You are on page 1of 5

Phần còn lại - Trao duyên

(Bản đầy đủ)


- Trích: “Truyện Kiều” - Nguyễn Du -

I. Mở bài
- Trải qua biết bao “thương hải tang điền” ròng rã hơn hai trăm năm kể từ khi đại thi hào Nguyễn Du đặt ngòi
bút để viết lên những dòng thơ đầu tiên của tác phẩm Truyện Kiều, “Đoạn trường tân thanh” với vai trò là “tập
đại thành của văn học cổ điển nước nhà” vẫn lay động tâm trí của hàng triệu triệu người con đất Việt.
- Đúng như Tố Hữu từng nhận xét: “Tiếng thơ ai động đất trời”, có thể nói Nguyễn Du là bậc thầy trong nghệ
thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Tài năng ấy của ông được thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm “Truyện
Kiều”, mà tiêu biểu nhất là ở trích đoạn “Trao duyên”.
- Nguyễn Du, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, là một đại thi hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế
giới. Sống trong xã hội phong kiến hà khắc, tư tưởng nhân đạo của ông lại vượt lên những định kiến để khẳng
định giá trị con người. Trong suốt cuộc đời đầy thăng trầm của bản thân, ông đã để lại nhiều tập thơ có giá trị
như Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục mà nổi bật trong số đó không thể không kể đến
Truyện Kiều hay “Đoạn trường tân thanh” kể về cuộc đời đầy sóng gió, biến động của nàng Kiều, đồng thời
phản ánh sinh động xã hội đương thời đầy bất công, rối loạn.
- Đoạn trích “Trao duyên” nằm từ câu 723 đến câu 756 trong phần hai của tác phẩm Truyện Kiều. Gia đình gặp
nguy biến, Thúy Kiều phải bán mình để cứu cha và em. Giờ đây, chữ hiếu đã tròn nhưng chữ tình dang dở,
nàng trắng đêm day dứt nghĩ về mối tình sâu đậm, nồng nàng của mình với chàng Kim. Lòng ngổn ngang bao
nỗi trăn trở, Kiều giãi bày, cất lời cậy nhờ em mình là Thúy Vân chắp mối tơ duyên với Kim Trọng. Nhan đề
“Trao duyên” do người soạn sách đặt dựa trên nội dung của đoạn trích. “Trao” là hành động gửi đồ vật sang
cho đối tượng khác, trao đi những gì cụ thể, hữu hình. Còn “duyên” ở đây lại là duyên gặp gỡ, yêu đương của
lứa đôi. “Trao duyên” là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, là một hành động khác thường, hé mở
tình huống khổ đau, bi kịch của Thúy Kiều. Vì vậy, đoạn trích được viết lên bằng tất cả niềm cảm thông và
thương xót của tác giả, gợi lên nỗi đau của Thúy Kiều trong đêm trao duyên cũng như vẻ đẹp phẩm chất và
nhân cách của nàng.

II. Kiều trao lại kỉ vật cho Vân


- Sau khi cất lời nhờ cậy Thúy Vân gá nghĩa với Kim Trọng, Thúy Kiều mới từ từ, chầm chậm trao cho em từng
món kỉ vật đáng quí của tình trong sự dùng dằng, luyến tiếc khôn tả:
Chiếc vành với bức tờ mây
- “Chiếc vành”: Chiếc vòng - kỉ vật buổi gặp gỡ mà Kim Trọng đã trao cho Thúy Kiều để làm tin
- “Bức tờ mây”: Tờ giấy trang trí hình mây - kỉ vật đêm hẹn thề, ghi lại lời nguyện ước thủy chung của Kim -
Kiều
- Gợi ra quá khứ hạnh phúc, mặn nồng của đôi trai tài gái sắc.
- Khắc sâu thêm thực tại đớn đau: Kiều tận tay trao những kỉ vật đã chứng giám cho tình yêu son sắt giữa mình
và Kim Trọng cho Thúy Vân, làm quà đính ước cho tình duyên mới.
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
- Điệp từ “này”: Tạo giọng điệu trầm bổng, khiến lời thoại của Kiều giống như một tiếng nấc nghẹn ngào, đắng
cay
- “Của chung”: Mối tình ấy, kỉ vật ấy giờ không còn là của riêng Kiều và Kim Trọng mà còn có thêm phần Thúy
Vân.
- “Giữ”:
+ Kiều như đang van vỉ Vân hãy để nàng giữ lại cái duyên này trong tâm can, tựa như một niềm an ủi nhỏ nhoi
trong những tháng ngày mịt mù vô tận phía trước.
+ Kỉ vật thề ước là của chung, nhưng nỗi đau Kiều lại lặng lẽ giữ cho riêng mình.
- Mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí đã đẩy tâm trạng Kiều lên đến đỉnh điểm:
+ Duyên đã trao nhưng tình chẳng thể dứt, tay đã buông nhưng trái tim vẫn nắm
+ Nàng chua xót, khổ sở, dùng dằng, luyến tiếc trong cuộc đấu tranh dữ dội giữa lí trí và tình cảm
- Và Kiều mường tượng ra viễn cảnh tương lai, một tương lai ấm êm, hạnh phúc dành cho Kim Trọng và Thúy
Vân, một tương lai tăm tối, bấp bênh dành cho chính nàng:
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên!
- Điệp từ “nên”: Nhấn mạnh định mệnh được định sẵn của Kim Trọng và Thúy Vân, như một con dao của số
phận cứa vào trái tim Kiều đau nhói
- Nghệ thuật đối lập: Người “nên vợ nên chồng” được đặt cạnh kẻ “mệnh bạc”
+ Đoạn đường phía trước với Vân là hạnh phúc, nồng nàn, ấm êm, là tương lai rộng mở bên chàng Kim
+ Còn đoạn đường phía trước với Kiều lại là những mịt mờ, tăm tối, lênh đênh, cơ khổ, bạc bẽo, hẩm hiu
+ Đó là niềm thương thân xót phận của Kiều. Nàng hình dung ra viễn cảnh hạnh phúc của người yêu và em gái
mà xót xa cho chính mình.
+ Lồng gắn trong đó còn là dự cảm về một tương lai bi đát, mịt mù vô tận phía trước
- “Ắt lòng chẳng quên”: Kiều kì vọng, mong mỏi Vân và Kim Trọng trong hạnh phúc, viên mãi không quên đi
bản thân mình
- Trong hai câu thơ tiếp theo, hình ảnh của những kỉ vật minh chứng cho tình yêu giữa Thúy Kiều và chàng Kim
lại một lần nữa xuất hiện:
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương huyền ngày xưa.
- “Của tin”:
+ Những kỉ vật giữa Kim – Kiều tượng trưng cho sự thủy chung, cho niềm tin tưởng tuyệt đối mà hai người
trao gửi ở đối phương
+ Nhưng đáng buồn thay, kỉ vật hôm nay chỉ còn là “của tin” ngày sau để Thúy Vân và Kim Trọng nhìn vật nhớ
người
- “Phím đàn” – “Mảnh hương huyền”: Nhắc lại những kỉ niệm khó phai đôi Kim – Kiều trong đêm thề nguyền
+ Còn đâu những đêm chàng đốt hương, nàng gẩy đàn, trong không gian của ý nhạc, niềm thơ, của những
rung động ngọt ngào, trong sáng. Còn đâu đôi tài tử - giai nhân, người quốc sắc - kẻ thiên tài.
+ Những kỉ vật ấy vừa gợi lại kí ức đẹp, vừa báo hiệu tương lai chẳng lành, vật còn người mất - sự tương phản
xót xa
- “Ngày xưa”: Vang lên như nghẹn đắng trong họng. Đó là nỗi đau của tình yêu tan vỡ, khi mà hạnh phúc chỉ
còn ở “ngày xưa” còn hiện tại là đổ vỡ, chia lìa, dở dang.

III. Kiều dặn dò Vân


- Rồi nàng cất lời dặn dò Vân:
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
- “Mai sau” – “Dù có bao giờ”:
+ Kiều tựa như đang trốn chạy khỏi thực tại đau buồn, phũ phàng, kiếm tìm chút hi vọng ở tương lai
+ Nhưng nàng chợt nhận ra, hạnh phúc và tình yêu chỉ còn ở “ngày xưa” còn tương lai chỉ là một màu xám xịt,
mịt mờ, xa xăm
- Kiều một lần nữa hồi tưởng lại cảnh cũ, hồi tưởng lại đêm thề nguyền Kiều gẩy đàn, chàng Kim bỏ hương vào
lò. Đây là quá khứ của nàng, lại là tương lai của Vân.
- Đến đây, tâm thức Kiều chìm dần, lạc lối trong bể sâu của những bi kịch, khổ đau, của những mộng tưởng,
mông lung. Kiều như người lội nước hụt chân rớt xuống vực sâu, chới với không biết bám víu vào đâu. Và nàng
nghĩ đến cái chết:
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
- Từ láy “hiu hiu”:
+ Tạo không khí u buồn, bi thương, tang tóc
+ Gợi ra viễn cảnh tương lai u tối, ảm đạm của Kiều
- Kiều thấy mình như đã chết. Đi chuyến này, nàng chỉ có thể trở về từ cõi âm ti.
- “Ngọn cỏ lá cây”: Nàng tự ví bản thân như một linh hồn bơ vơ lẫn trong “ngọn cỏ lá cây”, cô đơn trong cõi
trời đất, nương theo ngọn gió hiu hiu trở về.
- Kiều bất lực, đáng thương trước nghịch cảnh quá khứ - tương lai. Dự cảm về cái chết trong nàng cứ lớn dần
lên, lời nàng nói tựa như lời trăn trối của kẻ sắp chết:
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
- “Bồ liễu” là loài cây tượng trưng cho hình ảnh người phụ nữ mảnh mai, yếu đuối. Nói “nát thân bồ liễu” tức
là nói đến cái chết không được toàn thây, nói đến những đau đớn dày vò về cả tâm hồn và thể xác Kiều.
- Thế nhưng, bất chấp cái viễn cảnh đầy mất mát và bi thương ấy, Kiều vẫn một lòng khắc ghi cái “nghì”, cũng
là nghĩa tình giữa nàng và chàng “trúc mã” Kim Trọng.
- Dù cho thịt nát xương mòn, linh hồn nàng sẽ vĩnh viễn “mang nặng lời thề”, đau đáu, day dứt về lời hẹn ước
của đôi lứa đêm nào mà chẳng thể siêu thoát.
- Vì vậy, nàng chỉ tha thiết “rưới xin giọt nước”, cầu mong em hãy rảy chén nước làm phép tẩy oan cho linh
hồn đã trải qua hết thảy nghiệt ngã của bản thân:
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan
- Ý nghĩ về cái chết ám ảnh tâm hồn Kiều, nàng nghĩ đến “dạ đài”, nghĩ đến không gian của cõi âm xám xịt và
thê lương; nàng nghĩ đến ngày nàng và Vân rồi sẽ “cách mặt, khuất lời”, âm dương cách biệt, chia lìa hai ngả
- Nàng khát khao sự thương xót, đồng cảm ở Thúy Vân và Kim Trọng, mong muốn nhận được giọt nước mắt
giải oan của em gái, nỗi nhớ nhung thấu hiểu của người yêu.

IV. Lời tạ từ Kiều hướng về chàng Kim


- Sau khi cậy nhờ em thay mình “chắp mối tơ thừa” cùng Kim Trọng, Thúy Kiều đã đau đớn mà bộc lộ lòng
mình, cất lời tạ từ hướng về chàng Kim:
Bây giờ trâm gãy, gương tan,
- “Bây giờ”: Tương lai đen tối không chút kì vọng khiến Kiều quay trở lại thực tại. Đáng buồn thay, thực tại lại
chỉ khắc sâu thêm vào tâm khảm nàng cảm giác buồn thương, bế tắc.
- Thành ngữ “trâm gãy, gương tan”: Gợi lên mối tình chưa hề phai nhạt của Kim – Kiều nhưng vì biến cố lại rơi
vào cảnh chia lìa, đổ vỡ, không thể hàn gắn, cứu vãn
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
- “Kể làm sao xiết”: Là lời cảm thán về một mối tình từng đẹp đẽ xiết bao, sâu nặng xiết bao
- Thành ngữ “muôn vàn ái ân: Cực tả những nghĩa tình yêu thương mà đôi lứa từng có
- Ước lệ “muôn vàn”: Khắc sâu thêm cảm giác về sự chan chứa mãnh liệt, không thể cân đo đong đếm của tình
cảm lứa đôi
- Tất cả hạnh phúc trước đây giờ đã trở thành dĩ vãng, tan biến trong hư vô khi tình chưa cạn mà đã buộc phải
chia xa.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
- “Trăm nghìn”: Nối tiếp “muôn vàn” lại là một con số ước lệ chỉ sự dồi dào không thể nói hết, không thể đếm
hết của trăm nghìn yêu thương day dứt, của mối tình khắc cốt ghi tâm, chưa nở đã tàn
- “Lạy”: Chẳng thể thực hiện lời hẹn ước đêm nào, giằng xé trong tâm can Kiều là sự dày vò vì mắc nợ Kim
Trọng. Nàng chỉ có thể gửi gắm hết thảy tình cảm của mình vào “trăm nghìn” cái “lạy” hướng về chàng Kim,
vừa tạ lỗi, vừa tạ từ.
- “Tình quân”: Cách gọi đầy thân thương và trân trọng. Thúy Kiều còn rất nhớ, rất yêu chàng, dù cho tương lai
rồi đây sẽ chẳng còn cơ hội được bên cạnh người nữa.
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
- Thành ngữ “tơ duyên ngắn ngủi”: Lời cảm thán đầy day dứt, xót xa vì mối tình sâu đậm mà dở dang. Kim –
Kiều có duyên gặp gỡ, nhưng lại vô duyên vợ chồng
- “Ngắn ngủi” – “Ngần ấy”: Đứng trong thế đối lập với những “muôn vàn”, “trăm nghìn” trước đó, tô đậm cảm
giác buồn thương trước số phận nghiệt ngã đã chia rẽ đôi trai tài gái sắc. Tình cảm sâu đậm là thế mà duyên
phận lại chẳng cho hai người cơ hội được ở bên nhau, thời gian hạnh phúc của họ sao quá ngắn ngủi.
Phận sao phận bạc như vôi!
- Điệp từ “phận”: Sự tự ý thức về thân phận bạc bẽo, mỏng manh của Thúy Kiều.
- Thành ngữ “phận bạc như vôi”: Lời thở than cho số phận bạc đãi, tạo hóa trêu ngươi, trách móc xã hội tàn
nhẫn đã đầy nàng vào bế tắc, khổ đau, tuyệt vọng.
- Nỗi đau tình yêu tan vỡ hòa cùng nỗi đau thân phận khiến cho lời thơ như khóc như than.
- Câu thơ là sự thức tỉnh về ý thức cá nhân, là bước phát triển vượt bậc, sự tiến bộ vượt tầm thời đại của tư
tưởng nhân đạo Nguyễn Du.
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
- “Đã đành”: Là sự cam chịu, bất lực, cũng là biểu hiện về đức hi sinh của người con gái trước những sóng gió
cuộc đời
- Thành ngữ “nước chảy hoa trôi”: Gợi lên tương lai mịt mờ, số phận lênh đênh như cánh hoa trôi dạt trên mặt
nước, chẳng biết đi đâu về đâu của Kiều
- “Lỡ làng”: Tóm gọn bi kịch của cuộc đời Thúy Kiều: Tình tan, duyên lỡ, phận bạc. Với nàng, chẳng còn gì là
trọn vẹn.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
- Từ cảm thán “ôi”, “hỡi”: Vang lên như vỡ òa trong tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào, làm tăng thêm sự ai
oán, sầu khổ, vật vã trong lời nói của Kiều.
- “Lang”:
+ Có nghĩa là chồng, thể hiện tình yêu Kiều dành cho chàng Kim sâu đậm tựa những yêu thương mà người thê
tử dành cho phu quân của mình.
+ Tình cảm của nàng được bộc lộ theo mức độ tăng dần, cùng đó là nỗi đau xót ngày một lớn, giằng xé tâm
can nàng.
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
- Điệp từ “thôi”: Gợi lên cảm giác bất lực, đành cam mà buông bỏ đi mối tình sâu tự biển trong lòng Kiều
- “Phụ chàng từ đây”:
+ Kiều tự nhận lỗi về mình, cho rằng mình đã phụ tình chàng Kim nên vô cùng day dứt, tự trách
+ Đây vừa là lời xin lỗi Kiều gửi đến Kim, là câu nói đau xót vì phải chia tay người yêu khi tình cảm vẫn còn mặn
nồng, sâu sắc; vừa là lời oán trách vì phận mình sao bạc bẽo; là những dự cảm, suy tư về cuộc sống tăm tối
phía trước.

V. Kết bài
- Xuyên suốt đoạn trích, hình tượng nhân vật Thúy Kiều hiện lên với một nhân cách và phẩm giá tuyệt vời.
Nàng là một người con hiếu thảo, giàu đức hi sinh; cũng là người tình thủy chung, trọng tình trọng nghĩa. Từ
đầu đến cuối, Kiều luôn sống bao dung, vị tha, sống vì người khác hơn vì mình, nghĩ cho người khác trước khi
nghĩ cho mình. Trước gia biến đầy bất ngờ, nàng nguyện bán mình chuộc cha và em bất chấp một tương lai
mờ mịt và khổ đau, nhờ Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng. Thế nhưng Kiều lại nhận hết lỗi lầm về mình,
tự nhận mình là người phụ bạc khiến cho tình yêu của nàng và Kim Trọng phải tan vỡ.
- Đoạn trích cũng là tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả Nguyễn Du với ngôn ngữ hàm súc, cô đọng và giàu sức
gợi. Bên cạnh đó, ông cũng đã sử dụng rất thành công những thành ngữ dân gian. Có thể nói, suối nguồn của
văn học dân gian đã thấm nhuần trong lời thơ Tố Như. Nhắc đến Nguyễn Du, ta không thể không nhắc đến
nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sinh động, chân thực dưới ngòi bút tài hoa của ông. Với tài năng
trác tuyệt, Nguyễn Du đã mở ra trước mắt người đọc cõi lòng phức tạp, ngổn ngang của Thúy Kiều với muôn
vàn cung bậc tâm trạng rất con người, rất đời thường.
- Nguyễn Du là một trong những trong những tác gia lớn nhất của nền văn học Việt Nam. Với ông, ta không chỉ
thấy những vần thơ làm xao xuyến lòng người mà ẩn sâu trong đó còn là vẻ đẹp của chủ nghĩa nhân đạo
Nguyễn Du. Ông đồng cảm, xót thương cho những bi kịch, khổ đau của những con người tài hoa bạc phận
trong xã hội xưa. Đồng thời, trân trọng và cảm phục cho nhân cách cao thượng của họ ngay trong cảnh khốn
cùng. Những áng thơ Nguyễn Du, mà tiêu biểu là tuyệt tác Truyện Kiều, còn lên án một xã hội vạn ác đã gây ra
biết bao khổ đau cho con người. Ngoài ra, ông còn quan tâm tới từng cá nhân, tới phần sâu thẳm nhất trong
nỗi niềm của con người. Nếu trong thơ Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, ta thấy con người bổn phận, trách nhiệm,
lớn lao, cao cả thì đến với trang Kiều của Nguyễn Du, ta bắt gặp con người riêng tư, con người đời thường với
những nông nỗi, niềm thương thân tủi phận. Đó cũng là nét mới vượt thời đại làm nên tầm cao của chủ nghĩa
nhân đạo Nguyễn Du.

You might also like