Professional Documents
Culture Documents
CAGR Tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm - Compound annual growth rate
IATA Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế - International Air Transport Association
VPA Hiệp hội Cảng biển Việt Nam - Vietnam Seaports Association
VITAS Hiệp hội Dệt may Việt Nam - Vietnam Textile and Apparel Association
VASEP Hiệp hội Thủy sản Việt Nam - Vietnam Association of Seafood Exporters and Producers
Hội nghị Triển vọng toàn cầu Nuôi trồng Thủy sản - Global Outlook for Aquaculture
GOAL
Leadership
BMI Đơn vị nghiên cứu và phân tích thị trường, sở hữu bởi Fitch Solutions
EUI Công ty nghiên cứu và phân tích thị trường - Euromonitor International
Nhà cung cấp dữ liệu, giải pháp công nghệ, các dịch vụ phân tích, nghiên cứu khoa học và
IQVIA
các thị trường y tế-dược phẩm (Tiền thân là Quintiles và IMS Health)
Tổng số ca nhiễm COVID-19 trên toàn thế giới (triệu ca) Bản đồ số ca nhiễm theo khu vực trên thế giới
0,8 84,6 90
0,7 80
0,6 Hơn 1 70
triệu ca
tử vong 60
0,5
50
0,4 Lan rộng
sang khu 40
0,3 Bắt đầu vực châu
bùng phát Mỹ và EU 30
0,2 tại Trung 20
Quốc
0,1 10
0,0 0
Tỷ lệ số ca nhiễm COVID-19 của Việt Nam chỉ chiếm ~0,002% dân số cả nước, thấp hơn nhiều so với con số
trung bình 1,092% của cả thế giới và 6,235% của Mỹ - quốc gia có số ca nhiễm COVID-19 lớn nhất trên toàn
thế giới. Hiện tại, theo bảng xếp hạng của Bloomberg, Việt Nam đứng thứ 12 với điểm số 69,7 về khả năng
kiểm soát dịch bệnh COVID-19, cao hơn so với mức trung bình là 58,3 điểm.
Tỷ lệ Số ca nhiễm/Tổng dân số của một số quốc gia Điểm số về khả năng kiểm soát dịch bệnh COVID-
trên thế giới (tính đến ngày 03/01/2020) 19 của một số quốc gia trên thế giới
7,000%
6,235% Trung bình 58,3
U.A.E
6,000% Ai-len
Thái Lan
5,000% Hồng Kông
4,156%
Việt Nam 69,7
4,000% 3,922%
Canada
Đan Mạch
3,000% Trung Quốc
2,129% Hàn Quốc
2,000% Nhật Bản
1,092% Phần Lan
0,749% Singapore
1,000%
0,194% Na Uy
0,002%0,007% Úc
0,000%
Đài Loan
Thế Việt Trung Nhật Ấn Độ Đức Anh Pháp Mỹ New Zealand 85,6
giới Nam Quốc Bản
0 20 40 60 80 100
Nguồn: Johns Hopkins University (CSSE), FPTS tổng hợp Nguồn: Bloomberg, FPTS tổng hợp
Với thành công bước đầu trong công tác đảm bảo an toàn sức khỏe cho cộng đồng, song song đó, chính phủ
Việt Nam đã ban hành một loạt các chính sách tài khóa và tiền tệ, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, hộ kinh
doanh và người lao động chịu tác động bởi dịch bệnh, hướng tới mục tiêu kép vừa phòng chống dịch COVID-
19, vừa phát triển kinh tế - xã hội. (tham khảo chi tiết tại Báo cáo triển vọng 2021 – Quyển 01 - Nhóm ngành
Xây dựng, Bất động sản Khu công nghiệp và Vật liệu xây dựng).
Đại dịch COVID-19 đã khiến tăng trưởng của ngành du lịch thế giới bị kéo về mức độ của 30 năm trước, theo
thống kê của UNWTO, lượng khách du lịch quốc tế trên thế giới đã sụt giảm đến 75%, tương ứng thiệt hại
khoảng 1,1 nghìn tỷ USD. Tại Việt Nam, du lịch được coi là một trong những động lực quan trọng của tăng
trưởng kinh tế với tỷ trọng đóng góp trực tiếp vào GDP ngày càng tăng (năm 2019 là 9,2% GDP). Dưới ảnh
hưởng của các biện pháp phòng chống dịch, các lệnh cấm bay và cấm nhập cảnh của Việt Nam và nhiều quốc
gia khác, ngành du lịch Việt Nam, đặc biệt đối với khách nước ngoài chứng kiến sự sụt giảm mạnh tương tự
với tình hình chung của thế giới. Và từ đó, kéo theo sự ảnh hưởng tiêu cực đến ngành hàng không Việt Nam.
Trong năm 2020, lượng khách quốc tế tới Việt Nam chỉ đạt 3,8 triệu lượt, giảm 79% yoy, gần như không ghi
nhận lượt khách từ T04/2020 tới nay do lệnh dừng nhập cảnh. Theo Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, dịch
COVID-19 sẽ gây thiệt hại khoảng 23 tỷ USD tới du lịch Việt Nam trong năm 2020, tương ứng khoảng 8,8%
GDP năm 2019. Bên cạnh đó, lượng hành khách luân chuyển qua đường hàng không cũng sụt giảm 49% yoy.
Quá trình di chuyển bị gián đoạn đã gây trì hoãn lịch trình công tác, di chuyển của các đối tác, khách hàng và
chuyên gia quốc tế đến Việt Nam, gây khó khăn cho nhiều hoạt động sản xuất trong nước.
2.2. Cán cân thương mại xuất nhập khẩu ghi nhận giá trị xuất siêu kỷ lục
Cán cân thương mại lũy kế theo tháng Giá trị xuất nhập khẩu theo thị trường năm 2020
của Việt Nam (triệu USD) Cán cân Tỷ USD
Thị trường
thương mại
300.000 25.000 76 (+26% yoy)
2019 2020 +62 Mỹ
+62
250.000 20.000 14 (-4% yoy)
49 (+17% yoy)
-35 Trung Quốc
200.000 15.000 84 (+11% yoy)
35 (-17% yoy) EU
150.000 10.000 +20
15 (-2% yoy)
09T
11T
02T
04T
06T
08T
10T
12T
19 (-6% yoy)
-27 46 (-2% yoy)
Hàn Quốc
Xuất khẩu
Nhập khẩu Xuất khẩu
Cán cân thương mại (cột phải) Nhập khẩu
NGÀNH MỨC ĐỘ ẢNH HƯỞNG NĂM 2020 TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Mảng vận tải hàng không chịu thiệt hại lớn nhất, lượng hành khách
Tel: (+84) 24 3773 7070
luân chuyển giảm 45% so với năm 2019. Mảng dịch vụ hành khách Ext: 4304
cũng chịu tác động tiêu cực, kết quả kinh doanh giảm mạnh (lợi
nhuận trước thuế 09 tháng đầu năm giảm 91,6% yoy).
Mảng dịch vụ nhà ga hàng hóa chịu thiệt hại thấp nhất do các
chuyến bay chuyên chở hàng hóa vẫn được duy trì hoạt động. Sản
lượng hàng hóa qua các cảng hàng không Việt Nam giảm 15,6%
so với năm 2019.
Triển vọng năm 2021
Mảng vận tải và dịch vụ hành khách dự báo hồi phục chậm do các
đường bay quốc tế phần lớn vẫn chưa được mở lại. Lượng hành
khách luân chuyển của ngành hàng không Việt Nam năm 2021 dự
phóng đạt 90% mức của năm 2019.
Mảng dịch vụ nhà ga hàng hóa được kì vọng hồi phục về mức năm
2019 trong năm 2021 do tình hình thương mại thế giới hồi phục.
Triệu HK.km Lượng hành khách luân chuyển của ngành hàng không Việt Nam
8000 75%
6000 50%
4000 25%
2000
0%
0
23/04: Mở lại 08/09: Mở lại các -25%
-2000 các đường bay đường bay đi/đến
nội địa Đà Nẵng -50%
-4000
-6000 Cuối tháng 03: Dừng bay -75%
quốc tế và nội địa
-8000 28/07: Dừng bay -100%
đi/đến Đà Nẵng
-10000 -125%
Lượng hành khách luân chuyển sụt giảm mạnh. Sau khi dừng các chuyến bay quốc tế và nội địa vào cuối
tháng 03, lượng hành khách luân chuyển của tháng 04 giảm 88% yoy, của tháng 05 giảm mạnh 91% yoy. Với
việc mở lại các đường bay nội địa từ ngày 23/04/2020, lượng hành khách luân chuyển dần được cải thiện, tuy
nhiên đến ngày 28/07, các chuyến bay chở khách đi/đến Đà Nẵng được yêu cầu tạm dừng khai thác (do xuất
hiện ca dương tính mới tại Đà Nẵng) đã làm sụt giảm lượng hành khách luân chuyển. Từ 08/09 đường bay
đi/đến Đà Nẵng được mở lại, lượng hành khách luân chuyển tăng dần, tuy nhiên vẫn ở mức rất thấp so với
cùng kỳ do các chuyến bay quốc tế (chiếm khoảng 60% tổng lượng hành khách luân chuyển của các hãng bay
Việt Nam năm 2019) vẫn chưa được mở lại.
Kết quả kinh doanh ngành hàng không Việt Nam
Tỷ VNĐ
140.000
120.000
100.000 -57,5%
80.000
60.000
40.000
-139,0% -170,7%
20.000
0
-20.000
9T2018 9T2019 9T2020 9T2018 9T2019 9T2020 9T2018 9T2019 9T2020
Doanh thu thuần Lợi nhuận gộp Lợi nhuận trước thuế
* Số liệu từ BCTC các doanh nghiệp: HVN, VJC, ACV, AST, SAS, SGN, CIA, NCS, MAS, NCT, SCS. Doanh thu, lợi nhuận của
HVN và VJC chỉ tính ở mảng vận tải hàng không, bán hàng và hoạt động phụ trợ, loại bỏ phần doanh thu, lợi nhuận từ việc bán
và cho thuê máy bay.
Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp hàng không giảm mạnh. 09 tháng đầu năm 2020, lợi nhuận trước
thuế của ngành hàng không giảm mạnh 171% yoy, đạt -9.821 tỷ đồng. Tác động cụ thể của dịch COVID-19 tới
03 mảng kinh doanh chính của ngành hàng không là vận tải hàng không, dịch vụ hàng không và phi hàng
không liên quan đến hành khách (phục vụ mặt đất, suất ăn hàng không, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ nhà
hàng tại cảng) và dịch vụ nhà ga hàng hóa được thể hiện dưới đây.
Khả năng duy trì hoạt động của doanh nghiệp vận tải hàng không. Nợ ngắn hạn của HVN và VJC cuối
quý 03/2020 vượt quá tài sản ngắn hạn 19.373 tỷ đồng. Tổng lượng tiền, tương đương tiền và tiền gửi có kỳ
hạn từ 03 tháng đến dưới 01 năm của HVN và VJC giảm mạnh (số liệu cuối quý 03/2020 giảm 55,8% so với
đầu năm). Lũy kế 09 tháng đầu năm 2020, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh của HVN và VJC ghi nhận mức
-9.982 tỷ đồng.
Hãng hàng không đã thực hiện các giải pháp để duy trì hoạt động kinh doanh
Kích cầu thị trường nội địa, bù đắp lượng hành khách quốc tế sụt giảm: Với tình hình dịch trong nước ổn
định từ cuối tháng 04/2020, các hãng bay của Việt Nam đã mở thêm các đường bay nội địa mới phục vụ nhu
cầu du lịch vào cao điểm hè. Số chuyến bay của các hãng hàng không Việt Nam tăng dần trở lại từ tháng 05.
Dịch bệnh bùng phát trở lại vào cuối tháng 07/2020, tuy nhiên sau khi dịch được kiểm soát, các hãng đã khôi
phục lại hoàn toàn các đường bay. Ngoài việc mở thêm đường bay mới, các hãng hàng không còn thực hiện
các chính sách giảm giá vé và quảng cáo để thu hút khách hàng.
Số đường bay nội địa của các Số chuyến bay của các hãng hàng không Việt Nam
hãng hàng không Việt Nam theo tháng
45.000 40%
60 30.000 20%
15.000
50 22 8 0%
0
40 -15.000 -20%
12 -30.000 -40%
30 60 -45.000
53 42 -60%
20 -60.000
-75.000 -80%
10 -90.000 -100%
0
Vietnam Vietjet Air Bamboo
Airlines Airways
Số chuyến bay %yoy
Cuối năm 2019 Tăng trong năm 2020
Nguồn: Tổng cục thống kê, FPTS tổng hợp
Thị trường nội địa đã có những dấu hiệu phục hồi. Tính riêng tại CHKQT Nội Bài, từ đầu tháng 09 đến cuối
tháng 10, lượng hành khách tăng trưởng từ 15 – 25%/tuần. Tháng 9/2020, sản lượng hành khách nội địa của
Vietnam Airlines đã khôi phục về mức tương đương năm 2019. Tuy nhiên, theo Vietnam Airlines, do các hãng
bay tăng tải nội địa đồng loạt, gia tăng áp lực cạnh tranh, giá vé giảm mạnh nên doanh thu thu được chưa đủ
bù đắp chi phí để có thể hòa vốn.
Đàm phán với các đối tác để hoãn tiến độ thanh toán đối với chi phí thuê hoạt động tàu bay, chi phí bảo
dưỡng, sửa chữa máy bay. Chi phí phải trả liên quan đến thuê và sửa chữa máy bay vào cuối quý 02/2020
của HVN và VJC tăng 1.974 tỷ đồng (+92% so với đầu năm).
Nghìn tấn Sản lượng hàng hóa hàng không Việt Nam giai đoạn 2009 - 2020E
2.000 40%
1.500 30%
1.000 20%
500 10%
0 0%
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020E
-500 -10%
-1.000 -20%
-16%
Sản lượng hàng hóa hàng không Việt Nam %yoy
Theo Bộ Giao thông Vận tải, năm 2020, sản lượng hàng hóa qua các cảng hàng không Việt Nam ước đạt 1,3
triệu tấn, giảm 15,6 % yoy. Nguyên nhân do tình hình thương mại, cung cầu hàng hóa biến động do dịch
COVID-19 và hoạt động vận tải hàng không bị hạn chế nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh. Đây là mức
tăng trưởng âm đầu tiên từ năm 2009, tuy nhiên thấp hơn so với mức giảm mạnh của mảng vận tải và mảng
dịch vụ hành khách. Mảng dịch vụ nhà ga hàng hóa chịu ít tác động nhất từ dịch COVID-19 do các máy bay
chuyên chở hàng hóa vẫn được duy trì hoạt động nhằm đảm bảo cung ứng hàng hóa, duy trì hoạt động sản
xuất kinh doanh trên thế giới. Các hãng hàng không chở khách đã tiến hành tháo ghế ở khoang hành khách
của một số máy bay, chất xếp hàng hóa lên để vận chuyển.
Tỷ VND Kết quả kinh doanh mảng nhà ga hàng hóa Doanh thu thuần 09 tháng đầu năm 2020
2.000 70% mảng nhà ga hàng hóa giảm 8,2% yoy do
60%
1.500 sản lượng hàng hóa sụt giảm do dịch
-8,2% 50%
40% COVID-19. Biên lợi nhuận gộp giảm so với
1.000
30% các năm trước do các doanh nghiệp đã có
20%
500 các chính sách hỗ trợ hãng hàng không
10%
0 0% như hỗ trợ phí lưu kho hàng hóa cho các
2018 2019 9T2018 9T2019 9T2020 chuyến bay bị hoãn, hủy và các hoạt động
liên quan khác.
Doanh thu thuần Lợi nhuận trước thuế Biên lợi nhuận gộp
1Fitch Ratings: là tổ chức xếp hạng tín dụng hàng đầu trên thế giới, được thành lập năm 1914, có trụ sở chính tại New York,
Mỹ.
Lượng hành khách luân chuyển của ngành hàng không Việt Nam
Triệu HK.Km
80.000
70.000
60.000
50.000
40.000
30.000
20.000
10.000
0
2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021F
Ngoài ra, tâm lý hành khách bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch bệnh cũng là yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ hồi
phục. Theo khảo sát mới nhất vào tháng 09/2020 của Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế (IATA), khoảng 50%
người được khảo sát sẵn sàng di chuyển bằng đường hàng không sau khi dịch được kiểm soát, trong đó có
khoảng 35% sẽ chờ từ 01 đến 02 tháng và khoảng 15% sẽ lựa chọn di chuyển ngay.
Lựa chọn của hành khách về thời gian di chuyển lại bằng đường hàng không
sau khi dịch được kiểm soát
50%
% số người được khảo sát
40% 35%
30%
30%
20% 15% 15%
10% 5%
0%
Di chuyển ngay Đợi khoảng 01-02 Đợi khoảng 06 tháng Đợi khoảng 01 năm Chưa có ý định di
tháng chuyển
Nguồn: IATA
Theo ông Phạm Văn Hảo, Phó cục trưởng Cục hàng không Việt Nam, dự kiến thị trường hàng không mất
khoảng 03 năm để phục hồi đạt mức năm 2019. ACV nhận định ảnh hưởng tiêu cực của dịch COVID-19 sẽ
còn tiếp diễn trong năm 2021 và 2022. Lưu ý rằng, rủi ro liên quan đến dịch COVID-19 của mảng vận tải và
dịch vụ hành khách vẫn khá lớn. Nhà đầu tư cần theo dõi thêm về tình hình dịch COVID-19 và việc phát triển,
tiêm vắc xin cũng như hiệu quả của vắc xin tại Việt Nam và thế giới.
2. Mảng nhà ga hàng hóa hồi phục về mức năm 2019 do hoạt động thương mại thế giới hồi phục
Theo dự báo của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), tăng trưởng thương mại thế giới năm 2021 được kì
vọng đạt mức 7,2% trong năm 2021, giá trị thương mại thế giới năm 2021 hồi phục về gần tương đương mức
năm 2019. Theo IATA, sản lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường hàng không của thế giới được kỳ vọng
hồi phục với tốc độ nhanh hơn so với các hình thức vận tải khác do các công ty đẩy mạnh vận chuyển hàng
hóa bằng đường hàng không để đáp ứng nhanh nhu cầu tiêu dùng tăng lên sau dịch. Với sự hồi phục của tình
hình thương mại thế giới cùng với việc các chuyến bay chuyên chở hàng hóa vẫn được duy trì hoạt động, các
máy bay chở hành khách được tận dụng để vận chuyển hàng hóa, chúng tôi kỳ vọng mảng nhà ga hàng hóa
sẽ hồi phục trong năm 2021, về mức gần tương đương năm 2019. Một số doanh nghiệp dịch vụ nhà ga hàng
hóa Việt Nam cũng nhận định sản lượng hàng hóa năm 2021 sẽ khôi phục về mức gần tương đương năm
2019.
Là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà ga hàng hóa tại CHKQT Tân Sơn Nhất, với thị phần tại Tân Sơn
Nhất đạt 30,6% năm 2019. SCS có hoạt động kinh doanh chính là khai thác nhà ga hàng hóa, với đối tượng
khách hàng chính là các hãng hàng không.
SCS có lợi thế về trang thiết bị, máy móc phục vụ hàng hóa hiện đại và có khả năng mở rộng công suất thiết
kế thêm 75% công suất hiện tại, dự kiến triển khai từ năm 2021. Đối thủ cạnh tranh của SCS là TCS hiện đã
hoạt động hết công suất thiết kế, nhà ga hàng hóa đã được mở rộng hết phần đất tại CHKQT Tân Sơn Nhất
nên việc nâng công suất sẽ chỉ giới hạn ở việc mở rộng các mái che tại khu vực tiếp nhận hàng xuất và phát
hàng nhập với công suất tăng thêm thấp. Các hệ thống giá kệ trong nhà ga hàng hóa của TCS cũng đã được
nâng lên số tầng tối đa.
(Chi tiết Báo cáo định giá SCS – Tháng 12/2020)
Là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nhà ga hàng hóa tại CHKQT Nội Bài, với thị phần dẫn đầu tại Nội Bài,
đạt 55% năm 2019. NCT có hoạt động kinh doanh chính là khai thác nhà ga hàng hóa, với đối tượng khách
hàng chính là các hãng hàng không.
NCT có khách hàng là các hãng hàng không lớn, hoạt động trên các đường bay vận chuyển hàng hóa lớn
của Việt Nam. NCT có lợi thế là công ty con của HVN, nên có được lượng hàng hóa từ công ty mẹ. Sản
lượng hàng hóa từ HVN chiếm khoảng 55% tổng sản lượng hàng hóa của NCT năm 2019. HVN chiếm
khoảng 29,2% thị phần vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không của Việt Nam.
NCT thuê thêm nhà ga hàng hóa CT2 tại CHKQT Nội Bài với công suất khoảng 200 nghìn tấn/năm (+50%
công suất hiện tại) từ ACSV. Nhà ga CT2 đã được ACSV hoàn thiện xây dựng, theo kế hoạch, NCT sẽ đưa
nhà ga CT2 vào hoạt động trong khoảng tháng 06/2020, tuy nhiên với tác động tiêu cực từ dịch COVID-19,
kế hoạch đã bị lùi lại. Công suất còn lại của ACSV và ALS khá thấp, đã xảy ra hiện tượng ùn tắc hàng hóa
trong mùa cao điểm nên việc đưa nhà ga CT2 vào hoạt động có thể giúp NCT nâng cao lợi thế cạnh tranh,
thu hút khách hàng mới.
(Chi tiết Báo cáo định giá NCT – Tháng 09/2020)
Dịch vụ hậu cần kho bãi: Chống đỡ tốt trong giai đoạn dịch bệnh nhờ
thời gian lưu kho, lưu bãi gia tăng khi chuỗi giá trị bị gián đoạn.
Triển vọng năm 2021
Năm 2021, chúng tôi đánh giá ngành Logistics sẽ TIẾP TỤC TĂNG TRƯỞNG
nhờ hoạt động xuất nhập khẩu khả quan với kỳ vọng từ các Hiệp định Thương
mại tự do và tiềm năng thu hút vốn đầu tư FDI của Việt Nam. Trong đó:
Dịch vụ cảng biển: Sản lượng hàng hóa qua cảng kỳ vọng tăng trưởng
theo hoạt động xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, phí dịch vụ cảng biển được
đề xuất tăng 10%/năm giúp hỗ trợ lợi nhuận cho các doanh nghiệp trong
ngành.
Dịch vụ vận tải biển: Chỉ một số ít doanh nghiệp có chi phí đầu tư tàu rẻ
và hoạt động theo chuỗi dịch vụ có thể hưởng lợi từ tăng trưởng hàng
hóa xuất nhập khẩu.
Dịch vụ hậu cần, kho bãi: Các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng quy
mô kho bãi như dự án mở rộng 28,5 ha kho bãi của TCL trong 2021 –
2025, Dự Trung tâm logistics Vĩnh Lộc của TMS (năm 2021),… nhằm
đáp ứng đầu nhu cầu ngày càng gia tăng.
20%
tỷ USD
15.000 80
15% -3,7% 10%
10.000 60 -2,9%
10% -1,1% 5%
40
5.000 5%
20 0%
- 4% 0%
0 -5%
Trung Mỹ Hàn Quốc EU Nhật Bản
Quốc
Giá trị %yoy
Sản lượng container %yoy
Nguồn: VPA, Cục Hàng hải, FPTS tổng hợp Nguồn: Tổng cục Hải quan, FPTS tổng hợp
(*) Cục Hàng hải ước tính
Tăng trưởng mảng dịch vụ cảng biển phụ thuộc nhiều vào hoạt động giao thương của Việt Nam. Dịch COVID–
19 bùng phát từ đầu năm 2020 đã ảnh hưởng đến kim ngạch xuất nhập khẩu cũng như là sản lượng hàng hóa
thông qua cảng biển. Tăng trưởng sản lượng container thông qua hệ thống cảng biển Việt Nam trong đã tạo
đáy vào Quý 2 với mức tăng 4,1% yoy, thấp hơn hẳn so với mức 12,9%/năm của giai đoạn 2009 – 2019. Tuy
nhiên, sản lượng đã có sự phục hồi vào nửa cuối năm 2020, ước tính cả năm đạt khoảng 22,1 triệu TEUs,
+12,8% yoy (theo Cục Hàng hải Việt Nam).
Trong đó, động lực tăng trưởng chính đến từ hai thị trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam là Trung
Quốc và Mỹ, nhờ:
Nhu cầu tiêu dùng hàng hóa cuối năm cao, trong khi hoạt động sản xuất tại thị trường Mỹ vẫn chưa hồi
phục do tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp. Qua đó làm gia tăng nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ
các quốc gia Châu Á, trong đó có Việt Nam.
Xu hướng hưởng lợi từ Chiến tranh thương mại Mỹ – Trung. Chính sách gia tăng thuế suất đối với
hàng nhập từ Trung Quốc của Mỹ giúp tạo ra sự dịch chuyển đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Tuy nhiên, tăng trưởng sản lượng container có sự phân
hóa giữa các khu vực. Lũy kế đến 10T/2020, khu vực TP. Sản lượng container thông qua một
HCM vẫn duy trì thị phần lớn nhất cả nước với sản lượng số khu vực
8,0 30%
container đạt 6,4 triệu TEUs, tăng 4,3% yoy. 22,8%
19,3%
6,0
Cụm cảng nước sâu Cái Mép Thị Vải ở khu vực Bà Rịa –
triệu TEUs
20%
Vũng Tàu ghi nhận mức tăng trưởng vượt trội so với các 4,0
khu vực khác, đạt 22,8% yoy. Nguyên nhân do các cảng 2,0
4,3% 2,7%
10%
nước sâu có khả năng đón được tàu mẹ đi thẳng Châu Âu,
0,0 0%
Châu Mỹ mà không cần qua các cảng trung chuyển khác, TP. HCM Bà Rịa - Miền Bắc Miền Trung
giúp tiết kiệm chi phí cho khách hàng. Đồng thời, Mỹ hiện Vũng Tàu
đang là đối tác xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với giá trị 10T/2019 10T/2020 %yoy
xuất khẩu sang Mỹ tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2020.
Nguồn: VPA, FPTS tổng hợp
Đối với khu vực Miền Bắc, sản lượng container chỉ tăng nhẹ so với cùng kỳ, đạt 3,0 triệu TEUs, +2,7% yoy.
Cảng nước sâu Lạch Huyện (HICT) vẫn là điểm sáng tại khu vực này với sản lượng 503 nghìn TEUs, +57,2%
yoy nhờ các tuyến vận tải đi thẳng Châu Âu, Châu Mỹ vừa được thiết lập từ năm 2019. Trong khi đó, hoạt
động của các cảng biển khác đều sụt giảm so với cùng kỳ do áp lực cạnh tranh đến từ cảng HICT.
1.200
4.000
tỷ đồng
tỷ đồng
800
2.000
400
0 0
9M/2019 9M/2020 9M/2019 9M/2020 9M/2019 9M/2020 9M/2019 9M/2020
Doanh thu Lợi nhuận gộp Doanh thu Lợi nhuận gộp
Nguồn: Báo cáo tài chính các doanh nghiệp GMD, PHP, VSC, DVP, PDN, CLL, PNP, CCT, FPTS tổng hợp
Dịch vụ vận tải biển: Các doanh nghiệp nội địa chưa hưởng lợi nhiều từ sản lượng vận tải hồi phục
và giá nhiên liệu giảm
2.1. Sản lượng vận tải hồi phục nhờ hoạt động xuất nhập khẩu khả quan
Sản lượng vận tải biển Tương tự dịch vụ cảng biển, vận tải biển là
800 12% khâu dịch vụ có sự tương quan mạnh với hoạt
7,5% động xuất nhập khẩu của Việt Nam do có
600 8%
khoảng 90% hàng hóa xuất nhập khẩu được
triệu tấn
3,7%
400
0,5%
4% vận chuyển bằng đường biển. Dưới tác động
200 0%
của dịch Covid – 19, sản lượng vận tải các mặt
-3,2%
hàng nhìn chung đều giảm tốc trong Q2/2020
0 -4% và dần hồi phục vào nửa cuối năm.
Hàng container Hàng lỏng Hàng khô Tổng
Sản lượng %yoy
Sản lượng container vận tải biển Chỉ số SCFI* từ T1/2019 - T12/2020
2.500 15,8% 20% 3.000 2.412
2.000 10,5% 15% 2.000
1.000 TEUs
Nội địa %yoy container XNK đường biển, xác định dựa trên giá cước vận tải của 15 tuyến vận tải khác nhau từ
Shanghai đến các khu vực khác như Mỹ, EU, Ấn Độ,…
Nguồn: Cục Hàng hải, FPTS tổng hợp Nguồn: Shanghai Shipping Exchange, Bloomberg,
FPTS tổng hợp
Chúng tôi cho rằng có một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là:
Nhu cầu tiêu dùng hàng hóa ở Mỹ, EU tăng mạnh sau giai đoạn bị kìm hãm bởi dịch bệnh và nhu cầu
tiêu dùng mùa cuối năm cao.
Tình trạng thiếu hụt container rỗng ngày càng trầm trọng khi cán cân thương mại của Việt Nam ghi
nhận mức xuất siêu kỷ lục, lũy kế 11T/2020 đạt 20,1 tỷ USD, +86,1% yoy. Lượng container xuất khẩu
triệu tấn
8 3,1%
Trong đó, các tuyến vận tại nội địa có sự suy giảm mạnh 0%
6
trong sản lượng (đạt 43,3 triệu tấn, -12,7% yoy) khi nguồn -10%
4
cung các sản phẩm dầu khí trong nước bị gián đoạn do -10,2% -11,0% -10,9% -20%
2
ảnh hưởng từ dịch COVID-19 và sự kiện nhà máy lọc dầu -19,1%
Dung Quất bảo dưỡng trong 50 ngày kể từ tháng 8. 0 -30%
Q1/2020 Q2/2020 Q3/2020 Q4/2020
Điều này đã gián tiếp làm gia tăng nhu cầu nhập khẩu các Sản lượng XNK Sản lượng nội địa
sản phẩm dầu khí, thể hiện qua sản lượng vận tải các %yoy XNK %yoy nội địa
tuyến quốc tế đã tăng mạnh trong năm 2020, ước đạt 34,1
triệu tấn, +12,1% yoy. Nguồn: Cục Hàng hải, FPTS tổng hợp
Đối với hàng khô: Sản lượng vận tải năm 2020 đạt 371 triệu tấn, +7,5% yoy, chủ yếu nhờ việc nhập khẩu
than đá cho các nhà máy nhiệt điện, sản lượng than đá nhập khẩu của Việt Nam năm 2020 ước đạt gần 57
triệu tấn, +24,7% yoy.
2.2. Quy định của IMO khiến các doanh nghiệp không được hưởng lợi từ giá nhiên liệu giảm
Nhìn chung, giá dầu nhiên liệu trong năm 2020 đã ghi Diễn biến giá dầu nhiên liệu từ
nhận mức sụt giảm mạnh so với cùng kì do ảnh hưởng từ 800 T10/2019 đến T01/2021
dịch COVID–19. Điều này là một yếu tố tích cực hỗ trợ lợi 598
nhuận của các doanh nghiệp vận tải biển. Tuy nhiên, năm 600
USD/tấn
2020 cũng là năm mà quy định mới của IMO chính thức 399
400
có hiệu lực. Quy định này yêu cầu tất cả các loại tàu biển
phải sử dụng dầu nhiên liệu có hàm lượng lưu huỳnh tối 200
166
321
260
đa 0,5% (dầu VLFSO) thay vì 1,5% (dầu HSFO) trong quá
khứ. Trong khi đó, giá dầu VLSFO thường có giá cao hơn 0 77
10/2019 03/2020 08/2020 01/2021
khoảng 30% so với dầu HSFO, qua đó làm gia tăng chi
phí nhiên liệu. Dầu HSFO Dầu VLSFO
Dưới tác động đối nghịch từ 2 sự kiện trên, các doanh Nguồn: Bloomberg, FPTS tổng hợp
nghiệp vận tải biển gần như không hưởng lợi từ giá nhiên
liệu giảm trong năm 2020.
10.000
8.000
tỷ đồng
6.000
4.000
2.000
0
9M/2019 9M/2020 9M/2019 9M/2020
Doanh thu Lợi nhuận gộp
Nguồn: Báo cáo tài chính HAH, HTV, PVT, VTO, VIP, FPTS tổng hợp
Dịch vụ hậu cần, kho bãi: Chống đỡ tốt trong giai đoạn dịch bệnh nhờ thời gian lưu kho, lưu bãi gia tăng khi
chuỗi giá trị bị gián đoạn
Hoạt động của các doanh nghiệp tại mảng dịch vụ này gần như không bị tác động nhiều bởi dịch Covid – 19.
Lũy kế đến Q3/2020, doanh thu và lợi nhuận gộp một số doanh nghiệp lớn trong ngành đa số đều có sự tăng
trưởng so với cùng kỳ. Nguyên nhân đến từ:
Đặc thù hoạt động kinh doanh của ngành giúp chống đỡ tốt hơn trong giai đoạn dịch bệnh. Chuỗi giá
trị bị gián đoạn và hoạt động luân chuyển hàng hóa chậm lại, làm gia tăng thời gian lưu kho, lưu bãi
hàng hóa. Từ đó, giúp các doanh nghiệp kho bãi vẫn duy trì được nguồn thu ổn định.
Sản lượng hàng hóa xuất nhập khẩu hồi phục kể từ tháng 6 giúp gia tăng nhu cầu lưu kho, lưu bãi
hàng hóa.
KQKD 9M/2020 các DN hậu cần, kho bãi niêm yết
8.000
6.000
tỷ đồng
4.000
2.000
0
9M/2019 9M/2020 9M/2019 9M/2020
Doanh thu Lợi nhuận gộp
Nguồn: Báo cáo tài chính TMS, STG, TCL, SFI, TCW, ILB, IST, FPTS tổng hợp
Nguồn: Báo cáo tài chính TMS, STG, TCL, SFI, TCW, ILB, IST, FPTS tổng hợp
II. Triển vọng năm 2021: Tiếp diễn đà tăng trưởng nhanh và bền vững
Dịch vụ cảng biển: Triển vọng tích cực nhờ hoạt động xuất nhập khẩu tăng trưởng
Theo BMI, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam trong năm 2021 sẽ đạt gần 597 tỷ USD, +10,3% yoy, và
sẽ tiếp tục tăng trưởng 11,4%/năm đến năm 2024 nhờ những yếu tố sau:
Kỳ vọng từ các Hiệp định Thương mại tự do của Việt Nam với các quốc gia khác. Đặc biệt là Hiệp định
Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt
Nam - EU (EVFTA) vừa có hiệu lực kể từ T1/2019 và T8/2020 tạo ra cơ hội giao thương với các thị
trường lớn như EU, Nhật Bản, Úc,…
Thu hút vốn đầu tư FDI của Việt Nam vẫn tiếp tục khả quan nhờ các lợi thế về chi phí nhân công rẻ,
ưu đãi về thuế suất cho các doanh nghiệp FDI, chi phí xây dựng công nghiệp rẻ,… Hoạt động sản xuất
sẽ được mở rộng, giúp gia tăng nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu và xuất khẩu thành phẩm. Lũy kế
11T/2020, tổng vốn FDI đăng ký mới và FDI thực hiện đã lần lượt giảm 16,9% yoy và 2,4% yoy, cao
hơn nhiều so với mức giảm 40% của dòng vốn FDI toàn cầu trong năm 2020 (theo dự báo của Hội nghị
Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển UNCTAD).
400 6%
4%
200
2%
0 0%
2020E 2021F 2022F 2023F 2024F
Qua đó, sản lượng container thông qua cảng biển Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng trong
những năm tiếp theo. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu có thể chậm lại trong
nửa đầu năm 2021 do: (1) Nhu cầu tiêu dùng hàng hóa chững lại sau giai đoạn mua sắm cuối năm 2020 và
(2) Tình hình dịch bệnh vẫn còn diễn biến phức tạp tại một số thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản,…
Các cảng nước sâu sẽ tiếp tục tăng trưởng vượt trội nhờ bổ sung công suất
Với lợi thế có khả năng đón được tàu lớn, giúp tiết Hiệu suất hoạt động các cảng nước sâu ở
kiệm chi phí cho khách hàng, sản lượng container Việt Nam
thông qua các cảng nước sâu đã tăng trưởng khoảng 8.000 85% 100%
7.000 70%
23,2%/năm từ 2015 – 2019, cao hơn so với mức 6.000 63% 80%
1.000 TEUs
51%
13,3%/năm của toàn ngành. Hiệu suất hoạt động tính 5.000 47% 52%
60%
4.000
đến 10T/2020 đã đạt khoảng 84,6% công suất thiết kế 3.000 40%
và không nhiều tiềm năng tăng trưởng đối với các 2.000 20%
cảng nước sâu hiện hữu. 1.000
0 0%
Điều này mở ra cơ hội tăng trưởng cho các cảng nước
sâu mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao ở phân
khúc này. Dự kiến Q1/2021, giai đoạn 1 cảng nước Công suất thiết kế Sản lượng container
sâu Gemalink sẽ đi vào hoạt động, giúp gia tăng thêm % Hiệu suất hoạt động
công suất các cảng nước sâu khoảng 1,5 triệu TEUs, Nguồn: VPA, FPTS tổng hợp
tương ứng 25,2% công suất thiết kế hiện tại. (*) Hiệu suất hoạt động 10T/2020
Kỳ vọng phí dịch vụ tại cảng biển tăng 10%năm trong giai đoạn 2021 – 2023, giúp cải thiện lợi nhuận
các doanh nghiệp
Theo dự thảo sửa đổi Thông tư 54/2018/TT – GBTVT của Bộ Giao thông Vận tải, giá các dịch vụ cảng biển
gồm bốc dỡ container, hoa tiêu hàng hải, lai dắt tàu và sử dụng cầu, bến, phao neo sẽ được đề xuất tăng
khoảng 10%/năm trong giai đoạn 2021 – 2023. Cụ thể như sau:
3,0
trong năm 2020, nguồn cung nhà xưởng, nhà kho xây
2,0
sẵn ở miền Bắc và miền Nam vẫn tăng trưởng mạnh so
với thời điểm đầu năm, đạt lần lượt 2,1 triệu m2, +25,3% 1,0
yoy và 2,7 triệu m2, +28,2% yoy (theo CBRE). Từ đó cho 0,0
thấy rằng các nhà cung cấp dịch vụ đã chủ động mở 2015 2016 2017 2018 2019 2020E
rộng quy mô nhằm đón đầu tăng trưởng.
Nguồn: CBRE, FPTS tổng hợp
Trong thời gian tới, các doanh nghiệp lớn trong ngành sẽ tiếp tục đưa vào hoạt động những dự án đầu tư mới
như: TCL với kế hoạch gia tăng gấp đôi diện tích kho bãi trong 2021 – 2025; TMS có dự án Trung tâm logistics
Vĩnh Lộc (T4/2021 hoàn thành), dự án mở rộng Trung tâm logistics khu công nghệ cao, giai đoạn 2 Trung tâm
logistics Thăng Long từ 2021 – 2023;…
Bên cạnh đó, chuỗi cung ứng lạnh cũng đang là xu thế phát triển nhờ nhu cầu về các sản phẩm nhạy cảm với
nhiệt độ như hàng nông sản, thủy sản, dược phẩm,… gia tăng. Theo Allied Market Research, quy mô thị trường
chuỗi cung ứng lạnh toàn cầu sẽ tăng trưởng khoảng 17,7% trong giai đoạn 2018 – 2026. Đối với Việt Nam,
chúng tôi cho rằng xu hướng này sẽ mạnh mẽ hơn do quy mô kho lạnh hiện tại chỉ đáp ứng được từ 30 – 35%
nhu cầu thực tế (theo Bộ Công Thương). Điều này mở ra cơ hội tăng trưởng cho các doanh nghiệp có sở hữu
kho lạnh như TMS, ILB.
Năm 2021, chúng tôi đánh giá ngành Logistics sẽ TIẾP TỤC TĂNG TRƯỞNG nhờ hoạt động xuất nhập
khẩu khả quan với kỳ vọng từ các Hiệp định Thương mại tự do và tiềm năng thu hút vốn đầu tư FDI của Việt
Nam. Trong đó, từng mảng dịch vụ sẽ có những đánh giá khác nhau, cụ thể:
Dịch vụ cảng biển: Kỳ vọng từ gia tăng phí dịch vụ cảng biển sẽ hỗ trợ lợi nhuận của các doanh
nghiệp trong mảng này. Bên cạnh đó, phân khúc cảng nước sâu vẫn tiếp tục tăng trưởng vượt trội nhờ
bổ sung thêm công suất từ cảng Gemalink.
CTCP Transimex (HSX: TMS) hoạt động chủ yếu trong mảng kho bãi với 5 kho bãi, tổng diện tích 25,8 ha,
đứng thứ 5 về quy mô kho bãi trong các doanh nghiệp niêm yết. Các kho bãi của TMS hướng tới cung cấp
đầy đủ các loại hình lưu kho, lưu bãi gồm kho ngoại quan, kho CFS, kho lạnh, kho mát, bãi container. Đặc biệt
là loại hình kho lạnh, kho mát đang là xu hướng phát triển tại Việt Nam cũng như thế giới.
Triển vọng: Chúng tôi cho rằng, tiềm năng của TMS trong những năm tới sẽ phụ thuộc vào các dự án đầu tư
kho bãi mới, mở rộng diện tích kho lạnh, kho mát như Trung tâm Logistic Vĩnh Lộc (T5/2021 hoàn thành); mở
rộng kho lạnh tại Trung tâm Logistics Khu Công nghệ cao; Giai đoạn 2 Trung tâm Logistics Thăng Long;…
TMS đang có kế hoạch huy động vốn khoảng 400 tỷ đồng thông qua hình thức phát hành trái phiếu chuyển
đổi và phát hành cổ phiếu riêng lẻ để tài trợ cho các dự án trên.
Nhu cầu dệt may ở các thị trường xuất khẩu chủ lực sẽ tăng
trở lại khi tình hình kinh tế dần hồi phục vào cuối năm 2021;
Các Hiệp định thương mại tự do sẽ hỗ trợ thúc đẩy giá trị xuất
khẩu của ngành dệt may Việt Nam trong năm 2021. Cụ thể,
TPP có khả năng sẽ được tái khởi động dưới thời Tổng thống
Biden, đa số các sản phẩm dệt may sẽ bắt đầu được hưởng
thuế ưu đãi theo EVFTA và RCEP dự kiến sẽ có hiệu lực trong
Q1/2021.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng nhu cầu của các loại hàng hóa không
thiết yếu như hàng dệt may sẽ phục hồi chậm trong năm 2021 và đến
năm 2022 giá trị xuất khẩu của ngành mới có thể quay trở lại như năm
2019 (đạt 39 tỷ USD).
45
Giá trị và tăng trưởng xuất khẩu dệt may Việt Nam 45%
35
35 35%
25 25%
15 15%
5 5%
-5 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 -5%
Các sự kiện tác động đến ngành dệt may Việt Nam trong năm 2020
Cú sốc cung: Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có nguy cơ thiếu hụt nguyên liệu sản xuất trong
T3/2020 do các nhà máy Trung Quốc ngưng hoạt động
Trung Quốc là thị trường nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may lớn Thị trường nhập khẩu nguyên
nhất của Việt Nam. Do ảnh hưởng của dịch COVID-19, các nhà liệu dệt may của Việt Nam (Triệu
máy ở Trung Quốc đã phải ngưng hoạt động 10 - 15 ngày trong USD)
T2/2020, nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam lo ngại thiếu hụt nguyên 21.000
liệu sản xuất sau khi lượng dự trữ cạn kiệt vào khoảng cuối 18.000
T4/2020.
15.000
Các hợp đồng dệt may thường được ký trước từ 2 - 3 tháng và 12.000
nguyên phụ liệu đã được bên đặt hàng phê duyệt trước. Khi nguồn
9.000
cung nguyên liệu đã được phê duyệt bị đình trệ, các doanh nghiệp
6.000
dệt may Việt Nam khó có thể đổi sang nguồn cung khác ngay lập
tức. Hơn nữa, việc chuyển đổi sang các nhà cung cấp trong nước 3.000
hay nhập khẩu vải từ Hàn Quốc, Đài Loan sẽ có giá thành cao hơn 0
khoảng 15% so với vải nhập khẩu từ Trung Quốc. Tuy nhiên, đến 2012 2014 2016 2018
giữa T3/2020, tình hình dịch bệnh ở Trung Quốc đã được kiểm Trung Quốc Nhật Bản Mỹ Hàn Quốc Khác
soát và nguồn cung nguyên liệu đã được nối lại.
Nguồn: VITAS, FPTS tổng hợp
Nam.
30.000
Đa số các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ
24.000
(dưới 1.000 lao động) chủ yếu nhận đơn hàng thông qua các công
ty trung gian mà không làm việc trực tiếp với nhãn hàng. Các doanh 18.000
nghiệp này có vị thế yếu hơn, hợp đồng mua bán thường không quy
định về trách nhiệm của khách hàng khi hoãn/hủy đơn hàng. Do đó, 12.000
các doanh nghiệp phải ở trong tình thế bị động và rất khó yêu cầu
6.000
bên trung gian hỗ trợ hay bồi thường khi bị hoãn/ hủy đơn hàng.
-
Đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn (trên 1.000 lao động, 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
chủ yếu là các doanh nghiệp niêm yết) đã xây dựng được quan hệ
Mỹ EU Nhật Bản Hàn Quốc Khác
đối tác lâu dài với các nhãn hàng có thể giảm thiểu được rủi ro này.
Doanh nghiệp có thể trực tiếp đàm phán với nhãn hàng để điều Nguồn: VITAS, FPTS tổng hợp
chỉnh các điều khoản trong hợp đồng và thời gian thanh toán phù
hợp.
Kể từ T6/2020, làn sóng xin bảo hộ phá sản của các nhà bán lẻ ở Mỹ đã khiến nhiều doanh nghiệp dệt
may ở Việt Nam gặp khó khăn trong việc thu hồi công nợ. Trước dịch COVID-19, các nhà bán lẻ truyền
thống ở Mỹ cũng đã có một khoảng thời gian dài chật vật trước làn sóng thương mại điện tử. Dịch COVID-19
bùng phát càng khiến tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp này trở nên khó khăn hơn. Nguyên nhân
khiến các nhà bán lẻ bị đánh gục bởi đại dịch đó là số lượng hàng tồn kho khổng lồ từ các bộ sưu tập Xuân -
Hè 2020. Với đặc tính mùa vụ và xu hướng thay đổi nhanh chóng, số hàng tồn kho này sẽ mất phần lớn giá trị
trong vòng vài tháng và chỉ còn cách đem ra thanh lý với giá thấp.
Về phía các doanh nghiệp Việt Nam, do có vị thế đàm phán yếu hơn nên các đơn hàng gia công xuất khẩu
thường được thanh toán bằng phương thức TT trả sau (Telegraphic Transfer). Đây là phương thức thanh toán
không có tài sản đảm bảo, khi các nhà bán lẻ xin bảo hộ phá sản, các khoản thanh toán này sẽ khó có khả
năng thu hồi.
Tuy nhiên, Việt Nam là nhà cung cấp chịu ảnh hưởng nhỏ Thị phần xuất khẩu hàng may
nhất ở thị trường Mỹ. Dịch bệnh bùng phát khiến các nhà cung mặc của một số nhà cung cấp tại
cấp dệt may toàn cầu đều bị tác động tiêu cực, tuy nhiên mức Mỹ
độ ảnh hưởng là khác nhau. Tại Mỹ, Việt Nam là nhà cung cấp
40% 36%
ít bị ảnh hưởng nhất. Trong số 3 đối tác nhập khẩu hàng may
35%
mặc lớn nhất của Mỹ là Trung Quốc, Bangladesh và Việt Nam,
30%
thì giá trị nhập khẩu từ Việt Nam có mức giảm thấp nhất, từ đó, 23%
25%
giúp Việt Nam gia tăng thị phần hàng may mặc tại Mỹ. Lần đầu
20%
tiên sau nhiều thập kỷ, Việt Nam chiếm trên 20% thị phần hàng 20%
12%
15%
may mặc tại thị trường Mỹ, mặc dù xét về tổng giá trị xuất khẩu
10%
hàng may mặc trong năm 2020 vẫn chưa đạt mức của năm 2019. 5% 8%
6%
Điều này đến từ hai nguyên nhân: 1) Việt Nam kiểm soát được 0%
dịch tốt hơn nên vẫn đáp ứng được các đơn đặt hàng, 2) Xu
hướng các nhãn hàng may mặc đã và đang dịch chuyển đơn
hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam nhằm tránh ảnh hưởng của Trung Quốc Việt Nam Bangladesh
chiến tranh thương mại Mỹ - Trung. Nguồn: VITAS, FPTS tổng hợp
Chủng loại và giá trị xuất khẩu dệt may Diễn biến giá trị xuất khẩu dệt may Việt
10T/2020 Nam qua các tháng (Triệu USD)
123% 140% 4.500 80%
4.600 65%
120% 4.000
3.600 100% 60%
3.500
80%
2.600
60% 3.000 40%
1.600 23% 40% 2.500
600 20% 20%
2.000 2%
0%
-400 1.500 0%
-20%
-1.400 -40% 1.000
Áo sơ mi
Váy
Đồ lót
Khăn bông
Áo len
Tất
Quần
Vải
Áo jacket
Áo thun
Đồ BHLĐ
Quần short
Quần áo ngủ
Đồ mặc nhà
Găng tay
Quần áo vest
Quần áo bơi
Đồ trẻ em
-20%
500 -31% -18%
- -40%
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11
Nguồn: VITAS, FPTS tổng hợp Nguồn: VITAS, FPTS tổng hợp
Việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm phòng dịch được xem là giải pháp tình thế của nhiều doanh nghiệp
để ứng phó với đại dịch. Đến nay, thị trường các sản phẩm phòng dịch đã dần bão hòa khi nguồn cung tăng
vọt và nhu cầu sử dụng không còn quá cao. Ngoài ra, để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh, người dân được
khuyến khích hạn chế ra đường và làm việc tại nhà (work-from-home) cũng thúc đẩy nhu cầu các sản phẩm
quần áo mặc tại nhà tăng so với cùng kỳ năm 2019.
Mặc dù giá trị xuất khẩu các sản phẩm phòng dịch và quần áo mặc tại nhà không thể bù đắp hoàn toàn sự sụt
giảm từ các sản phẩm xuất khẩu chủ lực nhưng cũng đã hỗ trợ sự hồi phục của ngành trong nửa cuối năm
2020. Cụ thể, tăng trưởng giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam sau khi giảm xuống thấp nhất trong T4 – T5/2020,
đã có dấu hiệu phục hồi kể từ T6/2020. Lũy kế 11T/2020, giá trị xuất khẩu dệt may đạt 32 tỷ USD (-12% yoy).
Với tiến độ xuất khẩu như hiện nay, Bộ Công Thương ước tính giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam cả năm
2020 sẽ đạt 35 tỷ USD, giảm 12% so với cùng kỳ năm 2019.
Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may trong Kết quả kinh doanh của các doanh
9T/2020 bị sụt giảm mạnh. Tình trạng giãn/hủy đơn hàng nghiệp dệt may 9T/2020 (tỷ đồng)
khiến doanh thu của các doanh nghiệp bị sụt giảm mạnh, giảm
35.000
từ 10 – 30% yoy. Lợi nhuận sau thuế thậm chí còn sụt giảm -17%
mạnh hơn (giảm từ 20 – 80% yoy), nguyên nhân do các doanh 30.000
nghiệp vẫn phải thanh toán các khoản chi phí cố định để vận 25.000
hành nhà máy trong khi không có đơn hàng sản xuất, đặc biệt
20.000
là chi phí lương nhân công.
15.000
Một số doanh nghiệp như CTCP Đầu tư và Thương mại TNG
10.000
(HNX: TNG) hay CTCP Dệt may – Đầu tư – Thương mại -23%
Thành Công (HSX: TCM) đã linh hoạt chuyển đổi sản xuất và 5.000 -39%
tìm được các đơn hàng xuất khẩu khẩu trang vải và đồ bảo 0
hộ y tế, giúp bù đắp một phần đơn hàng may mặc bị thiếu hụt 9T/2019 9T/2020 9T/2019 9T/2020 9T/2019 9T/2020
nên có mức sụt giảm doanh thu thấp hơn. Đặc biệt, nhờ ký Doanh thu Lợi nhuận gộp Lợi nhuận sau
được các đơn hàng sản phẩm phòng dịch với tỷ suất lợi nhuận thuế
cao hơn sản phẩm may mặc truyền thống mà lợi nhuận sau
Nguồn: BCTC của các doanh nghiệp VGT, VGG, MSH, TNG,
thuế 9T/2020 của TCM thậm chí đã tăng trưởng 31% so với
TCM, STK, GMC, FPTS tổng hợp
cùng kỳ.
FPTS tổng hợp
MỸ EU
140 6% 300 9%
120 4% 250 6%
100
2% 200 3%
80
0% 150 0%
60
-2%
40 100 -3%
20 -4%
50 -6%
0 -6%
0 -9%
Tổng cầu dệt may (Tỷ USD) Tăng trưởng GDP (%) Tổng cầu dệt may (Tỷ USD) Tăng trưởng GDP (%)
Tổng cầu dệt may (Tỷ USD) Tăng trưởng GDP (%) Tổng cầu dệt may (Tỷ USD) Tăng trưởng GDP (%)
Brunei, Malaysia, Singapore), các nước thành viên còn lại (Canada,
Mexico và Peru) có quy mô tiêu thụ dệt may khá nhỏ (khoảng 4 tỷ USD)
và không phải là các thị trường xuất khẩu dệt may lớn của Việt Nam. TPP
CPTPP có quy mô kinh tế chiếm khoảng 14% GDP toàn cầu thấp hơn
khá nhiều so với quy mô của TPP khi có Mỹ là 38% GDP toàn cầu. Ông US
Biden từng là Phó Tổng thống dưới thời Barack Obama và là người ủng
hộ hiệp định TPP, do đó TPP có khả năng sẽ được tái khởi động dưới
thời Tổng thống Biden.
Quy tắc xuất xứ “Từ sợi trở đi” đã được giữ nguyên từ bản thỏa thuận cũ của TPP sang CPTPP, nên nhiều
khả năng cho dù TPP được tái khởi động thì quy tắc này vẫn là rào cản lớn nhất của các doanh nghiệp Việt
Nam. Theo đó, các công đoạn từ se sợi, dệt vải, cho đến gia công phải được thực hiện trong nội khối các nước
thành viên, trong khi đó Việt Nam đang bị phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu từ Trung Quốc.
Điều này dẫn đến một thực trạng là chỉ một số ít các doanh nghiệp có thể tận dụng được ưu đãi thuế quan, đó
là các doanh nghiệp sợi và các doanh nghiệp may có chuỗi giá trị hoàn thiện sợi – dệt nhuộm – may.
Các sản phẩm dệt may bắt đầu được hưởng thuế ưu đãi theo hiệp định EVFTA
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) được ký vào T6/2019 và đã chính thức có hiệu lực kể từ
T8/2020, theo đó, thuế GSP2 9,6% trước đây đối hàng dệt may Việt Nam đã quay về thuế suất cơ sở MFN3
12%, sau đó giảm dần theo lộ trình về đến 0%. Đa số các sản phẩm dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang EU
(thuộc nhóm B5 và B7) sẽ bắt đầu được hưởng thuế quan ưu đãi từ năm 2021.
Rào cản lớn nhất để các doanh nghiệp dệt may có thể tận dụng được EVFTA là quy tắc xuất xứ “Từ vải trở
đi”. Theo đó, các doanh nghiệp may phải sử dụng vải được sản xuất ở Việt Nam hoặc vải nhập khẩu từ nước
thứ 3 cùng có hiệp định thương mại tự do với Việt Nam và EU, kể cả hiện tại (Hàn Quốc) và tương lai (Nhật
Bản và một số nước ASEAN đang đàm phát FTA với EU). Hiện nay, trên 50% nhu cầu vải của Việt Nam được
nhập khẩu từ Trung Quốc, để tận dụng được EVFTA, các doanh nghiệp may cần phải tìm kiếm được nguyên
liệu vải thay thế cho vải từ Trung Quốc bằng cách: (1) Hợp tác với các doanh nghiệp sản xuất vải trong nước
để tạo tính liên kết cho chuỗi giá trị, hoặc (2) Tăng cường nhập khẩu vải từ các nước có hiệp định thương mại
với cả Việt Nam và EU như Hàn Quốc, Nhật Bản.
2 GSP (Generalized System of Preferences): Là ưu đãi thuế dành cho một số hàng hóa nhập khẩu từ các nước đang phát
triển.
3 MFN (Most Favoured Nation): Thuế dựa trên nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử giữa các nước thành viên
WTO.
(*) Trong ngoặc đơn là năm các hiệp định được ký kết Nguồn: VCCI, FPTS tổng hợp
Việt Nam đã ký kết các hiệp định thương mại song phương và/hoặc đa phương với tất cả các thành viên RCEP.
Như vậy, RCEP không mang tính mở cửa thị trường mới mà chỉ là thỏa thuận mang tính kết nối các cam kết
đã có. Tuy nhiên, lợi ích lớn nhất mà RCEP mang lại chính là quy tắc xuất xứ cộng gộp từ tất cả các thành viên.
Nếu như quy tắc xuất xứ trong các hiệp định trước đây là trở ngại thì quy tắc xuất xứ trong RCEP lại là một
điểm cộng khi có Trung Quốc – đối tác nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may lớn nhất của Việt Nam – cũng tham
gia hiệp định. Theo đó, các sản phẩm dệt may sử dụng nguyên phụ liệu nhập khẩu từ Trung Quốc và xuất
khẩu đi các nước thành viên RCEP đều sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan.
Dựa trên những phân tích trên, chúng tôi cho rằng ngành dệt may Việt Nam trong năm 2021 sẽ hình thành các
xu hướng sau:
Đẩy mạnh liên kết thượng nguồn để đáp ứng quy tắc xuất xứ của CPTPP
và EVFTA. Câu chuyện về việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu đáp ứng quy tắc xuất
xứ của CPTPP và EVFTA đã có kể từ khi các hiệp định này còn đang trong quá trình
Sợi đàm phán. Tuy nhiên, đa số các nhãn hàng vẫn chỉ định nguyên liệu từ Trung Quốc
do nguồn vải đa dạng và giá rẻ. Dịch COVID-19 bùng phát tại Trung Quốc gây gián
đoạn nguồn cung nguyên liệu đã tạo động lực buộc các doanh nghiệp phải tìm kiếm
nguyên liệu trong nước và cũng có cơ sở để thuyết phục các nhãn hàng sử dụng
Dệt nhuộm
nguyên liệu trong nước thay vì nhập khẩu.
Do sự khác biệt hoàn toàn trong hoạt động sản xuất ở các khâu se sợi, dệt nhuộm
May và gia công nên việc mở rộng chuỗi giá trị lên thượng nguồn cần phải có vốn đầu tư
lớn và nhiều rủi ro. Thay vào đó, các doanh nghiệp may sẽ chọn cách liên kết với
các doanh nghiệp sản xuất sợi và vải để tạo chuỗi khép kín. Theo đó, các dự án liên
minh sợi – dệt nhuộm – may sẽ bắt đầu được hình thành trong ngành dệt may Việt
Nam.
Xu hướng thời trang xanh (Green Fashion) được đẩy mạnh sau đại dịch.
Giai đoạn 2015 – 2016, xu hướng thời trang xanh (Green Fashion) bắt đầu xuất hiện.
Theo đó, nhiều nhãn hàng thời trang lớn như Nike, Adidas, Decathlon,… đã có cam
kết tăng tỷ trọng sử dụng sợi tái chế trong các sản phẩm của mình. Theo báo cáo
của McKinsey, sau dịch COVID-19, quan điểm của người tiêu dùng sẽ thay đổi, xu
hướng thời trang nhanh (Fast Fashion) có thể không còn là xu thế dẫn đầu. Thay vào
đó, người tiêu dùng sẽ quan tâm nhiều hơn đến các tiêu chí về sức khỏe và thân
thiện với môi trường. Theo đó, nhu cầu các sản phẩm sợi tái chế sẽ tiếp tục là xu
hướng trong tương lai, các doanh nghiệp sản xuất sợi tái chế sẽ hưởng lợi từ xu
hướng này, điển hình là CTCP Sợi Thế Kỷ (HSX: STK). Công ty đã và đang tăng dần
tỷ trọng sợi tái chế trong doanh thu từ 3% (2016) lên 40% (9T/2020).
Khác với tình trạng ảm đạm chung của các doanh nghiệp sản xuất sợi cotton bị ảnh hưởng tiêu cực bởi
chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, sản phẩm của STK là sợi polyester, thị trường tiêu thụ đa dạng và
không quá phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc;
STK sẽ hưởng lợi từ CPTPP nhờ bán sợi cho các doanh nghiệp trong nước để đáp ứng quy tắc xuất xứ
“Từ sợi trở đi”;
Sợi tái chế tiếp tục là động lực tăng trưởng của STK trong tương lai. Giai đoạn 2015 – 2016, xu hướng thời
trang xanh xuất hiện, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm sợi tái chế tăng lên. Theo báo cáo của McKinsey, sau dịch
COVID-19, người tiêu dùng sẽ tiếp tục quan tâm nhiều hơn đến các tiêu chí về sức khỏe và thân thiện với
môi trường. Theo đó, nhu cầu sử dụng các sản phẩm sợi tái chế sẽ tiếp tục là xu hướng.
TCM 3.774 3.470 276 +27% 8% 16,8% 10,9x
Bất chấp tình trạng hoãn/hủy đơn hàng diễn ra trong ngành dệt may do ảnh hưởng của dịch COVID-19, kết
quả kinh doanh 9T/2020 của TCM vẫn tăng trưởng tốt nhờ:
Từ T4 – T7/2020, TCM đã ký được các đơn hàng khẩu trang và đồ bảo hộ y tế, giúp bù đắp một phần
doanh thu thiếu hụt của các đơn hàng truyền thống;
Từ T8/2020, làn sóng xuất khẩu khẩu trang và đồ bảo hộ y tế qua đi nhưng TCM vẫn duy trì được tăng
trưởng doanh thu xuất khẩu nhờ các đơn hàng truyền thống quay trở lại. Với lợi thế đến từ tệp khách hàng
lớn lâu năm và lợi thế từ chuỗi giá trị hoàn chỉnh giúp doanh nghiệp linh hoạt ứng biến trong mùa dịch đã
giúp TCM có được các đơn hàng truyền thống nhanh hơn các doanh nghiệp khác.
Về dài hạn, TCM là một trong số ít các doanh nghiệp có chuỗi giá trị hoàn thiện sợi – dệt – may, đây sẽ là lợi
thế giúp doanh nghiệp đáp ứng quy tắc xuất xứ của hiệp định thương mại tự do CPTPP và EVFTA.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng triển vọng của doanh nghiệp đã được phản ánh vào giá cổ phiếu TCM trong
thời gian qua. Cụ thể, giá cổ phiếu TCM từ mức 22.000 – 23.000 đồng/cp vào đầu T11/2020 đã tăng liên tục
và vượt mức 70.000 đồng/cp vào giữa tháng giữa T1/2021.
Các kênh tiêu thụ chính cá tra được kỳ vọng phục hồi cùng với mức
độ kiểm soát dịch bệnh tại các thị trường. Và Trung Quốc sẽ là thị
trường chính dẫn dắt sự tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu cá tra
năm 2021.
10/2019
01/2020
04/2020
07/2020
10/2020
khẩu tôm tăng trưởng nổi bật, trong khi đó, hoạt
động xuất khẩu cá tra trong năm 2020 gặp nhiều
Tôm Cá tra Khác khó khăn.
Nguồn: VASEP, FPTS tổng hợp
Mảng tôm: Tận dụng cơ hội khi các đối thủ cạnh tranh gặp khó khăn, giá trị xuất khẩu tăng trưởng
mạnh mẽ
Sản lượng và giá trị xuất khẩu tôm VIệt Nam giai đoạn Giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam theo từng thị
T1/2017-T11/2020 trường giai đoạn T1/2017-T11/2020 (triệu USD)
tấn triệu USD 500
50.000 500
450 400
40.000 400
+20% yoy
350 300
+4% yoy
30.000 300
200 +1% yoy
250
+34% yoy
20.000 200
100 -3% yoy
150
10.000 100 +9% yoy
-
50
01/2017
07/2020
04/2017
07/2017
10/2017
01/2018
04/2018
07/2018
10/2018
01/2019
04/2019
07/2019
10/2019
01/2020
04/2020
10/2020
- -
07/2017
10/2018
01/2017
04/2017
10/2017
01/2018
04/2018
07/2018
01/2019
04/2019
07/2019
10/2019
01/2020
04/2020
07/2020
10/2020
EU Nhật Bản
Mỹ Trung Quốc - Hong Kong
Sản lượng (cột trái) Giá trị (cột phải) Hàn Quốc Khác
Nguồn: VASEP, FPTS tổng hợp
Giá bán xuất khẩu của tôm Việt Nam giai đoạn T01/2017-T11/2020 (USD/kg)
nghìn đồng/kg USD/kg
140 16
120 14
100 12
10
80
8
60
6
40 4
20 Tôm thẻ: 100 con/kg, Sóc Trăng
2
Tính toán từ dữ liệu của Tổng Cục Hải quan
0 0
05/2017
01/2020
01/2017
09/2017
01/2018
05/2018
09/2018
01/2019
05/2019
09/2019
05/2020
09/2020
Giá tôm nguyên liệu (cột trái) Giá bán xuất khẩu (cột phải)
Mảng cá tra: Chịu tác động kép khi nhu cầu tiêu thụ hạ nhiệt cùng với giá bán xuất khẩu giảm
Sản lượng và giá trị xuất khẩu cá tra VIệt Nam Giá trị xuất khẩu cá tra Việt Nam theo từng thị
tấn giai đoạn T1/2017-T11/2020 triệu USD trường giai đoạn T1/2017-T11/2020 (triệu USD)
120.000 250 250
100.000 200 200
80.000
150 150
60.000 -47% yoy
100 100 -46% yoy
40.000 Nguồn: VASEP, FPTS tổng hợp
-48% yoy
20.000 50 50
-31% yoy
-22% yoy
- -
-
07/2017
07/2018
07/2019
07/2020
01/2017
04/2017
10/2017
01/2018
04/2018
10/2018
01/2019
04/2019
10/2019
01/2020
04/2020
10/2020
01/2017
04/2017
07/2017
10/2017
01/2018
04/2018
07/2018
10/2018
01/2019
04/2019
07/2019
10/2019
01/2020
04/2020
07/2020
10/2020
Sản lượng (cột trái) Giá trị xuất khẩu (cột phải) Trung Quốc -Hong Kong Mỹ EU ASEAN Khác
Nguồn: VASEP, FPTS tổng hợp Nguồn: VASEP, FPTS tổng hợp
2.1. Nhu cầu ảm đạm tại các kênh tiêu thụ chính (nhà hàng, khách sạn,…) do ảnh hưởng trực tiếp của
các biện pháp phòng chống dịch COVID-19, sản lượng xuất khẩu cá tra Việt Nam sụt giảm mạnh
Giai đoạn 11T/2020, sản lượng cá tra xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt ~700.000 tấn, -11% yoy, tương ứng với
giá trị xuất khẩu cá tra Việt Nam đạt ~1,4 tỷ USD, sụt giảm đến 25% yoy. Nguyên nhân của diễn biến tiêu cực
này là do (1) các biện pháp phong tỏa, cách ly xã hội nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch COVID-19, đã buộc
các khu vực food services (nhà hàng, khách sạn,..) – kênh tiêu thụ chiếm khoảng hơn 70% sản phẩm cá tra
Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu tạm ngưng hoạt động, cùng với đó, (2) mức độ nhận diện của sản phẩm
cá tra trong bức tranh thủy sản toàn cầu vẫn còn khá thấp, cũng như gặp phải sự cạnh tranh với các loài cá
thịt trắng thay thế khác, cụ thể như cá rô phi của Trung Quốc.
Hầu hết các thị trường xuất khẩu trọng điểm đều ghi nhận mức sụt giảm 2 con số so với cùng kỳ năm 2019.
Trong đó, thị trường xuất khẩu lớn nhất của cá tra Việt Nam những năm gần đây – thị trường Trung Quốc là
nơi sớm kiểm soát được tình hình dịch bệnh so với các thị trường khác, đã bắt đầu phục hồi từ khoảng đầu
quý 2, tuy nhiên, sức mua của các khách hàng tại thị trường này vẫn khá chậm trong quý 3 và đã bắt đầu có
dấu hiệu cải thiện đầu quý 4. Trong 11T/2020, tổng giá trị xuất khẩu cá tra của Việt Nam sang Trung Quốc đạt
~456 triệu USD, -22% yoy.
Kết quả kinh doanh mảng cá tra trong Các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam đồng loạt
9T/2020 (tỷ đồng) ghi nhận kết quả kinh doanh sụt giảm mạnh so với cùng
20.000 kỳ, cả về doanh thu lẫn lợi nhuận do tác động kép của
-17% nhu cầu suy yếu cùng với giá bán xuất khẩu duy trì ở
15.000 mức thấp. Trong 9 tháng đầu năm 2020, doanh thu và
lợi nhuận gộp của một số doanh nghiệp cá tra niêm yết
10.000
trung bình sụt giảm lần lượt 17% và 46% so với cùng kỳ.
5.000 -46% Ngoài ra, do áp lực khi chuỗi cung ứng bị gián đoạn
-61%
trong giai đoạn dịch bệnh, các chi phí bán hàng, vận
- chuyển,… phát sinh đáng kể, điều này khiến lợi nhuận
Doanh thu thuần Lợi nhuận gộp Lợi nhuận sau
thuế
sau thuế của doanh nghiệp sụt giảm đến 61% so với
9T/2019 9T/2020
cùng kỳ.
Nguồn: BCTC của các doanh nghiệp VHC, IDI, ANV, ACL,
ABT, FPTS tổng hợp
II. Triển vọng năm 2021: Bức tranh tươi sáng hơn
1. Mảng tôm: Tiếp tục tăng trưởng nhờ nguồn cung ổn định và nhu cầu tiêu thụ phục hồi
1.1. Nguồn cung tôm trong nước được dự báo tiếp tục ổn định
Sau năm 2020, một năm mà các nguồn cung tôm trên toàn thế giới bị sụt giảm nghiêm trọng bởi ảnh hưởng
của dịch bệnh COVID-19. Theo ước tính tại Hội nghị GOAL 2020, sản lượng tôm nuôi trồng toàn cầu trong
năm 2020 đạt ~3,5 triệu tấn, -10,5% yoy. Bước sang năm 2021, dự báo sản lượng tôm nuôi trồng của các
quốc gia sẽ ổn định trở lại nhờ nỗ lực kiểm soát dịch bệnh, ổn định sản xuất, sản lượng tôm toàn cầu đạt ~3,8
triệu tấn, tăng ~8,4% so với năm 2020.
1.2. Giá bán tôm xuất khẩu phụ thuộc lớn vào tình hình kiểm soát dịch bệnh tại các thị trường tiêu thụ
Tuy nhiên, năm 2021, giá bán tôm xuất khẩu khả năng cao sẽ không tăng mạnh, khi nhu cầu tiêu thụ vẫn rất
khó dự báo và phụ thuộc rất lớn vào mức độ hồi phục của các kênh tiêu thụ chính. Trong khi đó, áp lực cạnh
tranh sẽ gia tăng, khi sản lượng tôm toàn cầu được dự báo tăng trở lại, cùng với đó là sự phát triển của xu
hướng đa dạng hoá thị trường xuất khẩu nhằm giảm bớt rủi ro của các cường quốc xuất khẩu tôm trên thế
giới. Với giả định tình hình dịch bệnh trên thế giới dai dẳng, nhưng mức độ sẽ giảm dần nhờ sự phân phối rộng
rãi hơn của vắc-xin trong năm 2021, các kênh tiêu thụ food services như nhà hàng, khách sạn, casino, khu du
lịch,… sẽ dần phục hồi, chúng tôi nghiêng về kịch bản, giá tôm xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2021 sẽ
tăng nhẹ ~5% yoy, trung bình đạt ~9,6 USD/kg.
Thống kê thuế suất ưu đãi theo Hiệp định EVFTA Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu tôm sang thị
đối với sản phẩm TÔM của Việt Nam trường EU (chiếm ~21% tổng giá trị xuất khẩu tôm
Tôm nguyên liệu Tôm chế biến (HS: Việt Nam) kỳ vọng được hỗ trợ tích cực bởi Hiệp định
(HS: 0306) 1605) EVFTA có hiệu lực từ ngày 01/08/2020. Khi đó, tôm
Thuế suất cơ sở 12,0% 20,0% nguyên liệu đông lạnh (Mã HS: 0306) ngay lập tức
Thuế ưu đãi GSP 4,2% 7,0% giảm về 0% khi Hiệp định có hiệu lực, trong khi mặt
Thuế ưu đãi EVFTA hàng tôm chế biến (Mã HS: 1605) sẽ được giảm dần
01/08/2020-31/12/2020 0,0% 7,0% về 0% sau 7 năm Hiệp định có hiệu lực, cụ thể là kể
01/01/2021-31/12/2021 0,0% 7,0% từ ngày 01/01/2027.
01/01/2022-31/12/2022 0,0% 7,0%
01/01/2023-31/12/2023 0,0% Tỷ trọng của hai sản phẩm này trong cơ cấu mặt hàng
7,0%
01/01/2024-31/12/2024 0,0% 7,0% xuất khẩu tôm của Việt Nam trong giai đoạn 5 năm
01/01/2025-31/12/2025 0,0% 5,0% gần nhất là khoảng 55%:45%. Do vậy, thuế suất hỗ
01/01/2026-31/12/2026 0,0% 3,0% trợ 0% cho mặt hàng tôm nguyên liệu sẽ thúc đẩy
Từ 01/01/2027 về sau 0,0% 0,0% đáng kể lợi thế cạnh tranh của sản phẩm này tại thị
trường EU. Trong khi đó, năm 2021, mức thuế cho
mặt hàng tôm chế biến vẫn là 7% - bằng với mức thuế ưu đãi GSP đang được hưởng. Do vậy, mặt hàng tôm
chế biến của Việt Nam vẫn chưa đạt được nhiều lợi thế từ EVFTA.
Bên cạnh các triển vọng tích cực, các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam sẽ đối mặt với rủi ro khi thuế suất
CBPG sang thị trường Mỹ có thể tăng trong kỳ xem xét hành chính lần thứ 14 (POR14). Dù vậy, chúng tôi
vẫn duy trì sự lạc quan cho kỳ xem xét sắp tới, với kỳ vọng sản phẩm tôm Việt Nam sẽ tiếp tục nhận được
mức thuế CBPG 0% sang thị trường Mỹ như đã thể hiện tốt trong lần xem xét vừa qua – POR 13.
Ngoài ra, dưới tác động của tình hình thời tiết biến đổi, giai đoạn La Niña pha lạnh đã bắt đầu hoạt động từ
T5/2020, và được dự báo sẽ kéo dài đến cuối Q1/2021. Tình hình sẽ gây bất lợi cho hoạt động nuôi tôm, bởi
khi đó, độ mặn trong ao nuôi có thể đột ngột suy giảm, môi trường dễ thay đổi, vi sinh vật gây bệnh dễ phát
tán và gây bệnh cho tôm. Do vậy, trong bối cảnh điều kiện thời tiết không thuận lợi, nguồn cung trong nước có
thể suy giảm, khi đó, chúng tôi dự báo, giá tôm nguyên liệu có xu hướng tăng trong năm 2021.
Cá tra tươi hoặc ướp Cá tra đông lạnh Cá tra phi-lê tươi hoặc Cá tra phi-lê đông
lạnh (HS: 030272) (HS: 030324) ướp lạnh (HS: 030432) lạnh (HS: 030462)
Thuế suất cơ sở 4,5% 4,5% 5,5% 5,5%
Thuế suất ưu đãi GSP 8% 8% 9% 5,5%
Thuế suất ưu đãi theo EVFTA
01/08/2020-31/12/2020 4,500% 4,500% 5,500% 4,125%
01/01/2021-31/12/2021 4,000% 4,000% 4,500% 2,750%
01/01/2022-31/12/2022 2,000% 2,000% 2,250% 1,375%
Kể từ 01/01/2023 0,000% 0,000% 0,000% 0,000%
Nguồn: FPTS tổng hợp
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cá tra Việt Nam còn phải đối mặt với rủi ro về thuế CBPG sang thị trường
Mỹ - thị trường chiếm ~14% trong tổng giá trị xuất khẩu cá tra Việt Nam năm 2019. Năm 2021 là lần xem xét
hành chính lần thứ 16 (POR 16) của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) áp dụng của sản phẩm cá tra Việt Nam.
Tại ngày 28/12/2020, DOC đã công bố kết quả sơ bộ của kỳ POR 16, thuế suất của toàn bộ các doanh nghiệp
cá tra Việt Nam tiếp tục là 2,39 USD/kg, trong khi đó, VHC và ANV được hưởng mức thuế 0,09 USD/kg. Kết
quả chính thức sẽ được công bố vào khoảng T04/2021. Kết quả cuối cùng của phán quyết này sẽ có ảnh
hưởng nhất định đến lợi thế cạnh tranh của sản phẩm cá tra Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Dự báo sản lượng cá thịt trắng trên toàn cầu năm Ngoài ra, tình trạng cạnh tranh với các loài cá thịt
2021 (nghìn tấn) trắng thay thế trên thế giới sẽ gia tăng khi hầu hết
8.000 sản lượng của cá rô phi, cá minh thái, cá hồi, cá
2018 2019 2020 2021
7.000 tuyết,… trong năm 2021 đều được dự báo sẽ tăng
6.000 Nguồn:Gorundfish Forum, Undercurrentnews, trưởng tích cực. Do vậy, giá bán cá tra xuất khẩu của
5.000 FPTS tổng hợp Việt Nam sẽ khó tăng mạnh.
4.000
Tuy nhiên, với kỳ vọng về lợi thế giá bán thấp hơn so
3.000
với các sản phẩm thay thế và nỗ lực của các doanh
2.000
nghiệp cá tra Việt Nam khi ngày càng tập trung vào
1.000
sản phẩm chế biến giá trị gia tăng, đáp ứng đầy đủ
-
Cá tra Cá rô Cá minh Cá hồi Cá tuyết Cá hake Cá Cá tuyết các điều kiện về an toàn vệ sinh thực phẩm, truy xuất
thái Đại Tây Đại Tây
phi
Alaska Dương Dương
haddock Thái
Bình
nguồn gốc,… sẽ góp phần đẩy mạnh giá trị xuất khẩu
Dương biến cá tra Việt Nam năm 2021.
Kết luận: Theo dự báo của Hiệp hội VASEP, giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2021 đạt 9,4 tỷ
USD (+9,6% so với giá trị xuất khẩu ước tính năm 2020 là 8,6 tỷ USD). Bên cạnh các yếu tố hỗ trợ tích cực,
ngành thủy sản Việt Nam sẽ đối mặt với rủi ro khi tình hình dịch bệnh sẽ kéo dài cũng như tốc độ phục hồi
các kênh tiêu thụ sản phẩm thủy sản Việt Nam tại các thị trường phục hồi chậm hơn dự báo. Tuy nhiên,
chúng tôi nhận định, giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong năm 2021 sẽ KHẢ QUAN HƠN. Cụ thể, triển
vọng ở hai mảng lớn nhất của ngành thủy sản Việt Nam như sau:
MẢNG TÔM: TIẾP TỤC TĂNG TRƯỞNG. Nhờ (1) Tiếp tục tận dụng lợi thế khi sản lượng tôm trong
nước ổn định trong khi nguồn cung của các đối thủ cạnh tranh như Ấn Độ, được dự báo sẽ mất nhiều
thời gian để khôi phục so với mức sản xuất trước thời điểm đại dịch COVID-19. Và (2) Mức thuế của
các mặt hàng tôm nguyên liệu đông lạnh (mã HS:0306) chiếm ~55% tổng cơ cấu sản phẩm tôm xuất
khẩu sang thị trường EU đã chính thức về 0% nhờ Hiệp định EVFTA đã chính thức có hiệu lực.
MẢNG CÁ TRA: PHỤC HỒI TRUNG BÌNH. Thị trường Trung Quốc – thị trường xuất khẩu trọng điểm
của cá tra Việt Nam đang gặp phải những khó khăn do chính quyền nước này đang siết chặt các biện
pháp kiểm soát thủy sản nhập khẩu nhằm ngăn chặn sự lây nhiễm của dịch bệnh COVID-19. Tuy
nhiên, chúng tôi tin rằng với thành công trong công tác kiểm soát dịch bệnh trong nước, thủy sản Việt
Nam sẽ sớm được loại bỏ khỏi danh sách kiểm soát của nước này. Và với kỳ vọng tình hình dịch
bệnh tại các thị trường chính như Mỹ, EU,… dần được kiểm soát, các kênh nhà hàng, khách sạn,…
bắt đầu hoạt động trở lại, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam sẽ
phục hồi trong năm 2021.
VHC – doanh nghiệp với thị phần lớn nhất trong mảng cá tra Việt Nam, với chuỗi giá trị bài bản, cung cấp sản
phẩm cá tra chất lượng cao và sở hữu lợi thế cạnh tranh lớn tại thị trường Mỹ, khi hưởng mức thuế CBPG
0%, do vậy, khi nhu cầu tiêu thụ tại các thị trường trọng điểm phục hồi, VHC được kỳ vọng có sức bật mạnh
mẽ nhất.
Năm 2021, dây chuyền mở rộng sản xuất Collagen và Gelatin thêm 1.500 tấn thành phẩm/năm chính thức đi
vào họat động, +75% công suất so với năm 2020, tiếp tục đóng góp vào tăng trưởng chung của VHC. Chúng
tôi kỳ vọng, doanh thu mảng này đạt ~1.000 tỷ đồng năm 2021, +60% yoy, đóng góp ~15% tổng doanh thu
của VHC.
VHC sở hữu cơ cấu tài chính lành mạnh, nợ vay ở mức thấp nhấp so với các doanh nghiệp trong mảng. Cùng
với dòng tiền dồi dào, lượng tiền gửi ngân hàng cao, ~1.500 tỷ đồng (Q3/2020), dự kiến mỗi năm công ty có
thể nhận ~100 tỷ đồng lãi tiền gửi.
Sở hữu diện tích nuôi tôm ~270ha, tương đương với mức tự chủ 30%, đây là tỷ lệ sở hữu cao tương đối so
với các doanh nghiệp trong ngành, trong khi MPC chỉ mới có thể tự chủ được 10% lượng nguyên liệu đầu
vào.
Đầu năm 2021, FMC sẽ triển khai xây dựng nhà máy chế biến thủy sản Sao Ta, với công suất ~15.000
tấn/năm, nâng tổng công suất chế biến của công ty lên 35.000 tấn/năm. Nhà máy mới hướng tới tập trung sản
xuất sản phẩm tôm cao cấp, phục vụ thị trường EU – thị trường trọng điểm mà FMC hướng tới trong tương
lai để có thể tận dụng tối đa các cơ hội ưu đãi thuế từ Hiệp định EVFTA.
Cấu trúc vốn của FMC khá an toàn, tỷ lệ D/E thời điểm Q3/2020 đạt ~0,7, trong đó FMC hoàn toàn không sử
dụng nợ vay dài hạn.
FMC duy trì mức chi trả cố tức rất đều đặn, ổn định trong giai đoạn từ thời gian đầu đi vào hoạt động cho đến
nay. Với mức chi trả cổ tức trung bình hằng năm khoảng 2.000-2.500 đồng/cổ phiếu. Chúng tôi đánh giá đây
là một mức chi trả cổ tức khá hấp dẫn đối với nhà đầu tư lựa chọn đầu tư vào cổ phiếu FMC.
Các hoạt động hợp tác với nước ngoài ngưng trệ.
Nhu cầu tiêu thụ ở kênh bán lẻ tăng trưởng tích cực.
Triển vọng năm 2021
Năm 2021, với việc dịch bệnh được kiểm soát tốt ở Việt Nam cùng những
diễn biến tích cực về vắc-xin COVID-19 trên toàn cầu, ngành dược được
kỳ vọng sẽ chứng kiến các thay đổi sau:
Tốc độ tăng trưởng tiêu thụ ở kênh bán lẻ giảm, đạt ~10,2% yoy.
Nhu cầu cho các sản phẩm nội địa được sản xuất dưới tiêu chuẩn cao
như EU-GMP, Japan-GMP, v.v. tăng do nhu cầu thay thế dần biệt
dược gốc.
Xu hướng M&A trong ngành dược tiếp tục do nhu cầu hợp tác của doanh
nghiệp trong nước với các tập đoàn dược phẩm từ Châu Âu, Nhật
Bản, v.v
17%
75%
dược theo tiêu chuẩn quốc tế với quy mô công
50% nghiệp.
25%
64%
Trung Quốc và Ấn Độ là 02 nguồn cung nguyên liệu
0% lớn nhất của Việt Nam với tổng tỷ trọng ở khoảng
2015 2016 2017 2018 2019 74,3%-80,7% giá trị nguyên liệu dược phẩm nhập
Trung Quốc Ấn Độ Châu Âu Khác khẩu ở Việt Nam trong giai đoạn 2015-2019,
nguyên nhân do chi phí sản xuất nguyên liệu dược
Nguồn: GDC, FPTS tổng hợp phẩm tại 02 quốc gia này thấp hơn so với tại Châu
Mỹ và Châu Âu.
Nguồn cung nguyên liệu dược phẩm bị đứt gãy trong Q1 2020 do dịch COVID-19
Nguồn nhập khẩu Giá trị (triệu USD) Thay đổi so với cùng kỳ (% yoy)
(4)API (Active Pharmaceutical Ingredient(s)): Thành phần hoạt chất của dược phẩm, là chất hoặc hợp chất mang tác dụng
dược lý của mỗi loại thuốc, có hiệu quả trực tiếp trong việc chẩn đoán, điều trị, phòng ngừa bệnh hoặc trong việc phục hồi, sửa
đổi các chức năng sinh lý của cơ thể.
(5)Danh mục hoạt chất bị hạn chế xuất khẩu từ Ấn Độ: Paracetamol, Tinidazole, Metronidazole, Acyclovir, Vitamin B1, Vitamin
B6, Vitamin B12, Progesterone, Chloramphenicol, Erythromycin, Neomycin, Clindamycin, Ornidazole và dẫn xuất của các hoạt
chất trên.
40,0
30,0
20,0
10,0
,0
03/2019
04/2020
01/2019
02/2019
04/2019
05/2019
06/2019
07/2019
08/2019
09/2019
10/2019
11/2019
12/2019
01/2020
02/2020
03/2020
05/2020
06/2020
07/2020
08/2020
09/2020
10/2020
11/2020
2019 2020
Trung bình năm Trung Quốc Ấn Độ Châu Âu Khác
Các chuyên gia nước ngoài gặp khó khăn trong việc tới Việt Nam do các chuyến bay thương mại bị hạn chế
từ cuối tháng 03/2020, khiến các hoạt động hợp tác bị gián đoạn. Các hoạt động này bao gồm:
Tư vấn và xét duyệt các tiêu chuẩn sản xuất chất lượng cao Chuyên gia từ các Cơ quan Quản lý Dược từ
như EU-GMP, Japan-GMP cho dây chuyền dược phẩm. Châu Âu và Nhật Bản.
Giá trị tiêu thụ một số nhóm dược phẩm và thực Nhu cầu một số nhóm thực phẩm chức
phẩm bảo vệ sức khỏe (TPBVSK) năng và dược phẩm tăng mạnh, tập
12.000
trung ở các nhóm sản phẩm vitamin,
thuốc ho-cảm, giảm đau-hạ sốt, đặc biệt
tỷ VNĐ
8.000
trong 06 tháng đầu năm 2020. Nguyên
4.000 nhân do tâm lý lo sợ dịch bệnh và thời
gian giãn cách xã hội kéo dài, dẫn đến
0
nhu cầu tích trữ nhu yếu phẩm tăng cao.
2020E
2020E
2020E
2020E
2020E
2018
2019
2018
2019
2018
2019
2018
2019
2018
2019
(6)Cơ sở tiếp nhận chứng nhận EU-GMP dựa trên việc xét duyệt từ xa sẽ được xét duyệt trực tiếp lại tại địa điểm sản xuất ngay
khi việc di chuyển của các chuyên gia được cho phép. Nếu một cơ sở không vượt qua quy trình xét duyệt từ xa, việc xét duyệt
sẽ bị hoãn lại cho tới khi việc xét duyệt trực tiếp được tiến hành.
100.000 1.000
nghìn VNĐ
tỷ VNĐ
50.000 500
0 0
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020e
Tổng thu Tổng chi Số dư lũy kế Mức đóng bình quân (phải)
Nguồn: GSO, DoH of Ho Chi Minh City, MoH, Vietnam Social Security, FPTS tổng hợp
Số dư quỹ BHYT lũy kế giảm từ 49,6 nghìn tỷ đồng (2015) xuống 39,2 nghìn tỷ đồng (2019) dù mức đóng
BHYT bình quân tăng trong giai đoạn 2015-2019. Nguyên nhân do tỷ lệ sử dụng biệt dược gốc(7) cao, chiếm
~26-27% tổng chi phí thuốc chi trả qua BHYT giai đoạn 2016-2019. Trong đó, tỷ lệ này tại các thành phố lớn
như TP. HCM và Hà Nội chiếm lần lượt đạt ~45% và ~39%.
Tỷ lệ sử dụng Biệt dược gốc được giới hạn Do chỉ với phương án tăng mức đóng BHYT bình quân
là không đủ, tỷ lệ sử dụng biệt dược gốc có giá thành
% Biệt dược gốc/
Tuyến BV cao dần được giới hạn bằng các biện pháp pháp lý:
Tổng chi thuốc
Tỷ lệ sử dụng biệt dược gốc so với tổng chi phí
Bệnh viện tuyến TW 30% thuốc được giới hạn từ 0-30% theo tuyến bệnh viện.
Bệnh viện tuyến tỉnh 5% Khuyến khích doanh nghiệp trong nước nghiên cứu,
sản xuất thuốc generic với tiêu chuẩn tương đương
Bệnh viện tuyến huyện 0%
ngay khi biệt dược gốc hết hạn bảo hộ bản quyền.
Nguồn: Vietnam Social Security, FPTS tổng hợp
2.2. Các ưu tiên pháp lý khuyến khích doanh nghiệp nội địa sản xuất thuốc generic chất lượng cao
Luật Dược 105/2016/QH13 khuyến khích việc phát triển các thuốc Generic trong nước khi hết hạn bảo hộ
bản quyền, đồng thời yêu cầu ưu tiên trúng thầu sản phẩm nội địa nếu có khả năng tương đồng với sản
phẩm nhập khẩu về (i) chất lượng sản phẩm, (ii) giá đấu thầu và (iii) khả năng cung cấp.
Thông tư 03/2019/TT-BYT tăng số lượng hoạt chất ưu tiên đấu thầu cho các doanh nghiệp sản xuất nội địa
từ 146 lên 640 hoạt chất.
Các ưu tiên pháp lý này tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp sản xuất trong nước ở các nhóm thuốc đấu
thầu chất lượng cao như nhóm 1-2 do các doanh nghiệp này (i) có lợi thế cạnh tranh về giá nếu được sản xuất
với cùng tiêu chuẩn so với sản phẩm nhập khẩu và (ii) nằm khác nhóm thầu và không phải cạnh tranh với số
đông các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm khác chưa đạt được tiêu chuẩn tương đương.
2.3. Xu hướng M&A giữa tập đoàn dược phẩm nước ngoài và doanh nghiệp nội địa tiếp tục diễn ra
Để tận dụng được các ưu tiên pháp lý trong đấu thầu, các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm nội địa cần đạt
được các các tiêu chuẩn sản xuất chất lượng cao như EU-GMP, Japan-GMP, v.v. và nhận được sự hỗ trợ
trong công tác nghiên cứu, phát triển và sản xuất dược phẩm generic từ các tập đoàn dược phẩm toàn cầu.
Đây cũng yếu tố thúc đẩy xu hướng mua-bán và sáp nhập (M&A) giữa các tập đoàn dược phẩm nước ngoài
và các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm ở Việt Nam.
Các sự kiện M&A chính giữa các tập đoàn dược phẩm nước ngoài và các công ty sản xuất dược phẩm niêm
yết trong nước trong năm 2020 gồm:
(7) Thuốc được bảo hộ bản quyền, thường được nhập khẩu và có giá thành cao.
SK Investment Vina III (thuộc Tháng 05/2020, SK Group nhận chuyển nhượng
IMP 24,94%
tập đoàn SK Group) vốn IMP chủ yếu từ các quỹ của Dragon Capital.
Đối với doanh nghiệp nội địa Đối với tập đoàn nước ngoài
Tiếp cận tiêu chuẩn sản xuất Japan-GMP, EU-GMP, Tiếp cận với nguồn lực sản xuất có chi phí
v.v. thấp.
Tiếp cận với công nghệ, công trình và dữ liệu nghiên Tiếp tục tham gia thị trường Việt Nam với các
cứu và thử nghiệm; giúp tiết kiệm thời gian và vốn khi sản phẩm giá thấp hơn qua phương án
phát triển các sản phẩm mới. nhượng quyền sản xuất thay vì nhập khẩu.
Tận dụng hệ thống phân phối của các tập đoàn lớn, Mở rộng thị trường tới các nước trong khu vực
mở rộng thị trường xuất khẩu. Châu Á.
Chúng tôi đánh giá triển vọng ngành dược phẩm trong năm 2021 sẽ KHẢ QUAN HƠN do:
Nguồn nguyên liệu nhập khẩu đã hồi phục.
Việc hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các đối tác nước ngoài được hỗ trợ tối đa từ cả
phía Chính phủ Việt Nam và các cơ quan quản lý dược phẩm Châu Âu.
Giá trị tiêu thụ ở kênh OTC tiếp tục tăng trưởng nhờ tâm lý “phòng bệnh hơn chữa bệnh”.
Cơ hội ở kênh ETC dành cho các sản phẩm được sản xuất trong nước với tiêu chuẩn EU-GMP,
Japan-GMP hoặc tương đương nhờ lợi thế cạnh tranh với cả sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm nội
địa được sản xuất với tiêu chuẩn thấp hơn.
IMP sản xuất và kinh doanh tân dược, các sản phẩm tập trung ở nhóm kháng sinh, các thuốc tim mạch, tiểu
đường, kháng histamin và dị ứng, giảm đau-hạ sốt. Cơ cấu doanh thu năm 2019 của IMP gồm mảng doanh
thu từ kênh bán lẻ – OTC (~57%), kênh đấu thầu – ETC (~29%), xuất khẩu (~1%) và phân phối (~12%). 9T
2020, IMP đạt 51,1% kế hoạch doanh thu 2020 và 64,3% kế hoạch lợi nhuận 2020.
- Năm 2020, dịch bệnh COVID-19 không tác động nhiều lên nguồn nguyên liệu đầu vào của IMP do doanh
nghiệp (i) dự trữ nguyên liệu đủ cho khoảng 4-5 tháng sản xuất mà không cần nhập thêm và (ii) đa dạng hóa
nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Tuy nhiên, về hoạt động sản xuất, dịch bệnh đã làm chậm tiến độ xét duyệt
tiêu chuẩn EU-GMP cho nhà máy Non-beta-lactam Bình Dương (IMP4) do việc di chuyển của các chuyên
gia từ Châu Âu sang Việt Nam bị trì hoãn. Tiến độ xét duyệt tiêu chuẩn EU-GMP cho nhà máy IMP4 là yếu
tố quan trọng cần theo dõi do có ảnh hưởng tới triển vọng đấu thầu các sản phẩm non-beta-lactam ở nhóm
1 và khả năng xuất khẩu của IMP.
- IMP hoàn thành xây dựng nhà máy Thực phẩm bảo vệ sức khỏe tháng 07/2020 và đạt chứng nhận HS-GMP
tháng 10/2020. Đây là mảng sản phẩm có biên lợi nhuận cao, dự kiến sẽ tăng trưởng nhanh trong bối cảnh
dịch bệnh do nhu cầu cho các sản phẩm tăng cường miễn dịch và bảo vệ sức khỏe tăng. Ngoài ra, sản phẩm
Cephalexin 500mg dạng viên nang cứng của nhà máy IMP3 vừa được cấp giấy phép lưu hành bởi Cục
Quản lý Thuốc và Sản phẩm Y tế Tây Ban Nha, giúp mở rộng thị trường và phân khúc tiêu thụ Cephalexin
500mg của IMP sang (i) xuất khẩu Châu Âu và (ii) đấu thầu ở nhóm 1 kênh ETC.
TRA 2.984,7 1.306,8 141,4 +31,0% 10,8% 17,0% 14,6x
TRA có thế mạnh ở mảng Đông dược, có khả năng tự trồng trọt, thu hái và cung cấp nguyên liệu thảo dược
đạt chuẩn WHO-GACP. Năm 2019, cơ cấu doanh thu của TRA gồm mảng doanh thu từ Đông dược (58,6%),
Tân dược (23,5%), mảng phân phối và dịch vụ (17,8%). 9T 2020, TRA đạt 65,3% kế hoạch doanh thu 2020
và 78,6% kế hoạch lợi nhuận 2020.
- Năm 2020, dịch bệnh COVID-19 không tác động mạnh lên nguồn nguyên liệu đầu vào của TRA do doanh
nghiệp (i) tự trồng trọt, thu hái và chiết xuất nguyên liệu Đông dược, (ii) nhà cung cấp một số API chính cho
các dòng thuốc mắt nằm cách xa vùng dịch, hoạt động sản xuất ít bị trì hoãn, và (iii) chủ động tìm các nguồn
cung dự phòng tại Ấn Độ, Thụy Sỹ, Đức và cả Việt Nam (đối với bao bì). Đối với hoạt động sản xuất, dịch
bệnh làm kéo dài tiến độ chuyển giao công nghệ 07 sản phẩm tân dược từ đối tác Daewoong Pharmaceutical
(Hàn Quốc) sang năm 2021.
- Do cạnh tranh tăng cao đến từ các sản phẩm tương đồng, TRA chủ động tái cơ cấu danh mục sản phẩm,
vừa sản xuất, vừa phân phối thương mại các sản phẩm mới. Ở mảng sản xuất, dựa trên sản phẩm truyền
thống Boganic Forte, TRA phát triển một số sản phẩm mới như Boganic Lippi và trà thảo dược Boganic, lần
lượt tham gia vào các phân khúc thuốc cao cấp của dòng sản phẩm truyền thống và phân khúc đồ uống giải
khát, giải nhiệt. Ở mảng phân phối, TRA ngừng phân phối cho đối tác Sandoz và dần chuyển sang phân
phối các sản phẩm vitamin và thực phẩm bảo vệ sức khỏe cho các đối tác mới là Natural Factors (Canada)
và các đối tác từ Hàn Quốc như CJ, JW Holdings, Daewoong Pharmaceutical. Việc đa dạng hóa danh mục
sản phẩm, đặc biệt là nhóm thực phẩm bảo vệ sức khỏe, là bước đi phù hợp của TRA khi nhu cầu cho các
sản phẩm này tăng trong bối cảnh dịch bệnh.
Công ty TNHH Đơn vị trực thuộc Bộ Y tế, Vắc-xin bệnh tả, Hợp tác với Đại học Bristol (Vương
MTV Vắc-xin và được thành lập năm 2000. viêm gan A, viêm quốc Anh). Trong quá trình đánh giá
Sinh phẩm số 1 gan B, v.v. tính an toàn trên động vật tại Việt
(VABIOTECH) Nam.
Viện Vắc-xin và Đơn vị trực thuộc Bộ Y tế, Vắc-xin bệnh ho Hợp tác với Đại học Icahn (Hoa Kỳ).
Sinh phẩm Y tế thành lập năm 1978. gà, uốn ván, lao, Trong quá trình gửi mẫu sang Hoa Kỳ
(IVAC) v.v. để đánh giá tính an toàn trên động
vật.
Trung tâm Nghiên Đơn vị trực thuộc Bộ Y tế, Vắc-xin vi-rút Tự nghiên cứu và trong quá trình
cứu Sản xuất Vắc- thành lập năm 1994. Rota, bệnh bại hoàn thành phê duyệt của Bộ Khoa
xin và Sinh phẩm Y liệt, sởi, v.v. học và Công nghệ.
tế (POLYVAC)
CTCP Công nghệ Thành lập năm 1997. Tổng Thuốc sinh học Vắc-xin Nano Covax được
Sinh học Dược Giám đốc là ông Hồ Nhân, hỗ trợ tủy xương NANOGEN tự nghiên cứu. Quá trình
NANOGEN Tiến sĩ Công nghệ Sinh sản sinh bạch đánh giá an toàn trên động vật được
học, từng có 20 năm kinh cầu; thuốc sinh thực hiện ở Hàn Quốc và Thái Lan.
nghiệm trong ngành công học kháng vi-rút NANOGEN kết hợp với Học Viện
nghệ sinh học ở nước viêm gan B, viêm Quân y thử nghiệm lâm sàng trên
ngoài. gan C, v.v. người tháng 12/2020.
Nhóm phân tích cơ bản Nhóm phân tích dữ liệu Nhóm phân tích kỹ thuật
FPTS có thể dựa vào các thông tin trong báo cáo này và các thông tin khác để ra quyết định đầu tư của mình mà không bị phụ
thuộc vào bất kỳ ràng buộc nào về mặt pháp lý đối với các thông tin đưa ra.
Báo cáo này không được phép sao chép, phát hành và phân phối dưới bất kỳ hình thức nào nếu không được sự chấp thuận
của FPTS. Xin vui lòng ghi rõ nguồn trích dẫn nếu sử dụng các thông tin từ báo cáo này.
Các thông tin có liên quan đến các ngành ở trên có thể được xem tại https://ezsearch.fpts.com.vn hoặc sẽ được cung
cấp khi có yêu cầu chính thức
Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
Trụ sở chính Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh Chi nhánh TP. Đà Nẵng
52 Lạc Long Quân, Phường Bưởi, Tầng 3, tòa nhà Bến Thành Times Tầng 3, 4 Tòa nhà Tràng Tiền, số 130
Quận Tây Hồ, Hà Nội, Việt Nam. Square, 136-138 Lê Thị Hồng Gấm, Đống Đa, phường Thuận Phước, quận
ĐT: (84.24) 3 773 7070 / 271 7171 Quận 1, TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam. Hải Châu, TP. Đà Nẵng, Việt Nam.
Fax: (84.24) 3 773 9058 ĐT: (84.28) 6 290 8686 ĐT: (84.236) 3553 666
Fax: (84.28) 6 291 0607 Fax: (84.236) 3553 888