Professional Documents
Culture Documents
Tailieuxanh Thao Luan Ktptss Nigeria 678
Tailieuxanh Thao Luan Ktptss Nigeria 678
Trước năm 1500, trên mảnh đất Nigeria đã tồn tại vương quốc Borno ở miền bắc, vương quốc
Haussa ở miền tây và vương quốc Yorbura ở miền nam. Đến thế kỷ16, các vương quốc này
tương đối phát triển và đã có giao lưu với người Châu Âu. Giữa thế kỷ 19, thực dân Anh bắt đầu
xâm chiếm Nigeria. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Anh để cho Nigeria được tự trị. Năm 1957,
Chính phủ tự trị được thành lập ở miền tây và hai năm sau được thành lập ở miền bắc Nigeria.
Ngày 1/10/1960, Nigeria chính thức tuyên bố độc lập.
Những thập kỷ qua, tình hình chính trị xã hội của Nigeria có nhiều biến động với các cuộc đảo
chính, nội chiến, tranh giành quyền lực giữa các bộ tộc ở miền nam và miền bắc. Từ cuối năm
1998, sau các cuộc bầu cử Quốc hội và Tổng thống, tình hình Nigeria đã dần đi vào ổn định.
Thể chế chính trị: chính thể Cộng hòa, đứng đầu Nhà nước và Chính phủ là Tổng thống. Nhà
nước Nigeria hiện nay là Nhà nước Liên bang bao gồm 36 bang, mỗi bang có một thống đốc
đứng đầu. Quốc hội lưỡng viện gồm Thượng viện (109 ghế) có nhiệm kỳ 7 năm và Hạ viện (360
ghế) có nhiệm kỳ 7 năm.
1. Tên quốc gia: Cộng Hòa liên bang Nigeria (Federal Republic of Nigeria)
2. Địa lý:
( Quốc kì)
( Bản đồ Nigeia)
Quốc gia liên bang ở Tây Phi, Bắc giáp Niger, Nam giáp vịnh Guinea, Đông giáp
Cameroon, Đông Bắc giáp Chad, Tây giáp Bénin. Địa hình mấp mô trong vùng cao nguyên sa
thạch ở phía Bắc, thoải dần về phía vùng đồng bằng thuộc lưu vực sông Niger và sông Benue ở
phía Nam và vùng chậu quanh hồ Chad. Vùng bờ biển đầy cát. Vùng châu thổ sông Niger được
bao quanh bởi các khu rừng sú vẹt. Nigeria là quốc gia đông dân nhất châu Phi với trên 200
nhóm dân tộc khác nhau cùng chung sống và sử dụng ngôn ngữ riêng. Phía Nam là vùng đất
nhộn nhịp nhất của đất nước, nơi tập trung phần lớn số dân đô thị.
Các sông chính Sông Niger (4.200 km), sông Benue (1.083 km), sông Kaduna.
3. Tôn giáo , sắc tộc:
- Sắc tộc: Có trên 250 nhóm sắc tộc, chủ yếu : Hausa và Fulani 29%, Yoruba 21%,
Igbo (Ibo) 18%, Ijaw 10%, Kanuri 4%, Ibibio 3,5%, Tiv 2,5%.
- Tôn giáo: Hồi giáo 50%, Cơ đốc giáo 40%, tín ngưỡng bản địa 10%.
4. Ngôn ngữ : Anh ( chính thức), Hausa, Fulani, Yoruba, Igbo.
5. Thủ đô : Abuja
6. Ngày độc lập : 1- 10- 1960 ( từ Anh)
7. Hệ thống luật pháp: dựa theo luật của Anh và luật Hồi giáo.
8. Diện tích
tổng 923,768.00 km²
đất 910,768.00 km²
nước 13,000.00 km²
Khí hậu tương đối đa dạng: miền Nam chịu ảnh hưởng khí hậu xích đạo nóng và ẩm; miền
Trung chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới, miến Bắc chịu ảnh hường khí hậu hoang mạc khô
và nóng. Vùng biển có lượng mưa lớn, nhưng càng đi sâu vào nội địa thì lượng mưa càng
giảm dần.
Dầu mỏ, khí đốt, thiếc, columbit (khoáng vật màu đen, ánh á kim, khoáng quặng chủ yếu của
nguyên tố niobi), quặng sắt, chì, kẽm, than đá, đá vôi.
Nạn phá rừng; đất bị bạc màu; sa mạc hóa; nạn hạn hán ở miền Bắc làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến nông nghiệp ở các vùng đất nghèo.
II. Lịch sử Nigeria:
- Nigeria ra đời khoảng thế kỷ 11 trước Công nguyên với Vương quốc Borno ở miền
Bắc, Vương quốc Haussa ở miền Tây và Vương quốc Yoruba ở miền Nam. Đến thế
kywr 16, các Vương quốc này đã tương đối phát triển và có giao lưu với Châu Âu.
Năm 1849, đế quốc Anh xâm chiếm Nigeria, và đến năm 1914 đặt toàn bộ l;ãnh thổ
Nigeria dưới sự cai trị chung của toàn quyền Anh. Từ năm 1920, nhất là sau chiến
tranh thế giới II, phong trào đấu tranh đòi độc lập của nhân dân Nigeria nổi lên mạnh
mẽ. Trước tình hình đó, Anh buộc phải để cho Nigeria được tự trị.
- Ngày 1/10/1960 Nigeria được trao trả độc lập. Ông Abukaba Towoga Balawa làm
Thủ tướng đầu tiên. Ba năm sau (1/10/1960) Nigeria tuyên bố láy tên nước là Cộng
hòa Liên bang Nigeria, nằm trong khối liên hiệp Anh.
Khu vực hành chính 36 bang và 1 địa hạt thủ đô liên bang.
Hiến pháp Ban hành năm 1979, sửa đổi năm 1998.
Cơ quan hành pháp Đứng đầu Nhà nước và Chính phủ Chủ tịch Hội đồng cầm quyền
lâm thời kiêm Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Tổng thống được bầu theo phổ
thông đầu phiếu, nhiệm kì 4 năm (không quá hai nhiệm kì).
Cơ quan lập pháp Quốc hội lưỡng viện: Thượng nghị viện gồm 109 thành viên, mỗi
bang 3 thành viên và một thành viên dành cho vùng thủ đô liên bang, được bầu theo
phổ thông đầu phiếu, nhiệm kì 7 năm. Hạ nghị viện gồm 360 thành viên, được bầu theo
phổ thông đầu phiếu, nhiệm kì 7 năm.
Cơ quan tư pháp Tòa án Tối cao, các thẩm phán do Hội đồng cầm quyền lâm thời bổ
nhiệm; Tòa thượng thẩm liên bang, các thẩm phán do Chính phủ liên bang bổ nhiệm
dựa trên tư vấn của Ủy ban tư vấn các quan tòa.
Tham gia các tổ chức quốc tế ACP, AfDB, AU, C, ECOWAS, FAO, G-15, G-24, G-
77, IAEA, IBRD, ICAO, ICC, ICCt, ICRM , IDA, IDB, IFAD, IFC, IFRCS, IHO, ILO,
IM F, IM O, IM SO, Interpol, IOC, IOM , IPU, ISO, ITSO, ITU, ITUC, M IGA,
M INURSO, M ONUC, NAM, OAS (quan sát viên), OIC, ONUB, OPCW, OPEC, PCA,
UN, UNCTAD, UNESCO, UNHCR, UNIDO, UNITAR, UNM EE, UNM IL, UNMIS,
UNM OVIC, UNOCI, UNWTO, UPU, WCO, WFTU, WHO, WIPO, WMO, WTO
Nigeria theo chế độ đa đảng, có quốc hội lưỡng viện, Tổng thống đồng thời là người
đứng đầu chính phủ. Không có nguyên thủy quốc gia vì hiện nay Nigeria nằm trong khối
liên hiệp Anh.
Đảng phái chính trị : Đảng dân chủ nhân dân (PDP) – Đảng của tổng thống Obasanjo,
Đảng Toàn dân ( All people Party), Đảng liên minh vì dân chủ (Aliance for Democacy),
và một số Đảng khác.
Tình hình hiện nay:
Sau khi ông Abacha mất vào tháng 6/1998, tướng Abdul Salam Abubakar, Tổng tư lệnh
lực lượng vũ trang nhận chức và thành lập nội các mới gồm cả thành phần dân sự và quân
sự. Tháng 12/1998 tiến hành bầu cử chính quyền địa phương và tháng 2/1999 bầu cử
quốc hội , Đảng dân chủ nhân dân (PDP) của ông Olusegun Obasanjo ( tướng về hưu)
giành thắng lợi lớn (181/360 đại biểu quốc hội và 56/109 Thượng nghị sĩ). Cũng trong
năm 1999, Hiến pháp mới được thông qua.
Ngày 27/2/1999 đã diễn ra tổng tuyển cử bầu tổng thống theo chế độ dân chủ đa đảng.
Ông olusegun Obasanjo trúng cử và tái đắc cử tổng thống trong cuộc bầu cử tháng
4/2003 với 61,9% số p hiếu bầu. Theo quy định của Hiến pháp, Tổng thống không có
quyền tranh cử quá 2 nhiệm kỳ. Tháng 4/2007, Nigeria tổ chức bầu cử Tổng thống mới.
Tháng 5/2007, ông Umaru Yar Adua trứng cử Tổng thống với 70% số p hiếu bầu, đánh
dấu việc lần đầu tiên một chính quyền dân sự cầm quyền thay thế cho chính quyền quân
sự trước đây.
Quốc hội Nigeria:
Quốc hội Nigeria có hai viện là Thượng viện và Hạ viện. Thông thường, Hạ viện đại diện
cho toàn thể nhân dân ở một quốc gia, còn Thượng viện đại diện cho các vùng, các tiểu
bang nhằm bảo đảm sự đa dạng trong một thực thể thống nhất. M ối quan hệ giữa liên
bang và các tiể bang thể hiện qua thành phần trong Thượng viện Nigeria.
M ỗi tiểu bang có số lượng nghị sỹ bằng nhau mà không phụ thuộc vào dân số của mình.
Quy định này đã góp phần cân bằng quyền lực giữa các tiểu bang. Các thượng nghị sỹ
của Quốc hội liên bang do nghị viện các tiểu bang bầu theo đề cử của Thống đốc bang.
Do đó, có thể nói cơ chế đại diện ở Nigeria phản ánh lợi ích của chính quyền tiểu bang
hơn là đại diện trực tiếp cho dân cư của tiểu bang.
Thượng viện Nigeria là một thiết chế thu hút sự tham gia của các vùng địa phương vào
các vấn đề quốc gia, bởi lẽ các thượng nghị sỹ đều là thành viên của các chính đảng. Điều
này góp phần làm cho chế độ liên bang ở Nigeria có sức sống hơn so với nhiều nước, nơi
quyền lực tập trung nhiều ở chính quyền liên bang. Ngoài ra, cũng giống như ở nhiều
nước đang phát triển, Thượng viện Nigeria bao gồm đại diện của cả các tầng lớp bình
dân, các nhóm thiểu số.
Vốn nằm dưới quyền bảo hộ của Anh, Thượng viện Nigeria có đặc điểm giống với
Thượng viện Anh ở chỗ cơ quan này chỉ thực quyền trong việc sửa đổi các đạo luật về
ngân sách, tài chính. Khi có khác biệt giữa hai viện trong khi xem xét các dự luật về ngân
sách, tài chính, Chủ tịch Thượng viện thành lập Ủy ban Tài chính hỗn hợp để xem xét dự
luật đó. Nếu Ủy ban Tài chính hỗn hợp vẫn không giải quyết được mâu thuẫn, hai viện sẽ
họp chung để tìm giải pháp dung hòa. Đối với các đạo luật khác, Thượng viện Nigeria chỉ
có thẩm quyền trì hoãn việc thông qua trong 6 tháng. Ngược với đặc điểm nói trên, đặc
điểm này hạn chế sự tham gia của các tiểu bang vào các vấn đề của liên bang. Nó biến
Thượng viện thành cơ quan có tính tư vấn hơn là cơ quan lập pháp. Tuy nhiên, Thượng
viện có tiếng nói khá quan trọng trong việc sửa đổi Hiến pháp và có thể đệ trình dự luật.
Trong trường hợp dự luật xuất phát từ Thượng viện, nó phải được Hạ viện xem xét và
thông qua trước khi chuyển cho Tổng thống ký ban hành.
Hơn nữa, Thượng viện Nigeria cũng bị tách rời khỏi quyền lực thực tế khi Chính phủ chịu
trách nhiệm trước Hạ viện như ở Anh chứ không phụ thuộc vào Thượng viện, thậm chí bộ
trưởng phải đồng thời là hạ nghị sỹ . Tuy nhiên, Thượng viện có quyền phê chuẩn ứng viên
vào các ghế bộ trưởng do Tổng thống đề xuất. Chủ tịch Thượng viện cũng có vai trò khá
quan trọng trong quá trình luận tội Tổng thống hoặc Phó Tổng thống. Bởi Chủ tịch Thượng
viện có thẩm quyền như tiếp nhận kiến nghị luận tội, yêu cầu Chánh án Tòa án Tối cao thành
lập Ban hội thẩm để điều tra. Còn trong trường hợp Tổng thống có vấn đề về sức khỏe, Chủ
tịch Thượng viện thành lập Ban hội thẩm y khoa để kiểm tra sức khỏe Tổng thống. Ngoài ra,
trong trường hợp cả chức danh Tổng thống và Phó Tổng thống đều bị trống, Chủ tịch
Thượng viện tạm giữ chức Tổng thống trong vòng ba tháng. Bên cạnh đó, Hiến pháp quy
định cho Thượng viện thẩm quyền phê chuẩn ứng viên vào các chức danh Chánh án Toà án
Tối cao Nigeria, Chánh án Toà án Thượng thẩm, Chánh án Toà án cấp cao liên bang do Tổng
thống đề xuất.
1.3 Những năm 1990: Đây là giai đoạn giá dầu mỏ trên thị trường giảm sút và những bất
ổn chính trị xã hội trong nước.
- Trong giai đoạn này tăng trương Nigeria chậm lại bình quân 2%/ năm
- Năm 1991 các nước ECOWAS đã điều chỉnh mức thuế hải quan trong nội bộ khu vực
xuống còn 25% đối với 91 mặt hàng.
- Luật thuế quan ( cho các hàng hóa bán phá giá và các hàng hóa được bảo hộ) năm
1958 của Nigeria cho phép áp dụng một loại thuế đặc biệt đánh vào bất cứ hàng hóa
nào bị coi là bán phá giá hay được tổ chức và chính phủ bên ngoài lãnh thổ Nigeria
bảo hộ. Năm 1991, luật này đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các điều khoản
đa phương mà Nigeria tham gia ký kết. Các điều khoản của đạo luật này sẽ được sử
dụng khi xuất hiện nguy cơ đe dọa các ngành công nghiệp mũi nhọn hay tiềm năng
của Nigeria, nếu việc áp dụng không trái với các cam kết của Ngeria trong bất cứ thỏa
thuận quốc tế nào.
- Những mặt hàng được miễn thuế gồm: thuốc men, dược phẩm, sách báo, tạp chí, văn
phòng phẩm, và các sản phẩm dành cho trẻ em. Các nguyên liệu thô nhập khẩu để
làm hàng xuất khẩu được miễn thuế hải quan, thuế tiêu thụ đặc biệt và các loại thuế
khác.
- Trợ cấp và giảm thuế: Các nhà sản xuất, chế tạo được miễn giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp trong 5 năm đầu hoạt động với điều kiện trị giá xuất khẩu của các nhà sản xuất
này phải đạt ít nhất 50% doanh số của mình.Để được hưởng sự ưu đãi này, nhà sản
xuất phải gửi đơn xin trợ cấp hay giảm thuế và những chứng từ thể hiện trị giá và số
lượng sản phẩm trong vòng 3 năm liên tục tới NEPC. NEPC sẽ xem xét và quyết định
có trợ cấp hay giảm thuế cho nhà sản xuất hay không, trợ cấp, giảm thuế bao nhiêu
%.
- Các doanh nghiệp chuyên sản xuất các bộ phận, nguyên liệu… làm hàng xuất khẩu
cũng được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây chính là các biện pháp nhằm
khuyến khích và hỗ trợ xuất khẩu.
- Hoàn thuế: Để khuyến khích và hỗ trợ xuất khẩu, nhà xuất khẩu Nigeria có thể được
hoàn thuế nhập khẩu, phụ thuế cũng như thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp khi nhập khẩu
nguyên liệu đầu vào để làm hàng xuất khẩu, bằng cách gửi đơn xin hoàn thuế cho ủy
ban hoàn thuế của Ủy ban Xúc tiến xuất khẩu Nigeria. M uốn được hoàn thuế phải có
xác nhận của Ngân hàng trung ương về việc thu hồi thu nhập từ xuất khẩu. Theo
nguyên tắc thì số tiền thuế hoàn lại không được vượt quá số thuế đã nộp.
- Nigeria là nước có nền ngoại thương lớn thứ 2 Châu Phi. Trong thập kỷ 90, ngoại thương
tăng bình quân 3,6%/năm, trong đó xuất khẩu tăng 4,6%/ năm còn nhập khẩu tăng 2,2%/
năm. Tuy nhiên sự tăng trưởng không mang tính ổn định, thay đổi thất thường hang năm.
Đáng lưu ý là Nigeria luôn duy trì ở mức xuất siêu rất lớn.
- Dầu mỏ và các sản phẩm dầu mỏ bình quân chiếm khoảng 95% kim ngạch xuất khẩu của
Nigeria. Vì vậy biến động giá dầu trên thị trường thế giới mang tính quyết định đối với xuất
khẩu của nước này. Năm 2000, xuất khẩu dầu đạt 19,6 tỷ USD. Năm 2001, con số này giảm
xuống còn 17,6 tỷ USD. Ngoài dầu và các sản phẩm từ dầu, một số mặt hàng xuất khẩu khác
là bông, cà phê, than đá, quặng sắt, cacao và cao su.
- Các mặt hàng nhập khẩu của Nigeria gồm: máy móc công nghiệp, hóa chất, phương tiện
vận tải, tư liệu sản xuất, đồ gia dụng và lương thực – thực phẩm. Đặc biệt, gạo là mặt hàng
nhập khẩu quan trọng của Nigeria. Ước tính mỗi năm Nigeria nhập khẩu khoảng từ 1,5- 1,7
triệu tấn gạo, chủ yếu là gạo đồ. Gạo được nhập vào Nigeria từ các nguồn khác nhau và các
cơ quan quản lý nhà nước không kiểm soát nổi. Do khả năng thanh toán của thị trường
Nigeria bị giảm sút nhiều so với thời gian trước đây cho nên hình thức mua bán thông qua
mở tín dụng (L/C) cũng bị thu hẹp và phương thức “ trả tiền – nhận hàng” được mở rộng.
- Bạn hàng chính của Nigeria: M ỹ, EU, Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil,Pháp, Tây Ban Nha,
Đức, trong đó M ỹ là bạn hàng lớn nhất. Năm 2000, các thị trường xuất khẩu là: Mỹ (36%),
Ấn Độ 9%, Tây Ban Nha 8%, Brazil 6%, các thị trường nhập khẩu chính là :Anh 11%, Đức
10%, M ỹ 9%, Pháp 8% và Trung Quốc 6%.
- Nigeria là nước nhập khẩu các dịch vụ thương mại khá lớn. Giá trị nhập khẩu tăng từ 1,9 tỷ
USD năm 1990 lên xấp xỉ 4 tỷ USD năm 2001. Cũng như các nước Tây Phi khác, Nigeria
phụ thuộc vào các nước phương Tây trong nhiều hình thức dịch vụ như tài chính ngân hàng,
bảo hiểm, giao thông vận tải,…Ngược lại, xuất khẩu dịch vụ của Nigeria hầu như không
tăng, năm 1990 dạt 965 triệu USD, đến năm 2000 đạt 1.005 triệu USD.
Biểu đồ 1: Hoạt động xuất và nhập khẩu ở Nigeria giai đoạn 2000 - 2006
2. Hạn chế:
Do tình hình chính trị xã hội không ổn định luôn xảy ra nhưng xung đột giữa các đảng, giữa các
sắc tộc, Nigeria không phải là thị trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Từ năm 1997-
2001, tổng vốn FDI vào nước này chỉ đạt 5,6 tỷ USD, đứng thứ 4 Châu Phi. Đầu tư chủ yếu đến
M ỹ và một số nước Tây Âu và chỉ tập trung vào lĩnh vực dầu khí.
2004 26 12 14
1. Cơ chế kinh tế Nigeria: thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
- Giai đoạn 1: Từ năm 1960 – 1998 : Kinh tế Nigeria chủ yếu do sự độc quyền của nhà
nước, khu vực tư nhân hóa ít có cơ hội. Các hoạt động khai thác mỏ dầu đều to các
tập đoàn dầu khí nhà nước đảm nhiệm. Thuế nhập khẩu các mặt hàng đều cao để bảo
hộ hàng hóa trong nước.
- Giai đoạn 2: Từ năm 1999 – nay: Vai trò của khu vực nhà nước dần giảm xuống, khu
vực tư nhân có cơ hội đầu tư hơn. Nhà nước đã không can thiệp vào hoạt động nhập
khẩu gạo mà để các công ty tư nhân đảm nhận, nhà nước chỉ can thiệp bàng thuế
nhằm bảo hộ sản xuất gạo trong nước.
2. Vai trò của chính phủ:
- Chính phủ Nigeria đã đóng vai trò tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế.Như
các nước châu M ỹ La Tinh, nó đã nhờ vào chính sách thay thế nhập khẩu để phát
triển nền công nghiệp nước nhà, Chính sách này thể hiện bằng 3 cách, Trước tiên nền
công nghiệp Nigeria bao gồm ngành dệt, xe động cơ, dụng cụ gia đình, sản xuất kính
và thiết bị được bảo vệ nghiêm ngặt bởi hàng rào thuế quan. Các thuế quan liên tục
gia tăng dẫn đến việc giảm ngay tỷ lệ gia tăng các hàng hóa này. Thứ 2 là: các lĩnh
vực này và các ngành công nghiệp sản xuất khác đã được hưởng sự tối ưu bởi chính
sách thuế bao gồm sự giảm nhanh trợ giúp đặc biệt từ thuế đối với giai đoạn 3- 5 năm
tùy thuộc vào tổng vốn địa phương đã được đầu tư. Thứ 3 là : nhiều thương nhân giỏi
đã làm việc cho Nigeria. Điều này hạn chế lượng thu hút người nước ngoài ở các
ngành công nghiệp địa phương.
- Chính phủ Nigeria dựa vào kế hoạch kinh tế để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình
phát triển kinh tế và xã hội thông qua việc tạo ra những mục đích và những ưu tiên do
quỹ hiệp hội và quỹ tín dụng đề xuất. M ột gồm quỹ tiền tệ thế giới, có một quỹ dầu
khí được thành lập năm 1995 để mở rộng vốn ngân sách. Bất kì khoản doanh thu nào
từ dầu đều dành để xây dựng cơ sở hạ tầng và cải thiện mức sống của người dân
thông qua kênh phát triển ngành dịch vụ. Ban đầu là các quỹ tài trợ cho phát triển là
do sự tăng giá gấp 3 của dầu mỏ năm 1994. Các dự án để cải thiện cơ sở hạ tầng của
ngành dầu mỏ như: xây dựng đường ống dẫn dầu, nhà máy tinh chế là trách nhiệm
của tập đoàn dầu khí quốc gia do Nigeria sở hữu.
- Chi tiêu chính phủ: Ngành kinh tế quốc doanh Nigeria đóng một vai trò quan trọng
trong hệ thống kinh tế Nigeria. Phần lớn chi tiêu Chính phủ về hàng hóa, dịch vụ và
xây dựng đều mua từ các thị trường nước ngoài.
- Hậu quả là virut gây bại liệt ở Nigeria lây sang cho 23 quốc gia khác trên thế giới trước
đây được xem là không còn ca bại liệt nào; kể cả những nước xa xôi như Indonesia hoặc
Yemen; làm cho gần 1,500 trẻ em tàn tật suốt đời.
- Trước tình hình đó, Chính phủ liên bang Nigeria đã đặt ra một số kế hoạch. Đầu tiên và
trên hết tất cả, là kế hoạch huy động toàn dân bằng cách phát tán thông tin và mở những
chiến dịch tuyên truyền đến tận từng người dân để giải thích về chủng ngừa. Kế hoạch
này đang được tiến hành một cách năng động để bảo đảm là chuyện chủng người theo
định kỳ sẽ được chú trọng và trờ thành một thông lệ.
Thu nhập bình quân đầu người Nigeria tăng qua các năm nhưng so với các quốc
gia hạ Sahara và các nước có thu nhập thấp thì vẫn thấp. Theo thống kê dân số
Nigeria sống dưới mức 2USD/ ngày: 92,4% (Theo Nigeria country report 2007).
Trong giai đoạn 1998- 1999 , có hơn một nửa dân số Nigeria Nigeria sống dưới mức 2 USD/
ngày .Hiện nay con số này đã tăng lên cho thấy đời sống người dân Nigeria khó khăn hơn.
- Hệ số GINI(2007): 0,437 chứng tỏ bất bình đẳng ở Nigeria tương đối cao.
- Chỉ số HDI:
1998 2007
HDI 0.391 0.45
Xếp hạng 142/174 159/177
(Nguồn: United National Development Report, Human Development, 1998 and
Nigeria Country Report 2007)
Chỉ số HDI của Nigeria có tăng lên chứng tỏ chất lượng cuộc sống của người dân Nigeria đã
được cải thiện nhưng ở mức rất hạn chế vì thứ hạng của Nigeria đang có xu hướng bị giảm đi.
Thực tế ở quốc gia này vẫn còn đến 50% dân số sống 1$/ ngày.
- Chỉ số cảm nhận tham nhũng từ 1,6 năm 2004 lên 1,9 năm 2005 và xếp hạng thứ
152/159, Nigeria đã có những cố gắng tích cực trong phòng trào chống tham nhũng
- Tham nhũng là một sự thật của cuốc ở Nigeria và tồn tại dưới nhiều hình thức. Đút lót ở
mức độ thấp được gọi là dash or chai, mục đích là được đáp lại, và được biết trước, hình
thức này như một gói dao cạo dâu, một thùng rượu uyski hoặc một chiếc đòng hồ số. Đút
lót ở mức đọ cao hơn bao gồm việc dùng tiền hoặc những món quà có giá trị để trả. Rồi
đến tham nhũng chính trị bao gồm việc đút lót, các hậu quả : lạm phát cao, gói bầu cử giả
tạo ngược lại với kết quả bầu cử. Các tập đoàn nhà nước thường hoạt động bằng việc thuê
chính trị viên hơn là thuê các công chức được đòa tạo. Các dự án công thường không
hoàn thành bởi các chính trị viên hay nhà thầu thường biển thủ quỹ. Hệ thống thuế nước
này hoạt động cũng không có hiệu quả do tiềm năng doanh thu không rõ do việc trốn thuế
rất p hổ biến và các công chức thuế thường tham nhũng.
- Theo ước tính từ khi giành độc lập vào năm 1960 đến nay, khoảng 300 – 400 tỷ USD thu
nhập từ dầu mỏ bị giới cầm quyền biển thủ và tiêu xài hoang phí, tức gần tương đương
với tổng số tiền viện trợ nhân đạo mà phương Tây dành cho tất cả các nước Châu Phi
trong cùng giai đoạn đó.
- Nigeria là một quốc gia có tới 95% thu nhập là từ dầu mỏ nhưng những khoàn thu nhập
này đã không được sử dụng hiệu quả, nền kinh tế Nigeria không đa dạng , hầu hết nguồn
thu nhập được phân tán vào các hoạt động trợ cấp để giữ yên các tộc người.
- Từ năm 1980 – 2000, Nigeria được nhận 3,5 tỷ USD tiền viện trợ nhưng khoản viện trợ
này đã bị nhà độc tài Sani Abacha tham nhũng. Sau khi biết được điều này, các nước giàu
đã cắt hoặc giảm viện trợ cho Nigeria
- Tuy nhiên, sự nhiệt tình của các nước giàu bắt đầu được hâm nóng sau khi Olusegun
Obasanjo trúng cử Tổng thống Nigeria vào năm 1999. Ông Olusegun Obasanjo là người
nổi tiếng với chính sách chống tham nhũng. Từ sau khi ông này lên nhậm chức, mức tài
trợ cho Nigeria tăng gấp đôi. Khoản nợ 32 tỉ USD trước đây chưa bao giờ có khả năng
được xóa thì nay đang được xem xét.
- Được dân tín nhiệm, Olusegun Obasanjo tiếp tục nhiệm kỳ hai với các thành tích đặc biệt
trong chống tham nhũng như thải hồi Bộ trưởng Giáo dục vì tội đã đút lót các nghị sĩ
Quốc hội; Bộ trưởng Nhà ở cũng bị đuổi việc vì đã khai bán của công với giá rẻ mạt để
trục lợi; Bộ trưởng Bộ An ninh quốc gia bị bỏ tù vì tội rửa tiền...
- Chỉ số cảm nhận tham nhũng từ 1,6 năm 2004 lên 1,9 năm 2005 và xếp hạng thứ
152/159, Nigeria đã có những cố gắng tích cực trong phòng trào chống tham nhũng.
Nhưng Nigeria vẫn cần cố gắng hơn nữa để đấu tranh chống nạn tham nhũng.
- Dân số Nigeria được chia thành hai khối: Hồi giáo và Kito giáo, bên trong hai khối này
có đến 250 bộ lạc khác nhau. Cho nên những xung đột ở quốc gia này chủ yếu là xung
đột tôn giáo.
- Năm 2004: đã xảy ra xung đột ở vùng cao nguyên, nơi những người chăn nuôi ở phía Bắc
và các nông đân ở phía Nam trnh nhau kiểm soát những cánh đồng phì nhiêu. Cuộc xung
đột này kéo dài hơn 2 tháng, một nhóm Hồi giáo đã sát hại 48 tín đồ hữu Kito.
- Nhưng kể từ năm 1999, khi nền dân chủ trở lại với đất nuớc, thì những nguời Nigeria lại
đuợc tự do hơn để trút hết những ẩn ức của họ. Hơn 10.000 nguời hồi giáo đã thiệt mạng
trong các cuộc đụng độ mà nguyên nhân có khi chẳng là gì: từ những cuộc phản đối
chống lại những cuộc dội bom của Hoa kỳ xuống Afghanistan cho đến việc tẩy chay việc
tổ chức tuyển lựa Hoa Hậu Thế Giới tại thủ đô Abuja.
- Nhiều người Nigeria khẳng định rằng lý lo đích thực của cuộc xung đột không phải là sự
chia rẽ chủng tộc hay tôn giáo, bởi vì trong bao thế kỷ, người Nigeria đã có thể chung
sống hoà bình với nhau, mà chính là tình trạng kinh tế yếu kém và trục lợi chính trị.
- Ngoài các xung đột đất đai còn là những cuộc xung đột về sự bất công trong phân phối
nguồn thu nhập từ dầu mỏ: vì các nguồn thu nhập từ dầu mỏ nằm trong tay những nhà
chính trị và được chi cho các vụ giải quyết xung đột tôn giáo.
- Các cuộc đụng độ do vấn đề tôn giáo, sắc tộc và chính trị hàng năm đã cướp đi sinh mạng
của nhiều người dân Nigeria. Kể từ khi Tổng thống Olusegun Obasanjo đắc cử năm 1999
đã có hơn 10.000 người chết vì các vụ bạo lực này.