Professional Documents
Culture Documents
4. Vận chuyển:
Đối với sự di chuyển của hàng hóa từ nhà cung cấp đến người mua, chức năng vận
chuyển là thành phần cơ bản và quan trọng nhất của Logistics.
Khi một đơn đặt hàng được đặt, giao dịch sẽ không được hoàn thành cho đến khi
hàng hóa được chuyển đến địa điểm của khách hàng qua nhiều phương thức vận tải khác
nhau.
Các hãng lựa chọn phương thức vận chuyển tùy thuộc vào cơ sở hạ tầng giao
thông của quốc gia hoặc khu vực. Chi phí là yếu tố quan trọng nhất được xem xét trong
việc lựa chọn một phương thức vận tải cụ thể. Tuy nhiên, đôi khi sự cấp thiết của hàng
hóa đối với khách hàng lại lấn át việc cân nhắc chi phí bởi vì hàng hóa cần được gửi qua
phương thức nhanh nhất, đồng nghĩa với phương thức vận chuyển đắt đỏ.
5. Hệ thống xử lý và lưu trữ vật liệu:
Tốc độ luân chuyển hàng tồn kho trong toàn bộ chuỗi cung ứng phụ thuộc vào các
phương pháp xử lý nguyên vật liệu. Phương pháp xử lý vật liệu không phù hợp sẽ làm
tăng thêm các hư hỏng của sản phẩm và sự chậm trễ trong việc giao hàng cũng như các
chi phí phát sinh.
Cơ giới hóa và tự động hóa trong xử lý vật liệu nâng cao năng suất của hệ
thống Logistics. Các cân nhắc khác để lựa chọn hệ thống xử lý vật liệu là khối lượng cần
xử lý, tốc độ cần thiết để di chuyển vật liệu và mức độ dịch vụ được cung cấp cho khách
hàng.
Hệ thống lưu trữ rất quan trọng đối với việc sử dụng không gian tối đa trong kích
thước nhất định của nhà kho.
Hệ thống xử lý vật liệu cần hỗ trợ hệ thống lưu trữ để di chuyển nhanh chóng (lưu
trữ và lấy) hàng hóa ra và vào kho.
6. Thông tin:
Logistics về cơ bản là một hoạt động dựa trên thông tin về sự di chuyển của hàng
hóa, hàng tồn kho trong một chuỗi cung ứng. Do đó, hệ thống thông tin đóng một vai trò
quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ cao cấp cho khách hàng. Việc sử dụng các công
cụ Công nghệ thông tin để xác định thông tin, truy cập, lưu trữ, phân tích, truy xuất và hỗ
trợ việc ra quyết định, vốn rất quan trọng trong các chức năng của Logistics, đang giúp
các doanh nghiệp kinh doanh nâng cao khả năng cạnh tranh của họ.
Vì vậy với việc hình thành và phát triển dịch vụ logistics là rất lớn, sẽ giúp các
doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân giảm được chi phí trong chuỗi
logistics, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh tinh giản hơn và đạt hiệu quả hơn. Giảm
chi phí trong sản xuất, quá trình sản xuất kinh doanh tinh giản, hiệu quả sản xuất kinh
doanh được nâng cao góp phần tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Thực tế những năm qua tại các nước Châu Âu, chi phí logistics đã giảm xuống rất nhiều
và còn có xu hướng giảm nữa trong các năm tới.
- Tiết kiệm và giảm chi phí trong hoạt động lưu thông phân phối:
Giá cả hàng hóa trên thị trường chính bằng giá cả ở nơi sản xuất cộng với chi phí
lưu thông. Chi phí lưu thông hàng hóa, chủ yếu là phí vận tải chiếm một tỷ lệ không nhỏ
và là bộ phận cấu thành giá cả hàng hóa trên thị trường, đặc biệt là hàng hóa trong buôn
bán quốc tế. Vận tải là yếu tố quan trọng của lưu thông. C. Mác đã từng nói “Lưu thông
có ý nghĩa là hành trình thực tế của hàng hóa trong không gian được giải quyết bằng vận
tải”. Vận tải có nhiệm vụ đưa hàng hóa đến nơi tiêu dùng và tạo khả năng để thực hiện
giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa.
Trong buôn bán quốc tế, chi phí vận tải chiếm tỷ trọng khá lớn, theo số liệu thống
kê của UNCTAD thì chi phí vận tải đường biển chiếm trung bình 10-15% giá FOB, hay
8-9% giá CIF. Mà vận tải là yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống logistics cho nên dịch
vụ logistics ngày càng hoàn thiện và hiện đại sẽ tiết kiệm cho phí vận tải và các chi phí
khác phát sinh trong quá trình lưu thông dẫn đến tiết kiệm và giảm chi phí lưu thông.
- Gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải giao thông nhận:
Dịch vụ logistics là loại hình dịch vụ có quy mô mở rộng và phức tạp hơn nhiều so
với hoạt động vận tải giao nhận thuần túy. Trước kia, người kinh doanh dịch vụ vận tải
giao nhận chỉ cung cấp cho khách hàng những dịch vụ đơn giản, thuần túy và đơn lẻ.
Ngày nay, do sự phát triển của sản xuất, lưu thông, các chi tiết của một sản phẩm có thể
do nhiều quốc gia cung ứng và ngược lại một loại sản phẩm của doanh nghiệp có thể tiêu
thụ tại nhiều quốc gia, nhiều thị trường khác nhau, vì vậy dịch vụ mà khách hàng yêu cầu
từ người kinh doanh vận tải giao nhận phải đa dạng và phong phú. Người vận tải giao
nhận ngày nay đã triển khai cung cấp các dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế của
khách hàng. Họ trở thành người cung cấp dịch vụ logistics (logistics service provider).
Rõ ràng, dịch vụ logistics đã góp phần làm gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh
nghiệp vận tải giao nhận.
Theo kinh nghiệm ở những nước phát triển cho thấy, thông qua việc sử dụng dịch
vụ logistics trọn gói, các doanh nghiệp sản xuất có thể rút ngắn thời gian từ lúc nhận đơn
hàng cho đến lúc giao sản phẩm cho khách hàng từ 5-6 tháng xuống còn 2 tháng. Kinh
doanh dịch vụ này có tỷ suất lợi nhuận cao gấp 3-4 lần sản xuất và gấp từ 1-2 lần các dịch
vụ ngoại thương khác.
- Phát triển góp phần mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế:
Sản xuất có mục đích là phục vụ tiêu dùng, cho nên trong sản xuất kinh doanh,
vấn đề thị trường luôn là vấn đề quan trọng và luôn được các nhà sản xuất và kinh doanh
quan tâm. Các nhà sản xuất kinh doanh muốn chiếm lĩnh và mở rộng thị trường cho sản
phẩm của mình phải cần sự hỗ trợ của dịch vụ logistics. Dịch vụ logistics có tác dụng như
chiếc cầu nối trong việc chuyển dịch hàng hóa trên các tuyến đường mới đến các thị
trường mới đúng yêu cầu về thời gian và địa điểm đặt ra. Dịch vụ logistics phát triển có
tác dụng rất lớn trong việc khai thác và mở rộng thị trường kinh doanh cho các doanh
nghiệp.
- Giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh quốc
tế:
Thực tiễn, một giao dịch trong buôn bán quốc tế thường phải tiêu tốn các loại giấy
tờ, chứng từ. Theo ước tính của Liên Hợp Quốc, chi phí về giấy tờ để phục vụ mọi mặt
giao dịch thương mại trên thế giới hàng năm đã vượt quá 420 tỷ USD. Theo tính toán của
các chuyên gia, riêng các loại giấy tờ, chứng từ rườm rà hàng năm khoản chi phí tiêu tốn
cho nó cũng chiếm tới hơn 10% kim ngạch mậu dịch quốc tế, ảnh hưởng rất lớn tới các
hoạt động buôn bán quốc tế. Logistics đã cung cấp các dịch vụ đa dạng trọn gói đã có tác
dụng giảm rất nhiều các chi phí cho giấy tờ, chứng từ trong buôn bán quốc tế.
Ngoài ra, cùng với việc phát triển logistics điện tử (electronic logistics) sẽ tạo ra
cuộc cách mạng trong dịch vụ vận tải và logistics, chi phí cho giấy tờ, chứng từ trong lưu
thông hàng hóa càng được giảm tới mức tối đa, chất lượng dịch vụ logistics ngày càng
được nâng cao sẽ thu hẹp hơn nữa cản trở về mặt không gian và thời gian trong dòng lưu
chuyển nguyên vật liệu và hàng hóa. Các quốc gia sẽ xích lại gần nhau hơn trong hoạt
động sản xuất và lưu thông.
2. Đối với nền kinh tế:
Phát
triển dịch vụ logistics một cách hiệu quả sẽ góp phần tăng năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế và quốc gia. Trong xu thế toàn cầu mạnh mẽ như hiện nay, sự cạnh tranh giữa các
quốc gia trên thế giới ngày càng trở nên gay gắt, khốc liệt hơn. Điều này đã làm cho dịch
vụ logistics trở thành một trong các lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Những nước kết nối
tốt với mạng lưới dịch vụ logistics toàn cầu thì có thể tiếp cận được nhiều thị trường và
người tiêu dùng từ các nước trên thế giới.
Phát triển dịch vụ logistics sẽ đem lại nguồn lợi khổng lồ cho nền kinh tế. logistics
là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của quá trình này có tầm quan
trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp và thương mại mỗi quốc gia.
Đối với những nước phát triển như Mỹ và Nhật logistics đóng góp khoảng 10% GDP.
Đối với những nước kém phát triển thì tỷ lệ này có thể cao hơn 30%. Sự phát triển dịch
vụ logistics có ý nghĩa đảm bảo cho việc vận hành sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác
được đảm bảo về thời gian và chất lượng. Logistics phát triển tốt sẽ mang lại khả năng
giảm được chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ.
1.2. Nguồn nhân lực và vai trò của nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực chịu trách nhiệm khai thác, sử dụng và tái tạo các nguồn lực khác
Nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao có trí tuệ, kinh nghiệm, kỹ
năng, tính năng động, sáng tạo,…để tác động vào các nguồn lực khác và gắn kết chúng
lại với nhau nhằm phục vụ nhu cầu phát triển của tổ chức, doanh nghiệp..
Chính con người cũng là nhân tố làm thay đổi tính chất của lao động từ thủ công chân tay
sang lao động cơ khí và lao động trí tuệ. Nhất là trong giai đoạn hiện nay – khi khoa học
và công nghệ đã trở thành bộ phận trực tiếp của lực lượng sản xuất thì con người lại là
nhân tố thúc đẩy và động lực của sự phát triển. Nếu không có nhân lực sáng tạo ra những
tư liệu lao động hiện đại, sử dụng, khai thác và đưa chúng vào hoạt động lao động thì
những nguồn lực khác đó cũng chỉ là những vật chất vô tri vô giác.
2.1.2. Những nguyên nhân dẫn đến sự cạnh tranh của các doanh nghiệp logistics
Việt Nam còn yếu kém.
- Theo thống kê của VLA, hiện nay Việt Nam có khoảng 4.000 doanh nghiệp logistics
chuyên nghiệp và có mạng lưới dịch vụ quốc tế, tuy số lượng doanh nghiệp gia tăng đáng
kể nhưng nguồn nhân lực sẵn có chưa thể đáp ứng kịp thời. Thiếu hụt nhân sự chất lượng
cao, dẫn đến việc nhân lực ngành chưa được đào tạo bài bản về logistics, hạn chế về chất
lượng dịch vụ,…
Dẫn chứng : Ông Đỗ Xuân Quang- Phó Chủ tịch thường trực VLA phân tích: “ Nước ta
chủ yếu vẫn là gia công nên giá trị thực tế không cao, giá trị thu được chỉ khoảng 10%
mỗi đơn hàng. Khi xuất khẩu, ta giao hàng đến mạn tàu, phía bạn hàng chỉ định hãng tàu
và trả tiền vận chuyển. Chính vì vậy, xuất khẩu của nước ta dù còn nhiều bao nhiêu thì đa
số việc vận chuyển đều rơi vào tay những tập đoàn vận chuyển đa quốc gia.”
“ Trong những năm qua, Chính phủ đã có những chính sách nhằm thay đổi phương thức
trên mhuw thưởng cho các đơn hàng xuất khẩu theo giá CIF những vẫn chưa có nhiều
chuyển biến. Chỉ nhìn vào khoảng 80% đơn hàng xuất khẩu giá FOB, 20% giá CIF cho
thấy phần lớn lợi nhuận của ngành đã rơi vào tay các tập đoàn nước ngoài”
- Chi phí logistics còn rất cao, tỉ lệ 20-25% so với GDP của Việt Nam, trong khi Trung
Quốc là 17,8% và Singapore là 9%. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu và
doanh nghiệp dịch vụ logistics còn hạn chế, chưa chặt chẽ và tin tưởng.
Ngoài ra tỷ lệ thuê ngoài logistics còn rất thấp từ 20-30%, trong khi Trung Quốc là
63,3%, NHật Bản và các nước Châu Âu, Mỹ trên 40% Dịch vụ logistics kém phát triển so
với yêu cầu do:
- Thiếu độ tin cậy xuyên suốt trong chuỗi cung ứng kết nối Việt Nam với phần còn lại
của thế giới.
Do thiếu hiệu quả trong kỹ thuật và tổ chức thực hiện các hoạt động logistics:
+ Luật pháp liên quan đến điều chỉnh logistics thường không dễ hiểu, gây ra trở ngại,
chưa tạo được thị trường logistics minh bạch, cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện phát
triển bền vững.
+ Quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông vận tải không đồng bộ, thiếu hành lang đa
phương thức.
+ Vận tải đường bộ chưa đáp ứng yêu cầu của chủ hàng và cảng biển chưa được khai thác
hết tiềm năng..
2.2.1.Công tác tuyển dụng nhân viên Logistics của doanh nghiệp.
Thiếu hụt nhân sự là một trong ba vấn đề gây khó khăn cho các công ty logistics trong
hoạt động kinh doanh của mình. Theo công bố của Sách trắng Logistics Việt Nam 2018
(VLA), hiện nay ngành dịch vụ logistics Việt Nam có khoảng 4.000 doanh nghiệp hoạt
động chuyên nghiệp, trong đó 54% số doanh nghiệp tập trung trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh, nhu cầu về nguồn nhân sự logistics là rất lớn. Dự báo đến năm 2030 nhu cầu
nhân lực chuyên nghiệp cho toàn ngành là 200.000 nhân sự, trong khi đó khả năng đáp
ứng nhu cầu nhân sự chỉ đạt khoảng 10% - một con số vô cùng khiêm tốn. Ngoài ra, theo
Báo cáo logistics Việt Nam 2018, nếu tính cả nhu cầu nhân lực logistics từ các doanh
nghiệp sản xuất thì nhu cầu nhân lực logistics có thể lên đến 2,2 triệu người đến năm
2030. Như vậy, việc đánh giá thực trạng công tác tuyển dụng nhân viên logistics của các
doanh nghiệp là việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao
năng lực doanh nghiệp logistics Việt Nam.Vấn đề tuyển dụng đối với doanh nghiệp
logistics hiện nay được các doanh nghiệp quan tâm vì các nhân sự này đóng góp vai trò
quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ logistics của công ty, góp phần tạo ra các giá trị
cạnh tranh cốt lõi cho doanh nghiệp của mình.Hàng năm, theo các doanh nghiệp logistics
được khảo sát, nhu cầu tuyển dụng mới nhân sự logistics của doanh nghiệp với số lượng
dưới 10 người chiếm tỷ trọng hai phần ba của tổng số trả lời, trên 30 người là 20% trên
tổng số trả lời. Cụ thể, các công ty vừa và nhỏ sẽ có nhu cầu tuyển dụng ít nhưng thường
xuyên hơn. Tính sơ bộ trung bình các doanh nghiệp dịch vụ logistics thành phố Hồ Chí
Minh sẽ cần tuyển trung bình khoảng 27,200 lao động mới mỗi năm 1.
Trong đó, vị trí nhân viên/lao động chuyên môn được tuyển dụng nhiều nhất với tỷ lệ
52% trên tổng số trả lời, còn lại là cho vị trí trưởng nhóm và trưởng phòng với tỷ lệ tương
ứng 25% và 23% trên tổng số trả lời.
Nhân sự logistics được tuyển dụng chủ yếu đến từ các trường đại học, lượng tuyển dụng
đến từ trường cao đẳng, trường nghề còn hạn chế. Doanh nghiệp logistics tuyển dụng chủ
yếu từ các trường tại thành phố Hồ Chí Minh gồm Đại học Kinh tế, Đại học Giao thông
Vận tải thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Ngoại thương, Đại học Quốc Gia thành phố
Hồ Chí Minh, Đại học Bách Khoa, Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại và Cao đẳng Kinh tế
thành phố Hồ Chí Minh. Theo các doanh nghiệp được khảo sát, trong các tiêu chí chính
để các công ty tuyển dụng nhân viên logistics, ưu tiên nhất là kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
thuyết phục, kiến thức chuyên môn, tiếng Anh chuyên ngành được đánh giá quan trọng.
Ngoài ra, kinh nghiệm và thái độ (nhã nhặn, nghiêm túc…) khi trả lời phỏng vấn cũng là
những yếu tố mà nhiều nhà tuyển dụng xem xét.
Trong tương lai 5 năm tới, vị trí nhân viên logistics được doanh nghiệp tuyển dụng nhiều
gồm có các vị trí sau
» nhân viên khai báo hải quan
» nhân viên hành chính logistics
» nhân viên giao nhận hàng hóa tổng hợp
» nhân viên vận hành kho và nhân viên quản lý kho
» nhân viên lái xe tải
» nhân viên kinh doanh thương mại điện tử
» nhân viên điều hành vận tải
» nhân viên công nghệ thông tin (CNTT)
Kết quả này cho thấy xu thế hiện nay các doanh nghiệp làm dịch vụ logistics vẫn tập
trung nhiều vào mảng dịch vụ giao nhận và khai báo hải quan. Tuy nhiên cần có 1 sự lưu
ý là với việc áp dụng thông quan tự động 100% qua hệ thống VNACCS/VCIS thì trong
tương lai việc tuyển dụng nhân viên ở vị trí thông quan hàng hóa có thể sẽ giảm và thay
vào đó là sự gia tăng nhu cầu tuyển dụng vị trí công việc phù hợp xu thế phát triển một số
lĩnh vực dịch vụ logistics mới như nhân viên thương mại điện tử, nhân viên điều phối đơn
hàng chặng cuối (last mile delivery)
2.2.2.Công tác đào tạo nhân viên Logistics của doanh nghiệp.
Vấn đề đào tạo thường xuyên, đào tạo ngắn hạn cho nhân viên trong doanh nghiệp ngày
càng được chú trọng, bởi lẽ các khóa học chính là cơ hội để nhân sự của doanh nghiệp
được cập nhật, trao đổi và chia sẻ kiến thức chuyên ngành cũng như kinh nghiệm làm
việc. Do đó, hiện nay các doanh nghiệp chú trọng đào tạo nội bộ. Sau khi tuyển dụng,
thời gian đào tạo lại nhân viên logistics của doanh nghiệp thường chiếm từ 6-8 tuần với
tỷ lệ trên 37% trong tổng số trả lời, dưới 4 tuần là 27% trên tổng số trả lời, đào tạo lại
trong 3 tháng chiếm tỷ trọng 17% trong tổng số trả lời và từ 4 tháng trở lên là khoảng trên
15% trong tổng số trả lời. Các doanh nghiệp cũng cho biết sau khi tuyển dụng thì doanh
nghiệp có tiến hành đào tạo hội nhập, đào tạo về công việc; trong quá trình làm việc vẫn
tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng nhân viên, có như vậy mới đảm bảo chất lượng của nhân viên
logistics . Điều này cho thấy các trường có cơ hội cung cấp các khóa đào tạo ngắn hạn
(dưới 8 tuần) cho nhân viên mới hoặc nhân viên hiện đang làm tại các công ty logistics.
Vấn đề đào tạo nhân viên mới đối với doanh nghiệp trong tình hình hiện nay là tương đối
quan trọng và cần thiết. Tuy vậy, ngân sách để đào tạo nhân viên hiện nay được các
doanh nghiệp chi ra ở mức khiêm tốn.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, số lượng nhân viên nữ trong các doanh nghiệp chủ yếu
từ dưới 50 nhân viên chiếm 68% trên tổng số trả lời. Còn lại là các doanh nghiệp có số
lao động nữ 71-90 người và 91-110 người chiếm tỷ trọng xấp xỉ dưới 5% trên tổng số trả
lời (xem Hình 9). Trong đó, gần nửa doanh nghiệp khảo sát (44%) có dưới 5 quản lý là
nữ. Số lượng nhân sự quản lý là nữ từ trên 20 người chỉ chiếm tỷ trọng 10%. Điều này
cho thấy, đối với ngành logistics, tỷ lệ lao động nữ đảm nhiệm vị trí quản lý còn rất thấp
(xem Hình 10).
->Nhân lực ngành logistics tại Việt Nam đa phần là nam giới.
Thực tế cho thấy, sự khác biệt về mục tiêu thực tập và nhận thực tập chính là rào cản lớn
trong việc tổ chức thực hiện thực tập tại doanh nghiệp. Qua phản ánh từ các doanh
nghiệp, phần lớn sinh viên khi đến đề nghị được thực tập đều rất quan tâm việc doanh
không vì đây là một yêu cầu rất quan trọng từ phía cơ sở đào tạo cử sinh viên đi thực tập
nhằm đảm bảo việc sinh viên có tiếp cận thực tế doanh nghiệp. Trong khi đó, về phía
doanh nghiệp mặc dù rất sẵn sàng tiếp nhận sinh viên thực tập nhưng việc cung cấp số
liệu thực tế đôi khi là bí mật kinh doanh của doanh nghiệp là rào cản để doanh nghiệp hỗ
trợ sinh viên, ngoài ra với bối cảnh hơn 90% doanh nghiệp logistics Việt Nam là doanh
nghiệp vừa và nhỏ thậm chí là siêu nhỏ thì việc bố trí nhân sự trực tiếp hướng dẫn sinh
viên theo quy trình bài bản sẽ thực sự gây ra áp lực công việc cho chính nhân sự hướng
dẫn.
Theo các doanh nghiệp được hỏi thì có đến hơn một phần ba doanh nghiệp khảo sát cho
rằng để có sự phối hợp tốt với nhà trường trong vấn đề đào tạo nguồn nhân lực logistics
thì doanh nghiệp cần được ưu tiên tuyển dụng nhân lực tại các trường. Tuy nhiên vấn đề
này hiện nay lại phụ thuộc quá nhiều vào mức độ thân thiết giữa doanh nghiệp và nhà
trường, đây cũng được xem là một trong những rào cản trong sự hợp tác giữa doanh
nghiệp và nhà trường .
Do vậy, muốn nâng cao mối quan hệ liên kết giữa doanh nghiệp và nhà trường thì cần có
sự phối hợp, gắn trách nhiệm của hai bên.
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC
LOGISTICS TẠI VIỆT NAM
3.1 Định hướng phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics
3.1.1 Chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics
Theo đánh giá, lĩnh vực logistics Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển và có thể tham gia
sâu hơn vào chuỗi logistics thế giới
Nhiều chuyên gia cho rằng, để xây dựng nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics tại Việt
Nam đòi hỏi sự tham gia và cam kết tích cực của các bên liên quan, bao gồm Chính phủ,
chính quyền địa phương, các DN logistics và các trường dạy nghề. Đặc biệt, cần sự phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên trách với DN nhằm xác định chính xác nhu cầu lao
động và tuyển dụng. Bên cạnh đó, nhà nước cần xây dựng các bộ tiêu chuẩn nghề đối với
lĩnh vực logistics, hỗ trợ các trường đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị thuộc lĩnh vực
logistics…
Hoạt động logistics xuyên suốt từ sản xuất tới tiêu dùng ngày càng giữ vai trò đặc biệt
quan trọng đối với năng lực cạnh tranh của các ngành sản xuất, dịch vụ và của toàn nền
kinh tế. Do vậy, Việt Nam cần có một ngành học về logistics/quản trị chuỗi cung ứng
được đào tạo chính quy, bài bản và có hệ thống tại các trường đại học thì nguồn nhân lực
mới được cung ứng một cách bền vững và có chất lượng.
3.1.2 Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra mạnh mẽ, yêu cầu về
chất lượng, trình độ chuyên môn và kỹ năng của nguồn nhân lực logistics ngày càng cần
phải được nâng cao, đáp ứng với yêu cầu của thời đại. Về lâu dài, nhân lực sẽ là yếu tố
quyết định để giúp doanh nghiệp logistics Việt Nam nhanh chóng bắt kịp với các nước,
nâng cao tính cạnh tranh, mở rộng thị trường ở cả trong nước, khu vực và quốc tế.
3.1.3 Những yêu cầu đào tạo và phát triển nguồn lực trong lĩnh vực logistic.
Trên thực tế, việc đào tạo ở doanh nghiệp là quan trọng nhất. Tại doanh nghiệp nhân viên
sẽ được cập nhật, trao đổi và chia sẻ về những kiến thức chuyên sâu cũng như kinh
nghiệm làm việc ở trong lĩnh vực logistic. Việc đào tạo của doanh nghiệp cho nhân viên
về lĩnh vực Logistic là vô cùng cần thiết, nó sẽ cải thiện tương đối chất lượng của nhân
viên trong công ty.
Phân loại mức lương phù hợp cho từng nhân viên. Nhân viên có kinh nghiệm sẽ có mức
lương tốt và ngược lại. Đó là phương pháp để doanh nghiệp kích thích nhân viên cũng
như là phương án để phát triển được khả năng của nguồn nhân lực mà doanh nghiệp hiện
có.
Nguồn nhân lực trong tương lai của các doanh nghiệp trong lĩnh vực Logistic luôn là
Sinh viên. Vậy nên việc đào tạo nguồn nhân lực này cần có sự kết hợp giữa nhà trường
với những công ty doanh nghiệp trong lĩnh vực Logistic.
3.2 Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực cung ứng dịch vụ logistics tại Việt
Nam
3.2.1. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistic dài hạn.
a) Công tác tuyển dụng.
Chúng ta, các doanh nghiệp phải xác định rõ nhu cầu về nguồn nhân lực trong tương lai
để có những bước đi định hướng cho sự phát triển của ngành Logistic.
Việc định hướng phát triển của ngành sẽ gắn mới việc đào tạo sinh viên từ các trường đại
học. Song song đó hợp tác đào tạo với các doanh nghiệp, công tác đào tạo ở trường lớp là
quan trọng nhưng đừng khô khan lý thuyết. Các trường đại học cần liên kết với cty,
doanh nghiệp trong lĩnh vực Logistic có các buổi thực tập trải nghiệm. Ở phía cty thì cần
phải có những buổi tập huấn nâng cao tay nghề cho nguồn nhân lực thích ứng với việc
thay đổi công nghệ trong tương lai.
Đối với sinh viên cần xác định được nhu cầu trong lĩnh vực Logistic trong tương lai là gì,
cá nhân từng sinh viên cần cải thiện và bổ sung gì cho sự thay đổi nhu cầu trong tương
lai.
3.2.2 Giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong trung hạn và ngắn hạn
* Về phía Nhà nước
Rà soát và tiếp tục thực hiện các chính sách tạo thuận lợi cho hoạt động logistics. Đặc
biệt, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên trách với doanh nghiệp nhằm xác
định chính xác nhu cầu lao động và tuyển dụng.
Phối hợp với Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội Logistics,
các cơ sở giáo dục nghề nghiệp nhằm tăng cường công tác truyền thông về ngành các
phương tiện thông tin đại chúng.
Cần phát huy vai trò kết nối các Hiệp hội Logistics Việt Nam, các Hiệp hội Logistics địa
phương, qua đó có thể thực hiện công tác hỗ trợ các doanh nghiệp logisttics trong công
tác tuyển dụng nhân sự, các trường đại học trong công tác đào tạo một cách hiệu quả.
Cần tiếp tục phát huy vai trò của các chương trình đào tạo trung và ngắn hạn được thực
hiện bởi các viện, trung tâm, hiệp hội và các công ty đào tạo.
Các hiệp hội có trách nhiệm tìm kiếm các nguồn kinh phí đào tạo thường xuyên, thu hút
các đối tác nước ngoài tham gia đào tạo cho nhân viên của các công ty dịch vụ logistics
Việt Nam nhằm đẩy nhanh số lượng nhân viên được đào tạo.
Xây dựng chương trình đào tạo, gắn việc đào tạo với thực tiễn cũng như nhu cầu của
doanh nghiệp. Tăng cường kết hợp tác với doanh nghiệp, phối hợp với doanh nghiệp
trong công tác tổ chức các chương trình đào tạo cho sinh viên nhằm gắn lý thuyết với
thực tiễn, định hướng nghề nghiệp từ sớm giúp người học định hình rõ nét ngành nghề
lựa chọn.
Gia tăng số lượng giảng viên được đào tạo bài bản, đúng ngành/chuyên ngành logistics;
tạo điều kiện để giảng viên bổ sung kiến và thực hành các kỹ năng chuyên môn thông qua
đồng hành cùng công việc thực tế tại doanh nghiệp; Khuyến khích giảng viên đạt chứng
chỉ quốc tế trong lĩnh vực logistics.
Đẩy mạnh công tác kết nối, liên thông giữa khối đại học, cao đẳng nghề và các cơ sở giáo
dục nghề nghiệp, các khóa đào tạo ngắn hạn
Phải thay thế phương pháp đào tạo cũ, thiếu tính tương tác, thiếu thực tiễn, làm tăng nguy
cơ tụt hậu và phải đào tạo lại, thậm chí đào thải ngay sau khi tốt nghiệp bằng việc đa
dạng hoá phương thức đào tạo, kết hợp giữa đào tạo chính quy tập trung với đào tạo từ
xa, đào tạo dài hạn với ngắn hạn, đào tạo tại trường kết hợp với đào tạo thực tế tại các
doanh nghiệp.
Chú trọng nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học để tiếp cận sử dụng các công nghệ mới và
khả năng vận dụng luật pháp, tập quán thương mại quốc tế, nhằm giúp người học sẵn
sàng và nhanh chóng thích ứng với nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp, đặc biệt là trong
môi trường làm việc quốc tế.
Duy trì và nâng cao chất lượng đào tạo, tăng tỷ lệ tốt nghiệp, tốt nghiệp khá giỏi các trình
độ trong lĩnh vực logistics để đảm bảo ổn định đầu ra nguồn nhân lực
Các doanh nghiệp sử dụng nhân lực logistics cũng cần được thu hút, tạo điều kiện để
tham gia tích cực hơn nữa trong quá trình đào tạo, hướng dẫn thực tập, tăng tiếp cận thực
tế cho sinh viên thông qua các chương trình huấn luyện nghề nghiệp.
Tích cực tham gia công tác truyền thông, hỗ trợ tư vấn hướng nghiệp,... để thu hút nguồn
nhân lực có chất lượng vào lĩnh vực chuyên ngành này.
Khuyến khích, tạo điều kiện học tập, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ cho người lao động tại doanh nghiệp.
Thường xuyên tổ chức đào tạo định kỳ cho nhân sự logistics của doanh nghiệp về các nội
dung như: những thay đổi về chính sách pháp luật liên quan đến logistics, công nghệ mới
ứng dụng trong hoạt động logistics, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ chuyên sâu, kỹ năng
làm việc và các kỹ năng cần thiết khác.
Đa dạng hoá các hình thức đào tạo nhân sự logistics của doanh nghiệp cho phù hợp với
từng vị trí công việc và chức danh nghề nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Trần Thị Hòa & Vũ Trọng Phong, Bài giảng Logistics căn bản 2021, Học viện Công
nghệ Bưu Chính Viễn Thông.
http://dlib.ptit.edu.vn/flowpaper/simple_document.php?subfolder=11/11/26/&doc
=111126532554321251086684003480907050744&bitsid=2deb3f28-ae94-4d83-ac2c-
518c3b2eaa46&uid=803db58b-3bb4-417a-83a5-a7c0d2d37dbe
i liệu tham khảo:
2 .Tạp chí khoa học công nghệ Việt Nam: http://vjst.vn/vn/tin-tuc/5221/phat-trien-nguon-
nhan-luc-nganh-logistics-viet-nam-huong-den-su-thich-ung-truoc-nhung-bien-dong-va-
rui-ro.aspx
3. Logistics xanh: http://www.logisticsxanh.com/phat-trien-nguon-nhan-luc-logistics-
thich-ung-voi-bien-dong-va-rui-ro.html
4. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 200/2017/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch
hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến
năm 2025;
5. Bộ Công Thương (2021), “Báo cáo logistics Việt Nam 2021: Phát triển nhân lực
logistics”.