Professional Documents
Culture Documents
I. MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ
1. Môi trường kinh tế
- Hoa Kỳ có một nền kinh tế phát triển
Hoa Kỳ có một trong những hệ thống kinh tế phát triển nhất trên thế giới. Báo cáo mới nhất
công bố ngày 27/1/2022 của Bộ Thương mại Hoa Kỳ cho biết, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
của nước này trong quý 4/2021 tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2020. Con số này vượt khá xa mức
tăng trưởng 2,3% trong quý 3/2021, cũng như kết quả cuộc khảo sát các chuyên gia kinh tế do
hãng tin Reuters tiến hành là 5,5%.
Tính chung cả năm 2021, kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng 5,7% - mức cao nhất kể từ năm 1984
tới nay và đảo chiều ấn tượng từ mức giảm sâu nhất trong 74 năm là 3,4% vào năm 2020.
- Tác động của đại dịch COVID - 19 tới nền kinh tế Hoa Kỳ
Các cuộc đóng cửa toàn cầu vào năm 2020/21 đã gây ra sự tàn phá cho nền kinh tế Hoa Kỳ.
Trên thực tế, nền kinh tế đã thu hẹp 3,4% vào năm 2020, thành tích tồi tệ nhất kể từ Thế chiến 2.
Do đó, Cục Dự trữ Liên bang đã bơm 2,3 nghìn tỷ đô la vào nền kinh tế vào đầu năm 2020 để đối
phó với những thách thức tài chính.
Tác động của COVID-19 đến các chỉ số kinh tế vĩ mô: Tác động của sự bùng phát COVID-
19 đối với các chỉ số kinh tế vĩ mô là rất nghiêm trọng. Tăng trưởng sản xuất công nghiệp và tăng
trưởng xuất khẩu đạt mức tỷ lệ trung bình hàng tháng tương ứng là -7,1% và -13,7% trong thời
gian từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2020. Chỉ số niềm tin doanh nghiệp giảm từ 99,1 vào tháng 1
xuống 98,4 vào tháng 5 năm 2020, trước khi phục hồi lên 101,4 vào tháng 1 năm 2021. Kể từ khi
chính phủ bắt đầu mở cửa lại nền kinh tế, niềm tin kinh doanh đã được khôi phục ở mức độ nhẹ
vào nửa cuối năm 2020 và tiếp tục phục hồi trong năm 2021.
- Tỷ lệ lạm phát tăng cao trong những năm trở lại đây
Lạm phát ở Mỹ năm 2021 đã đạt tốc độ nhanh nhất trong gần 40 năm qua. Ngày
12/01/2021, Bộ Lao động Mỹ công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ở Mỹ vào tháng 12-2021 đã tăng
7% so với cùng kỳ năm 2020. Đây là tốc độ tăng theo năm nhanh nhất kể từ năm 1982. CPI đo
lường những gì người tiêu dùng phải trả cho hàng hóa và dịch vụ. Hiện nay, nhìn chung giá cả
mọi thứ từ ôtô, xăng dầu cho đến thực phẩm và quần áo ở Mỹ đều đang tăng với tốc độ nhanh
nhất trong nhiều thập niên, gây áp lực tài chính lên các hộ gia đình Mỹ.
- Thu nhập bình quân
Theo dữ liệu về mức thu nhập bình quân của người Mỹ từ Cục Thống kê Lao động Hoa Kỳ
(BLS), vào năm 2020, thu nhập trung bình của người Mỹ là 84.352 USD mỗi năm (trước thuế).
Con số này thể hiện mức tăng 1,81% so với cùng kỳ năm ngoái từ mức 82.852 USD của
năm 2019, đánh dấu lần đầu tiên thu nhập trung bình của người Mỹ vượt qua rào cản 80.000
USD. Trên thực tế, thu nhập trung bình của người Mỹ đã tăng hàng năm kể từ năm 2018. Trong
giai đoạn từ 2018 đến 2020 đã tăng thêm 5.717 USD. Điều này đánh dấu mức tăng trung bình
hàng năm là 4,68 %. Sự tăng lên về thu nhập bình quân sẽ dẫn đến xu hướng người dân tiêu dùng
nhiều hơn và đòi hỏi chất lượng hàng hoá ở mức cao hơn.
-> Hoa Kỳ có một trong những hệ thống kinh tế phát triển nhất trên thế giới và đất nước này
có một vị trí vững chắc trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ..
-> Hoa Kỳ được xác định là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam
trên tất cả các trụ cột hợp tác. Trong số đó, trụ cột hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ đã gặt hái được nhiều thành quả to lớn, góp phần đưa tổng thể quan hệ đối tác toàn diện đi
vào chiều sâu và thực chất, đáp ứng được lợi ích của Chính phủ, người dân và cộng đồng doanh
nghiệp hai nước.
2. Môi trường chính trị - pháp luật
Yếu tố chính trị:
- Tình hình chính trị tại Hoa Kỳ:
Các trường hợp khủng bố và tội ác căm thù ngày càng gia tăng. Các trường hợp tội phạm
và khủng bố có thể có tác động tiêu cực đến môi trường kinh doanh của Hoa Kỳ trong dài hạn.
- Quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ:
Từ năm 1994, khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận thương mại với Việt Nam, hải sản Việt Nam đã bắt
đầu được xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Từ năm 1994 đến tháng 7/2000, thậm chí trước khi Hiệp
định Thương mại song phương giữa Mỹ và Việt Nam được ký kết, kim ngạch xuất khẩu hải sản
của Việt Nam sang Mỹ ngày một tăng. Với việc phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ, các nhà sản xuất thuỷ sản Việt Nam có cơ hội tăng thị phần tại thị trường quan trọng
này. Tuy nhiên các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vẫn đối mặt với nguy cơ bị áp
thuế chống phá giá từ phía Mỹ.
4. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn – Rào cản gia nhập ngành
Số lượng người dân Mỹ tiêu dùng hải sản đang dần tăng lên, điều này đã hấp dẫn những nhà
kinh doanh đang nhen nhóm ý định đầu tư vào ngành thủy sản tại Mỹ. Tuy nhiên để tồn tại trong
thị trường đó là không khó nhưng để vươn lên cạnh tranh trở thành nguồn cung cấp thủy sản lớn
tại Mỹ thì còn phải đối mặt với nhiều rào cản.
Thứ nhất, về chi phí:
- Theo quy mô nhỏ
Chi phí gia nhập ngành thủy sản không cao, thường là các ao, trang trại cá do 1 vài người
nông dân lập lên. Chỉ cần một hồ nước hoặc ao được bảo đảm và có rào chắn; sau đó tiến hành
nuôi cá, tôm... Các hoạt động của loại trang trại này chỉ đơn giản cho cá ăn, quan sát thường
xuyên cũng như bảo trì thường xuyên trong trường hợp thiệt hại cho cá. Hàu, ngao và một số
trang trại nuôi trồng thủy sản thân mềm khác thậm chí không cần cho ăn. Tuy nhiên kinh doanh
theo loại hình này thì thị trường chủ yếu là các chợ hải sản, bán trực tiếp cho người dân; ít khi
phục vụ cho hoạt động sản xuất thủy sản quy mô lớn do chất lượng cá, hàm lượng thức ăn cho cá
ăn chưa được kiểm định chặt chẽ.
- Theo quy mô lớn – phục vụ chủ yếu cho sản xuất hay buôn bán số lượng lớn
Chi phí đầu tư cho hoạt động kinh doanh tương đối lớn, bao gồm việc thuê – xây các ao
hồ, trang trại rộng lớn; mua lượng lớn thức ăn phục vụ nuôi trồng; mua các thiết bị, máy móc hiện
đại để gia tăng năng suất; ….
+ Thuê – xây dựng trạng trại cá là khoản đầu tư bắt buộc và có ảnh hưởng lớn đối với việc
nuôi trồng sau này. Cần chọn độ sâu vừa phải, tiêu chuẩn về lượng nước và chất lượng nước nuôi;
tiến hành xử lí, làm sạch định kì… Chi phí vào khoảng 3 – 4 triệu đô và cũng có thể biến động
tùy vào loại thủy sản nuôi trồng
+ Thức ăn, cá giống: như đã kể trên, hiện nay nguồn cung thức ăn và cá giống bị gián đoạn
nhiều do đại dịch Covid 19; từ đó kéo theo giá thành tăng lên 10-30 % so với trung bình. Điều
này làm dôi thêm chi phí để duy trì hoạt động nuôi trồng thủy sản. Ví dụ, giá cho thành phần
chính trong thức ăn dao động từ 1.386 USD/tấn đến 1.919 USD/tấn một vài năm trở lại đây. Đó là
mức tăng gần 40% đối với một mặt hàng chiếm gần 50% đầu vào, thức ăn chăn nuôi, chiếm
khoảng 50-80% chi phí phát triển.
+ Máy móc, thiết bị hiện đại: Đây cũng là khoản chi phí cần thiết và chiếm tỷ trọng chi phí
tương đối lớn. Nó phục vụ cho các hoạt động từ bắt đầu nuôi, tự động cho ăn, lọc nước, giảm
bệnh tật cho tôm cá… Thực tế cho thấy các trang trại cá hiện đại cho ra sản lượng gấp 58 lần so
với các trang trại truyền thống. Các trang trại truyền thống có thể sản xuất 34 tấn cá mỗi ha mỗi
năm, nhưng với công nghệ phù hợp, các trang trại thế hệ tiếp theo có thể thu hoạch tới 2.000 tấn
mỗi ha mỗi năm trong môi trường trong nhà, chống biến đổi khí hậu, an toàn sinh học và không
có kháng sinh.
Bên cạnh những chi phí trên, còn có các loại chi phí phát sinh khác như chi phí bù đắp
thiệt hại khi cá tôm bị bệnh, chi phí bảo trì, sửa chữa máy móc; chi phí lọc nước trang trại định
kỳ... Như vậy để có thể tham gia vào mô hình kinh doanh này cần có nguồn tài chính đủ lớn, có
hiểu biết chắc chắn về nuôi trồng thủy sản và cả kiến thức về sử dụng máy móc, thiết bị hiện đại.
Thứ hai, về các luật lệ, thuế quan:
Dẫu biết việc sử dụng thủy hải sản tươi sạch đem lại nhiều lợi ích cho sức khỏe; tuy nhiên
việc khai thác thủy sản quá mức sẽ gây ảnh hưởng tới môi trường và cả các loài thủy sản đang
được nuôi trồng. Do đó, chính phủ Mỹ cũng đã đưa ra nhiều điều luật nhằm đưa các hoạt động
nuôi trồng, khai thác thủy hải sản vào một mức độ cho phép và có thể kiểm soát được. Đây cũng
là rào cản lớn nhất đối với các nhà đầu tư, doanh nghiệp mới muốn tham gia vào thị trường này.
Phần lớn luật nuôi trồng thủy sản được tạo thành từ các quy định có sẵn, chẳng hạn như
các hành vi bảo vệ - như Đạo luật nước sạch và Đạo luật các loài có nguy cơ tuyệt chủng do hoạt
động nuôi cá có thể có tác động môi trường có khả năng gây hại ở các khu vực địa lý nhạy cảm.
Hay các quy định của chính phủ Mỹ đã làm giảm hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất cá hồi Na Uy
(Asche và Roll 2013) và giảm cả tính cạnh tranh kinh tế của ngành. Hoa Kỳ có bộ quy định về
môi trường nghiêm ngặt đứng thứ ba và tỷ lệ nuôi trồng thủy sản thấp thứ hai trong số 95 quốc
gia tham gia vào ngành thủy sản.
Có thể thấy 1 số tác động đến sự phát triển của nuôi trồng thủy sản trong nước xuất phát từ
khung pháp lý của Hoa Kỳ đã được tìm thấy bao gồm: (1) giảm khả năng cạnh tranh với hàng
nhập khẩu có giá thấp hơn mà không phải tuân theo cùng một mức độ quy định và thực thi
nghiêm ngặt; (2) cản trở phát triển kinh doanh nuôi trồng thủy sản biển do thiếu khung điều tiết rõ
ràng cho ngành nuôi trồng thủy sản; (3) thời gian và nhân lực dành cho việc tuân thủ tổng thể bộ
quy định mà các doanh nghiệp văn hóa thủy sản phải đối mặt thay vì đổi mới và hiệu quả (Engle
and Stone 2013; Kite-Powell Et al. 2013).
Tuy nhiên, bên cạnh những điều lệ được áp dụng trong nước, chính phủ Mỹ cũng áp dụng
thuế quan đối với các loại thủy hải sản nhập khẩu từ nước ngoài. Điều này vừa giúp các DN trong
nước có cơ hội phát triển vừa đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng do các kĩ thuật kiểm
định nghiêm ngặt. Có thể kể đến các quy định mà Mỹ áp dụng với hàng nhập khẩu từ nước khác:
Quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, quy định về kiểm soát dư lượng hóa chất trong các sản
phẩm thuỷ sản và hàm lượng thuỷ ngân trong cá ngừ, các mức xử lý đối với thực phẩm có khuyết
tật; các quy định về kiểm dịch, nhãn mác, về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, về truy xuất nguồn
gốc sản phẩm; … Đây có thể là khó khăn đối với các nước muốn mở rộng thêm thị trường thủy
sản ra Hoa Kì. Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn sau 2 vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa và tôm.
Các mặt hàng này đã bị áp thuế chống bán phá giá khiến giá bán tăng lên ảnh hưởng đến khả năng
tiêu thụ của các mặt hàng này.
Như vậy, nhìn chung rào cản gia nhập vào ngành thủy sản tại thị trường Mỹ không quá
mạnh mẽ, hoàn toàn có nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp muốn lấn sân và đầu tư vào ngành
công nghiệp này. Và có lẽ điều này cũng gây áp lực đối với nhiều nhà xuất khẩu thủy sản của Mỹ.
Khi thị trường trong nước ngày càng mở rộng và phát triển, khả năng đáp ứng được nhu cầu của
người tiêu dùng càng tăng, nhu cầu nhập thực phẩm từ nước ngoài sẽ giảm đi. Mỹ mặc dù vẫn là
1 trong những thị trường tiềm năng về tiêu thụ hải sản của Việt Nam, song để có thể duy trì được
mức độ xuất khẩu trong một thời gian dài thì nước ta cần có thêm nhiều mặt hàng hiếm hơn và đạt
chất lượng cao hơn.
2. Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ
Năm 2021, xuất khẩu thủy sản sang thị trường Mỹ đạt kỷ lục 2 tỷ USD, tăng 27% so với
năm 2020, chiếm 23% tổng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Mỹ vẫn là bạn hàng tiêu thụ lớn
nhất của Việt Nam. Riêng tháng 12/2021, xuất khẩu thủy sản sang Mỹ đạt 176 triệu USD, tăng
32% so với cùng kỳ 2020.
Các mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang thị trường Mỹ bao gồm tôm, cá tra và các mặt
hàng hải sản. Mỹ đang đứng đầu các thị trường nhập khẩu tôm, cá tra, cá ngừ, cua ghẹ của
Việt Nam và đứng thứ 2 nhập khẩu các mặt hàng cá biển.
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), năm 2021 quốc gia này đã tăng mạnh
NK tôm, với trên 897 nghìn tấn tôm, trị giá trên 8 tỷ USD, tăng lần lượt 20% và 24% so với
năm 2020.
Trong đó, Mỹ NK từ Việt Nam hơn 88 nghìn tấn tôm, tăng 33% so với năm 2020. Giá
trung bình tôm Việt Nam NK vào Mỹ tăng 4% từ 10,5 lên 11 USD/kg.
Trong năm qua, giá trung bình NK tôm vào Mỹ tăng 4% đạt trên 8,9 USD/kg. Nhìn chung
giá trung bình NK tôm từ các nguồn cung chính đều tăng. Tôm Ecuador NK vào Mỹ có giá
trung bình tăng mạnh nhất, tăng 19% từ 6,26 USD lên 7,43 USD/kg.
Một mặt hàng chủ lực khác của Việt Nam tại Mỹ là cá tra cũng có những tín hiệu tích cực.
Việt Nam đang là nhà cung cấp cá tra đông lạnh hàng đầu cho thị trường Mỹ, chiếm 90-95%
tổng giá trị nhập khẩu cá tra của nước này. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản
Việt Nam (VASEP), năm 2021, tổng giá trị xuất khẩu cá tra sang Mỹ đạt 370,6 triệu USD,
tăng gấp đôi so với năm 2020. Sự tăng trưởng mạnh này là nhờ nhu cầu thị trường tăng và một
số doanh nghiệp được hưởng thuế chống bán phá giá bằng 0%.
3. Cơ hội và thách thức
- Cơ hội:
Nhu cầu tiêu thụ thủy sản tại Mỹ tăng
Sự phục hồi của ngành dịch vụ thực phẩm ở Mỹ sẽ hỗ trợ tiêu thụ thủy sản vào năm 2022.
Hiệp hội các nhà sản xuất dịch vụ ăn uống quốc tế (IFMA) dự kiến năm 2022, tăng trưởng ngành
dịch vụ thực phẩm đạt 4,9% so với năm 2021.
Hơn nữa, chi tiêu tiêu dùng thực phẩm tại phân khúc nhà hàng năm 2022 được dự báo sẽ gần
trở lại mức 2019 và tăng 8% so với năm 2021. Ngoài ra, chi tiêu tiêu dùng thực phẩm tại siêu thị
trong năm 2022 được dự báo sẽ tăng 7,8% so với năm 2021 lên 38,8 tỷ USD, tương đương với
mức 119% của năm 2019. Do đó, sự phục hồi nhu cầu tại các nhà hàng và tăng trưởng nhu cầu
thực phẩm tại siêu thị vào năm 2022 sẽ hỗ trợ tiêu thụ thủy sản ở Mỹ.
Do Mỹ là thị trường xuất khẩu tôm và cá tra lớn nhất của Việt Nam, sự phục hồi của ngành
dịch vụ ăn uống được kỳ vọng sẽ tạo điều kiện cho triển vọng tăng trưởng xuất khẩu cho thủy sản
Việt Nam.
VASEP nhận định, xuất khẩu tôm sang Mỹ dự kiến sẽ tăng mạnh vào năm 2022 do Việt Nam
chuyển sang trạng thái thích ứng linh hoạt với đại dịch COVID-19 sẽ giúp nước ta chiếm được thị
phần tại thị trường Mỹ.
Thuế chống bán phá giá đối với cá tra Việt Nam đang giảm
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) thông tin, Bộ Thương mại Mỹ
(DOC) đã công bố kết quả cuối cùng đợt xem xét hành chính thuế chống bán phá giá lần thứ 16
(POR16) đối với các lô hàng cá tra đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam vào thị trường Mỹ giai đoạn
từ ngày 1/8/2018 - 31/7/2019.
2 doanh nghiệp xuất khẩu cá tra của Việt Nam là Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn (Đồng Tháp)
và Công ty cổ phần Nam Việt (An Giang) đã được hưởng mức thuế suất là 0%.
Theo VASEP, đây là tin vui đối với 2 doanh nghiệp trên và cũng là tín hiệu tích cực cho xuất
khẩu cá tra sang thị trường Mỹ. Ngoài ra, một số doanh nghiệp xuất khẩu cá tra khác của Việt
Nam cũng được giảm mức thuế chống bán phá giá. Với kết quả của kỳ xem xét này, doanh nghiệp
cá tra Việt Nam đã bỏ bớt được áp lực tại các thị trường lớn; đồng thời, giảm tải cho các thị
trường xuất khẩu khác vẫn đang bị ảnh hưởng của khủng hoảng COVID-19.
-> Đây cũng là điều kiện tốt thúc đẩy khối lượng hàng cá tra sang Mỹ trong thời gian tới.
Ngoài ra, Mỹ tăng gấp đôi thuế chống bán phá giá đối với tôm xuất khẩu từ Ấn Độ từ 3%
lên 7,15% vào tháng 11/2021, đã nâng cao lợi thế cạnh tranh cho các nước đối thủ khác; trong
đó có Việt Nam.
- Thách thức:
Mỹ mở rộng Chương trình Giám sát thủy sản nhập khẩu SIMP và dự luật IUU.
Chương giám sát thủy sản nhập khẩu (SIMP) chống các hoạt động khai thác hải sản bất
hợp pháp (IUU) và gian lận hải sản vào nước này được triển khai từ năm 2018, sẽ khiến thủy
sản xuất khẩu sang thị trường bị kiểm soát nguồn gốc chặt hơn. Ở thời gian đầu triển khai,
chương trình được thiết lập dành cho 13 loài nằm trong nguy bị đánh bắt trong đó cá ngừ. Cá
ngừ lại sản phẩm cá biển chủ lực của Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ.
Tuy nhiên, vào tháng 10/2021, Uỷ ban Tài nguyên Thiên nhiên của Hạ viện Mỹ đã
thông qua Đạo Luật HR 3075, Đạo luật phòng chống đánh bắt bất hợp pháp, không khai báo
và không theo quy định (IUU), bằng một cuộc bỏ phiếu trong tuần từ 11-17/10/2021. Đạo luật
này sẽ thúc đẩy việc áp dụng Chương trình Giám sát Thuỷ sản Nhập khẩu (SIMP) cho tất cả
các loài và cung cấp nhiều dữ liệu hơn.
Dự luật này sẽ mở rộng việc áp dụng SIMP từ 13 loài lên tất cả các loài, bổ sung thêm
chi tiết bắt buộc để xem xét điều kiện lao động, cải thiện việc phát hiện hàng NK có nguy cơ
vi phạm lao động và đánh bắt IUU. Dự luật cũng sẽ:
+ Tăng cường điều phối liên ngành và chia sẻ dữ liệu.
+ Thiết lập các yêu về truy xuất nguồn gốc và ghi nhãn thủy sản.
+ Thiết lập các yêu cầu về truy xuất nguồn gốc và ghi nhãn thủy sản.
+ Tăng cường tiếp cận về an toàn thuỷ sản và gian lận.
+ Cải thiện việc kiểm tra thuỷ sản và thực thi liên bang về gian lận thuỷ sản.
Tăng cường quản lý nghề cá quốc tế, bao gồm cả việc mở rộng thẩm quyền của Mỹ để
thu hồi các đặc quyền tại cảng đối với tàu cá liên quan đến đánh bắt IUU và mở rộng tiêu chí
xác định hoạt động đánh bắt IUU bao gồm buôn bán người, cưỡng bức lao động, và các vi
phạm quyền lao động khác
Việc ra những rào cản trên, theo VASEP, các nhà nhập khẩu Việt cần nhận diện rõ
những thách thức mà họ sẽ phải đối mặt trong hoạt động sản xuất xuất chế biến xuất khẩu của
mình. Từ đó cần thủ nghiêm ngặt các quy định một cách có trách vững đối thị trường này.
Yêu cầu khắt khe về chất lượng
Tiêu chuẩn hữu cơ Mỹ USDA NOP nghiêm khắc quy định về chất bảo quản và thành
phần hóa học khi chế biến. Các nhà xuất khẩu muốn xuất hàng vào Mỹ phải lấy được giấy
chứng nhận chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm phù hợp với bộ tiêu chuẩn HACCP. Vấn
đề đặt ra hiện nay là các tiêu chuẩn ngày càng khắt khe và nhiều hơn, việc áp dụng nghiêm
ngặt cũng như thích ứng cùng xu thế là điều cần thiết. Tuy vậy, tại Việt Nam những tiêu chuẩn
chất lượng và quy trình kiểm tra nghiêm ngặt chỉ có tại các trại nuôi lớn hoặc những mô hình
liên kết chuỗi với Doanh nghiệp chế biến. Chưa kể quy trình kiểm định chất lượng này vẫn ít
nhiều chưa chuyên nghiệp và còn nhiều lỗ hổng.
Áp lực cạnh tranh lớn từ Ấn Độ và Ecuador trên thị trường Mỹ
Mặc dù xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ đã có những bước tiến
đáng kể như trên, nhưng vẫn còn rất nhiều những thách thức cần phải vượt qua.
Hầu hết sản phẩm thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ dưới dạng sơ chế, hàm lượng
giá trị gia tăng không cao nên chưa thu được nhiều lợi nhuận. Xuất khẩu thủy sản Việt Nam
gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả, chất lượng, phương thức thanh toán từ phía các ñối
thủ dày dặn kinh nghiệm và có thị phần lớn trên thị trường Mỹ như Thái Lan, Ấn Độ,
Ecuador… và cả sản phẩm nội địa của Mỹ.
Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam với 2 mặt hàng chủ lực
là tôm và cá tra, tuy nhiên tôm Việt chỉ xếp hạng thứ năm với thị phần chưa tới 10%. Trong khi
đó, tôm Ấn Độ giữ vị trí hàng đầu (36-38%), tôm Indonesia xếp vị trí thứ 2(18-20%), Ecuador
thứ ba suýt soát Indonesia. mặt hàng tôm của Việt Nam bán sang thị trường Mỹ cũng có giá
cao hơn so với đối thủ cạnh tranh đến từ Ấn Độ và Ecuador khoảng 3-4 đô la Mỹ/kg.
Nguyên nhân là do ngành tôm Việt Nam có quy mô sản xuất nhỏ lẻ, dẫn đến giá thành
sản xuất cao, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh so với các đối thủ. Việt Nam có nguy cơ mất thị
phần vào tay Ấn Độ và Ecuador ở Mỹ và một số thị trường lớn khác như NB, EU, đặc biệt là
khi thị trường mục tiêu của họ (Ấn Độ, Ecuador) những năm qua là Trung Quốc với sản phẩm
là tôm sơ chế nguyên con. Tuy nhiên, do Trung Quốc bị Covid-19, thực hiện gia tăng kiểm
soát, dẫn đến hai nước này có thay đổi chiến lược và gần đây Ecuador tăng xuất khẩu tôm chế
biến sang Mỹ và các thị trường EU, Nhật Bản rất nhiều.
Ecuador với lợi thế vị trí địa lý gần với Mỹ, vận chuyển dễ dàng và đang nỗ lực nâng
cao trình độ chế biến. Ấn Độ giữa tháng 9 năm nay đang tăng thả nuôi trở lại khi giá tôm
nguyên liệu tăng và số ca nhiễm Covid có dấu hiệu giảm. Cả hai nguồn cung này đều có chiến
lược bài bản để gia tăng thị phần trên thị trường Mỹ. Trong khi, Việt Nam đang phải đối mặt
với thách thức về logistics, giá cả thuê container tăng liên tục, thiếu container và thời gian v/ch
dài hơn.
4. Đề xuất giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ
Triển vọng ngành thủy sản Việt Nam giai đoạn 2030 - 2045.
Một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2030:
- Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất thủy sản đạt 3 - 4%/năm.
- Tổng sản lượng thủy sản sản xuất trong nước đạt 9,8 triệu tấn; trong đó sản lượng
nuôi trồng thủy sản 7,0 triệu tấn, sản lượng khai thác thủy sản 2,8 triệu tấn. - Giá trị kim ngạch
xuất khẩu thủy sản đạt 14 - 16 tỷ USD.
- Giải quyết việc làm cho trên 3,5 triệu lao động, có thu nhập bình quân tương đương
thu nhập bình quân chung cả nước. Xây dựng các làng cá ven biển, đảo thành các cộng đồng
dân cư văn minh, có đời sống văn hóa tinh thần đậm đà bản sắc riêng gắn với xây dựng nông
thôn mới.
Tầm nhìn đến năm 2045: Thủy sản là ngành kinh tế thương mại hiện đại, bền vững, có
trình độ quản lý, khoa học công nghệ tiên tiến; là trung tâm chế biến thủy sản sâu, thuộc nhóm
ba nước sản xuất và xuất khẩu thủy sản dẫn đầu thế giới; giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu các
ngành kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển, góp phần bảo đảm an ninh dinh dưỡng, thực phẩm;
bảo đảm an sinh xã hội, làng cá xanh, sạch, đẹp, văn minh; lao động thủy sản có mức thu nhập
ngang bằng mức bình quân chung cả nước; góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững
độc lập, chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Để thuỷ sản xuất khẩu cạnh tranh được về giá phải tập trung vào giải quyết tốt các vấn đề
Giảm tổn thất trong khâu thu hoạch ( đánh bắt và nuôi trồng).
Theo thống kê của bộ thuỷ sản tổn thất trong khâu thu hoạch thuỷ sản chiếm từ 20 –
30% tổng sản lượng thuỷ sản. Những nguyên nhân dẫn đến tổn thất là do việc đánh bắt ở nhiều
nơi không khoa học; phương tiện bảo quản thuỷ sản phục vụ đánh bắt xa bờ kém dẫn đến thuỷ
sản hư thối phải loại bỏ; tận dụng phế liệu thuỷ sản chưa tốt,… Tất cả những nguyên nhân trên
dẫn đến giá thành đánh bắt thuỷ sản cao. Muốn giảm tổn thất trong khâu thu hoạch cần:
Đầu tư cơ sở vật chất, khuyến khích và phổ biến công nghệ chế biến
Tổ chức tốt công tác hậu cần cho hoạt động đánh bắt xa bờ.
Quãng đường đi, về quá dài khiến chi phí sản xuất bị đội lên. Hiệu quả đánh bắt, thu
nhập cho từng chuyến biển, theo đó cũng bị kéo giảm đáng kể. Cho nên, ngư dân hiện đang rất
cần những con tàu hậu cần trên biển đủ lớn, đủ phương tiện, thiết bị có khả năng vừa cung cấp
nhiên liệu, nhu yếu phẩm vừa thu mua sản phẩm của ngư dân ngay trên biển. Làm được như
vậy, những con tàu đánh bắt không phải đi đi, về về tốn kém nhiều tiền bạc, thời gian; sản
phẩm được bảo quản tốt hơn, có giá trị cao hơn. Theo tính toán, nếu có tàu hậu cần thực hiện
tốt các công việc nêu trên, chưa tính tới yếu tố thời gian, chỉ riêng chi phí nhiên liệu, nhân
công có thể giảm tới 70%. giá trị gia tăng từ sản lượng hải sản nói trên sẽ được nâng lên đáng
kể; từ đó thu nhập của ngư dân cũng sẽ được nâng cao.
Tổ chức tốt các trung tâm giống quốc gia để tránh hiện tượng giống thuỷ sản tốt
nhưng khan hiếm đã đẩy giá lên cao hoặc giống xấu dẫn đến năng suất nuôi trồng thấp.