Professional Documents
Culture Documents
2
II. Logistics là ngành dịch vụ quan trọng của nền kinh tế quốc dân thời kì mở cửa..............................................2
1. Sứ mệnh, chức năng và nhiệm vụ Logistics..................................................................................................2
a) Sứ mệnh....................................................................................................................................................2
b) Nhiệm vụ..................................................................................................................................................2
2. Sản phẩm của Logistics có đóng góp tương đối vào GDP của cả nước........................................................4
a) Sản phẩm của Logistics............................................................................................................................4
b) Mức độ đóng góp của Logistics vào GDP cả nước...................................................................................4
c) Hải Phòng là một trong những trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, được đánh giá sẽ có nhiều tiềm năng
cho sự phát triển của ngành dịch vụ Logistics..............................................................................................6
3. Logistics khai thác, lựa chọn đội ngũ lao động có chuyên môn cao và tiềm năng giải quyết vấn đề nguồn
nhân lực........................................................................................................................................................6
a) Thực trạng nguồn nhân lực hiện tại...........................................................................................................6
b) Cách thức đào tạo.....................................................................................................................................7
c) Kỳ vọng tương lai - nhu cầu về nguồn nhân lực lớn.................................................................................7
d) Cuộc thi tài năng trẻ Logistics Việt Nam..................................................................................................8
4. Sản nghiệp và CSHT Logistics đang dần được đầu tư để mở rộng thêm về cả quy mô và chất lượng..........9
a) Hạ tầng giao thông vận tải (theo số liệu năm 2021)..................................................................................9
b) Hạ tầng kho hàng bến bãi.......................................................................................................................10
c) Hạ tầng cảng biển...................................................................................................................................10
d) Hạ tầng công nghệ thông tin truyền thông..............................................................................................10
CÂU 2
II. Logistics là ngành dịch vụ quan trọng của nền kinh tế quốc dân thời kì mở cửa
1. Sứ mệnh, chức năng và nhiệm vụ Logistics
a) Sứ mệnh
Cung ứng hàng hóa dịch vụ đến tay người tiêu dùng với chi phí thấp nhất (JIT) , là hoạt động
để duy trì mọi hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra 1 cách nhịp nhàng, liên tục với chi phí thấp
Just In Time (JIT) là khái niệm sản xuất hiện đại xuất phát từ người Nhật, tóm lược
ngắn gọn là: “Đúng sản phẩm – đúng số lượng – tại đúng nơi – vào đúng thời điểm cần thiết”.
Kiểm soát hàng tồn kho ngay trong thời gian là một phương pháp trong đó nguyên vật liệu chỉ
đến khi cần thiết để đáp ứng nhu cầu và sản lượng thực tế của khách hàng. Bằng cách sử dụng
JIT Manufacturing, các công ty có thể giảm đáng kể chi phí bằng cách giảm thời gian nguyên
liệu thô không hoạt động, chờ sử dụng và chiếm không gian. Điều này cho phép các doanh
nghiệp cắt giảm đáng kể chi phí tồn kho bằng cách có trong tay ít nguồn cung cấp không cần
thiết hơn và ít vật liệu cần lưu trữ hơn.
Đối với bất cứ nền kinh tế nào, việc lưu thông phân phối hàng hoá, trao đổi giao lưu
thương mại giữa các vùng trong nước với nhau và với nước ngoài luôn là hoạt động thiết yếu.
Nếu nó được thông suốt, có hiệu quả, thì sẽ góp phần to lớn làm cho các ngành sản xuất phát
triển; còn nếu bị ngưng trệ thì sẽ tác động xấu đến toàn bộ sản xuất và đời sống. Khi xem xét ở
góc độ tổng thể, Logistics là mối liên kết kinh tế gần như toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông
và phân phối hàng hóa. Hoạt động logistics không những làm cho quá trình lưu thông, phân
phối được thông suốt, chuẩn xác và an toàn, mà còn giảm được chi phí vận tải. Nhờ đó hàng
hoá được đưa đến thị trường một cách nhanh chóng, kịp thời, thỏa mãn nhu cầu của người tiêu
dùng.
b) Nhiệm vụ
Cung ứng kịp thời, đầy đủ và đồng bộ hàng hóa dịch vụ cho các nhu cầu trong nền KTQD, góp
phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế nhanh và bền vững
Logistics là công cụ hữu hiệu dùng để liên kết các hoạt động kinh tế quốc tế, đảm bảo
hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Hệ thống logistics toàn cầu đã tối ưu hóa chu
2
trình lưu chuyển của sản xuất hàng hóa từ khâu đầu vào của nguyên vật liệu cho tới khâu phân
phối sản phẩm cuối cùng đến tay khách hàng sử dụng. Nó khắc phục được những ảnh hưởng
của các yếu tố không gian, thời gian và chi phí sản xuất cho các hoạt động kinh tế quốc tế, nhờ
đó các hoạt động này luôn được “kết dính” với nhau và được thực hiện một cách có hệ thống,
đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó, phát triển Logistics còn góp phần mở rộng thị trường kinh
doanh quốc tế. Hệ thống logistics có tác dụng như một chiếc cầu nối đưa hàng hóa đến các thị
trường mới theo đúng yêu cầu về thời gian và địa điểm đặt ra, từ đó đưa quyền lực của nhiều
công ty đã vượt ra khỏi biên giới địa lý của nhiều quốc gia. Khi đó, một mặt, các nhà sản xuất
kinh doanh có thể chiếm lĩnh thị trường cho sản phẩm của mình, mặt khác, thị trường kinh
doanh quốc tế cũng được mở rộng và phát triển.
Đảm bảo dòng chu chuyển hàng hóa, dịch vụ từ nới sản xuất đến người tiêu dùng thông suốt,
kịp thời với chi phí thấp nhất
Mục tiêu của Logistics là tối ưu hóa chi phí mà vẫn đảm bảo cung cấp cho khách hàng
dịch vụ tốt nhất. Logistics đóng vai trò chủ chốt trong giải quyết vấn đề về vận chuyển phân
phối, đảm bảo dòng luân chuyển hiệu quả các yếu tố đầu vào lẫn đầu ra của doanh nghiệp nói
riêng và của mỗi quốc gia nói chung. Người làm Logistics đặt các vấn đề sau lên hàng đầu như
đúng sản phẩm, đúng số lượng, đúng địa điểm, đúng thời gian, giao đúng đối tượng với chi phí
tối ưu nhất. Để làm được điểu đó, các doanh nghiệp Logistics phải đảm bảo được tính xuyên
suốt, trơn tru của cả hệ thống Logistics từ dòng chu chuyển thông tin, hàng hóa đến tài chính
từ nơi sản xuất tới khách hàng cuối cùng của chuỗi. Ngoài ra Logistics còn làm giảm chi phí,
hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa các chứng từ trong kinh doanh quốc gia và quốc tế bằng việc
cung cấp các dịch vụ đa dạng trọn gói. Nó khắc phục được những thủ tục giấy tờ rườm ra và
giảm khối lượng công việc văn phòng trong lưu thông hàng hóa, từ đó nâng cao hiệu quả của
dòng chu chuyển hàng hóa, dịch vụ.
Góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước: vốn, việc làm, môi
trường, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nền KTQD
Dịch vụ Logistics gần đây đã được nhà nước thực sự quan tâm và kì vọng là ngành đem lại
nhiều giá trị gia tăng. Tiềm năng của ngành dịch vụ này không thể phủ nhận khi chiếm 20,9%
GDP của cả nước, tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 20-25%. Sự hấp dẫn này đã thu hút các
doanh nghiệp tham gia vào thị trường “béo bở” này – hiện nay có khoảng 3.000 DN trong
nước và khoảng 25 tập đoàn giao nhận hàng đầu thế giới kinh doanh dưới nhiều hình thức. Có
khoảnh 30 DN cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam với các
tên tuổi lớn như: DHL, FedEx, Maersk Logistics, APL Logistics, CJ Logistics, KMTC Log,…
Còn theo báo cáo Logistics 2021 về phát triển nguồn nhân lực cho thấy, nguồn nhân lực chính
là vấn đề nan giải nhất của ngành Logistic hiện nay, bởi do phát triển nóng nên nguồn nhân
lực của ngành này vừa thiếu, vừa yếu. Đây có thể coi là 1 thách thức nhưng cũng là cơ hội
cạnh tranh của đội ngũ lao động của ngành này. Một phần là vì Logistics có mức lương
“khủng”, một phần cũng là do thế hệ trẻ ngày nay rất tài năng, thích thử thách bản thân với
những điều mới lạ. Có thể kể đến “cuộc thi tài năng trẻ Logistics” được tổ chức từ năm 2018 –
cuộc thi đã tìm ra rất nhiều những thí sinh tài năng, có đam mê với ngành dịch vụ đầy tiềm
năng này. Điều này đã góp phần thúc đẩy tính cạnh tranh lành mạnh và mở ra nhiều cơ hội
việc làm cho nhiều bạn trẻ nước ta.
Hoàn thiện bộ máy quản lý và mạng lưới kinh doanh Logistics
3
Logistics hỗ trợ toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp, ngay cả khi sản phẩm đã ra
khỏi dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp và đến tay người tiêu dùng. Một doanh nghiệp có
thể kết hợp bất cứ yếu tố nào của logistics với nhau hay tất cả các yếu tố logistics tùy theo yêu
cầu của doanh nghiệp mình. Logistics còn hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp thông qua quản
lý di chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu đi vào doanh nghiệp và bán thành phẩm di chuyển
trong doanh nghiệp.
2. Sản phẩm của Logistics có đóng góp tương đối vào GDP của cả nước
a) Sản phẩm của Logistics
Nếu như đối với ngành công nghiệp sản xuất, sản phẩm của họ là hàng hóa thì đối với ngành
dịch vụ, sản phẩm là khoản thù lao nhận được. Theo Luật Thương mại Việt Nam về dịch vụ
Logistics, có thể hiểu thù lao ở đây chính là sản phẩm, là mục tiêu của ngành dịch vụ này nói
riêng và của các hoạt động thương mại khác nói chung. Thù lao đó có thể là khoản hoa hồng,
chiết khấu có được từ các hoạt động Logistics như bảo quản, lưu kho hàng hóa (trích từ chi
phí bảo quản), vận chuyển (giá cước), tư vấn khách hàng (tiền thưởng, hoa hồng),... Chiết
khấu này thường bao gồm 2 khoản chính là chi phí Logistics và lợi nhuận còn lại thu được.
Chi phí này bao gồm chi phí cho hoạt động vận tải, kho bãi, bảo quản, làm các thủ tục hải
quan, hao hụt quản lí hành chính, khoản trích nộp thuế cho nhà nước và cả chi phí cơ hội mất
đi khi có thể đầu tư cho các hoạt động kinh doanh khác. Phần còn lại chính là lợi nhuận mà
các doanh nghiệp nhận được sau khi giảm trừ hết chi phí, có thể dùng để tiếp tục tái đầu tư mở
rộng, phát triển quy mô, chất lượng dịch vụ.
Sản phẩm của Logistics đang đóng góp 1 phần không nhỏ vào nền kinh tế cả nước. Theo
Quyết định số 200/QĐ-TTg ban hành năm 2017, Chính phủ đã nhận định Logistics là ngành
dịch vụ có giá trị gia tăng cao và đặt ra mục tiêu đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của ngành
Dịch vụ logistics vào GDP đạt 8%-10%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt 15%-20%, tỷ lệ thuê
ngoài dịch vụ logistics đạt 50%-60%, chi phí logistics giảm xuống tương đương 16%-20%
GDP, xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) trên thế giới đạt thứ 50 trở lên.
b) Mức độ đóng góp của Logistics vào GDP cả nước
Có thể thấy nhà nước đang dần dành sự chú ý, quan tâm nhiều hơn tới ngành dịch vụ có tiềm
năng phát triển như Logistics. Đặc biệt, với tốc độ phát triển hàng năm đạt 16 đến 20%, đây là
một trong những ngành dịch vụ tăng trưởng đều nhất của Việt Nam trong thời gian qua. Dưới
đây là những đóng góp của dịch vụ Logistics vào nền kinh tế quốc dân 5 năm gần đây:
● Năm 2017
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA), tốc độ phát triển của ngành
logistics tại Việt Nam những năm gần đây đạt khoảng 14-16%, có quy mô khoảng 40-42 tỷ
USD/năm. Cả nước hiện có khoảng trên 1.300 DN logistics đang hoạt động, bao gồm cả DN
có vốn nước ngoài. Dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện có quy mô 20-22 tỷ USD/năm, chiếm
20,9% GDP của cả nước. Tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ Logistics đối với GDP vào
khoảng 2-3 %. Về Chỉ số hoạt động logistics (LPI), Việt Nam đang đứng thứ 64/160 nước về
mức độ phát triển logistics và đứng thứ 4 trong ASEAN sau Singapore, Malaysia, Thái Lan
● Năm 2018 - 2019
Theo VLA, giai đoạn này có khoảng 3000 công ty logistics trong đó có 400 công ty giao nhận
- logistics quốc tế. Tốc độ phát triển của ngành logistics là khoảng từ 12 đến 14%, quy mô thị
trường vẫn trong khoảng 40 - 42 tỷ USD. Điểm nhấn đặc biệt của logistics là từ cách làm
4
truyền thống sang logistics thương mại điện tử. Chi phí vận tải của Việt Nam đang chiếm
khoảng 16 đến 17% GDP trong năm 2018 trong khi ngành đóng góp khoảng 4 đến 5% GDP.
Ngành logistics Việt Nam có xu hướng tăng trưởng tích cực và liên tục, trong đó doanh thu
bán hàng tăng lên 325.294 triệu đồng năm 2018 và 332.634 triệu đồng vào năm 2019, tỷ suất
lợi nhuận gộp cũng tăng khoảng 12,46% năm 2018 và lên mức cao nhất 12,68% năm 2019. Sự
tăng trưởng này nhờ phần lớn từ đà tăng trưởng của kinh tế nói chung và xuất nhập khẩu nói
riêng cũng như sự quan tâm phát triển dịch vụ logistics của Chính phủ và các Bộ, ngành, địa
phương.
Theo LPI công bố, Việt Nam đứng thứ
39/160 nước tham gia nghiên cứu, tăng 25
bậc so với năm 2017 và vươn lên đứng thứ 3
trong các nước ASEAN. Việt Nam cũng là
nước xếp hạng ở top đầu trong các thị
trường mới nổi.
5
chưa có phương pháp thống kê chính xác về đóng góp của logistics vào GDP. Cùng với đó là
tác động của dịch bệnh Covid-19 gây ảnh hưởng lâu dài đến ngành dịch vụ logistics. Dù vây
thì với mức độ tăng trưởng ngày càng tăng, Logistics vẫn được coi như 1 trong số những
ngành dịch vụ quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân.
c) Hải Phòng là một trong những trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, được đánh giá sẽ có
nhiều tiềm năng cho sự phát triển của ngành dịch vụ Logistics
Hải Phòng là cửa ngõ của khu vực phía Bắc, thông thương với các nước trong khu vực và thế
giới với tiềm năng phát triển kinh tế - xã hôi to lớn và hệ thống cảng có lưu lượng hàng hóa
thông qua lớn nhất khu vực phía Bắc, đứng thứ hai toàn quốc (sau TP. Hồ Chí Minh). Hải
Phòng nhiều DN lớn trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ cảng biển và logistics...
Cho đến nay, trên địa bàn Hải Phòng có hơn 500 DN hoạt động trong lĩnh vực logistics, trong
đó có nhiều trung tâm logistics lớn như: Trung tâm logistics của Tổng Công ty Tân Cảng Sài
Gòn, GSL, DH, Yusen, Hải An… Những năm gần đây, hoạt động dịch vụ logistics của thành
phố đã đạt được một số kết quả khả quan: Sản lượng hàng hoá thông qua tăng trưởng năm sau
cao hơn năm trước: Tổng sản lượng hàng hoá đã tăng từ mức hơn 79 triệu tấn vào năm 2016,
năm 2020 đạt mức cao nhất 142,8 triệu tấn, tăng bình quân 17,55%. Dịch vụ logistics của Hải
Phòng tăng trưởng cao với mức bình quân 23%/năm, góp phần quan trọng trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu của thành phố và cả nước; Tăng trưởng container liên tục gia
tăng, từ mức 1.019.967 (2015) TEUs lên 1.270.760 TEUs năm 2019 và năm 2020 tăng cao
nhất (1.297.920 TEUs); Thu hút đầu tư dịch vụ logistics có bước phát triển. Nhiều hãng vận
tải biển lớn của Việt Nam đã quy tụ về Hải Phòng như Vosco, Vinaship, Oermatrans,,
Vitranchart,…, hàng chục hãng vận tải biển và nhiều đại lý hàng hải như Vosa, Saigon,
Yangming, Hyundai, Cosco đã đặt văn phòng tại Hải Phòng. Hiện nay, Hải Phòng có 3 trung
tâm logistics, gồm 2 trung tâm đã hoạt động là trung tâm logistics Green, trung tâm tiếp vận
Yusen Logistics (Khu công nghiệp Đình Vũ) và 1 trung tâm logistics đang xây dựng là trung
tâm CDC (Khu công nghiệp Đình Vũ 2).
Theo đề án điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội Hải Phòng đến năm 2030, tốc độ
tăng trưởng trung bình dịch vụ logistics giai đoạn 2021-2025 là 16-18%/năm và giai đoạn
20262030 là 17%/năm.
3. Logistics khai thác, lựa chọn đội ngũ lao động có chuyên môn cao và tiềm năng giải
quyết vấn đề nguồn nhân lực
a) Thực trạng nguồn nhân lực hiện tại
“Về lâu dài nhân lực sẽ là yếu tố quyết định để giúp DN logistics Việt Nam nhanh chóng đuổi
kịp các nước, nâng cao tính cạnh tranh, mở rộng thị trường ở cả trong nước và quốc tế”. Theo
số liệu của Tổng cục Thống kê, xét về quy mô nhân lực, các doanh nghiệp logistics Việt Nam
đại đa số có quy mô siêu nhỏ và nhỏ với 40,22% số doanh nghiệp có quy mô dưới 5 lao động;
31,67% số doanh nghiệp có quy mô 5 - 9 lao động; 24,42% số doanh nghiệp có quy mô 10 -
49 lao động và 3,17% số doanh nghiệp có quy mô 50 - dưới 300 lao động. Số doanh nghiệp có
quy mô lớn chỉ chiếm 0,52% trong tổng số hơn
29.694 doanh nghiệp trong ngành
Xét theo khu vực địa lý, nhân lực Logistics đang tập
trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Hồng và khu
vực Đông Nam Bộ - nơi có mật độ doanh nghiệp dịch
6
vụ logistics lớn nhất cả nước, chiếm 76,2% số DN logistics của cả nước. Trong đó, 5
tỉnh/thành phố là Hà Nội, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai và TP. Hồ Chí Minh là những
địa phương tập trung số lượng DN logistics cao nhất.
9
b) Hạ tầng kho hàng bến bãi
Có đến hơn 70% diện tích kho bãi phân bố tại các trung tâm kinh tế phía Nam. Bên cạnh đó,
nhu cầu kho bãi vẫn sẽ tiếp tục tăng mạnh bất chấp những biến động trong nền kinh tế.
Nguyên nhân là do các doanh nghiệp sản xuất có xu hướng đẩy mạnh hoạt động và nhu cầu
chi tiêu của cá nhân cũng tăng trưởng đều đặn. Theo dự báo thì tỷ lệ kho trống cũng sẽ giảm
mạnh đặc biệt là khu vực phía Bắc. Hệ thống kho bãi và lưu giữ hàng hóa sẽ tập trung chủ yếu
xung quanh Hà Nội và các thành phố ven biển mà tiêu biểu nhất là Hải Phòng. Tuy nhiên,
miền Bắc đang nhận được sự quan tâm ngày càng nhiều từ chủ đầu tư nước ngoài, nếu nguồn
cung kho vẫn hạn chế như hiện nay thì giá thuê sẽ tăng lên và tỷ lệ trống giảm đi.
c) Hạ tầng cảng biển
Cả nước có 286 bến cảng với chiều dài khoảng 95 km cầu cảng đồng thời hình thành các cảng
cửa ngõ kết hợp trung chuyển quốc tế tại khu vực phía Bắc và phía Nam để tiếp nhận thành
công tàu container tại khu bến cảng Lạch Huyện (Hải Phòng), khu bến cảng Cái Mép (Bà Rịa
- Vũng Tàu) và các bến chuyên dùng quy mô lớn gắn liền với các KCN. Hầu hết các cảng gắn
liền với các trung tâm, các vùng kinh tế lớn của cả nước đã hình thành các cảng biển lớn với
vai trò là đầu mối phục vụ xuất nhập khẩu hàng hoá và tạo động lực phát triển toàn vùng, đồng
thời cũng tiếp tục gia tăng đầu tư như các khu kinh tế trọng điểm phía Bắc, Trung, Đông Nam
Bộ và ĐBSCL.
Ngoài ra hệ thống cảng biển Việt Nam còn ngừng được nâng cao về năng lực và chất lượng
dịch vụ, do đó sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển ngày một lớn. Năm 2015,
khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển đạt 427,8 triệu tấn, chiếm 81,8% khối lượng hàng
hóa thông qua các cảng. Đến năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng không nhỏ của dịch Covid-
19, khối lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển đạt 692,3 triệu tấn, chiếm 78,7% khối
lượng hàng hóa thông qua các cảng. Trong giai đoạn 2016-2020, khối lượng hàng hoá thông
qua cảng biển tăng 61,8%, bình quân mỗi năm tăng khoảng 10%.
Theo khảo sát năm 2018 của VLA, khoảng 40% các ứng dụng công nghệ thông tin hiện đang
được sử dụng tại các DN logistics là các ứng dụng cơ bản như quản lý giao nhận quốc tế, quản
lý kho hàng, quản lý vận tải, trao đổi dữ liệu, đặc biệt khai báo hải quan được ứng dụng nhiều
nhất 75-100%. Hiện nay, đa số DN mới chỉ dừng ở mức độ số hóa, tức là chuyển dữ liệu hoạt
động sang dạng lưu trữ điện tử chứ chưa có sự kết nối và khả năng tra cứu số liệu cũng như xử
lý đơn hàng trên nền tảng trực tuyến. Mức độ ứng dụng khoa học công nghệ tại DN cung cấp
dịch vụ logistics còn chưa cao, tuy nhiên nhà nước cũng đang tích cực cải thiện để nâng cấp
tính số hóa của ngành dịch vụ này.
Như vây, với hệ thống cơ sở hạ tầng đang ngày càng được cải thiện nên dù gặp phải 1 số hạn
chế, nhà nước vẫn đang liên tục đầu tư và khuyến khích các doanh nghiệp tận dụng. Có thể
thấy Logistics là ngành dịch vụ trọng yếu, có giá trị gia tăng cao và là nền tảng cho thương
mại hàng hóa, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Với sự bùng nổ của
công nghệ số và Cách mạng công nghiệp 4.0, ngành Logistics đang có rất nhiều cơ hội bứt phá
để đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế nếu sớm đẩy nhanh chuyển đổi số.
10
CÂU 2. VÌ SAO MUA BÁN HÀNG HÓA, DỊCH VỤ THEO GIÁ CẢ THỊ TRƯỜNG LÀ
ĐỘNG LỰC ĐỂ MỌI NGƯỜI VƯƠN LÊN LÀM GIÀU VÀ LÀ ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY
SXKD CỦA CÁC DOANH NGHIỆP ?
b) Đặc trưng
- Nền kinh tế mua bán hàng hóa theo giá thị trường: Trong nền kinh tế thị trường hình
thành, giá cả đã gần như không còn chịu tác động của 1 thế lực nào. Giá cả dần được điều tiết
bởi “bàn tay vô hình”, được điều chỉnh do sự thỏa thuận giữa người mua và người bán, hay
chính là do lượng cung – cầu quyết định.
- Tạo ra được lượng hàng hóa đồ sộ, phong phú: Hàng hóa không còn chỉ phục vụ cho
nhu cầu của mỗi người riêng biệt mà còn được trao đổi trên thị trường và nhờ hoạt động liên
tục này mà hàng hóa đưa ra thị trường ngày càng nhiều, từ đó càng thúc đẩy tính cạnh tranh,
sáng tạo của mỗi người, mỗi DN để thu hút người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của mình.
Ngoài ra, khi lượng hàng hóa ngày càng tăng lên buộc xã hội phải đặt ra nhiều hệ thống phân
phối hàng háo, dịch vụ hơn. Lúc đó, tốc độ lưu thông hàng hóa nhanh chóng hơn, hàng hóa
dịch vụ tiếp cận được nhiều đối tượng hơn, phạm vi phân phối hàng hóa cũng được mở rộng
hơn.
- Các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hóa: trong nền KT thị trường, tiền đã trở thành
thước đo giá trị. Bất kì 1 hoạt động kinh tế nào đều sử dụng tiền để đo lường, thanh toán và
đánh giá giá trị của chính hoạt động đó.
- Không có cái gì là miễn phí: Điểm đặc biệt trong nền kinh tế thị trường là làm bất kì cái
gì cũng đều phải trả phí. Chúng ta trả tiền khi mua hàng hóa, dịch vụ (giá của hàng hóa đó) để
thỏa mãn nhu cầu; trả tiền cho nguyên vật liệu dùng trong sản xuất hàng hóa cung ứng ra thị
trường và bán chúng để bù đắp chi phí, thu lợi nhuận; …
2. Giá cả thị trường
a) Giá cả và chức năng của giá cả
- Khái niệm
Theo quan điểm Marketing, giá cả là giá trị bằng tiền của một đơn vị hàng hóa, dịch vụ, tài
sản hay đầu vào nhân tố.
- Chức năng
+ Chức năng thông tin: Những thông tin về giá cả thị trường cho người sản xuất biết được
tình hình sản xuất trong các ngành, biết được tương quan cung – cầu, biết được sự khan hiếm
11
đối với các loại hàng hóa. Nhờ đó mà những doanh nghiệp có liên quan ra được những quyết
định thích hợp.
+ Chức năng phân bổ các nguồn lực kinh tế: Những người sản xuất sẽ chuyển vốn từ nơi
giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, tức là các nguồn lực ứ đọng chuyển đến nơi mà chúng được
sử dụng với hiệu quả cao nhất, để cân đổi tổng cung và tổng cầu và tăng thêm lợi nhuận. Sự
biến động này sẽ dẫn đến sự biến động của cung – cầu sản xuất và tiêu dùng, dẫn đến sự biến
đổi trong phân bố các nguồn lực kinh tế.
+ Chức năng thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật: Để có thể cạnh tranh được về giá, buộc những
người sản xuất phải giảm chi phí đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ
tiên tiến. Do đó, thúc đẩy dự tiến bộ của kỹ thuật, công nghệ và sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
+ Chức năng phương tiện thanh toán: Giá cả là phương tiện tính toán chi phí, tính toán lợi
nhuận của người bán hàng hóa, của người sản xuất, cũng như các nhà đầu tư trên thị trường.
Trong nền kinh tế, một bộ phận hàng hóa được sản xuất và đi vào tiêu dùng trực tiếp nhưng
cũng có thể trở thành nguyên liệu đầu vào để sản xuất ra các hàng hóa khác
+ Chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân và cá nhân: đưa hàng hóa được
sản xuất tới tay người tiêu dùng và người tiêu dùng cũng có thể hoàn trả lại bên sản xuất (hàng
hóa có thể thu hồi)
+ Chức năng thực hiện lưu thông hàng hoá: Giá cả lên xuống là một bàn tay vô hình điều
tiết lợi ích của mọi người, chi huy hành động của người sản xuất, điều tiết hành vi của người
tiêu dùng.
Như vậy, giá cả là một phạm trù kinh tế quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nói đến thị
trường, cơ chế thị trường tất yếu phải nói đến giá cả.
b) Giá cả thị trường
Giá thị trường là hiện tượng kinh tế xuất hiện trong quá trình trao đổi do sự thoả thuận trực
tiếp giữa người mua và người bán trên cơ sở nhận thức những điều kiện cụ thể của thị trường,
hay nói một cách tổng quát, do các lực lượng cầu và cung quyết định. Giá thị trường nhằm
thoả mãn lợi ích kinh tế của cả bên mua lẫn bên bán, là "bàn tay vô hình" điều tiết nền sản
xuất xã hội.
Giá thị trường có các chức năng tương tự giá cả như chức năng thông tin, phân bổ nguồn
lực kinh tế, phân phối và phân phối lại, thanh toán,…Tuy nhiên , ở giá cả thị trường thì chức
năng phân phối và phân phối lại là quan trọng hơn cả. Thông qua định mức giá cao (qua thuế)
của một số hàng hóa (hàng cao cấp, hàng xa xỉ ,…) mà điều tiết thu nhập của những người có
thu nhập cao. Đồng thời, những hàng hóa thiết yếu, thông thường thì có chính sách (chủ yếu
thông qua thuế) để mức giá thấp, không ảnh hưởng lớn đến người tiêu dùng có thu nhập thấp.
Giá cả thị trường còn xuất phát từ quan điểm bán cái thị trường cần trong nền kinh tế thị
trường. Nghĩa là các doanh nghiệp sẽ không sản xuất và lưu thông những hàng hóa mà họ cho
rằng mình có lợi thế mà sản xuất hàng hóa dịch vụ mà người tiêu dùng mong muốn. Chỉ khi
khách hàng sử dụng và thỏa mãn với hàng hóa, dịch vụ đó thì việc đặt giá mới có hiệu quả.
Điều này cũng sẽ trở nên công bằng với những người có tiền và có khả năng thanh toán. Việc
được thảo mãn nhu cầu với thu nhập mà mình kiếm được chính là động lực để thúc đẩy họ tiếp
tục làm việc, tiếp tục phấn đấu.
12
c) Cơ chế vận động của giá cả thị trường
Giá thị trường có các đặc điểm chủ yếu sau:
Một là: Sự hình thành và vận động của giá thị trường chịu sự chi phối mạnh mẽ các quy
luật kinh tế của thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh). Các quy
luật này tác động tới người mua và người bán như những lực lượng vô hình.
Quy luật giá trị: là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hoá, đã tạo ra cho người mua và
người bán những động lực cực kỳ quan trọng. Trên thị trường, người mua muốn tối đa hoá lợi
ích sử dụng bằng cách ép giá thị trường với mức gia thấp. Ngược lại, người bán muốn tối đa
hoá lợi nhuận và bán với giá cao. Quy luật giá trị tác động tới người bán theo hướng thúc đẩy
họ nâng giá thị trường lên cao.
Quy luật cạnh tranh: Cạnh tranh là hoạt động phổ biến trên thị trường, thường diễn ra
giữa những người bàn với những người mua và giữa những người bán với nhau. Cạnh tranh
giữa những người bán với nhau thường là các thủ đoạn nhằm chiếm lĩnh thị trường, và thủ
đoạn giá cả thường là một công cụ cạnh tranh rất quan trọng. Giữa những người mua cũng có
sự cạnh tranh với nhau nhằm tối đá hoá lợi ích sử dụng.
Quy luật cung cầu: quyết định trực tiếp mức giá thị trường thông qua sự vận động của
quan hệ cung cầu. Mức giá thị trường thực hiện các chức năng: (1) cân đối cầu cung ở ngay
thời điểm mua bán (và chỉ ở thời điểm đó mà thôi), (2) chỉ cho các nhà sản xuất biết cần phải
giảm hay tăng khối lượng sản xuất, khối lượng hàng hoá cung ứng ra thị trường. Sự cân bằng
cung cầu là cơ sở quan trọng đế ổn định giá cả của từng loại hàng.
Hai là: Mặt bằng giá cả không chỉ phản ánh các quan hệ kinh tế trên thị trường trong nước,
mà nó còn phản ánh quan hệ giá cả trên thị trường quốc tế.
II. Lợi ích của mua bán hàng hóa theo giá cả thị trường
1. Động lực để thúc đẩy con người vươn lên làm giàu
Trước kia theo nền kinh tế chỉ huy, nơi tiền lương, mức độ sản xuất, giá cả và đầu tư được
thiết lập bởi một cơ quan trung ương hoặc chính phủ, có ít động lực cho công nhân hơn bởi dù
làm việc chăm chỉ bao nhiêu thì họ cũng không có bất kỳ lợi ích tiền tệ bổ sung nào. Tuy
nhiên, ngày nay theo nền kinh tế thị trường, hàng hóa dịch vụ giao dịch theo giá cả thị trường,
con người dần dần có động lực để làm việc, để tăng năng suất và sản lượng cho nền kinh tế.
Lợi ích kinh tế (thường là tiền) mà họ nhận được sẽ dựa theo khả năng và năng lực làm việc
của họ.
Trong bất kỳ nền kinh tế nào, mọi người đều phải cần tiền để mua hàng hóa và dịch vụ. Đối
với nền kinh tế thị trường, nhu cầu này dẫn đến tăng động lực vì người lao động muốn kiếm
thêm tiền để cung cấp nhu cầu và sống thoải mái. Họ làm việc hết sức trong khả năng của bản
thân và được hưởng thành quả xứng đáng với công sức của chính mình, không bị chi phối bởi
các thế lực kinh tế khác. Nhờ đó mà họ vươn lên, hướng đến cuộc sống đủ đầy hơn, giàu có
hơn, thảo mãn được nhu cầu cao hơn của bản thân và đó cũng chính là động lực thúc đẩy tự
sáng tạo và tinh thần lao động của con người.
Nền kinh tế thị trường tự thúc đẩy sự bình đẳng – không giống như nền kinh tế chỉ huy,
tập trung là mỗi người đều nhận một giá trị lợi ích tương đương nhau bất kể làm nhiều hay ít
mà “ bình đẳng” ở đây là mỗi người sẽ nhận được lợi ích giá trị tương xứng với công sức họ
13
bỏ ra 1 cách công bằng. Nghĩa là đối với người làm việc chăm chỉ hơn, năng suất hơn, bỏ
nhiều thời gian và công sức hơn sẽ nhận được nhiều lợi ích kinh tế hơn so với những người ít
chăm chỉ làm việc hơn. Điều này có thể dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo nhưng cũng chính là
động lực quan trọng để mỗi người tự cố gắng, phấn đấu, vươn lên làm giàu cho bản thân và xã
hội. Còn 1 điều độc đáo về nền kinh tế thị trường tự do là thực tế mỗi người đều có cơ hội để
khám phá thành công. Mặc dù không phải ai cũng định nghĩa cá nhân của họ đi theo 1 ước mơ
nào đó nhưng mỗi cá nhân đều được tự do bắt đầu hành trình theo đuổi đam mê, ước mơ của
họ. Bất cứ ai từ bất kỳ tình trạng xã hội hoặc kinh tế nào có thể đạt được mức độ thành công
cao nhất trong xã hội vì nếu dám đối mặt với khó khăn và thách thức, có sự quyết tâm cao nhất
và và đổi mới liên tục để phù hợp với điều kiện khác nhau. Đây là 1 khía cạnh khác để thể
hiện sự “công bằng” nói trên.
Khi hàng hoá dịch vụ được tính theo giá cả thị trường cũng sẽ cho phép con người tự do
cạnh tranh. Điều này đồng nghĩa đòi hỏi mọi người phải không ngừng sáng tạo, lao động để
tồn tại: tìm ra những phương thức mới cải tiến cho công việc, đúc kết và rút cho bản thân
nhiều kinh nghiệm. Kinh tế thị trường là vừa nơi để phát hiện, đào tạo, tuyển chọn, sử dụng
con người nhưng cũng vừa là nơi để đào thải những quản lý chưa đạt được hiệu quả cao.
2. Thúc đẩy các hoạt động SXKD của doanh nghiệp
Trước kia khi nước ta vẫn còn theo nền kinh tế nhà nước, kinh tế tập trung, các quy tắc
hành chính và thủ tục phức tạp đã phát sinh thêm nhiều chi phí mà các công ty phải đối mặt
khi phát triển hoặc tiếp thị hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên khi bắt đầu chuyển sang nền kinh
tế thị trường, nhà nước gần như không còn can thiệp vào quá nhiều, các thủ tục ấy cũng đã
được lược bớt, làm chi phí thấp hơn ở khía cạnh phát triển, từ đó vừa giúp khách hàng có thể
hưởng lợi từ những sản phẩm sáng tạo hơn, vừa giúp doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận
hơn. Lợi thế này cũng giúp các tổ chức, doanh nghiệp có thể đầu tư thêm tiền cho các nỗ lực
khác, bao gồm cả các cơ hội nghiên cứu, sản xuất và phát triển mới.
Trong nền kinh tế thị trường, khi giá cả thị trường vận động theo các quy luật kinh tế, nó
đã tạo ra sự công bằng trong xã hội - cả người bán và người mua đều không thể chi phối. Ví
dụ như với 1 hàng hoá có công dụng và mức giá ngang nhau, các doanh nghiệp SXKD phải
tìm mọi cách để có thể thu hút khách hàng tiêu dùng sản phẩm của mình. Đây có thể coi là
động lực để mỗi doanh nghiệp liên tục sáng tạo, đổi mới trong quá trình sản xuất kinh doanh;
từ đó tạo ra những giá trị mới, thu hút thêm nhiều khách hàng mới.
Mua bán hàng hoá theo giá cả thị trường mà giá cả thị trường lại vận động theo các quy
luật kinh tế, trong đó quy luật cạnh tranh tác động đến doanh nghiệp nhiều hơn cả. Với sự tồn
tại của cạnh tranh, một doanh nghiệp có xu hướng làm bất cứ điều gì cần thiết để giảm chi phí
và đạt được số lượng bán hàng cao hơn so với các đối thủ trên thị trường để tăng lợi nhuận.
Bởi vì các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau với tiền là yếu tố thúc đẩy chính, họ phải xác
định cách để có lợi thế cạnh tranh để họ có thể chiếm thị phần lớn hơn cho sản phẩm hoặc dịch
vụ của họ. Điều này đã thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh của họ như tìm cách giảm
chi phí, cải thiện sản phẩm, tạo ra khác biệt, ứng dụng thêm nhiều công nghệ mới ... để chiếm
thêm thị phần đó. Các công ty, doanh nghiệp được khuyến khích, tự do đổi mới phương pháp,
hình thức kinh doanh (không trái với pháp luật), chất lượng sản phẩm, công nghệ SX,... để
cung cấp một lựa chọn rộng rãi hơn cho người tiêu dùng và cải thiện chất lượng xã hội.
Có thể xem xét tình huống sau: Sự phân hóa trong thu nhập của các hộ gia đình nuôi trồng
thủy sản ở Cà Mau.
14
Cùng là những người nông dân xuất thân từ vùng quê nghèo khó làm nghề nuôi trồng thủy
sản ở tỉnh Cà Mau, nhưng trong vài năm gần đây, mức thu nhập của những người dân ở đây có
sự phân hóa rõ rệt. Một số người nông dân đã biết áp dụng khoa học - kĩ thuật trong sản xuất,
đem lại hiệu quả cao, đời sống kinh tế khá lên, cuộc sống sung túc, có điều kiện phát triển mở
rộng kinh doanh sản xuất để làm giàu... Tuy nhiên, bên cạnh những hộ đạt kết quả cao trong
nuôi trồng thủy sản, vẫn còn nhiều hộ đạt kết quả thấp, thua lỗ liên miên. Tại sao lại có sự
phân hóa như vậy?
Với kinh nghiệm, kiến thức sẵn có khi còn trồng lúa, nay chuyển sang nuôi tôm, một số
nông dân Cà Mau tiếp thu rất nhanh, áp dụng khá tốt những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào nghề
nuôi tôm. Tiêu biểu là tấm gương Anh Đoàn Văn Túc ở thị trấn sông Ông Đốc, huyện Trần
Văn Thời. Đến đầu năm 1995, anh mạnh dạn vay vốn Ngân hàng và quyết định đầu tư vào
nuôi trồng thủy sản. Qua 2 năm (1995 - 1996), làm ăn thuận lợi, anh trả được nơ ngân hàng.
Nhân thức được đây là vùng đất nhiều tiềm năng, phù hợp với nuôi trồng thủy hải sản và sản
xuất con giống, anh trăn trở để tìm cách giải quyết vấn đè vốn và kĩ thuật. Năm 1997, anh tự
bỏ kinh phí ra Nha Trang (Khánh Hòa) học hỏi kinh nghiệm nuôi tôm, cua giống và tham gia
khóa học về kỹ thuật nuôi trồng thủy sản với phương thức vừa học, vừa làm. Qua 7 năm vừa
học, vừa làm, mô hình sản xuất của gia đình anh đã có 35 ha nuôi trồng thủy hải sản, hàng
năm thu nhập trừ chi phí, còn có lãi hơn 500 triệu đồng. Được khích lệ bằng những thành công
ban đầu, những năm tiếp theo, anh mạnh dạn đầu tư xây dựng thêm 14 trại sản xuất tôm, cua
giống, nâng tổng số đến nay lên 18 trại, với 450 hồ nuôi 3.500 con tôm, cua bố mẹ. Giờ đây
anh Túc đã trở thành tỷ phú ở tuổi 39 với gia sản 14 ha đất nuôi tôm, 15 trại sản xuất, ương
giống và gần 20 cửa hàng, điểm giao dịch mua bán tôm giống trong, ngoài tỉnh
Tuy nhiên, không phải người nông dân nào cũng thành công được như anh Túc bởi đa
phần nông dân đều có trình độ học vấn thấp, tập quán canh tác manh mún, không có điều kiện
để tập trung sản xuất trên quy mô lớn, lại mơ hồ trong việc cải tiến kĩ thuật nuôi trồng. Mặt
khác hệ thống thủy lợi, phương tiện kiểm dịch con giống, kiểm soát môi trường, dịch bệnh còn
nhiều hạn chế, trong khi đội ngũ cán bộ, kỹ sư có tay nghề làm công tác khuyến ngư nông lại
thiếu.. Từ đó, gây khó khăn cho nuôi trồng thủy sản, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, dịch
bệnh diễn ra liên tục, một bộ phận nhân dân đời sống vẫn rất khó khăn. Tuy nhiên, so với nhu
cầu thực tế thì việc chuyển giao khoa học - kĩ thuật ở đây vẫn còn chậm. Hiện toàn tỉnh còn
một bộ phận khá đông người dân hiểu biết rất "mơ hồ" hoặc không có điều kiện tiếp cận, áp
dụng khoa học - kĩ thuật vào ruộng tôm của mình và rất cần được hướng dẫn, trợ giúp. Chính
điều này đã lý giải vì sao năng suất, sản lượng tôm nuôi của Cà Mau còn thấp dù diện tích
nuôi rất lớn; chưa nâng cao được độ đồng đều trong thu hoạch mùa vụ giữa các nông hộ nuôi
tôm.
Có thể thấy rằng, những người nông dân ở Cà Mau như anh Túc có điều kiện sản xuất
thuận lợi, có trình độ kiến thức cao, trang bị kĩ thuật tốt, đáp ứng được yêu cầu của quy luật
giá trị; đồng thời biết tận dụng lợi thế của mình, dám thay đổi, dám đầu tư, dám đương đầu với
khó khăn để từ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ đã vận dụng linh hoạt và sáng tạo các lợi
thế của mình, dám suy nghĩ để thay đổi, để hướng đến cuộc sống đầy đu hơn cho bản thân. Họ
còn có cơ hội mua sắm thêm các trang thiết bị hiện đại, mở rộng quy mô sản xuất. Ngược lại,
những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, lại không dám thử sức, vươn mình
ra khỏi vùng an toàn... nên bị thua lỗ, dẫn đến phá sản, trở thành nghèo khó.
Như vậy, qua ví dụ điển hình về sự phân hóa mức độ thu nhập giữa những người nông dân
nuôi trồng thủy sản ở Cà Mau, ta thấy được quy luật phân hóa giàu nghèo hết sức tự nhiên
15
trong kinh doanh dưới tác động của quy luật giá trị (1 trong 3 quy luật tạo nên giá cả thị
trường)
16
Báo cáo Logistics năm 2017 - 2021
17