You are on page 1of 1

Ban biên tập Gửi bài viết Liên hệ quảng cáo

Trang chủ TẠP CHÍ SÔNG HƯƠNG - SỐ 331 (T.09-16) Tạp chí Sông Hương

HUẾ NGÀY NAY (new)


Khái quát nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Du
Phòng chống dịch COVID-19 15:09 | 16/09/2016
(new)
NGUYỄN THỊ BÍCH HẢI
VỌNG RA BIỂN
Số Đặc Biệt Số 387 (T.05-
Thời sự Văn chương Thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du được biểu hiện ở nhiều phương (T.6-21) 21)

diện. Chẳng hạn như năng lực phát hiện vấn đề, phát hiện những » Năm 1983
Văn nghệ trong nước
nghịch lý, năng lực cảm thông với những nỗi khổ đau của con người, » Năm 1984
Văn nghệ thế giới tài năng cấu tứ, tài năng sử dụng ngôn ngữ, thánh thơ lục bát,… » Năm 1985
» Năm 1986
Văn

Thơ

Nghiên Cứu & Bình Luận


Bạn đọc nhiều
Câu chuyện hôm nay
Xem bút tích Quang
Văn hoá nghệ thuật Dũng nói thêm về “Tây
Tiến”
Festival Huế Đón đọc Sông Hương
số 388, tháng 6 - 2021
Kiến trúc

Âm nhạc Nguyễn Văn Xuân -


Nhà văn, học giả
Sân khấu
Thơ Sông Hương 05-
Mỹ thuật
2021

Nhiếp ảnh
Trang thơ Lệ Hằng
Văn học dân gian

Đất và người

Huế bốn phương Quảng cáo

Nhìn ra thế giới


“Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc Việt Nam” tranh sơn dầu của họa sĩ Lê Anh Tuấn
Nhịp cầu di sản - Ảnh: Internet
Trang viết đầu tay
Trong tài năng nhiều mặt ấy, có một biệt tài: Khái quát nghệ
Trang thiếu nhi
thuật.
Góc Hoài niệm

SỐ ĐẶC BIỆT
Khái quát nghệ thuật nói đến ở đây chỉ những mệnh đề (hay
CHUYÊN ĐỀ
“ngữ”) khái quát về nhân sinh, thế sự (nhân thế) về nghệ
Giá sách Sông Hương
thuật, về tâm linh… được phát ra một cách tự nhiên từ hình
Tình Sông Hương
tượng nghệ thuật bằng hình tượng nghệ thuật - chứ không
Tác phẩm hay phải từ lý thuyết triết học, đạo đức hay tôn giáo… Chúng là
Tác giả - Tác phẩm những “phân tử đánh dấu” định hướng cho quá trình đến với
Giá sách Sông Hương thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Du.

Những mệnh đề khái quát này xuất hiện rất nhiều, chiếm tỷ lệ
cao trong sáng tác của Nguyễn Du. Để cuối cùng toàn bộ
sáng tác của ông trở thành một khái quát bằng nghệ thuật về
“Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

Tri nhận trực giác đã được kiểm chứng qua thao tác thống kê
tương đối kỹ. (Nói “tương đối” là do tiêu chí để gọi là “khái
quát” ít nhiều mang tính chủ quan).

Qua khảo sát ba thành tựu sáng tác chính của Nguyễn Du,
tức thơ chữ Hán, Truyện Kiều, Văn chiêu hồn (trong Nguyễn
Du toàn tập, 2 tập do Mai Quốc Liên và Nguyễn Quảng Tuân
biên khảo, Nxb. Văn học và Trung tâm nghiên cứu quốc học
1996; có tham chiếu một số tài liệu liên quan), chúng tôi nhận
thấy trong hơn 5000 câu thơ có 98 mệnh đề (ngữ) mang tính
khái quát. (Cái gọi là “ngữ khái quát” này thường gọn trong
một câu thơ, có trường hợp hơn một câu).

Cụ thể: Trong thơ chữ Hán có 45

Trong Truyện Kiều có 31

Trong Văn chiêu hồn có 22

Như vậy có thể thấy tỷ lệ khái quát trong Truyện Kiều là thấp
nhất, trong Văn chiêu hồn là cao nhất.

Điều này phù hợp với đặc trưng thể loại của các tác phẩm -
Truyện Kiều thuộc loại tự sự. Thơ chữ Hán và Văn chiêu hồn
thuộc loại trữ tình, riêng Văn chiêu hồn là một bài thơ trữ tình
đặc biệt (chiêu hồn) lại thuộc thể song thất lục bát - thể thơ trữ
tình chuyên biệt của dân tộc.

Như vậy, nhìn tổng thể, tỷ lệ khái quát trong thơ Nguyễn Du
rất cao, các nhà thơ xưa nay ít ai đạt được.

Khái quát nghệ thuật của Nguyễn Du có thể quy về những chủ
đề:

1. Nhân sinh - thế sự (nhân thế): 55

2. Văn chương - nghệ thuật: 18

3. Tôn giáo: 16

4. Trời đất: 6

5. Quốc gia: 3

Trong đó ba chủ đề chính là nhân thế, văn chương - nghệ


thuật và tôn giáo - tâm linh. Có thể thấy Nguyễn Du chủ yếu
nói về nhân sinh - thế sự, ít nói về quốc gia.

Chỉ duy nhất một lần ông nói đến “ơn vua”:

“Quân ân tự hải hào vô báo”


(Ơn vua tựa biển chưa hề báo)
(Nam Quan đạo trung)

Đành rằng lòng biết ơn không nhất thiết phải nhiều lời, nhưng
quả thực với Nguyễn Du cái việc làm quan với nhà Nguyễn
cũng là sự bất đắc dĩ và có thể có phần “tùy duyên”.

Có thể thấy, trong thơ, Nguyễn Du hầu như chẳng mấy quan
tâm đến quốc gia đại sự mặc dù ông đang làm quan và đang
đảm nhận trọng trách làm chánh sứ.

Quả là vua Gia Long có “biệt nhãn” mà cử Nguyễn Du làm


chánh sứ đi Trung Quốc để rồi trong thế giới nghệ thuật thơ
ông có Bắc hành tạp lục với 120 bài thơ (sáng tác trong vòng
1 năm), nhiều hơn cả Thanh Hiên thi tập và Nam trung tạp
ngâm (sáng tác trong vòng 27 năm) cộng lại; và có thể là cũng
nhờ vậy mà có được Đoạn trường tân thanh vì hẳn là Truyện
Kiều được viết sau chuyến “Bắc hành”.

Chuyến “Bắc hành” gồm 120 bài thơ “tạp lục” về những người
những cảnh, những danh thắng cổ tích dọc đường đi, trong
đó chủ yếu là “nghiêng lòng” (khuynh tâm) về những nhân vật
có cống hiến thân tâm cho văn hóa (đáng tiếc là Nguyễn Du
hầu như không nói gì về các “danh nhân đất Việt” - hiện tượng
này cũng thường thấy ở không ít tác gia văn học Việt Nam
trung đại. Đành rằng không thể đòi hỏi sự “hoàn thiện”, nhưng
quả là đáng tiếc. Điều này sẽ được hậu thế bổ sung). Với ông
việc làm quan, phụng mệnh vua đi sứ chả có gì nên thơ.

Trong một năm “phụng sứ”, có một lần ông “vui”:

“Hỉ trị thánh triều công phú đảo,


Vãng lai đài hạ tạp Hoa Di.”

(Vui được thánh triều che chở khắp,


Dưới đài hỗn tạp khách Hoa Di)
(Quản Trọng Tam Quy đài)

Chữ “hỉ” ở đây ngụ ý mỉa mai. Khổng Tử từng nói: nếu không
có Quản Trọng “nhất khuông thiên hạ” thì người Hoa Hạ đã
phải mặc áo, để tóc theo phong tục của người Di, Địch.

Vậy đó - niềm vui bị triệt tiêu. Chủ thể trữ tình tự bạch “ngã
sầu đa mộng” (ta nhiều sầu mộng) (Ngẫu đề).

Những chữ “lân, sầu, thương, bi, ai, oán, hận,… đau, buồn,
xót xa…” xuất hiện với tần số rất cao trong thơ Nguyễn Du.

Tố Như là một khối sầu thương


Thơ Tố Như là tiếng đoạn trường.

Nỗi sầu thương, “tiếng đoạn trường” ấy Nguyễn Du dành cho


nhân sinh thế sự và văn chương về nhân sinh thế sự, ngay cả
tôn giáo cũng trĩu nặng nỗi niềm nhân thế.

Chính ông đã nói:

“Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi”


(Y nguyện vận ký Thanh Oai Ngô Tứ Nguyên)

“Người làm sao chiêm bao làm vậy” (tục ngữ) - Khổng tử mơ
thấy Chu Công, Trang tử mộng hóa bướm, Tố Như tử thì
“Đêm đêm mộng hồn vào cõi thơ Đỗ Phủ”. Thơ Đỗ Phủ đau
nỗi niềm nhân thế, đó chính là cõi thơ “thanh khí” với “tiếng
đoạn trường” của Tố Như, khiến ông “bình sinh bội phục” “bậc
thầy nghìn thuở’ ấy.

Khái quát về nỗi buồn đau nhân thế chiếm quá nửa trong
những khái quát nghệ thuật của Nguyễn Du và hẳn là đều
được người đọc “tâm phục”.

Chẳng hạn:

“Nhân đáo cùng đồ vô hảo mộng”


(Người đến đường cùng không mộng đẹp)
(Trệ khách)

Hoặc:

“Trần thế bách niên khai nhãn mộng”


(Trần thế trăm năm mơ mở mắt)
(La Phù giang thủy các độc tọa)

Tuyệt vời là hình tượng “giấc mơ mở mắt” (khai nhãn mộng).


Có lẽ Nguyễn Du là người đầu tiên đem vào cõi thơ hình
tượng này.

Sau cuộc “độc tọa” (trong Thanh Hiên thi tập, khoảng cuối thế
kỷ XVIII) để chiêm nghiệm cõi “khai nhãn mộng’ này của Tố
Như khoảng một thế kỷ, các nhà phân tâm học Tây Âu có nói
đến hiện tượng “giấc mơ tỉnh thức” (hoặc “giấc mơ mở mắt”)
để chỉ một hiện tượng tâm lý đoản tạm, không phải cuộc “khai
nhãn mộng” suốt trăm năm “nhân thế” như Thanh Hiên đã
khái quát bằng thơ. Cuộc “Khai nhãn mộng” này lại là của một
thi nhân “cùng đồ vô hảo mộng”.

Lại chẳng hạn như:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn”


(Nỗi hận xưa nay khó hỏi trời)
(Độc Tiểu Thanh ký)

Có hỏi e rằng “trời” cũng bí. Bí vì quá nhiều câu hỏi. Có một
chữ xuất hiện với tần số cao trong sáng tác của Nguyễn Du:
chữ “hà?”. “Hà” là một từ nghi vấn; tùy theo ngữ cảnh và từ
mà nó kết hợp, “hà” có thể tương đương với: ai? gì? sao?
đâu? nào? Trong thơ chữ Hán có 63 chữ “hà?”, trong Văn
chiêu hồn có 30 và trong Truyện Kiều có đến 219 chữ “ai? gì?
sao? đâu? nào?”. Đó là chưa kể những từ nghi vấn khác
(chăng? chưa?... chẳng hạn). Sao mà nhiều câu hỏi, nhiều
nghi vấn thế? Xem ra cũng “khó hỏi trời”. Chỉ biết rằng tâm
hồn Tố Như quá quan hoài, quá nhiều câu hỏi về nỗi hận, nỗi
thảm, nỗi đau… nhân thế.

Vận vào mình, ông thấy:

“Phong vận kỳ oan ngã tự cư”

(Ta cũng ở trong nỗi oan phong vận)


(Độc Tiểu Thanh ký)

Nguyễn Du, cũng như nàng Kiều, thường “Mỗi lời là một vận
vào…” và tạo nên hiệu ứng “vận vào” khi người ta đến với thơ
ông, mà “lẩy Kiều” là một biểu hiện.

Biết làm sao được khi mà nhà thơ thể nghiệm một cách sâu
sắc cảnh ngộ:

“Thiên giáng kỳ tài vô dụng xứ”

(Trời ban tài lạ đành vô dụng)


(Trường Sa Giả thái phó)

Hẳn không chỉ Nguyễn Du thở dài vì cái lẽ “Có tài mà cậy chi
tài” ấy. Thật ngậm ngùi với câu thơ của Phạm Quý Thích:

“Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”

(Một mảnh tài tình ngàn thuở lụy)


(Đề từ)

Câu thơ nói về Kiều mà cũng là nói về Nguyễn Du, về những


ai đã “trót” được (hay bị?) “trời ban tài lạ”.

Về văn chương - nghệ thuật, Nguyễn Du cũng có những khái


quát “kinh nhân” (kinh động lòng người - lời thơ Đỗ Phủ).

Trong văn học cổ Đông Á, người Trung Quốc xưa đã có quan


điểm mỹ học “dĩ bi vi mỹ” (lấy buồn làm đẹp - phải buồn mới
được coi là đẹp), với người Nhật Bản “mono no aware” (vật
chi ai - nỗi buồn của sự vật hay “niềm bi cảm”) là cảm thức
thẩm mỹ cơ bản, đến nỗi trong “Truyện Genji” “aware” - “niềm
bi cảm” xuất hiện cả ngàn lần. Nguyễn Du thì khái quát theo
cách riêng:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu


Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Vừa nêu hình tượng vừa lý giải căn nguyên - sự giao cảm
giữa nội tâm với ngoại cảnh.

Trong “tâm nhãn” của Nguyễn Du :

“Thi thành thảo thụ giai thiên cổ”

(Thành thơ cây cỏ hóa ngàn năm)


(Hán Dương vãn diểu)

Cỏ thơm trên “bãi xa Anh Vũ”, hàng cây bên sông Hán Dương
đã vào thơ Thôi Hiệu thế là ngàn năm sau vẫn tươi xanh dẫu
người thơ cũng như hạc vàng đã “một đi không trở lại”.

Thì chẳng phải “cành mai đêm trước” của Mãn Giác thiền sư,
“lửa lựu lập lòe” trong Truyện Kiều… hình tượng thiên nhiên
thành thơ là thành bất tử đó sao? Nguyễn Du đã khái quát giá
trị trường tồn, bất tử của thi ca, của nghệ thuật bằng một hình
tượng nghệ thuật đầy sức thuyết phục và đẹp đến nao lòng.
Câu thơ này của Nguyễn Du cũng thành “thiên cổ”.

Người ta kể: có một họa sĩ nói với thiếu nữ trong tranh rằng:
“Thượng đế đã tạo ra nàng và nàng sẽ chết, ta tạo ra nàng và
nàng sống mãi”. Hay! Đó cũng là một cách diễn đạt thuyết
phục về sự “sống mãi” của nghệ thuật, hình tượng “thi thành
thảo thụ giai thiên cổ” thì thật đẹp một cách giản dị tự nhiên lại
dễ “thuộc nằm lòng”, “khẩu phục, tâm phục”; nó ở trong bài
“Hán Dương vãn diểu” như “thi nhãn” (mắt thơ) long lanh lại
có thể, bất giác, được rút ra để sống độc lập khi người ta
chứng kiến sự bất tử của nghệ thuật.

Thơ bất tử nhưng người thơ thì… oái oăm thay:

“Thi nhân đa bạc mệnh”

(Thi nhân thường bạc mệnh)


(Bạch Cư Dị - Lý Bạch mộ(1))

Với cuộc đời gian truân luân lạc, với tâm hồn “đa sầu mộng”,
Tố Như thâm cảm nghịch lý ấy và ngậm ngùi nhận thấy:

“Văn chương quang diễm thành hà dụng”

(Văn chương sáng chói có ích gì)


(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ)

Vận vào mình, ông thấy:

“Nhất sinh từ phú tri vô ích”

(Một đời từ phú biết vô ích)


(Mạn hứng)

Chẳng những “vô ích” mà thậm chí còn:

“Bách niên cùng tử văn chương lý”

(Trăm năm nghèo xác cõi văn chương)


(Mạn hứng)

Và khuyến cáo người đời:

“Văn chương đã chắc đâu mà trí thân”


(Văn chiêu hồn)

Nếu có chắc thì chắc là “nghèo xác” (!) rồi nữa hóa “cô hồn”.

“Khi thường” đã thế, huống chi “khi biến”, nhất là:

“Buổi chiến trận mạng người như rác”


(Văn chiêu hồn)

Bởi ở đời không thiếu cái sự thực tàn nhẫn:

“Dãi thây trăm họ làm công một người”


(Văn Chiêu hồn)

Câu thơ này có thể coi là “chuyển ý” (không phải là “chuyển


ngữ”) câu thơ:

“Nhất tướng công thành vạn cốt khô”

(Một tướng công thành khô vạn xương)


(Tào Tùng - Kỷ hợi tuế)

Nhưng, nói “nhất tướng công thành” khiến người ta nghĩ “vạn
cốt khô” là của binh lính; Nguyễn Du thì nói “Dãi thây trăm họ”,
“trăm họ” - “bách tính” là từ chỉ chung nhân dân (tất nhiên gồm
cả binh lính). Câu thơ của Tào Tùng đã khái quát đến kinh
người, mà tính phổ quát trong câu thơ “chiêu hồn” của
Nguyễn Du còn “cánh thướng nhất tằng” (lên thêm một tầng)
cao và rộng.

Lại huống chi trong vòng mười mấy năm (từ 1786 đến 1802)
công tử Nguyễn Du đã chìm nổi trong “cuộc bể dâu”, chẳng
những “một phen” mà đến mấy phen “thay đổi sơn hà” (Văn
chiêu hồn), với cảnh ngộ “mảnh thân chiếc lá”, bạc mệnh lắm
và cô đơn lắm.

Như đã nói, những “ngữ” khái quát chiếm tỷ lệ thấp nhất trong
Truyện Kiều, vì đây là một tác phẩm tự sự. Nhưng nói “thấp”
là so với trong thơ chữ Hán và Văn chiêu hồn, những tác
phẩm trữ tình, chứ bản thân Truyện Kiều có nhiều câu khái
quát chấn động lòng người, kết tinh tâm sự Nguyễn Du.
Truyện Kiều là một “tổng khái quát” vì Kiều là một hình tượng
kết tập nỗi đau nhân thế. Đặc biệt, Nguyễn Du đã đặt cho đứa
con tinh thần của mình cái tên Đoạn trường tân thanh - Tiếng
kêu đứt ruột mới. Thế có nghĩa là: Những sáng tác trước tác
phẩm này đều là “đoạn trường thanh”.

Cho nên có thể nói rằng Nguyễn Du đã đem niềm cảm


thương, nỗi đoạn trường của mình phổ vào Kim Vân Kiều
truyện, “mượn” cốt truyện từ một bộ tiểu thuyết “tài tử giai
nhân” mà viết nên một khúc “đoạn trường tân thanh” để cùng
toàn bộ tác phẩm của ông trở thành một bản giao hưởng
“đoạn trường thanh” mà Truyện Kiều là cao trào.

Từ nhân thế, “cõi người” đầy dâu bể, từ những “lời chung” về
“cái điều bạc mệnh” về nỗi đoạn trường đến những nỗi niềm
rất đỗi riêng tư (mà vì “rất riêng tư”, nên lại là “ai ai cũng…”)…
trừu xuất được rất nhiều cảm nghiệm tâm tình và triết lý
chung cho cõi người, cho nghệ thuật như thế.

“… phi nhãn phù lục hợp, tâm quán thiên thu vị tất hữu thử
bút lực dã…” (… Nếu không có con mắt trông thấu cả sáu cõi,
tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy…”
- chuyển dẫn từ Nguyễn Du toàn tập, tập 2, trang 41).

Lời tri âm ấy của Mộng Liên Đường chủ nhân nói về Nguyễn
Du khi viết Truyện Kiều cũng có thể nói về toàn bộ sáng tác
của Nguyễn Du.

Cách nói ấy cũng cho hay Mộng Liên Đường chủ nhân cảm
thấy Nguyễn Du nhìn “thiên thu lục hợp” bằng “pháp nhãn”,
bằng “tuệ tâm” của Phật giáo.

Không đạo mạo như Khổng Tử, không “hư - tĩnh” như Lão
Đam, không “ngông” như Trang Chu, cũng không đau đáu
chữ “cương thường” như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du “biết thân
chạy chẳng khỏi trời”, “đã không biết sống là vui”, đành ôm
một nỗi đoạn trường mà lăn lóc trong “ta bà thế giới”, đem tấm
lòng cảm thông và xót thương vô hạn (từ bi tâm) mà định
hướng cho đôi mắt chú mục vào mọi kiếp nhân sinh trong “bể
khổ”, khiến cho toàn bộ sáng tác của ông trở thành bản giao
hưởng “đoạn trường thanh”. Phải chăng ngọn bút của ông còn
được sự khơi gợi thầm thì từ “tàng thức” thẳm sâu.

Bế tắc đến độ thấy đời chỉ là “giấc mơ mở mắt”, đến độ “khó


hỏi trời”, Nguyễn Du tìm đến với Phật giáo bằng tấm lòng
chân thành, đến độ:

“Ta đọc kinh Kim Cương hơn ngàn lần”

(“Ngã độc Kim Cương thiên biến linh”)


(Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài)

và khẳng định:

“Thử tâm thường định bất ly thiền”

(Lòng này luôn định chẳng rời thiền)


(Đề Nhị Thanh động)

Nhưng rốt cuộc Nguyễn Du không “chứng thiền”. Yếu chỉ của
thiền định là “quán vô thường” và “quán vô ngã”; Nguyễn Du
“quán vô thường” ở mức thấy “Trần thế bách niên khai nhãn
mộng” nhưng không thể “quán vô ngã”! Ông “khư khư mình
buộc lấy mình vào trong” “ngã chấp” làm một “con người cá
nhân” “không tiền” và có lẽ cũng “khoáng hậu” trong văn học.

Qua tác phẩm có thể thấy tư tưởng Phật giáo trong Nguyễn
Du ít nhiều tự mâu thuẫn. Nho giáo ở ông cũng vậy.

Lại mâu thuẫn và dung thông giữa Nho và Phật. Mở đầu


Truyện Kiều ông nói “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”.
“Mệnh” là rất đáng sợ. Nỗi sợ đầu tiên của Khổng Tử là sợ
“mệnh trời”. Đến cuối tác phẩm ông lại khẳng định:

“Thiện căn ở tại lòng ta


Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”

Có “thiện căn”, có “bản thiện” (Mạnh Tử) tại lòng thì “tâm” có
thể quán thông “tam tài”.

Ông hy vọng đem chữ “tâm” theo tinh thần Phật giáo để hóa
giải xung đột giữa “tài” và “mệnh”.

Địa Tạng Bồ tát từng phát nguyện: “Chừng nào còn một sinh
linh đau khổ trong địa ngục, chừng ấy ta chưa nhập Niết bàn.”
Chúng sinh chừng nào mới hết khổ đau đây? Đến với “Văn
Chiêu hồn”, “cái ngã” lánh ẩn, để tấm “lòng… thiết tha” lên
tiếng “chiêu hồn thập loại chúng sinh”. Ông đã “lấy Phật làm
lòng” và “lạc đạo” ngay giữa cõi đời.

Những khái quát nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Du
cho thấy được quá trình “đắc đạo văn chương” của ông. Với
Tố Như, con người, cuộc đời mới là cứu cánh (mục đích) chứ
không phải bất cứ thứ “giáo” nào. Nếu có thì đó là tôn giáo
của con người - nhân đạo.

“Nhân” và “duyên” nào đã chung đúc nên biệt tài này cùng với
thiên tài Nguyễn Du?

Điều này kể cũng khó vì phong phú và vi diệu quá.

“Nhân” (chủng tử - nhân tố bên trong) phải chăng là tấm lòng


cảm - thương (từ - bi) và “tuệ nghiệp” của chủ thể trữ tình?
Nguyễn Du đã từng:

“Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp”

(Một nén hương thơm trừ tuệ nghiệp)


(Vọng Quan Âm miếu)

Nhưng rốt cuộc không “trừ” được, cũng may mà không “trừ’
được mới để lại “Tiếng thơ… động đất trời” (Tố Hữu). Và phải
chăng “nhân” còn là cái “gen”/gien nhân hậu và cái “gen” thi
cảm di truyền từ mạch nguồn truyền thống dân tộc và uyên
nguyên gia học họ Nguyễn Tiên Điền?

“Duyên” (hoàn cảnh, tác nhân khách quan) phải chăng là cảnh

You might also like