I. GIỚI THIỆU VỀ MỐI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - MỸ
- Mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Mỹ bắt đầu vào ngày 12/07/1995 tới nay đã được 27 năm. - Mỹ là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong những năm qua. Điểm đặc biệt là Việt Nam luôn xuất siêu sang thị trường Mỹ với trị giá ngày càng lớn. Kể từ khi Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Mỹ (BTA) có hiệu lực, thương mại hai chiều Việt Nam - Mỹ đã tăng từ 220 triệu USD năm 1994 (năm Mỹ bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam) lên 1,4 tỷ USD năm 2001 (năm trước khi BTA có hiệu lực) và chính thức đạt 60,2 tỷ USD vào năm 2018. - Tính riêng trong 2018, Việt Nam xuất khẩu hàng hóa trị giá 47,5 tỷ USD sang thị trường Mỹ, trong khi lượng hàng hóa nhập khẩu Mỹ chỉ đạt 12,7 tỷ USD. Nhờ vậy, Mỹ đã trở thành thị trường lớn nhất mà Việt Nam xuất siêu trong năm 2018, đạt 34,7 tỷ USD, tăng 7,85% so với trị giá xuất siêu trong năm 2017. - Riêng trong năm 2021, quan hệ thương mại Việt Nam và Hoa Kỳ tăng trưởng 21 tỷ USD. Chúng ta lưu ý, mức tăng trưởng này diễn ra trong thời gian đại dịch Covid-19 - Hoa Kỳ là một trong hai đối tác có kim ngạch thương mại với Việt Nam hơn 100 tỷ USD. Đồng thời, Hoa Kỳ cũng là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Qua những con số trên cho thấy, quy mô thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là rất lớn, với tốc độ phát triển cao - Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã thay đổi theo hướng tăng dần nhóm hàng chế biến, chế tạo, từng bước nâng cao giá trị gia tăng và tạo đà tăng trưởng bền vững. Việt Nam xuất khẩu chủ yếu vào Mỹ là các nhóm hàng như: Dệt may, da giày… thì nay đã có thêm nhóm hàng nông - thủy - hải sản tham gia vào danh mục các nhóm hàng xuất khẩu quan trọng - Theo Tổng cục Thống kê, trong 7 tháng đầu năm 2020, có một số mặt hàng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đạt giá trị tăng cao như: Máy vi tính và linh kiện 82,2% (2,4 tỷ USD); Máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng 87,1% (2,2 tỷ USD). Đặc biệt, dệt may là mặt hàng tiếp cận thị trường Mỹ từ rất sớm và hiện đang là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất sang Mỹ. Năm 2019, dệt may xuất khẩu vào Mỹ tăng xấp xỉ 8,9% so với năm 2018 và chiếm tỷ trọng 38,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành này - Năm 1995, Việt Nam gia nhập các nước ASEAN và ngành thuỷ sản Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức nghề cá Đông Nam Á SEAFDEC, cùng với việc mở rộng thị trường xuất khẩu đã tạo điều kiện cho ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản có chiều hướng phát triển tốt. Chất lượng sản phẩm thuỷ sản không ngừng được nâng cao do các cơ sở chế biến ngày càng hiện đại, công nghiệp tiên tiến, quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế. - Từ nhiều năm nay, các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam chủ lực vẫn là tôm, cá tra, cá biển, nhuyễn thể và các loại thuỷ sản đông lạnh và các loại thuỷ sản khô, đã chế biến. Ngoài ra, còn có những mặt hàng cao cấp như bào ngư, cá ngừ, nghêu và các mặt hàng hải sản khác… đang dần được bổ sung thêm, nhưng sản lượng vẫn còn ít so với nhu cầu cung cấp cho quốc tế. II. RÀO CẢN THƯƠNG MẠI - Là những hạn chế đối với thương mại quốc tế do Chính phủ áp đặt. - Rào cản thương mại được thiết lập để áp thêm chi phí hoặc giới hạn đối với hàng nhập khẩu hay xuất khẩu để bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước. Những chi phí bổ sung hoặc sự khan hiếm tăng dẫn đến giá sản phẩm nhập khẩu cao hơn và do đó làm cho hàng hóa và dịch vụ trong nước cạnh tranh hơn - Có ba loại rào cản thương mại phổ biến: thuế quan, hàng rào phi thuế quan và hạn ngạch 1. Thuế quan - Thuế quan là thuế đánh vào hàng hóa khi di chuyển qua cửa khẩu của một quốc gia A. Thị trường về tôm - Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) công bố kết quả cuối cùng của kỳ rà soát lần thứ 13 (POR 13), chính thức áp thuế 0% đối với 31 nhà xuất khẩu tôm Việt Nam. Xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Mỹ gần đây đã tăng trở lại Tháng 7/2019, xuất khẩu tôm sang thị trường Mỹ tăng 37,2%, đạt 77 triệu USD, nâng tổng kim ngạch 7 tháng đầu năm nay lên 327,4 triệu USD, tăng 5% so với cùng kỳ năm ngoái. B. Thị trường cá tra - Bộ Thương Mại Mỹ (DOC) công bố kết quả cuối cùng của kỳ rà soát lần thứ 16 (POR16) đối với lô hàng cá tra đông lạnh nhập khẩu từ VN vào Mỹ giai đoạn 2018- 2019.Trong đó hai doanh nghiệp xk cá tra của VN là Vĩnh Hoàn và Nam Việt đã được hưởng mức thuế suất là 0%, các DN khác chịu mức thuế chống bán phá giá bằng mức thuế suất toàn quốc là 2.39 USD/kg. 2. Xu thế thay đổi thuế xuất với mặt hàng cá tra - Tháng 2 và 3/2019 giá trị XK cá tra sang Mỹ giảm lần lượt 23% và 44%. Do đột ngột giảm mạnh nên thị trường xuất khẩu của DN cá tra VN sang Mỹ tụt xuống vị trí thứ 3 (sau Trung Quốc-Hong Kong) đạt 71.16 triệu USD, giảm 5% cùng kì năm 2018, chiếm 15,1% tổng giá trị XK cá tra trong quý I/2019 - Tháng 6/2021, Bộ thương mại Mỹ công bố kết quả đối với các lô hàng cá tra đông lạnh khác của VN thì mức thuế không thay đổi. Qua các kỳ rà soát ta có thể thấy, xu thế về mức thuế suất toàn quốc vẫn giữ nguyên qua các năm. Ngoài ra có một số doanh nghiệp được hưởng mức thuế thấp hơn. Điều này thúc đẩy hảng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, đặc biệt với tình hình hiện nay, Mỹ đang rất thiếu những mặt hàng lương thực và thủy hải sản nằm trong lĩnh vực mà chúng ta có 3. Thuế suất của Mỹ đối với thủy sản Việt Nam và các đối tác khác A. Trung Quốc - Trong bối cảnh chiến tranh thương mại thì Mỹ đánh thuế một con số khá nặng, 25%, lên thủy hải sản Trung Quốc - Theo Cơ quan Khí quyển và Đại dương Mỹ (NOAA), trong vòng 3 năm gần đây, Mỹ đã phải chi tới 596,7 triệu USD tiền thuế mà Mỹ áp đặt đối với thủy sản Trung Quốc, trong đó bao gồm 62,4 triệu USD thuế quan khác được tính trong 3 tháng đầu năm 2021. B. Thái Lan, Indonesia, Ecuador - Bộ Thương mại đã ra lệnh áp thuế lên thủy hải sản trên toàn quốc đối với các nước khác như là 6,2 % đối với Thái Lan, 3,3% đối với Ecuador và 6,2 % đối với Indonesia thay cho 10,4% được đề xuất trong quyết định sơ bộ GENEVA C. Việt Nam - Trong đó Việt Nam không phải chịu thuế quan nào lên mặt hàng thủy hải sản, có lợi thế hơn rất nhiều so với các đối tác của Mỹ 4. Trong giai đoạn chiến tranh thương mại Trung - Mỹ - Theo Hiệp hội các nhà sản xuất và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), hải sản Việt Nam bao gồm các sản phẩm tôm cũng sẽ có sự ảnh hưởng, khi mà Mỹ áp thuế 10% đối với các sản phẩm tôm Trung Quốc thì đây cũng là những sản phẩm mạnh của Việt Nam tại thị trường Mỹ. Chính vì vậy, khi áp thuế lên các mặt hàng này, Trung Quốc sẽ gặp khó khăn khi xuất khẩu sang Mỹ và dòng chảy thương mại này có thể chuyển hướng sang Việt Nam, khiến cho các nhà nhập khẩu của Mỹ có thể chọn Việt Nam là thị trường mới - Việc Mỹ đánh thuế lên hàng hóa của Trung Quốc có thể sẽ khiến Trung Quốc tìm một quốc gia khác làm trung gian khi nhập khẩu các mặt hàng hóa sang Mỹ. Hiện tượng chệch hướng thương mại có thể xảy ra khi Trung Quốc không muốn chịu thuế cao khi qua Mỹ nên sẽ xuất hàng hóa sang Việt Nam, và từ Việt Nam sẽ xuất sang Mỹ với một mức thuế hợp lí. Chính vì vấn đề này, Mỹ có thể sẽ có những phương án kiểm soát nghiêm ngặt với hàng của Việt Nam để tránh tình trạng hàng hóa Trung Quốc nhập vào thị trường Mỹ cũng như trong chất lượng sản phẩm 5. Trong giai đoạn covid - Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), trong bối cảnh đại dịch Covid-19 phức tạp, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ vẫn có sự tăng trưởng đều đặn, tăng 10% so với thời điểm trước đại dịch, phải kể đến vai trò chủ đạo của mặt hàng tôm. Điều này đã góp phần khẳng định vị thế, hình ảnh của thủy hải sản nước ta, đồng thời xúc tiến cơ hội mở cửa thêm nhiều thị trường khác bên phía Mỹ, cũng như xem xét áp dụng hệ thống công nhận tương đương đối với các sản phẩm thủy sản nói chung 6. Tác động tiêu cực đến xuất khẩu thủy sản do thuế quan - Sự tăng cường thuế quan Việt Nam đã khiến giá xuất khẩu thủy sản lao đao, kim ngạch trong nước giảm, nhiều hộ dân bỏ nuôi trồng thủy sản, dẫn tới số lượng xuất khẩu thủy sản giảm rõ rệt - Ảnh hưởng sâu nhất là mặt hàng tôm. Xuất khẩu tôm liên tục giảm 25% đến 30% trong năm 2015. Trừ mặt hàng cá biển (giảm 5%), xuất khẩu tất cả các sản phẩm chính khác( cá tra ) đều giảm từ 3-25%. Xuất khẩu sang các thị trường đều giảm (3-27%) so với cùng kỳ năm ngoái. - Tuy xuất khẩu thủy hải sản đã có dấu hiệu phục hồi trở lại, nhưng nhiều hộ dân vẫn không quay trở lại sản xuất do không còn vốn, do thiếu niềm tin vào thị trường, vào sự hỗ trợ của các bên liên quan Giảm sức cạnh tranh của hải sản nhập khẩu từ Việt Nam so với thủy hải sản nhập khẩu từ các thị trường không bị áp thuế khác Hệ quả là các nhà nhập khẩu ở nước áp thuế có thể sẽ chuyển hướng nhập khẩu từ các nước không bị áp thuế khác, dẫn tới kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản của Việt Nam bị giảm sút, thị phần bị thu hẹp và doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đối mặt với rủi ro có thể mất thị trường xuất khẩu. III. RÀO CẢN PHI THUẾ QUAN - Rào cản phi thuế quan là những rào cản hạn chế thương mại thông qua các biện pháp khác ngoài việc áp thuế trực tiếp - Hàng rào phi thuế quan có thể bao gồm các biện pháp như yêu cầu về nội dung và chất lượng đối với hàng hóa nhập khẩu hoặc trợ cấp cho các nhà sản xuất trong nước 1. Thực trạng, xu thế áp các điều kiện phi thuế quan - Mỹ được coi là một thị trưởng rất khó tính không chỉ bởi người tiêu dùng rất khắt khe, mà còn vì các luật lệ, các quy định kỹ thuật đặt ra đối với hàng hoá nhập khẩu rất cao. - Đặc biệt, đối với những mặt hàng nông thuỷ hải sản các quy định đó càng chặt chẽ như quy định hàng đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật do phía Mỹ để ra, quy định sử dụng bao bì thân thiện với môi trường, quy định về sản phẩm thuỷ sản bền vững. Hàng hoa Việt Nam muốn được xuất khẩu và Mỹ nhất định phải vượt qua các rào cản đó. - Năm 2007, sau khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt là trong thị trường thủy hải sản với tốc độ tăng xuất khẩu đạt trung bình 14.5-19%/năm 2. Tác động tiêu cực - Những rào càn phi thuế quan này đã tạo ra nhiều sự tác động tiêu cực cho Việt Nam bao gồm + Làm giảm sút sản lượng XK của Việt Nam + Làm tăng chi phí XK do phải tham gia giải quyết các vụ kiện thương mại + Không những vậy, thị trường Mỹ ngày càng thắt chặt các quy định về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, dẫn đến việc mỗi năm Việt Nam thiệt hại hơn 14 triệu USD, do hàng xuất khẩu bị trả lại và hoạt động xuất khẩu cá basa của Việt Nam lao đao, giá cá giảm mạnh, khiến cho nhiều hộ dân phải từ bỏ nuôi cá basa - Trong khi hàng rào thuế quan được dỡ bỏ dần, Mỹ lại gia tăng rào cản phi thuế quan đối với thủy hải sản Việt Nam - Đặc biệt là hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, các biện pháp vệ sinh dịch tễ, chống trợ cấp, chống phá giá và tự vệ 3. Nguyên nhân Mỹ sử dụng rào cản phi thuế quan đối với thủy hải sản Việt Nam - Những năm gần đây một số lượng đáng kể các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam đã bị trả lại ngay từ khi được nhập tại các cảng của Mỹ do Mỹ phát hiện thấy các thủy sản này có chứa các vi khuẩn gây bệnh, các hóa chất độc hại và các thành phần gây ngộ độc - Họ sử dụng các rào cản này để nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam phải tuân theo các tiêu chuẩn và quy định phù hợp của họ 4. Chính sách của chính phủ Việt Nam - Ngoài việc chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì chính phủ Việt Nam còn gửi yêu cầu tới Mỹ để đề nghị tham vấn trong việc giải quyết tranh chấp những rào cản mà Mỹ áp dụng đối với thủy hải sản nhập khẩu từ Việt Nam - Mặt khác. Chính phủ còn ban hành chính sách khuyến khích các cơ sở nghiên cứu và sản xuất gắn kết với các doanh nghiệp để đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất - Tăng cường phổ biến những kiến thức và thông tin khoa học về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản trên các phương tiện truyền thông đại chúng 5. Sự thành công của chính sách - Sản lượng đánh bắt của Việt Nam luôn đạt sản lượng lớn, đứng vị trí cao về khai thác và xuất khẩu thủy hải sản - Theo dự đoán từ các chuyên gia, giá trị sản xuất nuôi, trồng thủy sản tăng nhanh và liên tục trong nhiều năm 6. Thất bại của chính sách - Cơ sở hạ tầng cảng cá, cơ chế chế biến, điều kiện kho bãi hiện nay còn yếu và chưa được đầu tư tương xứng. Đội tàu cá tuy lớn nhưng công nghệ kém khiến cho thất thoát sau thu hoạch cao. Nguồn nhân lực cho khai thác và chế biến thủy sản cũng còn thiếu và yếu IV. Bài học rút ra 1. Trong nước - Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết, xây dựng cũng như phổ biến cân bằng những điều mà doanh nghiệp cần có để phát triển thoát ra khỏi những khó khăn mà hang rào thuế quan đặt ra - Cải thiện kĩ thuật nhanh chóng đáp ứng được những yêu cầu tiêu chuẩn của thị trường Mỹ nói riêng và quốc tế nói chung, đặc biệt khi năng lực cạnh tranh còn hạn chế thì đó lại là điều vô cùng cấp bách để xây dựng nền tảng 2. Ngoài nước - Xây dựng những mối quan hệ bền chặt, kiểm soát tốt được đầu ra cũng như đáp ứng được đủ các yêu cầu của bên phía đối tác dể dần tháo bỏ được hang rào thuế quan và phát triển trong mục tiêu xa hơn V. Cách khắc phục - Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ mới để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. - Đẩy mạnh chế biến thủy sản, đa dạng hóa sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm đóng hộp. - Dự trữ nguyên liệu, kết nối lại chuỗi cung ứng toàn cầu và thúc đẩy tiêu thụ tại thị trường nội địa. - Cơ cấu lại các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản theo mô hình kinh tế tuần hoàn, theo chuỗi an toàn dịch bệnh