giảng Hoàng Trọng Quỳnh tháp tùng Đức Cha Dụ di tản về Bắc
Ninh, cầm giấy giới thiệu của Đức Cha Dụ về Bùi Chu để được Đức
Cha Đaminh Lê Hữu Cung phong chức linh mục, đêm 28.12.1979,
lúc vị linh mục đã 75 tuổi.[17]
Riêng vị Giám mục Hà Nội, Đức Cha Giuse Maria Trịnh Như
Khuê, nhân phong trào sửa sai của Đảng, ngài đã cho phổ biến lá thư
chung nói về lòng yêu thương. Lá thư đã ảnh hưởng không những
trong địa phận Hà Nội mà toàn Giáo Hội Công Giáo miền Bắc.
247
Nhiều nơi các linh mục đã tổ chức các buổi sám hối công khai để bà
con giáo dân nói lời xin lỗi nhau, nếu đã trót “tố” nhau trong thời cải
cách ruộng đất, và trả lại của cải đã cướp được từ các gia đình địa
chủ. Chia ruộng cho nhà nông nghèo là điều tốt, nhưng cách làm thì
vô nhân đạo. (Xin xem phần phụ lục).
Rồi lần lượt các linh mục chủ chốt quanh Đức Giám mục Hà Nội
bị thanh trừng, mỗi người mỗi vẻ. Đi đầu là Cha chính Địa phận G.B.
Nguyễn Văn Vinh, người đã từng cương quyết không cho Cao uỷ
Đông Dương De Lattre de Tassigny được dự thánh lễ tại nhà thờ lớn
Hà Nội với chiếc ghế bành chễm chệ trên gian cung thánh; người
vẫn tiếp tục giữ ghế giảng viên ngoại ngữ (Latinh) tại Đại học Y Hà
Nội, khiến trong một lần viếng thăm nhà trường (1956), Thủ tướng
Chu Ân Lai của Trung Quốc đã phải sửng sốt khi thấy đến giờ này
mà ở Hà Nội vẫn còn bóng dáng áo chùng thâm trên bục giảng đại
học. Noel 1958, ngày 24.12, nhà cầm quyền Hà Nội huy động lực
lượng đến tự động trang hoàng rực rỡ mặt tiền nhà thờ lớn, không
phải với ý tưởng đạo hạnh mừng Chúa Giáng sinh, mà là với mục
đích tuyên truyền cho người người thấy rằng Nhà Nước chăm lo cho
tôn giáo. Cha chính Vinh cực lực phản đối “hảo ý” này, huy động
thanh niên Công giáo gỡ bỏ cờ quạt, đèn đuốc, có chuyện giằng co
giữa đôi bên, Cha chính Vinh bèn cho kéo chuông, tất cả các chuông,
trong suốt buổi sáng. Một tháng sau, sáng ngày 31.1.1959, Cha chính
Vinh bị kết án 18 tháng tù về tội: “Vô cớ tập họp quần chúng trái
phép phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ gây chia rẽ
trong nhân dân”. Ngày 18.2.1971, Cha Vinh chết rũ tù tại trại giam
Cổng Trời-Hà Giang (tức Công trường 75A Hà Nội). Đúng một năm
sau, Nhà Nước mới cho biết: “Ông Vinh đã chết vào ngày
18.2.1971” với lệnh: “Các ông không được làm lễ áo đỏ hoặc áo
trắng cho ông Vinh”.
Cha Nguyễn Ngọc Oánh được cử đi du học Hoa Kỳ, về nước
trước ngày Hiệp định Genève có hiệu lực, giữ chức thư ký Toà Giám

248
mục thay cho Cha Phạm Hân Quynh được thuyên chuyển về Địa
phận Hải Phòng (1956) theo yêu cầu của đức tân Giám Mục Hải
Phòng Khuất Văn Tạo. Du học ở Mỹ, về Việt Nam đúng thời điểm
Đất Nước bị chia cắt làm hai, không ở Sài Gòn mà lại về Hà Nội,
vậy là có “vấn đề” đấy. Cha Oánh bị quản thúc tại Giáo xứ Truôn
Thượng từ 1961 đến 1982. Cuộc sống quản thúc của ngài chồng chất
khổ ải: được phép dâng lễ ở gian giữa một ngôi nhà mà gian đầu là
chỗ ở của người tù không mang án, gian cuối là chỗ để kiệu và đòn
đám ma, không được tiếp xúc với ai. Có ngày ngài không còn gì để
ăn, tối đến cồn cào ruột gan, bèn đi ngủ để quên đói. Vào giường,
vừa mở tấm chăn ra thì thấy lạo xạo… Chúa ơi! Gạo! Thế là Cha
Oánh bốc một nắm, nổi lửa nấu một chén cháo, húp cho ấm bụng.
Cảnh bi đát cùng đường này chỉ thỉnh thoảng mới gặp phải. Rất nhiều
buổi sáng vừa thức giấc đã thấy một tô phở đặt bên cửa sổ, Cha Oánh
dâng lời tạ ơn, tạ ơn Chúa và tạ ơn tình người, rồi cứ tự nhiên
như…người Hà Nội, ăn xong bát đũa lại được đặt vào chỗ cũ, bát
đũa sẽ biến đi lúc nào không ai hay. Có những ngày sau thánh lễ,
Cha Oánh đi đóng các cửa thì thấy ở chân cột nhà một bó rau, một
khúc cá hoặc một lạng thịt. Cha Nguyễn Ngọc Oánh được giải quản
năm 1982, nhưng chưa thực sự được tự do, phải đợi đến năm 1985
ngài mới được tự do đi lại, nhận chức Chính xứ Giáo xứ Hà Thao và
qua đời tại đây, với chức danh Đức Ông được Toà Thánh ban tặng.
Người viết nhớ tới Đức Giám Mục Phát Diệm, Đức Cha Bùi Chu
Tạo, những buổi tối đi lại lần chuỗi trong vườn Toà Giám mục, bỗng
từ bên ngoài vườn bay vào một bọc lá chuối, mở ra thì có thể bắt gặp
một nắm cơm, một chén cá hay thịt kho, một vài thẻ đường.
Cha Phạm Hân Quynh nhắc lại với người viết nhiều lần rằng giáo
dân miền Bắc, trong những tháng năm gian khổ ấy, đã thương yêu
đùm bọc nâng đỡ các vị chủ chăn với tất cả ân cần. Sau ngày tiếp
quản thủ đô, Cha Quynh được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời vào Phủ
Chủ tịch, cụ Hồ khen Cha là đã có nhiều cố gắng vận động các linh
mục và giáo dân ở lại miền Bắc, không di cư vào Nam. “Ở Hà Nội,

249
Đức Giám mục Trịnh Như Khuê dù không ngăn cản người Công
giáo, vì là sự tự do của mỗi người, song ngài cấm các linh mục không
được bỏ xứ mình mà đi Nam. Linh mục nào rời bỏ nhiệm sở phải có
phép của ngài và ngài chỉ cho phép vì một lý do chính đáng nào đó,
không thể ở lại an toàn ở miền Bắc. Ai đi mà không có phép của
ngài, thì bị treo chén”.[18] Bác Hồ khóc, khóc thật sự, vì thương bà
con vào trong ấy sẽ phải lao động cực khổ rồi bỏ xác ở các đồn điền
cao su. Nhìn những giọt nước mắt của Bác, “cháu” Quynh “ngộ” và
lễ phép thưa lại: “Cháu không dám đi ngược lại chữ ký của Bác”.
Chữ ký của phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ở hội nghị
Genève đã xác nhận quyền tự do đi lại của người dân để tìm nơi định
cư theo ý muốn.
Khi còn giữ chức thư ký của Đức Cha Trịnh Như Khuê tại Hà
Nội, Cha Phạm Hân Quynh đã được tháp tùng Đức Giám mục trong
cuộc gặp gỡ với Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Trong lần gặp gỡ này,
Thủ tướng ngỏ ý muốn lập một uỷ ban làm sợi dây liên lạc giữa Nhà
Nước và Giáo hội. Đức Cha Khuê đề cử Cha Quynh làm đại diện
phía Giáo hội, và Thủ tướng chỉ định luật sư Nguyễn Thành Vĩnh,
một người Công giáo miền Nam tập kết ra Bắc, làm đại diện phía
Nhà Nước. Đức Cha Khuê không đồng ý, ngài yêu cầu Thủ tướng
đề cử một nhân vật không Công giáo, thuộc Trung ương Đảng. Cha
Quynh đã gặp trực tiếp luật sư Nguyễn Thành Vĩnh và trình bày ý
kiến của Đức Giám mục. Sau này có người đã phàn nàn về thái độ
cứng rắn này của Đức Cha Khuê và cho rằng phải chi hồi đó Giáo
hội chấp nhận đề nghị của Thủ tướng, ít ra là cũng đã bắt được một
nhịp cầu dẫn đến cảm thông giữa hai phía. Cha Quynh bảo rằng nói
như vậy là không hiểu tí gì về Cộng sản, bởi theo Cha, nếu cái uỷ
ban ấy hình thành thì chỉ có thể làm tay sai cho chính quyền hoặc bị
tiêu diệt.
Sau cùng thì Uỷ Ban Liên Lạc Những Người Công Giáo Yêu Tổ
Quốc Yêu Hoà Bình (thường được gọi vắn tắt là Uỷ Ban Liên Lạc –

250
UBLL) cũng được hình thành, đứng đầu là linh mục Vũ Xuân Kỷ,
thuộc địa phận Hà Nội và bị Đức Giám mục treo chén. Cùng trong
Uỷ ban này với cha Kỷ là linh mục Nguyễn Tất Tiên, cũng thuộc địa
phận Hà Nội và cũng bị Đức Cha Khuê treo chén như cha Kỷ, và các
linh mục miền Nam tập kết ra Bắc: Hồ Thành Biên và Võ Thành
Trinh. Uỷ ban Liên lạc đặt trụ sở tại nhà các cha Đa minh (Lyon) ở
đường Hùng Vương. Trong thực tế Uỷ ban này chỉ hoạt động (hạn
chế) trong hai địa phận Hà Nội và Hải Phòng, có nơi bị giáo dân tẩy
chay công khai. Cha Võ Thành Trinh từ miền Nam ra, trấn nhậm
giáo xứ Hòn Gai, ngoài tầm kiểm soát của Giám mục, hành lễ vẫn
có giáo dân tham dự vì kẹt hiếm hoi linh mục (Đức Cha Giuse
Trương Cao Đại di cư vào Nam, kéo theo gần hết linh mục đoàn của
địa phận Hải Phòng, chỉ còn lại 8 cha khi Đức Cha Phêrô Khuất Văn
Tạo về nhận địa phận). Thế nhưng khi cần tổ chức thánh lễ hôn phối,
các đôi tân hôn vẫn không quản ngại đường xá xa xôi, đem nhau về
Hải Phòng xin lễ cho chắc ăn. Để cha quốc doanh dâng lễ e không
thành. Tháng 3 năm 1958, phái đoàn UBLL tỉnh Nam Định gồm các
linh mục Nguyễn Thế Vịnh và Nguyễn Tất Tiên về làm việc với Giáo
xứ Kẻ Chanh (Địa phận Hà Nội), với mục đích tuyên truyền chính
sách tôn giáo của Nhà Nước. Phái đoàn được đãi đằng cơm rượu tại
nhà cụ trùm theo lời đề nghị của UBLL Xã, nhưng khi phái đoàn đề
nghị được dâng lễ tại nhà thờ, Cha chính xứ Tôma Nguyễn Khắc
Ứng từ chối, cho khoá cửa nhà thờ.
Việc ra đời của UBLL cũng đã làm phát sinh ra được một điệu
đàn, thật bất ngờ và ngang cung, giữa hàng Giám mục miền Bắc lúc
bấy giờ (1955). Đó là lá thư “chào mừng” của Đức Giám mục Bắc
Ninh Đôminicô Hoàng Văn Đoàn. Chỉ là “chào mừng” thôi nhưng
lá thư cũng đã làm nóng mắt Đức Khâm sứ Dooley và bộ tham mưu
đầu não của địa phận Hà Nội. Nhân việc Đức Cha Đoàn đi thăm một
số giáo xứ năm 1954, khi về tới ngã ba Đình Trám, ngài bị dân quân
địa phương bắt giữ và đánh gãy chân vì bị tình nghi là người Pháp.

251
Đức Cha có một ngoại hình rất…tây: cao, to, bộ râu quai nón rậm
rạp.[19]
Ngài được đưa về băng bó chữa trị tại Ngọc Lâm, cách nơi bị nạn
khoảng 6 cây số. Kể ra thì vết thương cũng không quá trầm trọng,
phương pháp băng bó gân cốt với các loại thuốc cổ truyền của dân
gian ta cũng thừa sức chữa chạy. Đức Cha Hoàng Văn Đoàn vẫn giữ
lập trường như vị Giám mục địa phận láng giềng gần gũi Hà Nội, là
không di cư vào Nam. Tuy nhiên tiếng đàn ngang cung của ngài đã
dẫn đến việc Đức Khâm sứ yêu cầu ngài qua Hồng Kông chữa trị.
Quần chúng vốn thông minh và bén nhạy đã nắm bắt ngay được vấn
đề, với câu ca dao truyền miệng:
“Hoàng Văn Đoàn đi Hồng Kông
Chân chữa không khỏi còn mong gì về.”
Đức Cha Đoàn sau khi chữa lành vết thương đã trở lại Việt Nam,
nhưng không phải về miền Bắc mà là về miền Nam. Ngài được Toà
Thánh chỉ định làm Giám mục địa phận Quy Nhơn, cho đến ngày
ngài qua đời 20.5.1974. Trước ngày Đức Cha đi Hồng Kông, ngài
đã thức trắng đêm với Cha Phạm Hân Quynh, trao đổi nhiều chuyện,
cách riêng về vấn đề UBLL, ngài vẫn quả quyết là ngài không ủng
hộ, ngài chỉ ngỏ ý chào mừng mà thôi. Lập trường này đã được Cha
Quynh giải bày trong một lá thư gửi khắp nơi, in 20.000 bản và cho
thanh niên đạp xe đem đến từng giáo phận, giáo xứ khắp miền Bắc.
Công an mời Cha Quynh và Cha Trịnh Văn Căn khi đó là chính xứ
nhà thờ lớn đến trụ sở CA “làm việc”. Cha Quynh xác nhận là người
thực hiện lá thư và viết theo ý của Đức Cha Đoàn. Địa phận Bắc
Ninh được đặt dưới quyền giám quản của Đức Giám mục Hải Phòng
Phêrô Khuất Văn Tạo, cho đến năm 1963, năm nhận giáo phận của
Đức tân Giám mục Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng.
Một tuần lễ trước ngày ra mắt UBLL tại Nhà hát lớn Hà Nội, luật
sư Điện còn mời các linh mục Phạm Hân Quynh, Đỗ Tông và Phạm
Đình Tụng tới tư gia thảo luận và tha thiết mời Cha Quynh giữ chức
252
chủ tịch UBLL thay cha Vũ Xuân Kỷ. Cha Quynh vẫn cương quyết
chối từ lời mời này, bởi lẽ ngài không muốn làm tay sai hoặc bị huỷ
diệt. Tuy vậy ngài vẫn khuyên UBLL trước lúc ra mắt, nên vào chào
Đức Giám mục như một cử chỉ xã giao thiện ý. UBLL đã không làm
theo lời gợi ý này. Từ ấy Uỷ Ban Liên Lạc đã như một vật dị ứng
được cấy vào cơ thể Giáo hội miền Bắc, lạc lõng với sinh hoạt của
Hội Thánh và chịu sự lạnh nhạt của cộng đoàn dân Chúa. UBLL chỉ
còn một việc là làm theo mệnh lệnh của Đảng Cộng sản đang lãnh
đạo tuyệt đối và toàn diện toàn miền Bắc Việt Nam.
Tự coi như một thành phần của dân tộc, ngay từ những ngày đầu
kháng chiến, Giáo Hội Công Giáo đã nhập cuộc với toàn dân. Chưa
bao giờ Giáo Hội coi mình là nhóm người khác để phải xin “đồng
hành” với Dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi Giáo Hội Công
Giáo Việt Nam như một loại học sinh cá biệt trong một lớp học, áp
dụng mọi biện pháp chuyên chính và nghiệt ngã đối với người Công
giáo, đến lúc thành lập nhịp cầu Uỷ Ban Liên Lạc thì lại là nhịp cầu
khập khiễng, “gập ghềnh khó đi” đối với người Công Giáo.
Bản thân Cha Phạm Hân Quynh, người được cụ Hồ Chí Minh, Thủ
tướng Phạm Văn Đồng và Đại Tướng Võ Nguyên Giáp trọng nể, vậy
mà cũng bị quản thúc tại một giáo xứ nhà quê suốt 28 năm (1960-
1988), tuy không bị đối xử nặng tay như với một số vị linh mục khác
trong thời gian quản thúc, nhưng vẫn là tù, chịu sự kiểm soát của các
cán bộ địa phương thiếu hiểu biết.

1975
Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai kết thúc, với việc Đảng
Cộng sản Việt Nam thu trọn quyền hành trên cả nước từ tay chính
quyền Việt Nam Cộng Hoà ở miền Nam được sự yểm trợ của chính
phủ Hoa Kỳ. Những lời tuyên bố của các yếu nhân Hà Nội vào những
ngày đầu thống nhất Đất Nước: rằng chỉ có đế quốc Mỹ là kẻ chiến
bại, còn toàn dân ta là người chiến thắng; rằng từ nay chúng ta không
còn làm tính trừ nữa, chỉ làm phép tính cộng thôi. Chao ôi! chỉ là

253
hoa mỹ. Phép tính trừ đã được áp dụng trong mọi lãnh vực của xã
hội miền Nam, đặc biệt là đối với Giáo Hội Công Giáo.
“Cứ cho là chính sách của Đảng và Nhà Nước là đúng đắn, cho
dù ngay cả cái nghị quyết 297/CP của Hội Đồng Chính Phủ ngày
11.11.1977 về một số chính sách đối với tôn giáo vẫn chưa rõ nét và
do đó còn nhiều áp dụng tuỳ tiện, tuỳ địa phương, tuỳ quan niệm và
tâm tính của cán bộ. Chúng tôi nói “cứ cho là” có nghĩa rằng tạm
chấp nhận như vậy, chứ thật ra việc cấm các học sinh Công giáo thi
vào trường này trường nọ thì chắc chắn không phải là sáng kiến của
một ông hiệu trưởng. Và rồi than thở đó đây rằng người Công giáo
là công dân hạng hai. Ngay cả trên báo chí của Đảng, những người
biên tập, khi phổ biến những chính sách của Nhà Nước, vẫn vô tình
thòng thêm một câu quen miệng: “…kể cả đồng bào theo đạo và
người gốc Hoa”. Tại sao chúng ta lại không có một loại công dân
thôi?”[20]
Cũng như thái độ cởi mở của Đức Giám mục Trịnh Như Khuê
trong những ngày đầu giải phóng thủ đô Hà Nội, các Đức Tổng Giám
mục Philipphê Nguyễn Kim Điền ở Huế và Phaolô Nguyễn Văn
Bình ở Sài Gòn đều tỏ ra sẵn sàng chung vai với chế độ mới (Xin
xem phần phụ lục).
Trở lại với Giáo hội Công giáo miền Bắc, kể cả khi Đảng Cộng
sản đã nắm quyền kiểm soát toàn Đất Nước, người Công giáo vẫn
chưa hưởng bầu khí tự do hơn. Các linh mục bị quản thúc, các giáo
dân bị đi tù từ đầu thập niên 60 mà không có án, phải đợi đến giữa
thập niên 80 của thế kỷ trước mới được hưởng tự do. Trước đó,
nguyên cớ để bị đi tù thường rất buồn cười: cứ tiếp tục ngoan cố
đi…tu chui mà không chịu về nhà lập gia đình như bao chàng trai
khác[21] cứ gan lì lập các nhóm cầu nguyện, hoặc đơn giản vâng lời
cha xứ, nhân lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, kẻ một biểu ngữ với
hàng chữ “Ngài đến đổi mới mặt địa cầu”. Cái từ “đổi mới địa cầu”
này nghe có vẻ nổi loạn quá, thế là thay vì bắt cha chính xứ Phạm

254
Hân Quynh, nhà cầm quyền đã bắt ông Sao, người thực hiện biểu
ngữ, và ông Tạc, ca trưởng của giáo xứ Đông Xuyên. Hai ông đã
ngồi tù 3 năm. Ấy là vào năm 1986.
Giáo xứ Đông Xuyên thuộc địa phận Hải Phòng. Cũng tại vùng
này, sau năm 1975, say men chiến thắng, chính quyền địa phương
phát động phong trào phá huỷ các nhà thờ không có linh mục cai
quản. Một nhà thờ họ của Giáo xứ Đông Xuyên đã bị phá huỷ. Bỗng
nổ ra chiến tranh biên giới phía Bắc với Trung Quốc và biên giới
Tây Nam với Kampuchea, năm 1979, phong trào phá huỷ nhà thờ
này được ngưng lại, dành mọi nỗ lực cho việc chống ngoại xâm.
Không thể kể hết ở đây những cách đối xử phân biệt mà Đảng
Cộng sản đã dành cho Giáo hội Công giáo Việt Nam, cách riêng
Giáo hội miền Bắc mà phạm vi bài viết này đòi hỏi, kể cả khi Đất
Nước đã được thống nhất. Có những chị nữ tu thuộc một dòng tu bị
giải tán, các chị vẫn quy tụ chung sống với nhau để tiếp tục đời tu
trì. Rồi một hôm có một số tù nhân cải tạo từ miền Nam ra lao động
gần chỗ các chị ở, ngồi trong nhà, các chị hát vọng ra những bài
thánh ca quen thuộc, các tù nhân Công giáo cảm thấy ấm áp cõi lòng,
ngỡ ngàng và hiệp thông, ngày ra trại họ kể cho chúng tôi nghe sự
việc hy hữu này. Có những cụ Trùm Họ hàng tuần đạp xe hàng chục
cây số, rước Mình Thánh Chúa về cho giáo hữu trong Họ dự tiệc
thánh sau buổi sinh hoạt phụng vụ Lời Chúa sáng Chúa nhật vì
không có linh mục dâng lễ. Sau đó thì ngọn đèn chầu cháy sáng suốt
tuần lễ, ấm áp quy tụ cộng đoàn kinh hạt sớm chiều.
Vài nét phác thảo “hạ tầng cơ sở” của Giáo hội miền Bắc, ở
những nơi hẻo lánh xa xôi. Một điều may mắn cho Giáo hội, kể từ
khi dựng lều trên Quê hương Đại Việt, cứ sau những năm tháng chia
cắt vì thời cuộc, Trịnh-Nguyễn rồi Bắc-Nam, cứ sau những đắng cay
phân sáp tan tác, thì Giáo hội lại quy tụ dưới sự dẫn dắt của các vị
chủ chăn, của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, khôn ngoan và đạo
đức. Các Đức Giám mục đã về họp Đại Hội Toàn Quốc tại thủ đô

255
Hà Nội từ ngày 24 tháng 4 đến ngày 1 tháng 5 năm 1980. Dịp này
các ngài đã nhận ra rằng “mặc dầu sống xa nhau, tâm hồn chúng tôi
vẫn là một, và cùng chia sẻ những nỗi âu lo, niềm phấn khởi và
nguyện vọng của toàn thể Dân Chúa trên Đất Nước thân yêu này”.[22]
Đại hội này của các Giám mục Việt Nam được coi như là cuộc
gặp gỡ lịch sử, bởi vì “kể từ lúc thành lập hàng Giáo phẩm Việt Nam
vào năm 1960, và nhất là từ ngày Nước nhà được thống nhất, chúng
ta đều ước mong có cuộc họp này”. Kế đó, các Giám mục “thành
thật biết ơn chính phủ đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho Đại
hội này”, để đến “Trước khi bế mạc Đại hội, chúng tôi đã vào lăng
kính viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, và đã đến yết kiến Thủ tướng
Chính phủ”.
Thư Chung của các Giám mục Việt Nam 1980 khuyên bảo Dân
Chúa phải đồng hành với Dân Tộc, mà cụ thể là “Tích cực góp phần
cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng Tổ quốc”. Cũng như Thư
Chung 1951 các Giám mục đã đặt lòng yêu nước lên hàng nhân đức,
trong Thư Chung 1980, các Giám mục đã khẳng định: “Yêu Tổ quốc,
yêu đồng bào đối với người Công giáo không những là một tình cảm
tự nhiên phải có, mà còn là một đòi hỏi của Phúc Âm”. Rồi các Giám
mục kêu gọi Dân Chúa đừng nhìn quá khứ với mặc cảm, mạnh dạn
nhìn vào hiện tại và tin tưởng ở tương lai. Cũng như Thư Chung
1951, các Giám mục hồi đó đã không đủ cái dũng để phê phán thực
dân Pháp, thì trong Thư Chung 1980, các Giám mục Việt Nam cũng
làm ngơ trước một thực tại đang gây nhiều bất công chia rẽ do Đảng
Cộng sản thực hiện: chính sách học tập cải tạo và đánh tư sản, gần
gũi các Giám mục hơn cả là các linh mục, chủng sinh miền Bắc còn
đang ngồi tù hoặc bị quản thúc từ những năm 60 mà không có án
lịnh, tại miền Nam, hàng trăm linh mục tuyên uý đi tù, chỉ vì đã vâng
lời các Giám mục làm tuyên uý trong quân lực Việt Nam Cộng Hoà,
và chỉ một năm trước đó (1979) là vụ chiếm đoạt 5 nhà dòng ở Thủ
Đức với những lý do không thuyết phục. Chúng tôi nhớ tới lá Thư

256
Chung 1956 đầy dũng cảm của Đức Cha Trịnh Như Khuê đề cao
lòng yêu thương khi mà ngoài xã hội, hận thù và máu lửa đang ngùn
ngụt trong khắp hang cùng ngõ hẻm.
Nhìn vào tương lai, các Giám mục của Thư Chung 1980 cũng
không “ngôn sứ” được điều gì để hướng dẫn đoàn chiên: nền kinh tế
bảo thủ bao cấp đang đưa Đất nước đến bờ vực thẳm, những chèn ép
tôn giáo sẽ dẫn Dân Chúa đến nhiều đắng cay như vụ phong thánh
(1988), những quyết đoán độc Đảng đã dẫn đến xã hội băng hoại như
hôm nay: một chính sách giáo dục lạc hậu làm hư hỏng nhiều thế hệ,
một xã hội thống trị bởi tham nhũng và cường bạo… Tất cả đã không
được Thư Chung 1980 của các Giám mục Việt Nam đả động tới.
Nói cho cùng thì chỉ vì sự đe doạ ngự trị bàng bạc khắp nơi, các
Giám mục cũng không thoát khỏi sợ hãi. Lúc sinh thời, Giáo sư
Nguyễn Ngọc Lan thường kể cho chúng tôi nghe câu chuyện khi ông
tham dự Hội Nghị Liên Tịch Thống Nhất Mặt Trận. Ngoài Bắc có
Mặt Trận Tổ Quốc, trong Nam có Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam,
khi quyết định thống nhất hai Mặt trận, lại dùng tên Mặt Trận Tổ
Quốc. Giáo sư Lan bèn xin có ý kiến, rằng nên có một tên mới (chẳng
hạn Mặt Trận Việt Nam) để cho có vẻ thống nhất mà không nặng vẻ
“thôn tính”. Bỗng từ hàng ghế các yếu nhân trên cùng, một gương
mặt quyền uy lúc bấy giờ quay xuống “chiếu tướng” giáo sư Lan. Vị
giáo sư nhiệt tình từng là cựu linh mục cấp tiến, từng vào bưng giữa
thời chống Mỹ cứu Nước, bèn “tịt ngòi”. Và tịt ngòi, từ ấy!
Trước thái độ thân thiện của Thư Chung 1980, Đảng Cộng sản
lại một lần nữa đưa ra một giải pháp thiếu thuyết phục: thành lập UỶ
BAN ĐOÀN KẾT CÔNG GIÁO YÊU NƯỚC (gọi tắt là Uỷ Ban
Đoàn Kết – UBĐK), thay thế Uỷ Ban Liên Lạc. Một Đại hội của giới
Công giáo được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 7 đến 10 tháng 11 năm
1983 để thành lập UBĐK, với vị Chủ tịch là linh mục Nguyễn Thế
Vịnh. Linh mục Phạm Hân Quynh, từ nơi bị quản thúc là giáo xứ

257
Đông Xuyên, đã gửi thư cho Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình
và đề nghị ba điểm liên quan đến việc hình thành UBĐK:
1/ Buộc những linh mục nào tham gia vào UBĐK phải được phép
của Giám mục giáo phận.
2/ Uỷ Ban Trung Ương phải được sự chấp thuận của Hội Đồng
Giám Mục.
3/ Các vị Giám mục được quyền sửa sai những hành động sai trái
của UBĐK.
Cả ba ý kiến trên đây đều đã không được áp dụng, đơn giản là vì
UBĐK là thành viên của Mặt trận Tổ Quốc, MTTQ chịu sự lãnh đạo
của Đảng. Không thuộc Giáo Hội, nhưng vẫn dựa hơi Đảng để “hù
doạ” Giáo Hội. Phần Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình, một
con dân Nam Bộ hiền hoà dễ tính: “Chúng tôi dựa vào UBĐKCGYN
để giải quyết một số vấn đề. Chẳng hạn, nếu tôi muốn triệu tập tín
hữu mà xin phép Nhà Nước, Nhà Nước sẽ không cho. Nhưng nếu tôi
nhân danh UBĐKCGYN để triệu tập tín hữu thì Nhà Nước sẽ cho
phép dễ dàng”.[23]
Thế là không có chuyện khó dễ như đối với UBLL, hơn thế nữa,
còn điều động khối Công giáo. “Tôi (Lm Vương Đình Bích) đã thành
khẩn nói với hai anh Từ (Lm Phan Khắc Từ) và Cần (Lm Trương Bá
Cần) là vấn đề thật của tổ chức chúng ta, không phải là nhóm nghiên
cứu, mà là nhóm bốn anh em chúng tôi, Minh Cần Từ Bích, đã được
lãnh đạo gầy dựng và giao cho nhiệm vụ điều động phong trào Công
giáo yêu nước tại Thành Phố này” (Trích trong bản tường trình gửi
lãnh đạo Thành Phố).
Trong một lần về thăm Quê nhà sau năm 1975, ông Nguyễn
Mạnh Hà đã phải thốt lên: “Đảng có cái đầu, Giáo hội Công giáo
cũng có cái đầu, tại sao hai cái đầu lại không nói chuyện thẳng với
nhau mà lại cứ phải nói qua cái đầu gối”.

258
Nghĩ cho cùng, kể từ khi các Đức Giám mục mở các cuộc hội
nghị thường niên và sau đó ban hành các Thư Chung gửi cộng đoàn
Dân Chúa, chỉ có lá thư do Đức Cha Chủ tịch Phêrô Nguyễn Văn
Nhơn ký ngày 25.9.2008, sau Hội nghị thường niên lần 2 năm 2008
của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhóm họp tại Toà Giám Mục
Xuân Lộc là chững chạc đường hoàng. Lá thư gửi Uỷ Ban Nhân Dân
Thành Phố Hà Nội để trả lời văn thư số 1437/UBND-NC ngày
23.9.2008 của ông Chủ tịch UBND Tp. Hà Nội, đồng thời kèm theo
một bản “Quan điểm của HĐGMVN về một số vấn đề trong hoàn
cảnh hiện nay”. Các Đức Giám mục đã trao đổi thẳng với nhà cầm
quyền mà không cần nhờ vả các “đầu gối”, đã mạnh dạn nói lên
những quan điểm không làm hài lòng nhà cầm quyền về một số vấn
đề trong xã hội (Xin xem phần phụ lục).
***
Còn nhiều điều muốn nói, còn nhiều chuyện cần được sự chỉ giáo
của các bậc trưởng thượng và các thân hữu ngoài Bắc, còn những
giáo phận mà sự hiểu biết của người viết về thời điểm này còn quá
sơ sài. Khi đặt dấu chấm hết cho bài viết này, người viết chỉ coi đây
là một bản sơ thảo cho một nghiên cứu đòi hỏi nhiều chi tiết đầy đủ
hơn nữa. Rất mong nhận được sự chỉ giáo của bạn đọc, nhất là bạn
đọc ngoài Bắc, để khoảng trống này của lịch sử Giáo hội Công giáo
Việt Nam được lấp đầy đặn. Tôn trọng sự thật, không ngại nói lên sự
thật trọn vẹn, người viết cũng luôn tâm niệm rằng “Các dân tộc qua
đi, các ngai vàng sụp đổ, Nhà Thờ vẫn đứng vững” (Napoléon I).

Tp. HCM, Xuân Kỷ Sửu 2009.

(1) Đoàn Độc Thư và Xuân Huy: “Giám mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm, 1945-
1954, Sài gòn, trang 37.
(2) Bernard Fall, “Le Viet Minh”, Armand Colin, 1960, trang 165.
(3) Hồi đó báo Nhân Dân ra hai ngày 1 số.

259
(4) Vũ Sinh Hiên: “100 năm Giáo Phận Phát Diệm”, Tp. HCM, 2001, trang 32-33.
Theo lời kể của ông Nguyễn Đức Hiệp, nguyên Chủ tịch Uỷ ban Hành chính
Kháng chiến Kim Sơn, Kỷ yếu Phát Diệm 1891-1991, trang 207.
(5) Đoàn Độc Thư và Xuân Huy, Sđd, trang 94.
(6) Đoàn Độc Thư và Vũ Huy Bá, sđd, trang 166.
(7) Trần Thị Liên: “De Lattre au Vietnam, 1951 L’année de la Croisade”, Luận
văn Cao Học Chính Trị, Paris, 1987-1988, trang 143.
(8) Đức Cha Phạm Ngọc Chi được tấn phong làm Giám mục Bùi Chu ngày
4.8.1950. Ngài nguyên là Giám đốc Đại Chủng viện Thượng Kiệm của Địa
phận Phát Diệm.
(9) Trần Thị Liên: sđd, trang 145.
(10) Trần Thị Liên: sđd, trang 146.
(11) Xin xem: Vũ Sinh Hiên: “Nhật ký của Cụ Sáu Việt Minh” Sàigòn, 2007.
(12) Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng: “Những câu chuyện về một thời”, tập 2, trang
186, Hà Nội 2007.
(13) Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên: “Lược sử Địa phận Hà Nội 1626-1954”,
Sàigòn 1994, trang 583.
(14) Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan lúc sinh thời đã gọi Toà Giám mục là “Trại giam
mới”.
(15) Người viết đã được hân hạnh diện kiến “chủ xe”, một thầy Kẻ Giảng.
(16) Đức Cha Lê Đắc Trọng, Sđd, trang 190.
(17) Vũ Sinh Hiên: “Quê hương và Hội Thánh từ những chuyến đi” 1999, trg. 33.
(18) Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng, Sđd, trang 183.
(19) Giáo dân Bắc Ninh vẫn còn lưu truyền câu ca dao nói về Đức Cha Đoàn:
“Có râu thì bảo là Âu
Không râu thì bảo là Tàu, khổ chưa!”
(20) Vũ Sinh Hiên: “Giáo Hội Công Giáo tại Tp HCM”. Tài liệu viết theo yêu cầu
của Ban Khoa Học Xã Hội Thành Uỷ, 1990, đăng lại trên tập san TIN NHÀ,
số mùa xuân 1994, Paris, trang 21.
(21) Các Chủng viện “chui” ở miền Bắc là Chủng viện Gioan (Hà Nội), Chủng
viện Maria (Bắc Ninh), Chủng viện Mẫu Tâm (Bùi Chu).
(22) Trích Thư Chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ngày 1.5.1980. Xin
xem phần phụ lục.
(23) Đức Cha Nguyễn Văn Bình trả lời phỏng vấn của báo Il Regno Attualita ngày
15.4.1990.

260
VỤ PHONG THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM


PHÁT BIỂU CỦA ÔNG NGUYỄN QUANG HUY, TRƯỞNG BAN TÔN GIÁO
CHÍNH PHỦ, TẠI HỘI NGHỊ CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
- Tháng 3/1988 -

Hiện nay đồng bào theo đạo Thiên Chúa ở nước ta đang đứng
trước một vấn đề tế nhị và phức tạp có liên quan đến mối quan hệ
giữa đời và đạo, Nhà nước và Giáo hội, Dân tộc và Tòa thánh.
Đó là việc Tòa thánh Vatican quyết định nâng lên hàng Hiển
thánh 117 Chân phúc tử đạo tại Việt Nam, và sẽ làm lễ phong thánh
tại Roma vào ngày 19-6 tới đây. (Xem bài "Tiến Trình Phong Thánh"
của Lm. Nguyễn Ðức Việt Châu, http://www.dunglac.org/)
Sự việc này không chỉ là việc nội bộ của Giáo hội, mà còn có liên
quan sâu sắc đến mối quan hệ đạo và đời, giữa đạo này với đạo khác,
giữa người theo đạo Thiên Chúa với người không theo đạo Thiên
Chúa ở nước ta.
Nó không phải chỉ là một nghi thức tôn giáo đơn thuần, mà còn
đụng chạm đến những vấn đề lịch sử của dân tộc ta.
Nó không phải chỉ thuộc về thẩm quyền trong quan hệ giáo quyền
đơn phương giữa Tòa thánh Vatican với Giáo hội Thiên Chúa Việt
Nam và Giáo hội một số nước có giáo sĩ đến truyền giáo tại Việt
Nam, mà còn đụng chạm tới chủ quyền dân tộc và uy tín quốc gia
của nước ta trong các mối bang giao quốc tế giữa các nhà nước và
trước những hành động của các tổ chức nước ngoài với Tổ quốc ta,
Dân tộc ta.

261
Trong những ngày vừa qua, ý thức được trách nhiệm đối với tín
ngưỡng của mình, nhiều giáo dân, giáo sĩ và nhân sĩ Thiên Chúa giáo
đã có những cuộc hội họp, phát biểu ý kiến, nói lên những suy nghĩ,
băn khoăn. Nhiều người đã đưa ra những giải pháp cụ thể.
Nhiều người không theo đạo Thiên Chúa, giới Sử học và các nhà
khoa học khác, trong tinh thần bảo vệ khối đoàn kết dân tộc và tinh
thần khoa học khách quan, bảo vệ chân lý lịch sử, cũng muốn lên
tiếng tham gia.
Còn ở nước ngoài, ngay tại Rôma, các chương trình phát thanh
đạo Thiên Chúa bằng tiếng Việt vẫn không ngừng loan tin và đề cao
việc phong thánh sắp tới như là một sự kiện quan trọng trong hoạt
động của Tòa thánh trong năm nay.
Đối với một việc hệ trọng như thế mà Giáo hội Việt Nam từ Hội
đồng Giám mục đến giáo sĩ và giáo dân đã không được bàn trước.
Nhà nước ta đã không được tham khảo ý kiến. Từ cuộc họp giữa Ban
Tôn giáo Chính phủ với Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục (tháng
9-1987) đến nay, tình hình chưa có dấu hiệu gì để có thể yên tâm. Vì
thế, Ban Tôn giáo của Chính phủ đã yêu cầu cụ Hồng y mời các cụ
Giám mục trong các giáo phận trong cả nước về họp để các Cụ bàn
bạc và cùng chúng tôi tìm cách giải quyết hợp lý hợp tình.
Việc thờ kính các thánh trong tôn giáo là điều bình thường, việc
phong thánh ở các nước xưa nay cũng là bình thường, không những
không gây những xáo trộn tâm lý-xã hội lớn, mà còn đem lại niềm
tự hào nỗi vui mừng và nguồn cổ vũ đối với người có đạo, được sự
chấp thuận, tán thành, có khi cùng vui mừng với nhân dân cả nước.
Nhưng việc phong thánh lần này của Tòa thánh Vatican đối với
nước ta là một việc làm không bình thường. Do nội dung và hình
thức của nó, do cách tiến hành cũng như hậu quả của nó, việc làm
này đã gây nên một tình hình nghiêm trọng, không lợi gì cho đạo mà
gây khó xử cho giáo sĩ và giáo dân trong nước, xuyên tạc lịch sử dân

262
tộc, xúc phạm tình cảm của những người ngoài đạo, ảnh hưởng xấu
đến đoàn kết toàn dân, làm thương tổn mối quan hệ đang tiến triển
thuận lợi giữa Nhà nước và Giáo hội, gây trở ngại cho lòng mong
muốn có quan hệ thiện chí và hữu nghị giữa Việt Nam và Vatican.
Mỗi nước, mỗi dân tộc có đặc điểm và truyền thống riêng. Ở nước
ta, có đặc điểm riêng của dân tộc ta. Truyền thống của nước ta là dân
tộc đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau, nhất là khi có bọn ngoại
xâm, là giải quyết việc gì cũng lấy nghĩa chung làm trọng. Tình dân
tộc, nghĩa đồng bào thật sự đã thành thịt xương, thành máu mủ của
nhân dân ta. Từ đời này qua đời khác, hàng bao thế hệ đã đổ máu
xương để cho dân tộc được độc lập tự do. Truyền thống này đã thấm
sâu vào nhân dân ta.
Từ thế kỷ XVI, do giao lưu quốc tế phát triển trên nền phát triển
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phương Tây, đạo Thiên
Chúa vào Việt Nam bằng công cuộc truyền giáo của các giáo sĩ
người phương Tây. Việc du nhập này, diễn ra vào thời điểm chủ
nghĩa tư bản phương Tây đã chuyển sang giai đoạn của chủ nghĩa đế
quốc đi chiếm lĩnh thuộc địa, làm cho giữa lịch sử truyền giáo và quá
trình xâm lược của chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam đã có những
mối quan hệ gắn bó khăng khít chặt chẽ, thậm chí có lúc lẫn lộn, khó
phân biệt.
Không phải các sử gia ngoài đạo, mà chính các giáo sĩ Thừa sai
và sử gia Thiên Chúa giáo đã xác nhận "thanh gươm Pháp quốc" đã
giúp sức cho Giáo hội đứng vững và cắm rễ tại nước ta. Cũng chính
lịch sử Giáo hội và các giáo sĩ Thừa sai đã viết không biết bao nhiêu
sách vở để giới thiệu và ca tụng công lao của các vị Thừa sai làm lợi
cho Tổ quốc quê hương của họ trong khi đi truyền đạo. Nhiều vị
Thừa sai quá hăng hái còn nói trắng ra nguyện vọng của mình là
muốn biến mảnh đất Việt Nam này thành "một nước Pháp thu nhỏ
lại ở vùng châu Á".

263
Chủ nghĩa thực dân hung hãn và xảo quyệt đã lợi dụng đạo Thiên
Chúa một cách thô bạo, trắng trợn. Nhiều vị chủ chăn cũng muốn
dựa vào quyền lực thực dân để truyền đạo và làm lợi cho đạo. Tình
hình này đã để lại cho dân tộc ta và cho đạo Thiên Chúa ở nước ta
nhiều mắc mứu lịch sử cho đến nay chúng ta vẫn còn phải giải quyết.
Điều đau buồn cho dân tộc ta là lịch sử truyền đạo Thiên Chúa
vào Việt Nam đã gây ra những trang thấm máu. Hơn ai hết, nhân dân
ta, lịch sử của nước ta, những người đang sống ngày hôm nay để bảo
vệ và xây dựng đất nước này có quyền và có thể nói một cách xác
thực vấn đề này.
Thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam 1980 đã khẳng
định: “Lịch sử của đạo xen lẫn ánh sáng và bóng tối”. Trong bóng
tối của lịch sử thời đó, chúng ta đang muốn tìm ra những lời giải đáp
minh bạch trước sự thực đau lòng của quá khứ: khi đạo được tự do
truyền bá thì dân tộc bị làm nô lệ, kể cả dân có đạo. Khi Giáo hội
được tôn vinh là trưởng nữ của Hội thánh ở Á Đông thì hai tiếng
Việt Nam bị xóa tên trên bản đồ thế giới. Còn gì nhục bằng nhục mất
nước. Còn gì đau khổ bằng bị nô lệ, làm thân trâu ngựa. Lúc đó Giáo
hội ở đâu? Ai là người tìm vinh quang cho riêng mình, ai là người
trăn trở vì tình dân tộc, nghĩa đồng bào? Ai là người say mê quyền
lực trần thế? Ai là người lên tiếng vì Tình thương, Lẽ phải và Đạo lý
chân thực?
Chúng tôi vẫn biết rằng ngay từ đầu và trong suốt lịch sử của đạo
tại nước ta, đã có nhiều người theo đạo Thiên Chúa yêu nước. Sử
liệu còn ghi khi Pháp tiến chiếm Nam kỳ, có những giáo dân không
chạy về đồn giặc mà ở lại giúp đỡ nghĩa quân, có những nhân sĩ tôn
giáo kể cả giáo sĩ tận tụy bày mưu giúp nước. Họ là những người đã
giúp trọn vẹn tấm lòng trung trinh với tổ quốc. Rất tiếc các tài liệu
chính thức của Giáo hội ít nói đến họ, chưa biểu dương họ.
Những sai lầm của những người có trách nhiệm trong quá khứ đã
đặt đồng bào theo đạo Thiên Chúa lúc đó đứng trước một chọn lựa
264
bi thảm: được đạo thì mất nước, mà mất nước thì đạo cũng không
hay gì, giáo dân và giáo sĩ bản quốc cũng bị áp bức, chèn ép. Trước
sự thách đố đó, nhiều người đã lầm tưởng: được nước thì mất đạo;
ngược lại thậm chí có những người còn suy nghĩ sai lầm rằng: muốn
giữ nước thì phải triệt đạo. Đó là điều sai lầm và bi thảm. Bế tắc
trong phương hướng giải quyết trước sự tiến công hung hãn của chủ
nghĩa thực dân, triều đình phong kiến đã không thống nhất được
nhân tâm, không đoàn kết được toàn dân để đánh giặc, lại để xảy ra
những cảnh cốt nhục tương tàn làm suy yếu sức mạnh của dân tộc,
tạo cơ hội cho giặc Pháp cướp được nước ta.
Nhiều giáo sĩ và giáo dân xưa nay khi nói đến các vua chúa cấm
đạo thì chỉ phê phán các vua chúa mà quên mất những âm mưu thủ
đoạn lợi dụng tôn giáo của chủ nghĩa thực dân, và thậm chí cả thái
độ và hoạt động rất đáng phàn nàn của không ít giáo sĩ thừa sai lúc
bấy giờ.
Các triều đại phong kiến Việt Nam cũng như bất cứ triều đại
phong kiến nào lúc bấy giờ đã có những thiên kiến tôn giáo riêng, có
những nghi lễ tôn giáo chính thức của triều đình, nhưng trước khi
mất nước, các vua chúa Việt Nam là người đại diện cho chủ quyền
quốc gia của một đất nước độc lập. Việc cấm đạo của các vua chúa
phong kiến diễn ra trong một hoàn cảnh lịch sử rất phức tạp, không
thể nói hành động đó chỉ là bách hại tôn giáo mà không nhìn thấy
mối đe dọa sự sống còn của dân tộc.
117 Chân phúc sắp được biểu dương, có người Việt Nam, có giáo
sĩ ngoại quốc. Trong số người Việt Nam, có những người không vi
phạm tư cách công dân và là những giáo dân ngay lành, nhưng có
người liên can vào những vụ án chính trị có sự tham gia của cả lương
lẫn giáo và đã bị kết án về tội phản bội Tổ quốc. Trong số các giáo
sĩ Thừa sai, nhiều người đã bị truy lùng, bắt giữ vì liên lạc với các
tàu chiến Pháp đang dòm ngó ở ngoài khơi, đã bắn phá vào bờ biển
của Tổ quốc, hoặc đang chở người về nước mưu gây ra những vụ

265
bạo động vũ trang chống lại triều đình. Đề cao những người này
không hay gì cho đạo và làm cho những người không theo đạo Thiên
Chúa khó hiểu về thái độ của người theo đạo Thiên Chúa.
Từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vạch
đường cho Cách mạng Việt Nam, nhân dân ta, các dân tộc, các tôn
giáo đoàn kết chiến đấu hy sinh để giành lại độc lập tự do cho tổ
quốc xóa được cái nhục mất nước thống nhất, xây dựng khối đoàn
kết toàn dân ngày càng bền vững.
Đất nước có độc lập tự do thì Giáo hội mới được độc lập tự do.
Từ 30-4-1975 đến nay, Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện
chính sách tự do tín ngưỡng trước sau như một, cố gắng xây dựng
khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết giữa lương và giáo, để cùng xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhờ có đất nước thống nhất, Hội đồng Giám mục của nước được
thành lập, một trang sử mới của Giáo hội đã bắt đầu.
Hội đồng Giám mục đã ra Thư Chung 1980 chọn lựa con đường
gắn bó với dân tộc, sống Phúc âm trong lòng Dân tộc, kêu gọi mọi
người quên đi quá khứ và nhìn về tương lai, xác định người tín hữu
có hai nghĩa vụ: nghĩa vụ với Thiên Chúa và nghĩa vụ với Tổ quốc.
Vậy Vatican, bằng quyết định phong thánh, định làm gì khi muốn
mở lại trang sử củ, dựng lại thời kỳ các giáo sĩ truyền giáo cùng lúc
với chủ nghĩa thực dân phương Tây lăm le xâm lược nước ta, khơi
lại những ký ức về một giai đoạn nhân dân ta bị mất nước?
Việc làm đó làm sao nhân dân ta hàng chục triệu người không
theo đạo Thiên Chúa có thể đồng tình thông cảm. Hơn nữa suốt thời
kỳ thực dân cũ và mới lợi dụng đạo Thiên Chúa để củng cố sự thống
trị của chúng ở nước ta, hơn một thế kỷ qua chúng đã tạo ra ngăn
cách giữa đồng bào lương giáo ngày càng sâu sắc. Chúng đã dùng
tôn giáo này chèn ép tôn giáo khác mà cho máu chảy đầu rơi, ngay

266
cả ở nơi thờ tự của các tôn giáo khác. Từ khi các giáo sĩ phương Tây
đến nước ta cùng với chủ nghĩa thực dân, đâu phải chỉ có tín đồ đạo
Thiên Chúa chết vì đạo dưới các triều đại phong kiến, mà còn có biết
bao nhiêu tín đồ các tôn giáo khác, cả đồng bào theo đạo Thiên Chúa
bị chết vì đàn áp dưới thời thực dân Pháp và dưới chế độ Mỹ ngụy.
Thật đáng trách việc phong thánh hiện nay được bắt đầu bằng
một thư thỉnh nguyện có nội dung chính trị không tốt của Hội đồng
Giám mục và thư đó rơi vào kế hoạch đã chuẩn bị trước của những
người ở nước ngoài. Qua đó, một số Hội đồng Giám mục và Hội
đồng Quốc tế đã hiểu lệch lạc về lịch sử dân tộc và tình hình tôn giáo
hiện nay ờ nước ta.
Tiếp theo là việc làm và những lời tuyên bố của một số quan chức
ở Tòa thánh với nội dung vu khống, nói xấu dân tộc và Nhà nước ta,
gây chia rẽ giáo lương, làm tổn hại đến khối đoàn kết dân tộc. Một
số người có hận thù với dân tộc đã di tản ra nước ngoài, ra sức lợi
dụng sự kiện này để hoạt động chiến tranh tâm lý, hòng tiếp tục tư
tưởng thánh chiến chống Cộng.
Ngay trước khi quyết định phong thánh, Tòa thánh Vatican lập
ra một Ủy ban đặc trách người theo đạo Thiên Chúa Việt Nam ở
nước ngoài và Ủy ban này đang đảm trách chuẩn bị lễ phong thánh.
Như vậy Hội đồng Giám mục Việt Nam còn có quyền đại diện cho
Giáo hội Việt Nam ở ngoài nước và bên cạnh Tòa thánh Vatican
không?
Chúng tôi muốn lưu ý một chi tiết là: không hiểu vô tình hay hữu
ý, Tòa thánh Vatican đã chọn ngày 19-6 ngày kỷ niệm của "Quân
lực Việt Nam Cộng Hòa" làm ngày lễ phong thánh. Cộng đồng người
Việt Nam sẽ suy nghĩ sao về người theo đạo Thiên Chúa khi lễ phong
thánh được tổ chức vào ngày đó?
Ngày 18-9-1987, thừa lệnh Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Ban
Tôn giáo của chính phủ đã gặp các cụ trong Ủy ban Thường vụ Hội

267
đồng Giám mục để nói rõ tính nghiêm trọng của sự việc và để các
cụ bàn biện pháp ứng xử. Sau cuộc họp, Ủy ban Thường vụ đã gửi
thư cho các cụ và yêu cầu các cụ hướng dẫn cho toàn thể Linh mục
và giáo dân trong các giáo phận.
Tại cuộc họp đó, Nhà nước ta với lòng chân thành mong rằng các
cụ bàn bạc và tìm ra giải pháp để cùng Vatican giải quyết sao cho
nguyện vọng của đồng bào theo đạo Thiên Chúa được thực hiện
trong khối đoàn kết nhân dân ta ngày càng bền vững, chủ quyền quốc
gia của ta được tôn trọng, và mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo
hội ngày càng tiến triển tốt đẹp, tạo triển vọng cho mối quan hệ giữa
Vatican và Nhà nước ta.
Tiếc rằng những gì đã diễn ra sau đó chỉ là hành động nửa vời,
chưa phải nhằm đi tới giải quyết vấn đề một cách thỏa đáng.
Trong cuộc họp Hội đồng Giám mục lần này, chúng tôi mong các
cụ Giám mục nhận lãnh trách nhiệm trước dân tộc, trước lịch sử và
trước Giáo hội của mình, bàn bạc để giải quyết vấn đề một cách tốt
đẹp, hợp lý, hợp tình.
Về phần mình, Ban Tôn giáo của Chính phủ sẽ hết sức giúp đỡ
để các cụ giải quyết sao cho được tốt đời đẹp đạo.

***

268
GÓP Ý VÀO VIỆC PHONG THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Linh mục Chân Tín, CSsR

Nhân cuộc họp của giới Công giáo quận 3 vào chiều ngày
18/01/1988 tại trụ sở Mặt trận, tôi xin góp một vài ý kiến.

I. SỰ VIỆC ĐÃ RỒI:
1. Các thỉnh nguyện thư xin phong thánh của:
– Hội đồng Giám mục Việt Nam (16/11/1985);
– Dòng Đa Minh (28/12/1985);
– Hội thừa sai Paris (2/2/1986);
– Hội đồng Giám Mục Phi (13/5/1986);
– Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha (19/6/1986).
2. Với văn kiện số 1516-1986 (18/4/1986) của Thánh bộ Phong
thánh của Giáo hội Công giáo Rôma chấp nhận thỉnh nguyện thư.
3. Ngày 22/5/1987 Đức Gioan Phaolô II đã chủ tọa Cơ mật viện
để hỏi ý kiến các thành viên bỏ phiếu chấp thuận việc phong thánh
cho 117 Tử đạo Việt Nam. Ngày 29/5/1987 Tòa Thánh quyết định
phong thánh vào ngày 26/6/1988.
4. Ngày 18/9/1987 Ban công giáo Chính phủ triệu tập ban thường
vụ Hội đồng Giám mục để phê phán vụ phong thánh và bàn biện
pháp xử lý tình hình phức tạp có lý có tình.
5. Hội đồng Giám mục qua Ban Thường vụ gửi thư và điện văn
yêu cầu duy trì việc kính các chân phúc tử đạo Việt Nam như cũ
không làm gì mới khác “có hại đến đoàn kết dân tộc” (thư và điện
của Đức cha Nguyễn Văn Sang 19/9/1987).

269
6. Ban Tôn giáo của Chính phủ gửi văn thư số 01-TGCP ngày
12/10/1987 cho UBND. Ban Tôn giáo tỉnh, thành phố, đặc khu yêu
cầu theo dõi việc thi hành quyết định của Hội đồng Giám mục.

II. GÓP Ý VÀ ĐỀ NGHỊ:


1. Rất tiếc về sự thiếu trao đổi bàn bạc để làm sáng tỏ vấn đề các
tử đạo Việt Nam vì hoàn cảnh phức tạp thời đó.
2. Trong các thỉnh nguyện thư có một vài câu quá đáng, cường
điệu dùng chữ chưa đúng, khả dĩ gây bất bình, hiểu lầm trong hoàn
cảnh phức tạp.
3. Dù vậy các thỉnh nguyện thư đều nói lên lòng khao khát phong
thánh cho các tử đạo Việt Nam, đề cao đức tin anh hùng của một số
người chết cho một lý tưởng, cho tôn giáo một cách bất bạo động.
4. Thánh Bộ Phong thánh chấp nhận các thỉnh nguyện thư đó
cũng như Giáo chủ Gioan Phaolô II quyết định phong thánh vào ngày
26/6/1988 là để đáp ứng sự mong muốn của Hội đồng Giám mục
Việt Nam, Phi, Tây Ban Nha, Hội Thừa sai Paris và Dòng Đa Minh
cũng như của người Công giáo Việt Nam sẵn có từ mấy thế hệ rồi,
chứ đây không phải là sáng kiến của Tòa thánh Vatican có dụng ý
chính trị xấu, xuyên tạc lịch sử cách mạng của Nhân dân Việt Nam,
kích động tâm lý cuồng tín tử vì đạo theo như văn thư của ông
Nguyễn Quang Huy trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ.
Tòa Thánh thể theo thỉnh nguyện thư của các Hội đồng Giám
mục chỉ muốn đề cao hơn một mức nữa các vị tử đạo Việt Nam đã
từng được phong chân phúc từ bao nhiêu năm rồi (hằng năm vẫn có
lễ mừng các Chân phúc Tử đạo Việt Nam đầu tháng 9).
Xung quanh các thỉnh nguyện thư và quyết định phong thánh, có
người nào, nhóm nào đã mon men có ý đồ chính trị chăng? Điều đó
có thể có, nhưng chắc các Giám mục và Đức Giáo chủ không thể có

270
ý đồ đó. Các ngài chỉ thấy có trách nhiệm đối với các giáo hữu Việt
Nam cũng như đối với các giáo hữu Nhật Bản mấy năm trước đây.
5. Trong cái nhìn chính trị của Nhà nước cũng như trong cái nhìn
lịch sử chưa được sáng tỏ của một số đồng bào, thì Nhà nước không
thấy bằng lòng với việc phong thánh này.
Dù vậy, trước những việc đã rồi, Nhà nước chỉ yêu cầu “tìm biện
pháp xử lý tình hình phức tạp có lý có tình” như văn thư của Ban
Tôn giáo đề nghị. Đây là một thái độ thực tế mà Nhà nước đã có cho
đến hôm nay để đối phó với việc đã rồi.
Sau đó, Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam đã có văn
thư yêu cầu kính các Chân phúc Tử đạo Việt Nam như cũ không làm
gì mới khác ‘có hại cho đoàn kết dân tộc’.
Riêng tôi, tôi nghĩ rằng trong tình hình hiện tại, Việt Nam đang
bị cô lập hóa trên mọi địa hạt sẽ bị cô lập hóa thêm, nếu ta xử lý việc
phong thánh thiếu tình thiếu lý. Nếu Nhà nước chống việc phong
thánh tại Việt Nam, đa số dân chúng Công giáo sẽ không tài nào hiểu
nổi điều đó rồi ấm ức, sẽ bớt hăng say trong việc xây dựng Đất nước.
Còn ở hải ngoại các tay làm chính trị sẽ hô hoán chế độ Cộng sản
Việt Nam gây nhiều khó khăn cho Công giáo, nếu không nói là bắt
đạo và như thế Việt Nam càng bị cô lập hóa trên chính trường quốc
tế.
Vì thế riêng tôi, tôi ước mong Nhà nước ta đi thêm một bước, tức
là ủng hộ việc phong thánh, vì việc này đề cao người Việt Nam anh
hùng sẵn sàng hy sinh cho một lý tưởng. Đồng thời, nếu cần Nhà
nước ta cũng cứ nói lên tình hình phức tạp của thời đó, và sự dè dặt
của mình về một một số vị tử đạo và tiếc không có sự thay đổi để
việc phong thánh tốt đẹp hơn.
Thái độ mới này sẽ đáp ứng tâm tư đại đa số người Công giáo
Việt Nam. Không phải vì họ muốn chống những đồng bào ngoài
Công giáo hay có ý gì đối với chính phủ hiện nay mà từ nhiều thế hệ

271
rồi, họ mong thấy các Chân phúc tử đạo còn được phong thánh nữa.
Nếu giới Công giáo bỏ phiếu kín, thì ít nhất là 90% sẽ ủng hộ việc
phong thánh. Việc Nhà nước ủng hộ sẽ khuyến khích người Công
giáo hăng say góp phần xây dựng đất nước hơn. Và thái độ này cũng
bịt miệng những tay hoạt động chính trị chống chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Sau cùng tôi cũng xin góp ý vào cái gọi là “thỉnh nguyện thư Việt
Nam” in bằng roneo, không biết ai đã thảo ra, không đề ngày tháng,
để xin chữ ký. Một nhóm người nào đó lại mệnh danh là Việt Nam,
Việt Nam tức là cả giáo, cả lương, cả Nhân dân, cả Chính quyền.
Thế mà họ lại chỉ trích Đức Hồng y Căn vì đã viết “cả dân tộc Việt
Nam nhất trí với con”. Phải chăng họ nghĩ rằng họ mới là “cả nước
Việt Nam?”
Thỉnh nguyện thư đề nghị hai điều, đề nghị hoãn việc phong
thánh để làm sáng tỏ vấn đề lịch sử và đề nghị tách các vị thừa sai
ra.
Đề nghị thứ nhất là hoãn việc phong thánh. Với những điều tôi
nói trên, chúng ta đã thấy việc không tham dự vào việc phong thánh
đã gây bất mãn có hại đến người Công giáo Việt Nam tham gia xây
dựng đất nước và cô lập hóa thêm Việt Nam trên chính trường quốc
tế, thì đề nghị các giám mục xin hoãn việc phong thánh còn tệ hại
hơn. Tệ hại như trên. Tệ hại thêm nữa là người ta nghĩ rằng Nhà
nước làm áp lực bắt các giám mục Việt Nam xin hoãn, vì trước kia
các giám mục đã phấn khởi xin phong thánh. Có đưa ra ‘thỉnh
nguyện thư Việt nam’, thì người ta cũng nghĩ là nhóm ‘yêu nước’
nào đó chỉ theo mệnh lệnh Nhà nước để tạo ra thư đó, hầu có một
màu sắc nhân dân – và có thu được hàng triệu chữ ký thì cũng thế
thôi. Thỉnh nguyện thư chỉ đổ dầu thêm vào lửa. Vô tình họ hại Nhà
nước, hại Đất nước. Cái trò thỉnh nguyện thư xin chữ ký là cái trò cũ
kỹ quá rồi. Chủ nghĩa hình thức ấy chẳng ai tin, cần phải đổi mới tư
duy, đổi mới phong cách.

272
Đề nghị thứ hai là tách các vị tử đạo thừa sai ngoại quốc. Là một
đề nghị của ‘những người Công giáo’ thì sẽ được người Công giáo
gọi là ‘ăn cháo đá bát’. Người cộng sản sẽ tôn kính người cộng sản
ngoại quốc thâm nhập bất hợp pháp với bao nhiêu nguy hiểm để
tuyên truyền lý tưởng cộng sản và đã bị bắn chết. Các vị thừa sai
ngoại quốc, vì đức tin đã bỏ một đời sống thoải mái của quê nhà để
đi vào một nước lạc hậu để rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa.
Họ đã bị bắt, bị tra tấn, bị xử tử do các vua chúa thời phong kiến. Họ
đã hy sinh mạng sống cho việc rao giảng là họ tử đạo. Nếu sau này,
có vị này vị nọ dính líu vào việc người Pháp xâm chiếm Việt Nam
thì phải nói rằng trong lương tâm của họ hồi bấy giờ, họ thấy việc
nhờ người Pháp đến để chấm dứt việc bắt đạo là tốt, và ngay việc
người Pháp cai trị Việt Nam họ cũng nghĩ là tốt khi họ lầm tưởng
rằng người Pháp sẽ đem nền văn minh Kitô giáo cho một nước lạc
hậu. Với khái niệm ngày nay về nhân dân tự quyết, độc lập tự do, ta
cho là họ sai lầm. Nhưng cách đây vài ba trăm năm, khái niệm đó
không rõ ràng lắm. Và ngày nay, tuy khái niệm rõ ràng, cũng còn
tình trạng người ta nhờ nước ngoài làm nhiệm vụ quốc tế để chống
lại một chính quyền hợp pháp mà tàn bạo. Vậy thì tình hình phức tạp
hồi đó có các vị tử đạo không dễ gì mà tránh sự chủ quan. Vấn đề
còn được tranh cãi dài dài.
Vì thế người Công giáo Việt Nam mà đòi tách riêng người có
công đem đức tin Kitô giáo đến cho cha ông họ là ăn cháo đá bát, là
vô ơn, tạo chia rẽ trong giới Công giáo.
Để kết thúc, tôi có hai kiến nghị, một với Nhà nước, một với Giáo
hội.
a. Với Nhà nước:
Tôi ước mong Nhà nước để cho Giáo hội Việt Nam dự vào cuộc
phong thánh, vì làm như vậy ích lợi cho đất nước hơn là tẩy chay.
Thái độ này sẽ vận động người Công giáo Việt nam hăng say xây
dựng Đất nước và cũng thuận lợi để vận động thế giới không cộng
273
sản tham gia vào việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam đang cần đầu
tư ngoại quốc, đang cần giải tỏa tình trạng bị cô lập và chứng minh
sự cởi mở từ Đại hội Đảng VI và từ ngày Tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh lãnh đạo Đảng.
b. Với Giáo hội:
Tôi mong Hội đồng Giám mục Việt Nam đừng làm trò cười cho
giáo dân cũng như cho thế bên ngoài theo kiểu ‘thỉnh nguyện thư
Việt Nam’ mà xin Tòa thánh hoãn việc phong thánh và xin tách các
tử đạo thừa sai ngoại quốc. Thật là một trò trẻ con không thể chấp
nhận được đối với dư luận quốc nội cũng như quốc tế khi Hội đồng
Giám mục Việt Nam đã từng phấn khởi xin phong thánh rồi lại xin
hoãn, xin tách. Hội đồng Giám mục Việt Nam sẽ mất hết uy tín đối
với giáo dân Việt Nam cũng như đối với Giáo hội toàn cầu. Trong
tình trạng đó, các giám mục sẽ không còn mấy ảnh hưởng để thúc
đẩy giáo dân Việt nam vừa hăng say xây dựng đất nước vừa trung
thành giữ vững đức tin.
Đàng khác, dù Nhà nước cho tham dự Phong thánh hay không,
tổ chức mừng hay không, Giáo hội vẫn phải làm việc đào sâu đức
tin để người Công giáo Việt Nam sống đạo giữa lòng dân tộc và tiến
hành việc nghiên cứu lịch sử về giai đoạn phức tạp của các vị tử đạo.
Đó là cách mừng tốt đẹp nhất nhưng là chuyện lâu đài trong tương
lai.

- TP. HCM, 18/01/1988 -

***

274
CHUNG QUANH LỄ PHONG THÁNH CÁC ANH HÙNG TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ

Được Giao Công Tác


Ngày 25-11-1985, vào quãng 10 giờ đêm, Đức Hồng y Giuse
Trịnh Văn Căn đến kêu tôi ở Nhà Phát Diệm tại Rôma. Hai chúng
tôi đi bách bộ ngoài hành lang chừng 20 phút. Ngài hỏi:
– Cha có biết vì sao mỗi lần tới Rôma, tôi hay đi viếng đền Thánh
Rita không? (Đền Thánh Rita tại Cascia, Tỉnh Perugia, miền Bắc Ý.
Thánh Rita nổi tiếng hay làm phép lạ trong những trường hợp khó
khăn).
– Thưa Đức Hồng y (ĐHY), chắc là tại ĐHY có nhiều khúc mắc,
nhiêu khê!
– Cha nói đúng. Vấn đề nhiêu khê chính là vấn đề xin phong
thánh cho các Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam. Trước kia, rồi đến đời
Đức cố Hồng y Trịnh Như Khuê, đã 4 lần xin các vị ngoại quốc đảm
nhiệm, nhưng rồi vẫn chưa tới đâu. Tuy nhiên, đây là vấn đề tha thiết
và cấp bách. Ngày nay đã có nhiều linh mục Việt Nam tại Rôma,
trong số đó, có cha và cha đã có kinh nghiệm nhiều năm tại Tòa
Khâm sứ Tòa Thánh tại Sài Gòn, tôi muốn giao công tác này cho
cha, nhưng cha phải cho biết có đồng ý nhận hay không?
Ngay lúc đó vì quá bất ngờ, tôi rất phân vân không biết tính toán
làm sao! Nhưng tôi tự nhủ: mình là con cái của Giáo Hội Việt Nam,
cho dù từ cuối năm 1976, tôi còn đang mang số mệnh ra đi không
hẹn ngày về, còn ĐHY hồi đó là Tổng Giám mục Hà Nội, kiêm Chủ
tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN), tôi nhận các ngài
là đại diện của Thiên Chúa, hôm nay, được sai khiến, dù muốn dù
không, mình phải vâng lời!

275
Và tôi đã thưa: Vâng, con xin nhận. Ngay lúc đó ĐHY rút từ trong
túi áo một văn thư đã đánh máy, đã đóng ấn, đã kí sẵn: Lá thư ủy
nhiệm cho tôi làm Cáo thỉnh viên Vụ Án Phong Thánh các Chân
Phúc Tử Đạo Việt Nam. Thì ra ngài đã sắp xếp mọi sự trước rồi, vì
sáng hôm sau, ngày 26-11-1985, ngài lên đường về Hà Nội, để rồi
ba bốn năm sau Đại lễ Phong thánh ngài mới trở lại Rôma.
Lãnh trách nhiệm rồi mà thâm tâm tôi vẫn cảm thấy mình như
chim chích vào rừng. Chuyện Cáo thỉnh viên Vụ Án Phong Thánh
xưa nay chỉ nghe nói một cách mang máng vậy thôi, chứ nào có ý
nghĩ gì rõ ràng đâu! Rồi tiểu sử cả 117 vị thánh, chứ có phải một hai
vị? Tìm đâu ra tài liệu đầy đủ? Trong khi đó, lúc trao công tác, Đức
cố Hồng y Trịnh Văn Căn cố tình đặt hai điều kiện rõ rệt: phải làm
trong im lặng, đừng có rùm beng, và phải làm mau hết sức, một hai
năm tối đa, cho tới khi nào được Đức Giáo hoàng châu phê và công
khai tuyên bố, lúc đó mới chắc ăn, vì Ngài sẽ không thể rút lại lời đã
tuyên bố công khai trước mặt thế giới!

Xúc Tiến Công Việc


Trong thời gian tiến hành công tác được giao phó, thú thực, đã
có lần chúng tôi cảm thấy hết sức băn khoăn. Đức Hồng y quyết định
một cách quá bất ngờ và không giới thiệu tôi với ai, để khi cần, tôi
có chỗ nhờ cậy và tham khảo ý kiến. Thế nhưng, ngài rất đại lượng
và thông cảm. ĐHY bảo tôi: “Cha chịu khó tự tháo vát lấy!” Thế là
chúng tôi “phải” tự suy diễn và tự giải thích ý muốn của ĐHY:
1) Hàng Giám mục VN hồi đó, kể cả hai ba vị đang nghỉ hưu ở
ngoại quốc, trên dưới 41 vị, nhưng đứng tên kí bản Thỉnh nguyện
thư đệ lên Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II để xin phong thánh, vì
hoàn cảnh năm 1985, chỉ có một mình Đức cố Hồng y Trịnh Văn
Căn trong vai trò Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục VN. Để cho người
ta khỏi nghĩ các Giám mục VN quá lẻ loi, đơn độc, chúng tôi được
khuyến khích kêu gọi hàng Giám mục ba nước khác có liên hệ: Pháp

276
(120 Giám mục) có 10 vị tử đạo trong số các Chân phúc, Tây Ban
Nha (80 Giám mục) có 11 vị tử đạo, Phi Luật Tân (120 Giám mục).
Tuy Phi Luật Tân không có vị nào trong danh sách tử đạo sắp được
tuyên thánh, nhưng theo tài liệu lịch sử truyền giáo thì hồi xưa, Thủ
đô Manila vẫn là đầu cầu Thiên định. Các thừa sai từ Âu châu sang
Á châu đi tầu thủy, ai cũng phải dừng chân tại đó, chờ ngày vào Việt
Nam hay là đi nơi khác. Do đó, ba quốc gia nói trên (tất cả 320 Giám
mục nữa), qua 3 Hội đồng Giám mục, đã gửi ba Thỉnh nguyện thư
riêng biệt, đệ lên Tòa Thánh ủng hộ sáng kiến của Hội đồng Giám
mục VN và thành khẩn xin Đức Gioan Phaolô II phong thánh cho
các Chân phúc Tử đạo VN.
2) Để biểu dương tinh thần huynh đệ thiêng liêng giữa ba danh
sách các Chân phúc Tử đạo Việt - Pháp - Tây Ban Nha, linh mục
Cáo thỉnh viên Việt Nam đã xin Bộ Phong Thánh cho phép hai linh
mục Cáo thỉnh viên Venchi, Dòng Đa Minh, đại diện Tây Ban Nha
và Itcana, Hội Thừa Sai Ba Lê, cùng đứng tên trong một danh sách
Cáo thỉnh viên, như thể là cả ba đã được chính HĐGMVN ủy thác
và bổ nhiệm. Do đó, bất cứ đơn từ gì, hay hồ sơ nào đều được cả ba
đồng ý kí và đồng chịu trách nhiệm. Sự kiện này đã đem lại nhiều
thành công, nhất là khi cần đến sự nâng đỡ của Hội đồng Giám mục
của hai nước bạn. Cũng nhờ đó mà Cáo thỉnh viên Việt Nam, trong
6 tháng đầu tiên, đã thu được rất nhiều tài liệu lịch sử quan trọng,
vượt quá sự mơ ước. Ngoài ra, khi tổ chức Đại lễ Phong Thánh, số
tiền chi tiêu nguyên một ngày lễ 19-6-1988 đã tốn mất 32 triệu tiền
Ý (chừng 23 ngàn Mỹ kim), hai Cáo thỉnh viên Pháp và Tây Ban
Nha, tự coi mình như hai thành viên, đã xin Dòng Đa Minh Tây Ban
Nha và Hội Thừa Sai Ba Lê, đóng góp mỗi dòng 1/3, tức 10 triệu
tiền Ý. Việt Nam chịu 12 triệu, vì con số tử đạo đông hơn (Việt Nam
96 vị, Pháp 10 vị, Tây Ban Nha 11 vị).

277
Đi Cầy Ban Đêm
Ôm mớ tài liệu nặng chĩu về phòng riêng, chúng tôi vẫn còn trong
tình trạng như chim chích vào rừng, không biết khởi sự từ đâu! Tòa
Thánh coi Vụ Án Phong Thánh là công việc hoàn toàn cá nhân, có
nghĩa là: một tuần lễ 7 ngày thì 6 ngày chúng tôi cứ phải đi làm công
sở Tòa Thánh (6 buổi sáng và 3 buổi chiều). Để lo việc phục vụ các
Thánh Tử Đạo, chúng tôi tự đặt cho mình thời khóa biểu riêng. Ngày
nào cũng làm việc từ 21 giờ tối đến nửa đêm (3 tiếng đồng hồ) và
liên tục một năm rưỡi (trên dưới 600 ngày). Lúc đầu, mỗi lần mở tập
hồ sơ ra là trong lòng ngao ngán. Tập hồ sơ khác nào nắm tơ vò, rối
rít chằng chịt. Phải mất mấy tuần lễ mới tìm ra đầu mối! Nhưng về
sau, khi đã nhìn ra gốc ngọn, đọc hồ sơ các Thánh là cả một thích
thú, một say mê, vì các Thánh đã đưa chúng tôi đi từ ngạc nhiên này
sang ngạc nhiên khác. Cũng là con người như chúng ta, các Chân
Phúc Tử Đạo sống với mức độ phi thường. Đức tin của các ngài đã
trở thành sắt đá, sức kiên trung chịu đựng, như đã là một tập quán tự
nhiên, gian lao cực khổ được coi nhẹ như lông hồng. Mặc cho lao tù,
thiếu thốn, nhục mạ…, tâm hồn các ngài lúc nào cũng an bình, hiên
ngang, thanh thản. Mạng sống các ngài như con cá nằm trên thớt,
nhưng phong độ con người các ngài vững vàng, cao cả. Hơn thế nữa,
đối với vua quan đã ra lệnh xử tử các ngài cũng như đối với đội lính
cầm gươm chém giết các ngài, các ngài đã tỏ ra lễ độ, cư xử bác ái,
không hận thù, nhưng tha thứ và cầu nguyện cho họ. Các ngài đã xác
tín mãnh liệt vào Chúa Kitô tử nạn. Chính niềm tin sâu xa, quyết liệt
này là bảo chứng các ngài đã thắng thế gian (1Ga 5,4).
Chúng tôi cảm phục công lao các vị Thừa sai Pháp và Tây Ban
Nha. Hồi xưa, các vị đã về mãi tận các xóm làng, các họ đạo Việt
Nam, để điều tra tại chỗ về xuất xứ, lai lịch, họ hàng, cá tính của
từng vị Tử đạo Việt Nam hay ngoại quốc, sau khi các ngài bị hành
quyết vì đạo. Từng trăm ngàn trang giấy viết tay, đánh máy, bằng
tiếng Việt hay ngoại ngữ, sau đó dịch ra La ngữ, đóng thành từng bộ

278
hồ sơ. Hay là các đồ dùng, di tích, và cả xác các vị tử đạo cũng được
mai táng hẳn hoi. Mỗi khi có cơ hội thì gửi qua Hồng Kông,
Macao…, chờ tầu thủy chở dần về Pháp hay Tây Ban Nha. Nhờ có
những cuộc điều tra, bảo toàn với rất nhiều chi tiết tỉ mỉ ấy, mà ngày
nay chúng ta mới có tài liệu chính xác và bằng chứng cụ thể.
Đến khi đi vào lịch sử bách hại của từng vị Thánh, dù bầu không
khí ban đêm có yên lặng, đôi khi rét lạnh đi nữa, tự nhiên chúng tôi
cảm thấy nóng hổi, hấp dẫn, hào hùng! Như lịch sử Thánh Giuse
Maria Diaz An (Sanjurjo), Giám mục Bùi Chu, bị trảm quyết tại Bảy
Mẫu ngày 20-7-1857.
Lời vị Thánh: “Tôi để lại món tiền nho nhỏ 300 đồng này với lời
thỉnh nguyện tha thiết là đừng chém tôi một nhát, nhưng xin chém
ba nhát. Nhát thứ nhất để cảm tạ Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi và
đã cho tôi phúc đến truyền đạo tại Bắc Việt. Nhát thứ hai để tỏ lòng
tri ân cha mẹ tôi vì công sinh thành dưỡng dục tôi. Nhát thứ ba tôi
để lại như một lời di chúc cho giáo dân (VN) của tôi. Đó là cầu cho
họ được can đảm đón nhận cái chết như vị chủ chăn của họ với hi
vọng sẽ được cùng nhau hưởng phúc quang vinh với các Thần Thánh
trên trời” (Trần Ngọc Thụ. Giáo Hội Việt Nam, II. Tiểu sử 21 Thánh Tử
Đạo người ngoại quốc, Roma 1991, tr. 31-32).
Tấm gương của Giám mục Giuse Maria An, cũng như từng trăm
tấm gương anh dũng khác, là như dòng suối mát, với thời gian, đã
chuyển sinh lực thấm sâu xuống lòng đất Việt Nam. Hồi khai nguyên
truyền đạo mới có hai giáo phận: Đàng Trong và Đàng Ngoài (1659),
nhưng ngày nay, Giáo Hội Việt Nam đã có tới 25 giáo phận, từ Lạng
Sơn xuống tới Cần Thơ, Long Xuyên. Tất cả đều do hàng giáo phẩm
VN phụ trách. Từ con số khoảng 500 ngàn giáo dân vào năm 1850,
nay đã lên tới trên dưới 7 triệu tín hữu, rải rác trên toàn cõi Bắc Trung
Nam. Từ một số ít các nữ tu Mến Thánh Giá còn sót lại sau những
đợt bách hại, nay đã lên tới gần 7 ngàn chị em nữ tu, thuộc nhiều
dòng tu khác nhau, đang hăng say phục vụ Giáo hội. Cũng trong thời

279
gian khởi sự, Tiểu Chủng viện đầu tiên được thiết lập trên một chiếc
thuyền nan, luôn luôn di động nay đây mai đó để tránh né con mắt
dò xét của nhà cầm quyền, thì hiện nay đã có năm sáu Đại Chủng
viện liên giáo phận, có cả Giáo hoàng Học viện Đà Lạt (trước 1975),
gần 2 ngàn linh mục tại quê hương và trên 600 linh mục khác ở hải
ngoại đang liên tục thi hành mục vụ giữa các cộng đoàn giáo dân
người Việt và bản xứ. Đã có các linh mục Việt Nam vào làm việc
trong Giáo phủ Roma, trong ngành ngoại giao Tòa Thánh, trong hai
Đài Phát Thanh Vatican và Chân Lý Manila, trong ban giảng huấn
các trường Đại học tại Roma và các nước khác… Còn về giáo dân,
đạo gốc có, tân tòng có, thường dân có, quan quyền có, binh sĩ có,
ngày xưa họ đã từng bị bách hại khốc liệt, đã bị xử lăng trì, trảm
quyết, bá đao, xử giảo, quăng vào lửa, buông xuống sông biển, phân
sáp vào các làng bên lương…! Tổng cộng, hơn 130 ngàn giáo hữu
đã gục ngã đau thương, chỉ vì một tội là theo đạo Gia Tô. Theo
chương trình Thiên định, họ là hạt giống gieo xuống lòng đất, sẽ bị
thối nát, để rồi nảy mộng vươn lên ánh sáng, thành cây tươi tốt, thành
vườn hoa trăm màu nghìn sắc, báo hiệu mùa Xuân Giáo Hội huy
hoàng. Trong lịch sử VN cận đại đã có nhiều tín hữu thành công
trong đủ mọi lãnh vực, không thua kém đồng hương! Trên thượng
tầng xã hội, các vua chúa nhà Nguyễn ngày xưa giết hại người Công
Giáo, nhưng về sau, một số vị đã nhận biết Thiên Chúa, chẳng hạn
như các vua Thành Thái, Khải Định và Bảo Đại. (Tất cả những thành
quả thăng tiến của GHCGVN trên đây sẽ được coi là phép lạ thiêng
liêng thay thế cho phép lạ thực sự sau cùng mà lẽ ra, theo Giáo luật,
phải có để tuyên thánh cho các Chân Phúc Tử Đạo VN).
Những ý nghĩ trên đây cứ thấp thoáng trong đầu óc chúng tôi giữa
đêm khuya thanh vắng, trong khi chúng tôi đọc lại những trang sử
hào hùng của các Thánh Tử Đạo VN. Những ý tưởng này xuất hiện
như vầng sáng bình minh đang lên ở chân trời Việt Nam. Quá khứ
và tương lai, từ chỗ mờ tối, cứ dần dần tỏa ra quang minh rực rỡ, đã

280
làm rạo rực tâm hồn người cầm bút, và thêm sự khích lệ linh thiêng
để chúng tôi tiếp tục công việc đã bắt đầu.
Sau thời gian gần 600 ngày nỗ lực làm việc, chúng tôi đã hoàn
thành 2 công trình:
– Giáo Hội Việt Nam, Tập I: Vụ Án Phong Thánh (125 trang,
xuất bản tại USA, 1987) để trình bày với công chúng tài liệu căn bản
về Lịch sử Vụ Án Phong Thánh các Chân Phúc Tử Đạo.
– Cuốn Compendium (Tổng quát) Vitae et Martyrii necnon
Actorum in Causa Canonizationis Beatorum Andreae Dũng Lạc,
Sacerdotis, Thomae Thiện et Emmanuekis Phụng, Laicorum, H.
Hermosilla, Valentini Berrio Ochoa, O.P. et aliorum 6
Episcoporum, necnon Theophani Vénard, Sacerdotis M.E.P. et 105
Sociorum Martyrum.
Tập Tổng quát (Compendium) trình bày về: Lịch sử truyền đạo
tại Việt Nam, lịch sử các cuộc bách hại tôn giáo thời đó, danh sách
117 Chân Phúc Tử Đạo, Thỉnh nguyện thư của HĐGMVN và thế
giới, mấy dòng tiểu sử từng vị một. Cuốn này (87 trang khổ lớn, tên
sách bằng La ngữ, nhưng nội dung bằng Ý ngữ) chỉ ấn hành 500 tập:
300 tập nộp cho Bộ Giám mục, 200 tập cho Bộ Phong Thánh, để các
vị chuyên môn và thẩm quyền cứu xét, chờ ngày được Tòa Thánh
công khai chấp thuận.

Cơ Mật Viện Ngày 22-6-1987


Sáng Thứ Hai, ngày 22-6-1987, hồi 12 giờ trưa, Đức Thánh Cha
Phaolô II đã tới chủ tọa Cơ Mật Viện khoáng đại tại Gian Phòng
Hoàng Tòa (Sala del Trono) tại Vatican. Khoáng đại là vì tất cả các
vị Hồng y, Tổng Giám mục và Giám mục tại Tòa Thánh và các vùng
phụ cận Roma đều được triệu tập (tất cả có 28 Hồng Y, 70 Tổng
Giám mục và Giám mục); khoáng đại là vì ít khi mới có phiên họp
Cơ Mật Viện, lần họp Cơ Mật Viện sau cùng hồi đó là ngày 24-2-

281
1986; sau hết, khoáng đại là vì đề cập tới nhiều vấn đề quan trọng
tới đời sống Giáo hội.
Phiên họp Cơ Mật Viện (họp đóng cửa) chia làm hai phần:
Phần thứ nhất: Dành riêng cho Hồng y đoàn. Trước khi khai mạc,
theo thủ tục, viên chức phụ trách an ninh xướng “Extra omnes.” Tất
cả những ai không có phận sự phải ra ngoài phòng họp. Các vị Hồng
y bàn về các đề tài liên quan tới việc quản trị Giáo hội, thuyên chuyển
các chức vụ trong Hồng y đoàn, bổ nhiệm các Giám mục (năm đó
32 Tổng Giám mục, 94 Giám mục mới), thành lập các giáo phận mới
(6 giáo phận và một Đan viện biệt hạt mới), nhất là khai mạc Năm
Đức Mẹ.
Phần thứ hai: Cơ Mật Viện Phần I họp xong, cửa phòng mở ra.
Tất cả 70 Tổng Giám mục và Giám mục đợi ở phòng ngoài được
mời vào trong. Người duy nhất theo sau các vị Giám mục là linh mục
Cáo tỉnh viên Vụ Án Phong Thánh cho các Chân Phúc Tử Đạo Việt
Nam. Nhật báo L’ Osservatore Romano (Quan sát viên La Mã) ngay
chiều 22-6-1987 đã loan tin Cơ Mật Viện Phần II: Hồng Y Palazzini,
Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, đã trình lên 4 hồ sơ phong thánh:
– Chân phúc Giuse Moscati (Ý), Bác sĩ và Giáo sư Đại học thánh
Naples;
– Nữ tu Eustochio Calafato (Ý) sáng lập Dòng Đức Mẹ tại
Messina, miền Nam nước Ý;
– Chân phúc Lorensô Ruiz (Phi Luật Tân) và 14 bạn (cũng người
Phi) tử đạo tại Nhật Bổn;
– 117 Chân Phúc Tử Đạo tại Việt Nam, đứng tên đại diện tất cả
là Linh mục Anrê Dũng Lạc. Hồ sơ 117 Chân Phúc Việt Nam gây
chú ý nhất, vì đây là lần đầu tiên trong lịch sử 2000 năm của Giáo
Hội mới có một vụ tuyên thánh một lần tới 117 Vị. Trước tiên, Luật
sư Giulio Dante của Bộ Phong Thánh, bằng La ngữ, trình bày tính

282
cách anh dũng tổng quát của Các Vị Chân Phúc. Sau đó, một viên
chức của Văn phòng Quốc vụ khanh đọc lời yêu cầu của Đức Thánh
Cha: Trước khi quyết định tuyên thánh, ngài xin quý vị Hồng y, Tổng
Giám mục và Giám mục góp ý kiến bằng cách viết hai chữ Placet
(Thuận) hay Non Placet (Không thuận) và kí tên trên miếng giấy đã
in sẵn, nhưng còn để trống. Hai viên chức nghi lễ cầm hai đĩa bạc
lớn đi thu những lá phiếu. Sau khi kiểm phiếu và được sự đồng ý của
toàn thể Cơ Mật Viện, Đức Thánh Cha đã ngỏ lời cám ơn qúy vị đã
tới tham dự hôm đó, rồi cho lệnh công bố tin vui mừng: Vụ Án Phong
Thánh Các Vị Tử Đạo tại Việt Nam đã được châu phê.
Ra khỏi phòng họp, chúng tôi không làm sao nén nổi sự xúc động
bên trong. Nó quá dào dạt! Chúng tôi ước gì có từng ngàn, từng vạn
anh chị em giáo dân Việt Nam đứng ngay tại đây để hoan hô Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II! Giáo Hội Việt Nam được cưu mang từ
thời vị thừa sai Inekhu nào đó, đổ bộ năm 1533 tại Ninh Cường (Bùi
Chu), đời vua Lê Trang Tông xa xưa, tính tới 1988 đã 455 năm
trường! Bao nhiêu công lao, nước mắt, gian khổ, bao nhiêu tính
mạng chôn vùi trong quá khứ thầm lặng hơn 4 thế kỉ, hôm nay, chính
Chúa Kitô phục hồi danh dự và dùng Vị Đại diện của Ngài ở trần
gian để tuyên dương công trạng!

Ngày Phong Thánh


Theo thông lệ, khi xin nhật kì phong thánh, bao giờ cũng phải dự
tính sẵn 3 ngày, để đề phòng trường hợp Tòa Thánh đã có chương
trình xếp đặt nào khác thì mình cũng phải thay đổi theo. Lễ Phong
Thánh Việt Nam đã xin vào ngày 29-6-1988, lễ hai Thánh Phêrô và
Phaolô, nhưng người ta khuyến cáo không nên, vì sẽ bị hai Thánh
Quan Thầy quá lừng danh của Thủ đô Roma lấn át mất. Đã có dự
tính chuyển sang Chúa Nhật 26-6, nhưng cũng không ổn, vì hôm đó
Đức Thánh Cha đi công du bên Áo quốc. Chỉ còn Chúa Nhật 19-6,
nghĩa là xếp trước cuộc công du của Đức Thánh Cha một tuần lễ, vì
trước sau ngày đó không còn cách nào khác. Đây là lí do duy nhất
283
và dễ hiểu, chứ không hề có chuyện nghĩ tới, hay là mảy may muốn
kỉ niệm Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà như người ta đã cố
tình gán ghép.
Hôm sau cuộc họp của Cơ Mật Viện, 23-6-1987, Đức Hồng y
Casaroli, Quốc Vụ Khanh, đã gửi điện tín sau đây cho hàng Giám
mục Việt Nam:
Kính gửi: Đức Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, Tổng Giám
mục Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam số 40, Phố Nhà
Chung, Hà Nội.
Tôi trân trọng báo tin Đức Hồng y: Trong buổi họp Cơ Mật Viện
sáng hôm qua, 22-6-1987, Đức Thánh Cha đã nghị quyết phong
thánh cho Các Chân Phúc Tử Đạo tại Việt Nam. Ngày lễ long trọng
phong thánh sẽ cử hành nội trong tháng 6 năm tới, vào một nhật kì
sẽ định sau. Xác tín rằng nghị quyết trên đây có tầm mức quan trọng
đối với Cộng đoàn Công giáo Việt Nam, tôi đến chia sẻ với Đức
Hồng y niềm hân hoan thiêng liêng, cũng như hợp ý trong Đại Lễ Tạ
Ơn thế nào cũng được tổ chức ghi ân Thiên Chúa, đấng ban phát
mọi ơn lành. Hồng ân đặc biệt hôm nay chắc chắn sẽ là nguồn khích
lệ mỗi người cố gắng làm nhân chứng sống đời đức tin và bác ái
trong xã hội Việt Nam. Rất hi vọng rồi ra một số đông đảo giám mục,
linh mục và giáo dân Việt Nam có thể tới tham dự lễ nghi phong
thánh. Tôi xin gửi lại Đức Hồng y những cảm tình huynh đệ được
bảo đảm chân thành trong Chúa Kitô.
Kí tên: Agostino Hồng y Casaroli, Quốc Vụ Khanh.
Rồi từ Việt Nam, ĐHY Chủ tịch HĐGMVN cũng không chậm
trễ đáp từ:
Kính gửi: Đức Hồng y A. Casaroli Quốc Vụ Khanh Điện Vatican.
Hà Nội, 18 giờ 20 phút, ngày 26-6-1987.

284
Con đã nhận điện văn của Đức Hồng y. Toàn thể Giáo Hội Việt
Nam vui mừng khi nghe tin Đức Thánh Cha quyết định phong Hiển
thánh cho Các Chân Phúc Tử Đạo tại Việt Nam. Giáo Hội chúng
con dâng lời thành kính cảm tạ sâu xa và hi vọng có thể đến đông
đảo tham dự lễ nghi. Chúng con tri ân Thiên Chúa và cầu nguyện
cho Đức Thánh Cha. Xin Đức Hồng y chuyển đạt lên ngài lòng
chúng con khăng khít trìu mến. Với Đức Hồng y, chúng con dâng lời
trân trọng biết ơn và cầu chúc chân thành.
Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, Tổng Giám mục Hà Nội.

Sự kiện pháp lí sau cùng là ngày 30-6-1987, bằng Văn thư số


196.245, Đức Tổng Giám mục Eduardo Martinez Somalo, hồi đó là
Tổng Giám đốc Thường vụ Giáo Hội (Sostituto, ngang hàng với
Tổng trưởng Nội vụ) chính thức thông báo cho ba Cáo thỉnh viên
Việt Nam, Pháp, Tây Ban Nha là nhật kì phong thánh đã được Đức
Thánh Cha xác định là ngày 19-6-1988. Ngay trưa hôm đó, sau khi
đã báo cáo cho hai Cáo thỉnh viên đồng nghiệp tin vui mừng này để
hai vị lại đưa tin về cho hai HĐGM Pháp, Tây Ban Nha, linh mục
Cáo thỉnh viên Việt Nam đã gửi điện văn sau đây bằng La ngữ trình
lên Đức Hồng y Chủ tịch Trịnh Văn Căn: Con rất vui mừng kính báo
Đức Hồng y tin: Ngày 19 Tháng 6 sang năm đã được Tòa Thánh
hôm nay ấn định là nhật kì chính xác để cữ hành Lễ Phong Thánh
các Chân Phúc Tử Đạo tại Việt Nam.

Trước Ngày Đại Lễ


1. Trong Vụ Án Phong Thánh Việt Nam, tất cả 117 vị đã là Chân
Phúc, đã được tôn vinh trong 4 đợt trước (những năm 1900, 1906,
1909 và 1951), đã có 4 phép lạ (bệnh nhân được chữa lành và được
bác sĩ đoàn xác nhận. Trần Ngọc Thụ. Giáo Hội Việt Nam I. Vụ Án
Phong Thánh, St. Michael Printing, USA, 1987, tr. 48-54), chỉ còn
việc làm lại hồ sơ, theo thủ tục hành chánh để nộp lên Bộ Phong
Thánh. Bởi vì tất cả 117 vị đều là thánh Tử đạo nên chỉ cần thêm

285
một phép lạ duy nhất, hay là còn có thể xin Tòa Thánh tha cho nữa.
Vì là một đặc ân quá lớn lao, chúng tôi xin chính Đức Hồng y
Palazzini, trong tư thế Bộ trưởng Bộ Phong Thánh, đại diện cho hàng
Giám mục Việt Nam, đứng tên xin Tòa Thánh tha điều kiện phép lạ.
Lí do mạnh mẽ ủng hộ thỉnh nguyện này chính là sự thăng tiến kì
diệu của Giáo Hội Việt Nam qua hơn 400 năm lịch sử hào hùng đã
trình bày trước đây. Không thể giải thích sự thăng tiến đó ngoài
Thiên định của Thiên Chúa: hơn 400 năm khai nguyên và phát triển
hùng mạnh là một phép lạ triền miên.
2. Tin ngày phong thánh vừa được Đức Gioan Phaolô II tuyên bố
khác nào tiếng sấm động, vang ran khắp năm châu bốn bể! Tinh thần
giáo dân tự nhiên nổi dậy như sóng cồn, chỗ nào cũng nghe bàn tán
chuyện đi Roma dự lễ phong thánh. Ủy Ban Phong Thánh được
thành lập cấp tốc. Ba lần các linh mục VN khắp thế giới về họp tại
La Mã để hoạch định chương trình và phân phối công tác tỉ mỉ cho
từng cộng đoàn, từng lục địa. Các khách sạn lớn chung quanh Vương
cung Thánh đường Thánh Phêrô đã được giữ hết chỗ một năm trước.
Người ta dự đoán số người về tham dự tối đa là 5000. Ba tháng trước
đại lễ, con số vọt lên 6 ngàn, rồi 7 ngàn, sau cùng là 8250 giáo dân
VN từ 27 nước trên 4 lục địa Á châu, Âu châu, Mỹ châu và Úc
châu… Từng đoàn người tuốn về các ga xe lửa và sân bay Ý Đại
Lợi. Thêm vào đó, 560 linh mục, tu sĩ nam nữ tới Roma với tư cách
riêng, hay là tháp tùng các đoàn thể của mình theo tư cách Tuyên úy.
Các tiệm bán ảnh tượng chung quanh Tòa Thánh Vatican, các tiệm
ăn, thấy toàn là dân áo dài và khăn xếp VN. Trên các nẻo đường
nghe rõ tiếng con cháu Rồng Tiên thao thao bất tuyệt và gọi nhau ơi
ới. Sao mà vui nhộn đến thế! Tất cả rừng người này, chiều hôm Thứ
Bảy (18-6-1988) sẽ kéo nhau về Quảng trường Thánh Phêrô để dự
cuộc rước kiệu di hài Các Thánh Tử Đạo VN và dâng hoa kính Đức
Mẹ. Cuộc rước kiệu là một cảnh tượng hết sức lạ mắt và vô cùng
ngoạn mục, nhất là trước con mắt người ngoại quốc. Họ trèo lên
tường, lên đế cột đèn điện, lên ghế cá nhân để bàn tán, chiêm

286
ngưỡng. Đây là công lao vượt mức trong việc chuẩn bị, may sắm,
tập dượt, từ ca nhạc đến đoản kịch, nghi lễ… đủ mọi bộ môn theo
truyền thống văn hóa dân tộc. Phải ca ngợi và thán phục tinh thần
phục vụ tối đa của các giáo dân VN tại Mỹ châu trong dịp này. Từng
đoàn qúy ông mặc áo thụng màu xanh, từng đoàn qúy bà mặc áo dài
nhung, gấm màu đỏ; rồi đồng phục màu vàng của các ca đoàn, của
50 em thiếu nhi trong ban vũ đến từ Portland. Đấy là chưa kể đến
các thiếu nữ trong đội lính thú thời xưa với binh phục nón cối xà cạp
đỏ và Ban Văn Tế, đội chiêng trống, lọng chầu…với y phục nghi lễ
Á Đông. Người bản xứ rất thích thú trước hoạt cảnh một vị hương
chức trong y phục đại lễ cổ truyền với khăn xếp màu đỏ, cứ tiến một
bước lại lui một bước, và trịnh trọng điểm một dùi trống lên mặt
chiếc đại cổ (trống lớn) do hai chàng thanh niên vạm vỡ khiêng trên
vai. Lúc 21 giờ đêm, từ Điện Vatican, chứng kiến cuộc rước kiệu
này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cho lệnh mở cửa sổ Văn
phòng để đích thân ban phép lành cho đoàn con VN đang diễn hành
trên Quảng trường Thánh Phêrô.
3. Ngày hôm sau, Chúa Nhật 19-6-1988, biển người nói trên lại
tập trung về Quảng trường Thánh Phêrô, chung hàng ngũ với 10
ngàn người Tây Ban Nha, gần 4 ngàn người Pháp và chừng 10 ngàn
du khách thập phương cùng với giáo dân người Ý nghe tin đồn thổi
cũng muốn đến dự lễ Phong Thánh Tử Đạo VN. Vì ở vào giữa Tháng
6, nghĩa là đã giữa mùa Hè, mặt trời mọc lên sớm, khí hậu khá nóng
nực, do đó, để cho dễ thở và bớt mức độ oi ả, ĐứcThánh Cha đã
đồng ý bắt đầu nghi lễ sớm hơn một giờ. Vào dự lễ hôm đó, mọi giáo
dân VN phải đeo khăn quàng cổ in hình 117 Thánh Tử Đạo, để cho
các đoàn thể dễ nhận ra nhau.
4. Trước khi tường thuật giai đoạn chung kết, chúng tôi xin kể lại
đây một sự việc rất quan trọng đối với sự thành công của cuộc đại
lễ: Đó là vấn đề tài chánh của Ban Tổ chức. Mỗi lần nhớ đến việc
này, chúng tôi không khỏi ngậm ngùi xúc động trước sự quan phòng

287
và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Lí do hết sức hiển nhiên là Ban
Tổ chức lúc ban đầu hoàn toàn tay không, chưa có ai dâng cúng một
đồng nào. Giải quyết vấn đề này là một việc rất khó khăn, nhưng
đồng thời lại rất thiết thực và rất cấp bách. Đi vay mượn các hội dòng
ngoại quốc đã từng hoạt động bên Việt Nam là điều có thể, nhưng
chạm lòng tự ái dân tộc, cho nên chúng tôi đề nghị vay chính Ngân
hàng Tòa Thánh. Chúng tôi liều mạng đi thương thuyết và kí giấy
giao kèo với nhân viên Ngân hàng vay 50 triệu tiền Ý (tương đương
30 ngàn Mỹ Kim). Kí giấy vay tiền mà tay run cậm cập vì đã 3 đêm
lo lắng không ngủ!
Quả thật, từ ngày cha sinh mẹ đẻ, chúng tôi chưa bao giờ dám táo
bạo đến thế. Kí xong, chúng tôi lủi thủi đi ra chưa tới cửa Ngân hàng
thì Đức ông De Bonis, người Ý (bây giờ đã làm Giám mục) từ đâu
đuổi theo.
Đức ông hỏi: “Cha làm gì mà tiêu xài với số tiền lớn như vậy?”
Hơi chạm tự ái, chúng tôi ngập ngừng chưa kịp trả lời, thì ngài
lại nhấn mạnh: “Cha làm gì? Cha đừng dại lấy tiền ra vội, vì lấy
ngày nào cha phải trả tiền lãi ngày đó, mượn 50 triệu ngày 1 đầu
tháng thì 30 cuối tháng cha phải trả 53 triệu!”
Chúng tôi buộc lòng phải dẹp tự ái thưa: “Dạ, đây không phải
tiêu xài cá nhân con, nhưng là để lo chuyện tổ chức Đại lễ Phong
Thánh 117 Chân Phúc Tử Đạo mà HĐGMVN đã trao phó cho con,
và nay vụ án đã xong, đã được Đức Giáo hoàng châu phê và tháng
6 sắp tới sẽ cử hành long trọng.”
Đức Ông De Bonis nói: “Trước, tôi tưởng cha lo việc cá nhân,
chứ bây giờ biết là chuyện phong thánh. Vậy cha cứ việc làm, tốn
phí bao nhiêu, tôi sẽ chịu cho!” Thật sự, ngài đã cho một số quan
trọng.
Quả thực là một giấc mơ! Nhưng nếu mơ thì phải mơ ban đêm,
chứ đâu có chuyện mơ giữa thanh thiên bạch nhật! Trước đấy ba bốn

288
đêm, chúng tôi không ngủ vì lo sợ, bây giờ cũng ba bốn đêm, chúng
tôi không ngủ vì ngỡ ngàng, như còn đang trong ảo mộng. Làm sao
có chuyện kì diệu đến thế!

Ngày Vinh Quang


Từ sáng sớm, Quảng trường Thánh Phêrô đã đen nghịt dân
chúng. Từ ba quốc gia, từng ngàn giáo dân tập trung về đây. Trước
kia, họ không quen biết nhau, nhưng giờ phút này họ chào nhau, bắt
tay nhau, vui cười với nhau, vì trong thâm tâm họ cùng một cảm
nghĩ: tự hào vì tấm gương anh dũng, trung kiên, thành tín của tổ tiên
mình.
Đúng chương trình, 8 giờ 30, Đức Thánh Cha và đoàn tháp tùng
(28 Hồng y, Giám mục, Linh mục) mặc đại phục màu đỏ đồng tế, từ
trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô tiến ra quảng trường
vĩ đại, giữa muôn vàn tiếng vỗ tay. Đức Gioan Phaolô II luôn luôn
giơ tay chào đón và chúc lành. Ca đoàn Sixtina của Tòa Thánh hát
Kinh Nhập lễ bằng La ngữ. Trước đó, Ca đoàn Tổng hợp Việt Nam
từ Mỹ qua đã hát bài “Ngày Vinh Thắng” của Lm. Ngô Duy Linh,
rồi trong thánh lễ bài “Ca Khúc Trầm Hương” của Dao Kim, cuối lễ
bài “Tiếng Nhạc Oai Hùng” của Hải Linh. Những bản nhạc này vang
dội hôm ấy ở giữa Thủ đô Giáo Hội có một ý nghĩa đặc biệt, vì được
hát bằng tiếng Việt, tiếng nước ta.
Một sự kiện kì lạ là thánh lễ đang cử hành đẹp đẽ trang nghiêm
thì tự nhiên bầu trời thay đổi. Một vài cơn mây đen nghịt từ đâu kéo
tới và mưa bắt đầu nhỏ giọt. Từ trong thánh đường, người ta đã
khiêng lọng ra để che phủ bàn thờ. Cả ngàn con tim, nhất là giáo dân
Việt Nam, như thể đã bị ngừng đập, tất cả trăm người như một, thầm
thĩ kêu van: Lạy Chúa, cả Giáo hội chúng con, từ ba bốn trăm năm,
đã mong chờ ngày hôm nay và mong được trông thấy ngày này huy
hoàng trọng thể, xin Chúa cất mọi trở ngại, để danh Chúa được thể
hiện nơi các Thánh Tử Đạo chúng con! Quả thật, đám mây đen sau

289
mấy phút đã bị luồng gió thổi đi xa, và trời thanh quang lại xuất hiện
như trước.
Lễ nghi phong thánh bắt đầu sau Kinh Thương Xót. Đức Hồng y
Palazzini, Bộ trưởng Bộ Phong Thánh, cùng với luật sư của Bộ và 3
Cáo thỉnh viên Việt, Pháp, Tây Ban Nha ra trước bàn thờ chính thức
xin Đức Thánh Cha cử hành đại lễ. Toàn thể cử tọa, theo lệnh viên
chức nghi lễ, đều quỳ hát Kinh Cầu Các Thánh, xin sự trợ giúp của
Thần Thánh trên trời trước khi nghe tuyên xưng 117 Vị Thánh mới.
Sau đó Đức Hồng y Palazzini trở lại trước bàn thờ và tuyên đọc:
Kính thưa Đức Thánh Cha, Giáo hội là Mẹ, xin Đức Thánh Cha
ghi tên các vị sau đây: Chân Phúc Anrê Dũng lạc, Linh mục; Tôma
Thiện và Emmanuelê Phụng, Giáo dân; Girolamô Hermosilla và
Valentinô Berrio - Ochoa, hai Giám mục Đa Minh; và 6 Giám mục
khác; Teophan Vénard, Linh mục Hội Thừa Sai Ba Lê; và 105 Bạn
Tử Đạo tại Việt Nam, vào sổ bộ Các Thánh và được các giáo hữu
kêu cầu bằng danh xưng Hiển Thánh.
Kính thưa Đức Thánh Cha, Trên mảnh đất gieo nhiều hạt giống
đẫm máu, mảnh đất đó càng phát sinh nhiều Vị Tử Đạo, và rồi hạt
giống đó sẽ kết thành mùa lúa vàng cho Giáo Hội. Các Thánh Tử
Đạo chết đi càng là chứng nhân cho Chúa Kitô hơn là lúc còn bình
sinh. Ngày nay các ngài vẫn còn đang nói, vẫn còn giảng thuyết.
Miệng lưỡi tuy im bặt, nhưng bao nhiêu sự việc còn đang vang dội
sâu xa.
Lời suy niệm trên đây của Thánh Augustinô áp dụng trong niên
lịch phụng vụ Ngày 19 Tháng 6, lễ kính hai Thánh Gervasiô và
Protasiô, tử đạo Thành Milan, hôm nay có thể trưng lại vì rất thích
hợp với niên hiệu và lễ nghi, để tôn vinh 117 Vị Thánh khác cũng là
huynh đệ trong Đức Tin và trong tử nạn: trước đây, suốt thời gian
từ 1745 tới 1862, đã hi sinh tính mạng tại Việt Nam trong vùng Đông
Nam Á châu, hồi đó gọi là Tonkin, An Nam và Cocincina. Máu của

290
các ngài, cũng như máu của từng ngàn anh chị em khác, hôm nay
đã kết thành mùa luá vàng cho Giáo hội Việt Nam.
Là cha mẹ trong Đức Tin, 8 Vị Giám mục Pháp và Tây ban Nha
đã sinh các vị khác trong Chúa Kitô, y như lời Thánh Kinh (1Cr
4,15), các vị đã là nhân chứng xứng đáng theo lời mình rao giảng
bằng khổ hình, bằng Thập giá, và theo gương Chúa Kitô, vị mục tử
tối cao nhân hậu, các ngài thật là gương mẫu cho đoàn chiên (1Pr5).
50 linh mục, 13 Âu châu, 37 Việt Nam, cùng đứng trong hàng
ngũ chăn chiên thuyết giảng lời Chúa và cùng chịu xiềng xích lao
tù, đã lấy xương máu để hoàn tất nghĩa vụ thi hành các bí tích, đúng
là những cộng tác viên của hàng Giám mục (LG, số 28), tức là những
người phân phát máu Con Chiên vô tội, cũng là máu đã thánh hoá
bản thân các ngài. Sau hết, 59 giáo dân thuộc nhiều tầng lớp xã hội,
hầu hết là những gia trưởng, một số là thầy giảng giáo lí, hồi xưa
trong các gia đình, trong các cộng đoàn đã sống tốt lành, đã là
những chứng nhân cho Bí tích Thanh tẩy bằng nước, bằng Thánh
Linh và bằng lửa (Mt 3,11).
Kính thưa Đức Thánh Cha,
Con số 117 vị này sắp được Đức Thánh Cha nghị quyết đưa lên
hàng danh dự và được tôn phong phẩm hàm Các Thánh Tử Đạo,
được toàn thể Giáo Hội tôn kính. Với các ngài, cũng như với con
cháu các ngài, giờ đây văng vẳng dội lại lới Thánh Phêrô khuyên
nhủ: Nếu ai trong anh em phải chịu khổ hình, vì mình là Kitô hữu,
thì đừng có xấu hổ thẹn thùng, nhưng phải hiên ngang tôn vinh Thiên
Chúa vì danh hiệu đó (1Pr 4,16).
Trong quảng trường linh thiêng này, bên cạnh mồ vị Tiên chủ
các Thánh Tông đồ đang hiện diện hơn 8 ngàn giáo dân Việt Nam
từ khắp năm châu bốn bể tập trung về đây, họ như đang cầm cành
thiên tuế ngước mắt nhìn lên các vị đồng hương tiên tổ sắp đón nhận
vòng hoa chiến thắng dành cho các vĩ nhân anh tài. Chung quanh

291
họ còn có gần 10 ngàn giáo dân tây Ban Nha và hơn 3 ngàn giáo
dân Pháp. Tất cả là anh em kết nghĩa trong Chúa Kitô, cũng như
giáo dân hai quốc gia này là anh em của những vị Thừa sai hồi xưa
đã mang danh Chúa Giesu có thần lực cứu vớt nhân loại (Cv 4,12)
rao giảng trên khắp lãnh thổ xa xăm Việt Nam. Trong số đó, có
những người con của Thánh Đa Minh, 34 vị vừa Tây Ban Nha vừa
VN hồi xưa đã nhập Dòng Anh Em Thuyết Giáo theo đúng danh xưng
của họ. Ngoài ra, còn có 10 thành viên của Hội Thừa Sai Ba Lê.
Trên những địa hạt hồi xưa được trao phó cho hai hội dòng thừa
sai nói trên, từ năm 1960 đã thành lập 25 giáo phận. Số người Công
giáo hiện nay xấp xỉ 7 triệu giáo dân. Tất cả cộng đoàn này, trong
cũng như ngoài nước, đang tiến bước hùng mạnh, sát cánh bên nhau,
họ phấn khởi đi về Tổ quốc trường sinh vĩnh cửu. Là vì họ xác tín
vào lời giáo huấn của Thánh Phaolô: Từ nay được cả khối chứng
nhân đông đảo như thế nâng đỡ, họ kiên trì chấp nhận cuộc thi đua
đã bắt đầu. Từ nay nhìn lên Chúa Giêsu, vị tiên phong ban phát Đức
Tin hoàn hảo, thay vì hưởng niềm hoan lạc vẫn có, Ngài đã giang
tay ôm lấy Thánh Giá và hiện giờ đang ngự bên hữu Tòa Thiên
Chúa (Hr 12,1-2).
Đức Hồng y vừa đọc xong lời thỉnh nguyện, và Kinh Cầu Các
Thánh vừa chấm dứt, toàn thể dân chúng đứng lên hợp ý với Đức
Thánh Cha, ngài kết thúc Kinh Cầu Các Thánh bằng lời nguyện: Lạy
Chúa nhân từ, xin nghe lời dân Chúa cầu xin và xin chiếu dọi ánh
sáng của Thần Linh Chúa vào tâm trí chúng con, để việc phụng thờ
cùa chúng con làm đẹp lòng Chúa và cho Giáo hội được thêm phát
triển. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
Toàn thể cộng đoàn dân Chúa vẫn đứng nghiêm chỉnh. Đức
Thánh Cha lại ngồi trên ngai và long trọng đọc công thức phong
thánh:
“Để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh, để phát huy đức tin
Công Giáo và củng cố đời sống Kitô hữu, với quyền lực của Chúa
292
Giêsu Kitô Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô, Phaolô
và của riêng tôi, sau khi đã suy nghĩ chin chắn, cũng như đã nhiều
lần cầu xin ơn trợ giúp của Thiên Chúa, đã tham khảo ý kiến của
nhiều Chư huynh Giám mục, tôi quyết định tuyên bố:
Các Chân Phúc: Anrê Dũng Lạc, Linh mục; Tôma Thiện và
Emmanuelê Phụng, Giáo dân; Girolamô Hermosilla và Valentinô
Berriô - Ochoa, hai Giám mục Dòng Đa Minh; và 6 Giám mục khác,
Têophan Vénard, linh mục Hội Thừa Sai Ba lê; và 105 Bạn Tử Đạo
Việt Nam, là những Vị Thánh và các ngài được liệt kê vào sổ các
Thánh. Tôi cũng quyết định rằng giáo hữu trong toàn thể Giáo hội
sốt sắng mừng kính các ngài như các Thánh Tử Đạo. Nhân danh
Cha và Con và Thánh Thần. Amen.”
Từ trên cao mặt tiền Vương Cung Thánh đường Thánh Phêrô,
một bức tranh thật lớn, dài 4 thước, rộng 3 thước 20, đã họa đủ số
117 Thánh Tử Đạo, từ từ được mở ra giữa muôn vàn tiếng vỗ tay hò
vang. Đại phong cầm của Ca đoàn Sixtina cử bài nhạc rộn rã ca ngợi
và tri ân Thiên Chúa. Từ Quảng trường Thánh Phêrô, lễ nghi phong
thánh được tiếp vận trực tiếp về Việt Nam. Đài Vô tuyến Truyền
thanh Truyền hình của Chính phủ Ý, liên tục trong 3 tiếng đồng hồ,
đã tường thuật tất cả nghi lễ đi khắp lãnh thổ nước Ý. Nhiều người
trong đoàn giáo dân Việt Nam, nhất là các cụ già, đã xúc động và rút
khăn lau nước mắt, vì cảm thấy vinh hạnh, sung sướng được là con
cháu các vị anh hùng. Trong suốt thời gian lưu lại Roma, Chúa Quan
Phòng cũng đã ban ơn lành, gìn giữ hơn 8 ngàn giáo dân Việt Nam,
không một ai đau ốm hay bị tai nạn nào; ai cũng tươi cười, vui vẻ và
phấn khởi.

Kết
Phần chúng tôi, trong tư thế Cáo thỉnh viên Vụ Án Phong Thánh,
sau khi hồi tưởng lại:

293
Việc được ủy nhiệm làm Cáo thỉnh viên từ ĐHY Giuse Trịnh
Văn Căn, Chủ tịch HĐGMVN;
Việc hoàn tất các tài liệu cần thiết và việc chuyển giao mọi tài
liệu lên Bộ Phong Thánh với đầy đủ các thủ tục theo Giáo luật;
Việc được Cơ Mật Viện bỏ phiếu “Thuận” và việc được Đức
Giáo hoàng, với thẩm quyền tối cao, châu phê;
Việc được Chúa Quan Phòng, cuối cùng, đã cho phương tiện tài
chánh để trang trải chi phí tổ chức ngày đại lễ;
Chúng tôi đi đến kết luận nghiêm chỉnh và thành tín rằng: Thiên
Chúa muốn cho các Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam được vinh danh
trong thời đại này, chứ không phải thời đại nào khác.
Thật vậy, từ trời cao thăm thẳm, từ ngàn ngày xa xưa, cũng như
mỗi ngày thường xuyên hiện tại, tấm gương can trường hi sinh của
các tiền nhân tử đạo Việt Nam ví như những ngọn đèn hải đăng vĩnh
viễn, vượt không gian và thời gian, tỏa sáng trên khắp các nẻo đường
đất nước Việt Nam.
Gương sáng về sự can trường và lòng hi sinh của các tiền nhân
Tử Đạo Việt Nam đã soi chiếu tới:
– Các Tòa Giám mục, nơi đây, phần đông các vị chủ chăn, trong
một quá khứ chưa xa, đã bị quản thúc tại gia, không có thể đi kinh
lý, thăm hỏi các giáo đoàn trong giáo phận của mình. Nhưng các vị
đã là những tảng đá sắt kiên cố, dù cho sóng biển có đập mạnh, gầm
thét, các ngài vẫn trung kiên bền vững.
– Các xứ đạo, nơi đây, các linh mục, là những đàn em trong dòng
giống Dũng Lạc, Lê Bảo Tịnh, đêm ngày vẫn kiên cường trong phận
sự phục vụ dân Chúa.
– Các tu viện, thuộc đủ mọi màu áo và đường lối tu hành (vì thời
cuộc, đôi khi phải đã đơn giản hóa tu phục), nhưng tất cả vẫn quyết

294
tâm đóng góp tích cực trong công cuộc truyền giáo và phục vụ đồng
bào.
– Các gia đình Công giáo, trong khí phách con cháu các Thánh
Tử Đạo anh dũng, đã duy trì bàn thờ trong nhà, tối sớm tập họp kinh
nguyện, xin ơn kiên trì trong đời sống đức Tin, Cậy, Mến và trở
thành những công dân lương thiện. Họ là những người đã lấy tên các
Thánh Tử Đạo để đặt cho chính mình, cho con cái mình, với hoài
bão là tiếp tục bảo tồn cái nền giáo dục linh thiêng đạo đức và truyền
thống cao đẹp của những anh hùng Emmanuel Lê Văn Phụng, những
Tôma Trần Văn Thiện, những bà hiền mẫu Lê Thị Thành.

- Roma 1998 –

***

295

You might also like