You are on page 1of 13

HỒ SƠ TÌNH HUỐNG SỐ 13

(Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nguyên Đơn)


Vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” giữa:

I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN:


Ngày 02/01/2015 Công ty TNHH Kim Lân (Công ty Kim Lân) tiến hành ký kết
Hợp Đồng Nguyên Tắc số 01/2015/NLBN-KL với Công ty TNHH Nhật Linh (Công ty
Nhật Linh) về việc mua bán hàng hóa, hời hạn thực hiện của Hợp đồng là 12 tháng.
Trong quá trình kinh doanh, mua bán hàng hóa Công ty Nhật Linh còn nợ tiền
hàng của Công ty Kim Lân.
Ngày 25/02/2016 Công ty Kim Lân và Công ty Nhật Linh đã lập biên bản đối
chiếu công nợ tính đến ngày 31/12/2015, số tiền mà Công ty Nhật Linh nợ Công ty Kim
Lân là 3.250.319.430 đồng (Ba tỷ hai trăm năm mươi triệu, ba trăm mười chín nghìn bốn
trăm ba mươi đồng)
Ngày 08/5/2016 Công ty Kim Lân và Công ty Nhật Linh lập Biên bản đối chiếu
công nợ tính đến ngày 30/4/2016, số tiền mà Công ty Nhật Linh nợ Công ty Kim Lân là
3.177.970.970 đồng (Ba tỷ một trăm bảy mươi bảy triệu, chín trăm bảy mươi nghìn chín
trăm bảy mươi đồng)
Ngày 09/5/2016, Công ty Kim Lân có Công văn số 0506ĐN/CV gửi Công ty Nhật
Linh về việc đôn đốc thực hiện thanh toán tiền hàng còn nợ với Công ty theo Biên bản
đối chiếu công nợ ngày 25/02/2016.
Ngày 17/5/2016 tại Trụ sở của Công ty Kim Lân, hai bên đã tiến hành họp thống
nhất về khoản nợ cũng như thỏa thuận về lộ trình thanh toán theo Công văn số 77/CV-
NL.
Ngày 27/5/2016 Công ty Nhật Linh đã thông báo với Công ty Kim Lân về lộ trình
và phương thức thanh toán nợ như sau: Mổi tuần thanh toán một lần với số tiền là
300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng chẵn) vào các ngày thứ 6 hàng tuần cho đến khi
hết và việc thanh toán kết thúc vào 30/7/2016.
Ngày 07/6/2017, Công ty Nhật Linh có Công văn số 87/CV-NL thể hiện việc
không đồng ý trả nợ cho Công ty Kim Lân.

1
Tuy nhiên, Công ty Nhật Linh đã không thanh toán số nợ trên theo như thỏa thuận.
Ngày 10/7/2016 Công ty Kim Lân khởi kiện Công ty Nhật Linh ra Tòa án nhân dân
huyện Thuận Thành về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, cụ thể như sau:
1. Yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh thụ lý giải quyết
vụ kiện đòi nợ tiền hàng giữa Công ty Kim Lân với Công ty Nhật Linh.
2. Yêu cầu Công ty TNHH Nhật Linh có trách nhiệm thanh toán số nợ gốc là
3.270.212.570 đồng (Ba tỷ hai trăm bảy mươi triệu, hai trăm mười hai nghìn năm trăm
bảy mươi đồng) và lãi suất theo quy định pháp luật.
Ngày 21/8/2016, Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành ra thông báo số
05/2016/TB-TLVA về việc thụ lý vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa
Công ty kim Lân và Công ty Nhật Linh.
Ngày 03/9/2016, Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành mở phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vụ việc.
Ngày 25/9/2016, Công ty Kim Lân có đơn yêu cầu tạm đình chỉ vụ án để thương
lượng, hòa giải với phía Công ty Nhật Linh nên Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành ra
Quyết định tạm đình chỉ số 03/2016/QĐST-KDTM ngày 25/9/2016.
Ngày 15/10/2016, Công ty Kim Lân có công văn số 0110 gửi Công ty Nhật Linh
yêu cầu 2 bên tổ chức buổi làm việc để giải quyết số tiền còn nợ. Sau đó Công ty Nhật
Linh có công văn số 144/CV-NL phúc đáp công văn của Công ty Kim Lân cho rằng các
bên không thể thỏa thuận và đợi sự giải quyết của Tòa án.
Sau đó Công ty Kim Lân có đơn yêu cầu tiếp tục giải quyết vụ án và Tòa án nhân
dân huyện Thuận Thành đã ra quyết định số 30/2016/DSST-KDTM ngày 28/10/2016 về
việc tiếp tục giải quyết vụ án.
Ngày 17/01/2016, Công ty Nhật Linh có đơn phản tố, yêu cầu Công ty Kim Lân
hoàn trả toàn bộ tài sản của Công ty Nhật Linh còn trên đất của Công ty kim Lân.
Ngày 29/10/2016, Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành ra thông báo cho Công ty
Nhật Linh nộp tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu phản tố.
Ngày 06/11/2016, Công ty Nhật linh nộp tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền
tạm ứng án phí số AA/2010/00243 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Thành.
Ngày 15/11/2016, Công ty Nhật Linh có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời bằng cách phong tỏa tài sản đối với các tài sản mà Công ty Nhật Linh
đầu tư trên đất của Công ty Kim Lân
Ngày 22/01/2016, Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành ra Quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2016/QĐ-BPKCTT, phong tỏa tài sản của Công ty
Kim Lân theo danh sách. Và phía Công ty Nhật Linh đã nộp 200 triệu để đảm bảo.

2
Ngày 26/11/2016, Công ty Kim Lân có đơn khiếu nại Quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án. Ngày 28/11/2016, Tòa án nhân dân huyện Thuận
Thành ra quyết định không chấp nhận đơn khiếu nại của Công ty Kim Lân.
Ngày 24/12/2016, Công ty Nhật Linh yêu cầu hủy bỏ áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời và yêu cầu được nhận lại số tiền 200 triệu đã đảm bảo.
Ngày 25/12/2016, Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành ra Quyết định hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời đối với Công ty Kim Lân.
Ngày 26/12/2016, Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành ra quyết định đưa vụ án ra
xét xử để tiến hành xét xử vụ án.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TỐ TỤNG CƠ BẢN:
1/ Xác định tư cách tố tụng của các đương sự:
- Tư cách nguyên đơn: Theo quy định tại khoản 2, Điều 68 Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015: Nguyên đơn là người khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự
khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Qua nội dung hồ sơ thì Công ty TNHH Kim Lân là pháp nhân có đủ năng lực pháp
luật tố tụng dân sự được thành lập theo qui định pháp luật và được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp ngày 25/11/2003, tại thời điểm giải quyết vụ án công ty vẫn còn
hoạt động.
- Tư cách bị đơn: Theo qui định tại khoản 3 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015: Bị đơn là người bị nguyên đơn khởi kiện. Như vậy, trong vụ án này bị đơn là Công
ty TNHH Nhật Linh - được thành lập theo qui định pháp luật và được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu ngày 12/6/2008, thay đổi lần 7 ngày 15/5/2013 và tại
thời điểm giải quyết vụ án công ty vẫn còn hoạt động.
Do đó đương sự trong vụ án gồm:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH Kim Lân
Địa chỉ trụ sở: Cụm công nghiệp Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh.
Đại diện theo pháp luật: Ông Hàn Anh Tuấn Chức vụ: Giám Đốc
Đại diện theo ủy qyền: Bà Kiều Thị Hải Vân
- Bị đơn: Công ty TNHH Nhật Linh.
Địa chỉ trụ sở: Cụm công nghiệp Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh.
Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Chí Linh Chức vụ: Giám Đốc
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tiến Công
2/ Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp:

3
Theo nội dung hồ sơ thể hiện, Công ty Kim Lân đòi Công ty Nhật Linh trả tiền
hàng hóa còn nợ phát sinh từ Hợp đồng nguyên tắc số 01, ngày 02/01/2015 được ký kết
giữa Công ty Kim Lân và Công ty Nhật Linh.
Do đó, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này được xác định là tranh chấp
Hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định tại Khoản 1, Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015.
 3/ Về thời hiệu khởi kiện của vụ án:
Theo qui định tại Điều 319 Luật thương mại năm 2005 thì thời hiệu khởi kiện đối
với các tranh chấp thương mại là 02 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích bị xâm phạm.
Sau khi các bên thống nhất về công nợ, và cam kết trả nợ theo đúng lộ trình thì
ngày 07/6/2016, Công ty Nhật Linh có Công văn số 87/CV-NL thể hiện việc không đồng
ý trả nợ cho Công ty Kim Lân, nên xác định ngày 07/6/2016 là ngày mà quyền và lợi ích
của Công ty Kim Lân bị xâm phạm.
Đến ngày 10/7/2015 Công ty TNHH Kim Lân khởi kiện Công ty TNHH Nhật
Linh đến Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành do đó vẫn còn thời hiệu khởi kiện.
4/ Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án:
Theo thỏa thuận tại khoản 5.1, Điều 5 Hợp đồng nguyên tắc ngày 02/01/2015 giữa
Công ty Kim Lân và Công ty Nhật Linh quy định “Trong quá trình thực hiện hợp đồng,
nếu có những mâu thuẫn hay tranh chấp xảy ra, hai bên phải cùng nhau thỏa thuận giải
quyết thỏa đáng, chân tình bằng văn bản. Nếu không thỏa thuận được, hai bên sẽ viện
đến Trọng tài kinh tế thành phố Hà Nội, phán quyết của Trọng tài kinh tế thành phố Hà
Nội sẽ là quyết định cuối cùng và bắt buộc hai bên phải thi hành.”
Như vậy, tranh chấp phát sinh giữa hai công ty nếu không thể được giải quyết
bằng con đường thỏa thuận, đàm phán thì Trọng tài kinh tế thành phố Hà Nội sẽ là cơ
quan có thẩm quyền giải quyết.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay không tồn tại cơ quan tài phán mang tên Trọng tài
kinh tế thành phố Hà Nội trong thỏa thuận trọng tài giữa các bên.
Căn cứ Điều 6 Luật Trọng tài thương mại năm năm 2010 quy định về trường hợp
Toà án từ chối thụ lý trong trường hợp có thoả thuận trọng tài như sau:
“Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên
khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô
hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.”
Vì thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được (theo khoản 1 Điều 4, Nghị quyết
01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 20/3/2014
4
hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại). Nên thẩm quyền giải
quyết tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa giữa Công ty Kim Lân và Công ty Nhật
Linh thuộc về Tòa án.
- Về thẩm quyền theo cấp Tòa: Căn cứ tại Điểm b, Khoản 1, Điều 35 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 quy định: “Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm tranh chấp về Kinh doanh, thương
mại.” Như vậy, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tranh chấp này.
-  Về thẩm quyền theo lãnh thổ: Căn cứ tại Điểm a khoản 1 Điều 39  Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 quy định:  “Tòa án nơi bị đơn có trụ sở nếu bị đơn là cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm”. Công ty TNHH Nhật Linh có địa
chỉ trụ sở tại Cụm công nghiệp Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh.
Do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh.
III. YÊU CẦU KHỞI KIỆN CỦA NGUYÊN ĐƠN, CHỨNG CỨ CHỨNG MINH:
1/ Yêu cầu khởi kiện của Công ty Kim Lân:
Theo đơn khởi kiện ngày 10/7/2016, Công ty Kim Lân khởi kiện yêu cầu:
- Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh thụ lý giải quyết vụ kiện đòi
nợ tiền hàng giữa Công ty Kim Lân với Công ty Nhật Linh.
- Và yêu cầu Tòa án buộc Công ty TNHH Nhật Linh có trách nhiệm thanh toán số
nợ gốc là: 3.270.212.570 đồng (Ba tỷ hai trăm bảy mươi triệu hai trăm mười hai nghìn
năm trăm bảy mươi đồng) và lãi suất theo quy định pháp luật.
Tuy nhiên, thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc về Tòa án nhân dân huyện Thuận
Thành là đúng theo qui dịnh pháp luật và đã được tòa án thụ lý giải quyết nên về nội
dung, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là buộc Công ty TNHH Nhật Linh có trách
nhiệm thanh toán số nợ gốc là: 3.270.212.570 đồng (Ba tỷ hai trăm bảy mươi triệu, hai
trăm mười hai nghìn năm trăm bảy mươi đồng) và lãi suất theo quy định pháp luật.
2/ Tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
- Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty Kim Lân.
- Hợp đồng Nguyên tắc ngày 02/01/2015.
- Bản đối chiếu công nợ ngày 25/2/2016
- Bản đối chiếu công nợ ngày 08/5/2016.
- Bảng kê tính lãi.

5
- Công văn số 0506ĐN/CV ngày 09/5/2016.
- Công văn số 77/CV-NL của Công ty Nhật Linh.
- Công văn số 87/CV-NL của Công ty Nhật Linh
- Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty Nhật Linh.
- Các thông tin, tài liệu, chứng cứ Tòa thu thập, gồm: Biên bản lấy khai các
đương sự và Biên bản hòa giải mà Tòa án đã thu thập.
* Ý kiến của nguyên đơn đối với yêu cầu phản tố của bị đơn: Công ty Kim Lân
không đồng ý ký và hoàn trả tài sản cho công ty Nhật Linh vì thực tế Công ty Nhật Linh
không có đầu tư, góp vốn gì với Kim Lân.
IV. KẾ HOẠCH HỎI CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA:
(Với tư cách Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn, hỏi để làm rõ
việc có hay không việc Công ty Nhật Linh đã ký vào các khoản công nợ, xác định, làm rõ
việc Công ty Nhật Linh không góp vốn vào Công ty Kim Lân mà người góp vốn là cá
nhân của ông Nguyễn chí Linh. Đồng thời làm rõ yêu cầu phản tố của bị đơn.)
* Hỏi đại diện của bị đơn:
1. Công ty TNHH Nhật Linh cùng Công ty TNHH Kim Lân có ký hợp đồng
nguyên tắc ký ngày 02/01/2015 không?
2. Biên bản đối chiếu công nợ ngày 25/02/2016 và ngày 28/5/2015 đã được ký
bởi đại diện của công ty là bà Nguyễn Bình Phúc đúng không?
3. Con dấu trong 2 biên bản này có phải của công ty Công ty Nhật Linh không?
4. Ngày 27/5/2016 Công ty Nhật Linh đã thông báo với Công ty Kim Lân về lộ
trình trả nợ đúng không?
5. Từ khi ký 2 biên bản đối chiếu công nợ thì phía Công ty Nhật Linh đã thanh
toán Công ty Kim Lân khoản tiền nào chưa? Có chứng từ gì không? Vậy phía
công ty xác định lại số tiền còn nợ Công ty Kim Lân là bao nhiêu?
6. 02 ủy nhiệm chi ngày 11/01/2016 và 30/01/2016 chi trả cho khoản nợ nào? Có
phải tiền hàng tháng 7/2015 theo Hóa đơn 000086,84?
7. Ông cho rằng Công ty Nhật Linh có hùn vốn với Công ty Kim Lân đúng
không?
8. Công ty Kim Lân thành lập ngày nào ông biết không?
9. Công ty Nhật Linh thành lập ngày nào?
10. Vậy Công ty Nhật Linh thành lập trước hay sau Công ty Kim Lân? Sau mấy
năm?

6
11. Thành lập sau Công ty Kim Lân 5 năm, vậy tại thời điểm Công ty Kim Lân
được thành lập căn cứ nào ông cho rằng Công ty Nhật Linh có góp vốn?
12. Công ty Nhật Linh có tên trong danh sách thành viên góp vốn trong giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty Kim Lân không?
13. Theo ông, thành viên góp vốn Nguyễn Chí Linh trong Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh của Công ty Kim Lân là cá nhân hay pháp nhân của Công ty
Nhật Linh?
14. Công ty Nhật Linh làm đơn phản tố khi nào? Trước hay sau khi tòa án hòa giải
tranh chấp giữa các bên?
15. Các bên có thỏa thuận gì về việc cấn trừ khoản tiền hàng còn nợ với các tài sản
trên đất đang tranh chấp không? Văn bản nào thể hiện thỏa thuận việc cấn trừ
này?
* Hỏi đại diện của nguyên đơn:
1. Các Hợp đồng nguyên tắc ngày 02/01/2015, và 2 bản đối chiếu công nợ do Công
ty Nhật Linh ký với Công ty Kim Lân đúng không?
2. Công ty Nhật Linh đã thanh toán cho bên nguyên đơn khoản tiền nào chưa?
3. Công ty Nhật Linh có góp vốn với Công ty Kim Lân không?
4. Đối với các tài sản Công ty Nhật Linh cho rằng đầu tư trên đất Công ty Kim Lân
hiện các bên có tranh chấp không? Và có liên quan gì đến việc nợ tiền hàng của
Công ty Nhật Linh không?
5. Các bên có thỏa thuận gì về việc cấn trừ khoản tiền hàng còn nợ với các tài sản
trên đất đang tranh chấp không?
6. 02 ủy nhiệm chi ngày 11/01/2016 và 30/01/2016 chi trả cho khoản nợ nào? Có
phải tiền hàng tháng 7/2015 theo Hóa đơn 000086,84?

V.   LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGUYÊN ĐƠN:
BẢN LUẬN CỨ

Kính thưa Hội đồng xét xử!


Thưa vị đại diện Viện kiểm sát!
Thưa các vị luật sư đồng nghiệp!
Tôi là Luật sư Phan Thị Bé Tư – đang công tác tại Văn phòng Luật sư K23, Đoàn
Luật sư tỉnh Đồng Tháp.

7
Hôm nay, tôi tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua
bán hàng hóa” với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn
Công ty TNHH Kim Lân.
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Qua hồ sơ vụ án mà các bên giao nộp và quá trình hỏi công khai tại phiên tòa hôm
nay có thể khẳng định:
Công ty TNHH Kim Lân (Công ty Kim Lân) và Công ty Nhật Linh có ký Hợp
Đồng Nguyên Tắc với Công ty TNHH Nhật Linh (Công ty Nhật Linh) về việc mua bán
hàng hóa, nợ tiền hàng của Công ty Nhật Linh là có thật.
Ngày 25/02/2016 Công ty Kim Lân và Công ty Nhật Linh đã lập biên bản đối
chiếu công nợ tính đến ngày 30/4/2015, số tiền mà Công ty Nhật Linh nợ Công ty Kim
Lân là 3.250.319.430 đồng.
Ngày 08/5/2016 Công ty Kim Lân và Công ty Nhật Linh lập Biên bản đối chiếu
công nợ lần 2 tính đến ngày 31/12/2015, số tiền mà Công ty Nhật Linh nợ Công ty Kim
Lân là 3.177.970.970 đồng.
Ngày 09/5/2016, Công ty Kim Lân đã có Công văn số 0506ĐN/CV gửi Công ty
Nhật Linh về việc đôn đốc thực hiện thanh toán tiền hàng còn nợ với Công ty theo Biên
bản đối chiếu công nợ ngày 25/02/2016. Tuy nhiên, sau đó công ty Nhật Linh vẫn không
phản hồi gì.
Ngày 17/5/2016 tại Trụ sở của Công ty Kim Lân, hai bên đã tiến hành họp thống
nhất về khoản nợ nêu trên, Công ty Nhật Linh đã cam kết trả nợ theo lộ trình là mỗi tuần
thanh toán một lần với số tiền là 300.000.000 đồng vào các ngày thứ 6 hàng tuần cho đến
khi hết và việc thanh toán kết thúc vào 30/7/2016.
Tuy nhiên hiện nay Công ty Nhật Linh lại không thực hiện theo thỏa thuận, làm
ảnh hưởng đến các quyền lợi hợp pháp của Công ty Kim Lân.
Nay Công ty Kim Lân khởi kiện Công ty Nhật Linh phải thanh toán số tiền hàng
còn nợ và lãi phát sinh cho việc chậm thanh toán với tổng số tiền là: 3.500.319.430 đồng.
Đồng thời không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty Nhật Linh.
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và phần thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay, tôi
xin trình bày một số quan điểm cũng như chứng cứ chứng minh yêu cầu của Công ty Kim
Lân là hoàn toàn có căn cứ và hợp pháp như sau:
1. Về yêu cầu Công ty TNHH Nhật Linh có trách nhiệm thanh toán số nợ gốc và
lãi phát sinh do chậm trả cụ thể như sau:
Thứ nhất: số tiền nợ gốc
8
Theo đơn khởi kiện, phía Công ty Kim Lân yêu cầu Công ty Nhật Linh phải trả số
tiền nợ gốc: 3.270.212.570 đồng + tiền lãi phát sinh do chậm trả khoản tiền trên.
Tuy nhiên, theo như sự trình bày của chị Vân - đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn tại biên bản ghi lời khai ngày 30/10/2016 giải trình về số nợ còn chênh lệch, chị Vân
thừa nhận, sau khi tổng kết công nợ phía Công ty Nhật Linh có thanh toán cho Công ty
Kim Lân số tiền 19.893.140 đồng nên hiện nay số tiền Công ty Kim Lân còn nợ theo
công nợ là:
3.270.212.570 – 19.893.140 = 3.250.319.430 đồng.
Tiếp đến là ngày 08/5/2016 Công ty Kim Lân và Công ty Nhật Linh lập Biên bản
đối chiếu công nợ lần 2, tính đến ngày 30/4/2016, số tiền mà Công ty Nhật Linh nợ Công
ty Kim Lân là 3.177.970.970 đồng. Biên bản này đã được lập có chữ ký, xác nhận đóng
dấu 2 bên cũng như được chứng thực của ủy ban nhân dân xã sao y từ bản gốc.
Do đó chúng tôi thống nhất xác định số tiền 3.177.970.970 đồng là tiền nợ gốc mà
Công ty Nhật Linh còn nợ Công ty Kim Lân.
Về biên bản đối chiếu công nợ ngày 08/5/2016 đã được Công ty Nhật Linh thừa
nhận do công ty ký xác nhận là thực tế. Do đó khoản nợ 3.177.970.970 đồng mà Công ty
Nhật Linh còn nợ là việc không thể chối cãi.
Phía Công ty Nhật Linh cho rằng mình đã thanh toán cho Công ty Kim Lân 2
khoản tiền theo 2 ủy nhiệm chi ngày 11/01/2016 và 30/01/2016 với tổng số tiền là
1.112.160.860 đồng là không đúng, bởi 2 ủy nhiệm chi này được lập ngày 11 và
30/01/2016 nhưng trong nội dung chi có ghi “TT tháng 7/2015/HĐ-000086,84” tức phía
Công ty Nhật Linh chi trả tiền hàng tháng 07/2016 cho Công ty Kim Lân theo Hợp đồng
số 000086,84 chứ không phải thanh toán công nợ phát sinh từ Hợp đồng nguyên tắc ký
02/01/2015. Và đến ngày 25/02/2016 và 08/5/2016 thì 2 bên mới tiến hành tổng kết công
nợ theo hợp đồng nguyên tắc ngày 02/01/2015 nên việc trả tiền của Công ty Nhật Linh
theo 2 ủy nhiệm chi này không được tính và không liên quan đến khoản nợ mà chúng tôi
đang khởi kiện.
Tại Biên bản làm việc ngày 17/5/2016 giữa đại diện của hai phía công ty, đại diện
Công ty Nhật Linh cam kết sẽ thanh toán cho công ty Kim Lân tiền hàng còn nợ theo lộ
trình và phương thức thanh toán đã thỏa thuận giữa 2 bên trong thời gian sớm nhất.
Do đó, Công ty Kim Lân đòi Công ty Nhật Linh phải thanh toán số tiền nợ gốc
3.177.970.970 đồng là hoàn toàn có cơ sở.
Thứ hai: về lãi suất chậm trả

9
Theo quy định của pháp luật dân sự, tại Điều 290 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định
về Thực hiện nghĩa vụ trả tiền trong giao dịch dân sự thì “Nghĩa vụ trả tiền phải được
thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm và phương thức đã thỏa thuận và nghĩa
vụ trả tiền bao gồm cả tiền gốc và tiền lãi”.
Ngoài ra Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 quy định về quyền yêu cầu trả lãi do
chậm thanh toán như sau: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền
hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm
có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó…”.
Khoản 2 Điều 50 Luật thương mại năm 2005 cũng quy định: “Bên mua phải tuân
thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh toán theo trình tự, thủ tục đã thỏa
thuận”.
 Nên việc Công ty Kim Lân yêu cầu Công ty Nhật Linh trả lãi phát sinh do
chậm thanh toán là hoàn toàn có cơ sở chấp nhận.
Về mức lãi suất chậm trả áp dụng trong trường hợp này, căn cứ vào Điều 11 Nghị
quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm thì
lãi suất chậm trả áp dụng để nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán là lãi suất quá hạn
trung bình của 03 ngân hàng Vietcombank, ViettinBank và Agribank ở huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh nơi Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành đang giải quyết vụ án.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, các ngân hàng trên cung cấp lãi suất như sau:
- Lãi suất nợ quá hạn của Agribank Chi nhánh Thuận Thành bằng 150% lãi suất
cho vay trong hạn (từ 8.5% đến 9%/năm). Nên lãi suất nợ quá hạn của Agribank là
150% x {(8.5%/năm + 9%/năm) : 2} = 13.125%/năm.
- Lãi suất nợ quá hạn của Vietcombank Chi nhánh Thuận Thành bằng 140% lãi
suất cho vay trong hạn (8.5%/năm) = 140% x 8.5%/năm = 11.9%/năm.
- Lãi suất nợ quá hạn của Vietinbank Chi nhánh Thuận Thành bằng 150% lãi suất
cho vay trong hạn (9.5%/năm) = 150% x 9.5% = 14.25%/năm.
Từ đó xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trườg của 3 ngân hàng sẽ là:
(13.125%/năm + 11.9%/năm + 14.25%/năm) : 3 = 13.09%/năm.
Vậy Số tiền lãi từ ngày 08/5/2016 (ngày đối chiếu công nợ lần 2) đến ngày
24/01/2017 (ngày xét xử vụ án) = 231 ngày sẽ là:
{(3.177.970.970 x 13,09%) : 365 ngày} x 231 ngày = 263.274.433đ.
Số tiền lãi phía Công ty yêu cầu trước đây là 250 triệu là tiền lãi tạm tính, và nay khi xét
xử vụ án phía công ty chúng tôi đã có con số cụ thể là 263.274.433đ.

10
 Vì vậy tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và chấp nhận toàn bộ yêu
khởi kiện của nguyên đơn, buộc Công ty Nhật Linh phải trả cho Công ty Kim Lân số
tiền nợ gốc 3.177.970.970 đồng và tiền lãi là 263.274.433 đồng .
2. Về yêu cầu phản tố của bị đơn:
Yêu cầu phản tố của Công ty Nhật Linh tranh chấp về việc góp vốn với Công
ty Kim Lân từ đó yêu cầu Kim Lân phải ký xác nhận vào việc kiểm kê tài sản của
Nhật Linh đầu tư trên đất của Kim Lân và buộc phải cấn trừ với công nợ là một yêu
cầu hết sức vô lý, không có căn cứ cũng như không có chứng cứ chứng minh.
Công ty Nhật Linh cho rằng, giữa bị đơn và Công ty Kim Lân có hợp tác góp vốn
với nhau theo Hợp đồng góp vốn số 288/HĐ/2008 ngày 03/10/2008 và khẳng định toàn
bộ tài sản của công ty Kim Lân là tài sản của Công ty Nhật Linh. Tuy nhiên, phía công ty
Nhật Linh lại không đưa ra được bất cứ bằng chứng, chứng cứ gì chứng minh cho nhận
định trên. Bởi lẽ:
Thứ nhất: Theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của Công ty Kim Lân
được cấp lần đầu ngày 25/11/2003 còn Công ty Nhật Linh gần 5 năm sau - đến ngày
12/6/2008 mới được thành lập, vậy tại thời điểm Công ty Kim Lân được thành lập và
hoạt động trên thực tế tư cách pháp nhân nào nào phía Công ty Nhật Linh cho rằng mình
đã được hình thành để góp vốn với Công ty Kim Lân?
Thứ hai: trong danh sách thành viên góp vốn của Công ty Kim Lân cũng không
thể hiện việc Công ty Nhật Linh góp vốn, tỷ lệ vốn góp. Trong danh sách thành viên tại
mục số 4 có tên ông Nguyễn Chí Linh góp vốn 40% nhưng ông Linh góp vốn với tư cách
cá nhân – không phải pháp nhân của Công ty Nhật Linh.
Và tại phiên tòa hôm nay, cho đến thời điểm hiện tại phía Nhật Linh cũng không
đưa ra được bất cứ văn bản, giấy tờ nào thể hiện việc thỏa thuận góp vốn giữa 2 pháp
nhân là Công ty Nhật Linh và Công ty Kim Lân – có hay không là việc góp vốn giữa cá
nhân ông Nguyễn Chí Linh với Công ty Kim Lân chứ không phải của Công ty Nhật Linh.
Và nếu có tranh chấp về việc góp vốn giữa Công ty Lân với ông Linh thì quan hệ pháp
luật tranh chấp trong trường hợp này được xác định là “tranh chấp về hợp đồng góp vốn”
– một quan hệ tranh chấp hoàn toàn khác với quan hệ tranh chấp được TAND huyện
Thuận Thành thụ lý ngày 21/8/2016 và cũng khác hoàn toàn tư cách đương sự trong vụ
án này.
Thứ ba, về tố tụng:
Theo thông báo số 30/TB-TA ngày 23/8/2016 của Tòa án nhân dân huyện Thuận
Thành thì phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải diễn
ra vào ngày 03/9/2016 và thực tế ngày 03/9/2016 Tòa án đã tiến hành hòa giải tranh chấp.

11
Tuy nhiên, đến ngày 17/11/2016 thì Công ty Nhật Linh mới có yêu cầu phản tố, vậy mà
Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành nghiễm nhiên chấp nhận yêu cầu phản tố của bị
đơn.
Hành vi trên của Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành đã vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng. Bởi lẽ, khoản 3 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Bị
đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải”. Như vậy, để yêu cầu phản tố được chấp
nhận thì phía bị đơn phải đưa ra yêu cầu của mình trước thời điểm mở phiên họp còn
trong trường hợp này yêu cầu phản tố của phía bị đơn Công ty Nhật Linh được đưa ra sau
phiên họp mà vẫn được Toà án chấp nhận là vi phạm pháp luật về tố tụng dân sự.
Và vì vi phạm tố tụng nên việc tòa án thụ lý yêu cầu phản tố của phía bị đơn là
không đúng qui định pháp luật. Và từ việc thụ lý không đúng đã dẫn đến các sai phạm
khác như việc chấp nhận Đơn đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (BL
83) yêu cầu Tòa án niêm phong và kê biên toàn bộ tài sản của Công ty Nhật Linh đầu tư
trên đất Công ty Kim Lân, Tòa án đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài
sản trên đất của Công ty Kim Lân (có danh mục tài sản kèm theo) chưa hợp lý, bởi vì đối
tượng đang tranh chấp ở đây là tiền chứ không phải công trình đầu tư trên đất. Tuy nhiên,
vì Tòa án đã chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn trái quy định pháp luật, vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng do vậy việc kê biên phong tỏa tài sản tại Công ty Kim Lân
là sai, tác động không tốt làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh
hưởng rất lớn đến quyền lợi hợp pháp của công ty chúng tôi cũng như gây thiệt hại về
việc sản xuất kinh doanh và cả hình ảnh của Công ty trong giới.
Từ những sai phạm về tố tụng cho đến nội dung đã có đầy đủ các căn cứ để chứng
minh yêu cầu phản tố của Công ty Nhật Linh hoàn toàn không có cơ sở chấp nhận.
Do đó chúng tôi kính đề nghị HĐXX bác toàn bộ yêu cầu phản tố của Công ty
Nhật Linh, không chấp nhận yêu cầu của phía công ty Nhật Linh.
KẾT LUẬN:
Căn cứ vào hợp đồng nguyên tắc ngày 02/01/2015, Biên bản đối chiếu công nợ
ngày 08/5/2016
Căn cứ Điều 306, Khoản 2 điều 50 Luật Thương mại năm 2005
Yêu cầu HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty Kim Lân buộc
Công ty Nhật Linh phải trả cho Công ty Kim Lân số tiền nợ gốc 3.177.970.970 đồng
và tiền lãi là 263.274.433 đồng.

12
Đồng thời bác toàn bộ yêu cầu phản tố của Công ty Nhật Linh, không chấp nhận
yêu cầu buộc công ty Kim Lân phải ký và hoàn trả tài sản cho công ty Nhật Linh.
Trên đây là quan điểm của tôi đối với vụ án, kính mong Hội đồng xét xử xem xét
khi nghị án để có một bản án công minh, thấu tình đạt lý.
Trân trọng cảm ơn Hội đồng xét xử và mọi người đã lắng nghe!
Đồng Tháp, ngày 26/03/2022
Luật sư Phan Thị Bé Tư

13

You might also like