You are on page 1of 3

Điều trị viêm gan B

Hiện nay, chưa có thuốc tiêu diệt hết Virus HBV. Các phương pháp điều trị chỉ dừng ở mức
kiểm soát và ức chế sự hoạt động của virus, đưa virus về trạng thái không hoạt động, ngăn
ngừa bệnh tái phát và những biến chứng của bệnh, giúp phục hồi chức năng gan. Những
phương pháp điều trị Viêm gan B bao gồm:

 Dùng thuốc:

Sử dụng phác đồ các loại thuốc Lamivudine, Tenofovir, Entercavir cùng thuốc chích
Interferon để ức chế sự hoạt động của virus, ngăn ngừa sự tái sinh nội bào của virus. Chi phí
điều trị bằng Interferon còn khá cao, nhưng nếu chỉ điều trị bằng các loại thuốc khác thì
người bệnh cần phải uống thuốc suốt đời.

 Các phương pháp mới:

Các kỹ thuật như trị liệu định hướng, truyền ngược Ozone, phân ly virus đều có tác dụng
hiệu quả trong việc điều trị Viêm gan B. Những phương pháp mới với ưu điểm hạn chế được
tác dụng phụ, thời gian điều trị ngắn và chi phí thấp hơn.

 Phương pháp truyền máu mang ozone:

Lấy 100 ml máu của người bệnh, rồi thêm 100 ml ozone theo tỷ lệ 1:1 để cho phân tử ozone
có thể thích ứng với dung dịch máu trong cơ thể, sau đó tiêm vào cơ thể người bệnh, không
có tác dụng phụ, không ảnh hưởng tới công việc và học hành, cả một quá trình chỉ cần 15-20
phút.

 Phương pháp lọc virus ra khỏi máu:

Sử dụng thiết bị y học tiên tiến giúp phân tích chính xác virus tiềm ẩn trong lá gan, làm cho
kết cấu virus thay đổi một cách trực tiếp, nhanh chóng nhất và hiệu quả nhất, sau đó nhanh
chóng cách ly virus, phá hoại tường lũy gene của virus để tránh sự tái sinh, nhân bản lần nữa
của virus.

Ngoài ra còn có một số bài thuốc đông dược giúp điều trị bệnh mạn tính.

Viêm gan B cấp tính thường không cần chữa và hầu hết người trưởng thành tự khỏi.[74]
[75]
 Chưa đến 1% người nhiễm cần điều trị kháng virus sớm là những trường hợp bệnh diễn
tiến rất nặng (viêm gan tối cấp) hoặc suy giảm miễn dịch. Mặt khác, viêm gan B mạn tính cần
thiết phải can thiệp để làm giảm nguy cơ xơ gan và ung thư gan. Người bệnh mạn tính
có alanine aminotransferase huyết thanh cao dai dẳng, lượng DNA HBV cao cùng dấu hiệu
tổn thương gan là đối tượng cho điều trị.[76] Thời gian trị liệu là sáu tháng đến một năm, tùy
vào loại thuốc và chủng virus.[77] Tuy nhiên thời gian này thường kéo dài hơn một năm nếu
dùng thuốc uống.[78]
Mặc dù không loại thuốc sẵn có nào có thể diệt sạch virus nhưng chúng ngăn virus nhân bản
do đó giảm thiểu tổn thương gan. Tính đến năm 2018 có 8 thuốc được cấp phép cho điều trị
viêm gan B ở Hoa Kỳ, bao gồm các thuốc kháng virus lamivudine, adefovir, tenofovir
disoproxil, tenofovir alafenamide, telbivudine, entecavir và hai thuốc điều chỉnh hệ miễn
dịch là interferon alpha-2a và PEGylated interferon alpha-2a. Vào năm 2015 Tổ chức Y tế
Thế giới khuyến cáo tenofovir hoặc entecavir là những thuốc hàng đầu. [79] Người đang bị xơ
gan rất cần điều trị.[79]
Việc sử dụng interferon đòi hỏi tiêm hàng ngày hoặc ba lần một tuần đã được thay thế bằng
PEGylated interferon chỉ tiêm một lần một tuần.[80] Tuy nhiên một số người dễ phản ứng
hơn nhiều số khác, có thể do kiểu gen của virus hoặc đặc điểm di truyền của mỗi người. Việc
điều trị kìm hãm virus nhân bản trong gan, do đó làm giảm tải lượng virus (số lượng hạt
virus trong máu).[81] Sử dụng interferon có thể tạo tỷ lệ chuyển đảo huyết thanh kháng
nguyên e 37% với kiểu gen A và B nhưng chỉ 6% với kiểu gen D. Kháng nguyên e mất đi sau
điều trị duy trì ~45% ở kiểu A và B nhưng chỉ 25–30% ở kiểu C và D.[82]

Phòng bệnh Viêm gan B


Phòng chủ động:

 Tiêm vắc xin viêm gan virus B cho tất cả trẻ em trong vòng 24h sau sinh và các mũi tiếp
theo lúc 2, 3 và 4 tháng tuổi theo chương trình tiêm chủng mở rộng.

 Tiêm vắc xin viêm gan B cho các đối tượng chưa bị nhiễm HBV. Cần xét nghiệm HBsAg và
anti-HBs trước khi tiêm phòng vắc xin. Để có được miễn dịch có hiệu quả tốt, cần tiêm 3
mũi (mũi thứ 2 sau tiêm mũi đầu 1 tháng, mũi thứ 3 sau 6 tháng)

 Tiêm vắc xin viêm gan virus B cho nhân viên y tế.

Phòng lây truyền từ mẹ sang con:

 Nếu mẹ mang thai có HBsAg (+): Tiêm vắc xin viêm gan virus B liều sau sinh cho trẻ theo
chương trình tiêm chủng mở rộng và phối hợp với tiêm kháng thể kháng HBV cho trẻ.
Nên tiêm cùng thời điểm nhưng ở hai vị trí khác nhau. Sau đó tiêm đầy đủ các liều vắc xin
viêm gan virus B cho trẻ theo quy định của chương trình tiêm chủng mở rộng.

 Nếu mẹ mang thai có HBV-DNA > 106 copies/ml (200.000 IU/mL): Dùng thuốc kháng
virus (lamivudine hoặc tenofovir) từ 3 tháng cuối của thai kỳ. Xét nghiệm lại HBV DNA sau
sinh 3 tháng để quyết định ngừng thuốc hoặc tiếp tục điều trị nếu mẹ đủ tiêu chuẩn điều
trị. Theo dõi sát người mẹ để phát hiện viêm gan bùng phát.

Phòng không đặc hiệu:

 Sàng lọc máu và chế phẩm máu.

 Không dùng chung kim tiêm và các dụng cụ xuyên chích qua da khác.

 Tình dục an toàn.

 Tránh tiếp xúc với máu và các dịch tiết của bệnh nhân nhiễm HBV.

 Thực hiện phòng ngừa chuẩn giống các bệnh lây truyền qua đường máu.

Vắc-xin[sửa | sửa mã nguồn]
Vắc-xin phòng viêm gan B thường xuyên được khuyến cáo cho trẻ sơ sinh ở Hoa Kỳ kể từ
năm 1991.[58] Liều đầu tiên nhìn chung nên cung cấp trong vòng một ngày sau sinh.[59] Vắc-
xin viêm gan B là vắc-xin đầu tiên có khả năng phòng ngừa ung thư, đặc biệt là ung thư gan.
[60]

Đa số vắc-xin được chia thành ba mũi. Phản ứng bảo vệ hình thành khi nồng độ kháng thể
kháng-HBs đạt ít nhất 10 IU/ml trong huyết thanh người nhận. Vắc-xin hiệu quả hơn ở trẻ
em và 95% người nhận vắc-xin đạt mức kháng thể bảo vệ. Tỷ lệ này giảm còn 90% với người
40 tuổi và khoảng 75% ở người trên 60 tuổi. Sự bảo vệ mà vắc-xin cung cấp duy trì lâu kể cả
sau khi mức kháng thể giảm xuống dưới 10 IU/ml. Chỉ vắc-xin viêm gan B, chỉ globulin miễn
dịch viêm gan B, hay kết hợp vắc-xin với globulin miễn dịch đều ngăn ngừa viêm gan B cho
trẻ sinh ra từ người mẹ dương tính HBsAg.[61] Tuy nhiên kết hợp vắc-xin với globulin miễn
dịch tốt hơn là chỉ mỗi vắc-xin.[61] Vắc-xin cộng globulin miễn dịch giúp ngăn lây nhiễm HBV
vào khoảng lúc sinh ở 86 đến 99% trường hợp.[62]
Tenofovir dùng trong kỳ ba tháng thứ hai hay thứ ba kết hợp vắc-xin và globulin miễn dịch
viêm gan B có thể làm giảm 77% nguy cơ lây nhiễm từ mẹ sang con, nhất là với những bà mẹ
có lượng DNA virus cao.[63] Không có đủ bằng chứng cho thấy chỉ dùng globulin miễn dịch
viêm gan B trong thai kỳ giúp làm giảm tỷ lệ lây nhiễm sang trẻ mới sinh.[64] Chưa có thử
nghiệm đối chứng ngẫu nhiên được tiến hành để đánh giá hiệu quả ngăn ngừa lây nhiễm
sang con của vắc-xin viêm gan B trong thai kỳ.[65]
Tất cả những người có rủi ro tiếp xúc với dịch cơ thể như máu nên được chủng ngừa. [58] Xét
nghiệm để kiểm tra hiệu quả chủng ngừa được khuyến cáo và người chưa đạt miễn dịch đầy
đủ nên nhận thêm liều.[58]
Trong những nghiên cứu theo dõi 10 đến 22 năm không phát hiện ca viêm gan B ở người có
hệ miễn dịch bình thường đã được chủng ngừa.[66] Các đối tượng nguy cơ cao gồm nhân
viên y tế, người bị suy thận mạn, đồng tính nam được tích cực khuyến cáo tiêm chủng.[67][68]
[69]

Cả hai loại vắc-xin viêm gan B là vắc-xin gốc huyết tương (PDV) và vắc-xin tái tổ hợp (RV) đều
có hiệu quả tương tự trong phòng ngừa lây nhiễm cho nhân viên y tế và nhóm suy thận
mạn.[67][68] Chỉ có một điểm khác lưu ý với nhóm nhân viên y tế là RV tiêm bắp hiệu quả hơn
nhiều RV tiêm nội bì.[67]
Khác
Tránh những hành vi nguy cơ như lạm dụng tiêm chích, xăm, xỏ khuyên giúp giảm thiểu lây
nhiễm.[70] Các biện pháp phòng ngừa khác bao gồm luôn sàng lọc máu, chế phẩm máu, cơ
quan và mô hiến; dùng bơm kim tiêm sạch; sử dụng bao cao su để làm giảm rủi ro lây qua
đường tình dục.[70][71]
Những người nguy cơ cao nên được xét nghiệm vì có hướng điều trị hữu hiệu cho người
mắc bệnh.[72] Các nhóm được khuyến cáo tầm soát bao gồm người chưa tiêm vắc-xin, người
ở những vùng trên thế giới mà tỷ lệ viêm gan B lớn hơn 2%, người nhiễm HIV, người tiêm
chích ma túy, nam giao hợp với nam, và người sống chung với người bị viêm gan B.[72] Ở Hoa
Kỳ, phụ nữ mang thai được khuyên khám sàng lọc bệnh.[73]

You might also like